Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tìm hiểu về phong thủy huyền không phi tinh

Phong thủy Huyền không phi tinh chính là phong thủy học của phái Huyền không (huyền không học), dựa vào sự di chuyển của 9 con số.
Tìm hiểu về phong thủy huyền không phi tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Huyền không phi tinh lấy sự phối hợp của cửu tinh trong Lạc Thư làm chủ. Trong trường hợp khác nhau, cửu tinh sẽ xuất hiện tình huống bay thuận hoặc bay nghịch. Từ đó, cửu tinh cũng xuất hiện các tổ hợp sao khác nhau. Chỉ tính các tổ hợp của sơn bàn, hướng bàn, địa bàn và lưu niên thì cũng đã có trên 6 ngàn phi tinh bàn.



1. Huyền không học là gì?

  Phong thủy huyền không phi tinh chính là phong thủy học của phái Huyền không (huyền không học).    Huyền không học là môn phong thủy dựa vào sự di chuyển của 9 con số theo quỹ đạo của vòng Lượng thiên Xích trên đồ hình Bát quái để đoán định sự hung cát, được mất của từng căn nhà (dương trạch) hay phần mộ (âm trạch).  
Tim hieu ve phong thuy huyen khong phi tinh hinh anh 2
 
“Huyền không” chỉ sự không có thực. Sự lành dữ của bát quái cửu tinh sẽ khác nhau trong các nguyên vận khác nhau. Tuy hiện tại là cát lợi, nhưng sau này khi nguyên vận thay đổi thì điều tốt lành sẽ tiêu tán, giấc mộng đẹp biến thành không, có rồi biến mất.   Nói một cách khác, Huyền không là dùng các con số từ 1 tới 9 để biểu thị, quan sát mọi sự thay đổi, biến hóa của sự vật. Như đã biết, mọi vật thể cũng như vũ trụ đều được cấu trúc bằng những hạt nhân nguyên tử hay những hành tinh di chuyển theo một quỹ đạo hình tròn. Còn 9 con số của Huyền không khi biểu thị sự biến hóa của sự vật sẽ di chuyển theo một quỹ đạo nhất định. Quỹ đạo này được gọi là vòng Lượng thiên Xích.   2. Huyền không phi tinh là gì?   Huyền không phi tinh lấy sự phối hợp của cửu tinh trong Lạc Thư làm chủ. Trong trường hợp khác nhau, cửu tinh sẽ xuất hiện tình huống bay thuận hoặc bay nghịch. Từ đó, cửu tinh cũng xuất hiện các tổ hợp sao khác nhau. Chỉ tính các tổ hợp của sơn bàn, hướng bàn, địa bàn và lưu niên thì cũng đã có trên 6 ngàn phi tinh bàn.   Trong những nguyên vận khác nhau, 9 ngôi phi tinh có thể mang theo sự cát hung không đồng nhất. Khi luận đoán sự việc, cần dựa vào những quy tắc khác nhau trong phong thủy. Còn luận về cát hung thì có thể căn cứ vào tính chất các sao để suy đoán.    Các bước nghiên cứu về phi tinh: Trước tiên cần phải nghiên cứu Lạc Thu và quỹ tích cửu cung. Tiếp đó học cách bài bố trạch vận bàn, rồi nghiên cứu những vấn đề cát hung của từng sao và những sự việc, tính chất mà nó đại diện. Khi bắt đầu tìm hiểu về Huyền không phi tinh phải tìm hiểu thứ tự bài bố của 24 sơn bàn.   
Tim hieu ve phong thuy huyen khong phi tinh hinh anh 2
 
Lưu ý khi ứng dụng Huyền không vào chọn hướng nhà hay phần mộ:
 
Đối với Huyền không phi tinh, lựa chọn tọa sơn, lập hướng của một căn nhà hay phần mộ là vấn đề phức tạp, cần phải xem xét tỉ mỉ và công phu.   Dù trên nguyên tắc, bất cứ tuyến vị nào đắc vượng tinh tới hướng hay cửa đều có thể chọn dùng. Nhưng Huyền không đòi hỏi hướng nhà phải thuần khí, chứ không được pha tạp với những khí khác. Nhưng nhìn chung, khi khảo sát, cần xem xét những điều kiện dưới đây:   - Vấn đề thuần khí - Chính sơn, chính hướng - Kiêm hướng - Đại không vong - Tiểu không vong - Thành môn - Việc phối hợp với phi tinh và địa hình
► Xem thêm: Những vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc

Việt Hoàng

Cửu cung phi tinh năm Đinh Dậu 2017
– Trong phong thủy, mỗi năm cửu cung phi tinh (9 phi tinh tọa lạc ở 9 phương vị) ảnh hưởng rất lớn tới vận trạch của gia chủ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về phong thủy huyền không phi tinh

Đặc trưng tướng mặt người tài trí song toàn

Không chỉ có tài năng thiên bẩm, người có những đặc điểm tướng mặt dưới đây còn chí dũng song toàn, dễ lập nên nghiệp lớn.
Đặc trưng tướng mặt người tài trí song toàn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình

1. Tai cao quá mắt
 
Người có đôi tai dày dặn và vành tai cao quá mắt thường có năng lực học tập nhanh nhạy hơn so với người khác. Người này thông minh, ý chí kiên định, giàu năng lực sáng tạo, phù hợp với những công việc nghiên cứu hoặc tính chất mở. 

2. Mắt dài và sâu

Trong Nhân tướng học, đôi mắt dài và sâu là quý tướng. Chủ nhân của tướng mắt này giàu khả năng tư duy, trí tuệ hơn người. Bên cạnh đó, nội tâm người này sắc sảo, cư xử khéo léo với mọi người nên được nhiều người coi trọng và khâm phục.
 
Người có tướng mạo này không chỉ thông minh giỏi giang mà còn giàu ý chí, nghị lực vươn lên. Do đó, thường nắm giữ địa vị hoặc chức vụ cao trong xã hội.

Dac trung tuong mat nguoi tai tri song toan hinh anh
Ảnh minh họa
 
3. Mũi to và thẳng

Người có tướng mũi to, thẳng, đầu mũi và hai bên gò má tròn đầy thường có tham vọng lớn trong sự nghiệp. Đó phần lớn là tướng mạo của người có chức có quyền, tài chí song toàn và được mọi người nể trọng.
 
4. Lông mày hình lưỡi kiếm

Đặc điểm dễ nhận thấy của kiểu lông mày này là cặp lông mày rộng, chân mày hướng thẳng lên trên, không bị rối và gấp khúc, trông giống như hai thanh kiếm trên khuôn mặt.
 
Người có tướng lông mày hình lưỡi kiếm thích hợp với công việc kinh doanh buôn bán. Bên cạnh đó, người này coi trọng danh dự, hành hiệp trượng nghĩa, tài trí song toàn nên được nhiều người yêu mến.
 
5. Dái tai to bản và dầy dặn

Dái tai to bản và dầy dặn được ví với tướng tai của phật Di Lặc, thường là tướng mạo của các doanh nhân, những ông chủ lớn trong thương trường. Ngoài ra, đây cũng là một trong những đặc trưng của sự giàu có và phú quý.
 
6. Mắt to, lông mày dài quá đuôi mắt
 
Đa phần người có đôi mắt to, lông mày dài quá đuôi mắt đều có khuôn mặt đẹp, khí sắc trong sáng, tài trí vẹn toàn và sống có tình có nghĩa. Người này còn có nhân duyên tốt nên làm việc gì cũng thuận lợi, hễ gặp khó khăn là có quý nhân giúp đỡ.

ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc trưng tướng mặt người tài trí song toàn

Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Thái Công Ngộ Văn Vương

Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Thái Công Gặp Văn Vương có bắt nguồn như sau:Đây là điển cố thứ Hai mươi quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát, mang tên Thái Công Ngộ Văn Vương
Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Thái Công Ngộ Văn Vương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Hai mươi trong quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát, mang tên Thái Công Ngộ Văn Vương (còn gọi là Thái Công Gặp Văn Vương). Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Thái Công Gặp Văn Vương có bắt nguồn như sau:

Cuối đời nhà Thương, ở lưu vực sông Vị Thủy đã xuất hiện một cường quốc là nước Chu, tố tiên của nhà nước này họ Cơ, tương truyền viễn tổ của họ là Hậu Tắc đảm nhiệm chức vị Nông sư ở thời Đế Nghiêu. Thủ tĩnh của nước Chu là cố Công Đản Phụ, thống tĩnh người của bộ tộc từ phía bắc của núi Kỳ Sơn chuyển đến cánh đồng Chu Nguyên phía nam núi Kỳ Sơn để cư trú, khai khẩn đất hoang ờ đây, xây dựng thành quách cung thất, sắp đặt chế độ quan lại. Đến thời con trai của cố Công Đản Phụ là Quý Lịch tại vị, thế lực của nhà nước Chu ngày càng lớn mạnh.

Sau khi Quý Lịch mất, con trai là Cơ Xương kế vị, đây chính là Chu Văn Vương nối tiếng trong lịch sử. Chu Văn Vương rất coi trọng nhân tài, vì thế những người tài trong thiên hạ lũ lượt tìm đến với Chu Văn Vương. Trụ Vương nhà Thương thấy thế lực của nhà Chu ngày càng lớn mạnh, rất sợ hãi, bèn tìm cách giam cầm Chu Văn Vương ở Dữu Lý. Để giải cứu được Văn Vương, thần dân nước Chu đã chọn mỹ nữ, ngựa đẹp và báu vật dâng cho Trụ Vương, lại mua chuộc quan đại thần của nhà Thương, nên Chu Văn Vương được thả ra.

Sau khi Chu Văn Vương được tự do, ông quyết tâm cai trị tốt đất nước của mình, để tìm cơ hội lật đố nhà Thương. Thuộc hạ dưới quyền tuy có rất nhiều quan văn tướng võ, nhưng lại thiếu một người có thế trù tính toàn cục, vạch kế sách lớn tiêu diệt nhà Thương, vì vậy ông rất tích cực tìm kiếm người hiền tài như thế.

Một lần, Chu Văn Vương ra ngoài đi săn, đã gặp một ông lão câu cá bên suối Bàn Khê là một nhánh của sông Vị Thủy, ông lão râu tóc bạc phơ, xem chừng khoảng bảy tám mươi tuổi. Điều kỳ lạ là, ông lão vừa câu cá vừa lẩm nhấm một mình: “Mau cắn câu đi mau cắn câu! Kẻ muốn cắn câu hãy cắn câu!” Lại thấy lưỡi câu của ông lão câu cá để cách mặt nước đến ba thước, lại thẳng tuột chứ không uốn cong, trên lưỡi câu không thấy mắc mồi câu. Văn Vương cảm thấy rất kỳ lạ, liền đi đến hỏi chuyện ông lão.

Ông lão này vốn họ Khương, tên Thượng, tự là Tử Nha. ông từng làm nghề mố bò ở Triều Ca (nay là huyện Thang Âm, tỉnh Hà Nam), bán rượu ở bến Mạnh Tân bên sông Hoàng Hà. Nhưng ông lại không buôn bán gì được, làm gì cũng bị lỗ vốn. ông đến bên sông Vị Thủy câu cá, kỳ thực là đang chờ đợi vị vua anh minh, tài giỏi đến tìm. Sau khi trò chuyện với Khương Thượng, Chu Văn Vương nhận thấy ông lão này trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, rất am hiếu về chính trị, quân sự, đặc biệt là đối với tình hình chính trị đương thời. Vì thế, Văn Vương khẩn thiết nói với Khương Thượng rằng: “Ta mong chờ khanh đã rất lâu rồi, khanh hãy đến giúp đỡ ta cai trị đất nước!”

Khương Thượng về triều, được lập làm Quốc sư, sau đó thăng chức lên Quốc tướng, quản lý chính trị và quân sự của đất nước, ông giúp đỡ Chu Văn Vương bên trong phát triển sản xuất, bên ngoài mở rộng lãnh thố, làm suy yếu thế lực của nhà Thương. Đến khi Chu Văn Vương về già, lãnh thổ của nhà Chu đã trở nên rất rộng lớn: Phía tây thu phục được vùng đất cũ của nhà Chu, là dải Thiểm Tây, Cam Túc ngày nay; phía đông bắc tiến đến vùng phụ cận Lê Thành của Sơn Tây; phía đông đến Tấm Dương, Hà Nam hiện nay, gần sát đến đô thành Triều Ca của nhà Thương; phía nam mở rộng thế lực đến các lưu vực Trường Giang, Hán Thủy, Nhữ Thủy. Tương truyền đến thời Chu Văn Vương, nhà Chu đã khống chế được hai phần ba thiên hạ, đặt nền móng vững chắc cho Chu Vũ Vương tiêu diệt nhà Thương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Thái Công Ngộ Văn Vương

Cẩm nang phong thủy tuổi Quý Mão 1963 –

Người tuổi Quý Mão sinh từ ngày 25/1/1963 đến ngày 12/2/1964. Mèo là đại diện của tuổi Mão, được xếp ở vị trí thứ 4 trong 12 địa chi. Xét theo góc độ thời gian thì đó là khoảng từ 5 đến 7 giờ, về phương vị thì là hướng Chính Đông. Nếu lấy 4 mùa để ph

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Quý Mão sinh từ ngày 25/1/1963 đến ngày 12/2/1964. Mèo là đại diện của tuổi Mão, được xếp ở vị trí thứ 4 trong 12 địa chi. Xét theo góc độ thời gian thì đó là khoảng từ 5 đến 7 giờ, về phương vị thì là hướng Chính Đông. Nếu lấy 4 mùa để phân chia thì vào khoảng tháng 3 Dương Lịch, tức là khoảng tháng 2 Âm Lịch.

Bằng cách vận dụng phong thủy hợp lý, người tuổi Quý Mão sinh năm 1963 có thể dùng linh vật phong thủy, đá quý phong thủy để bài trí nhà cửa, thu hút vận may, rước tài lộc vào nhà. Tuy nhiên linh vật phong thủy, hay đá phong thủy đó gồm những gì thì không phải ai cũng biết, cũng như tuổi Quý Mão hợp hướng, hợp màu…Hay những con số mang lại may mắn đối với tuổi này là số nào nhiều người cũng chưa biết. Để cùng trả lời câu hỏi mà nhiều người thắc mắc thì chúng tôi có viết bài viết về cẩm nang phong thủy tuổi Quý Mão 1963 để mọi người cùng đọc.

Nội dung

  • 1 1. Tổng quan tính cách tuổi Quý Mão 1963
  • 2 2. Sinh năm 1963 mệnh gì? hợp màu gì?
  • 3 3. Quý Mão 1963 trồng cây gì? hợp con số nào?
  • 4 4. Quý Mão hợp tuổi nào?
  • 5 5. Phật bản mệnh tuổi Quý Mão
  • 6 6. Đá quý phong thủy tuổi Quý Mão 1963
  • 7 7. Linh vật & Vật phẩm phong thủy tuổi Quý Mão 1963
  • 8 8. Hướng tốt, hướng xấu tuổi Quý Mão
    • 8.1 8.1. Hướng tốt, hướng xấu cho Nam Quý Mão
    • 8.2 8.2. Hướng tốt, hướng xấu cho Nữ Quý Mão

1. Tổng quan tính cách tuổi Quý Mão 1963

Mèo là loài động vật nhu mì, trong văn hóa phương Đông, mèo thường tượng trưng cho cát tường. Chúng nhỏ nhắn, thanh tú và đáng yêu.

Mèo cũng là loại động vật săn mồi, có cái khéo léo và dũng mãnh riêng, tuy nhỏ bé nhưng khôn ngoan, nhẫn nại và nhanh nhẹn, khó loài động vật hung dữ nào có thể uy hiếp được mèo.

Mèo cũng là người bạn, vật nuôi trong nhà của con người.

Người tuổi Mão là những người tinh tế, gần gũi, lịch sự và quý phái, tuy nhiên đôi khi tuổi Mão bị cho là lạnh lùng và kiêu ngạo.

Người tuổi Mão thường gây ấn tượng với người khác bằng sự tinh tế, duyên dáng, nhạy cảm của mình. Họ là những người lãng mạn trong tình yêu, hòa đồng trong các mối quan hệ và đặc biệt rất cầu toàn.

Tuổi Mão rất khéo léo trong đối nhân xử thế, họ biết lắng nghe hoặc thậm chí chấp nhận thua trong các cuộc cãi vã để đổi lấy sự hòa giải, chính vì điều này mà người tuổi Mão ít khi có kẻ thù.

Tuổi Mão rất mến khách, nếu làm việc chung với người tuổi Mão, bạn sẽ thấy họ là người chuyên nghiệp, có định hướng và làm việc rất hiệu quả. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người tuổi Mão thường do dự để đánh mất những cơ hội lớn.

Điểm mạnh của người tuổi Mão: Lịch sự, tinh tế, nhân ái, nhã nhặn, khiêm tốn.

Điểm yếu của người tuổi Mão: Đa tình, hay do dự, bướng bỉnh.

2. Sinh năm 1963 mệnh gì? hợp màu gì?

Tuổi Quý Mão sinh năm 1963 mệnh Kim (Kim Bạch Kim).

Mệnh Kim hợp màu gì?

Dựa vào đặc tính và ý nghĩa của mệnh Kim và quy luật tương sinh tương khắc của Ngũ hành, mệnh Kim hợp với màu sắc của hành Thổ, vì Thổ sinh Kim nên đây là mối quan hệ tương sinh, những màu sắc này là màu vàng, nâu đất, nâu nhạt.

Mệnh Kim cũng hợp với màu của hành Kim, vì Kim với Kim là mối quan hệ tương hợp, những màu sắc này là màu trắng, màu xám và màu ghi.

Mệnh Kim không hợp với màu sắc của hành Hỏa, vì Hỏa khắc Kim là mối quan hệ tương khắc, những màu sắc này là màu đỏ, cam và tím. Tương tự như vậy, mệnh Kim cũng không hợp với màu sắc của hành Mộc, vì Kim khắc Mộc, màu này là màu xanh lá cây.

Ngoài ra, người mệnh Kim không nên chọn màu thuộc hành Thủy, vì Kim sinh Thủy tuy là mối quan hệ tương sinh, nhưng Kim mất đi năng lượng để hỗ trợ cho Thủy, nên trong trường hợp này sẽ làm người mệnh Kim bị tiêu hao năng lượng. Các màu sắc thuộc hành Thủy là màu đen, màu xanh nước biển.

3. Quý Mão 1963 trồng cây gì? hợp con số nào?

Con số may mắn của tuổi Quý Mão là số 3, 4 và 9. Con số không may mắn của Quý Mão là số 1, 7 và 8.

Người tuổi Quý Mão hợp trồng cây Kim Ngư Thảo (snapdragon), cây hoa lưu niên, cẩm nhung.

4. Quý Mão hợp tuổi nào?

Tam hợp: Quý Mão hợp với người tuổi Hợi (Heo) và tuổi Mùi (Dê). Những tuổi này có rất nhiều điểm tương đồng, họ rất hòa hợp và hiểu nhau, cuộc sống sẽ trở nên đầy màu sắc như một cuốn truyện do chính họ tạo nên, vì vậy mà mối quan hệ luôn được làm mới. Họ biết cách thấu hiểu, lắng nghe và thông cảm cho nhau. Các cặp đôi này thường chu đáo, ân cần, khoan dung, đó là chìa khóa cho một cuộc hôn nhân viên mãn, hạnh phúc.

Tứ hành xung: Người tuổi Quý Mão không hợp những người tuổi Tý (Chuột), Ngọ (Ngựa), Dậu (Gà). Sự kết hợp của những tuổi này thường tạo ra nhiều mâu thuẫn, khó hòa giải.

5. Phật bản mệnh tuổi Quý Mão

Người tuổi Quý Mão được sự phù hộ độ trì của Phật bản mệnh Bồ Tát Văn Thù.

Trong giới Bồ Tát của Phật giáo, Bồ Tát Văn Thù là Phật bản mệnh của người tuổi Mão, có địa vị hiển hách, uy danh lẫy lừng. Tên tiếng Phạn của ngài là Manjusri, dịch âm là Văn Thù Sư Lợi.

Bồ Tát Văn Thù biểu thị ý nghĩa của trí tuệ Phật Đà, đó là hình tượng nhân cách hóa của trí tuệ. Các bậc đại sư Phật giáo ở Ấn Độ và Tây Tạng đều lấy Bồ Tát Văn Thù làm Bản tôn tu trì.

Như đại Luận sư Nguyệt Xứng và Đại sư Tông Khách Ba nổi tiếng về tư tưởng Trung quán đều coi Bồ Tát Văn Thù là Bản tôn tu trì.

Phật giáo cho rằng, tu trì pháp môn của Bồ Tát Văn Thù có thể nhanh chóng đạt được sự gia trì, từ đó dễ dàng có được trí tuệ thế gian và xuất thế gian.

6. Đá quý phong thủy tuổi Quý Mão 1963

Người tuổi Quý Mão sinh năm 1963 có ngũ hành năm sinh là Kim bạch Kim, hợp với đá quý màu vàng, nâu, trắng, xám, ghi như đá thạch anh tóc vàng, đá mắt hổ vàng, đá mặt trăng

Đá thạch anh tóc vàng: thạch anh tóc nói chung có khả năng làm chậm quá trình lão hóa. Chúng kích thích hoạt động của hệ miễn dịch , cũng như giúp cơ thể hồi phục sau xạ trị. Thạch anh tóc giúp khắc phục tình trạng mệt mỏi và trầm uất. Nó còn có tác dụng trong điều trị về đường hô hấp.

Đá mặt trăng: Theo quan niệm tôn giáo của Hindu, đá mặt trăng được tạo thành từ những tia sáng ánh trăng ngàn năm kết tụ lại. Nhiều nền văn hóa cổ đại khác cũng có những truyền thuyết tương tự. Người xưa tin rằng, ánh sáng của mặt trăng qua hàng nghìn năm xuyên thấu vào lòng đất, ngưng tụ lại và tạo thành những viên đá, những viên đá này toát ra ánh sáng xanh trông giống như ánh trăng xuyên qua những đám mây trong đêm.

Đá mắt hổ: đá mắt hổ có tác dụng giữ vững tinh thần, tích tụ tài bảo; tăng cường ý chí và lòng dũng cảm, niềm tin, giúp những người nhút nhát trở nên mạnh mẽ. Đeo vòng tay đá mắt hổ có tác dụng tăng cường sức sống, phù hợp với những người thân thể yếu đuối, bệnh lâu ngày không khỏi. Hơn nữa, còn giúp tăng cường trí lực, hiểu thấu đáo mọi vấn đề, kiên trì và giữ vững nguyên tắc.

