Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số Tử Vi?

Bài viết trình bày về những việc cần thấu triệt những nguyên lý căn bản đề đoán đúng một lá số tử vi. Đây là một bài viết rất tâm huyết của cụ Quản Văn Chính.
Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số Tử Vi?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cụ Quản Văn Chính, cử nhân Việt Hán

I. Mối tương quan giữa sao Chính thủ mệnh và cung An Mệnh cùng Bản Mệnh.

1/Sao chính diệu và cung an Mệnh. Thế nào là Miếu địa và hãm địa?

Tỷ như sao chính thủ Mệnh là sao Tử vi mà đóng tại cung Ngọ thì được gọi là ông vua ở chính ngôi hay TỬ VI MIẾU ĐỊA bởi lẽ Tử vi thuộc hành Thổ đóng tại cung Ngọ thuộc hành hỏa, Hỏa sanh Thổ.

Nhưng thật ra việc ngũ hành sinh khắc ở đây có thể chỉ là việc thứ yếu. Theo nền triết lý của Á đông ta – mà thuyết chính danh, chính vị rất quan trọng, thì cung Ngọ được coi là cung chính yếu, là chỗ cao quý nhất dành cho vị chúa tể ở dưới đất là ông Vua mà ở trên Trời mà là (Trời hay Vũ trụ Tử vi ) là sao Tử Vi, sao đầu trong hệ thống tinh tú của lá số.

Vì vậy mà theo nguyên tắc “Song Phương“ Ngọ đối với Tý sao Tử vi đóng ngay cung Tý (thuộc hành Thủy mà Thủy khắc Thổ cũng được coi là Miếu địa.

Nhưng cũng vì lẽ sinh khắc nên khi dạy đoán số tử vi sách đã phải viết:

- “Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ“
- “Mệnh tọa cường cung, tu sái chế đa chi lý“

Câu thứ nhất có nghĩa là, “Sao đóng ở cung đã được ghi là Miếu Vượng thì phải nhớ, nhưng nếu muốn đóan cho đúng, cần xem kỹ lại để biết sao ấy sinh khắc thế nào với cung an Mệnh.

Đến đây tôi xin được mở một ngoặc lớn để trình bày với quý vị độc giả một nhận xét cá nhân như sau:

- Trang báo SM trước đây một bạn đồng nghiệp của tôi ông Đoàn Đình Quất có chủ trương dùng toàn chữ Việt để giảng giải về khoa Tử vi cho đỡ mất thì giờ của bạn đọc cũng như đỡ tốn giấy, tốn mực và phí công ấn loát.

Đành là như thế, nhưng tôi thiết nghĩ việc xài chữ Hán Việt tức là chữ Hán theo mâu tự La Tinh trong việc nghiên cứu về khoa Tử vi rất có lợi.

Thứ nhất, những sách cổ viết về khoa này đều là những sách chữ Hán mà sự trích dịch ra chữ Việt đều bị ít nhiều sai lạc. Một chứng cớ thông thường nhất là trong sách chữ Hán có câu phú:

- “Tử Vũ tài năng cự tú Đồng Lương Xung thả hợp“

Hầu hết các sách viết bằng chữ Việt đều giảng là: Người có sao Tử vi và Vũ Khúc hợp với sao Đồng Lương là có tài năng. Thật ra, Tử vi đó là tên ông Tử Vũ chứ không phải Tử vi và Vũ Khúc.

Lại nữa, việc dùng chữ Hán Việt sẽ giúp những ai muốn nghiên cứu thật sâu rộng về khoa Tử vi, có thể làm quen với chữ Hán để một ngày kia đọc thêm những sách do chính Trần Đoàn viết mà Trần Đoàn, vị Tổ Sư của khoa tướng số là một người Trung Quốc sanh vào đời Tống sơ. Thêm vào đó, khi sang Đài Loan vào năm 1964 để nghiên cứu về khoa trắc nghiệm tâm lý, tôi đã có dịp làm quen với mấy nhà tri thức chuyên khảo cứu khoa Tử vi. Họ cho biết rằng:

- Hiện nay ở Đài Loan người ta không còn lập cung mệnh cho những người sanh tháng nhuận một cách máy móc là ngày đầu trong tháng nhuận tính như 15 ngày đầu của tháng chính và 15 ngày sau tính vào tháng tiếp. Nay, người ta căn cứ vào tiết của tháng chính tháng nhuận để quyết định.

Cũng như việc giáp giờ người ta không lấy cả hai lá số để xem giờ nào hợp hơn mà người ta đếm khoáy trên đầu.

Vì mới biết lối mới này có 7, 8 năm nên tôi chưa dám nói lối nào đúng hơn tôi chỉ xin nói để làm tỷ dụ rằng biết đọc chữ Hán lợi lắm cho việc nghiên cứu tử vi, cũng như muốn giỏi về khoa chỉ tay mà không đọc được sách của Cheiro viết bằng tiếng Anh hay sách của Capitaine d’Arpentigny viết bằng tiếng Pháp thì không sao giỏi được.

Vì những lẽ đó mà tôi ưa dùng chữ Hán Việt.

Trở lại mối tương quan, không những Tử vi đóng tại cung Ngọ là miếu địa, mà tại cung Tý hay Dần Thân cũng là Miếu, dù hai hành không tương sinh.

Vì thế Miếu hay Hãm không chỉ căn cứ vào luật Ngũ hành mà quyết định, mà còn căn cứ cả vào học thuyết Chính danh Chính vị nữa! Thật là phiền phức, cũng như tất cả những điều phiền phức khác mà tôi đã nêu ở trên. Vì thế là con người khá thực tế trong công việc nghiên cứu tôi đã hơn một lần định chỉ học kỹ về khoa xem chỉ tay rồi hiện nay, tôi tránh né những khó khăn của Tử vi bằng khoa xem chỉ tay.

Vì tránh né nên tôi cũng không quá nệ sách, tôi chỉ dùng có 2 trường hợp: sao chính diệu đắc địa hay hãm địa mà thôi.

Đến đây để câu chuyện đỡ khô khan, tuy tôi đã đưa ra rất nhiều nhận xét có thể gọi là mới mẻ và hấp dẫn tôi xin dẫn ít nhiều tỷ dụ cụ thể để chứng minh rằng sao chính diệu đóng tại miếu địa tốt ra sao và hãm địa xấu thế nào?

Chắc quý vị độc giả còn nhớ lần trước tôi có ghi lá số của tuổi Tân dậu tháng 9 ngày 23 giờ thìn, người thanh niên này nhờ có sao Tử Vi cư Ngọ mà mới chưa đầy 30 tuổi đã công thành danh toại với chức vụ Tri huyện vào năm 1944, tức là mới có 22 tuổi đã xong cử nhân luật trong thời Pháp thuộc tại Hà Nội trong khá nhiều bọn đồng tuế lẹ lắm là đỗ xong tú tài II hay một hai phần cử nhân là nhiều.

Nhưng vì Mệnh của ông ta thuộc hành Mộc, đóng tại cung Ngọ, hành hỏa nên…. (xin quý vị độc giả viết tiếp cho)

Trái lại ông sau này tuổi Bính Thìn sanh vào tháng 5 ngày 20 giờ Tý thì thật là tốt.

- Mệnh hành Thổ Ngọ cung hành Hỏa sanh Thổ, nên chưa đến 40 tuổi đã làm đến Thượng Thư đúng như câu phú: “Tử vi cư Ngọ, vô sát tấa vị chí công khanh“

Bản Mệnh và cung An mệnh, thế nào là cường cung?

Như bài trước đã nói mỗi lá số Tử vi được chia làm 12 cung và mỗi cung lại vừa là Âm hoặc Dương thuộc một trong 5 hành Kim, Mộc, thủy, Hỏa và Thổ. Mỗi cung lại còn chia ra là CƯỜNG, NHƯỢC khác nhau, tùy theo lần này là PHƯƠNG HƯỚNG chứ không như ở đoạn. Tùy theo lé Chính danh Chính vị. Lại cách chia “cường nhược “này cũng không dựa vào sự quan trọng về ý nghĩa của mỗi cung như ngôn ngữ thôngg thường vẫn nói là“ về phụ nữ, cung mệnh cung Phúc đức, cung Phu và cung Tử được coi là CƯỜNG CUNG, tức là cung quan trọng mà về nam giới nhiều nhà nghiên cứu lại chủ trương rằng cung Nô bộc là quan trọng nhất, sau cung Mệnh Thân và Quan lộc.

Nay nếu theo phương hướng thì trên lá số Tử vi cung ngọ và cung Tý được gọi là cường cung với ảnh hưởng như sau:

- Mệnh đóng tại đó đã tốt nếu có các sao đắc địa càng tốt hơn thêm nếu có xấu thì cũng bớt xấu. Nhưng câu phú dạy:  Mệnh tọa cường cung tu sat chế, hóa chi lý“. Tức là dù mệnh có đóng tại cung Tý hay Ngọ chẳng hạn, ta cũng phải xét xem sao Chính diệu tọa thủ ở đó chế hoa ( thay đổi thêm bớt ) thế nào so với cung an Mệnh. Tức là phải xét hai vấn đề:

- Thứ nhất là xem ảnh hưởng 20 sao Chính diệu ra sao đối với hai Cường Cung Tý và Ngọ?

Tỉ như sao Chính diệu là sao Tử vi: sao này ở Ngọ thì thật là tốt rồi, vì cung Ngọ thuộc Hỏa, sanh ra Thổ là hành mà Chính diệu Tử vi. Nhưng nếu sao Tử vi mà đóng tại cung Tý thì tuy là cường cung nhưng vì cung Tý là cung Thủy, mà Thủy khắc Thổ của Tử vi nên cái tốt giảm đi nhiều lắm.

- Xin độc giả thử đoán xem người nữ nhân tuổi Giáp Tý, sanh tháng 6 ngày 23 giờ Mùi, có sao Tử vi cư Tiys tốt đến thé nào vì bà ta Mệnh thuộc hành Kim mà Kim Thủy tương sanh ) và xấu ra sao?

Sau khi trình bày các sách cổ đều dùng chữ Cường Cung để nơi hai cung TÝ Ngọ chưa thấy sách gọi hai cung Mão Dậu là “Nhược cung“ mà chỉ nơi tới cung Thìn Tuất Sửu Mùi là Trung ương, thuộc hành Thổ, có khi tốt cũng có khi xấu, và 4 cung Dần Than Tị Hợi thì có khi gọi là Tứ sịnh có khi gọi là Tứ tuyệt. Tôi thú thật là không biết gọi thế là theo địa bàn Tiên Thiên bát Quái hay là theo vòng Tràng sinh?

- Khi có Tràng sinh đóng thì gọi là Tứ sinh khi có Tuyệt đóng thì gọi là Tứ Tuyệt.

Kết quả là có khi cho là tốt, nếu mệnh đóng ở đó có khi cho là xấu. Còn Mão Dậu hai cung này thật là tội, sao Thiên Tướng chỉ ham địa chờ đóng ở cung Dậu mà đắc địa hay (hay Bình hòa ) khi đóng ở cung Mão, và nhiều sách, có sách này bảo là đắc địa sách kia nói là hãm địa, khi một chính diệu đóng tại hai cung đó.

Vì nhiều sự mơ hồ như thế nên đôi khi người nghiên cứu không còn chú trọng đến Miếu Vượng Hãm nữa mà chỉ đoán số theo toàn thể các sao.

Tôi nói thế vì học giả Phạm Quỳnh tuy có sao Thái Dương cư Hợi thủ Mệnh ( hãm địa ) mà văn hay chữ tốt, một bước Thượng Thư rồi.

- Đinh chung gần gũi cái ngai vàng xem thế chẳng cần có Nhật Nguyệt tịnh minh như Khổng minh mà học giả Phạm Quỳnh cũng “Tả cửu trùng ư Nguyệt diệu“

Và cũng vì thế mà tôi có ý kiến là sở dĩ cung Thìn, Tuất, Sửu Mùi được coi là tốt là “Cường“ vì ngoài việc tuổi Thìn mà mệnh đóng tại la Võng thì xấu, tôi thấy Mệnh đóng tại Thìn Tuất Sửu Mùi tốt sẵn vì hay được giáp Tả Hữu Khôi Việt hoặc có Âm Dương Tả hữu đồng cung. Mẹo Dậu xấu vì hay bị Kình Dương hãm ở đó nếu tuổi Giáp tuỏi Canh hay và Mệnh tại Dần Thân Tị Hợi hay bị Đại Tiểu hao và Kiếp sát đóng nên xấu. Xấu rồi nhiều thì cũng tốt, nếu là tuổi Giáp Mậu, Bính, Canh!

Lại nữa hay cung Tỵ Hợi xem ra là hai cung “nhược“ nhất trong 12 cung, trong lá số, vì thường là nơi “trú ngụ“ của tú tinh là Liêm trinh và dâm tinh là Tham Lang và Phá Quân.

Nhưng ở đây Trần Đoàn đã có nghĩ ra cái “chế hóa“ để làm giảm bớt cái không hay của hai sao Liêm Tham chẳng hạn.

3/ TRƯỜNG HỢP CHẾ HÓA:

Trái với trường hợp chính tinh miếu địa và đắc địa đôi khi chính tinh lại đóng tại các cung xấu gọi là hãm địa, như khi Liêm trinh Tham lang đóng ở Tị Hợi,

“Liêm, Tham, Tị, Hợi hình ngục nan đào “hai chính tinh này đóng ở Tị Hợi thì khó mà tránh được phải tù tội “
Tuy nhiên nhờ luật Ngũ hành sinh khắc và chế hóa, sự ngục tù có thể tránh được nếu.

a/ Tham Liêm đóng tại Hợi mà bản Mệnh thuộc hành KIM THÌ TỐT, với điều kiện có Hóa Kỵ cùng đóng tại cung an Mệnh: Hóa Kỵ là Thủy khắc Liêm là Hỏa nhưng tuổi Kim đong ở cung Thủy là tốt được sự sinh.

b/ Tham Liêm đóng tại cung Tị mà bản Mệnh thuộc hành Hỏa ngộ Hóa kỵ lại tốt vì tuy Hóa Kỵ ( thủy ) khắc Liêm ( Hỏa ) nhưng Mệnh đóng ở cung Hỏa không sao có chế hóa.

(Với hai trường hợp này lại thấy Mệnh đóng ở sinh địa là quan trọng nhất )

Tôi xin thưa thật rằng tôi đã chép lại 2 trường hợp này trong quyển Tự điển Tử vi của tác giả Đắc Lộc do nhà xuất bản Phúc Thắng xuất bản tại Hanoi vào năm 1952.

Tôi chỉ gặp trường hợp:

- Bính Thân tháng 2 ngày 18 giờ Thìn (dương nam) với Tham Liêm ở Hợi mà mệnh Hỏa, ngộ Hóa Kỵ.

- Quý Dậu, tháng 4 ngày 12 giờ ngọ (nữ)

Tôi xin quý vị đương nghiên cứu học hỏi về khoa Tử vi thử đóan xem hai lá số trên đây ra sao. Thực tập như thế, quý vị sẽ tiến bộ trông thấy và sẽ rất lấy làm vui mừng được biết khả năng của quý vị khi tôi nói rõ đó là số của ai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số Tử Vi?

Bạn sắp đón tài lộc bất ngờ khi gặp 3 dấu hiệu này

Tài lộc bất ngờ ai chẳng muốn có, nhưng bạn đã biết hết các dấu hiệu khi mà vận trình vượng phát, tài lộc sắp đến với mình hay chưa?
Bạn sắp đón tài lộc bất ngờ khi gặp 3 dấu hiệu này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hãy cùng tìm hiểu để biết được những dấu hiệu đó là gì và đừng để vận may bị xua tan mất nhé.   Trước khi đón tài lộc bất ngờ từ trên trời rơi xuống hay vận may sắp đến, chắc chắn các bạn sẽ thấy mình gặp phải một vài hiện tượng kì lạ. Có thể bạn không biết hoặc không chú ý đến, nhưng đó chính là những dấu hiệu cho thấy tài lộc sắp đến nhà.


3 diem bao tai loc bat ngo sap den
 
  Vậy những dấu hiệu đó là gì? Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ bật mí cho các bạn 3 dấu hiệu cho thấy bạn sắp có tin vui về tài lộc bất ngờ đến nhé.  

1. Có chó lạ, chó hoang chạy vào nhà

  Dân gian quan niệm rằng “Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang”, nếu bỗng dưng có chú chó lạ không biết từ đâu tới chạy vào nhà bạn thì xin chúc mừng, bạn sắp đón Thần Tài đến nhà rồi đó.

tai loc bat ngo khi cho chay vao nha
 
  Chó chạy vào nhà là dấu hiệu cho thấy vận trình sắp tới của chủ nhà vô cùng vượng phát, tài lộc dồi dào, không lâu nữa sẽ bất ngờ có khoản thu lớn hoặc con đường sự nghiệp hanh thông rộng mở.    Chó là biểu tượng vượng tài, đặc biệt nếu chó chạy lạc vào nhà bạn mà nhất định không chịu rời đi thì càng thể hiện điềm báo may mắn về tài lộc. Song bạn hãy nhớ kĩ điều này, khi chú chó lạc vào nhà mình, đừng bao giờ đuổi chúng đi hay dã man hơn là bắt để giết thịt, đó là điềm đại hung. Khi ấy, bạn tốt nhất đừng nên làm tổn thương đến chú chó mà hãy đối xử với nó thật tốt như đang đón Thần Tài đến nhà mình nhé.  

2. Chim vào nhà làm tổ


chim vao nha lam to
 
“Đất lành chim đậu”, nhà có chim làm tổ là dấu hiệu tốt lành, nếu là chim én thì càng đại cát đại lợi. Nhà có phúc lành thì mới giữ được chân những chú chim, khiến chúng muốn ở lại sinh sống lâu dài. Chim vào nhà bạn làm tổ chứng tỏ vận khí của bạn đang cực kì vượng, sắp tới chắc chắn sẽ có một khoản thu cực kì lớn.   Nếu những chú chim không chỉ đơn giản vào nhà bạn làm tổ mà còn sinh ra một bầy chim non thì chắc chắn chủ nhà sẽ đón những điều vô cùng tốt lành trong thời gian sắp tới. Đó có thể là vận trình tài lộc bất ngờ, may mắn cực kì về tiền bạc trong làm ăn, kinh doanh, cũng có thể báo hiệu chủ nhà sắp đón tin vui, có thêm quý tử, nhà có thêm người.

Bạn đã biết 6 loài động vật gặp là rước hên vào người chưa?
 