Lưu ý

Các loại đá quý đa sắc có thể đeo cho tất cả các mệnh như tourmaline đa sắc, thạch anh đa sắc, đá melody (super seven)…

Các loại đá quý không màu như kim cương, zircon không màu… có thể đeo cho tất cả các mệnh

Các loại đá quý có nguồn gốc hữu cơ như ngọc trai, ngà voi, mai rùa có thể đeo cho tất cả các mệnh

7. Linh vật & Vật phẩm phong thủy tuổi Quý Mão 1963

Phật Tổ Như Lai
Phật Di Lặc
Văn Thù Bồ Tát (Phật bản mệnh tuổi Mão)
Tỳ Hưu
12 con giáp
Vòng tay phong thủy
Thiềm thừ (Cóc tài lộc)
Chúa gê-su…

8. Hướng tốt, hướng xấu tuổi Quý Mão

8.1. Hướng tốt, hướng xấu cho Nam Quý Mão

Nam Quý Mão sinh năm 1963 có cung mệnh là Khảm thuộc Đông Tứ Trạch, Mệnh nạp âm là Kim bạch Kim. Hướng tốt theo bát trạch:

phong thủy rước lộc vào nhà cho nam Quý Mão 1963

Phong thủy rước lộc vào nhà cho nam Quý Mão 1963

Hướng chính Bắc (Khảm): Được Phục vị, Phù Bật Thủy tinh.

Hướng Đông Nam (Tốn): Được Sinh khí, Tham lang Mộc tinh.

Hướng nhà, giường ngủ, bàn thờ, hướng cửa phòng bếp: Bắc, Đông Nam.

Nhà vệ sinh, bếp nấu: Dậu, Tân, Càn, Hợi.

Chọn vợ, chồng hoặc đối tác làm ăn: thuộc Đông tứ mệnh.

Theo đó, Nam Quý Mão sinh năm 1963 có thể sử dụng và bài trí các linh vật theo la bàn phong thủy để được may mắn và bình an:

Về mặt sức khỏe: Nên đặt bình hoa to ở cát phương ( trừ bốn sơn là Tý, Ngọ, Mão, Dậu), treo ba hồ lô bằng gỗ ở ba phương Sinh khí, Thiên y và Phúc Đức.

Về mặt trí tuệ: Đặt một bức tượng Văn Thù Bồ Tát, Tâm kinh hoặc Văn Xương Đế Quân theo hướng sao tốt.

Về mặt công danh sự nghiệp: Đặt tượng Mã thượng phong hầu bằng ngọc, đặt ấn thăng quan (làm bằng đá ngọc: ấn kỳ lân, ấn thiên ngọc, ấn rồng).

Về mặt tài lộc: Đặt con cóc ba chân, ngọc hình trụ vuông có lỗ tròn hoặc treo một xâu tiền cổ ở hướng sao tốt.

8.2. Hướng tốt, hướng xấu cho Nữ Quý Mão

Nữ Quý Mão sinh năm 1963 có cung Mệnh là Cấn thuộc Tây Tứ Trạch, mệnh nạp âm là Kim Bạch Kim. Hướng tốt theo bát trạch:

Cấn thuộc tây tứ trạch

Hướng tốt theo Bát trạch của Nữ Quý Mão

Hướng chánh Tây (Đoài): Được Phước Đức, Vũ Khúc Kim tinh.

Hướng Tây Bắc (Càn): Được Thiên Y, Cự Môn Thổ tinh.

Hướng nhà, giường ngủ, hướng cửa bếp và bàn thờ: Tây, Tây Bắc.

Nhà vệ sinh, bếp nấu: Đinh, Ất.

Chọn vợ, chồng hoặc đối tác làm ăn: Thuộc Tây tứ mệnh.

Theo đó, Nữ Quý Mão sinh năm 1963 có thể sử dụng và bài trí các linh vật theo la bàn phong thủy để được may mắn và bình an:

Về mặt sức khỏe: Treo bức tranh chữ Phúc hoặc Ngọc Pháp luân theo hướng sao tốt.

Về mặt trí tuệ: Đặt Tâm kinh hoặc tháp Văn Xương hoặc ngọn Trường minh đăng theo hướng Đông Bắc để hóa giải sinh khí kỵ.

Về mặt công danh sự nghiệp: Đặt tượng Mã thượng phong hầu bằng ngọc ở hướng Phúc đức, Phục vị.

Về mặt tài lộc: Đặt bể cá cảnh ở hướng Tây Nam, nuôi 5 hoặc 8 con cá vàng, đặt một con nghê bằng đồng quay đầu ra cửa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cẩm nang phong thủy tuổi Quý Mão 1963 –

Kê giường theo phong thủy

Trong phòng ngủ, chiếc giường luôn là điểm trọng tâm, đặc biệt là phòng tân hôn của đôi vợ chồng trẻ thì việc đặt giường như thế nào cho hợp phong thủy là điều vô cùng quan trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đối với cặp vợ chồng mới cưới thì việc kê đặt chiếc giường mới là chuyện hệ trọng quyết định khởi đầu cuộc sống mới của họ có suôn sẻ hay không? Nếu giường tân hôn không được đặt ở vị trí phù hợp sẽ khiến khí trường cơ thể người và khí trường của cả ngôi nhà không cân đối hài hòa với nhau, sẽ ảnh hưởng tới tình cảm của chủ nhân, làm cho cuộc sống vợ chồng có những rạn nứt về tình cảm bởi sự thay đổi về tính tình.

 



Việc kê đặt gường mới nếu kết hợp tốt giữa tinh hoa đạo phong thủy học truyền thống và khoa học hiện đại thì cần phải chú ý về nhiều mặt. Dưới đây là hôm số điểm cơ bản mà các cặp vợ chồng mới cưới cần chú ý khi bố trí giường tân hôn cho mình:

1. Phòng tân hôn không khí cần thông thoáng, tránh gây ngột ngạt, tức thở bởi màu và mùi của các đồ gia dụng và gỗ, sơn của giường mới ảnh hưởng đến đại não. Vì vậy nên để một thời gian để giường hết mùi sơn mới.

2. Tránh sử dụng vecni mầu hồng, nếu không sẽ có tác hại làm suy nhược thần kinh não. Màu này dễ gây cảm giác hốt hoảng, bất an, dễ sinh cáu gắt dẫn đến vợ chồng bất hòa.

3. Giường tân hôn không được kê ở mé tây ngôi nhà, hoặc căn phòng.

4. Hai bên đầu giường không được đối diện với cửa gian phòng vệ sinh.

5. Mé tây phòng tân hôn không được thường xuyêt phát ra tiếng động (không được đặt ti vi, loa, đài…)

6. Đầu giường và hai bên thành giường tân hôn không được đối chiếu với gương lớn, đẻ tránh ảnh hưởng tới sinh hoạt vợ chồng.

7. Tủ, bàn đầu giường không được đặt radio, máy hát… tránh gây suy nhược thần kinh.

8. Phía trên đầu giường không được treo ảnh lớn tân hôn, nếu không sẽ cảm giác bị đè nén.

9. Đầu cuối giường không trực diện với cửa ra vào nêu skhông dễ gây tâm lý bất an, dễ gây đau đầu.

10. Giường tân hôn không kê dưới xà ngang, nhưng nếu đã làm trần giả che kín thì không sao.

11. Giường tân hôn không nên kê sát cửa sổ tầng lửng, bởi mặt trời nắng gắt chiều trực diện sẽ không tốt, bất an.

12. Nếu đặt đèn chiếu xạ gián đoạn, để có ánh sáng dịu, tăng không khí ấm cũng tao nhã.

13. Phía đầu giường nhất thiết phải “tựa vào núi” không được trống huếch, tốt nhất là áp vào tường, nếu không người nằm dễ sinh ải tưởng, thậm chí có khuynh hướng tâm thần phân liệt.

14. Hình dáng giường tốt nhất có gờ thành chung quanh, như vậy nằm thấy yên tâm thoải mái.

15. Dù thấp hay cao, giường phải có chân, không được sát xuống sàn nhà (nhất là tầng trệt), như vậy phía gầm giường mới không bị khí, ẩm ướt, tránh được chứng suy nhược chức năng tim mạch.(st)
 

Phong-thuy.vn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kê giường theo phong thủy

Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp - Xem tuổi vợ chồng - Xem Tử Vi

Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp, Xem tuổi vợ chồng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp, tu vi Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp, tu vi Xem tuổi vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp

Xem tuổi vợ chồng cho 12 Con giáp. Phàm dùng Tháng Đại Lợi thì đặng tròn tốt. Như muốn dùng Tiểu lợi thì “Phòng Ông – Cô” mà không có cha mạ bên chồng thì được. Như “Phòng nữ phụ mẫu” mà không có cha mẹ bên gái thì được. Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp

Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp

TUỔI GÁI XUẤT GIÁ THÁNG ĐẠI LỢITý, Ngọ 6 – 12 1 – 7 2 – 8 3 – 9 4 – 10 5- 11
Sửu, Mùi 5 – 11 4 – 10 3 – 9 2 – 8 1 – 7 6 – 12
Dần, Thân 2 – 8 3 – 9 4 – 10 5 – 11 6 – 12 1 – 7
Mẹo, Dậu 1 – 7 6 – 12 5 – 11 4 – 10 3 – 9 2 – 8
Thìn, Tuất 4 – 10 5 – 11 6 – 12 1 – 7 2 – 8 3 – 9
Tỵ, Hợi 3 – 9 2 – 8 1 – 7 6 – 12 5 – 11 4 – 10

 

Phàm dùng Tháng Đại Lợi thì đặng tròn tốt. Như muốn dùng Tiểu lợi thì “Phòng Ông – Cô” mà không có cha mạ bên chồng thì được. Như “Phòng nữ phụ mẫu” mà không có cha mẹ bên gái thì được.

“Phòng phu chủ” là kỵ chánh người trai
“Phòng nữ thân” là kỵ chánh người gái
“Phòng ông – cô” là kỵ cha mẹ bên chồng
“Phòng nữ phụ mẫu” là kỵ cha mẹ bên gái

TUỔI CON TRAI NĂM HUNG NIÊN TUỔI CON GÁI NĂM HUNG NIÊN

Tý Mùi Tý Mẹo
Sửu Thân Sửu Dần
Dần Dậu Dần Sửu
Mẹo Tuất Mẹo Tý
Thìn Hợi Thìn Hợi
Tỵ Tý Tỵ Tuất
Ngọ Sửu Ngọ Dậu
Mùi Dần Mùi Thân
Thân Mẹo Thân Mùi
Dậu Thìn Dậu Ngọ
Tuất Tỵ Tuất Tỵ
Hợi Ngọ Hợi Thìn

Phàm trai hay gái mà gặp năm hung niên, thì không nên thành hôn vì năm ấy rất khắc kỵ.
Qúi vị xem Bảng lập thành sẵn trên đây thật đúng chẳng sai.

Thiên Can Và Địa Chi từng tháng:
Tháng Giêng là tháng Dần
Tháng Hai là tháng Mẹo
Tháng Ba là tháng Thìn
Tháng Tư là tháng Tỵ
Tháng Năm là tháng Ngọ
Tháng Sáu là tháng Mùi
Tháng Bảy là tháng Thân
Tháng Tám là tháng Dậu
Tháng Chín là tháng Tuất
Tháng Mười là tháng Hợi
Tháng Mười Một là tháng Tý
Tháng Chạp là tháng Sửu

Những tháng nhuần thì 15 ngày trên thuộc về Địa Chi của tháng trước, còn 15 ngày dưới thuộc về Địa Chi của tháng sau.
Còn Thiên Can thì cứ 5 năm là đủ 60 tháng (không kể tháng nhuần) lại bắt đầu trở lại.

Lục Hại (lấy nhau không hạp)
Tuổi Tý kỵ tuổi Mùi
Tuổi Dần kỵ tuổi Tỵ
Tuổi Thân kỵ tuổi Hợi
Tuổi Sửu kỵ tuổi Ngọ
Tuổi Mẹo kỵ tuổi Thìn
Tuổi Dậu kỵ tuổi Tuất

Tứ Tuyệt (lấy nhau không hạp)
Tuổi Tý kỵ tuổi Tỵ
Tuổi Dậu kỵ tuổi Dần
Tuổi Ngọ kỵ tuổi Hợi
Tuổi Mẹo kỵ tuổi Thân

Bào Thai (những tháng sanh của trai kỵ tháng sanh của gái. Lấy nhau không hạp)
Trai sanh tháng Giêng, tháng Bảy, kỵ gái sanh tháng Tư, tháng Mười
Trai sanh tháng Hai, tháng Tám, kỵ gái sanh tháng Hai, tháng Mười Một
Trai sanh tháng Ba, tháng Chín, kỵ gái sanh tháng Sáu, tháng Chạp
Trai sanh tháng Tư, tháng Mười, kỵ gái sanh tháng Hai, tháng Mười
Trai sanh tháng Năm, tháng Mười Một, kỵ gái sanh tháng Hai, tháng Tám
Trai sanh tháng Sáu, tháng Chạp, kỵ gái sanh tháng Ba, tháng Chín.

TUỔI TRAI CÓ CHỮ NÊN LẤY VỢ CÓ CHỮ – KHÔNG NÊN LẤY VỢ CÓ CHỮ

Giáp Kỷ Canh
Ất Canh Tân
Bính Tân Nhâm
Đinh Nhâm Quý
Mậu Quý Giáp
Kỷ Giáp Ất
Canh Ất Bính
Tân Bính Đinh
Nhâm Đinh Mậu
Quý Mậu Kỷ

Phép xem tuổi cưới gả khắc hay hạp (chọn sẵn Thiên Can tuổi trai so xuống tuổi gái)
Xem bói, khi xem tuổi thì phải lựa Thiên Can của tuổi trai coi xuống 12 Địa Chi của tuổi gái, như hợp thì đặng hòa thuận suốt đời và sanh con cũng mạnh khỏe, thông mình hay là ít bịnh tật:
10 Thiên Can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý
12 Địa Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi
Dưới đây tôi lựa sẵn những tuổi trai có chữ gì, cưới tuổi gái trong 12 chi nào, tốt hay xấu, khắc hay hợp.
Và tôi có lựa sẵn năm Dương Lịch, đối chiếu với năm Âm Lịch, tôi cũng có lựa sẵn những năm, những tuổi đang hiện tại và những tuổi về tương lai sau này và cũng có cả năm Dương Lịch và Ấm Lịch đối chiếu.

Trai (Thiên Can) lấy vợ (Địa Chi) tốt hay xấu
Trai có chữ Giáp lấy 12 tuổi như dưới đây:
Giáp lấy vợ Tý: có con cái đều đặng danh dự và quyền thế, nhưng không có âm đức về sau
Giáp lấy vợ Sửu, Dần: có con không đặng nhờ vì con không đặng hiếu hạnh
Giáp lấy vợ Mẹo: vợ chồng không an toàn, hoặc có hư thai
Giáp lấy vợ Thìn: có con cháu không toàn vẹn
Giáp lấy vợ Tỵ: cuộc tình chồng nghĩa vợ dỡ dang, chẳng đặng bền lâu
Giáp lấy vợ Ngọ, Mùi: có con khó nuôi đến lớn
Giáp lấy vợ Thân: con cháu thi đỗ được nhiều khoa, nhưng rồi cũng không bền
Giáp lấy vợ Dậu, Tuất: cửa nhà vẻ vang, con cái thi đỗ thành công, con quý, rể hiền
Giáp lấy vợ Hợi: con cháu đặng thi đỗ, nhưng trước vinh sau nhục, trước giàu sau nghèo

Trai có chữ Ất lấy 12 tuổi như dưới đây:
Ất lấy vợ Tý: con cái đặng thi đỗ, nhưng phải chịu gian nan thưở nhỏ, sung sướng về tuổi già
Ất lấy vợ Sửu, Dần: sanh con cháu thi đỗ nhiều, nhưng cũng phải trước giàu sau nghèo
Ất lấy vợ Mẹo: nếu không có con thì mới đặng an toàn
Ất lấy vợ Thìn, Tỵ: sanh con sang trọng, đặng công thành danh toại
Ất lấy vợ Ngọ: vợ chồng được song toàn đại lợi, nhưng sau cũng sanh buồn phiền
Ất lấy vợ Mùi: được giàu sang vinh hiển, sanh con cháu thi đỗ đặng nhiều khoa
Ất lấy vợ Thân: có thi đỗ nhưng sau cũng không lợi
Ất lấy vợ Dậu: vợ chồng khó đặng toàn vẹn, từ 30 tuổi trở lên mới biết sự hay dở
Ất lấy vợ Tuất, Hợi: vợ chồng trước nghèo sau giàu

Trai có chữ Bính lấy 12 tuổi như dưới đây:
Bính lấy vợ Tý: người vợ sanh sản khó, nhưng nuôi được thì được danh thơm, trước sau cũng được giàu sang đại lợi. Nếu được vợ lẽ thì người vợ lẽ ấy sẽ sanh con trai.
Bính lấy vợ Sửu: vợ chồng làm ăn khó nhọc, sau sẽ có lợi, sanh con trai thi đỗ, nhưng con phải có tật bịnh mới có thể nuôi đặng đến lớn
Bính lấy vợ Dần: vợ chồng khi lìa khi hiệp, rồi sau cũng đặng sum vầy, sanh con trai thi đỗ vì đặng chữ “Phùng Xuân” ứng.
Bính lấy vợ Mẹo, Thìn: làm ăn lúc thạnh lúc suy, nhiều con chẳng thành đạt, dầu có lúc phong lưu cũng vô ích
Bính lấy vợ Tỵ: đặng phú quý vinh hoa, sung sướng đến trọn đời, con cháu cũng đặng hiển đạt
Bính lấy vợ Ngọ, Mùi: vợ chồng đặng giàu sang đại lợi, từ 40 tuổi trở lên sẽ có tiểu tật, con đặng thi đỗ
Bính lấy vợ Thân: vợ chồng làm ăn trước phải chịu gian nan, sau sẽ phú túc, tích nhiều thành đa, cần kiệm sẽ khá
Bính lấy vợ Dậu: vợ chồng đặng song toàn, trước nghèo sau giàu, con cái ít.
Bính lấy vợ Tuất, Hợi: có con khó nuôi, vợ chồng trước hiệp sau lìa

Trai có chữ Đinh lấy 12 tuổi như dưới đây:
Đinh lấy vợ Tý, Sửu: vợ chồng rất gian truân, chẳng đặng yên ổn, con cái cũng khó nuôi, hoặc nghèo nàn
Đinh lấy vợ Dần: trước lành sau dỡ, khó được bén duyên tơ tóc
Đinh lấy vợ Mẹo: cuộc tình duyên vui vầy và hạnh phúc, có con cháu đông
Đinh lấy vợ Thìn: có hai đứa con đặng thi đỗ, quan tước hiểng vang, nếu có vợ lẽ cũng đặng giàu sang
Đinh lấy vợ Tỵ: trước sau cũng đều đặng sang giàu, con cái đặng thi đỗ thành danh và đại lợi
Đinh lấy vợ Ngọ, Mùi: sanh con gái đầu lòng thì không đặng lợi, cửa nhà ắt bị hao tổn, phải nuôi con nuôi thì nuôi con ruột mới dễ được, hay là lấy vợ lẽ mới đặng toàn hảo thuỷ chung
Dinh lấy vợ Thân, Dậu: được quyền cao tước trọng, nhưng sau cũng bị mất chức, trước hay sau dỡ
Đinh lấy vợ Tuất: vợ chồng phải tha hương xứ người mới được hào phú đại lợi, có quyền quý, sanh con gái đặng song toàn
Đinh lấy vợ Hợi: trước có nhà cửa huy hoàng, sau gặp lúc phong ba, nếu là quan quyền thì lận đận lắm.

Trai có chữ Mậu lấy 12 tuổi như dưới đây:
Mậu lấy vợ Tý: vợ chồng đặng sum vầy hòa hiệp, phú quý vinh hoa, trước sau đều đại lợi, con cháu cũng đặng giàu sang
Mậu lấy vợ Sửu, Dần: trai gái đều đặng toàn vẹn, vợ chồng cũng đặng song toàn hạnh phúc
Mậu lấy vợ Mẹo: vợ chồng làm ăn đủ dùng, nếu tha phương làm ăn lại càng hay, thuở đầu hơi gian nan, về sau sung sướng
Mậu lấy vợ Thìn: trước phải chịu cảnh gian truân, về sau đặng vinh hiển, lại e cuộc tình duyên chẳng đáng vẹn toàn.
Mậu lấy vợ Tỵ, Ngọ: khó bề đặng phú quý, nếu trai gái đều toàn thì sanh biến, không biến thì nhà cửa phải tiêu tan, dầu cho có quan lộc cũng phải biến
Mậu lấy vợ Mùi, Thân: trước sau đều đặng đại lợi, sanh con nhiều và tròn vẹn
Mậu lấy vợ Dậu: lúc đầu đại lợi sau rồi vô ích, nếu lấy vợ lẽ sẽ sanh con trai được trọng quyền
Mậu lấy vợ Tuất, Hợi: không nhờ con cái, đi tha phương lại càng tốt.