3. Bỗng nhiên rất có duyên với trẻ nhỏ

  Bạn vốn không phải là người được các bé yêu thích, không mấy khi có duyên với trẻ nhỏ. Nhưng bỗng nhiên một hôm bạn phát hiện ra dạo này các bé tự dưng rất thích quấn lấy mình chơi đùa, cười nói vui vẻ hay bạn đang đi đường thì nhìn ra xung quanh thấy rất nhiều rất nhiều em bé, dường như bạn đi đến đâu cũng gặp các thiên thần nhỏ vậy. Nếu quả thực có hiện tượng đó xảy ra thì quả là điều tốt lành, bởi nó là điềm báo vận trình sắp tới của bạn đang tăng tiến vượt bậc, tài lộc ùn ùn kéo tới không gì có thể ngăn cản được.

co duyen voi em be la diem bao tai loc den
 
  Trẻ em là những thiên thần có tâm hồn vô cùng thuần khiết, chúng như những trang giấy trắng, chưa hề biết đến thiện ác tốt xấu trên đời, chỉ làm theo cảm xúc của mình mà thôi. Nếu các bé thích chơi đùa với bạn, thích đến bên bạn thì chắc chắn bạn đang có vận may vô cùng lớn, vận trình vượng phát tới không ngờ.    Ngoài ra, việc chơi đùa với các bé cũng có thể giúp cho bạn thoải mái hơn về tinh thần, lấy lại sức lực cho mình sau những giờ phút căng thẳng cạnh tranh ngoài xã hội. Hãy trân trọng từng cơ hội được ở bên các bé, yêu thương các bé thật nhiều, nó không chỉ tốt cho tâm trạng của bạn mà còn thúc đẩy vận trình của bạn càng thêm thịnh vượng hơn nữa đó.
Thiên Thiên

Biết vận tài lộc tốt xấu qua hình dáng bàn chân Nhà kém phú quý vì phạm 5 lỗi phong thủy nhà bếp nghiêm trọng Tiền về như nước khi đặt bảo vật phong thủy ở đây Ánh sáng trong phong thủy: Sử dụng hợp lý sẽ đón tài lộc miễn phí

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn sắp đón tài lộc bất ngờ khi gặp 3 dấu hiệu này

Vị trí mở cửa sổ, cửa chính, cửa phụ để điều khí

Khí vào được tâm nhà rồi, luân chuyển khí đến các phòng, các vị trí khác trong nhà là rất tốt, thế nhưng, khí đọng lâu trong nhà mà không thoát ra ngoài được thì lại là ván đề nghiêm trong. Cũng giống như máu vào được tim rồi thì phải liên tục luân chuyển để lưu thông khí. Nếu khí nhà vào hết các phòng, khí bị tụ lại lâu sẽ trở thành tù khí (khí xấu), nếu không thoát ra được thì khí mới vào sẽ bị tù khí hòa lẫn làm cho khí trường bị ôm nhiễm tà khí.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khí vào được tâm nhà rồi, luân chuyển khí đến các phòng, các vị trí khác trong nhà là rất tốt, thế nhưng, khí đọng lâu trong nhà mà không thoát ra ngoài được thì lại là ván đề nghiêm trong. Cũng giống như máu vào được tim rồi thì phải liên tục luân chuyển để lưu thông khí. Nếu khí nhà vào hết các phòng, khí bị tụ lại lâu sẽ trở thành tù khí (khí xấu), nếu không thoát ra được thì khí mới vào sẽ bị tù khí hòa lẫn làm cho khí trường bị ôm nhiễm tà khí.

- Điều được khí vào đến tâm nhà và luân chuyển khí đến được các phòng, vị trí trong toàn bộ ngôi nhà đã là thành công rồi, thế nhưng việc thiết kế và bố trí các cửa sổ, cửa phụ để cho tù khí (khí sau khi vào nhà một thời gian sẽ trở thành tù khí, các tia khí tốt đã được mọi người hấp thụ hết trong quá trình ăn, ngủ, ở rồi nên chỉ còn lại tà khí) được đi ra ngoài và nhanh chóng nhận lại các dòng khí tốt mới là hoàn chỉnh.



- Các phòng: phòng ngủ, phòng bếp, nhà vệ sinh, phòng thờ đều phải bố trí cửa sổ để tù khí có đường thoát ra ngoài:
+ Bố trí cửa sổ của bếp làm sao cho nắng và gió không chiếu vào mặt bếp
+ Bố trí cửa số phòng thờ làm sao cho không có nắng và gió chiếu vào phòng thờ (nên treo ràm vải tối màu tại cửa sổ của phòng thờ, chỉ mở khi c ó công việc, cỗ bàn, tức là khi đó sẽ có hương khói và cần mở để thoát bới khói, nhưng đảm bảo phòng thờ không bị nắng gió và nóng. vì nếu bị nóng, bị nắng chiếu vào, bị gió thổi mạnh vào thì sẽ làm cho vong linh gia tiên không tụ lại được)
+ Không bố trí cửa sô thẳng cửa phòng, vì khí sẽ thoát đi ngay khi vào phòng
+ Không bố trí cửa sổ sát góc tụ khí của phòng vì khi đó khí sẽ không tụ mà đi luôn theo cửa sổ ra ngoài. Nên bố trí cửa sổ cách góc tụ khí khoảng 1,5 - 2m là tốt nhất.
- Nguyên tắc là khí phải tụ được tại góc tụ khí (góc tài lộc ) rồi mới thoát đi. khi đó nó sẽ thoát đi các tù khí, tà khí chứ không phải là thoát đi các sinh khí, vượng khí.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị trí mở cửa sổ, cửa chính, cửa phụ để điều khí

Chuyện tình nàng Lộng Ngọc

Không chỉ nói lên hiện thực cuộc sống, chuyện tình về nàng Lộng Ngọc còn mang đến một bức tranh thế giới dân gian cổ xưa làm say đắm lòng người.
Chuyện tình nàng Lộng Ngọc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong dòng sông dài lịch sử, vô số câu chuyện đã được lưu giữ lại, truyền lại từ đời đời. Phảng phất đâu đó là hiện thực cuộc sống, những câu chuyện này mang đến một bức tranh thế giới cổ xưa làm say đắm lòng người.

Thời Xuân Thu, Tần Mục Công nước Tần có một cô con gái; lúc cô bé mới được sinh ra, có người đem dâng Tần Mục Công một viên đá ngọc bích, ông sai thợ đẽo dũa đi, thành một viên ngọc xanh biếc trông rất đẹp.

Ðến hôm con gái Mục Công tròn 1 tuổi, trong cung bày bàn tiệc tổ chức ngày lễ “chọn đồ vật đoán tương lai” cho cô bé. Đây là một tập tục của người xưa, đến ngày tròn 1 tuổi, cha mẹ sẽ bày lên một cái đĩa bao gồm các đồ vật để con tự do lựa chọn theo sở thích của mình. Lúc này, người con gái nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, bởi vậy Mục công đặt tên cho con là Lộng Ngọc.

Lộng Ngọc lớn lên, nhan sắc tuyệt trần, lại sẵn tính thông minh trời ban, rất có tài thổi sáo, không cần học ai cả, mà tự thành âm điệu, hơn nữa nàng không cứng nhắc theo chỉ dạy của nhạc sỹ, mà tự thả hồn theo âm nhạc, tiếng sáo nghe rất tuyệt diệu. Mục công sai thợ làm một cái sáo bằng ngọc để cho nàng thổi. Nàng thổi cái sáo ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng.

Mục Công rất yêu quý con gái, lại lập một cái lầu cho nàng ở, đặt tên là “Phượng lâu”, trước lầu có xây một cái đài cao gọi là “Phượng đài”. Năm Lộng Ngọc mười lăm tuổi, Tần Mục công muốn kén rễ cho nàng, Lộng Ngọc nói với cha rằng:

“Con muốn tìm người có tài thổi sáo và có thể họa xướng cùng với con, khi đó con sẵn lòng lấy người ấy làm chồng, còn không thì con cũng chẳng thiết tha gì”.

Mục Công sai người đi tìm nhưng chẳng được một người nào vừa ý. Một hôm, Lộng Ngọc ở trên lầu cuốn rèm lên ngắm cảnh, thấy trời tạnh mây trong, trăng sáng như gương, nàng gọi thị nữ đốt lên một nén hương, rồi đi lấy cái sáo bằng ngọc bích, đến bên cửa sổ mà thổi. Tiếng sáo véo von vọng lên vòm trời, gió hây hây thổi, bỗng nghe như có người họa lại, khi gần khi xa. Lộng Ngọc không khỏi băng khoăn, bèn ngừng lại không thổi nữa, cố ý để nghe xem sao. Tiếng họa bỗng im đi, nhưng dư âm còn vang vọng không dứt.

Lộng Ngọc bâng khuâng trước gió, như một ngưới vừa đánh mất vật gì. Chốc đã nửa đêm, trăng xế hương tàn, nàng đem ống sáo để trên đầu giường, gắng gượng đi nằm. Nàng đang thiêm thiếp, bỗng thấy về phía tây nam trên trời, cửa mở rộng ra, hào quang ngũ sắc, rực rỡ như ban ngày, có một chàng trai trẻ tuổi, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng ở trên trời xuống, đứng trước Phượng đài bảo nàng rằng:

“Ta đây làm chủ ở núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng thượng đế cho ta kết duyên với nàng, đến ngày trung thu này thì đôi ta gặp nhau, ấy là duyên số định sẵn như vậy!”

Chàng trai trẻ tuổi ấy nói xong, lấy tay cởi bỏ ống ngọc tiêu đeo bên hông xuống, rồi đứng dựa lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên, cũng vươn cánh ra, vừa kêu vừa múa.

Tiếng phượng cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa, cùng nhịp với nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất êm ái. Lộng Ngọc mê mẩn tâm hồn, hỏi rằng: “Ca khúc này là gì?”

Chàng trai trẻ tuổi ấy nói: “Đây là khúc ‘Họa Sơn Ngâm’ đó!”

Lộng Ngọc lại hỏi: “Ca khúc này có học đưọc không?”

Chàng trai ấy nói: “Khi ta đã kết duyên với nàng rồi thì khó gì mà ta không dạy nàng được”.

Chàng trai trẻ tuổi ấy đến gần trước mặt, cầm lấy tay của Lộng Ngọc; Nàng giật mình tỉng dậy, thì ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, Lộng Ngọc thuật lại chuyện chiêm bao cho Mục Công nghe. Mục công sai Mạnh Minh cứ theo như hình tượng người trong mộng mà đến dò tìm ở núi Họa Sơn. Người nông phu ở đấy trỏ lên núi mà bảo Mạnh Minh rằng:

“Hôm rằm tháng bảy mới rồi, có một người lạ mặt, đến làm nhà ở trên núi này, ngày nào cũng xuống mua rượu uống, đến buổi chiều lại thổi chơi khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích lắm, không rõ là người ở đâu”.

Mạnh Minh lên núi, quả nhiên thấy có một người mũ lông áo bạc, trông như một vị thần tiên. Mạnh Minh biết là không phải người thường, mới đến trước mặt vái chào, mà hỏi họ tên người ấy. Người ấy nói:

“Tôi họ Tiêu, tên Sử, chẳng hay ngài là ai? Ðến đây có việc gì?”

Mạnh Minh nói:

“Tôi là đại thần nước này, tên gọi Mạnh Minh. Chúa công tôi có một người con gái yêu, còn đang kén chồng. Người con gái chúa công tôi, tài thổi sáo, muốn tìm một người như thế nữa mà kết duyên, nay nghe ngài am hiểu âm nhạc, vậy chúa công sai tôi đến đón!”

Tiêu Sử nói: “Tôi không có tài cán gì, chỉ gọi là có biết đôi chút về nhạc điệu mà thôi, tôi đâu dám vâng mệnh”.

Mạnh Minh nói: “Xin ngài cứ đi cùng tôi xuống yết kiến chúa công”.

Khi về đến kinh thành, Mạnh Minh vào tâu Mục Công trước, rồi sau đưa Tiêu Sử vào. Mục Công ngồi ở trên Phượng đài, Tiêu Sử sụp lạy mà tâu rằng: “Chúng thần ở nơi dân giã chưa biết lễ nghi, có điều gì sơ suất, xin chúa công miễn thứ cho”.

Mục Công thấy Tiêu Sử dung mạo thanh tú, không phải là người thường, trong lòng đã có mấy phần vui vẻ, mới cho ngồi ở bên cạnh mà nói rằng: “Ta nghe nhà ngươi có tài thổi tiêu, chắc là cũng tài thổi cả sáo nữa!”

Tiêu Sử nói: “Thần chỉ biết thổi tiêu, không biết thổi sáo”.

Mục công nói: “Ta định tìm một người có tài thổi sáo, nếu chỉ biết thổi tiêu thì không sánh đôi với con ta được!”

Tần Mục công nói xong, bảo Mạnh Minh đưa Tiêu Sử đi ra. Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Mục Công rằng:

“Tiêu với sáo cũng là một loài, người ta đã có tài thổi ống tiêu thì sao chúa công không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài”.

Mục Công lấy làm có lý, bèn bảo Tiêu Sử thổi tiêu. Tiêu Sử mới dạo một khúc thì thấy có gió mát hây hây; thổi đến khúc thứ hai thì mây che bốn mặt, đến khúc thứ ba thì có đôi hạc trắng múa lượn trên không, lại có mấy đôi khổng tước bay về, và các giống chim kêu ríu rít; một lúc lâu rồi mới tan đi. Mục Công rất lấy làm hài lòng.

đôi hạc bay trong hoàng hôn
Khi thổi đến khúc thứ ba thì chợt xuất hiện một đôi hạc trắng múa lượn trên không,

truyền thuyết, tiêu sử, tiêu, tiếng sáo, mục công, lộng ngọc, chuyện tình,

Bấy giờ Lộng Ngọc đứng ở trong rèm trông thấy, cũng bằng lòng mà nói rằng: “Người ấy thật xứng làm chồng ta!”

Mục Công lại hỏi Tiêu Sử rằng: “Nhà ngươi biết sáo và tiêu làm ra từ đời nào không?”

Mục Công nói: “Nhà ngươi hãy thử kể rõ nguồn gốc cho ta nghe”.

Tiêu Sử tâu rằng:

“Kỹ năng của thần là ở ống tiêu, vậy thần xin kể nguyên lai của ống tiêu: Ngày xưa vua Phục Hi ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn gọi là nhã tiêu, ghép liền hai mươi ba ống, dài một thước bốn tấc, thứ nhỏ gọi là tụng tiêu, ghép liền mười sáu ống, dài hai thước một tấc. Cả hai thứ gọi chung một tiếng là tiêu quản, còn thứ không có đáy thì là đồng tiêu.

Về sau vua Hoàng Ðế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê, chế làm ống địch, ống địch có bảy lỗ, cầm ngang mà thổi, cũng giống tiếng chim phượng, trông giản dị lắm! Người đời sau thấy tiêu quản nhiều ống quá, mới chỉ dùng một ống địch rồi cầm mà thổi dọc. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch, bởi vậy ống tiêu đời nay, không phải như ống tiêu đời xưa”.

Mục Công lại hỏi: “Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có giống chim bay đến?”

Tiêu Sử nói:

“Ống tiêu dẫu mỗi đời một khác, nhưng tiếng thổi bao giờ cũng vẫn giống tiếng chim phượng. Chim phượng là dẫn đầu các giống chim, bởi vậy các giống chim nghe tiếng phượng, đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc “Tiêu Thiều” mà chim phượng còn hay bay đến, huống chi là các giống chim khác!”

Tiêu Sử ứng đối trôi như nước chảy, tiếng nói lại sang sảng. Mục Công càng thấy bằng lòng lắm, bảo Tiêu Sử rằng:

“Ta có một người con gái, tên gọi Lộng Ngọc, cũng có biết âm nhạc, không muốn gã cho người ngu ngốc, vậy xin cùng với nhà ngươi kết duyên”.

Tiêu Sử nghe nói, nghiêm nét mặt lại, rồi sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:

“Thần vốn là người thôn giã, có đâu dám sánh với bậc tôn quý!”

Mục Công nói:

“Con gái ta vốn có lời thề nguyện, có chọn được người nào tài thổi sáo thì mới lấy làm chồng. Nay nhà ngươi mới thổi tiêu mà lại cảm động được đến trời đất và muôn vật, như vậy thì lại hơn người thổi sáo nhiều lắm. Vả lại con gái ta khi trước đã có điềm mộng, ngày nay lại chính là tiết trung thu rằm tháng tám, duyên trời định sẵn, nhà ngươi chớ nên chối từ”.

Tiêu Sử lạy tạ. Mục Công sai quan thái sử chọn ngày để làm lễ cưới. Quan thái sử nói:

“Hôm nay là ngày trung thu, trăng vừa tròn bóng, xin chúa công cho làm lễ cưới, để hợp cái nghĩa ân ái vẹn tròn”.

Tần Mục Công truyền cho Tiêu Sử tắm gội, thay mũ áo mới, rồi sai người đưa đến Phượng lâu, để cùng với Lộng Ngọc kết duyên. Ngày hôm sau, Tần Mục Công phong cho Tiêu Sử làm trung đại phu. Tiêu Sử dẫu làm trung đại phu, nhưng không dự gì đến quyền chính cả, ngày nào cũng vui chơi ở chốn Phượng lâu, lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu mà thôi. Lộng Ngọc học được thần thái của Tiêu Sử, cũng không ăn cơm.

Tiêu Sử lại dạy nàng thổi ống tiêu. Vợ chồng ở với nhau chừng được nửa năm thì một đêm, bóng trăng vằng vặc, hai vợ chồng đem ống tiêu ra thổi, bỗng thấy một con phượng xuống đậu ở bên tả, và một con rồng xuống phục ở bên hữu.

Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc rằng:

“Ta vốn là người tiên trên trời, Ngọc Hoàng thượng đế thấy sử sách ở trần gian, nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống làm họ Tiêu nhà Chu để sửa sang lại. Người nhà Chu thấy ta có công về sử sách, mới gọi là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng thượng đế cho ta làm chủ ở núi Họa Sơn. Vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhưng không nên ở mãi chốn trần gian này. Nay rồng cùng phượng đã đến đón ở đây, chúng ta nên cùng đi”.

Lộng Ngọc toan vào từ biệt với cha. Tiêu Sử can rằng: “Không nên ! Ðã là thần tiên thì chớ nên quyến luyến chút tình riêng!”

Bấy giờ Tiêu Sử cưỡi con rồng, Lộng Ngọc cưỡi con Phượng cùng bay lên trời. Ngày hôm sau, nội thị vào báo với Mục Công. Mục Công thở dài mà than rằng:

“Giả sử bây giờ rồng phượng đến đón ta thì ta cũng chẳng thiết gì ngôi vị nữa !”

Mục công liền sai người đến núi Họa Sơn để tìm, nhưng chẳng thấy Tiêu Sử đâu cả, mới truyền lập đền thờ, gọi là đền Tiêu Nữ. Mục công bấy giờ chán việc chiến tranh, giao hết quốc chính cho Mạnh Minh, rồi ngày nào cũng ham mê đường tu luyện. Chẳng bao lâu, công tôn chỉ cũng mất, Mạnh Minh tiến dẫn ba con Tử Xa Thị là Yêm Tức, Trọng Hàng và Kiểm Hồ, Mục Công đều cho làm quan đại phu.

Một hôm, Mục công ngồi ở trên Phượng đài, ngắm cảnh trăng sáng, lại nhớ đến Lộng Ngọc, bỗng chợp mắt ngủ đi, trông thấy Tiêu Sử và Lộng Ngọc đem một con phượng đến đón. Mục Công cưỡi phượng lên chơi cung trăng, khí lạnh buốt vào tận xương. Ðến lúc tỉnh dậy, liền bị bệnh cảm hàn, sau mấy ngày thì tạ thế. Ai cũng cho là Tần Mục Công đã đắc đạo thành tiên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện tình nàng Lộng Ngọc

Bố trí tài vị theo phong thủy: Nên và không nên

Tài vị là vị trí vô cùng quan trọng trong nhà. Bố trí tài vị theo phong thủy sẽ giúp cho gia chủ có được nhiều tài lộc, chuyện làm ăn kinh doanh càng phát đạt
Bố trí tài vị theo phong thủy: Nên và không nên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tài vị là vị trí vô cùng quan trọng trong nhà. Bố trí tài vị theo phong thủy sẽ giúp cho gia chủ có được nhiều vận may tài lộc, chuyện làm ăn kinh doanh càng ngày càng suôn sẻ, tiền bạc cũng thoải mái chi tiêu. Vậy phải bố trí tài vị trong nhà như nào mới đúng, nên và không nên đặt vật gì trên Tài vị? Hãy cùng Lịch ngày tốt theo dõi nội dung bên dưới nhé.   Ai cũng mong có được vận tài lộc hanh thông vượng phát, tiền bạc rủng rỉnh không lo thiếu thốn. Nhiều người còn tìm thầy phong thủy để xác định Tài vị trong nhà. Tài vị có vai trò rất quan trọng trong phong thủy, là nơi tàng tụ tài khí, giúp gia chủ có được tài lộc dồi dào hưng vượng.


bo tri tai vi theo phong thuy nha o
 
  Có vai trò quan trọng như vậy, chắc hẳn rất nhiều người sẽ quan tâm đến việc bố trí tài vị theo phong thủy như thế nào cho chuẩn, nên đặt gì ở Tài vị, tuyệt đối không được đặt gì ở đó. Hôm nay, hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu cách bố trí Tài vị hợp phong thủy để thu về tài lộc dồi dào nhé.  