Trai có chữ Kỷ lấy 12 tuổi như dưới đây:
Kỷ ly vợ Tý: vợ chồng làm ăn đặng thịnh vượng, nhưng trước phải đặng nghèo, rồi sau mới đặng giàu
Kỷ lấy vợ Sửu, Dần: sanh con trai khó nuôi được đến lớn, đi làng khác mới được yên, vợ lẽ sanh con dễ nuôi hơn
Kỷ lấy vợ Mẹo, Thìn: phải tha phương mới nên sự nghiệp, giàu sang mà sanh con trai, sau không có con gái là khí âm tiêu hết
Kỷ lấy vợ Tỵ, Ngọ: gặp thời thì thạnh lỗi mùa thì suy, vợ chồng cách trở tha phương, chẳng chết thì cũng lìa xa đôi ngã, đời sau vợ chồng mới sanh con trai
Kỷ lấy vợ Mùi, Thân: vợ chồng được trường cửu hạnh phúc song toàn, nhiều con thi đỗ cao, và vinh quang trọn đời
Kỷ lấy vợ Dậu: vợ chồng khó đặng bền lâu, phải ly biệt, nếu ăn ở với nhau được thì cũng thường ốm đau bịnh tật
Kỷ lấy vợ Tuất: sanh con chẳng đặng nhờ vì con bất hiếu, nến con có đỗ cao cũng phải chịu khó về sau
Kỷ lấy vợ Hợi: vợ chồng đặng song toàn hạnh phúc, nhà cửa phú túc, con cháu đông đúc và thi đỗ cao

Trai có chữ Canh lấy 12 tuổi như dưới đây:
Canh lấy vợ Tý, Sửu: lấy nhau gặp thời thì tốt, nếu không thì dù trai hay gái cũng trọn đời chẳng có gì là vinh hiển
Canh lấy vợ Dần, Mẹo: trước phải gian truân, sau mới sung sướng giàu sang, có con thi đỗ cao
Canh lấy vợ Thìn, Tỵ: vợ chồng ăn ở hiền lương thì đặng phú quý và nhiều con, nếu thất đức thì ắc phải nghèo nàn
Canh lấy vợ Ngọ: tự mình lập thân chẳng cậy nhờ ai, khoa danh hiển đạt, lộc hưởng tự nhiên
Canh lấy vợ Mùi, Thân: đời vợ trước không đặng vẹn bền, đời vợ sau mới đặng giai lão
Canh lấy vợ Dậu: lúc đầu hòa hiệp, về sau có phần khó khăn, trước nghèo sau khá
Canh lấy vợ Tuất, Hợi: đời vợ trước chẳng đặng trọn tình, lấy vợ sau mới đặng vững bền và sanh đặng quý tử (con thảo)

Trai có chữ Tân lấy 12 tuổi như dưới đây:
Tân lấy vợ Tý: nếu có vợ sớm thì dẫu có con cũng không thành đạt, hay là sanh con khó nuôi đến lớn, lấy vợ sau mới đại lợi
Tân lấy vợ Sửu, Dần: không được hào con, sự làm ăn trước thành sau suy
Tân lấy vợ Mẹo: tự nhiên phú quý, nhưng có con thi đỗ thì chết, trước nghèo sau giàu
Tân lấy vợ Thìn, Tỵ: sanh con gái dễ nuôi hơn con trai, đặng của cải quan lộc
Tân lấy vợ Ngọ: sự làm ăn hoàn toàn thạnh vượng, sanh con gái thì đặng hiếu thảo
Tân lấy vợ Mùi, Thân: trước giàu sang sau lại hóa ra nghèo, con cái khó nuôi, lúc tuổi già có bịnh tật liên miên
Tân lấy vợ Dậu: công danh toại nguyện, được giàu sang nhưng vất vả, có con khó nuôi đến lớn
Tân lấy vợ Tuất, Hợi: có vợ gặp sanh sản khó, vợ chồng bất chánh

Trai có chữ Nhâm lấy 12 tuổi như dưới đây:
Nhâm lấy vợ Tý: vợ chồng sẽ có bịnh tật, thường gặp sự thưa kiện, dẫu sanh con trai hay con gái cũng không vẹn toàn
Nhâm lấy vợ Sửu, Dần: sanh nhiều con gái, nếu có con trai dẫu có thi rồi cũng thất chức
Nhâm lấy vợ Mẹo: sanh con trai hay gái cũng đều vẹn toàn, song chẳng nhờ con, có thi đỗ cao cũng không đặng chức phận
Nhâm lấy vợ Thìn: về sau phải chịu cảnh nghèo khổ, mặc dầu thuở trước đã giàu sang, trở về già thường mắc bịnh tật
Nhâm lấy vợ Tỵ: dầu đặng giàu sang nhưng sanh con cũng khó nuôi được (thất hào con), từ 40 tuổi trở lên lập nghiệp khó khăn, lấy vợ sau mới yên vui được
Nhâm lấy vợ Ngọ: tuổi trẻ làm ăn được thạnh vượng, con gái hay trai đều song toàn, nhưng từ 40 tuổi trở về sau thì mắc bịnh tật không toàn
Nhâm lấy vợ Mùi: tự nhiên có lộc và quan chức, tuổi già có mắc tật bịnh
Nhâm lấy vợ Thân: sanh con chẳng toàn, được giàu sang song chẳng đặng thọ
Nhâm lấy vợ Dậu: tình vợ chồng không toàn vẹn, có nhiều sự gây gỗ trong gia đình
Nhâm lấy vợ Tuất, Hợi: được phú quý thịnh vượng, đông con cái và nhiều lộc trời ban

Trai có chữ Quý lấy 12 tuổi như dưới đây:
Quý lấy vợ Tý: đặng giàu sang, con cái thi đỗ cao, nếu tha phương thì có nhiều đại lợi
Quý lấy vợ Sửu, Dần: có vợ ở xa xứ, đặng phú quý đại lợi, học hành thi đỗ
Quý lấy vợ Mẹo: ăn ở lúc nhở thì hợp nhau, lớn ắt phải xa lìa, có chức vị quan tước
Quý lấy vợ Thìn, Tỵ: đặng phú quý đại lợi, lấy vợ ở xa xứ rất tốt
Quý lấy vợ Ngọ: trước nghèo nàn, sau sẽ đặng phú quý, đại lợi, nhiều của cải, con cháu thi đỗ cao
Quý lấy vợ Mùi, Thân: đặng quan tước cao, công thành danh toại
Quý lấy vợ Dậu: dầu có chức tước cũng không đặng trọn vẹn, chẳng việc gì đặng toại nguyện
Quý lấy vợ Tuất, Hợi: trước tốt sau xấu, trước thành sau hại, dầu có hay một lúc rồi cũng gian nan

BẢNG SO ĐÔI TUỔI VỢ CHỒNG THUỘC CUNG, MẠNG
(Gọi là Bát San)

Chồng cung Càn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Càn lấy vợ cung Càn : đựơc Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Cấn : được Phước đức (thật tốt)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Khôn : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Càn lấy vợ Đoài : được Duyên niên (thật tốt)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Khảm : bị Lục sát (thật xấu)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Chấn : bị Ngũ quỉ (thật xấu)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Tốn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Ly : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)

Chồng cung Khảm lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Khảm : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Chấn : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Tốn : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Ly : được Phước đức (thật tốt)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Càn : bị Lục sát (thật xấu)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Cấn : bị Ngũ quỷ (thật xấu)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Khôn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Đoài : bị Họa hại (thật xấu)

Chồng cung Cấn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Cấn : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Càn : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Khôn : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Đoài : được Duyên niên (thật tốt)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Khảm : bị Ngũ quỉ (thật xấu)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Chấn : bị Lục sát (thật xấu)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Tốn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Ly : bị Họa hại (thật xấu)

Chồng cung Chấn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Chấn : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Khảm : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Ly : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Càn : bị Lục sát (thật xấu)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Cấn : bị Ngũ quỉ (thật xấu)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Khôn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Tốn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Đoài : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)

Chồng cung Tốn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Tốn : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Khảm : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Chấn : được Phước đức (thật tốt)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Ly : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Càn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Cấn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Khôn : bị Ngũ quỉ (thật xấu)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Đoài : bị Lục sát (thật xấu)

Chồng cung Ly lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Ly lấy vợ cung Ly : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Khảm : được Phước đức (thật tốt)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Chấn : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Tốn : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Càn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Cấn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Khôn : bị Lúc sát (thật xấu)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Đoài : bị Ngũ quỉ (thật xấu)

Chồng cung Khôn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Khôn : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Càn : được Duyên niên (thật tốt)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Cấn : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Đoài : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Chấn : bị Hoạ hại (thật xấu)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Khảm : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Tốn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Ly : bị Lục sát (thật xấu)

Chồng cung Đoài lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Đoài : được Phục vị (tốt vừa)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Càn : được Phước đức (thật tốt)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Cấn : được Duyên niên (thật tốt)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Khôn : được Sanh khí (thật tốt)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Chấn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Khảm : bị Họa hại (thật xấu)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Tốn : bị Lục sát (thật xấu)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Ly : bị Ngũ quỉ (thật xấu)

HÔN NHÂN THUỘC NGŨ HÀNH, TỐT HAY XẤU
Chồng mạng Kim, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu
Chồng Kim vợ Kim, Thì ăn ở nhau sanh đẻ bất lợi, hay cãi lẩy, có khi phải lìa nhau, trừ khi đúng vào quẻ “Lưỡng Kim, Kim Khuyết”, hoặc Lưỡng Kim thành khí
Chồng Kim vợ Mộc, thì Kim khắc Mộc, khắc xuất khổ sở nghèo nàn, chồng Nam vợ Bắc
Chồng Kim vợ Hỏa, thường hay cãi vã nhau, sanh con khó nuôi, nhà cửa túng nghèo
Chồng Kim vợ Thủy, là thiên duyên tác hợp, con cháu đầy đàn, vợ chồng hoà thuận
Chông Kim vợ Thổ, vợ chồng hòa thuận, con cháu đầy đàn, gia đình vui vẻ, lục súc bình an

Chồng mạng Mộc, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu
Chồng Mộc, vợ Mộc, quan lộc tốt, con cháu đông đủ, gia đình hoà hiệp
Chồng Mộc, vợ Thủy, Một với Thủy tương sanh, tiền tài phú túc, con cháu đông, vợ chồng bách niên giai lão
Chồng Mộc, vợ Hỏa, Mộc, Hoả tự nhiên sanh, tiền tài quan lộc đặng thạnh vượng, con cháu đông đủ
Chồng Mộc, vợ Thổ (1) Thổ Mộc tương sanh, con cháu đông và làm nên đại phú
Chồng Mộc, vợ Kim Hai mạng đều khắc nhau, trước hợp sau lìa, con cháu bất lợi

Chồng mạng Thủy, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu
Chồng Thuỷ, vợ Thủy Hai Thuỷ tuy không tốt nhưng điền trạch (đặng) khá yên, ăn ở nhau được
Chồng Thuỷ, vợ Kim Kim Thuỷ sanh tài, sung sướng đến già, con cháu đặng khá
Chồng Thủy, vợ Mộc Thủy Mộc nhân duyên, vợ chồng ăn ở đặng bá niên giai lão
Chồng Thủy, vợ Hỏa Thuỷ Hỏa tương khắc, vợ chồng chẳng đặng bền duyên, con cháu bất lợi, gia đạo an nguy
Chồng Thủy, vợ Thổ hai mạng khắc nhau, vui vẻ bất thường, làm việc gì cũng khó

Chồng mạng Hỏa, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu
Chồng Hỏa, vợ Hỏa hai Hỏa giúp nhau, có khi hưng vượng, con cháu đầy đàn
Chồng Hỏa, vợ Kim Hỏa Kim khắc nhau, hay cải lẩy và kiện cáo, gia đình không an
Chồng Hỏa, vợ Mộc Hỏa Mộc hợp duyên, gia thất bình an, phước lộc kiêm toàn
Chồng Hỏa, vợ Thủy Thuỷ Hỏa tương khắc, vợ chồng chẳng đặng bền duyên, con cháu bất lợi, gia đạo an nguy
Chồng Hỏa, vợ Thổ Hỏa Thổ hữu duyên, tài lộc sung túc, con thảo dâu hiền

Chồng mạng Thổ, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu
Chồng Thổ, vợ Thổ lưỡng Thổ tương sanh, trước khó sau dễ, lắm của nhiều con
Chồng Thổ, vợ Kim vợ chồng hòa hiệp, con cháu thông minh, tài lộc sung túc
Chồng Thổ, vợ Mộc Thổ Mộc bất an, vợ chồng phải phân ly, mỗi người mỗi ngã
Chồng Thổ, vợ Thuỷ Thổ Thuỷ tương khắc, trước hiệp sau lìa, sanh kế bất lợi
Chồng Thổ, vợ Hỏa Thổ Hỏa đắc vị, quan vị dồi dào, con cháu đông đủ và giàu sang

NGŨ HÀNH TƯƠNG SANH (Tốt)
Mạng Kim sanh Thủy
Mạng Thủy sanh Mộc
Mạng Mộc sanh Hỏa
Mạng Hỏa sanh Thổ
Mạng Thổ sanh Kim

NGŨ HÀNH TƯƠNG KHẮC (Xấu)
Mạng Kim khắc Mộc
Mạng Mộc khắc Thổ
Mạng Thổ khắc Thủy
Mạng Thủy khắc Hỏa
Mạng Hỏa khắc Kim

Phụ giải: Ngũ Hành là năm thể chất giao nhau mà sanh tồn, dầu cho quý vị có tôn trọng khoa học đến đâu thì nhà khoa học ngày nay đã tìm thấy trong bản thật con người cũng không ngoài năm thứ thể chất ấy, mà ta gọi là “Ngũ Hành”. Cho nên sự khắc hợp rất là quan trọng.

TAM HẠP HỘI THÀNH CUỘC
Thân, Tý, Thìn hội thành Thủy cuộc
Tỵ, Dậu, Sửu hội thành kim cuộc
Dần, Ngọ, Tuất hội thành Hỏa cuộc
Hợi, Mẹo, Mùi hội thành Mộc cuộc


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp - Xem tuổi vợ chồng - Xem Tử Vi

Mơ thấy lãnh đạo: Có tài cán và năng lực –

Một nhân viên trẻ tuổi nói: “Tôi mơ thấy công ty mình thay lãnh đạo. Vị lãnh đạo cũ được điều sang một thành phố khác. Người mới đến là một phụ nữ, trạc hơn 30, ngoại hình bình thường nhưng không kém khí phách, có thái độ hòa nhã với tất cả mọi người
Mơ thấy lãnh đạo: Có tài cán và năng lực –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy lãnh đạo: Có tài cán và năng lực –

Quan sát tướng nhân viên không nên phí tiền tuyển dụng

Vì ỷ thế mình giỏi, đôi khi họ tự ý làm càn, không tuân thủ quy định, phạm sai lầm hết lần này tới lần khác. Tóm lại, đây là tướng nhân viên không nên tuyển
Quan sát tướng nhân viên không nên phí tiền tuyển dụng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Người có lông mày vừa ngắn vừa thưa thường không giàu tình cảm, có lối sống thực tế tới mức biến thành thực dụng. Tại một thời điểm nào đó, người này sẽ tìm ra cách để kiếm lợi cá nhân bất chấp lợi ích tập thể. Đây cũng là tướng nhân viên không nên tuyển dụng.


Cùng xem tướng nhân viên không nên tuyển dụng:
  1. Mắt liếc ngang liếc dọc   Người có tướng mắt nhỏ, dài lại có ánh nhìn không kiên định, thường xuyên liếc ngang liếc dọc chứng tỏ nội tâm bất an. Lúc bình thường tỏ ra chăm chỉ làm việc, ai sai gì làm nấy. Nhưng khi công việc gặp trở ngại lại dễ dàng bỏ cuộc giữa chừng, thậm chí còn bán đứng chủ.   
Quan sat tuong nhan vien khong nen phi tien tuyen dung hinh anh
 
2. Miệng quá nhỏ   Dù là nam hay nữ có tướng miệng nhỏ đều thích thể hiện, phô diễn năng lực bản thân. Trong mắt những người này chỉ có bản thân họ là tài giỏi, người khác đều yếu kém, không bằng mình.    Vì ỷ thế mình giỏi, đôi khi họ tự ý làm càn, không tuân thủ quy định, quy tắc chung, phạm sai lầm hết lần này tới lần khác. Tóm lại, đây là tướng nhân viên không làm nên trò trống gì, nếu là chủ, bạn nên lưu ý.   3. Lông mày vừa ngắn vừa thưa   Trong nhân tướng học, người có lông mày vừa ngắn vừa thưa thường không giàu tình cảm, có lối sống thực tế tới mức biến thành thực dụng.    Tại một thời điểm nào đó, người này sẽ tìm ra cách để kiếm lợi cá nhân bất chấp lợi ích tập thể. Đây cũng là tướng nhân viên không nên tuyển dụng.  
Quan sat tuong nhan vien khong nen phi tien tuyen dung hinh anh 2
 
4. Xương lông mày cao và nhô ra   Người có tướng cách này thường hay gây chuyện thị phi. Khi không hài lòng ai đó, kể cả cấp trên lẫn cấp dưới, đồng nghiệp, họ lại tìm cách nói xấu sau lưng, chuyện bé xé ra to, gây lục đục nội bộ.   5. Mắt lồi   Người có tướng mắt lồi khá thô bạo. Khi cảm thấy bất mãn với ai đó, lập tức nổi giận, thượng cẳng chân hạ cẳng tay để uy hiếp đối phương. 
6. Miệng méo   Đây là nét tướng ít gặp, tuy nhiên vẫn có. Người có tướng cách này thường suy nghĩ phiến diện, làm việc theo cảm tính, không thích tiếp thu ý kiến của người khác nên cũng không phải là mẫu nhân viên dễ được tuyển dụng.   Tuy nhiên, nếu người này học cách thay đổi cách nghĩ, suy nghĩ thoáng ra, làm việc có tinh thần tập thể thì ắt số mệnh sẽ được cải biên.  
Quan sat tuong nhan vien khong nen phi tien tuyen dung hinh anh 3
 
7. Môi trên ngắn   Người này mắc tật nói nhiều, lại hay bình luận chuyện đời tư của người khác, thích quản chuyện bao đồng. Bản thân họ không tự tin vào chính mình, đa nghi, đố kị nên khó được mọi người xung quanh tôn trọng.   8. Sống mũi cong vẹo   Người có tướng mũi mà sống mũi cong vẹo thường thông minh vặt, hay lừa gạt người khác để trục lợi cá nhân. Tập thể sẽ không phát triển lớn mạnh được nếu có những nhân viên như vậy.   9. Lông mày đứt đoạn, hai đầu lông mày giao nhau   Đời sống nội tâm của người này phức tạp, dường như bị áp lực tinh thần vô hình nào đè nén, không thể nói ra và cũng không thể hòa nhập với môi trường xung quanh.    Việt Hoàng   Tướng mặt của những kiểu sếp “khó chiều”
– Nắm bắt được những tướng mặt sếp khó tính dưới đây, bạn sẽ có cách “né đòn” hữu hiệu, vừa hoàn thành công việc dễ dàng lại không bị cấp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quan sát tướng nhân viên không nên phí tiền tuyển dụng

Chùa Cam Đan - dấu ấn hơn 600 năm của Phật giáo Tây Tạng

Phật giáo Tây Tạng có những ngôi chùa mang tầm vóc lịch sử, văn hóa và tôn giáo trải qua hàng trăm năm, nổi bật nhất là chùa Cam Đan ở thủ đô Lhasa.
Chùa Cam Đan - dấu ấn hơn 600 năm của Phật giáo Tây Tạng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật giáo Tây Tạng được coi là hệ phái lớn và có nét đặc sắc trong Phật giáo nói chung. Nơi đây có những ngôi chùa mang tầm vóc lịch sử, văn hóa và tôn giáo trải qua hàng trăm năm, nổi bật nhất là chùa Cam Đan ở thủ đô Lhasa. 


► Mời các bạn tra cứu: Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com

Chua Cam Dan - dau an hon 600 nam cua Phat giao Tay Tang hinh anh
 
Chùa Cam Đan là một trong nhưng ngôi chùa mang những đặc trưng không lẫn vào đâu được của Phật giáo Tây Tạng, được coi là ngôi chùa đứng đầu trong 6 ngôi chùa lớn nhất ở đất nước sùng Phật này. Chùa Cam Đan nằm ở phía Đông thủ đo Lhasa, bên trong khe núi Bhor.   Chùa Cam Đan được xây dựng từ thế kỉ thứ 15, tương truyền là vào năm 1409, do đại sư Tông Khách Ba – người sáng lập giáo phái Cách Lỗ trong Phật giáo Tây Tạng khởi xướng. Vì thế mà chùa Cam Đan có vị trí cực kì đặc biết đối với Phật giáo Cách Lỗ ở Tây Tạng.   Nơi đây tập trung hơn 8000 tăng chúng, tụng kinh khẩn nguyện, mở rộng quy mô và ảnh hưởng của Phật giáo Cách Lỗ (hay còn gọi là Hoàng giáo). Truyền thuyết xưa kể rằng, Đại sư Tông Khách Ba mang theo 3 chồng ngói, cát cùng với 8 vị học trò tới vùng núi Bhor thăm dò địa hình. Tới vị trí của chua Cam Đan ngày nay thì thấy cảnh núi non hùng vĩ, thích hợp để tu tập bèn dừng lại dùng ngói và cát xây dựng miếu. Riêng đại điện Xích Thỏa Khang, phải mất tới hơn 70 năm mới xây dựng xong.
Chua Cam Dan - dau an hon 600 nam cua Phat giao Tay Tang hinh anh
 
Sau khi khánh thành, Đại sự Tông Khách Ba đảm nhiệm vị trí trụ trì đầu tiên của chùa Cam Đan, tập hợp về hơn 500 đồ đệ, tiến hành nghi thứcThịnh Đại Khai Quang cực kì long trọng. Theo thời gian, chùa Cam Đan ngày một mở rộng về quần thể kiến trúc và số lượng tăng chúng tu tập, trở thành địa chỉ truyền bá Phật giáo Tây Tạng Cách Lỗ lớn nhất cả nước.
  Chùa có kiến trúc Raki tiêu biểu, màu đỏ thẫm đặc trưng, tất cả các điện đều xây dựng phục vụ cho việc tu tập, thanh tịnh của chúng tăng. Giới luật nghiêm ngặt, tính chất học thuật đậm nét, ảnh hưởng tư tưởng sâu rộng,  chùa Cam Đan có vị trí trọng yếu về chính trị, tôn giáo, kiến trúc và nghệ thuật.    Năm 1961, chùa Cam Đan được xếp hạng là di vật văn hóa cần bảo vệ cấp quốc gia. Hiện nay, trải qua những thăng trầm, biến chuyển của thời gian, lịch sử, nơi đây vẫn sừng sững như là biểu tượng bền bỉ, mạnh mẽ và hướng thiện của Phật giáo Tây Tạng giữa thủ đô Lhasa kì bí.
Kì vĩ thung lũng đỏ Phật giáo Larung Gar trước ngày bị phá dỡ Chiêm ngưỡng thung lũng Phật giáo lớn nhất thế giới Dấu ấn tâm linh trong tục thiên táng của người Tây Tạng

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Cam Đan - dấu ấn hơn 600 năm của Phật giáo Tây Tạng

Khi cuộc sống khó khăn, hãy nghĩ tới 13 điều này

13 điều được nhắc đến trong bài là những điều sẽ giúp bạn bình tâm mạnh mẽ vượt qua những trở ngại trong cuộc sống, giúp bạn trở nên an lạc và tin yêu
Khi cuộc sống khó khăn, hãy nghĩ tới 13 điều này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống gia đình sẽ có những lúc gặp nhiều trở ngại, và bạn cảm thấy mọi thứ thật khó khăn. Những lúc như vậy, hãy nghĩ đến 13 điều này, nó sẽ giúp bạn bình tâm mạnh mẽ vượt qua những trở ngại trong cuộc sống

1. Chuyện gì qua, cho qua

Đức Phật có một câu nói rất nổi tiếng: ‘Sự kháng cự của bản thân với những gì xảy ra xung quanh tạo nên sự đau khổ của bạn’. Dành một chút thời gian để nghĩ về điều này. Sự đau khổ của chúng ta chỉ xảy ra khi chúng ta cố gắng chống lại bản chất của mọi việc.

Nếu bạn có thể thay đổi điều gì thì hãy hành động ngay đi! Hãy thay đổi nó! Nhưng nếu bạn không thể thay đổi được thì bạn có 2 sự lựa chọn: một là chấp nhận và để nó đi, hoặc hai là tự làm cho cuộc sống trở nên khổ sở và bị ám ảnh bởi điều đó.

2. Nó chỉ là vấn đề nếu bạn nghĩ nó là một vấn đề

Trong rất nhiều trường hợp, chúng ta chính là kẻ thù nguy hiểm nhất của chính mình. Nếu bạn nghĩ điều gì đó là một vấn đề thì suy nghĩ và cảm xúc của bạn sẽ trở nên tiêu cực. Nhưng nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể học hỏi được từ điều đó, ngay lập tức nó sẽ chẳng còn là một vấn đề nữa.

3. Nếu bạn muốn mọi việc thay đổi, bạn cần bắt đầu với việc thay đổi bản thân

Bạn không biết rằng mọi người trên thế giới đều đang sống hỗn độn và căng thẳng sao? Và chẳng phải nó to tát bởi vì trong lòng họ đang hỗn loạn cả sao? Phải, chính là như thế. Chúng ta thích cái suy nghĩ rằng sự thay đổi của hoàn cảnh sẽ thay đổi con người. Nhưng nhìn theo chiều ngược lại – chúng ta cần thay đổi bản thân trước khi hoàn cảnh thay đổi.

4. Không có thất bại – chỉ có những cơ hội học hỏi

Bạn nên xóa ngay từ ‘thất bại’ ra khỏi từ điển của mình đi. Tất cả những người vĩ đại từng đạt được bất cứ thành tựu nào đều đã từng thất bại hết lần này đến lần khác. Thực tế thì tôi nhớ Thomas Edison đã từng nói như thế này: ‘Tôi không thất bại 10000 lần, tôi chỉ biết được 10000 cách mà nó không hoạt động’. Nắm lấy cái gọi là ‘thất bại’ của bạn và học hỏi từ nó. Hãy học cách làm nó tốt hơn ở lần sau.

5. Nếu bạn không có được điều bạn muốn, có nghĩa là cái gì đó tốt đẹp hơn đang đến

Tôi biết rằng điều này thì đôi lúc thật là khó tin. Nhưng đó là sự thật. Thường thì khi bạn nhìn lại cuộc đời mình, bạn sẽ thấy được tại sao một vài điều không thành hiện thực đôi khi lại là chuyện tốt. Có thể công việc mà bạn không được nhận sẽ lấy đi của bạn rất nhiều thời gian dành cho gia đình nhưng công việc bạn được nhận đã cho bạn một quỹ thời gian linh hoạt hơn. Hãy cứ tin rằng mọi việc diễn ra theo cái cách chính xác nó được cho rằng sẽ diễn ra.

6. Trân trọng khoảnh khắc hiện tại

Khoảnh khắc này sẽ không bao giờ quay lại và mỗi khoảnh khắc đều chứa đựng điều gì đó quý giá. Vì thế đừng để nó qua đi mà bạn không hề để ý! Nó sẽ sớm chỉ còn là một ký ức. Mọi khoảnh khắc dù không vui vẻ nhưng một ngày nào đó nhìn lại bạn sẽ cảm thấy nhớ chúng.

Giống như lời của một bài hát đồng quê của Trace Akins ‘Bạn sẽ nhớ điều này… Bạn sẽ muốn điều này quay lại. Bạn sẽ ước những ngày này đã không trôi qua quá nhanh như thế… Bây giờ có thể bạn không biết đâu, nhưng một ngày nào đó bạn sẽ nhớ nó…’

7. Không lệ thuộc cảm xúc vào những ham muốn

Hầu hết mọi người sống với ‘suy nghĩ gắn bó’. Điều này có nghĩa là họ gắn mình với những mong muốn và khi họ không đạt được, cảm xúc của họ rơi tụt xuống mức bi quan. Thay vào đó, cố gắng luyện tập một ‘suy nghĩ không lệ thuộc’.

Điều này có nghĩa là khi bạn muốn điều gì đó, bạn vẫn sẽ cảm thấy vui vẻ kể cả khi bạn có đạt được nó hay không. Bạn vẫn giữ được cảm giác vui vẻ hay ít nhất là bình thường.

8. Hiểu và biết ơn những nỗi sợ

Nỗi sợ có thể là một người thầy. Và vượt qua những nỗi sợ hãi có thể còn khiến cho bạn cảm nhận được mùi vị của sự chiến thắng. Ví dụ, khi tôi còn ở đại học, tôi sợ phải nói trước đám đông (một trong 3 nỗi sợ của tất cả mọi người).

Vì thế bây giờ tôi cảm thấy thật là hài hước khi tôi không chỉ nói trước một nhóm người mỗi ngày như là một giảng viên mà tôi còn giảng dạy môn nói trước đám đông! Chúng ta chỉ cần luyện tập để vượt qua nỗi sợ hãi. Sợ hãi thực sự chỉ là ảo giác thôi. Nó tùy thuộc vào mỗi người.

9. Cho phép bản thân mình trải nghiệm niềm vui

Bạn có thể tin có thể không, nhưng tôi biết rất nhiều người không có phép bản thân được tận hưởng niềm vui. Và họ thậm chí không biết là làm thế nào để trở nên vui vẻ. Một vài người thì gắn bản thân quá chặt với những vấn đề và sự hỗn độn của mình đến nỗi mà họ thậm chí không thể biết được họ sẽ là ai nếu không có những thứ ấy.

Vì thế hãy cố gắng cho phép bản thân được tận hưởng niềm hạnh phúc! Ngay cả khi đó chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi thì tập trung vào niềm vui thay vì sự gian khổ của bản thân là điều vô cùng quan trọng.

10. Đừng so sánh bản thân với những người khác

Nhưng nếu bạn so sánh bản thân mình, hãy so sánh mình với những người có hoàn cảnh kém hơn bạn.

11. Bạn không phải là một nạn nhân

Bạn cần phải ra khỏi con đường của mình. Bạn chỉ là một ‘nạn nhân’ của những suy nghĩ, lời nói, hành động của riêng mình. Chẳng ai làm gì bạn cả. Bạn là người tự tạo ra kinh nghiệm cho mình. Nhận trách nhiệm về bản thân và nhận ra rằng bạn không thể vượt qua được những giai đoạn khó khăn.

Bạn chỉ cần bắt đầu với việc thay đổi những suy nghĩ và hành động của mình. Hãy từ bỏ tâm lý nạn nhân và trở thành người chiến thắng. Từ nạn nhân thành NGƯỜI CHIẾN THẮNG.

12. Vạn vật có thể thay đổi và luôn thay đổi

“Và điều này sẽ nhanh qua đi’ là một trong những câu nói mà tôi yêu thích. Khi chúng ta bị bế tắc ở một tình huống xấu, chúng ta nghĩ rằng sẽ không có lối thoát. Chúng ta nghĩ rằng sẽ không có gì thay đổi. Nhưng đoán thử xem? Nó sẽ thay đổi! Không có gì là vĩnh viễn trừ cái chết.

Vì thế hãy thoát ra khỏi lối mòn của suy nghĩ rằng mọi thứ sẽ mãi mãi như thế này. Chúng sẽ không như thế. Nhưng bạn cần phải làm gì đó để thay đổi mọi thứ. Nó sẽ không tự xảy ra một cách kỳ diệu đâu.

13. Mọi thứ đều có thể

Những điều kỳ diệu xảy ra mỗi ngày. Thực sự là như thế. Tôi ước rằng có đủ không gian để tôi viết ra những điều kỳ diệu xảy ra với những người mà tôi biết – từ việc chữa được ung thư giai đoạn 4 một cách tự nhiên đến việc thấy bạn tri kỷ xuất hiện từ đâu đó.

Tin tôi đi: những chuyện như thế xảy ra suốt ngày. Bạn chỉ cần tin rằng nó sẽ xảy ra. Một khi bạn làm được như vậy, bạn sẽ chiến thắng trận đấu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi cuộc sống khó khăn, hãy nghĩ tới 13 điều này

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Bố trí quầy lễ tân văn phòng đúng phong thủy –

Trong phong thủy, quầy lễ tân thuộc khu vực minh đường. Đây cũng chính là nơi tụ khí. Nếu bố trí hợp lý, công việc kinh doanh sẽ phát triển, hưng thịnh. Màu sắc Khi trang trí, nên dùng màu đỏ hoặc tím để tạo không gian bắt mắt và mang lại may mắn, t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, quầy lễ tân thuộc khu vực minh đường. Đây cũng chính là nơi tụ khí. Nếu bố trí hợp lý, công việc kinh doanh sẽ phát triển, hưng thịnh.

Màu sắc

Khi trang trí, nên dùng màu đỏ hoặc tím để tạo không gian bắt mắt và mang lại may mắn, thuận lợi cho việc kinh doanh của công ty.

Quầy lễ tân kỵ không đặt các đồ vật trang trí có hình tam giác.

0q1

Lối ra vào

Cửa ở lối ra vào chính hay các cửa ra vào khác cần tương xứng với tòa nhà. Nếu dùng cửa 2 cánh, cả hai phải được mở rộng để dòng khí di chuyển vào tòa nhà. Loại cửa xoay giúp luân chuyển năng lượng ở lối ra vào, nhưng chỉ thích hợp với những tòa nhà văn phòng lớn.

q4

Cửa chính phải dễ mở và không được quá nặng nếu không chúng sẽ làm tiêu hao năng lượng cá nhân.

Nếu có cửa sổ đặt đối diện ngay với cửa chính, cần đặt một số cây cảnh để ngăn chặn dòng khí đi vào tòa nhà rồi qua cửa sổ đi thẳng ra ngoài, không kịp luân chuyển bên trong tòa nhà.

Bàn tiếp khách

Khách đến công ty, khi bước qua cửa chính, phải nhìn thấy ngay bàn tiếp khách. Nhưng tránh đặt bàn quá gần hoặc đối diện ngay cửa chính, vì tạp âm có thể gây ảnh hưởng không tốt đến các nhân viên trực tại bàn lễ tân. Ghế ngồi của nhân viên tiếp tân thoải mái, vững chãi, phía sau có tường che chắn.

q5

Khu vực tiếp khách

Luồng khí ở khu vực này được coi là rất quan trọng. Nó luôn phải trong lành và có sự luân chuyển tốt. Vì vậy, quạt máy, cây xanh và những vật trang trí từ nước đóng vai trò khá quan trọng ở đây.

q2

q3

Ở khu vực tiếp khách người ta thường đặt hồ cá. Những con cá nhỏ, linh hoạt, tạo năng lượng tích cực, rất phù hợp với các công ty thương mại. Trong khi những con to, bơi chậm chạp tạo cảm giác an bình lại thích hợp cho các bệnh viện hay phòng mạch.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí quầy lễ tân văn phòng đúng phong thủy –

30 câu nói hay nhất về nghị lực cuộc sống

30 câu nói hay nhất về nghị lực cuộc sống. Cuộc sống của chúng ta rất phức tạp, nhiều khi nó không đơn giản như mình nghĩ
30 câu nói hay nhất về nghị lực cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

30 câu nói hay nhất về nghị lực cuộc sống. Cuộc sống của chúng ta rất phức tạp, nhiều khi nó không đơn giản như mình nghĩ, nó có bao phong ba bão tố mà dường như con người không thể biết trước được.

Cuộc sống nhiều lúc làm chúng ta muốn buông xuôi tất cả, không còn động lực để vượt lên chính mình và đưa đẩy mình vào cuộc sống bế tắc. Nhưng đôi khi, chỉ cần một câu nói, một câu châm ngôn hay là bạn đọc được ở đâu đó những câu triết lí về cuộc sống thì bạn sẽ cảm thấy mình có động lực để làm việc và học tập tiếp.

Qua bài viết này, bạn sẽ cảm nhận được những câu nói hay nhất về cuộc sống. Hãy đọc và suy ngẫm nhé.

30 câu nói hay nhất về nghị lực cuộc sống

1. Nếu tỏ ra khoan dung sẽ có người cho bạn là dễ dãi. Dẫu thế, bạn hãy cứ bỏ qua cho họ.

——-

2. Thành công không tự tại, tự tại không thành người.

———

3. Người chưa từng có nỗi hoảng sợ tuyệt đối không có hy vọng.

——–

4. Những ký ức và kỉ niệm đẹp đẽ sẽ giúp con người vượt qua thách thức của cuộc sống.

——–

5. Thật dễ té ngã khi vấp phải một hòn đá nhưng sẽ rất khó đứng dậy và mạnh dạn bước đi tiếp.

6. Cuộc sống không cho bạn tất cả những gì bạn mơ ước, nhưng cuộc sống cho bạn quyền được lựa chọn ước mơ và quyền được thực hiện nó

7. Thật dễ thốt ra 1 lời hứa với ai đó nhưng sẽ rất khó giữ được lời hứa của chính mình

8. Niềm tin vào chính mình có sức mạnh xua tan bất kỳ hoài nghi nào của người khác

9. Hãy luôn đặt mình vào vị trí của người khác, nếu điều đó làm tổn thương bạn thì nó cũng sẽ làm tổn thương người khác

10. Nếu thật sự muốn yêu thương ta phải học cách tha thứ

11. Thật dễ nói lời yêu thương 1 ai đó nhưng sẽ rất khó làm cho người đó cảm nhận được tấm chân tình của bạn

12. Không có đức tính nào vĩ đại hơn tình yêu không kỳ thị

13. Đừng bao giờ quá bận rộn để quên nói lời “làm ơn” hay “cảm ơn”

14. Tình yêu là sự trao tặng và đón nhận với lòng tự nguyện chân thành nhất

15. Thật dễ làm tổn thương 1 người mà chúng ta hết mực yêu thương nhưng sẽ rất khó hàn gắn lại vết thương đó

16. Bạn trao tặng cho cuộc đời tất cả những gì tốt nhất của bạn, nhưng thường thì người đời vẫn chưa cảm thấy hài lòng. Dẫu thế, bạn hãy cứ trao tặng những gì tốt đẹp nhất

17. Thật dễ đặt ra những nguyên tắc nhưng sẽ rất khó tuân theo những nguyên tắc do chính mình đặt ra

18. Có những lần tình cờ gặp nhau đơn giản chỉ để biết mặt rồi nhanh chóng lãng quên, nhưng sẽ có lúc bạn nhận ra rằng những người bạn gặp trong đời không phải là sự ngẫu nhiên mà là có duyên sắp đặt

19. Có những cuộc tìm kiếm gần như vô vọng, nhưng nhờ có nó, bạn biết được sức mạnh và điều kì diêu của tình yêu

20. Thật dễ bộc lộ những cảm xúc khi chiến thắng nhưng sẽ rất khó nhìn nhận những thất bại của bản thân

21. Có những sai lầm không bao giờ sữa chữa được, nhưng chúng sẽ làm bạn biết suy nghĩ cẩn trọng hơn trước khi đưa ra những quyết định sau này

22. Chính trong lao động và chỉ có lao động, con người mới trở nên vĩ đại và có niềm tin trọn vẹn

23. Thật dễ nuối tiếc về 1 điều gì đó đã mất đi nhưng sẽ rất khó nhận ra và trân trọng những gì ta đang có

24. Đừng bao giờ cau mày hay nhăn mặt thậm chí khi bạn đang buồn, chắc chắn sẽ có ai đó yêu bạn chỉ vì nụ cười của bạn thôi. Với thế giới bạn chỉ là một cá nhân nhưng đối với một ai đó, bạn là cả thế giới

25. Có những ước hẹn mãi chỉ là hẹn ước với 1 người đã ra đi, nhưng nhờ có nó, bạn mới thấy được giá trị của hạnh phúc khi có người trở về

26. Đừng để cuộc sống đi qua mắt bạn chỉ vì bạn đang sống trong quá khứ hay tương lai. Bằng cách sống của mình ngày hôm nay, vào lúc này, bạn đang sống tất cả mọi ngày trong cuộc đời. Hãy sống bằng tất cả tâm hồn, tình cảm của bạn.

27. Nếu tim bạn bị vỡ vụn, hãy can đảm cầm mảnh còn lại đi tiếp con đường của mình.

28. Khi tự nhìn nhận cuộc sống mình đã là hoàn hảo, không còn mục đích lớn lao gì nữa thì có nghĩa là cuộc sống của bạn đang mất đi rất nhiều ý nghĩa

29. Nếu chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài của một người thì có lẽ bạn sẽ thất vọng, nhưng nếu nhìn theo cánh mà bạn mong muốn thì nhất định họ sẽ trở thành người bạn mong đợi

30. Thật dễ phê bình những lỗi lầm của người khác nhưng sẽ rất khó tự hòan thiện nhưng khuyết điểm của chính mình


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 30 câu nói hay nhất về nghị lực cuộc sống

Xem tướng nốt ruồi trên mặt –

Nốt ruồi ai cũng có nhưng nốt ruồi ở vào các vị trí “đắc địa” mới cho ta những thông tin giá trị. Không phải bất cứ nốt ruồi nào ở đâu cũng có ý nghĩa. 1. Có nốt ruồi mầu đen, màu đỏ, màu vàng, xanh. Nốt ruồi phải nổi cao, chủ các điểm đen, bớt không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nốt ruồi ai cũng có nhưng nốt ruồi ở vào các vị trí “đắc địa” mới cho ta những thông tin giá trị. Không phải bất cứ nốt ruồi nào ở đâu cũng có ý nghĩa.

1. Có nốt ruồi mầu đen, màu đỏ, màu vàng, xanh. Nốt ruồi phải nổi cao, chủ các điểm đen, bớt không có ý nghĩa trong phần xem tướng nốt ruồi.

2. Nốt ruồi ở nữ giới có giá trị khác nốt ruồi ở nam giới về ý nghĩa.

Ý nghĩa nốt ruồi ở mặt nữ giới

not_ruoi_nu

1. Lấy chồng sang

2. Nhiều chồng 3. Chú ý khắc cha, mẹ 4. Có bạn quý 5. Nguy hiểm 6. Phòng chồng phản bội 7. Thông minh 8. Có con quý 9. Bỏ chồng 10, 13. Khóc chồng 11. Thông minh 12. Tai nạn 14. Thích ngao du 15. Sinh đôi 16. Nhiều chồng 17. Thủy nạn 18. Bệnh tật 19. Ít xa quê 20. Sát chồng

Ý nghĩa nốt ruồi ở nam giới.

not_ruoi_nam

1, 2. Chú ý cha, mẹ

3. Quan chức 4. Thông minh đa tài 5. Tán gia sản 6, 7. Quan chức 9. Ðại cát 10. Mau nước mắt 11. Dâm đãng 12. Không tốt 13, 14. Không con 15. Gian 16. Thông minh 17. Lộc tài tốt 18. Cô đơn 19. Không có người giúp việc tốt 20. Thông thái, hay ăn 21. Hay rượu Chè

22. Quan to.

Nốt ruồi thuộc “Duy biến”, người có tư nhất tốt thì sinh ra nốt ruồi quý hiếm, người mà tư chất xấu thì sinh nhiều nốt ruồi xấu. Nó bắt đầu xuất hiện theo thời vận. Nốt ruồi không có ở trẻ sơ sinh. Tướng nốt ruồi cho rằng nốt ruồi tượng trưng cho một mô đất xấu. Vì thế nếu nó mọc chỗ kín thì được, nó mọc chỗ lộ liễu thì không hay, nó ở các đường giao tiếp các bộ phận của mặt là sự trở ngại. Nốt ruồi mọc ở nơi khó thấy như: tóc, mày, râu, tóc mai, thì tốt. Mặt không có nốt ruồi thì tốt và trong người không có nốt ruồi thì xấu, vì trong người toàn là chỗ kín.

Màu sắc nốt ruồi có nhiều kiến giải.

– Nốt ruồi đen thì phải như mụn sinh ở chỗ lộ liễu thì quá xấu, nó đem đến điều chẳng lành. Nhưng nếu nó ở chỗ kín thì lại nhiều điều cát hơn hung. Nốt ruồi này mà ở mặt thì bất lợi. – Nốt ruồi đỏ thì phải đỏ như son mới tốt. Và tất nhiên nó phải ở nơi kín bị lấp mới tốt. – Nốt ruồi đen mà pha trắng thì hay có việc lo sợ tai ách. – Còn pha màu đỏ: Thì sẽ gặp nhiều lời hay tranh biện. – Có pha màu vàng: Hay quên, bỏ mất đồ đạc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng nốt ruồi trên mặt –

Mơ thấy chiếc lược chải tóc: Giải tỏa phiền muộn và lo lắng –

Tóc tượng trưng cho phiền muộn, chiếc lược chải tóc là hình ảnh giải thoát mọi phiền muộn và lo lắng. Mơ thấy mình dùng lược chải tóc nghĩa là sẽ gặp vận may, phiền muộn và lo lắng tự động tiêu tan, cơ thể khỏe mạnh, mọi việc thuận lợi. Nếu mơ thấy c
Mơ thấy chiếc lược chải tóc: Giải tỏa phiền muộn và lo lắng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chiếc lược chải tóc: Giải tỏa phiền muộn và lo lắng –

Xăm bùa chú hộ mệnh liệu có giúp mang lại may mắn?