Nên đặt gì ở Tài vị trong nhà

 

1. Cây xanh, cây cảnh

  Tài vị trong nhà là nơi tích tài tụ tài, thích hợp với những thứ tươi sáng, giàu sức sống. Nếu ở vị trí này đặt một cây xanh tràn trề sức sống thì vô cùng tốt. Nên chọn cây lá to, dày hoặc tròn thì hợp hơn. Có thể đặt những cây như cây phát tài, cây kim tiền…

dat cay xanh o tai vi
 
  Tuy nhiên, cần chú ý một điều, những cây này phải được trồng bằng đất, tuyệt đối không dùng nước bởi nước là Thủy, dễ cuốn trôi tài lộc. Các cây thủy sinh không thích hợp đặt ở tài vị trong nhà.   

2. Két sắt, két bạc

  Bố trí Tài vị theo phong thủy thế nào mới đúng, nên đặt gì ở Tài vị mới chuẩn? Theo thuyết phong thủy đời sống, nên đặt két sắt, két bạc trên vị trí Tài lộc trong nhà. Trong két phải đặt những đồ quý giá như tiền vàng, trang sức, châu báu…   Tuy nhiên, cần lưu ý một nguyên tắc “Tài bất lộ bái”, tức là tiền tài không được để hớ hênh ra ngoài. Đừng bao giờ nghĩ nhiều vàng bạc là tốt mà mua về két bạc có dát vàng bên ngoài rồi đặt ngay lên Tài vị là tốt. Nên chọn loại két bạc trông không quá lộ liệu, cũng nên phủ một lớp vải lên che đi hoặc dùng thiết kế nội thất để người khác không biết có két bạc đặt ở đó, có thể thiết kế két giống như một ngăn tủ hay giá sách là tốt nhất.  

3. Vật may mắn, vật phẩm phong thủy khai vận

 
dat tuong tam da o tai vi
 
Ở vị trí Tài lộc trong nhà, bạn có thể đặt những đồ vật mang ý nghĩa cát tường, vật phẩm phong thủy chiêu tài chiêu phúc cho gia chủ, ví dụ như tượng Tam đa Phúc Lộc Thọ hoặc tượng Văn Thần Tài – Võ Thần Tài. Cát càng thêm cát, tựa như gấm thêu hoa, giúp cho gia chủ có thêm ngày càng nhiều phúc lộc.  

4. Đồ vật có nước lưu động

  Nên bố trí Tài vị thế nào cho hợp phong thủy? Chúng ta thường thấy người ta đặt lên trên Tài vị đồ vật nào thường xuyên có nước lưu động? Đó chính là bể cá. Trong bể nuôi vài con cá đen, cá chép…   Bể cá nên chọn loại hình tròn là tốt nhất, cũng có thể chọn bình cá có miệng nhỏ thân đáy to. Màu sắc của cá có thể lựa chọn tùy thích, nên chọn những màu sắc tươi sáng rực rỡ. Chú ý chăm sóc cá cẩn thận, không được để cá bị bệnh hay chết trong bể.  

5. Tranh phong thủy có ý nghĩa chiêu tài

  Khi đã xác định được Tài vị trong nhà, nên chọn treo tranh phong thủy có ý nghĩa chiêu tài ở vị trí đó. Với các bức tranh, tốt nhất nên chọn tranh sơn thủy hữu tình bởi Thủy đại diện cho Tài lộc. Nếu treo tranh này ở phòng khách, cần phải đặc biệt chú ý đến hướng nước chảy trong tranh, tuyệt đối không để nước chảy theo hướng ra ngoài cửa, ngoài phòng. Tốt nhất nên để nước chảy về hướng phòng ngủ chính hoặc chỉ tụ nước trong nhà. 

treo tranh son thuy o tai vi
 
  Trong phòng ngủ, chớ nên bày những bức tranh có tính động, mạnh mẽ như Bát mã đồ hay Mãnh hổ hạ sơn, dễ ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng, khiến mối quan hệ bị đe dọa, dễ xảy ra tranh cãi, mâu thuẫn.   Ngoài ra, có thể chọn những bức tranh phong thủy cầu tài lộc như tranh Cửu ngư, Lý ngư vọng nguyệt, tranh hoa mai, hoa mẫu đơn, tranh Tam đa Phúc Lộc Thọ, tranh chim may mắn… mang thêm phúc khí, tài lộc và may mắn cho gia đình.  

Không nên đặt gì ở Tài vị trong nhà

 

1. Điều hòa

 

khong nen dat dieu hoa o tai vi

 
Đây là vật dụng khá phổ biến, có mặt trong hầu hết các gia đình, song bạn cần nhớ một điều, tuyệt đối không lắp đặt điều hòa bên trên vị trí Tài lộc trong nhà, điều này cực kì không tốt cho phong thủy nhà ở. Phong thủy đề cao việc “tàng phong tụ khí”, sợ nhất là bị gió thổi mất khí đang được tụ lại ở Tài vị. Nếu điều hòa đặt ở Tài vị sẽ có thể tạo ra luồng gió thổi bay tài khí, tiền bạc trong nhà cứ thế theo gió mà mất. Tương tự, nên tránh lắp quạt trần, quạt treo tường hay quạt bàn ở vị trí này.   

2. Máy nổ, máy phát điện, tivi, tủ lạnh

  Có một nguyên tắc trong bố trí Tài vị theo phong thủy, đó là Tài vị nên tĩnh, không nên động. Tại sao lại không nên để Tài vị chịu chấn động? Thứ nhất, trong quá trình tích tài tụ tài, nếu để tiếng động làm ảnh hưởng thì có thể xảy ra nhiều biến động, công việc làm ăn đang tốt có thể bị lụn bại, kém phần may mắn. Thứ hai, chấn động có thể khiến cho tài khí khó bề tích tụ, vì tài lộc luôn ở trạng thái động, nếu tài lộc đã vào nhà mà không giữ được thì sẽ có đủ chuyện xảy ra, khiến gia chủ tổn hao tiền của, tiền vào nhà như gió vào nhà trống.   Chính vì thế, gia chủ cần ghi nhở, ở Tài vị trong nhà không được để các vật thường xuyên gây ra chấn động hay phát nhiều tiếng động như máy nổ, máy phát, tivi, tủ lạnh…  

3. Những thứ rác thải, đồ không sạch sẽ

  Nếu bạn không có ý định bài trí nội thất gì ở vị trí Tài lộc trong nhà thì cũng cần phải nhớ rằng nhất định phải giữ cho Tài vị được sạch sẽ, gọn gàng. Những đồ vật đặt trên Tài vị phải chỉn chu, ở vị trí Tài lộc trong nhà không được để rác thải hay những đồ cũ kĩ, đồ không sạch sẽ lên trên.   Đó là điều cấm kị đối với bố trí Tài vị, chẳng những khiến cho môi trường sống không tốt mà còn làm ô uế Tài vị, khiến cho vận tài lộc của chính mình bị sa sút nghiêm trọng, tài sản trong nhà không ngừng biến mất, cho dù có kiếm được tiền thì cũng không phải là đồng tiền trong sạch do chính sức mình làm ra mà thường là tiền “bẩn”, tiền không rõ nguồn gốc, tiền do tham ô, nhận hối lộ mà có. Cứ tiếp tục như vậy, chắc chắn sẽ có chuyện xấu xảy ra.  

4. Đồ có trọng lượng nặng

 
gia sach khong nen dat o tai vi
 
Theo thuật phong thủy nhà ở, nếu Tài vị trong nhà phải chịu sức ép thì có thể sẽ khiến cho tài sản trong nhà không thể nào sinh sôi nảy nở. Nếu đặt những đồ nặng như tủ quần áo, giá sách hay giá/kệ đồ đạc lên trên Tài vị thì sẽ khiến cho đủ loại áp lực dồn nén lên trên Tài vị, vận tài lộc của cả căn nhà sẽ rơi vào cảnh nguy hiểm. Gia chủ tiền tài tổn hao, nguồn thu không có mà phải chi ra quá nhiều.   Trong nhiều trường hợp, nếu người làm ăn kinh doanh cho người khác mượn tiền mà mãi không đòi lại được thì khi ấy, bạn có thể xem lại phong thủy trong nhà, đặc biệt là Tài vị, bởi rất có thể điều này có liên quan đến việc Tài vị trong nhà bạn bị vật nặng trấn áp, khiến cho Tài khí khó bề sinh sôi nảy nở, tiền của chẳng thể sinh ra mà chỉ có càng ngày càng tiêu biến. Của cải bị tổn hao, công việc kém bề thuận lợi, nếu không mau chóng sửa đổi lại vị trí phong thủy hoặc bố trí Tài vị hợp phong thủy thì chắc chắn chuyện không may sẽ càng nhanh kéo tới.  
An An

Cấm kị tài vị, quên là thoái tài Tài vị - trọng yếu trong tài vận của gia đình Vị trí đặt ban thờ Thần Tài, Thần Y chuẩn phong thủy 8 lưu ý cho tài vị để tài vận được hanh thông

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí tài vị theo phong thủy: Nên và không nên

Tướng phụ nữ cao số

Hai cằm chính là biểu tượng cho sự phú quý của phái nữ. Cằm giống như kho của cải của người phụ nữ, càng dày thì càng có nhiều tiền tài.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Hai cằm

tướng phụ nữ đẹp tướng phụ nữ đa tình tướng phụ nữ thích ngoại tình tướng phụ nữ phú quý tướng phụ nữ mông cong tướng phụ nữ lông mày rậm tướng phụ nữ lấy chồng giàu tướng phụ nữ giàu sang tướng phụ nữ giàu có tướng phụ nữ cao số tướng phụ nữ thế nào là người phụ nữ cao số phụ nữ mang thai sốt cao phụ nữ cao số

Rất nhiều cô gái có hai cằm nhưng đã giảm cân vì muốn xinh đẹp hơn, thậm chí còn đi phẫu thuật thẩm mỹ để bỏ hai cằm. Nhưng họ không biết rằng hai cằm chính là biểu tượng cho sự phú quý của phái nữ. Cằm giống như kho của cải của người phụ nữ, càng dày thì càng có nhiều tiền tài. Những người con gái có hai cằm còn được gọi là những người có tướng giúp chồng. Nó không chỉ đem lại may mắn cho bản thân, mà còn giúp cho sự nghiệp của chồng. Những người con gái có tướng mạo như vậy thì sẽ luôn có tài vận tốt.

Trán cao, rộng và đầy

Nếu phái nữ có trán cao, nhẵn và rộng thì rất có thể sẽ được gả vào nhà giàu có. Người có trán cao rất tài hoa và tương đối thông minh. Trán nhẵn và rộng thể hiện sự phóng khoáng, cao quý. Những người có tướng mạo thế này rất hợp với cuộc sống trong gia đình quyền quý. Họ có khả năng ứng khó với các quy tắc mà không thất lễ với những người trong gia đình. Những người con gái có tướng mạo thế này cũng rất được cánh mày râu ưa thích. Có thể nói họ là những mỹ nhân có khí chất, và rất có ưu thế trong các mối quan hệ giao tiếp.

Mắt to, mày dài, lông mi cong

tướng phụ nữ đẹp tướng phụ nữ đa tình tướng phụ nữ thích ngoại tình tướng phụ nữ phú quý tướng phụ nữ mông cong tướng phụ nữ lông mày rậm tướng phụ nữ lấy chồng giàu tướng phụ nữ giàu sang tướng phụ nữ giàu có tướng phụ nữ cao số tướng phụ nữ thế nào là người phụ nữ cao số phụ nữ mang thai sốt cao phụ nữ cao số

Rất nhiều người nói, lông mày là nơi để giao lưu tình bạn. Nếu người con gái có lông mày dài, mỏng và đôi lông mi cong thì vô cùng có khí chất. Cho dù làm bất cứ việc gì, họ cũng không dễ dàng lùi bước hoặc từ bỏ. Nếu có thêm cặp mắt to thì lại càng có sức sống hơn. Rất nhiều đàn ông chết mê chết mệt vì những người con gái vừa hấp dẫn vừa tràn đầy sức sống này. Người ta sẽ cảm thấy vô cùng thoải mái khi ở bên họ. Vì thế, những người con gái này rất thuận lợi trên phương diện tình cảm.

Gò má cao vừa phải

Nếu trán và cằm đã tương đối đẹp thì cần phải phối hợp với xương gò má. Mỗi người đàn ông luôn cần một cô vợ đảm, mà hai bên gò má của người phụ nữ chính là sự động viên của người chồng. Vì thế gò má của người phụ nữ không được phép quá cao. Những người phụ nữ có hai bên má cao vừa phải sẽ là những người nội trợ đảm đang, là hậu phương vững chắc cho người chồng sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi.3. Gò má cao vừa phải

Ngón tay dài

tướng phụ nữ đẹp tướng phụ nữ đa tình tướng phụ nữ thích ngoại tình tướng phụ nữ phú quý tướng phụ nữ mông cong tướng phụ nữ lông mày rậm tướng phụ nữ lấy chồng giàu tướng phụ nữ giàu sang tướng phụ nữ giàu có tướng phụ nữ cao số tướng phụ nữ thế nào là người phụ nữ cao số phụ nữ mang thai sốt cao phụ nữ cao số

Rất nhiều người nói con gái có ngón tay dài thì vất vả, không có vận mệnh tốt. Thực ra không phải như vậy. Những người con gái có ngón tay dài, thon đa phần đều chỉ có thể dựa vào bản thân mình. Ngón tay dài tức là giữ được tiền, có khả năng kiếm tiền rất tốt. Ấn tượng đầu tiên của mọi người đối với những cô gái này là sự thục nữ. Trong sự nghiệp, họ nhất định sẽ thuận buồm xuôi gió.

Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ cao số

Xem xét kỹ lưỡng khi mua nhà –

(1) Cửa của các phòng có đóng mở dễ dàng không? Một số nhà làm ẩu thường không đóng được cửa. (2) Có. khe hở giữa cửa vói tường xi măng hay không? Khung cửa sổ là nơi dễ va đập, chỗ ghép giữa cửa sổ với tường phải khít, không được có khe hở (3) Đóng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thuy-sy

(1) Cửa của các phòng có đóng mở dễ dàng không? Một số nhà làm ẩu thường không đóng được cửa.

(2) Có. khe hở giữa cửa vói tường xi măng hay không? Khung cửa sổ là nơi dễ va đập, chỗ ghép giữa cửa sổ với tường phải khít, không được có khe hở

(3) Đóng mở cửa sổ ở các phòng có bị dít quá không? Mở và đóng có dễ dàng không?

(4) Nền nhà vững chắc không, có nứt vỡ, lõm xuống, khi đi có phát ra tiếng kêu hay không?

(5) Trên trần nhà có phải bị nứt hay không? Thường thì đưòng rạn nứt song song với dầm ngang ngôi nhà là chuyện thường gặp, tuy có vấn đề về chất lượng nhưng về cơ bản thì vẫn sử dụng được. Nếu đường rạn nứt tạo góc nghiêng 45 độ với góc tưòng, thậm chí vuông góc với dầm ngang thì chứng tỏ nhà bị lún khá nghiêm trọng, có vấn đề đáng quan tâm về chất lượng của kết cấu.

(6) Trên trần nhà có phải có điểm lỗ rỗ? Những điểm rỗ này được tạo ra do nước vôi chưa được tôi kỹ. Nếu trần bị rỗ sẽ ảnh hưởng không tốt đến việc trang trí của căn phòng.

(7) Tường, trần nhà có chỗ nào bị lồi lên không? Dùng gậy gỗ gõ vào xem có tiếng kêu cộp cộp hay không

(8) Khi xả nước bồn cầu thoát có nhanh không? Tiếng nước chảy có bình thường không? Cái két nước có bị rò rỉ không?

(9) Chỗ tiếp nổi giữa bồn tắm, chậu rửa mặt với tường hay tủ chống thấm có hợp lý không?

(10)  Phòng vệ sinh, phòng bếp có lỗ thoát nước không, độ nghiêng có bình thường không, tuyệt đối không được nghiêng về phía cửa ra vào, nếu không nước sẽ chảy vào trong nhà.

(11) Thử xem tất cả các công tắc, ổ cắm, cầu dao tổng của các phòng có vấn đề gì không? Vị trí các mạch điện, truyền hình cáp, ổ cắm điện thoại cũng nên kiểm tra kỹ. 30% hỏa hoạn bắt nguồn từ sự cố về điện, điều này có mối quan hệ tướng quan với việc lắp đặt đưòng điện. Tăng số mạch điện kín có thể đảm bảo về tuổi thọ sử dụng dây điện, giảm bớt việc phát sinh sự cố đoản mạch.

(12) Trần nhà có bị thấm nưốc, rạn nứt hay không? Nếu bị thấm nước chứng tỏ có sự rò rỉ. Nếu bạn thuê căn hộ trên cùng thì việc quan sát xem trần nhà có bị rò rỉ nước hay không là việc bắt buộc phải làm.

(13) Nguyên liệu ông dẫn nưóc là gì? Hiện nay đa số ống dẫn nước được làm bằng đồng. Loại ống này có thể sử dụng an toàn trong 50 năm. Đồng có thể ngăn chặn vi trùng sinh sôi, tăng cường lượng đồng trong nước, có lợi cho sức khỏe.

(14) Thử xem công tắc bình nóng lạnh có hoạt động bình thường hay không?

(15) Các đường ống các phòng, phòng khách có phải lộ ra ngoài không? Có phải có đưòng ống xuyên qua? Vì có nhiều đưòng ống xuyên qua phòng sẽ khó cho việc trang trí, làm mất mỹ quan và ảnh hưởng đến tổng thể.

(16) Chất lượng nước máy như thế nào? Chú ý nước của do thành phố cung cấp và nguồn nước của riêng khu dân cư.

(17) Mặt tường, trần nhà có chỗ nào quá nghiêng, cong, tạo sóng, nhô lên, lõm xuống hay không? Cách đơn giản nhất là dùng đèn pin chiếu lên tường và trần nhà, khi đó chỉ cần nhìn qua là biết ngay có chỗ nào lồi lõm hay không.

(18) Kiểm tra xem trong nhà có sạch sẽ hay không? Có còn sót lại rác thải xây dựng hay không? Kiểm tra tất cả những nơi có thể và giỡ ra xem có rác hay không?

(19) Yêu cầu nhà khai thác đưa ra bản để án hoàn thành công trình và bản kê chi tiết diện tích đo đạc thực tế.

(20) Yêu cầu sách hướng dẫn sử dụng các sản phẩm lắp đặt trong nhà bêp, nhà vệ sinh, đồng thời hỏi rõ vấn đề bảo hành của các sản phẩm đó.

(21) Kiểm tra xem độ nghiêng của lỗ thoát nước trong phòng tắm, phòng bếp có đủ để nước đọng chảy ra ngoài hay không. Cách kiểm tra: đổ nước trực tiếp.

(22) Khi xem nhà nên mang theo một dụng cụ điện ba chạc loại dẹt (như sạc điện), cắm vào tất cả các ổ cắm để kiểm tra xem toàn bộ nguồn điện đã được lưu thông khắp căn nhà hay chưa.

(23) Khi đi xem nhà nên đem theo một cái thước đo, để đo tường, nền nhà có bằng phang hay không.