Người ta xăm bùa chú với nhiều mục đích khác nhau, người thì cầu khỏe mạnh, phát tài, kẻ lại mong muốn đối thủ khổ sở, khó khăn. Hình xăm bùa chú liệu có mang
Xăm bùa chú hộ mệnh liệu có giúp mang lại may mắn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người ta xăm bùa chú với nhiều mục đích khác nhau, người thì cầu cho bản thân khỏe mạnh, phát tài, kẻ lại mong muốn đối thủ khổ sở, khó khăn.


► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật
  Dân chơi bùa chú có 1.001 kiểu “tu luyện” hòng được “đao thương bất nhập”, trừ tà trấn quỷ hay các thế lực âm binh. Lại có người xăm bùa chú để được may mắn trong chuyện làm ăn, hanh thông về đường tình duyên hoặc nhu cầu tự thân gì khác. Nói chung là phần lớn người ta chơi bùa chú là để hộ mạng.

Xam bua chu ho menh lieu co giup mang lai may man hinh anh 2
Nữ diễn viên nổi tiếng Angelina Jolie lúc được xăm tại Thái Lan

 
Trong thế giới bùa chú, có người thần tượng móng gấu, nanh cọp, có người thích các cổ vật kỳ quái có nguồn gốc sừng voi, sừng tê… hay các lá bùa được viết bằng mực tàu trên giấy đỏ. Không dừng lại ở đó, những năm gần đây, ngày càng nhiều dân bùa chú chịu chơi lặn lội sang Thái Lan hay Campuchia để được xăm những mật đồ, ký tự cổ xưa.   1. Người nói cho tôi biết cái thú xuất ngoại xăm bùa chú hộ mạng là ông Vượng, 56 tuổi, ngụ đường Lý Chính Thắng, quận 3, TP HCM. Trên cơ thể mình, ông Vượng xăm chi chít bùa chú và từ chia sẻ của tay chơi bùa hộ mạng này, tôi ghi nhận nhiều chuyện ly kỳ trong thế giới của những tay chơi bùa chú!   Ông Vượng cho biết, ông đã dành rất nhiều năm nghiên cứu các tài liệu nói về bùa ngải và qua quá trình điền dã tại các vùng sơn linh từng tập trung đông giới  đạo sĩ, cao nhân ở miền Thất Sơn huyền bí (An Giang) và núi Tà Lơn (Campuchia), nên ông rất rõ rành chuyện bùa chú cũng như các thuật thư ếm Cao Miên. Nhiều năm trước, qua tiếp cận với các đạo sĩ, ví như ông Ba Lưới ở núi Cấm (huyện Tri Tôn, An Giang), ông Nek Phum ở núi Tà Lơn, tôi được lĩnh hội từ các vị đạo sĩ này, kể cả các bậc cao niên sống quanh vùng nhiều chuyện bùa chú ly kỳ.   Theo đó, nhiều cao thủ bùa chú tài năng đến độ có thể làm phép thư ếm cho ai đó đau bệnh và chết, hay bỏ bùa làm cho người ta mất hết thần trí dẫn đến khùng điên? “Mười năm trước có vị cao niên như Mười Đền ở dưới chân núi Phụng (một trong 7 ngọn núi hợp thành dãy Thất Sơn huyền bí) nay đã là người thiên cổ từng tiết lộ những kiểu luyện bùa ngải cùng phép trù ếm người kỳ quái” – ông Vượng ra chiều bí mật.   Theo lời kể ấy, muốn có năng lực trù ếm người khác đau bệnh hay chết trong đau đớn, người luyện chỉ ăn toàn đồ dơ như rác rưởi, đờm dãi…(?!) Trong quá trình tu luyện, họ cứ lầm lũi đi vào các bãi tha ma, miệng lẩm bẩm đọc niệm các câu thần chú có từ ngàn xưa được truyền miệng qua bao đời thuật sĩ. Họ cũng được cho là thường xuyên xuất thần tiếp xúc với các thế lực âm binh mà ta quen gọi ma quỷ để có thể sai phái hoặc nhờ chúng nhập vào người mình những khi muốn trừ diệt hay quấy phá ai đó?   Kỳ thực những chuyện luyện bùa chú thư ếm như thế tôi từng được lão đạo sĩ thọ bách niên giai lão Ba Lưới kể cho nghe từ nhiều năm trước. Ông tên thật là Nguyễn Văn Y (hiện ngụ ấp Thiên Tuế, xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, An Giang). Ở tuổi 102, ông Ba Lưới là huyền thoại sống cuối cùng ở Thất Sơn. Nhắc đến ông là nhắc đến các bài thuốc bí truyền, đến thế võ Bình Sa Lạc Nhạn, cùng những lần đả hổ hay giao đấu với rắn hổ mây khổng lồ…   Còn nhớ 7 năm trước, khi đến Thất Sơn tìm hiểu về dây huyết rồng – một loại cây thuốc quý nhưng nay đã tuyệt chủng ở dãy Thiên Cấm Sơn, ông Ba Lưới đã bật mí cho phóng viên đôi điều về chuyện bùa ngải Cao Miên. Ông bảo suy cho cùng, chuyện bỏ bùa bỏ ngải chính là đánh thuốc mê – hạ độc. Nhưng nhiều kẻ mông muội, ấu trĩ cứ nghĩ đó là quyền năng nên làm điều tà đạo, ví như luyện tà thuật Thiên Linh Cái bằng cách giết các cô gái đồng trinh… để có được quyền năng sai khiến âm binh. Những kẻ như thế, đắc đạo đâu chưa thấy, chỉ biết khi vụ việc bị phát hiện đã mang tiếng là kẻ sát nhân, bị pháp luật trừng trị thích đáng!   Nhắc lại chuyện xưa, tôi không hề có ý làm ông Vượng “quê độ”, mà chỉ là chia sẻ quan điểm của mình về chuyện bùa chú, thư ếm mà tôi tin không có thật. Được cái ông Vượng không phải là người bảo thủ hay cố chấp. Ông bảo tin hay không là chuyện của mỗi người. Riêng ông, ông rất tâm đắc lời giải thích của cụ Ba Lưới qua lời tôi thuật lại: “Nói thật tôi lao vào tìm hiểu sự huyền bí của bùa chú, các yêu thuật, tà thuật xem nó vi diệu, bí ẩn đến cỡ nào. Và những gì tôi lượm lặt, ghi nhận được thì đó là những trầm tích văn hóa cổ xưa, nó gắn với đời sống tâm linh của người xưa, trong từng giai đoạn lịch sử…”.   2. Trên cơ thể ông Vượng xăm chi chít những họa tiết, câu chú, ký tự bí hiểm mà theo ông được người Thái và người Khơmer lưu truyền từ hàng ngàn năm qua: “Mỗi loại bùa, mỗi câu chú, mỗi ký tự có ý nghĩa khác nhau, nếu phân tích, kể ra thì dài dòng lắm. Thôi thì mỗi người có đức tin khác nhau, tôi xăm vì tôi thấy thích, vậy thôi. Nhưng cũng có những tay xăm để mong được hộ mạng, để trừ tà này nọ…”.

 
Xam bua chu ho menh lieu co giup mang lai may man hinh anh 2
Một số bùa chú sak yant trên cơ thể người Thái
  Dân chơi bùa chú muốn xăm bùa thì phải đến xứ bùa để được người nơi đó xăm, như vậy mới ý nghĩa và hiển linh. Ví như cái hình xăm mật đồ này, ông được một vị sư ở ngôi chùa được người Việt mình gọi là chùa Ngải ở quận ngoại thành Miêng-Chay tự tay xăm cho. Còn những ký tự Khơmer cổ này ông nhờ một thợ xăm mình người Việt là Hải. Anh chàng này là dân mê bùa chú thứ dữ, hành nghề xăm mình ở phố Tây tại Phnôm Pênh, đoạn khu vực ngã 3 đại lộ Peah Ang Hassakan (St 144) và Oknha In (St 9136), Campuchia.   Tôi lần theo địa chỉ mà ông Vượng cung cấp tìm đến anh chàng tên Hải chuyên xăm bùa chú ở phố Tây thủ đô Phnôm Pênh. Chúng tôi gặp nhau tại khách sạn Europe Guest House, số 51 Eo, St 136 đường Sangkat Phsa Kandal1. Trò chuyện, Hải cho biết mình năm nay 36 tuổi, có thâm niên nghiên cứu bùa chú Thái Lan và Campuchia hơn 5 năm qua: “Ngày trước tôi là thợ xăm mình ở phố Tây Sài Gòn trên đường Phạm Ngũ Lão, quận 1. Bận nọ có mấy ông khách phương Tây đến hỏi tôi rằng Việt Nam có các loại bùa chú gì thì giới thiệu cho họ biết để họ xăm… nhưng tôi mù tịt. Hỏi ra tôi mới biết các vị khách đó rất mê huyền thuật phương Đông, đặc biệt là bùa chú ở Thái Lan và Campuchia. Thấy lạ nên tôi dấn sâu tìm hiểu và rồi đam mê lúc nào không biết”.   Vì đam mê nên Hải sang Bangkok, ghé khu Khao Sản, khu phố Tây sầm uất nhất thủ đô của “Vương quốc Chùa Vàng”, tìm hiểu thế giới bùa chú cũng như các kỹ năng xăm bùa trên cơ thể người: “Xứ Thái đúng là thiên đường của các loại bùa chú. Người Thái có tập quán xăm phép thiêng liêng gọi là “sak yant”, nghĩa là xăm những họa tiết, ký tự thiêng linh, xem như đó là loại bùa hộ mệnh!”.   Hải kể rất nhiều về sak yant như theo lệ xưa, thực hiện việc xăm mình là các vị sư, người được xăm là các chiến binh và việc xăm sak yant như thế được thực hiện ở các ngôi chùa. Về sau, do nhu cầu của du khách gần xa, việc xăm sak yant được mở rộng, không chỉ người Thái mà bất kỳ du khách nào có nhu cầu cũng được các thợ xăm mình ở Thái xăm họa tiết, ký tự bí ẩn cổ xưa lên phần trên cơ thể (tính từ thắt lưng trở lên-PV): “Sau hơn 3 năm nghiên cứu, học hỏi, khổ luyện, tôi xăm sak yant rất điêu luyện. Gọi là khổ luyện bởi các ký tự sak yant rất phức tạp, thợ xăm mình ở Việt Nam có giỏi mấy khi nhìn vào họa tiết hay ký tự của sak yant sẽ không bao giờ xăm đúng xăm đẹp, thậm chí xăm sai số sai chữ nếu không rành tiếng Thái và cả tiếng Campuchia”.   Là người ngoại đạo nên dù được Hải nhiệt tình khai mở tôi vẫn có cảm giác rơi giữa mê hồn trận của thuật xăm bùa chú, nhất là khi được Hải giải thích rằng trong thế giới sak yant, các ký tự, hình xăm cổ xưa được chia thành nhiều trường phái, người xăm để may mắn an lành (choke-laap), xăm cho đao thương bất nhập, xăm để đánh thắng đối phương (mah-jong-ngan), trừ diệt ma quỷ… hay xăm để vô hình trước kẻ thù (kong krapan)(?).   “Bùa chú sak yant hấp dẫn và có tầm ảnh hưởng đến toàn thế giới và đó là lý do mà nữ diễn viên điện ảnh Angelina Jolie đã lặn lội đến Thái Lan để được bậc thầy xăm sak yant là Noo Kanpai xăm 5 dòng chữ ma thuật gọi là hah taew là dòng chữ thiêng cầu may mắn cũng như sức khỏe cho bản thân và gia đình. Kỳ thực như các phái xăm khác, hah taew suy cho cùng là thứ bùa hộ mệnh vì khi hiện hình trên cơ thể ai đó, nó tiềm ẩn những thế lực siêu nhiên. Tất nhiên, nếu anh tin điều đó!”- Hải bộc bạch.   3. Những năm gần đây, khi phong trào xăm mình với tên gọi mỹ miều là Tattoo hay “xăm nghệ thuật” trỗi dậy thì trào lưu dân chơi Việt xuất ngoại xăm bùa chú xứ Xiêm La và nhất là Cao Miên ngày càng nhiều. “Đào sâu nghiên cứu về sak yant, tôi phát hiện ra rằng thuật xăm bùa sak yant bắt nguồn từ thời Angkor do đó các dòng chữ, ký tự được viết theo dạng chữ Phạn (chữ Khơmer cổ – PV) nên tôi rời Bangkok qua Campuchia tầm sư học đạo”- Hải tiếp tục mạch chuyện.   Sau gần 4 năm miệt mài “tu luyện”, Hải được dân mê bùa chú biết chuyện ví như là tự điển sống về bùa chú Xiêm La và đặc biệt là bùa chú xứ Cao Miên: “Rất nhiều người nhầm lẫn giữa bùa chú với bùa ngải. Người bảo bùa có tính hộ mệnh, còn ngải dùng thư ếm hại người? Kẻ bảo đều là một, tùy người dùng, dùng vào việc thiện thì hữu ích cho người nhưng sử dụng vào điều ác thì gây nhiều tác hại khôn lường? Kỳ thật bùa ngải hay bùa chú là một dạng tín ngưỡng trong đời sống tâm linh của người Khơmer.   Hải giải thích rằng “Mong ước điều tốt lành thì là ma thuật trắng. Ý đồ hại người thì tìm đến ma thuật đen. Nhưng chuyện đó cũng mỗi người có một cách hiểu, có cách nhìn nhận, đánh giá và đúc kết khác nhau. Riêng tôi chỉ chú trọng tìm hiểu về những bùa chú xăm trên cơ thể người mà thôi. Quá trình tìm hiểu cho tôi biết các câu chú, ký tự Khơmer cổ được thực hiện bởi những người đàn ông lớn tuổi, đã qua tu học tại nhiều ngôi cổ tự, có kiến thức sâu rộng cũng như am tường phong tục, truyền thống cổ xưa của dân tộc mình. Những người này tiếng thổ ngữ gọi là krou-tạy, rất được cộng đồng nể trọng!”.   Dân đam mê bùa chú Cao Miên như Hải tin rằng các krou-tạy có thể tạo các lá bùa hay xăm bùa chú trừ bệnh, bùa yêu, bùa trừ tà… Ngoài ra các krou-tạy cũng có thể hiểu được ý nghĩa của những câu chú bằng tiếng Phạn hay các ký tự, hình ảnh có từ hàng ngàn năm trước mà nhiều câu chú, ký tự, hình ảnh đó hiện vẫn còn hiện hữu tại đế chế đá Angkor ở Xiêm Riệp…   Để tôi có thể hình dung được rõ hơn thuật xăm bùa chú Cao Miên, Hải nhiệt tình đưa tôi đến một ngôi chùa mà anh này dứt khoát không cho tôi biết tên, cũng không nói rõ địa chỉ vì sợ rằng khi câu chuyện được tiết lộ, dân bùa chú sẽ tìm đến tầm sư làm ảnh hưởng, đảo lộn đến việc tu tập của vị sư mang trên mình nhiều câu chú ngàn năm tuổi!   Từ phố Tây, sau hơn 1 giờ đồng hồ len lỏi hướng về quận ngoại thành Miêng Chay, sau vô số lần cua quẹo như để tôi quên đường, Hải dừng lại tại một ngôi chùa Khơmer đồ sộ với mái cong vút, bên trong có nhiều tượng Phật khổng lồ được dát vàng. Tại đây, sau khi Hải đến lạy lễ và nói bằng tiếng Khơmer, một vị sư đã vui vẻ cởi tăng y cho tôi xem những hình xăm kỳ bí ở ngực, lưng, bả vai của mình. Đó là những hình đền tháp, những dòng chữ với hình thù ma quái… Tất cả được xăm bằng mực tàu, rõ nét. Vị sư cho biết mình xăm những bùa chú ấy tại một ngôi chùa ở Angkor!   Muốn xăm những hình này phải căn cứ vào cấp bậc. Chỉ cần xem những ký tự bùa chú kia thì người trong giới biết được đẳng cấp, đường tu luyện của người xăm chú!   Vị sư không biết nói tiếng Việt, lại không muốn nói quá nhiều về những câu chú, ký tự trên da thịt mình nên tôi dù muốn tìm hiểu thêm cũng đành chịu. Chỉ biết rằng theo tâm tình của Hải, mỗi người, mỗi giới tuy có cách nhìn nhận khác nhau về chuyện xăm bùa nhưng theo tập tục xưa và trong tín ngưỡng của người bản xứ, việc xăm bùa như thế suy cho cùng đều hướng tới những giá trị nhân văn, tốt đẹp, giúp người xưa có thêm sức mạnh, vững tin hơn vào sự hỗ trợ, bảo vệ của các thế lực siêu nhiên trong cuộc sống hằng ngày, trong việc đối chọi với nhiều hiện tượng tự nhiên như sấm sét, đại hồng thủy, nạn lở đất… mà ngày xưa họ chẳng thể giải thích được. Đây đích thực là dấu ấn văn hóa Khơmer đặc sắc.

ST.


Những bí ẩn khó hiểu về bùa yêu xứ Mường Thực hư phương pháp dùng bùa thuật trị bệnh trong dân gian Tìm hiểu văn hóa bùa chú trong tâm linh người Việt

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xăm bùa chú hộ mệnh liệu có giúp mang lại may mắn?

Các ngày “Địa hỏa” (xấu) cần lưu ý –

Tháng Giêng kỵ ngày Tuất Tháng Bảy kỵ ngày Tị Tháng Hai kỵ ngày Dậu Tháng Tám kỵ ngày Mão Tháng Ba kỵ ngày Thân Tháng Chín kỵ ngày Dần Tháng Tư kỵ ngày Mùi Tháng Mười kỵ ngày Sửu Tháng Năm kỵ ngày Ngọ Tháng Mười một kỵ ngày Tý Tháng Sáu kỵ ngày Tị T

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

73bd5f20560cdc37918ab6895a0eaaa6

  1. Tháng Giêng kỵ ngày Tuất
  2. Tháng Bảy kỵ ngày Tị
  3. Tháng Hai kỵ ngày Dậu
  4. Tháng Tám kỵ ngày Mão
  5. Tháng Ba kỵ ngày Thân
  6. Tháng Chín kỵ ngày Dần
  7. Tháng Tư kỵ ngày Mùi
  8. Tháng Mười kỵ ngày Sửu
  9. Tháng Năm kỵ ngày Ngọ
  10. Tháng Mười một kỵ ngày Tý
  11. Tháng Sáu kỵ ngày Tị
  12. Tháng Chạp kỵ ngày Hợi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các ngày “Địa hỏa” (xấu) cần lưu ý –

Người xem nên chú ý

Thuật số là phép mầu nhiệm, biến hoá huyền vi, cho nên kinh Chu Dịch là sách bói toán, mà đức Khổng Tử dạy rằng: "Dịch là biến dịch". Nghĩa là dương biến âm, âm biến dương. Cát biến hung, hung biến cát, tương thể đều biến hoá không chừng. Nay hãy dẫn mấy câu chuyện thường làm tỷ lệ như sau này:
Người xem nên chú ý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thuật số là phép mầu nhiệm, biến hoá huyền vi, cho nên kinh Chu Dịch là sách bói toán, mà đức Khổng Tử dạy rằng: "Dịch là biến dịch". Nghĩa là dương biến âm, âm biến dương. Cát biến hung, hung biến cát, tương thể đều biến hoá không chừng. Nay hãy dẫn mấy câu chuyện thường làm tỷ lệ như sau này:

1- Có người trở đi buôn bán tha phương, tới thầy bói xem quẻ cầu tài bản mệnh, thầy độn quẻ gặp hào Cửu ngọ quẻ Càn, hào từ rằng: "Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân". Nguyên nghĩa là: Rồng bay tại trên trời, lợi về được gặp đứng đại nhân. Đó là tượng đứng minh quân, ngự ngôi đại bảo, lợi về gặp được trang lương thần phò tá. Thầy bói  nghĩ thầm trong bụng rằng: "Một người lái buôn tầm thường, làm gì mà ứng được tướng đó". Bèn đoái trái đi rằng: "Anh đi buôn bán qua nơi núi rừng, hay là tới chỗ đô thị, khá tua giữ gìn cẩn thận kẻo e xúc phạm vị quyền quý lớn, hay là chàng ngộ đám đạo tặc lớn nào mà bị hại". Sau người ấy đi quả nhiên bị cướp giết lấy của. Đó là cát biến ra hung.

2- Lại một người kia có vợ bị bệnh, tới thầy bói xem quẻ gia sự bản mệnh. Thầy độn quẻ gặp hào Lục nhị quẻ Ly, hào từ rằng: "Nhập kỳ cung, bất kiến kỳ thê hung". Cứ nguyên nghĩa là: Vào phòng của mình, chẳng thấy vợ của mình, là điềm xấu. Vợ đau mà xem bói gặp tượng như vậy, thì chắc số chết mười phần. Song thầy bói xét cung số của vợ người ấy thì mệnh chưa hết, bèn đoán trái đi mà cắt nghĩa luôn xuống chữ Hung rằng: "Vào cung của mình, chẳng thấy điềm xấu của vợ mình". Sau vợ người ấy quả nhiên hết bệnh, mạnh giỏi như thường. Đó là hung biến ra cát.

Ấy đại phàm các phép thuật số cả đều huyền ảo như vậy, hễ gặp tượng tốt mà phận lạng mình không đương nổi thì biến ra xấu, hễ gặp tượng xấu mà lý - thế mình không phải chịu, thì biến ra tốt. Cho nên tuy rằng trong sách có lời quyết đoán lập thành, mà linh nghiệm còn do tại người cao đoán, dầu gặp quẻ tốt, quẻ xấu chừng nào mặc lòng, phải tuỳ xem địa vị, tư cách, phận lạng, hay là cảnh ngộ, chủng loại của cá nhân (cái người ấy) mà đoán, thì mới linh nghiệm.

Giả tỷ như xem cầu danh, ở người thượng lưu thì công hầu khanh tướng là công danh phú quý, nếu ở người trung lưu sắp xuống, thì gọi là có chút phẩm hàm đối với Nhà nước, hay là chút vị thứ đối tổng làng cũng là công danh phú quí - Xem cầu tài, ở nhà đại tư bản thì được phần lợi thức ngàn muôn ức triệu là phát tài; nếu ở người làm ăn buôn bán tầm thường thì dầu được phần lợi tức năm tiền một quan, hay là may mắn hơn khoảng trước cũng là phát tài. Cho nên người thường mà xem gặp quẻ cực phẩm phú quí thì chỉ nên đoán là làm nên người đàn anh nhất làng; gặp quẻ tài nguyên phát đạt thì chỉ nên đoán là làm được thừa ăn thừa tiêu là cùng. Lại như đàn bà mà xem gặp tượng quẻ đàn ông, thì cung Thê thiếp phải đem đoán làm cung Phu quân; đàn ông mà xem gặp tượng quẻ đàn bà, thì cung Phu quân phải đem đoán làm cung Thê thiếp, đó là dương biến âm, âm biến dương. Còn sự tốt hay là xấu, nên hay là hư, lớn hay là nhỏ dường nào, hợp với địa vị, tư cách, phận lạng hay cảnh ngộ và chủng loại thì cứ y lời lập thành mà đoán; nên không hợp thì đều phải tuỳ nghi quyết đoán .v.v... như vậy thì mới gọi là "Biến thông tận lợi" chứ không nệ sách mà cố chấp nhất định được.

Phép xem bói, xem số, xem tướng, đoán mộng cũng như vậy hết cả.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người xem nên chú ý

Chùa Hưng Long - Hà Nội

Chùa Hưng Long được khởi dựng năm 1011, năm Thuận Thiên thứ 2 (Tân Hợi) do chính vua Lý Thái Tổ ban chiếu và cấp tiền để xây dựng.
Chùa Hưng Long - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Hưng Long hay còn gọi là chùa Long Hưng, chùa Hưng Hóa, chùa Nhót, chùa Phù Liệt, chùa Đông Phù… tất cả các tên gọi đó đều là ngôi chùa cổ Hưng Long. Chùa tọa lạc tại xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội ngày nay.

Chùa Hưng Long được khởi dựng năm 1011, năm Thuận Thiên thứ 2 (Tân Hợi) do chính vua Lý Thái Tổ ban chiếu và cấp tiền để xây dựng. Đời vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072) đã có hai vị công chúa là Lý Từ Thục và Lý Từ Huy cùng hai vị thị giả Quỳnh Hoa, Quế Hoa đã về chùa Hưng Long xuất gia đầu Phật và thu thần thị tịch tại Lăng Liên Hoa (cách chùa Hưng Long 1km) vào ngày 15/3 năm Ất Hợi, niên hiệu Hội Phong thứ 4, năm 1095 đời vua Lý Nhân tông với đạo hiệu Đại Thánh Bồ Tát Lý Từ Thục và Đại Thánh Bồ Tát Lý Từ Huy từ đây trở thành Thánh Tổ của chùa (nhân dân địa phương thường gọi là Nhị vị Bồ Tát).

Hàng năm vào ngày 14,15 và 16 tháng 3 âm lịch, nhân dân các làng Đông phù, Đông Trạch, Mỹ Ả, Chanh Khúc, Văn Uyên, Tương Trúc, Tự Khoát, Mỹ Liệt và Ninh Xá tổ chức mở hội tri ân công đức, công lao của hai vị công chúa nhà Lý đã cấp đất cho người dân sản xuất, dạy dân làm nghệ phụ lúc nông nhàn.

Chùa Hưng Long được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa năm 1990 và được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội công nhận là di tích cách mạng năm 2004.

Trải qua 1000 năm tồn tại và phát triển, chùa Hưng Long luôn nhận được sự phát tâm công đức của nhiều Phật tử. Tháng 9 năm 2008, nhà chùa phối hợp với UBND xã cùng các phòng ban chức năng của huyện Thanh Trì và thành phố Hà Nội tổ chức quy hoạch tổng thể các hạng mục công trình tại chùa Hưng Long. Ngày 08 tháng Giêng năm Kỷ Sửu (2009) nhà chùa đã chính thức tổ chức khởi công trùng tu, tôn tạo toàn thể các công trình, đến tháng 11 năm 2009 đã cơ bản hoàn tất các hạng mục công trình, đưa vào sử dụng để nhân dân đón tết Canh Dần.

Kiến trúc của chùa mang đậm nét truyền thống của ngôi cổ tự miền Bắc theo kiến trúc nội công ngoại quốc, tiền Phật hậu Thánh.

Tòa Tam Bảo hay còn gọi là Đại Hùng Bảo điện hoặc gọi là chính điện là nơi tôn trí thờ Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng. Chính điện gồm có 07 gian nhà tiền đường và hậu cung. Tiền đường thờ hai tượng Hộ Pháp, tượng Tuyết Sơn và Quán Thế Âm Bồ Tát tọa sơn. Nối tiếp tiền đường là hậu cung: Trên cùng là Phật Tam Thế (biểu trưng cho quá khứ, hiện tại và tương lai). Tiếp theo là Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát. Kế tiếp là Phật thích ca Mâu Ni, Thánh Tăng A Nan và Thánh Tăng Ca Diếp. Tượng Bồ Tát Chuẩn Đề 24, tay được đặt chính giữa ở bên tiếp theo và sau cùng là tòa tượng Cửu Long.

Tả hữu hậu cung là thờ Quán Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Bồ Tát Tống Tử, Bồ Tát Nam Hải, Thánh Tăng, Thổ địa và Thập điện.

Điểm đặc biệt ở chùa Hưng Long là ban thờ tượng Đức Ông và Đức Thánh Hiền được bố trí ở gian cuối của hai giải vũ, như hai dãy hành lang kéo dài bao bọc xung quanh hậu cung chính điện và nhà thờ Nhị vị Bồ Tát Đại Thánh. Kế tiếp đó là 5 gian (chữ nhị) thờ Thánh Mẫu tạo thành kiến trúc “nội công ngoại quốc” “tiền Phật hậu Thánh”, đây là một nét kiến trúc đặc biệt của ngôi cổ tự Hưng Long.

Nhà Chương (là Điện thờ Nhị vị Bồ Tát và thị giả Quỳnh Hoa, Quế Hoa ) được bố trí trang trọng sau tòa hậu cung Tam Bảo. Với 03 gian tiền đường và 03 gian hậu cung. Theo các sắc phong của các triều đại trước đây thì Nhị vị Công chúa được tôn vinh là Đại Thánh Bồ Tát, nhị vị Thị giả được tôn vinh là Thượng đẳng Thần.

Nhà thờ Thánh Mẫu được bố trí kế tiếp sau nhà thờ Nhị vị Đại Thánh Bồ Tát, gồm có 05 gian tiền đường và 05 gian hậu cung (kiến trúc chữ nhị). Các ban thờ trong nhà Mẫu gồm có: Thánh Mẫu; Sơn Trang Tiên Chúa; Ngọc Hoàng – Nam Tào – Bắc Đẩu; Đức Thánh Trần; Tôn Ông; Quan Lớn; Tượng Cô; Tượng Cậu và Hạ ban Ngũ Hổ.

Tổ đường gồm có 7 gian (kiến trúc chữ nhị), ban thờ chính giữa là thờ tượng Phật, Bồ Tát và Thánh Tăng. Ban thờ bên là thờ Tổ Tăng, Tổ Ni và thờ Tứ Ân. Nhà thờ tổ cùng với dãy nhà Tăng, phòng khách và giải vũ bên trái chùa đã tạo thành một quần thể khép kín khu vực nội tụ, thuận lợi cho việc tổ chức sinh hoạt Phật sự của tăng ni, Phật tử.

Hoành phi câu đối cửa võng Chùa Hưng Long được làm bằng gỗ, nên mỗi cột, mỗi gian nơi thờ chính đều có câu đối, cửa võng, hoành phi.

Nhà tăng – phòng khách Nhà Tăng và phòng khách là một dãy nhà gồm 12 gian, gồm có 06 phòng nghỉ và 06 phòng tiếp khách chạy dài 50 m, được bố trí bên trái chùa, phối hợp với hệ thống tường bao tạo thành khu vực nội tự khép kín bên trong.

Tượng đá ở ngoài sân giữa ao vuông bên trái chùa là tượng Phật A Di đà ở tư thế đứng làm bằng đá xanh trắng, cao hơn bệ đá 5m. Giữa ao tròn bên phải chùa là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát làm bằng đá trắng đục, cao hơn 4m.

Cổng chùa có 03 cổng ra vào, đây cũng là sự khác biệt so với chùa trong khu vực. Cổng Tam Quan được bố trí ở phía trước chùa, kết cấu xây bằng gạch nung Bát Tràng có niên đại hơn 300 năm.

Sân chùa có không gian sân rộng nên hàng năm có hàng vạn Phật tử về dự hội vào tháng 3 âm lịch. Sân trước và sân sau chùa, lối đi cổng tam quan có diện tích hơn 2.000 m2, được lát toàn bộ bằng đá tự nhiên.

toàn cảnh chùa
Toàn cảnh của ngôi chùa

Nhà chuông, nhà trống và vườn tháp nằm phía trước sân chùa với kiến trúc cổ kính mái đao cong 8 mái, kiến trúc thường gặp ở những nơi cổ tự khu vực phía Bắc. Nối tiếp là 5 Bảo tháp làm bằng gạch nung Bát Tràng, kiến trúc hài hòa như những ngôi bảo tháp xưa.

Trải qua quá trình hình thành và biến thiên của lịch sử, những cổ vật thời Lý hầu hết không còn nguyên vẹn. Trong quá trình trùng tu các hạng mục công trình của chùa, đã phát lộ những nền móng cũ của chùa với đặc trưng của nhiều niên đại. Trong đó có những viên gạch vồ (loại gạch rộng và dày) được chạm khắc tinh xảo các hình rồng, voi, ngựa, hoa sen, lá dừa mang dấu ấn thời nhà Lý và nhà Trần, cũng như một số câu đối ca ngợi chùa Hưng Long và đức hạnh tu tập của Nhị vị Công chúa nhà Lý.

Chùa Hưng Long hiện còn lưu giữ được một số cây có tuổi thọ trên 700 năm như cây hoa đại, cây nhãn, cây mít.

Ngày 16/4/2011 vừa qua chùa Hưng Long đã tổ chức lễ kỷ niệm tròn 1000 năm xây dựng, phát triển chùa và lễ hội truyền thống tri ân công đức nhị vị Bồ Tát.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hưng Long - Hà Nội

Ý nghĩa sao Mộ trong Tử Vi - Chủ sự nghiệp quả

Tìm Hiểu về Ý nghĩa sao Mộ trong Tử Vi, sao Mộ là một sao thuộc chòm sao hung tinh thuộc hành Thủy. Sao Mộ chỉ sự đần độn, chậm tối, u mê. Chủ sự nghiệp quả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Mộ trong Tử Vi - Chủ sự nghiệp quả

Ý nghĩa sao Mộ trong Tử Vi - Chủ sự nghiệp quả

Ý nghĩa sao Mộ trong Tử Vi

Sao Mộ chỉ sự đần độn, chậm tối, u mê. Chủ sự nghiệp quả.

Cung mệnh có sao Mộ tọa thủ là người đần độn, nếu có sao Hao thì chết. Sao Mộ cư Sửu, Mùi phùng Thái, Tọa: văn mộ, võ lược kiêm toàn. Mộ, Không giáp Mệnh (Mộ lạc hoang sơ): Rất xấu. Mộ, Đào, Cái: hoang dâm, dâm dục.

Cung tử tức có sao Mộ: khắc với con cái.

Cung tài bạch có sao Mộ, Long, Phượng: gia tộc giàu sang. Mộ, Hóa, Lộc: tiền của đến tận tay.

Cung phúc đức có sao Mộ: sống thọ.

Cung Tật Ách có sao Mộ tọa thủ gặp Kình, Hình, Triệt: bị sét đánh. Mộ gặp Cái, Hay Mộ Diêu là người hay Thủ Dâm.

Hạn thấy Mộ, Hổ, Phục, Hình, Phù, Bệnh, Hao, Kiếp: tất phải chết. Mộ gặp Thái Dương: Cha bị bệnh tật. Mộ gặp Tả, Phù: Thời vượng phát.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Mộ trong Tử Vi - Chủ sự nghiệp quả

Các lễ hội ngày 29 tháng 2 Âm Lịch - Lễ Hò Khoan

Lễ Hò Khoan được tổ chức định kì hàng năm vào ngày 29 tháng 2 âm lịch tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 29 tháng 2 Âm Lịch - Lễ Hò Khoan

Các lễ hội ngày 29 tháng 2 Âm Lịch - Lễ Hò Khoan

Lễ Hò Khoan

Thời gian: tổ chức vào ngày 29 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Nội dung: Hàng năm, cứ đến ngày hội lễ hò khoan người dân Lệ Thủy đều vui mừng háo hức chuẩn bị. Lễ hò khoan ở đây gồm 9 mái (làn điệu), mỗi mái lại ứng với một công việc. Vào đêm hò khoan, nam thanh nữ tú vui vẻ tham gia đua tài đối đáp.

Trong làn điệu, có hai phần chính là phần xô và phần đối đáp. Phần xô là phần hát đầu tiên khi vào lời bài dân ca, thường là ''Hò khoan (hơ) hỡi khoan (hơ) mời bạn xô (hò) hò khoan. Sau đó là phần hát đối đáp của hai bên nam nữ, trong khi hát phần xô xen lẫn với phần lời thoại. Phần xô tiếp theo nhịp "Ơ là xô" rồi đến "Hơ hô khoan ơi là hố khoan ơi hò khoan", có khi xen kẽ nhau. Hết bên đối đáp này kết thúc thì bên kia tiếp tục. Thường thường trong lối giao duyên này, bên nữ ca trước.

Dao duyên:

Làn điệu hò khoan Quảng Bình

(Nữ) Hò khoan (hơ) hời khoan

(hơ) mời bạn xô (hơ) hô khoan

(Xô) ơ là hô!

(Nữ) Thiếp gặp chàng dạ mừng hớn hở

Chàng gặp thiếp như mà hoa nở trên (hơ) bồn,

(Xô) Hơ hô khoan ơ là hò khoan ơ hò khoan

(Nữ) Nghiêng tai mà hỏi với trai khôn,

Thầy mẹ ở nhà đã sửa (hơ) chậu

(Xô) Ơ là hô!

(Nữ) Ơ (hơ) sửa chậu xây bồn mô (hơ) chưa?

(Xô) Ơ là hô

(Nam) Anh nỏ thiếu chi nơi màn loan mà chiếu kế,

Nỏ thiếu chi nơi mà cao bệ dài (hơ) giường.

(Xô) Hơ hô khoan ơ là hò khoan ơ hò khoan

(Nam) Em đừng chê anh nghèo mà tráo đấu lường thưng,

Em chớ nghe thầy với ơ (hơ) mẹ.

(Xô) Ơ là hô!

(Nam) Ơ hơ với mẹ khiến em đừng có thương ơ (hơ) anh!

(Xô) Ơ là hô.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 29 tháng 2 Âm Lịch - Lễ Hò Khoan

22 hình thái cơ bản trong bố cục phong thủy phòng làm việc (phần 2)

Bố cục phong thủy văn phòng tốt hay xấu đều có ảnh hưởng trực tiếp tới người làm việc. Để tăng cường hiểu biết, hãy tham khảo bài viết dưới đây để rút ra kinh
22 hình thái cơ bản trong bố cục phong thủy phòng làm việc (phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bố cục phong thủy văn phòng tốt hay xấu đều có ảnh hưởng trực tiếp tới người làm việc. Để tăng cường hiểu biết, hãy tham khảo bài viết dưới đây để rút ra kinh nghiệm cho bản thân.


22 hinh thai co ban trong bo cuc phong thuy phong lam viec phan 2 hinh anh
 
12. Xuyên tâm sát cực kì có hại, một dao phá tan sự nghiệp. Bàn làm việc đối cửa hoặc đối diện với con đường lớn, ngã tư chính là phạm thế này.   13. Tài vị phòng làm việc hỗn loạn, bẩn thỉu, Thủy thất thoát thì tài lộc cực kém.   14. Văn phòng làm việc nhỏ mà lịch sự tao nhã còn hơn lớn mà bí bách, ngột ngạt.   15. Bên cạnh quầy thu ngân, két sắt, kế toán có Thủy thì không tốt. Tiền tài như dòng nước ấy mà trôi tuồn tuột đi, không giữ lại được chút gì.   16. Bình phong thì tốt nhưng bố trí linh tinh thì chỉ khiến bố cục phong thủy phòng làm việc kém đi. Công ty nên bày cây xanh, trồng giàn hoa thay thế bình phong, vừa có tác dụng chắn sát, trừ hung lại mát mẻ, vượng tài.   17. Cửa đối cửa trong văn phòng sẽ mang đến thị phi, tranh cãi, ảnh hưởng đến chất lượng và kết quả công việc.   18. Bàn làm việc đối diện nhà vệ sinh thì vận khí ngày càng suy, nếu không thường xuyên bày vật phẩm phong thủy trừ tà chắn sát thì sự nghiệp không thể khởi sắc được.
 
19. Tài vụ tuyệt đối không ngồi đối diện cửa chính. Người nắm tiền tài, đối với cửa thì tiền bạc theo đó đội nón ra đi, chẳng những sự nghiệp không thuận, mà thân thể cũng bất an.
22 hinh thai co ban trong bo cuc phong thuy phong lam viec phan 2 hinh anh
 
20. Tài khố để lộ, có điềm phá tài, mất của. Vậy nên két sắt nhất thiết không bày ở nơi lộ liễu để tránh công ty làm ăn thất thoát, không thu được thành quả.
  21. Tài vị ở phòng làm việc không thể tùy ý bố trí. Nhất định phải nhớ nguyên tắc, tài vị ở góc đối với cửa, chọn phương vị phù hợp với mệnh của lãnh đạo là tốt nhất.   22. Bàn công tác bằng kim loại dễ thu hút từ trường nhiễu loạn, quấy nhiễu chủ nhân nên sự nghiệp bất lợi, ảnh hưởng tới những quyết định trong công việc, không thể đạt được thành công như mong đợi. 

Tuân thủ những bố cục phong thủy phòng làm việc trên đây sẽ giúp làm ăn phát đạt, vận may tìm đến để sự nghiệp lên như diều gặp gió.

Chọn cây phong thủy để bàn trợ lực nghề nào phát nghề đó Muốn công ty phát tài, nhanh tay bố trí văn phòng tổng giám đốc đủ 6 tiêu chuẩn Đại kỵ phong thủy khiến dân văn phòng gặp trắc trở trong sự nghiệp
Trần Hồng

 
     
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 22 hình thái cơ bản trong bố cục phong thủy phòng làm việc (phần 2)

Chuyên gia chỉ ra 9 thói quen khiến bạn mạt vận

9 thói quen dễ dàng bắt gặp ở bất cứ đâu khiến bạn trở nên nghèo túng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn có nhận ra rằng thói quen hàng ngày nhỏ nhất cũng có thể mang lại khiến may mắn của bạn trôi tuột đi mất? Dưới đây là 10 thói quen có thể khiến bạn trở nên nghèo túng.

1. Chẳng màng đến những đồng tiền lẻ

Mọi người có xu hướng coi thường những đồng tiền lẻ năm trăm, một nghìn đồng và thường cho luôn người bán hàng mà chẳng cần nhận tiền thối lại. Điều này khiến bạn đang vô tình đem vận may tiền bạc cho người kia. Cầm lại mọi đồng tiền lẻ, vì dù ít hay nhiều chúng đều là mồ hôi công sức của bạn. Bạn có thể bị kì thị là keo kiệt nhưng tại sao phải quan tâm khi bạn đang tích lũy để gia tăng của cải.

2. Không nhặt tiền rơi

Nếu bạn làm rơi bất cứ đồng tiền lẻ nào trên sàn nhà, ngoài đường,...thậm chí cả những nơi bẩn thỉu thì đều nên nhặt lại. Đừng để tiền bạc, hay nói chính xác hơn là may mắn về của cải, bị bay đi mất vào tay người xa lạ.

 Chuyên gia chỉ ra 9 thói quen khiến bạn mạt vận - 1

3. Vứt tiền khắp nơi trong nhà

Một số người có thói quen bạ đâu vứt đó, kể cả tiền bạc. Họ nhét tiền ở kẽ ghế sofa, trên nóc tủ lạnh, trên mặt bàn phòng khách, ngăn kéo bàn làm việc,...Nếu bạn thấy mình cũng có thói quen này thì nên thay đổi ngay lập tức vì nó tượng trưng cho sự phân tán tiền bạc. Bạn sẽ chẳng bao giờ tích tụ được nhiều tiền để làm việc lớn cứ với thói quen này.

4. Không kiểm tra túi quần áo trước khi giặt

Một số người trong chúng ta không có thói quen lộn trái túi quần, túi áo để kiểm tra trước khi cho vào máy giặt. Đó là một sai lầm không nên trong thời gian dài vì nó tượng trưng cho sự giày có của bạn đang bị rửa trôi.

5. Đặt két sắt sai vị trí

Trong phong Thủy, chỉ khi đặt két sắt ở đúng vị trí tài vận trong nhà mới có thể kích hoạt được may mắn về tài lộc. Nếu đặt két sắt lung tung trong nhà, nó có thể mang đến cho mọi người trong gia đình nhiều điều bất hạnh.

6. Viết tên lên tiền

Nếu bạn hay thích viết tên hay kí lên tiền và đem tặng thì đây là lúc để dừng lại. Lúc đem tặng tờ tiền chính là lúc bạn đang ban phát hết vận may của mình.

7. Bỏ rơi những tờ tiền rách

Nếu bạn có một đồng tiền bị rách, dù ít hay nhiều thì cũng nên đến ngân hàng và đổi lấy một tờ tiền mới. Chẳng mất phí gì cả mà bạn còn có tiền để tiêu. Đừng vứt chỏng chơ những tờ tiền rách nát ở nhà hoặc đưa cho người khác. Nếu đây vốn là cách bạn tiêu tiền thì hãy nghĩ về hậu quả sau này - bạn sẽ nghèo túng vì không trân trọng những tờ tiền nhỏ.

8. Không tôn trọng tiền bạc

Những đồng tiền lẻ hay được nhiều người sử dụng vào những mục đích khác nhau như gấp trái tim, gấp hạc,...Điều này là một sự thiếu tôn trọng với chính những đồng tiền, hay còn là tài vận của bạn. Nó sẽ khiến vận may tiêu tán hết và bạn sẽ trở nên đói nghèo.

 Chuyên gia chỉ ra 9 thói quen khiến bạn mạt vận - 2

9. Coi tiền như rác

Có một lần, một công ty điều hành một chiến dịch tiếp thị đã quăng tiền qua cửa sổ xuống các tòa nhà bên dưới và bây giờ nó đã bị phá sản. Do đó, hãy luôn nhớ giữ gìn từng đồng tiền mình kiếm được.