(24) Kiểm tra bồn tắm xem có bị thấm nước hay không. Cách kiểm tra: những vết nứt nhỏ khó có thể phát hiện bằng mắt. Đổ một chậu nước vào bồn tắm, đồng thời đánh dấu ở gần mặt nước, đến hôm sau lại đi kiểm tra vị trí nước, vì bị bốc hơi nên vạch nước có thể hạ đi một chút xíu nhưng nếu hạ một cách rõ rệt thì có thể bồn tắm bị rò nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem xét kỹ lưỡng khi mua nhà –

Đàn ông tuổi nào kinh doanh giỏi, kiếm tiền nhiều?

Có những người trời sinh đã có đầu óc kinh doanh. Trong số 12 con giáp, những con giáp nam nào kinh doanh giỏi, kiếm bộn tiền nhờ tài buôn bán của mình?
Đàn ông tuổi nào kinh doanh giỏi, kiếm tiền nhiều?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những người trời sinh đã có tài tính toán làm ăn, là những doanh nhân bẩm sinh. Trong số 12 con giáp, những con giáp nam nào kinh doanh giỏi, kiếm bộn tiền nhờ tài buôn bán của mình?   Phi thương bất phú”, rất nhiều người mơ ước có thể tự mình khởi nghiệp nhưng không phải ai cũng thành công. Song lại có rất nhiều người dám nghĩ dám làm, nhanh chóng đạt được thành công nhờ đầu óc kinh doanh.
 
Khoa học và giáo dục đã không ngừng bàn luận về nguồn gốc của khuynh hướng doanh nhân, liệu một người kinh doanh thành công là do tài năng trời phú hay do quá trình nuôi dưỡng, rèn luyện. 
 
Đầu óc kinh doanh, tính toán làm ăn dường như là thế mạnh của đàn ông. Trong tâm trí của hầu hết chúng ta, khi nhắc đến doanh nhân, trước mắt ta lại hiện lên hình ảnh của những người đàn ông thành đạt trong những bộ vest được may đo sang trọng. Vậy theo tử vi, trong số 12 con giáp, những con giáp nam nào là doanh nhân bẩm sinh từ trong trứng nước? Những ai là người đàn ông kinh doanh giỏi, thành đạt nhờ tài năng của chính mình? Hôm nay Lịch ngày tốt sẽ bật mí cho các bạn đáp án của câu hỏi này nhé.


Dan ong tuoi nao kinh doanh gioi, kiem tien nhieu hinh anh
 

Đàn ông tuổi Dần: Nhiều tham vọng, nhiều hoài bão
 

Nam giới tuổi này không phải là mẫu người có suy nghĩ an phận. Họ là những con Hổ dũng mãnh, Chúa tể sơn lâm, mang trong mình nhiều hoài bão lớn. Họ luôn nung nấu ý chí quyết tâm làm giàu, trở thành người có địa vị trong xã hội.
 
Trong số 12 con giáp, đàn ông tuổi Dần là người có tài lãnh đạo, có đầu óc kinh doanh. Bạn sẽ không phải hối hận khi hợp tác làm ăn với người này, bởi máu doanh nhân bẩm sinh sẽ giúp họ có sự nhạy bén đáng ngưỡng mộ, đánh đâu thắng đấy.

Mời bạn đọc thêm: Người tuổi Dần nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?

 

Đàn ông tuổi Tý: Nhà đầu tư xuất sắc
 

Đàn ông tuổi này là những người có ý chí kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục trước khó khăn. Đây cũng là người thông minh, lanh lợi, túc trí đa mưu, mang phẩm chất của một thương nhân tài ba, kinh doanh giỏi.


Dan ong tuoi nao kinh doanh gioi, kiem tien nhieu hinh anh
 

Cũng chính nhờ khả năng tìm tòi sáng tạo, nhiều chủ kiến khác người lại đam mê mạo hiểm nên nam giới tuổi Tý thường thích đầu tư và đạt được nhiều thành công trong lĩnh vực này. Nói đây là con giáp có đầu óc kinh doanh, là doanh nhân bẩm sinh cũng không có gì là quá.

Bạn đã biết về Tử vi tuổi Tý năm 2017 hay chưa?
 

Đàn ông tuổi Thìn: Nhạy bén, nhìn xa trông rộng
 

Người này có khí chất bất phàm, từ nhỏ đã thông minh đĩnh ngộ, tài trí hơn người. Những đứa con của Rồng cũng là người kinh doanh giỏi, có tài năng xuất chúng, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư. Họ rất nhạy bén với thời cuộc, tầm nhìn xa trông rộng, dự đoán khá chính xác những gì sẽ thu nhiều lợi nhuận trong tương lai.
 
Suy nghĩ sáng tạo, kiến giải độc đáo, luôn suy tính những chuyện đi trước thời đại… có thể những điều đó đôi lúc khiến họ trở thành kẻ lập dị trong mắt người khác nhưng tới cuối cùng, ai ai cũng phải khâm phục vì những điều họ nói đa phần đều trở thành sự thực.
 
Cơ hội thì ai cũng có, nhưng không phải ai cũng nhạy bén nắm bắt được. Nam giới tuổi Thìn là số ít người có được tài năng ấy. Đầu óc kinh doanh sắc sảo khiến họ luôn có thể phát hiện ra những giá trị hiếm có trong mớ hỗn lộn, là những người “đãi cát tìm vàng” xuất sắc trong giới doanh nhân.


Dan ong tuoi nao kinh doanh gioi, kiem tien nhieu hinh anh
 

Đàn ông tuổi Thân: Giàu ý tưởng, dám nghĩ dám làm
 

Đây là người được đánh giá là “cao thủ” trong lĩnh vực kinh doanh, là những doanh nhân bẩm sinh từ trong bụng mẹ. Họ can đảm, dám nghĩ dám làm. Trong từ điển của người tuổi Thân không có hai chữ “sợ hãi”.
 
Có thể rất nhiều người đều suy nghĩ rằng “làm giàu không khó” nhưng không phải ai cũng dám thực hiện. Đàn ông tuổi Thân là một trong số ít người làm được điều đó. Trong đầu họ có vô số ý tưởng, vô số kế hoạch luôn sẵn sàng thực hiện.

Vậy những người này nên chọn ai làm bạn đời, mời bạn đọc Người tuổi Thân hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân.
 
Dù thế sự xoay vần, thời cuộc thay đổi, tình thế biến chuyển, con giáp này đều có thể linh hoạt ứng biến, đối phó với mọi khó khăn, trở ngại. Đầu óc kinh doanh đáng kính nể khiến bản thân họ tỏa ra ánh hào quang, ai ai cũng muốn đến gần.

Hy Vũ

Top 3 con giáp có khả năng kinh doanh thiên bẩm, tương lai bội tiền Biết cách chọn địa thế tốt để việc làm ăn phất như vũ bão
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đàn ông tuổi nào kinh doanh giỏi, kiếm tiền nhiều?

Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Một bài viết tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên. Mời mọi người cùng đọc.
Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả Hà Uyên về dịch số, quẻ dịch, mai hoa trên các diễn đàn lý số

Sự Thiếu Sót của quẻ Mai Hoa Năm Tháng Ngày Giờ

Vinhl, Thứ tư, 20/05/2009 | 01:35, hỏi:

Xin Chào các bạn,

Gần đây VinhL cùng với một người bạn nghiên cứu và bàn luận về quẻ Mai Hoa của Năm Tháng Ngày Giờ, qua nhiều khảo nghiệm thì khám phá ra quẻ Mai Hoa Năm Tháng Ngày Giờ chỉ sử dụng được 192 quẻ trùng một hào động.

VinhL xin giải thích như sau:

Quẻ Mai Hoa của Năm Tháng Ngày Giờ:

Dùng tổng số của Niên Chi, Tháng Âm Lịch, Ngày Âm Lịch, chia cho 8, lấy số dư làm Thượng Quái

Dùng tổng số của Niên Chi, Tháng Âm Lịch, Ngày Âm Lịch, Giờ (12 Chi), chia cho 8, lấy số dư làm Hạ Quái

Dùng tổng số lấy được khi tìm Hạ Quái chia cho 6, lấy số dư làm Hào Động.

Quẻ Mai Hoa dùng 64 trùng quái, mỗi quái có 6 hào, như vậy mỗi trùng quái có 6 quẻ một hào động. Như vậy toàn bộ có 64 x 6 = 384 quẻ một hào động.

Trong các phương pháp lấy quẻ Mai Hoa, ngoài trừ phương pháp dùng Năm Tháng Ngày Giờ, thì các phương pháp khác đều có thể lấy được bất cứ quẻ nào trong 386 quẻ một hào động.

Tại sao phương pháp dùng Năm Tháng Ngày Giờ của Mai Hoa chỉ có thể lấy được 192 quẻ một hào động mà không phải 384 quẻ?

Xin dẫn chứng như sau:

Thượng Quái = (Năm + Tháng + Ngày) – 8t, t=0,1,2,....

Hạ Quái = (Năm + Tháng + Ngày + Giờ) – 8h, h=0,1,2,...

Hào Động = (Năm + Tháng + Ngày + Giờ) – 6d, d=0,1,2,...

Từ sự tương quan giữa Hạ Quái và Hào Động ta có

Hạ Quái + 8h = Hào Động + 6d

tức là

(Hạ Quái – Hào Động) = 2 x (3d – 4h)

Vì vậy ta có

(Hạ Quái – Hào Động) / 2 = 3d – 4h

Theo công thức trên (Hạ Quái – Hào Động) / 2 phải là một số nguyên, tức (Hạ Quái – Hào Động) phải là một số chẳn. Như vậy muốn có được (Hạ Quái – Hào Động) là số chẳn thì Hạ Quái và Hào Động đều phải cùng là số chẳn hoặc số lẻ.

Từ đó ta có: Hạ Quái là số lẻ thì Hào Động là số lẻ, Hạ Quái là số chẳn thì Hào Động là số chẳn.

Nay xin liệt kê tất cả các quẻ có thể xảy ra khi dùng Năm Tháng Ngày Giờ để lấy quẻ Mai Hoa (một hào động).

Hạ Quái............ Hào Động....................... Tổng số quẻ

Càn 1................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Càn

Đoài 2............... 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Đoài

Ly 3.................. 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Ly

Chấn 4.............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Chấn

Tốn 5................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Tốn

Khảm 6............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Khảm

Cấn 7................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Cấn

Khôn 8.............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Khôn

24 x 8 = 192 quẻ một hào động.

Như thế phương pháp lấy quẻ Mai Hoa bằng Năm Tháng Ngày Giờ không phải đã thiếu đi một nửa bộ của dịch 384 quẻ một hào động không?

Kết quả trên cho thấy dùng Năm Tháng Ngày Giờ để lấy quẻ Mai Hoa thì các bạn sẻ không bao giờ lấy được quẻ Thiên Phong Cấu động hào 4, vì Hạ Quái Tốn là số 5, thì chỉ có thể động hào 1, 3, va 5 thôi.

Thiển nghỉ theo phương pháp của ông Thiệu Khang Tiết thì ta thấy Thượng Quái không thay đổi trong 1 ngày, Hạ Quái và Hào Động thì thay đổi từng giờ, mà mỗi giờ thì Hào Động lệ thuộc vào Hạ Quái và chỉ có thể động 1 hào trong 3, thay vì 6.

Để có thể sử dụng toàn bộ 384 quẻ một hào động thì phương pháp lấy hào động không nên lệ thuộc vào Hạ Quái. Có thể chỉ lấy giờ để tính hào động hoặc lấy tổng số (Ngày + Giờ) để tìm hào động.

Thân

Vâng, xin chào VinhL

Phương pháp phân tích, chứng minh và giải quyết vấn đề của anh VinhL, thông qua ví dụ diễn giải, đã làm sáng tỏ một cách minh triết vấn đề, mà không phải ai, khi đọc sách ứng dụng nó, nhìn nhận được ra. Cảm ơn anh.

Hà Uyên chỉ thắc mắc, đối với "Hoàng cực kinh thế" và "Mai hoa dịch số", cùng một tác giả, có lẽ Thiệu Ung xây dựng một hệ thống tính toán chặt chẽ hơn. Đây có phải do lỗi Nhà xuất bản không in, hay vì một lý do nào đấy không? Vậy mà cuốn sách vẫn được phát hành.

Hà Uyên cùng trao đổi với anh VinhL, ở góc độ này, Hà Uyên đang thống kê để tìm quy luật:

- Năm-Tháng-Ngày-Giờ, xác định được "thứ tự số" theo Tiên thiên, ví dụ Ngoại quái được "thứ tự số" là 3, Nội quái được "thứ tự số" là 7, ta được quẻ Hỏa Sơn Lữ.

- Khi theo Hậu thiên, thì số 3 Ngoại quái gồm những quẻ:3, 13, 23, 33, 43, 54, 63. Số 7 Nội quái gồm những quẻ: 7, 17, 27, 37, 47, 57

- Trên nguyên lý: Dịch luôn luôn biến đổi không ngừng - Vậy thì sau quẻ Hoả Sơn Lữ, sẽ tiếp diễn đến quẻ nào? Và khi nào thì xác định được "đầu" và "cuối" (có chung có thuỷ), có đầu có cuối?

- Khi chúng ta sử dụng hệ thống Thiên can để xác định thời điểm Khởi đầu - Kết thúc, Hà Uyên vẫn đang còn lúng túng về vấn đề này, Ví dụ:

+ BÍNH TÂN HỢP: năm 1916 - 1917 là năm Bính - Đinh, cho chúng ta biết điểm khởi đầu là "Tụ", đến năm 1991 là năm Tân, cho chúng ta biết điểm kết thúc là "Tán". Thực tiễn cho chúng ta thấy Liên bang Xô viết "tụ" lại thành một khối thống nhất năm 1916 - 1917, và đến năm 1991 thì "tán". Ở đây chúng ta chỉ xét về những tinh hoa của quá khứ đã để lại cho chúng ta, mà không bàn về Chính trị. Đây là nguyên lý âm - dương, tụ tán, ẩn hiện, đến đi, chính phản,...

+ Điểm xuất phát của phương pháp, Hà Uyên vẫn từ thứ tự số Tiên thiên, nhưng khi tính thì theo Hậu thiên.

Xin cảm ơn VinhL

...

VinhL, Thứ năm, 21/05/2009 | 12:01 hỏi:

Thưa Bác Hà Uyên,

VinhL đọc thấy Sư Phụ Thiên Sứ gọi Bác là Anh, thế thì VinhL phải thành thật xin lỗi là đã xưng hô với Bác là Bạn. Theo các bài viết của Bác thì Bác đã đọc qua Hoàng Cực Kinh Thế rồi, như thế thì chắc củng biết là sau quẻ Hoả Sơn Lư thì đến quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá theo như vòng tròn 64 quái của ông Thiệu Khang Tiết. Theo Hoàng Cực Kinh Thế thì bắt đầu là quẻ Phục, đến quẻ Bác, thì trở Phục, vì một vòng tròn thì đâu có kết thúc.

Nếu Bác lập một bảng trùng quái theo Ngoại quái Nội quái, sự vận hành của các quái trong bảng này sẻ hình thành một vòng Thái Cực Càn Đoài Ly Chấn nghịch hành Tốn Khảm Cấn Khôn thuận hành.

Theo cách lấy quẻ trong Hoàng Cực Kinh Thế:

(Để phân biệt Phút Giây theo Hoàng Cực Kinh Thế, VinhL xin gọi Phút là Phân, và Giây là Miễu theo Hán Việt)

1 Nguyên = 12 Hội = 129600 năm

1 Hội = 30 Vận = 10800 năm

1 Vận = 12 Thế = 360 năm

1 Thế = 30 Phân = 30 năm

1 Năm = 12 Tháng = 129600 Phân

1 Tháng = 30 Ngày = 10800 Phân

1 Ngày = 12 Giờ = 360 Phân

1 Giờ = 30 Phân

1 Giờ = 12 Miễu

Theo quyển “Nguyên Lý Chọn Ngày Theo Lịch Can Chi” của Tiến Sỉ Hoàng Tuấn thì Hội Ngọ bắt đầu vào năm 2198 Trước Công Nguyên.

Năm 1916 có

2198 + 1916 = 4114

4114 / 360 = 11 dư 136 năm tức hiện đã ở Vận thứ 12 của Hội Ngọ

136 / 30 = 4 dư 16 năm tức hiện ở vào Thế 5 của Vận 12, Hội Ngọ

1916 đang ở Hội Ngọ, Vận 12, Thế 5, năm thứ 16

Theo Hoàng Cực Kinh Thế thì 64 quẻ trùng không dùng 4 quẻ tứ Chính Càn Khôn Khãm Ly, còn lại 60 quẻ chia cho 12 Hội, mỗi Hội được 5 quẻ. Hội Tý có 5 quẻ Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Chấn Vi Lôi, vvv... Hội Ngọ có 5 quẻ Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại Quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Tốn Vi Phong.

Mồi Hội có 5 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào, 5x6 = 30 Vận.

1916 ở vào Vận thứ 12 Hội Ngọ tức quẻ Trạch Phong Đại Quá Động Hào Lục biến thành quẻ Cấu.

1 Vận có 12 Thế, mồi quẻ có 6 hào, tứ 2 Thế biến 1 hào. Thế 5 biến hào tam của quẻ Cấu tức là quẻ Thiên Thủy Tụng. 1 Thế có 30 năm, 2 Thế tức 60 năm, quẻ Thiên Thủy Tụng có 6 hào vậy 10 năm động một hào.

Năm thư 16 động hào 2 của quẻ Thiên Thủy Tụng tức được quẻ Thiên Địa Bỉ.

Tóm Lại 1916 có

Vận 12 Hội Ngọ: Quẻ Trạch Phong Đại Quá biến Cấu

Thế 5: Cấu biến Thiên Thủy Tụng

Năm thứ 16: Tụng biến Bỉ

Thưa Bác Hạ Uyên đó là diễn quái theo sự hiểu biết của VinhL khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế.

VinhL thì củng ít khi sử dụng kiến thức của mình để chiêm đoán thế sự, về mặt này rất là kém, phải nhờ Bác chỉ dạy thêm.

Nếu Bác muốn nghiên cứu sâu vào sự ứng dụng của Hoàng Cực Kinh Thế kết hợp với Tử Vi, thì Bác phải nghiên cứu đến Thiết Bản Thần Số rồi. Hiện nay VinhL củng đang tìm tòi sưu tầm sách về môn này đây.

Theo truyền thuyết, ông Thiệu Khang Tiết biết con gái mình sẻ không tài ba như mình nên lập ra Thiết Bản Thần Số để đường cùng thì có thể dùng nó để sinh sống. Vì vậy mà củng có thuyết là bí mật của Thiết Bản Thần Số chỉ truyền cho phái nử (Không biết truyền thuyết này có đúng không). Hiện nay trên thị trường mỗi môn phái mồi cách tính, không biết đâu là giả đâu là thật. Ngoài Thiết Bản Thần Số lại còn Hà Lạc Lý Số củng do ông Thiệu Khang Tiết kết hợp Bát Tự Hà Lạc với phương pháp của Thiết Bản Thần Số mà lấy các câu quyết đoán.

Nếu có chỗ nào sơ sót xin Bác cứ thẳng thắng mà chỉ giáo nhé.

Kính

Hà Uyên xin chào các Anh Chị trên diễn đàn

Hà Uyên chào VinhL

Sự đàm luận cùng bầu bạn tâm giao, bằng những ngôn ngữ hiểu nhau, có phần hơi kiêu kỳ, nó được coi như một hoạt động tinh thần tế nhị. Sự thanh đàm này, chỉ có được giữa bạn bè có cùng một nhận thức. Chữ "nhận thức" ở đây, Hà Uyên chỉ muốn nói về góc độ, khi chúng ta đọc sách Dịch Kinh, tìm hiểu về Dịch học và khi ứng dụng những kiến thức của Dịch học, vào cuộc sống thực tiễn vậy.

Thực học càng được, thì Tính càng mất đi.!

Chúng ta có thể, nên thống nhất với nhau, rằng: chúng ta đã trải qua giai đoạn "Đồng thanh tương ứng", mà hiện tại, chúng ta đang ở giai đoạn "Đồng khí tương cầu", có nghĩa là, chúng ta đang chạy maratong 42 km, không phải là đang chạy 100 mét.

Người nước lớn công nhận tên được ban là "Khang Tiết" tại đời vua Nguyên Hựu, hiện tại chúng ta đang thừa nhận tìm hiểu hệ thống học thuyết, nên gọi chính danh là: Thiệu Ung.

Chúng ta bắt đầu từ: QUY LUẬT THỜI GIAN

- Toàn thể loài người đang sử dụng thời gian: một ngày có 24 giờ, một giờ có 60 phút, một phút có 60 giây. Chúng ta tạm gọi là Dương lịch.

- Thiệu Ung khi xây dựng kết cấu cho hệ thống tính toán của mình, đã lấy "đơn vị ngày" làm đơn vị cơ sở cốt lõi, với phương pháp theo "tư duy số". Tại sao phải lưa chọn như vậy?

Khi chọn "năm" làm đơn vị để tính, thì sẽ vướng phải lịch "tiết khí", cứ 19 năm thì có 7 năm, phải tồn tại một "tháng nhuận", mâu thuẫn với nguyên tắc của "số 7", đó là 12 +7 = 19, sẽ là 19 x 360 = 3420, khi lấy đơn vị tính là "một Nguyên = một năm", thì 129600 là số không chia hết.

Khi chọn "tháng" làm đơn vị tính, thì sẽ mâu thuẫn với Nguyên lý Ngũ hành, về "Kỳ hạn biến hoá" (thời gian tới hạn) của vật chất làm đơn vị tính để tính, khi định cát - hung.

Thiệu Ung xây dựng hệ thống "tư duy số" cho cá nhân mình, Ông lấy đơn vị là "ngày" có 12 giờ, một Giờ có 30 vận, một Vận có 12 thế, một Thế có 30 Giây. Chúng ta tạm gọi là Ngày âm lịch, có nghĩa là:

- Một ngày có 129600 giây, tương đương với một Giờ có 10800 giây

- Một Giờ có 30 vận, thì một giờ có 180 phút, có nghĩa là: một Vận là 6 phút, và như vậy thì: một Thế có 30 giây

Như vậy mối quan hệ của một ngày Dương lịch là 86400 giây, so với ngày Âm lịch 129600 giây, sẽ tồn dư 129600 - 86400 = 43200 giây, tương đương với 72 phút, tương dương với 4 giờ âm lịch.

Đến đây, có thể Thiệu Ung đành phải dùng Lý học, mà không dùng "tư duy số". Tại sao lại như vậy? Vì một ngày, theo giờ phương Đông có 12 Giờ, chi phí cho thời gian bảo tồn năng lượng và tái hồi sức sống, thì loài người, chúng ta phải ngủ mất 4 Giờ, chỉ còn lại 8 giờ là thức. Do vậy, trong "Hoàng cực Kinh thế" ông đã viết: "bỏ một lấy hai, bỏ ba chọn bảy,..." (Hoàng cực kinh thế - tập 2). Có nghĩa là, trong tính toán, chia làm 3 phần, thì bỏ một phần lấy hai phần, tức là bỏ 4 lấy 8 để dụng.

Về công thức tính, chúng ta sẽ trao đổi từng phần. Theo Hà Uyên, với công thức tính toán của Thiệu Ung, thì loài người đang ở vào Tháng Bảy, ngày 12 âm lịch, giờ Mão.

Hà Uyên xin cảm ơn VinhL đã quan tâm.

....

VinhL, Thứ sáu, 22/05/2009 | 13:57

Chào Bác Hà Uyên,

Nghiên cứu lại các bài viết về 12 biến của Bác, và vấn đề tại sao Kinh Phòng khi quy nạp quẻ theo Ngũ Hành, không cho biến đến hào 6, thì VinhL suy luận là chổ quan trọng không phải là 2 quẻ động hào 6 mà là sự thiếu sót của phương pháp biến hào tiệm tiến. Nếu lấy 8 quẻ bát thuần theo phương pháp biến hào tiệm tiến thì sẻ không bao giờ biến ra được 8 quẻ Du Hồn và 8 quẻ Quy Hồn, cho nên khi biến đến hào năm thì phải quay lại biến hào 4 và kế đến là biến 3 hào dưới. Theo phương pháp biến hào tiệm tiến 6 biến sau củng chính là 6 biến đầu của quẻ đối hào, cho nên có sự lập lại. Vì vậy theo phương pháp biến hào tiệm tiến thì 8 quẻ Bát Thuần chỉ biến ra được 48 quẻ thiếu đi 16 quẻ Du Hồn và Quy Hồn.

Nếu tám quẻ thuần biến quẻ theo thứ tự quẻ đơn của Tiên Thiên Bát Quái thì sẻ biến ra đủ 64 quẻ, có lẻ vì vậy mà ông Thiệu Khang Tiết dùng phương pháp biến quẻ Tiên Thiên làm gốc, và kết hợp với cách biến hào tiệm tiến. 12 Hội thì dùng quẻ biến theo Tiên Thiên, Vận Thế thì biến theo tiệm tiến.

Về năm tháng ngày theo Nguyên Hội Vận Thế của 1916 thì theo Bác là Tháng 7 Ngày 12 Giờ Mão. Theo VinhL tính thì Hội Ngọ, Vận 12, Thế 5, Phân 16, tức là Tháng 7 Ngày 12, giờ Thìn, 16 Phút, như vậy có sai biệt 1 giờ, mong Bác giải thích cách tính của Bác để VinhL biết được chổ sai. Thành thật cám ơn.

Vài lời suy luận nếu có gì sai Bác cứ thẳng thắng chỉ điểm.

Kính

Vâng VinhL đã để lại cho Hà Uyên một nội hàm (cảm giác bên trong) thực sự phấn chấn. Sau hơn 2000 năm, người Việt nam, khi nói theo đơn vị hành chính, dân tôc Lạc Việt, khi nói theo tiến trình logic của Lịch sử, đã và đang tìm về côi nguồn của mình. Chúng ta đã đánh giá đúng về Kinh Phòng, khi ông dùng hào 1 quẻ Thuần Càn: "vật dụng", phối hợp với Ngũ hành nạp hào quẻ Dịch, thì 8 quẻ "Bát thuần", Kinh Phòng gọi là quẻ Bố - Mẹ, không tồn tại quẻ "Quỷ dịch": Du hồn và Quy hồn. Đây là một "chìa khoá" rất quan trọng đối với các môn học thuật Phương Đông. Cảm ơn, cảm ơn VinhL nhiều. Đến tại thời điểm này, theo những gì Hà Uyên được biết, Thiệu Vĩ Hoa hay những diễn đàn chính thức, chưa có những công bố về: công thức tính toán trên của Kinh Phòng. Do vậy, khi Bốc Dịch theo phương pháp của Kinh Phòng, gặp phải quẻ Quỷ Dịch, chất lượng thông tin thường gặp phải những vấn đề nghiêm trọng. Chúng ta sẽ bàn lại chủ đề này sau. Một hào của một quẻ Dịch bất kỳ, luôn luôn trải qua 12 giai đoạn tiệm tiến, theo Hà Uyên, đây là Nguyên lý cơ bản của Dịch học. Tại sao? Trải dài với thời gian hơn 5000 năm, không một ai thay đổi Quái danh, Quái tượng, ngôn ngữ của Hào từ. Một hào tiệm tiến trải qua 12 quá trình (12 quẻ dịch), nhưng ngôn ngữ của Hào 1, luôn luôn thông khí với toàn bộ các hào 1 của 11 quẻ còn lại. Đây là một "chìa khoá" cũng rất quan trọng, khi đưa ra lời giải cho những môn học thuật cao. Ví du: quẻ Sơn Lôi Di hài 1: - Hào 1 quẻ Sơn Lôi Di: "Hào Chín Đầu, người bỏ phần tốt đẹp như rùa thiêng của mình, mà nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, có hung hiểm." - Hào 1 quẻ Sơn Trạch Tổn: "Hào Chín Đầu, hoàn thành sự nuôi dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp người ở ngôi cao, tất không có cữu hại, nên trông trước giảm bớt tính cương cứng của bản thân" -....... Như vậy, quẻ Di có hình tượng tượng trưng là: "nuôi dưỡng", thì hào 1 quẻ Tổn tiếp lời: "hoàn thành sự nuôi dưỡng,...". Khi chúng ta thống kê toàn bộ 64 quẻ, hay 4608 sự chuyển hoá, ta sẽ thấy rất nhiều điều thú vị, đặc biệt là phương pháp tư duy "tượng số" đối với những môn học thuật cao (Tam minh). Tại một thời điểm thuộc quá khứ, khi Anh Hoàng Tuấn làm Trưởng đoàn, vào miền Nam nghiên cứu môn bấm huyệt của bà Huỳnh thị Lịch tại quận Phú Nhuận, phương pháp bấm có tên gọi: "Thập Thủ Đạo", thì Hà Uyên có trao đổi với anh Hoàng Tuấn: Hội Ngọ được tính bắt đầu từ năm 2198 Tr.CN là căn cứ vào đâu?, anh Hoàng Tuấn có trả lời rằng: lấy theo quyển: Địa Lý Ngũ quyết và quyển Địa lý mật truyền cáo tập. Về việc này, chúng ta sẽ trao đổi sau. Cảm ơn VinhL đã quan tâm.

...

VinhL, Thứ sáu, 22/05/2009 | 23:46  hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Thấy Bác phấn chấn, VinhL củng phấn chấn theo. VinhL rất vui mừng có người để chia sẻ và bàn luận những khám phá trong khi nghiên cứu Dịch.

Thấy Bác nói đến học thuật cao (Tam Minh), có phải là Tam Thức theo như các sách Hán đề cập không?

Như Thái Ất, Kỳ Môn và Lục Nhâm. Thú thật VinhL củng có nghiên cứu sơ qua 3 môn này. Nếu Bác thích thú bàn thảo về 3 môn này thì VinhL củng rất vui mừng hồi ứng.

Trong các bài viết của Bác về sự thông khí, không thấy đề cập về Lục Khí (Ngũ Vận Lục Khí).

Theo sự suy luận của VinhL, nguồn gốc của các hào thế ứng trong kinh Dịch củng chính là dựa vào Lục Khí.

Tại sao hào sơ lại ứng tam, hào nhị ứng ngũ, vv..... mà không phải là sơ ứng lục hay ứng các hào khác.

Khi nạp chi cho các hào, quẻ Càn nạp Tý Dần Thìn, Ngọ Thân Tuất, Tý đối Ngo, Dần đối Thân, Thìn đối Tuất.

Theo Khách Khí của thuyết Ngũ Vận Lục Khí, các năm Tý Ngọ thì khí Dương Minh tại tuyền ứng với khí Thiếu Âm tại thiên. Năm Dần Thân, thì khí Quyết Âm tại tuyền ứng với Thiếu Dương tại Thiên., vv....

Lục Khí, Tam Âm ứng với Tam Dương, Sơ với Tam ứng nhau, Nhị với Tứ ứng nhau, và Tam với Lục ứng nhau.

Trong các sách về Dịch và Lý Số, không hiểu tại sao không có sách nào bàn đến Ngũ Vận Lục Khí, trong khi đó nó là lý thuyết vô cùng quan trọng trong môn Y học Đông Phương. Có phải bí mật của sự tương quan của Ngũ Vận Lục Khí trong Dịch và các môn lý số đã bị thất truyền??? Chỉ có môn Thái Ất là có đề cập và sự ứng dụng tới thuyết này.

Có gì thiếu sót, sai lầm mong Bác chỉ điểm.

Kính

Chào VinhL Trên diễn đàn này, chúng ta đã dùng Đạo "hối minh", thì "minh" ấy càng được sáng tỏ. VinhL và Hà Uyên khởi đầu giao lưu từ ngày 10/5/2009, bắt đầu từ Mai Hoa Dịch số, đến ngày 22/5/2009, thì VinhL đã Thấy được Bốc Dịch, do học thuyết của Kinh Phòng xây dựng nên, mà ngày hôm nay người Phương Đông đang ứng dụng nó một cách phổ biến, những căn nguyên mà VinhL đã tìm hiểu ra, sự không đồng bộ trong hệ thống tính toán của Kinh Phòng, sự thiếu chặt chẽ trong học thuyết mang tính ngiêm trọng, nó ảnh hưởng tới tính chính xác và độ tin cậy của thông tin rất nhiều. Cho phép Hà Uyên nghĩ thế này: kể từ ngày 10/5/09, cộng thêm với 196 ngày nữa, VinhL sẽ ở vào một tư thế mới. Dương khí có xu hướng đang tiệm tiến chuyển dịch vào bên trong con người của VinhL "nén chặt". Khi Dương khí co rút vào càng nhiều, càng lớn, càng mạnh, thì sự giãn nở ra càng lớn. Giới hạn giữa sự hiểu biết và không hiểu biết, là chu vi phát triển ngày càng lan rộng. Hà Uyên tin như vậy. Cũng như Hà Uyên đã trao đổi với Liêm Trinh, người thứ 5 giao lưu với Hà Uyên là anh Thiên Sứ. Vì rằng, VinhL đã quyết định đúng, khi nói Thiệu Ung dùng phương pháp biến quẻ Tiên thiên làm gốc. Có điều này, Hà Uyên cũng nghiêm túc muốn trao đổi với VinhL. Khi tiến tới một giới hạn cho phép, thì chúng ta phải đối mặt với sự hiểm nguy. Người nước lớn không bao giờ muốn dân tộc chúng ta có người tài giỏi cả đâu. Đặc biệt là những môn học thuật này. Lịch sử đã cho chúng ta biết như vậy. Đến tận ngày hôm nay, sự hiểm nguy còn lan rộng hơn. Vấn đề này hết sức nhậy cảm và tế nhị.! Thiệu Ung khi xây dựng hệ thống kết cấu cho học thuyết của mình, không thể để "thời gian" trôi tuột đi được. Do vậy, Hà Uyên đã trao đổi với VinhL giữa học thuyết tính toán của Thiệu Ung, so sánh với thời gian thực, đã ẩn giấu một "chìa khoá". Từ xưa đến nay, dù chúng ta có dùng "100 khắc", hay gọi là "miễu", thì thời gian vẫn không thay đổi. Một ngày gồm 86400 giây là đơn vị tính cơ sở, khi thêm đơn vị tính cơ sở của Thiệu Ung là 4320 (43200), thì chúng ta hiểu: tai sao Thiệu Ung dùng 129600 làm đơn vị để tính. Từ ngày 10/3/2008 khai trương diễn đàn Lyhocdongphuong, cho tới ngày hôm nay 23/5/2009, số ngày đã trải qua là 439 ngày. Chúng ta đang ở Hạ nguyên, vậy thì từ Giáp Tý sau đông chí Thượng nguyên, đến ngày hôm nay là bao nhiêu ngày? Thiệu Ung có nghĩ như vậy Không? Tại sao chúng ta lại lệ thuộc vào sự quy định khởi đầu của Hội Ngọ, vào những năm TR.CN như vậy?

....

"Trong các bài viết của Bác về sự thông khí, không thấy đề cập về Lục Khí (Ngũ Vận Lục Khí).

Theo sự suy luận của VinhL, nguồn gốc của các hào thế ứng trong kinh Dịch củng chính là dựa vào Lục Khí.

Tại sao hào sơ lại ứng tam, hào nhị ứng ngũ, vv..... mà không phải là sơ ứng lục hay ứng các hào khác."

Đất chựu Trời thì chấp thuận 5 vận (chế)

Trời chựu Đất thì chấp thuận 6 khí (tiết)

Đối ngoại thì có 4 phương, cùng với Trung tâm mà sinh ra "khí" - "động"

Đối nội thì có bởi 8 cực. Khi tĩnh thì hướng tâm, xu hướng phát triển theo "vỹ". Khi động thì ly tâm, xu hướng phát triển theo "kinh".

Cửu cung: khi số Trung tâm là số "chẵn", thì số ở 4 góc là số "lẻ". Số nhập Trung cung là số "lẻ", thì số của 4 góc là số "chẵn". Sao Thuỷ chuyển 4 độ thì trái đất chuyển 1 độ.

Năm 1999: Chính của Dương minh thuộc về kỷ của Mão - Dậu: Dương minh - Thiếu giác - Thiếu âm thanh nhiệt, thắng phục đồng, giống, chính, thương. Đinh Mão tuế hội - Đinh Dậu vận ấy là thanh nhiệt. Thiếu giác sơ chinh, thiếu cung, thái dương, thiếu vũ cuối.Chính của Dương minh chỉ năm Dương minh táo kim Tư thiên.

Kỷ Mão - 1999: vận Thổ bất cập, Khí Tư thiên là Dương minh táo kim, khí tại tuyền là Thiếu âm quân hoả. Tố vấn di biên - Thiên luật pháp: Kỷ Mão: sao Lâu, hành Kim ở phương Tây, trộm cướp Thái quá, giao thông bế tắc. Sao Kim - Hoả có ảnh hưởng nhiều tới trái đất.

Ngày 3/10/1999, Làng văn hoá các dân tộc Viết nam động thổ tại Đồng Mô - Sơn tây. Bản tính Dự báo Thời tiết năm 1999 đã được gửi từ đầu năm, ghi rõ: ngày 3/10/1999 là ngày Giông tố. Chủ khí Dương minh táo kim, gió Tây và Tây Bắc hanh khô (21/9 - 21/11). Khách khí Quyết âm phong mộc, xuân lệnh nghịch lại lưu hành. Khí gió thiên thắng. Khí hậu lạnh không lạnh được. Thực tiễn ngày 3/10/1999 đã xẩy ra giông tố.

Đây là một đóng góp mang tính thực tiễn mà Hà Uyên đã làm. Chỉ tiếc rằng, tại thời điểm đó lãnh đạo vẫn chọn ngày 3/10 làm ngày động thổ với số vốn đầu tư 70 triệu us.

...

VinhL,.. hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế, thì có hai số mà được lập đi lập lại đó chính là số 12 và 30. Toàn bộ Nguyên Hội Vận Thế Niên Nguyệt Nhật Thì Phân Miễu (Giờ Phút Giây) điều dùng 12 và 30 xen kẻ lẫn nhau.

Nguyên = 12 Hội

1 Hội = 30 Vận

1 Vận = 12 Thế

1 Thế = 30 Niên

1 Niên = 12 Nguyệt

1 Nguyệt = 30 Nhật

1 Nhật = 12 Giờ

1 Giờ = 30 Phút

1 Phút = 12 Giây.

Phút và Giây đây không phải là đơn vị Phút và Giây chúng ta đang dùng hiện tại mà là đơn vị thời gian do ông Thiệu Ung phân chia theo phương pháp 12, và 30 xen kẻ.

Trong Hoàng Cực Kinh Thế có đề cặp đến Niên (Tuế) Nguyên, Nguyệt Hội, Nhật (Tinh) Vận, Thìn (Thời) Thế. Từ đó ta thấy Nguyên Hội Vận Thế Niên, Niên Nguyệt Nhật Thời Phân, tương quan với nhau vì tính ra thì đều là 12x30x12x30 = 129600. Khi coi Nhật là Nguyên, thì Bác phải chia Giờ ra thành Vận, Thế rồi đến Giây tức là Nhật, Thời, Vận, Thế, Giây, thì đơn vị Phút đã không còn tuân theo luật 12, 30 của Hoàng Cực Kinh Thế nữa.

Theo VinhL nghĩ, đễ khỏi vướng phải “tháng nhuận”, cho nên ông Thiệu Ung đã dùng Nguyệt theo Tiết Khí, tức một tháng là 2 tiết khí, tháng Tý bắt đầu ở tiết Đông Chí. Một năm lúc nào củng có 24 tiết khí, vì tiết khí căn cứ vào vòng hoàng đạo 360 độ (Sun Longtitude), mồi tiết khí là 15 độ. Luật nhuận được dùng khi tính tháng theo chu kỳ mặt trăng. Mùng 1 âm lịch thì lúc nào củng phải đúng vào ngày trăng mới (New Moon), nên có năm lại có tới 13 lần trăng mới nên phải đặt nhuận.

Cũng vì vậy khi ông Thiệu Ung đề cặp đến Tuế (Niên), 1 Niên = 12 Nguyệt x 30 Nhật = 360 Ngày, ở đây có thể hiểu là 360 độ của vòng hoàng đạo. 1 độ là 1 ngày. Như vậy muốn chính xác 100% thì chúng ta phải dùng đến công thức của Thiên Văn Học để tính ra các đơn vị Nguyệt, Nhật, Thời, vv...

VinhL có đọc qua phần Thiên Môn Địa Hộ của Bác, theo như vậy, trong Kỳ Môn Quý Nhân Đăng Thiên Môn tức là khi sao Bắc Đẩu (Khôi hay Âm Quý tức Tứ Mộ Khu Toàn Cơ Quyền, củng là Tham Cự Lộc Văn, Việt hay Dương Qúy tức Tam Quang Tiêu Dao Du củng là Liêm Vũ Phá ) ở vào khu vực Khuê Bích.

Nhân đây nhắc đến Kỳ Môn, không biết Bác có ý kiến gì về sự khác biệt giữa các môn Bát Trạch, Huyền Không Phi Tinh, Phép Tôn trong Thái Ất, và Kỳ Môn Độn Giáp. Ngoại trừ Bát Trạch, thì 3 môn kia đều bày bố Bắc Đẩu Thất Tinh theo phương pháp khác nhau.

Huyền Không thì cho sao phi vào cung trung, Kỳ Môn thì theo tiết khí và Lục Nghi mà bày bố, Thái Ất Phép Tôn không chú trọng đến tiết khí. Trong 3 môn thì chỉ có Kỳ Môn Độn Giáp là coi trọng việc Siêu Thần Tiếp Khí để lập Cục. Theo như sách của ông Thẩm Trúc Nhưng, thì nhờ mượn đọc được tác phẩm “Âm Dương Nhị Trạch Lục Nghiệm” của Trương Trọng Sơn thêm vào nhiều năm nghiên cứu mà biết được phương pháp sao nhập trung cung. So sánh giữa 2 phương pháp bày bố cửu tinh, thì VinhL thấy sao nhập trung cung thiếu sự hợp lý với các hiện tượng thiên văn. Phương pháp của Kỳ Môn thì có vẽ hợp lý hơn. Có khi nào ông Thẩm Trúc Nhưng thấy sao vào cung giữa mà cứ nghỉ đó là phương pháp, mà thật ra cửu tinh phải bày bố theo Kỳ Môn Độn Giáp lấy Cục của tiết khí mà khởi Lục Giáp theo đường lường thiên xích (Tiên Thiên Bát Quái Nạp Số Thái Huyền) mà an bày 9 sao. Không biết nếu dùng cách an sao của Kỳ Môn áp dụng vào Huyền Không có thích hợp hơn không?. Theo VinhL biết trong quyển La Kinh Thấu Giải có nói đến phương pháp ứng dụng Kỳ Môn và trùng quái để tìm 24 ngôi châu bảo thấu địa long.

Vài lời lạm bàn nếu có sai sót mong Bác chỉ điểm.

Kính

Hà Uyên chào VinhL Tại thời gian của Thiệu Ung, lịch Đại diễn vẫn đang được sử dụng. Năm 721 (CN) Tăng Nhất Hành phung chiếu, sáng tác Lịch mới được gọi là lịch Đại diễn. Thực chất sáng tác của lịch Đại diễn này, là bê y nguyên thuyết Quái khí của Mạnh Hỷ vào lịch pháp của Tăng Nhất Hành. Hà Uyên nghĩ Thiệu Ung vẫn phải sử dụng hệ thống lịch Đại diễn này. Ví dụ: Tháng Dần - hội thứ ba, hào 6 - 3 trở về trước quẻ Phong, cùng với quẻ Ký tế, Gia nhân chủ khí Vũ thuỷ. Hào 9 -4 quẻ Phong trở về sau, cùng với quẻ Cách, và quẻ Đồng nhân chủ khi Kinh trập. Do vậy, số 129600 sẽ không chia hết cho 2520. VinhL tham khảo thêm

..

THUYẾT QUÁI KHÍ CỦA TĂNG NHẤT HÀNH VỚI LỊCH ĐẠI DIỄN

Năm Khai Nguyên thứ 9 triều Đường (721 CN), Tăng Nhất Hành phụng chiếu, sáng tác Lịch mới. Nhất hành dựa vào thuật suy diễn các con số để diễn giải Lịch mới. Năm Khai Nguyên thứ 17 (729CN), Lịch mới đã được ban hành, được gọi là Lịch Đại diễn. Song, số liệu Thiên văn và phương pháp giải thích của Nhất Hành còn thiếu độ chính xác. Tại thời điểm đó, đã được kiểm tra lại, thì Lịch Đại diễn đạt độ chính xác 70% - 80%.

Ảnh hưởng từ Dịch - Hệ từ, ông nói: “Trời bắt đầu từ 1, Đất bắt đầu từ 2. Hợp hai số đầu này lại thì thành “cương – nhu”. Số cuối của Trời là 9, số cuối của Đất là 10, hợp hai số cuối lại để ghi số dư. Số giữa của Trời là 5, số giữa của đất là 6, hợp hai số giữa này để thông luật Lịch”. Hệ từ: “Trời số 5, Đất số 5, năm vị trí đều thành, và các vị trí có sự hoà hợp khác nhau, nên mới có biến hoá của Quỷ thần”. Từ đây, ông đã suy ra phép thông 3040 trong Lịch pháp đại diễn.

3040 là nhật pháp, phương pháp tính ngày, tương tương trong Lịch chia 4 cổ, và 81 trong Lịch Thái sơ. Song, trong lịch Đại diễn, tất cả ngày, tháng, và chu kỳ vận động của 5 hành tinh lớn, đều được biểu thì bằng phân số, có mẫu số chung là 3040. Ví như 3040 = 19 x 160, trong đó 19 là biểu thị 19 năm tăng thêm 7 tháng nhuận, được gọi là “Chương pháp”, các nhà làm Lịch gọi là “thông pháp” (nghĩa như chương pháp cũ).

Theo Tăng Nhất Hành, 19 của chương pháp cũ, là sự phối hợp hai số cuối (9&10) của Trời - Đất để tính. Ông cho rằng: “Phu số tượng vi vu tam, tứ, nhi chương vu thất, bát”. Nghĩa là nói: 3 và 4 là “vi”, còn 7 và 8 là “chương”.

Ông lại nói: “Tự ngũ dĩ giáng, vi ngũ hành sinh số, tự lục dĩ vãng, vi ngũ tài thành sinh số”. Sinh số là 1, 2, 3, 4, 5, thành số là 6, 7, 8, 9, 10. Tổng của sinh số là 15, tổng của thành số là 40. Khi 15 x 40 = 40 x 15 = 600. Tổng thành số nhân với tổng sinh số gọi là “tích thiên trung”, đều có tích là 600.

Tích của Thiên trung và Địa trung, nghìn có 200 (tức là 1200). Gấp 4 thành hệ số hào là 300. Đem 10 vi nhân với 2 chương, thì có tích là 3000. Đem 5 tài nhân với 8 tượng, thì được 2 vi, hoặc được tích là 40. Tích của chương nhân vi, là mẫu số của khí số. đây chính là nguồn gốc của 3040.

Nhất Hành còn sáng tạo thuận Hô - Hấp kết hợp với lịch Đại diễn, đây chính là tìm cách tiếp cận quái khí, đem 64 quẻ đối chiếu với 72 hậu, đồng thời đưa Ngũ hành vào cuộc.

Dịch vốn là “Khí”, về sau mới rõ Dịch còn nói về con người và sự vật. Chứng tỏ thuyết Quái khí của Nhất Hành là bê y nguyên thuyết Quái khí của Mạnh Hỷ.

Đầu tiên là lịch Chính Quang thời Bắc Nguỵ. Phương pháp của nó là, trước tiên suy ra 4 quẻ chính, tức là cầu ngày Đông chí là ngày quẻ Khảm vào cuộc, ngày Xuân phân là ngày quẻ Chấn tham gia, ngày Hạ chí là ngày quẻ Ly hành sự, ngày Thu phân là ngày quẻ Đoài hành sự. Sau đó, thông qua ngày Đông chí, hoặc ngày quẻ Khảm vào cuộc, để cầu quẻ Trung phu. Từ đây, tiếp tục cầu các quẻ khác.

Suy diễn 72 hậu, ví như ngày Đông chí bắt đầu nhập vào Hậu, mỗi một tiết khí tương ứng với 3 đốt hậu. Song, trng thuật hô hấp và lịch Đại diễn áp dụng, trước tiên lập một số liệu cơ bản, tức là: chuỗi 5 của thiên trung (thiên số 1, 3, 5, 7, 9), chuỗi 6 của địa trung (địa số 2, 4, 6, 8, 10), chuỗi của 3 chinh hối, (quẻ xấu). Cầu 72 hậu: “các nhân trung, tiết mệnh chi, đắc sơ hậu”. Ý nói là, căn cứ vào Trung khí và Tiết khí định được tên gọi của 3 hậu. Trước tiên từ Trung khí được: Sơ hậu, thêm chuỗi (5 ngày) của thiên trung được Thứ hậu, tiếp tục thêm, thì được Mạt hậu. “Nhân trung khí mệnh chi, đắc công quái dụng sự”, tức là quẻ Công quái bắt nguồn từ Trung khí. Luỹ tiến (tăng dần theo cấp số cộng) của địa trung, thì được quẻ tiếp theo.. Giả sử đem chuỗi 3 của “trinh hối”, cộng với quẻ Hầu, thì được đầu của 12 tiết, là quái thể ngoài vào cuộc (tức là thể trên của quẻ hầu)

...

Hà Uyên chào VinhL.

Tất cả các môn học thuật mà chúng ta đã và đang quan tâm, đều phải thông qua đơn vị "thời gian", đó là Lịch pháp. Đặt vào bối cảnh Lịch sử của các môn học thuật này khi ra đời, được truyền bá và ảnh hưởng rông rãi trong dân gian, thì vấn đề Lịch pháp, theo Hà Uyên, chiếm 50% giá trị thông tin, còn mức độ tính toán học thuật là phần còn lại cộng với kinh nghiệm bản thân của mỗi người.

Trước triều Hán, lịch pháp được dùng là “Cổ tứ phân lịch” (lịch chia bốn). Đến đời Hán, gọi là “Tứ phân lịch”. Cơ sở của lịch đời Hán là căn cứ vào sự giãn cách thời gian của mặt Trời hai lần liên tục, thông qua thời điểm Đông chí. Mãi sau này mới chọn thời điểm giãn cách hai lần liên tục của mặt Trời thông qua điểm Lập Xuân. Tức là trái Đất quay xung quanh mặt Trời một vòng, lấy điểm Lập Xuân làm mốc khởi, để tính lịch.

Như vậy, từ ngày Đông chí tới trước quẻ Khôn đợi lệnh, khi tới ngày Đông chí, một dương được sinh ra thành quẻ Phục đối ứng với tháng 11 Thiên chính Tý, tháng 12 Địa chính Sửu là quẻ Lâm, tháng Giêng Nhân chính Dần là quẻ Thái. Đối với Lịch pháp hiện nay chúng ta đang sử dụng, thì lại lấy điểm Lập xuân để khởi Lịch pháp. Hà Uyên cũng tự hình thành cho mình một loại Lịch pháp quái khí riêng, để trong quá trình tính toán áp dụng, thấy tính thực tiễn thông tin khác rất nhiều so với khi chúng ta sử dụng Lịch hiện hành.

Có thể Hà Uyên đánh giá chưa hết, nhưng rõ ràng, Kinh Phòng và Thiệu Ung đều phải sử dụng lịch Thái sơ làm kết cấu khung khi xây dựng học thuyết cho mình.

Hà Uyên chỉ muốn đặt chúng ta vào bối cảnh cách đây hàng ngàn năm, thì sự định hướng trong tư duy sẽ có những thay đổi nhất định. Vấn đề ở chỗ là đi tìm mức độ chính xác của thông tin, khi chúng ta sử dụng các môn học thuật liên thông với quy luật thời gian Lịch pháp. Công thức tính toán thì căn cứ vào Lịch pháp Quái khí, khi xác lập thông tin ngày hôm nay thì lại căn cứ theo Lịch pháp hiện hành.

VinhL tham khảo thêm.

...

VinhL đã viết

"Thưa Bác Hạ Uyên đó là diễn quái theo sự hiểu biết của VinhL khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế."

Hà Uyên kiến thức sư phạm không có, từ trước cho tới nay, bằng sự yêu thích mang tính cá nhân của mình, vậy thôi. Sự yêu thích khởi đầu của Hà Uyên bắt đầu như sau:

---------------------------------------------------------------

G. Tý - Â.Sửu - B.Dần - Đ.Mão - M.Thìn

1 -------2 ----3 ----- 4 ------ 5 ------ ==> Sinh

---------------------------------------------------------------

KTị - C.Ngọ - T.Mùi - N.Thân - Q.Dậu

6 ---- 7 ----- 8 ---- 9 ----- 10 ------ ==> Thành

---------------------------------------------------------------

G.Tuất - A.Hợi - B.Tý - Đ.Sửu - M.Dần

11 ------ 12 ---- 13 --- 14 ---- 15 ------ ==> Sinh

----------------------------------------------------------------

K.Mão - C.Thìn - T.Tị - N.Ngọ - Q.Mùi

16 ----- 17 ----- 18 ----- 19 ----- 20 ==> Thành

----------------------------------------------------------------

G.Thân - A.Dậu - B.Tuất - Đ.Hợi - M.Tý

21 ----- 22 ------ 23 ------ 24 ----- 25 ----- ==> Sinh

----------------------------------------------------------------

K.Sửu - C.Dần - T.Mao - N.Thìn - Q.Tị

26 ----- 27 ----- 28 ---- 29 ----- 30 ------- ==> Thành

------------------------------------------------------------------

G.Ngọ - A.Mùi - B.Thân - Đ.Dậu - M.Tuất

31 ------ 32 ------ 33 ----- 34 ------ 35 -------- ==> Sinh

------------------------------------------------------------------

K.Hợi - C.Tý - T.Sửu - N.Dần - Q.Mão

36 ----- 37 ----- 38 ----- 39 ----- 40 -------- ==> Thành

-------------------------------------------------------------------

G.Thìn - A.Tị - B.Ngọ - Đ.Mùi - M.Thân

41 ---- 42 ---- 43 ----44 ----- 45 ------ ==> Sinh

--------------------------------------------------------------------

K.Dậu - C.Tuất - T.Hợi - N.Tý - Q.Sửu

46 ----- 47 ----48 ----- 49 ----- 50 ------- ==> Thành

--------------------------------------------------------------------

G.Dần - A.Mão - B.Thìn - Đ.Tị - M.Ngọ

51 ---- 52 ----- 53 ---- 54 ----- 55 ------ ==> Sinh

--------------------------------------------------------------------

K.Mùi - C.Thân - T.Dậu - N.Tuất - Q.Hợi

56 ------ 57 ---- 58 ----- 59 ---- 60 ----- = => Thành

Giáp - Kỷ phối ứng cặp số đồng đẳng 1 - 6, Ất - Canh phối ứng với cặp số đồng đẳng 2 - 7, Bính - Tân phối ứng với 3 - 8. Đinh - Nhâm phối ứng với 4 - 9, Mậu Quý phối ứng với 5 - 10

Khi ta coi 60 là một đơn vị tính, thì 60 - 3 = 57 là hệ số can chi Canh Thân, là mốc thời gian để tính trước CN và sau CN. Nhất âm nhất dương = 60 + 60 = 120 - 3 = 117. Trước Công nguyên thì trứ đi 117, sau Công nguyên thì cộng thêm với 117, thì thời gian tính sẽ chia hết cho 360 (117 hay 110 là số tính tương thông với Thái ất)

(8 x 60) - 3 = 477 - 177 = 360 ==> 129600/360 = 360

(14 x 60) - 3 = 837 - 117 = 720 ==> 129600/720 = 180

(20 x 60) - 3 = 1197 - 117 = 1080 ==> 129600/1080 = 120

(26 x 60) - 3 = 1557 - 117 = 1440 ==> 129600/1440 = 90

(32 x 60) - 3 = 1917 - 117 = 1800 ==> 129600/1800 = 72

(38 x 60) - 3 = 2277 - 117 = 2160 ==> 129600/2160 = 60

(44 x 60) - 3 = 2637 - 117 = 2520 ==> 129600/2520 = 51 dư 1080.

+ Bính Tân 3 - 8 hợp: Liên Bang Xô viết "tụ" năm 1916 can "Bính-, năm 1991 can Tân -thì "tán," đến năm Bính Dần 1984 lại xẩy ra sự cố nhà máy điện nguyên tử,....

VinhL tham khảo thêm

...

VinhL,.., hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Thành thật cám ơn Bác đã cung cấp nhiều thông tin về Lịch Pháp cổ. Sách về Lịch Pháp cổ thì VinhL không có nên về vấn đề này thì mù tịt. Với kiến thức uyên bác về Lịch Pháp, không biết Bác có ý kiền gì về phương pháp Siêu Thần Tiếp Khí của Kỳ Môn trong việc tính nhuận?

Thưa Bác hai con số 57 và 117 này đúng là có liên quan đến con số 10153917 của Thái Ất.

10153917 / 60 dư 57, 10153917 / 360 dư 117. Con số 10153917 này có thể dùng để tính ra Can Chi của tứ trụ năm tháng ngày giờ bằng dương lịch không cần phải dùng đến âm lịch.

Sẳn đây Bác đề cập đến cái Hợp của Thiên Can, VinhL có một nghi vấn mong Bác có thể giải thíc cho.

Thiên Can có 10, chia 2 thì được 5 cặp, 1 với 6, 2 với 7, 3 với 8, 4 với 9, 5 với 10. Mỗi cặp đều có ngũ hành tương khắc nhưng không gọi là Xung, mà tại sao lại gọi là Hợp?

Địa Chi có 12, chia 2 thì được 6 cặp, 1 với 7, 2 với 8, 3 với 9, 4 với 10, 5 với 11, 6 với 12 tức Tý Ngọ, Sửu Mùi, vv... ngũ hành của mỗi cặp củng đều là tuơng khắc nhưng lại không được gọi là Hợp, mà tại sao lại gọi là Xung?

Thành Thật Cám Ơn Bác.

Kính

Hà Uyên chào VinhL VinhL có thể tham khảo sách: DI SẢN HAN NÔM VIỆT NAM - Thư mục đề yếu - Bổ di 1 - 2 - 3 - Quyển thượng, hạ. Tìm phần "Cổ chỉ". Chuyên đề về Mai hoa chúng ta có thể tạm dừng ở đây được không VinhL? Cảm ơn VinhL đã dành thời gian và quan tâm. Hà Uyên.

Mai Hoa Dịch Số

Minh An, on Oct 17 2009, 10:12 PM, said:

Cháu nghĩ nó là 1 mẹo hỗ trợ trong việc xác định thời gian ứng nghiệm.Cháu còn thiếu kinh nghiệm nên mong các bậc tiền bối kiểm nghiệm.

Không biến dịch thì không sinh ra cái mới, vậy thì tại sao lại tính 2 lần 1 quẻ không động?

Chào Minh An.