Vì vậy, bạn phải tôn trọng bất kì tờ tiền nào dù chúng có giá trị lớn hay nhỏ thì bạn sẽ nhận lại được kết quả tương xứng. Những tỉ phú giàu có nhất trên thế giới cũng đều chi tiêu hợp lý dù cho họ có trong tay rất nhiều tiền.

Theo Đông Đông (Fengshui) (Khám Phá)






Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyên gia chỉ ra 9 thói quen khiến bạn mạt vận

Những tên hay dành cho các bé gái –

Dưới đây là hơn một nghìn cái tên dành cho bé gái sẽ giúp bạn đỡ căng thẳng trong việc tìm tên cho bé yêu của mình.Ái HồngÁi KhanhÁi LinhÁi NhânÁi NhiÁi ThiÁi ThyÁi VânAn BìnhAn DiAn HạAn HằngAn NhànAn NhiênAnh ChiAnh ÐàoÁnh DươngÁnh HoaÁnh HồngAnh H

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là hơn một nghìn cái tên dành cho bé gái sẽ giúp bạn đỡ căng thẳng trong việc tìm tên cho bé yêu của mình.

05145313_1

Ái Hồng

Ái Khanh

Ái Linh

Ái Nhân

Ái Nhi

Ái Thi

Ái Thy

Ái Vân

An Bình

An Di

An Hạ

An Hằng

An Nhàn

An Nhiên

Anh Chi

Anh Ðào

Ánh Dương

Ánh Hoa

Ánh Hồng

Anh Hương

Ánh Lệ

Ánh Linh

Anh Mai

Ánh Mai

Ánh Ngọc

Ánh Nguyệt

Anh Phương

Anh Thảo

Anh Thi

Anh Thơ

Ánh Thơ

Anh Thư

Anh Thy

Ánh Trang

Ánh Tuyết

Ánh Xuân

Bạch Cúc

Bạch Hoa

Bạch Kim

Bạch Liên

Bạch Loan

Bạch Mai

Bạch Quỳnh

Bạch Trà

Bạch Tuyết

Bạch Vân

Bạch Yến

Ban Mai

Băng Băng

Băng Tâm

Bảo Anh

Bảo Bình

Bảo Châu

Bảo Hà

Bảo Hân

Bảo Huệ

Bảo Lan

Bảo Lễ

Bảo Ngọc

Bảo Phương

Bảo Quyên

Bảo Quỳnh

Bảo Thoa

Bảo Thúy

Bảo Tiên

Bảo Trâm

Bảo Trân

Bảo Trúc

Bảo Uyên

Bảo Vân

Bảo Vy

Bích Châu

Bích Chiêu

Bích Ðào

Bích Ðiệp

Bích Duyên

Bích Hà

Bích Hải

Bích Hằng

Bích Hạnh

Bích Hảo

Bích Hậu

Bích Hiền

Bích Hồng

Bích Hợp

Bích Huệ

Bích Lam

Bích Liên

Bích Loan

Bích Nga

Bích Ngà

Bích Ngân

Bích Ngọc

Bích Như

Bích Phượng

Bích Quân

Bích Quyên

Bích San

Bích Thảo

Bích Thoa

Bích Thu

Bích Thủy

Bích Trâm

Bích Trang

Bích Ty

Bích Vân

Bội Linh

Cẩm Hạnh

Cẩm Hiền

Cẩm Hường

Cẩm Liên

Cẩm Linh

Cẩm Ly

Cẩm Nhi

Cẩm Nhung

Cam Thảo

Cẩm Thúy

Cẩm Tú

Cẩm Vân

Cẩm Yến

Cát Cát

Cát Linh

Cát Ly

Cát Tiên

Chi Lan

Chi Mai

Chiêu Dương

Dạ Hương

Dã Lâm

Dã Lan

Dạ Lan

Dạ Nguyệt

Dã Thảo

Dạ Thảo

Dạ Thi

Dạ Yến

Ðài Trang

Ðan Khanh

Đan Linh

Ðan Quỳnh

Đan Thanh

Đan Thư

Ðan Thu

Di Nhiên

Diễm Châu

Diễm Chi

Diễm Hằng

Diễm Hạnh

Diễm Hương

Diễm Khuê

Diễm Kiều

Diễm Liên

Diễm Lộc

Diễm My

Diễm Phúc

Diễm Phước

Diễm Phương

Diễm Phượng

Diễm Quyên

Diễm Quỳnh

Diễm Thảo

Diễm Thư

Diễm Thúy

Diễm Trang

Diễm Trinh

Diễm Uyên

Diên Vỹ

Diệp Anh

Diệp Vy

Diệu Ái

Diệu Anh

Diệu Hằng

Diệu Hạnh

Diệu Hiền

Diệu Hoa

Diệu Hồng

Diệu Hương

Diệu Huyền

Diệu Lan

Diệu Linh

Diệu Loan

Diệu Nga

Diệu Ngà

Diệu Ngọc

Diệu Nương

Diệu Thiện

Diệu Thúy

Diệu Vân

Ðinh Hương

Ðoan Thanh

Đoan Trang

Ðoan Trang

Ðông Ðào

Ðồng Dao

Ðông Nghi

Ðông Nhi

Ðông Trà

Ðông Tuyền

Ðông Vy

Duy Hạnh

Duy Mỹ

Duy Uyên

Duyên Hồng

Duyên My

Duyên Mỹ

Duyên Nương

Gia Hân

Gia Khanh

Gia Linh

Gia Nhi

Gia Quỳnh

Giáng Ngọc

Giang Thanh

Giáng Tiên

Giáng Uyên

Giao Kiều

Giao Linh

Hà Giang

Hà Liên

Hà Mi

Hà My

Hà Nhi

Hà Phương

Hạ Phương

Hà Thanh

Hà Tiên

Hạ Tiên

Hạ Uyên

Hạ Vy

Hạc Cúc

Hải Ân

Hải Anh

Hải Châu

Hải Ðường

Hải Duyên

Hải Miên

Hải My

Hải Mỹ

Hải Ngân

Hải Nhi

Hải Phương

Hải Phượng

Hải San

Hải Sinh

Hải Thanh

Hải Thảo

Hải Uyên

Hải Vân

Hải Vy

Hải Yến

Hàm Duyên

Hàm Nghi

Hàm Thơ

Hàm Ý

Hằng Anh

Hạnh Chi

Hạnh Dung

Hạnh Linh

Hạnh My

Hạnh Nga

Hạnh Phương

Hạnh San

Hạnh Thảo

Hạnh Trang

Hạnh Vi

Hảo Nhi

Hiền Chung

Hiền Hòa

Hiền Mai

Hiền Nhi

Hiền Nương

Hiền Thục

Hiếu Giang

Hiếu Hạnh

Hiếu Khanh

Hiếu Minh

Hiểu Vân

Hồ Diệp

Hoa Liên

Hoa Lý

Họa Mi

Hoa Thiên

Hoa Tiên

Hoài An

Hoài Giang

Hoài Hương

Hoài Phương

Hoài Thương

Hoài Trang

Hoàn Châu

Hoàn Vi

Hoàng Cúc

Hoàng Hà

Hoàng Kim

Hoàng Lan

Hoàng Mai

Hoàng Miên

Hoàng Oanh

Hoàng Sa

Hoàng Thư

Hoàng Yến

Hồng Anh

Hồng Bạch Thảo

Hồng Châu

Hồng Ðào

Hồng Diễm

Hồng Ðiệp

Hồng Hà

Hồng Hạnh

Hồng Hoa

Hồng Khanh

Hồng Khôi

Hồng Khuê

Hồng Lâm

Hồng Liên

Hồng Linh

Hồng Mai

Hồng Nga

Hồng Ngân

Hồng Ngọc

Hồng Như

Hồng Nhung

Hồng Oanh

Hồng Phúc

Hồng Phương

Hồng Quế

Hồng Tâm

Hồng Thắm

Hồng Thảo

Hồng Thu

Hồng Thư

Hồng Thúy

Hồng Thủy

Hồng Trúc

Hồng Vân

Hồng Xuân

Huệ An

Huệ Ân

Huệ Hồng

Huệ Hương

Huệ Lâm

Huệ Lan

Huệ Linh

Huệ My

Huệ Phương

Huệ Thương

Hương Chi

Hương Giang

Hương Lâm

Hương Lan

Hương Liên

Hương Ly

Hương Mai

Hương Nhi

Hương Thảo

Hương Thu

Hương Thủy

Hương Tiên

Hương Trà

Hương Trang

Hương Xuân

Huyền Anh

Huyền Diệu

Huyền Linh

Huyền Ngọc

Huyền Nhi

Huyền Thoại

Huyền Thư

Huyền Trâm

Huyền Trân

Huyền Trang

Huỳnh Anh

Khả Ái

Khả Khanh

Khả Tú

Khải Hà

Khánh Chi

Khánh Giao

Khánh Hà

Khánh Hằng

Khánh Huyền

Khánh Linh

Khánh Ly

Khánh Mai

Khánh My

Khánh Ngân

Khánh Ngọc

Khánh Quyên

Khánh Quỳnh

Khánh Thủy

Khánh Trang

Khánh Vân

Khánh Vi

Khánh Vy

Khiết Linh

Khiết Tâm

Khúc Lan

Khuê Trung

Kiết Hồng

Kiết Trinh

Kiều Anh

Kiều Diễm

Kiều Dung

Kiều Giang

Kiều Hạnh

Kiều Hoa

Kiều Khanh

Kiều Loan

Kiều Mai

Kiều Minh

Kiều Mỹ

Kiều Nga

Kiều Nguyệt

Kiều Nương

Kiều Thu

Kiều Trang

Kiều Trinh

Kim Anh

Kim Ánh

Kim Chi

Kim Cương

Kim Dung

Kim Duyên

Kim Hoa

Kim Hương

Kim Khanh

Kim Khánh

Kim Khuyên

Kim Lan

Kim Liên

Kim Loan

Kim Ly

Kim Mai

Kim Ngân

Kim Ngọc

Kim Oanh

Kim Phượng

Kim Quyên

Kim Sa

Kim Thanh

Kim Thảo

Kim Thoa

Kim Thu

Kim Thư

Kim Thủy

Kim Thy

Kim Trang

Kim Tuyến

Kim Tuyền

Kim Tuyết

Kim Xuân

Kim Xuyến

Kim Yến

Kỳ Anh

Kỳ Duyên

Lam Hà

Lam Khê

Lam Ngọc

Lâm Nhi

Lâm Oanh

Lam Tuyền

Lâm Tuyền

Lâm Uyên

Lan Anh

Lan Chi

Lan Hương

Lan Khuê

Lan Ngọc

Lan Nhi

Lan Phương

Lan Thương

Lan Trúc

Lan Vy

Lệ Băng

Lệ Chi

Lệ Hoa

Lệ Huyền

Lệ Khanh

Lệ Nga

Lệ Nhi

Lệ Quân

Lệ Quyên

Lê Quỳnh

Lệ Thanh

Lệ Thu

Lệ Thủy

Liên Chi

Liên Hoa

Liên Hương

Liên Như

Liên Phương

Liên Trân

Liễu Oanh

Linh Châu

Linh Chi

Linh Ðan

Linh Duyên

Linh Giang

Linh Hà

Linh Lan

Linh Nhi

Linh Phương

Linh Phượng

Linh San

Linh Trang

Loan Châu

Lộc Uyên

Lục Bình

Lưu Ly

Ly Châu

Mai Anh

Mai Châu

Mai Chi

Mai Hà

Mai Hạ

Mai Hiền

Mai Hương

Mai Khanh

Mai Khôi

Mai Lan

Mai Liên

Mai Linh

Mai Loan

Mai Ly

Mai Nhi

Mai Phương

Mai Quyên

Mai Tâm

Mai Thanh

Mai Thảo

Mai Thu

Mai Thy

Mai Trinh

Mai Vy

Mậu Xuân

Minh An

Minh Châu

Minh Duyên

Minh Hà

Minh Hằng

Minh Hạnh

Minh Hiền

Minh Hồng

Minh Huệ

Minh Hương

Minh Huyền

Minh Khai

Minh Khuê

Minh Loan

Minh Minh

Minh Ngọc

Minh Nguyệt

Minh Nhi

Minh Như

Minh Phương

Minh Phượng

Minh Tâm

Minh Thảo

Minh Thu

Minh Thư

Minh Thương

Minh Thúy

Minh Thủy

Minh Trang

Minh Tuệ

Minh Tuyết

Minh Uyên

Minh Vy

Minh Xuân

Minh Yến

Mộc Miên

Mộng Ðiệp

Mộng Hằng

Mộng Hoa

Mộng Hương

Mộng Lan

Mộng Liễu

Mộng Nguyệt

Mộng Nhi

Mộng Quỳnh

Mộng Thi

Mộng Thu

Mộng Tuyền

Mộng Vân

Mộng Vi

Mộng Vy

Mỹ Anh

Mỹ Diễm

Mỹ Dung

Mỹ Duyên

Mỹ Hạnh

Mỹ Hiệp

Mỹ Hoàn

Mỹ Huệ

Mỹ Hường

Mỹ Huyền

Mỹ Khuyên

Mỹ Kiều

Mỹ Lan

Mỹ Lệ

Mỹ Loan

Mỹ Lợi

Mỹ Nga

Mỹ Ngọc

Mỹ Nhi

Mỹ Nương

Mỹ Phụng

Mỹ Phương

Mỹ Phượng

Mỹ Tâm

Mỹ Thuần

Mỹ Thuận

Mỹ Trâm

Mỹ Trang

Mỹ Uyên

Mỹ Vân

Mỹ Xuân

Mỹ Yến

Ngân Anh

Ngân Hà

Ngân Thanh

Ngân Trúc

Nghi Dung

Nghi Minh

Nghi Xuân

Ngọc Ái

Ngọc Anh

Ngọc Ánh

Ngọc Bích

Ngọc Cầm

Ngọc Ðàn

Ngọc Ðào

Ngọc Diệp

Ngọc Ðiệp

Ngọc Dung

Ngọc Hà

Ngọc Hạ

Ngọc Hân

Ngọc Hằng

Ngọc Hạnh

Ngọc Hiền

Ngọc Hoa

Ngọc Hoan

Ngọc Hoàn

Ngọc Huệ

Ngọc Huyền

Ngọc Khanh

Ngọc Khánh

Ngọc Khuê

Ngọc Lam

Ngọc Lâm

Ngọc Lan

Ngọc Lệ

Ngọc Liên

Ngọc Linh

Ngọc Loan

Ngọc Ly

Ngọc Lý

Ngọc Mai

Ngọc Nhi

Ngọc Nữ

Ngọc Oanh

Ngọc Phụng

Ngọc Quế

Ngọc Quyên

Ngọc Quỳnh

Ngọc San

Ngọc Sương

Ngọc Tâm

Ngọc Thi

Ngọc Thơ

Ngọc Thy

Ngọc Trâm

Ngọc Trinh

Ngọc Tú

Ngọc Tuyết

Ngọc Uyên

Ngọc Uyển

Ngọc Vân

Ngọc Vy

Ngọc Yến

Nguyên Hồng

Nguyên Thảo

Nguyết Ánh

Nguyệt Anh

Nguyệt Ánh

Nguyệt Cầm

Nguyệt Cát

Nguyệt Hà

Nguyệt Hồng

Nguyệt Lan

Nguyệt Minh

Nguyệt Nga

Nguyệt Quế

Nguyệt Uyển

Nhã Hồng

Nhã Hương

Nhã Khanh

Nhã Lý

Nhã Mai

Nhã Sương

Nhã Thanh

Nhã Trang

Nhã Trúc

Nhã Uyên

Nhã Ý

Nhã Yến

Nhan Hồng

Nhật Ánh

Nhật Hà

Nhật Hạ

Nhật Lan

Nhật Linh

Nhật Mai

Nhật Phương

Nhất Thương

Như Anh

Như Bảo

Như Hảo

Như Hoa

Như Hồng

Như Loan

Như Mai

Như Ngà

Như Ngọc

Như Phương

Như Quân

Như Quỳnh

Như Tâm

Như Thảo

Như Trân

Như Ý

Oanh Thơ

Oanh Vũ

Phi Khanh

Phi Nhung

Phi Phi

Phi Phượng

Phong Lan

Phụng Yến

Phước Bình

Phước Huệ

Phương An

Phương Anh

Phượng Bích

Phương Châu

Phương Chi

Phương Diễm

Phương Dung

Phương Giang

Phương Hạnh

Phương Hiền

Phương Hoa

Phương Lan

Phượng Lệ

Phương Liên

Phượng Liên

Phương Linh

Phương Loan

Phượng Loan

Phương Mai

Phượng Nga

Phương Nghi

Phương Ngọc

Phương Nhi

Phương Nhung

Phương Quân

Phương Quế

Phương Quyên

Phương Quỳnh

Phương Tâm

Phương Thanh

Phương Thảo

Phương Thi

Phương Thùy

Phương Thủy

Phượng Tiên

Phương Trà

Phương Trâm

Phương Trang

Phương Trinh

Phương Uyên

Phượng Uyên

Phượng Vũ

Phượng Vy

Phương Yến

Quế Anh

Quế Chi

Quế Lâm

Quế Linh

Quế Phương

Quế Thu

Quỳnh Anh

Quỳnh Chi

Quỳnh Dung

Quỳnh Giang

Quỳnh Giao

Quỳnh Hà

Quỳnh Hoa

Quỳnh Hương

Quỳnh Lam

Quỳnh Lâm

Quỳnh Liên

Quỳnh Nga

Quỳnh Ngân

Quỳnh Nhi

Quỳnh Như

Quỳnh Nhung

Quỳnh Phương

Quỳnh Sa

Quỳnh Thanh

Quỳnh Thơ

Quỳnh Tiên

Quỳnh Trâm

Quỳnh Trang

Quỳnh Vân

Sao Băng

Sao Mai

Sơn Ca

Sơn Tuyền

Sông Hà

Sông Hương

Song Oanh

Song Thư

Sương Sương

Tâm Đan

Tâm Ðoan

Tâm Hằng

Tâm Hạnh

Tâm Hiền

Tâm Khanh

Tâm Linh

Tâm Nguyên

Tâm Nguyệt

Tâm Nhi

Tâm Như

Tâm Thanh

Tâm Trang

Thạch Thảo

Thái Chi

Thái Hà

Thái Hồng

Thái Lâm

Thái Lan

Thái Tâm

Thái Thanh

Thái Thảo

Thái Vân

Thanh Bình

Thanh Dân

Thanh Đan

Thanh Giang

Thanh Hà

Thanh Hằng

Thanh Hạnh

Thanh Hảo

Thanh Hiền

Thanh Hiếu

Thanh Hoa

Thanh Hồng

Thanh Hương

Thanh Hường

Thanh Huyền

Thanh Kiều

Thanh Lam

Thanh Lâm

Thanh Lan

Thanh Loan

Thanh Mai

Thanh Mẫn

Thanh Nga

Thanh Ngân

Thanh Ngọc

Thanh Nguyên

Thanh Nhã

Thanh Nhàn

Thanh Nhung

Thanh Phương

Thanh Tâm

Thanh Thanh

Thanh Thảo

Thanh Thu

Thanh Thư

Thanh Thúy

Thanh Thủy

Thanh Trang

Thanh Trúc

Thanh Tuyền

Thanh Tuyết

Thanh Uyên

Thanh Vân

Thanh Vy

Thanh Xuân

Thanh Yến

Thảo Hồng

Thảo Hương

Thảo Linh

Thảo Ly

Thảo Mai

Thảo My

Thảo Nghi

Thảo Nguyên

Thảo Nhi

Thảo Quyên

Thảo Trang

Thảo Uyên

Thảo Vân

Thảo Vy

Thi Cầm

Thi Ngôn

Thi Thi

Thi Xuân

Thi Yến

Thiên Di

Thiên Duyên

Thiên Giang

Thiên Hà

Thiên Hương

Thiên Khánh

Thiên Kim

Thiên Lam

Thiên Lan

Thiên Mai

Thiên Mỹ

Thiện Mỹ

Thiên Nga

Thiên Nương

Thiên Phương

Thiên Thanh

Thiên Thảo

Thiên Thêu

Thiên Thư

Thiện Tiên

Thiên Trang

Thiên Tuyền

Thiều Ly

Thiếu Mai

Thơ Thơ

Thu Duyên

Thu Giang

Thu Hà

Thu Hằng

Thu Hậu

Thu Hiền

Thu Hoài

Thu Hồng

Thu Huệ

Thu Huyền

Thư Lâm

Thu Liên

Thu Linh

Thu Loan

Thu Mai

Thu Minh

Thu Nga

Thu Ngà

Thu Ngân

Thu Ngọc

Thu Nguyệt

Thu Nhiên

Thu Oanh

Thu Phong

Thu Phương

Thu Phượng

Thu Sương

Thư Sương

Thu Thảo

Thu Thuận

Thu Thủy

Thu Trang

Thu Vân

Thu Việt

Thu Vọng

Thu Yến

Thuần Hậu

Thục Anh

Thục Ðào

Thục Ðình

Thục Ðoan

Thục Khuê

Thục Nhi

Thục Oanh

Thục Quyên

Thục Tâm

Thục Trang

Thục Trinh

Thục Uyên

Thục Vân

Thương Huyền

Thương Nga

Thương Thương

Thúy Anh

Thùy Anh

Thụy Ðào

Thúy Diễm

Thùy Dung

Thùy Dương

Thùy Giang

Thúy Hà

Thúy Hằng

Thủy Hằng

Thúy Hạnh

Thúy Hiền

Thủy Hồng

Thúy Hương

Thúy Hường

Thúy Huyền

Thụy Khanh

Thúy Kiều

Thụy Lâm

Thúy Liên

Thúy Liễu

Thùy Linh

Thủy Linh

Thụy Linh

Thúy Loan

Thúy Mai

Thùy Mi

Thúy Minh

Thủy Minh

Thúy My

Thùy My

Thúy Nga

Thúy Ngà

Thúy Ngân

Thúy Ngọc

Thủy Nguyệt

Thùy Nhi

Thùy Như

Thụy Nương

Thùy Oanh

Thúy Phượng

Thúy Quỳnh

Thủy Quỳnh

Thủy Tâm

Thủy Tiên

Thụy Trâm

Thủy Trang

Thụy Trinh

Thùy Uyên

Thụy Uyên

Thúy Vân

Thùy Vân

Thụy Vân

Thúy Vi

Thúy Vy

Thy Khanh

Thy Oanh

Thy Trúc

Thy Vân

Tiên Phương

Tiểu Mi

Tiểu My

Tiểu Quỳnh

Tịnh Lâm

Tịnh Nhi

Tịnh Như

Tịnh Tâm

Tịnh Yên

Tố Loan

Tố Nga

Tố Nhi

Tố Quyên

Tố Tâm

Tố Uyên

Trà Giang

Trà My

Trâm Anh

Trầm Hương

Trâm Oanh

Trân Châu

Trang Anh

Trang Ðài

Trang Linh

Trang Nhã

Trang Tâm

Triệu Mẫn

Triều Nguyệt

Triều Thanh

Trúc Chi

Trúc Ðào

Trúc Lam

Trúc Lâm

Trúc Lan

Trúc Liên

Trúc Linh

Trúc Loan

Trúc Ly

Trúc Mai

Trúc Phương

Trúc Quân

Trúc Quỳnh

Trúc Vân

Trúc Vy

Từ Ân

Tú Anh

Từ Dung

Tú Ly

Tú Nguyệt

Tú Quyên

Tú Quỳnh

Tú Sương

Tú Tâm

Tú Trinh

Tú Uyên

Tuệ Lâm

Tuệ Mẫn

Tuệ Nhi

Tùng Quân

Tường Chinh

Tường Vân

Tường Vi

Tường Vy

Tùy Anh

Tùy Linh

Túy Loan

Tuyết Anh

Tuyết Băng

Tuyết Chi

Tuyết Hân

Tuyết Hoa

Tuyết Hồng

Tuyết Hương

Tuyết Lâm

Tuyết Lan

Tuyết Loan

Tuyết Mai

Tuyết Nga

Tuyết Nhi

Tuyết Nhung

Tuyết Oanh

Tuyết Tâm

Tuyết Thanh

Tuyết Trầm

Tuyết Trinh

Tuyết Vân

Tuyết Vy

Tuyết Xuân

Uyển Khanh

Uyên Minh

Uyên My

Uyển My

Uyển Nghi

Uyển Nhã

Uyên Nhi

Uyển Nhi

Uyển Như

Uyên Phương

Uyên Thi

Uyên Thơ

Uyên Thy

Uyên Trâm

Uyên Vi

Vân Anh

Vân Chi

Vân Du

Vân Hà

Vân Hương

Vân Khanh

Vân Khánh

Vân Linh

Vân Ngọc

Vân Nhi

Vân Phi

Vân Phương

Vân Quyên

Vân Quỳnh

Vân Thanh

Vân Thường

Vân Thúy

Vân Tiên

Vân Trang

Vân Trinh

Vàng Anh

Vành Khuyên

Vi Quyên

Việt Hà

Việt Hương

Việt Khuê

Việt Mi

Việt Nga

Việt Nhi

Việt Thi

Việt Trinh

Việt Tuyết

Việt Yến

Vũ Hồng

Vy Lam

Vy Lan

Xuân Bảo

Xuân Dung

Xuân Hân

Xuân Hạnh

Xuân Hiền

Xuân Hoa

Xuân Hương

Xuân Lâm

Xuân Lan

Xuân Lan

Xuân Liễu

Xuân Linh

Xuân Loan

Xuân Mai

Xuân Nghi

Xuân Ngọc

Xuân Nhi

Xuân Nhiên

Xuân Nương

Xuân Phương

Xuân Phượng

Xuân Tâm

Xuân Thanh

Xuân Thảo

Xuân Thu

Xuân Thủy

Xuân Trang

Xuân Uyên

Xuân Vân

Xuân Yến

Xuyến Chi

Ý Bình

Ý Lan

Ý Nhi

Yến Anh

Yên Ðan

Yến Ðan

Yến Hồng

Yến Loan

Yên Mai

Yến Mai

Yến My

Yên Nhi

Yến Nhi

Yến Oanh

Yến Phương

Yến Phượng

Yến Thanh

Yến Thảo

Yến Trâm

Yến Trang

Yến Trinh

     


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tên hay dành cho các bé gái –

Mua nhà không xem phong thủy, tiền thì mất mà tật vẫn mang