Một quẻ Dịch luôn có 7 hào. Hào thứ Bảy luôn ẩn, mà không được nhắc tới, được gọi là Thần tàng, hay là Quy viêm, hay được gọi là Quy tàng. Tại sao lại được cấu tạo như vậy?

Từ hào Một cho tới hào Sáu, luôn có một hào động, được gọi là hào Chủ, đồng thời với hào Bảy, là hào Quy tàng, cũng luôn luôn động. Như vậy, một quẻ Dịch sẽ có 2 động 5 tĩnh. Kinh Dịch gọi mối quan hệ này là "Hàm tam vi nhất" (5 - 2 = 3 Một Tĩnh ba Động, một chân Tĩnh, chân còn lại và hai tay Động => đạp một đội chín, đạp một đội ba,...,). Đây là nguyên lý: một tĩnh thì có ba động, hai Tĩnh thì có sáu Động, ba Tĩnh thì có chín Động,..., => bỏ một dùng ba (360 thì chỉ dùng 270) => bỏ hai dùng sáu (bố mẹ thân lùi mà sáu con tiến, hai lùi sáu tiến) => bỏ ba dùng chín (12 địa chi thì dùng 9, chỉ dùng từ Trường Sinh tới Mộ, bỏ không dùng Tuyệt, Thai, Dưỡng)

Trong 5 hào tĩnh này, dùng để phản ánh mối quan hệ với 2 hào động. Trong hai hào động này, thì một hào là Quy tàng (Thần tàng), còn một Hào động là hào làm Chủ. Hai Động một Tĩnh, Âm một Dương hai, một tối hai sáng, là để tìm hiểu về xu hướng phát triển của vạn vật trong thế giới Tự nhiên của Người xưa.

Cùng nhau học dịch

Chào Anh Chị Em

Chủ đề: "Cùng nhau học Dịch", được gợi mở khi anh Dichnhan đặt vấn đề: "Người đời học Dịch". Cũng mong Anh Chị em nhìn từ nhiều góc độ với sách Kinh Dịch, chúng ta cùng bình giải và bình luận khi học Dịch.

- Anh Dichnhan viết:

Hiện tại tôi đang soạn 2 tập tài liệu Kinh Dịch Tự Điển và Giải Mã Hào Từ nên mất rất nhiều thời gian suy nghĩ cho chúng. Nhưng may sao nhờ có chương V của Tâm Pháp nên đã bớt đi được phần nào khó khăn, giống như có chiếc la bàn chỉ hướng vậy.

Tôi vừa mới giải lại hào 1 quẻ Quải, mời Bác cùng nghiệm xét:

Sơ Cửu: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.”

- Hà Uyên viết:

Quá trình nhận thức cá nhân, thường tôi phân: giải Dịch theo trường phái - hoặc giải Dịch theo "thuyết". Có nghĩa rằng, giải Dịch theo "thuyết", thường tự xây dựng một học thuyết riêng, mang tính độc lập. Đối với giải Dịch theo trường phái, thường lấy căn cứ theo Âm Dương chọn nghĩa, tam tài chọn tượng.

Hướng tư duy cá nhân tôi, đang thăm dò hướng tới kết cấu khung, trong tổng thể 384 hào, để khảo chứng tìm về nguyên nghĩa của ý nghĩa hào từ, trên nguyên tắc: phải mang tính liên tục, tính hệ thống lôgíc của hào từ, sau đó mới xét tới không gian Quái danh, sau tiếp mới xét tới thời điểm Quái vị.

Cụ thể:

1. Kinh viết: "Quải, Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu"

- Dịch: Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn tới cưu hại.

2. Anh Dichnhan giải Dịch: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.”

Tôi bình giải theo kết cấu khung:

1. Tính liên tục hào từ: tìm nguyên nhân: trước hào Sơ quẻ Quải, là hào Sơ quẻ Hàm

- Hàm, Sơ Lục, hàm kỳ mẫu.

- Dịch: Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái.

2. Tính hệ thống: tìm xu hướng từ quẻ "đối" và quẻ "đảo", sau đó mới giải thích được tại sao lại " tráng vu tiền chỉ".

Mong anh chị em cùng tham gia bình giải khi học Dịch

Hà Uyên.

...

Khi giải Dịch theo trường phái tam tài Thiên - Địa - Nhân, trong chu kỳ 1864 - 2043, thì đối với "tài" của Thiên, chúng ta đang ngồi Hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, lời hào 6 quẻ Đại súc viết:

Hà thiên chi cù, hanh.

Tượng quẻ Sơn Thiên Đại súc

Posted Image

Hỏi rằng:

- Trước hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào đây?

- Sau hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào?

Dịch im lặng, không trả lời.

- Phải chăng, "sau" hào 6 quẻ Đại súc, là hào 1 quẻ Địa Phong Thăng. Rồi tiếp đến hào 2 quẻ Địa Sơn Khiêm.

Posted Image Posted Image Posted Image

- Phải chăng, "trước" hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào 5 quẻ Thủy Thiên Nhu. Lại trước hào 5 quẻ Nhu, là hào 4 quẻ Lôi Thiên Đại tráng.

Posted Image Posted Image Posted Image

Dịch vẫn im lặng.

Vấn đề này, khi chú giải về "Kinh", thật là mông lung về tính liên tục của Hào từ. Vì đã gọi là "Kinh", thì phải là một hệ thống lôgíc chặt chẽ và hoàn chỉnh.

Có thể đây vẫn là một khoảng trống, mà Dịch Kinh chưa đề cập tới. Hay, cũng có thể đã hình thành một hệ thống phương pháp luận về: tính liên tục của hào từ, mà ta chưa biết tới. Hoặc cũng là sự tồn nghi của cá nhân tôi, con người lại đòi hỏi về "tri thiên" thật mơ hồ.

Vậy thì câu: "sổ vãng giả thuận, tri lai giả nghịch" chúng ta nên hiểu như thế nào đây.

...

VinhL, on May 27 2010, 12:08 PM, said:

Kính Bác Hà Uyên,

Thấy bác hỏi về tính liên tục của các hào, và quái, trong đầu lại nghỉ đến âm thanh.

Các lần sóng trong âm thanh và trị số của Hào là giống nhau, sau bác không tìm câu trả lời trong âm thanh. Âm thanh vút cao rồi chìm xuống, ngân nga chuyển qua các sóng, thật tự nhiên, dịch tự nhiên củng thế.

Một ý kiến thoáng qua trong đầu, nếu không hợp lý mong bác bỏ qua nhé.

Kính

Thân mến, chào VinhL

Cảm ơn VinhL đặt vấn đề, đưa ra một hướng kiến giải, tôi sẽ dành thời gian tìm hiểu sâu thêm về góc độ: "Các tần sóng âm thanh và trị số hào giống nhau".

Tôi đặt vấn đề về tính thống nhất và tuần tự liên tục của hào từ. Nguyên nhân nào đã quyết định "chí" hướng chỉ đạo "phương" hướng, mà buộc Người và vạn vật tất phải "vãng - lai", trong nguyên nghĩa của Hào từ (?). Điều gì lấy làm căn cứ, để dựa vào của Hào từ (?).

VinhL có thể gợi mở, đặt vấn đề từ nhiều góc độ, để cùng anh chị em tham gia kiến giải từng bước, tôi cũng hiểu rằng, cái trừu tượng thường gợi mở cho chúng ta một phương hướng nào đó, rồi dần hướng tới quy luật chung của sự vật.

Hà Uyên.

..

dichnhan07, on May 31 2010, 05:40 PM, said:

Tôi nghĩ những câu hỏi của Bác không quan trọng bằng việc là câu trả lời sẽ giúp giải quyết vấn đề gì? Có thể cách nghiên cứu đặt vấn đề của tôi không giống mọi người, có gì bác bỏ qua cho.

Chào anh Dichnhan

Cảm ơn anh có ý kiến về cách diễn ngữ của bài viết, tôi sẽ rút kinh nghiệm.

Tôi cũng đang nghĩ về bộ khung dàn bài, nên bắt đầu học Dịch từ đâu: nói về "Kinh" thì là những quy luật thường hằng bất biến, không thay đổi. Còn đối với "Dịch": thì sự ảnh hưởng của yếu tố Lịch sử, từ quá trình hình thành sách Dịch, các học phái chú giải, kết hợp với Học thuyết Tam Huyền của Hình nhi thượng, hoặc Học thuyết Tam giáo,...v.v...

- Ví như, chú giải về quẻ Càn, thì sách: Liệt Tử Dịch chú (NXB Thượng Hải cổ tịch - 1986), có viết:

"Thiên hữu thời, Địa hữu lợi", làm căn cứ cho điều kiện tự nhiên khách quan đối với: "Nhân hữu hòa".

Nhưng sách Dịch Vỹ chú về Dịch viết: "Bẩm sinh thụ số, ký hữu chế chi giả hĩ, diệc hữu tri chi giả hỹ, tri mệnh kỳ như nhữ hà" (Bẩm sinh thụ số, thì đã chế định rồi, cũng đã biết, biết mệnh để làm gì).

- Lại như, trong sách Chu Dịch, khi chúng ta đọc và nghiên cứu, cũng thấy sự ảnh hưởng của Nho giáo độc tôn, mà "Dịch truyện" đã định rõ rằng:

"Hình nhi thượng giả, đạo dã".

Vậy mà, đối với tôn chỉ của Đạo giáo, khẳng định đề xuất, tại "Hệ từ" viết:

"Nhất âm nhất dương chi vị đạo".

Như vậy, giữa "Dịch truyện" và "Hệ từ", ta thấy rất rõ sự ảnh hưởng bản chất "Học thuyết", của hai trường phái vào sách Dịch đã rất sâu rộng, mang theo ẩn nghĩa đặc trưng của từng Học thuyết, từng trường phái.

Mong được anh Dịchnhan luôn quan tâm, gợi mở, định hướng khi chúng ta cùng nhau học Dịch.

Hà Uyên.

...

Thi Quy là cơ sở để Dịch Kinh dựa vào mà hình thành nên sự "chu lưu". Chúng ta khảo sát về con số 49 trong sách Dịch, khi ta đã biết được 1 = 13, tiếp theo là tìm hiểu tại sao lại biết được:

1 = 49

Có nghĩa rằng: Giáp Tý = Nhâm Tý

Sự khởi nguồn nguyên nhân hình thành về TUẦN KHÔNG - Số "trùng lưu", hay là số "trùng hư".

...

Tìm hiểu mối quan hệ giữa Hệ thống 60 Can Chi với Dịch Kinh. Đây là phần kiến thức ít thấy sách vở bàn tới. Trọng tâm tìm hiểu là trường phái Tam huyền đời nhà Hán.

Nhà Đại Dịch học Trịnh Huyền đã công bố về "HÀO THẦN ĐỒ", chúng ta bắt đầu khảo chứng từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH sau:

乾宫八卦属金

Càn cung bát quái thuộc kim 乾为天

Càn Vi Thiên 天风姤

Thiên Phong Cấu 天山遁

Thiên Sơn Độn 天地否

Thiên Địa Bỉ 风地观

Phong Địa Quán 山地剥

Sơn Địa Bác 火地晋

Hỏa Địa Tấn 火天大有

Hỏa Thiên Dại Hữu

坎宫八卦属水

Khảm cung bát quái thuộc thủy 坎为水

Khảm Vi Thủy 水泽节

Thủy Trạch Tiết 水雷屯

Thủy Lôi Truân 水火既济

Thủy Hỏa Ký Tế 泽火革

Trạch Hỏa Cách 雷火丰

Lôi Hỏa Phong 地火明夷

Địa Hỏa Minh Di 地水师

Địa Thủy Sư

艮宫八卦属土

Cấn cung bát quái thuộc thổ 艮为山

Cấn Vi Sơn 山火贲

Sơn Hỏa Bí 山天大畜

Sơn Thiên Đại Súc 山泽损

Sơn Trạch Tổn 火泽睽 Hỏa Trạch Khuê 天 泽履

Thiên Trạch Lý 风泽中孚

Phong Trạch Trung Phu 风山渐

Phong Sơn Tiệm

震 宫八卦属木

Chấn cung bát quái thuộc mộc 震为雷

Chấn Vi Lôi 雷地豫

Lôi Địa Dự 雷 水解

Lôi Thủy Giải 雷风恒

Lôi Phong Hằng 地风升

Địa Phong Thăng 水风井

Thủy Phong Tỉnh 泽风大过

Trạch Phong Đại Quá 泽雷随

Trạch Lôi Tùy

巽宫八卦属木

Tốn cung bát quái thuộc mộc 巽为风

Tốn Vi Phong 风天小畜

Phong Thiên Tiểu Súc 风火家人

Phong Hỏa Gia Nhân 风雷益

Phong Lôi Ích 天雷无妄

Thiên Lôi Vô Vọng 火雷噬嗑

Hỏa Lôi Phệ Hạp 山雷颐

Sơn Lôi Di 山 风蛊

Sơn Phong Cổ

离宫八卦属火

Ly cung bát quái thuộc hỏa 离为火

Ly Vi Hỏa 火 山旅

Hỏa Sơn Lữ 火风鼎

Hỏa Phong Đỉnh 火水未济

Hỏa Thủy vị Tế 山水蒙

Sơn Thủy Mông 风水涣

Phong Thủy Hoán 天水讼

Thiên Thủy Tụng 天火同人

Thiên Hỏa Đồng Nhân

坤宫八卦属土

Khôn cung bát quái thuộc thổ 坤为地

Khôn Vi Địa 地雷复

Địa Lôi Phục 地泽临

Địa Trạch Lâm 地天泰

Địa Thiên Thái 雷天大壮

Lôi Thiên Đại Tráng 泽天夬

Trạch Thiên Quải 水天需

Thủy Thiên Nhu 水地比

Thủy Địa Tỉ

兑宫八卦属金

Đoái cung bát quái thuộc kim 兑为泽

Đoài Vi Trạch 泽水困

Trạch Thủy Khốn 泽地萃

Trạch Địa Tụy 泽山咸

Trạch Sơn Hàm 水山蹇

Thủy Sơn Kiển 地山谦

Địa Sơn Khiêm 雷山小过

Lôi Sơn Tiểu Quá 雷泽归妹

Lôi Trạch Quy Muội

Từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH, chúng ta lần lượt xắp xếp Can Chi theo hệ thống, khởi đầu từ Giáp Tý, để xác định HÀO THẦN phối hợp với 60 Can Chi:

1. Giáp Tý – hào 1

2. Ất Sửu – hào 4

3. Bính Dần – hào 6

4. Đinh Mão – hào 2

5. Mậu Thìn – hào 2

6. Kỷ Tị - hào 6

7. Canh Ngọ - hào 4

8. Tân Mùi – hào 4

9. Nhâm Thân – hào 5

10. Quý Dậu – hào 6

11. Giáp Tuất – hào 6

12. Ất Hợi – hào 5

13. Bính Tý – hào 5

14. Đinh Sửu – hào 3

15. Mậu Dần – hào 1

16. Kỷ Mão – hào 1

17. Canh Thìn – hào 3

18. Tân Tị - hào 5

19. Nhâm Ngọ - hào 4

20. Quý Mùi – hào 1

21. Giáp Thân – hào 5

22. Ất Dậu – hào 6

23. Bính Tuất – hào 4

24. Đinh Hợi – hào 4

25. Mậu Tý – hào 6

26. Kỷ Sửu – hào 2

27. Canh Dần – hào 2

28. Tân Mão – hào 6

29. Nhâm Thìn – hào 3

30. Quý Tị - hào 2

31. Giáp Ngọ - hào 4

32. Ất Mùi – hào 1

33. Bính Thân – hào 3

34. Đinh Dậu – hào 5

35. Mậu Tuất – hào 5

36. Kỷ Hợi – hào 3

37. Canh Tý – hào 1

38. Tân Sửu – hào 1

39. Nhâm Dần – hào 2

40. Quý Mão – hào 3

41. Giáp Thìn – hào 3

42. Ất Tị - hào 2

43. Bính Ngọ - hào

44. Đinh Mùi – hào 6

45. Mậu Thân – hào 4

46. Kỷ Dậu – hào 4

47. Canh Tuất – hào 6

48. Tân Hợi – hào 2

49. Nhâm Tý – hào 1

50. Quý Sửu – hào 4

51. Giáp Dần – hào 2

52. Ất Mão – hào 3

53. Bính Thìn – hào 1

54. Đinh Tị - hào 1

55. Mậu Ngọ - hào 3

56. Kỷ Mùi – hào 5

57. Canh Thân – hào 5

58. Tân Dậu – hào 3

59. Nhâm Tuất – hào 6

60. Quý Hợi – hào 5

Hoa Giáp Phối Hào

1. Can Giáp: Càn - Cấu - Độn – Bĩ – Quan – Bác - Tấn - Đại hữu

- Giáp Tý hào 1

- Giáp Tuất hào 6

- Giáp Thân hào 5

- Giáp Ngọ hào 4

- Giáp Thìn hào 3

- Giáp Dần hào 2

2. Can Ất: Khôn - Phục – Lâm – Thái - Đại tráng - Quải – Nhu - Tỷ

- Ất Sửu hào 4

- Ất Hợi hào 5

- Ất Dậu hào 6

- Ất Mùi hào 1

- Ất Tị hào 2

- Ất Mão hào 3

3. Can Bính: Cấn – Bí - Đại súc - Tổn – Khuê – Lý – Trung phu - Tiệm

- Bính Dần hào 6

- Bính Tý hào 5

- Bính Tuất hào 4

- Bính Thân hào 3

- Bính Ngọ hào 2

- Bính thìn hào 1

4. Can Đinh: Đoài - Khốn - Tụy – Hàm - Kiển – Khiêm - Tiểu quá – Q.Muội

- Đinh Mão hào 2

- Đinh Sửu hào 3

- Đinh Hợi hào 4

- Đinh Dậu hào 5

- Đinh Mùi hào 6

- Đinh Tị hào 1

5. Can Mậu: Khảm - Tiết – Truân – Ký tế - Cách – Phong – M.di

- Mậu Thìn hào 2

- Mậu Dần hào 1

- Mậu Tý hào 6

- Mậu Tuất hào 5

- Mậu Thân hào 4

- Mậu Ngọ hào 3

6. Can Kỷ: Ly - Lữ - Đỉnh - Vị tế - Mông – Hoán - Tụng - Đồng nhân.

- Kỷ Tị hào 6

- Kỷ Mão hào 1

- Kỷ Sửu hào 2

- Kỷ Hợi hào 3

- Kỷ Dậu hào 4

- Kỷ Mùi hào 5

7. Can Canh: Chấn - Dự - Giải - Hằng – Thăng - Tỉnh - Đại quá – Tùy

- Canh Ngọ hào 4

- Canh Thìn hào 3

- Canh Dần hào 2

- Canh Tý hào 1

- Canh Tuất hào 6

- Canh Thân hào 5

8. Can Tân: Tốn - Tiểu súc – Gia nhân – Ích – Vô vọng - Phệ hạp - Di - Cổ

- Tân Mùi hào 4

- Tân Tị hào 5

- Tân Mão hào 6

- Tân Sửu hào 1

- Tân Hợi hào 2

- Tân Dậu hào 3

9. Can Nhâm: Càn - Cấu - Độn – Bĩ – Quan – Bác - Tấn - Đại hữu

- Nhâm Thân hào 5

- Nhâm Ngọ hào 4

- Nhâm Thìn hào 3

- Nhâm Dần hào 2

- Nhâm Tý hào 1

- Nhâm Tuất hào 6

10. Can Quý: Khôn - Phục – Lâm – Thái - Đại tráng - Quải – Nhu - Tỷ.

- Quý Dậu hào 6

- Quý Mùi hào 1

- Quý Tị hào 2

- Quý Mão hào 3

- Quý Sửu hào 4

- Quý Hợi hào 5

VÒNG 8

....................ĐỒNG NHÂN

...........CỔ.........................TỶ

...TUỲ...............+...............QUY MUỘI

..........TIỆM.....................ĐẠI HỮU

......................MINH DI

VÒNG 8

1. Giáp Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (1 ~ 49)

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

- Tượng “Đại hữu Sơ Cửu, vô giao hại dã” – Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại. Thân tuy ở cuộc “đại hữu”, nếu giữ cho sự ăn ở của mình được yên ổn, không lạm “giao” với vật, thì có thể vô hại.

2. Ất Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (2 ~ 50)

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.

- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật với đáng quân chủ, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.

3. Bính Dần – Phong Sơn Tiệm, hào 6

- “Thượng Cửu, hồng tiệm vu lục, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát”.

- “Chín Trên, chim đại nhạn bay từ từ lên núi cao, lông vũ của nó có thể làm đồ trang sức đẹp tinh khiết, tốt lành”.

4. Đinh Mão – Lôi Trạch Quy muội, hào 2

- “Cửu Nhị, diểu năng thị, lợi u nhân chi trinh”.

- “Chín Hai, chột mà cố gắng nhìn được, lợi về giữ vững chính bền của bậc u tĩnh điềm đạm”.

5. Mậu Thìn - Địa Thủy Sư, hào 2

- “Cửu Nhị, tại sư, trung cát, vô cựu ; vương tam tính mệnh”.

- “Chín Hai, thống xuất quân đội, giữ đúng mức không thiên lệch sẽ được tốt lành, tất không bị cữu hại, nhà vua nhiều (ba) lần ban thưởng, giao cho trọng trách”.

6. Kỷ Tị - Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 6

- “Thượng Cửu, đồng nhân vu giao, vô hối”.

- “Chín Trên, hòa đồng với mọi người ở nơi giao ngoại xa xôi, chưa có được kẻ chí đồng cũng không hối hận”.

7. Canh Ngọ - Trạch Lôi Tùy, hào 4

- “Cửu Tứ, tùy hữu hoạch, trinh hung ; hữu phu tại đạo, dĩ minh, hà cữu!”.

- “Chín Bốn, được người theo, thu hoạch được nhiều, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm ; chỉ cần giữ lòng thành tín, hợp chính đạo, sáng suốt trong sự lập thân, như vậy thì làm sao có cữu hại được”.

8. Tân Mùi – Sơn Phong Cổ, hào 4

- “Lục Tứ, dụ phụ chi cổ, vãng kiến lận”.

- Sáu Bốn, dùng dằng không trị sự tệ loạn của cha, nếu cứ như vậy mãi thì tất sẽ hối tiếc”.

9. Nhâm Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (9 ~ 21)

- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.

- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.

10. Quý Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (10 ~ 22)

- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.

- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.

11. Giáp Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (11 ~ 59)

- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.

- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.

12. Ất Hợi - Thủy địa Tỷ, hào 5 (12 ~ 60)

- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.

- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.

13. Bính Tý – Phong Sơn Tiệm, hào 5

- “Cửu Ngũ, hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng ; chung mạc chi thắng, cát”.

- “Chín Năm, chim đại nhạn bay từ từ lên gò cao, (giống như chồng đi xa), vợ ba năm không có mang ; (nhưng vợ chồng tất sẽ được xum họp) kẻ khác cuối cùng không thể xâm phạm ngăn trở mà thủ thắng, tốt lành”.

14. Đinh Sửu – Lôi Trạch Quy muội, hào 3

- “Lục Tam, quy muội dĩ tu, phản quy dĩ đệ”.

- “Sáu Ba, người con gái sau khi lấy chồng mỏi cổ mong được thành vợ cả, nên quay về đợi thời, làm vợ lẽ”.

15. Mậu Dần - Địa Thủy Sư, hào 1

- “Sơ Lục, sư xuất dĩ luật, phủ tang hung”.

- “Sáu Đầu, quân đội khi xuất quân thì phải dùng quân luật, hiệu lệnh để ước thúc, quân kỷ không khéo tất có hung hiểm”.

16. Kỷ Mão – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 1

- “Sơ Cửu, đồng nhân vu môn, vô cữu”.

- “Chín Đầu, vừa ra khỏi cửa mà đã có thể hòa đồng ngay với người, tất vô cữu hại”.

17. Canh Thìn - Trạch Lôi Tùy, hào 3

- “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh”.

- “Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền”.

18. Tân Tị - Sơn Phong Cổ, hào 5

- “Lục Ngũ, cán phụ chi cổ, dụng dự”.

- “Sáu Năm, vì uốn nắn sự tệ loạn của cha mà được tiếng khen”.

19. Nhâm Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (19 ~ 31)

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.

- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.

20. Quý Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (20 ~ 32)

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.

- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.

21. Giáp Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (21 ~ 9)

- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.

- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.

22. Ất Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (22 ~ 10)

- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.

- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.

23. Bính Tuất – Phong Sơn Tiệm, hào 4

- “Lục Tứ, hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ dốc, vô cữu”.

- “Sáu Bốn, chim đại nhạn bay từ từ lên cây cao, may mà tìm được cành bằng đậu thoải mái, không bị cữu hại”.

24. Đinh Hợi – Lôi Trạch Quy muội, hào 4

- “Cửu Tứ, quy muội khiên kỳ, trì quy hữu thời”

- “Chín Bốn, người con gái đi lấy chồng bị lỡ thì con gái, dềnh dàng chưa lấy chồng, yên đợi thời cơ”.

25. Mậu Tý - Địa Thủy Sư, hào 6

- “Thượng Lục, đại quân hữu mệnh, khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng”.

- “Sáu Trên, thiên tử ban phát mệnh lệnh, phong thưởng cho các công thần, là chư hầu, là đại phu ; còn kẻ tiểu nhân thì không thể trọng dụng”.

26. Kỷ Sửu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 2

- “Lục Nhị, đồng nhân vu tông, lận”.

- “Sáu Hai, hòa đồng với mọi người trong họ, có sự đáng tiếc”.

27. Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2

- “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu”.

- “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng”.

28. Tân Mão – Sơn Phong Cổ, hào 6

- “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự”

- “Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình”.

29. Nhâm Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (29 ~ 41)

- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.

- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.

30. Quý Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (30 ~ 42)

- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”

- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.

31. Giáp Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (31 ~ 19)

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.

- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.

32. Ất Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (32 ~ 20)

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.

- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.

33. Bính Thân – Phong Sơn Tiệm, hào 3

- “Cửu Tam, hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung ; lợi ngư khấu”.

- “Chín Ba, chin đại nhạn bay từ từ đến ngọn núi nhỏ, giống như người chồng đi xa, một đi không trở về, người vợ không giữ được trinh chính, có mang để con không nuôi, có hung hiểm ; (nếu có thể giữ chính, dụng cương, thì) lợi về sự chống trả giặc mạnh.

34. Đinh Dậu – Lôi Trạch Quy muội, hào 5

- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, kỳ quân chi duệ, bất như kỳ đệ chi duệ lương ; nguyệt cơ vọng, cát”.

- “Sáu Năm, Đế Ất cho em gái về nhà chồng, y phục của người vợ chính không đẹp bằng y phục của cô vợ lẽ ; (đức hạnh rất cao, ví như) trăng đến ngày sắp tròn mà chưa đầy, tốt lành.

35. Mậu Tuất - Địa Thủy Sư, hào 5

- “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu ; trưởng tử suất sư, đệ tử dư thi, trinh hung”.

- “Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vậy bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nghiệm cho bậc trưởng giả cương chính, thì có thể thống suất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọn người trẻ tuổi không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm”.

36. Kỷ Hợi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 3

- “Cửu Tam, phục nhung vu mãng, thăng kỳ cao lăng, tam tuế bất hưng”

- “Chín Ba, phục binh giữa nơi rừng rậm, thỉnh thoảng lên gò cao trông ngóng, qua ba năm cũng không dám dấy binh giao chiến”.

37. Canh Tý - Trạch Lôi Tùy, hào 1

- “Sơ Cửu, quan hữu du, trinh cát ; xuất môn giao hữu công”.

- “Chín Đầu, có quan niệm tư tưởng giữ vững chính bền, thì sẽ được tốt lành ; ra cửa kết bạn với người, tất sẽ thành công”.

38. Tân Sửu – Sơn Phong Cổ, hào 1

- “Sơ Lục, cán phụ chi cổ, hữu tử khảo, vô cữu, lệ chung cát”.

- “Sáu Đầu, uốn nắn sự tệ loạn của cha, người con có thể nối được nghiệp tổ tiên, tất không có cữu hại, tuy có thể nguy hiểm nhưng cuối cùng tất được tốt lành”.

39. Nhâm Dần - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (39 ~ 51)

- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.

- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.

40. Quý Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (40 ~ 52)

- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.

- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.

41. Giáp Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (41 ~ 29)

- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.

- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.

42. Ất Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (42 ~ 30)

- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”

- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.

43. Bính Ngọ - Phong Sơn Tiệm, hào 2

- “Lục Nhị, hồng tiệm vu bàn, ẩm thực hãn hãn, cát”.

- “Sáu Hai, chim đại nhạn bay từ từ đến bên phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi vui vẻ, tốt lành”.

44. Đinh Mùi – Lôi Trạch Quy muội, hào 6

- “Thượng Lục, nữ thừa khuông, vô thực ; sỹ khuê dương, vô huyết, vô du lợi”.

- “Sáu Trên, người con gái tay xách giỏ tre, không có gì ở trong ; người con trai cầm dao giết dê, không thấy máu: (vợ chồng làm lễ không thành), không có gì lợi”.

45. Mậu Thân - Địa Thủy Sư, hào 4

- “Lục Tứ, sư tả thứ, vô cữu”.

- “Sáu Bốn, quân lui về, tạm giữ thế thủ thì tránh được cữu hại”.

46. Kỷ Dậu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 4

- “Cửu Tứ, thừa kỳ dung, phất khắc công, cát”.

- “Chín Bốn, cưỡi lên tường thành rồi lại lui không dám tiến công, tốt lành”.

47. Canh Tuất - Trạch Lôi Tùy, hào 6

- “Thượng Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi ; vương dụng hưởng vu tây sơn”.

- “Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà ràng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây”.

48. Tân Hợi - Sơn Phong Cổ, hào 2

- “Cửu Nhị, cán mẫu chi cổ, bất khả trinh”.

- “Chín Hai, uốn nắn sự tệ loạn của mẹ, khi tình thế khó tiến hành thì không thể gượng làm được, mà phải giữ vững chính bền để đợi thời”.

49. Nhâm Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (49 ~ 1)

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

50. Quý Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (50 ~ 2)

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.

- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành”.

51. Giáp Dần – Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (51 ~ 39)

- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.

- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.

52. Ất Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (52 ~ 40)

- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.

- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.

53. Bính Thìn – Phong Sơn Tiệm, hào 1

- “Sơ Lục, hồng tiệm vu can ; tiểu tử lệ, hữu ngôn, vô cữu”.

- “Sáu Đầu, chim nhạn bay dần đến bên bờ nước (không được an toàn) ; giống như trẻ nhỏ gặp lúc nguy hiểm, bị trách mắng, nhưng nếu có thể tiến dần không vội thì tránh được cữu hại”.

54. Đinh Tị - Lôi Trạch Quy muội, hào 1

- “Sơ Cửu, quy muội dĩ đệ, phả năng lý, chinh cát”.

- “Chín Đầu, người con gái về nhà chồng làm vợ lẽ, chân thọt mà cố gắng đi được, tiến lên thì được tốt lành”.

55. Mậu Ngọ - Địa Thủy Sư, hào 3

- “Lục Tam, sư hoặc dư thi, hung”

- “Sáu Ba, quân chốc chốc phải chở xác về, có hung hiểm”.

56. Kỷ Mùi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 5

- “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ”.

- “Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp”.

57. Canh Thân - Trạch Lôi Tùy, hào 5

- “Cửu Ngũ, phu vu gia, cát”.

- “Chín Năm, tỏ rõ lòng thành tín với kẻ thiện, tốt lành”.

58. Tân Dậu – Sơn Phong Cổ, hào 3

- “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu”.

- “Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn”.

59. Nhâm Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (59 ~ 11)

- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.

- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.

60. Quý Hợi - Thủy Địa Tỷ, hào 5 (60 ~ 12)

- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.

- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.

Vòng 8, với sự khởi đầu là ngày Giáp Tý, cho chúng ta nhận thức được một hàm nghĩa rất rõ ràng: "nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại".

Đạo lý hay thật!!!

...

VÒNG 7

..........................Nam

..........................TỤNG

...........DI............................NHU

...ĐẠI QUÁ...............+...............TIỂU QUÁ

........TRUNG PHU.....................TẤN

...........................MINH DI

.............................Bắc

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

VÒNG 5

.............................MÔNG

......VÔ VỌNG.......................ĐẠI TRÁNG

...THĂNG.....................+...................KIỂN

........KHUÊ...................................QUAN

...........................CÁCH

VÒNG 4

...........................VỊ TẾ

........ÍCH.............................THÁI

...HẰNG.....................+...............HÀM

..........TỔN...................................BĨ

...........................KÝ TẾ

VÒNG 3

...........................ĐỈNH

........GIA NHÂN.........................LÂM

...GIẢI.....................+.................TỤY

........ĐẠI SÚC......................ĐỘN

..........................TRUÂN

VÒNG 2

...........................LỮ

........TIỂU SÚC.........................PHỤC

...DỰ.....................+....................KHỐN

..........BÍ..................................CẤU

...........................TIẾT

VÒNG 1

...........................LY

........TỐN.............................KHÔN

...CHẤN.....................+..............ĐOÀI

.........CẤN.............................CÀN

...........................KHẢM

Khảo sát ngày Giáp Tý phối hợp với Hào từ quẻ Dịch, thông qua 8 vòng

Giáp Tý

1. Ngày Giáp Tý vòng 1: Càn hào 1

- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”.

- “Hào Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng”.

2. Ngày Giáp Tý vòng 2: Cấu hào 1

- “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịch trục.”

- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.”

3. Ngày Giáp Tý vòng 3: Độn hào 1

- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”

- “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.

4. Ngày Giáp Tý vòng 4: Bĩ hào 1

- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.

- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.

5. Ngày Giáp Tý vòng 5: Quán hào 1

- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”

- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”

6. Ngày Giáp Tý vòng 6: Bác hào 1

- “Sơ Lục, bác sàng dĩ túc, miệt ; trinh hung.”

- “Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gãy gục, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

7. Ngày Giáp Tý vòng 7: Tấn hào 1

- “Sơ Lục, tấn như tồi như, trinh cát ; võng phu, dụ vô cữu.”

- “Sáu Đầu, sự tiến thịnh khởi đầu đã bị ghìm lui chắn lại, giữ chính thì được tốt lành ; hãy tạm ung dung đợi thời thì không gặp cữu hại”.

8. Ngày Giáp Tý vòng 8: Đại hữu hào 1

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

Xét thấy ngày Giáp Tý thông qua 8 vòng mà sao lời Hào từ lại nói "vật dụng" khởi đầu ở Vòng 1, mà tới cùng là Vòng 8 nói "chưa đi lại giao du thì chưa mắc hoạ", lạ thật!!!.

Vậy thì, có sự liên hệ tới Độn Giáp chăng?

...

Bài số #13, chúng ta đã có ví dụ về VÒNG 8, hệ thống 60 can chi phối hợp với Hào từ của 8 quẻ thuộc Vòng 8.

Nhận xét thấy:

- Mỗi quẻ Dịch có 6 hào, ta ví dụ mỗi một Hào trong quẻ Dịch tương đương với đơn vị tính là một ngày. Như vậy, một vòng Dịch Can Chi sẽ tương đương với 60 ngày. Thuận tự hết 8 vòng, thì số ngày là: 60 x 8 = 480 ngày tương đương với 480 hào từ.

- Khi người xưa quy định sự phối hợp Thiên can với quẻ Dịch, thì can Giáp - Nhâm phối với quẻ Càn, can Ất - Quý phối với quẻ Khôn. Từ nguyên nhân này, đã nảy sinh ra số "Trùng lưu" (Lão Tử gọi là Trùng hư), cụ thể như sau:

- Số 1 ~ số 49 ==> Giáp Tý <=> Nhâm Tý

- số 2 ~ số 50 ==> Ất Sửu <=> Quý Sửu

- số 9 ~ số 21 ==> Nhâm Thân <==> Giáp Thân

- số 10 ~ số 22 ==> Quý Dậu <==> Ất Dậu

- số 11 ~ số 59 ==> Giáp Tuất <==> Nhâm Tuất

- số 12 ~ số 60 ==> Ất Hợi <==> Quý Hợi

- số 19 ~ số 31 ==> Nhâm Ngọ <==> Giáp Ngọ

- số 20 ~ số 32 ==> Quý Mùi <==> Ất Mùi

- số 21 ~ số 9 ==> Giáp Thân <==> Nhâm Thân

- số 22 ~ số 10 ==> Ất Dậu >==> Quý Dậu

- số 29 ~ số 41 ==> Nhâm Thìn <==> Giáp Thìn

- số 30 ~ số 42 ==> Quý Tị <==> Ất Tị

- số 31 ~ số 19 ==> Giáp Ngọ <==> Nhâm Ngọ

- số 32 ~ số 20 ==> Ất Mùi <==> Quý Mùi

- số 39 ~ số 51 ==> Nhâm Dần <==> Giáp Dần

- số 40 ~ số 52 ==> Quý Mão <==> Ất Mão

- số 41 ~ số 29 ==> Giáp Thìn <==> Nhâm Thìn

- số 42 ~ số 30 ==> Ất Tị <==> Quý Tị

- số 49 ~ số 1 ==> Nhâm Tý <==> Giáp Tý

- số 50 ~ số 2 ==> Quý Sửu <==> Ất Sửu

- số 51 ~ số 39 ==> Giáp Dần <==> Nhâm Dần

- số 52 ~ số 40 ==> Ất Mão <==> Quý Mão

- số 59 ~ số 11 ==> Nhâm tuất <==> Giáp Tuất

- số 60 ~ số 12 ==> Quý Hợi <==> Ất hợi

Như vậy, trong 24 ngày được gọi là "trùng lưu" này, thì số ngày thực tính mang thông tin, chỉ còn 12 ngày, vậy nên số "thông tin" thực có sẽ là 60 - 12 = 48, tương đương với một vòng Dịch Can Chi - Khi trải qua 8 vòng thì số "thông tin" là 48 x 8 = 384, tương đương với số hào của 64 quẻ Dịch.

Ta có thể đưa ra một kết luận rằng: trong quá trình thực tính, thì tổng số hào của Kinh Dịch là 480 hào, được phân làm 8 vòng, mỗi một vòng là 60 hào tương đương với 60 can chi, trong mỗi một vòng thì số "trùng lưu" sẽ là 12.

Từ đây, chúng ta nhận thức được tại sao LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN chỉ dùng đơn vị số quẻ là 48. Nhưng bên trong số 48 này, vẫn ẩn tàng số "trùng hư", để thuận theo số chu kỳ của thời gian là 60.

480 HÀO LÀ SỐ THỰC CỦA KINH DỊCH.

...

Hệ thống 60 can chi, khi phối ứng với 384 Hào từ quẻ Dịch sẽ thuận tự trải qua 8 vòng, nhận thấy một vòng 60 ngày sẽ có 12 ngày mang "thông tin" trùng nhau, được trường phái "Tam huyền" (Tiêu Diên Thọ, Kinh Phòng, Dương Hùng) gọi là số "Trùng lưu". Ta xét tỷ lệ: 1 / 4, có nghĩa rằng: 48 ngày mang "thông tin" tỷ lệ với 12 ngày mang "thông tịn" trùng lưu (thông qua một mà biết bốn - Khổng Tử). Tỷ lệ này, được ứng dụng một cách nghiêm mật, rải khắp trong các môn thuật toán Đông Phương học.

Phép bói Cỏ thi mà sách Dịch có bàn tới, sử dụng số 49 cọng cỏ thi. Con số