Cẩn tắc thì vô áy náy. Chọn nhà cũng vậy, chớ nên vội vàng chi tiền cho những căn nhà giá rẻ nhưng lại không hợp phong thủy, hay có địa thế bất lợi… nếu không muốn tiền thì mất mà tật vẫn mang.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Không ham rẻ
 
Nếu giá nhà so với giá trị trường quá nhiều thì chớ nên mua, sau này khả năng bán lại hoặc cho thuê là rất khó. Hơn nữa, phong thủy căn nhà cũng vô cùng bất lợi, không phải là đã từng có người chết thì kết cấu cũng có vấn đề.
 
2. Không mua nhà cũ
 
Phòng ở cũ, thời gian sử dụng lâu dài, trong quá khứ nhất định đã có nhiều người sinh sống, căn nhà sẽ tích tụ nhiều oán khí nên nếu ở lâu dài thì gia chủ cũng sẽ bị ảnh hưởng.
 
3. Không mua nhà có dán bùa chú
Quan sát trong nhà thấy có dán những lá bùa, có thể là bùa may mắn cầu cắt tường, cũng có thể là bùa trấn tà khí. Nếu đúng là bùa trấn tà khí thì cho dù chủ nhà có bán với giá hời hoặc những điều kiện vô cùng thuận lợi thì cũng không nên mua, tránh bị tổn hại sức khỏe.
 
4. Không mua nhà có người bị bệnh nặng
 
Nếu gia đình của chủ nhà có người bị bệnh nặng, đã ốm lâu ngày thì cũng không nên mua để ở, tránh việc bị ảnh hưởng bởi uế khí, dễ bị các bệnh về hô hấp , đau đầu hoặc tổn thương phần trên của cơ thể…
 
5. Không hợp phong thủy

Nếu phong thủy nhà đó có nhiều vấn đề thì cũng không nên mua, ví dụ như: phía trước cửa sổ có một hình thế góc cạnh chĩa vào, trong nhà thì trần nhà có xà ngang, cửa chính nhìn ra một con đường có hình phản cung… tránh việc ảnh hưởng tới quá trình phát triển sự nghiệp của gia chủ.

7 dieu khong nen trong phong thuy nen chu y khi chon mua nha hinh anh 2
Ảnh minh họa

6. Không gần nghĩa trang
 
Nhà ở tốt nhất là không nên gần nghĩa trang, phải cách xa ít nhất là 10km trở lên. Không nên mua nhà nằm trong lối đi nhỏ, nhà ở nên nằm trong vị trí xung quanh có nhiều người, không phạm sát khí.  Nếu nhà ở quá gần bãi tha ma, bốn phía hoang vu hẻo lánh thì chớ dại mà vào ở.
 
7. Không nên chọn nhà quá tối
 
Nhà ở quá tối tăm, âm khí quá nặng sẽ dễ bị nhiễm tà khí. Mặc dù là ban ngày nhưng trong phòng vẫn tối tăm, âm quá thịnh, dương quá suy, người bình thường tốt nhất là không nên ở.
 
Ngoài ra, bạn cũng nên chú ý những yếu tố phong thủy khác của căn nhà mình định mua như cửa chính nhìn thẳng ra ban công, cần dùng bình phong hoặc lắp thêm cửa tại lối ra ban công để ngăn cách. Tối kỵ cửa chính đối diện với thang máy hoặc cầu thang bộ. Trước cửa nhà cũng không nên có bệnh viện, cột điện hay nơi tập kết rác…
 
Phương Thùy
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mua nhà không xem phong thủy, tiền thì mất mà tật vẫn mang

Những bài khấn Phật cần thuộc nằm lòng

Khấn Phật là một thói quen tốt để trấn tĩnh tâm hồn và tìm nơi nương tựa tâm linh, hoặc là biện pháp vượt qua những lúc nguy khốn.
Những bài khấn Phật cần thuộc nằm lòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khấn Phật là một thói quen tốt để trấn tĩnh tâm hồn và tìm nơi nương tựa tâm linh, hoặc là biện pháp vượt qua những lúc nguy khốn. Nhưng không phải ai cũng biết cách khấn Phật đúng và những bài khấn phù hợp với hoàn cảnh.


Nhung bai khan Phat can thuoc nam long hinh anh
 
Cách khấn Phật đúng là lễ trước bàn thờ Phật vào mỗi sáng hoặc chiều, trước khi khấn lạy từ 3 đến 108 lạy. Nếu không làm được thường xuyên thì nên làm vào ngày Rằm, mùng 1. Thậm chí, không cần có ban thờ, chỉ cần thành tâm nghĩ đến Phật rồi tự khấn cũng được.
 
Dưới đây là các bài khấn Phật đơn giản theo từng trường hợp cụ thể:
 
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Thập Phương Tam Thế Chư Phật, chư Bồ Tát,
 
Tam Bảo khắp mười phương (3 lần)
 
Nam Mô Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần).
 
Tri ân
 
Hôm nay lại bước qua một ngày, con tự biết con đã được rất nhiều may mắn, con đã hưởng được tha lực từ bi của chư Phật, chư Bồ Tát và Đức Mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát ban cho, và được chư vị giúp đỡ mà con mới có được ngày hôm nay. Con xin thành tâm thành kính quỳ nơi đây dâng lòng chí thành chí kính tri ân. (1 lạy)
 
Cầu an Con xin thành tâm thành kính cầu nguyện sự an lành, an lạc, thanh bình, hạnh phúc cho cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc, cùng khắp các chúng sanh hữu tình, vô tình.
 
Con cầu xin thập phương tam thế chư Phật, chư Bồ Tát, Đức mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát, và chư vị từ bi gia hộ, giúp đỡ để chúng con đồng được sự an lành, an lạc, tu hành đến Tri Kiến Giải Thoát, thoát khỏi sanh tử luân hồi (1 lạy).
 
Cầu siêu Con cũng thành tâm cầu siêu cho vong linh cửu huyền thất tổ, cha mẹ, tổ tiên, thân bằng quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp.
 
Những vong linh liên hệ và không liên hệ đến con,
 
Những vong linh con đã lỡ gây hại, sát hại trong quá khứ,
 
Cho những vong linh tên:…..
 
Cùng những vong linh mất trong chiến tranh, thiên tai, tật bệnh, và vì mọi lý do chưa được vãng sanh.
 
Con thành tâm cầu nguyện xin tha lực từ bi của mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, Đức từ phụ A Di Đà Phật, Đức Mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát, Đức Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, cùng chư vị giúp đỡ để các vong linh được tiếp dẫn về nơi an lạc, siêu sanh Tịnh Độ (1 lạy).
 
Sám hối Nay con xin chí thành sám hối mọi tội lỗi con đã lỡ gây tạo từ nhiều kiếp cho đến nay, những tội con đã gây tạo trong kiếp sống hiện tại.
 
Những tội con gây tạo do bởi vô tình hay cố ý, gây hại, sát hại đến nhân mạng, đến giới hữu tình hoặc vô tình, những tội do bởi Tham, Sân, Si, do bởi ngã mạn, vô minh che lấp.
 
Từ nay, mỗi ngày con xin kiểm soát hành động, tư tưởng để sám hối, sửa sai và xin nguyện giữ mình không tái phạm.
 
Hết thảy các tội, con xin chí thành quỳ nơi đây dâng lòng sám hối. Xin chư Phật mười phương, chư Bồ Tát, Đức Mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát chứng minh cho lòng thành của con (1 lạy).

► ## cung cấp công cụ xem ngày tốt xấu theo Lịch vạn sự chuẩn xác

Theo Văn khấn cổ truyền Việt Nam
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bài khấn Phật cần thuộc nằm lòng

Duyên vợ chồng

Tu trăm năm mới chung một chuyến thuyền, tu nghìn năm mới nên duyên vợ chồng, đó là câu nói dân gian về duyên phận nhân sinh,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tu trăm năm mới chung một chuyến thuyền, tu nghìn năm mới nên duyên vợ chồng, đó là câu nói dân gian về duyên phận nhân sinh, gặp nhau bởi chữ duyên, gắn kết đời nhau bởi chữ nợ, trân quý cơ duyên này cũng chính là trân quý bản thân mình vậy.

Vợ chồng là thiếu nợ lẫn nhau sao? Vợ chồng là nợ nghiệp nhau sao? Duyên vợ chồng như thế nào mới có thể chấm dứt đây? Vợ chồng lại là cái gì duyên mà kết thành đây? Tục ngữ có câu:“Tu trăm năm mới đi chung thuyền, tu ngàn năm mới chung chăn gối”. Ý câu này là, những người có thể ngồi chung trên một chuyến thuyền đều là người hữu duyên, còn có thể kết thành vợ chồng thì giữa họ với nhau mối duyên càng sâu đậm. Nói cách khác, quan hệ vợ chồng là loại sâu sắc nhất trong tất cả các loại duyên phận, chỉ có điều là trong những duyên này có thiện có ác.

Duyên vợ chồng nhìn chung đến từ ba loại duyên dưới đây:

Duyên đến từ việc người này có ân với người kia

Con người trong những lần gặp nhau, nếu người này có ân với người kia, khiến họ cảm động khôn nguôi, và nguyện ý báo ân trả nợ, thì vào kiếp sau một người sẽ là nam còn người kia là nữ, bởi nguyện ước thiện lành trong quá khứ mà kết thành vợ chồng.

Ví dụ, khi bạn rơi xuống nước, lúc đó không ai nguyện ý cứu bạn, nhưng lại có một người dũng cảm quên mình vì bạn, mặc kệ có cứu sống hay không, bạn vẫn ghi lòng tạc dạ ân nghĩa này. Vì đền ân cứu mạng, bạn vào kiếp sau sẵn lòng làm thân trâu ngựa báo đáp. Loại tình huống này chính là duyên vợ chồng vì báo ân mà kết thành.

Trong các loại duyên vợ chồng, loại duyên vợ chồng này có thể hạnh phúc mỹ mãn nhất, bởi vì sâu thẳm trong ý thức của một người tồn tại ý niệm dâng hiến một cách không oán không hối, nên hai bên đều có thể hạnh phúc. Tuy nhiên, loại vợ chồng này không bảo đảm là không cãi nhau hoặc không ly hôn, nếu cá tính không hợp thì vẫn sẽ có vấn đề ma sát khi sống chung.

Duyên mà người này thiếu nợ người kia

Nếu như duyên vợ chồng kết thành từ việc người này thiếu nợ người kia, thì chúng ta có hai loại nợ nần được tính đến. Một là khoản nợ tiền tài, hai là khoản nợ tình cảm, cũng có những khoản nợ khác, nhưng hai loại trên vẫn là chính yếu.

Ví như nếu kiếp trước bạn là đàn ông, bị một người con gái phụ bạc, lừa gạt tình cảm, cảm thấy không cam lòng. Như vậy kiếp sau bạn sẽ còn gặp lại cô ấy. Khi cô gái này gặp được bạn, cô sẽ nắm chặt bạn, không bao giờ để bạn chạy trốn nữa. Đây chính là vợ chồng vì khoản nợ tình cảm mà kết thành.

Một ví dụ khác như, khi nam nữ đang trong quá trình tìm hiểu, con trai lúc nào cũng là người chi trả mọi khoản. Nếu cô gái ham hưởng thụ điều này, mà lại không thành tâm muốn kết giao, khi đã lợi dụng được một thời gian liền lạnh lùng rời đi, như vậy người con trai đương nhiên sẽ rất không cam tâm. Nếu là vậy, cô gái này trong kiếp sau sẽ còn gặp người con trai này, cô gái khi đó cũng sẽ có tiền, nhưng rất nhiều tiền của cô đều bị anh ta tiêu hết, hoặc cuối cùng đều thuộc về anh ta. Trường hợp này là vợ chồng vì khoản nợ tiền tài mà kết thành. Dẫu đây là vì ác duyên mà kết thành vợ chồng, nhưng chỉ cần trong quá trình sống chung tại kiếp này có thể làm việc chăm chỉ, không so đo với nhau khi ở chung, thì vẫn có cơ hội sống hạnh phúc.

Nhân duyên thiếu nợ lẫn nhau

Loại duyên thiếu nợ lẫn nhau này, tức là nợ qua nợ lại nhưng là nợ tiền tài và tình cảm là phần nhiều. Nói cách khác, nếu đôi bên khi tìm hiểu, đã nợ nhau các khoản tiền tài và tình cảm như trên, họ kiếp này gặp lại kết thành vợ chồng, vừa vặn dễ dàng giúp nhau trả nợ.

Lúc này cũng có thể nói, vợ chồng kết thành chính là vì cân bằng nhân quả. Chính vì có nhân quả nên “quan hệ” giữa con người với nhau liên tục được cân bằng, không tồn tại bất công.

Vì vậy, bất kì ai khi đã nên duyên vợ chồng, cần phải quý trọng nhau mà chung sống, vì khoản nợ này sẽ còn thay đổi. Không được oán giận người kia, không được oán trời trách đất, vì oán thán sẽ khiến món nợ kia trả hoài không hết! Hoặc món nợ đã mắc càng ngày càng nặng hơn! Trong loại duyên vợ chồng này, bởi vì hai bên đối với nhau đều đòi hỏi bên này phải trả nợ bên kia, nên thường xuất hiện tính toán và tranh chấp. Tuy nhiên, hai bên chỉ cần thay đổi suy nghĩ, dùng thái độ cam tâm tình nguyện mà đối đãi với người kia, như vậy khoản nợ này sẽ nhanh chóng được trả hết.

Duyên vợ chồng tốt nhất

Trên đây là nói về các loại yếu tố kết thành duyên vợ chồng. Nếu dùng số mệnh con người để xem, các loại thiện ác trong duyên vợ chồng cũng phần nào nói lên bạn có hạnh phúc hay không, những người vì ác duyên mà thành vợ chồng, lại càng không cần phải nói. Tuy nhiên, nếu hai bên phù hợp ba điều kiện dưới đây, bất kể là loại vợ chồng duyên gì cũng có thể hưởng hạnh phúc. Vì vậy, khi bạn chọn người phối ngẫu, ba nhân tố này là rất quan trọng:

Một, hai bên cá tính tương hỗ.

Hai, hai bên đều kính trọng lẫn nhau.

Ba, hai bên đều là người có trách nhiệm.

Nói cách khác, điều kiện bên ngoài, vinh hoa phú quý hay không cũng không phải chỉ tiêu hạnh phúc hay không.

Làm sao biết duyên vợ chồng đã kết thúc hay chưa?

Bên cạnh đó, khi chung sống tại kiếp này, vợ chồng cãi nhau là chuyện thường tình. Tuy nhiên, sau khi giằng co cự cãi không ai chịu ai, luôn sẽ có một người nhất định muốn ly hôn, nhưng người kia lại không chịu, điều này nói lên rằng khoản nợ lẫn nhau vẫn còn chưa hết, duyên vợ chồng này còn chưa kết thúc.

Ngược lại, nếu như trong quá trình chung sống, tình cảm vợ chồng nhạt nhẽo, chẳng ai lưu luyến ai. Điều này nói lên rằng khoản nợ giữa vợ chồng đã hết, vì vậy hai bên sống chung giống như bạn bè, chẳng lưu luyến bịn rịn.

Ngoài ra, qua việc chia tay cũng có thể nhìn rõ duyên vợ chồng đã kết thúc hay chưa. Bất luận việc chia tay này là tử vong, đi xa nhà, xuất gia, hay ly hôn.

Nếu như đôi bên khó lòng chia ly, lúc chia tay khóc nức nở, thì ắt hẳn ân oán vợ chồng này còn chưa trả hết, duyên vợ chồng vẫn còn.

Còn khi chia tay, oán hận lẫn sự bất mãn vẫn khuấy động tâm can hoặc không cam lòng, điều này nói lên rằng “khoản nợ” giữa các bạn vẫn còn chưa trả hết, kiếp sau gặp lại vẫn sẽ tiếp tục kết làm vợ chồng.

Hoặc lúc chia tay, cả hai giống như bạn bè, không oán hận, chỉ đau thương hoặc khổ sở một chút, nhưng không đến nỗi muốn níu kéo nhau, điều này nói lên rằng khoản nợ giữa vợ chồng các bạn cuối cùng có thể chấm dứt rồi.

Vợ chồng là nghiệp chướng sao?

Phật giáo thường nói, kết hôn là nghiệp chướng, cái này chủ yếu nói về giải thoát trong tu luyện. Dựa vào duyên vợ chồng trong quá khứ, bởi vì có ân oán tình thù chưa kết thúc, vì vậy đời này kết làm vợ chồng, mà trước khi ân oán tình thù chưa cân bằng, hai bên sẽ phải gắn kết với nhau, người này cản trở người kia, tạo thành chướng ngại trên con đường tu hành. Tuy nhiên, nếu các bạn mong muốn nhanh chấm dứt duyên vợ chồng này, có thể dùng lý trí mà suy nghĩ để cải thiện quan hệ đôi bên. Suy nghĩ cho lợi ích của đối phương là điều kiện tiên quyết để quyết định sự việc, chuyện cản trở lẫn nhau này có thể giải quyết được.

Ngoài ra, nếu như duyên vợ chồng của các bạn còn chưa kết thúc, mà bạn muốn tu hành, thì bạn có thể tận dụng khoản thời gian chung sống vợ chồng để hiểu rõ nhân tính. Việc này chính là giúp bạn thêm trí tuệ, bởi hiểu tận tường nhân tính con người không phải chuyện dễ dàng.

Nam và nữ đều có cả ưu và khuyết điểm, và khoảng thời gian chung sống của vợ chồng cũng chính là thời khắc bạn học tập ưu điểm của người kia, đây cũng là điều không dễ để tiếp thu. Đặc thù giữa nam nữ khác nhau rất lớn, ví dụ như mưu cầu dục vọng và giá trị quan của nam nữ khác nhau, sở thích hoặc nhu cầu tình cảm cũng không giống nhau v.v.., bạn chính là trong khi chung sống vợ chồng mà tự mình tìm hiểu, nếu làm được như thế thì đây cũng là tu hành rồi.

    Duyên vợ chồng mặc dù là trở ngại giải thoát, nhưng nếu bạn có thể tận dụng tốt việc này để tìm hiểu nhân tính, thì cũng chính là có thể giúp bạn khai mở trí tuệ, chẳng phải đó là “đá kê chân” sao. Hãy tận dụng cho tốt cơ duyên này vậy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Duyên vợ chồng
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd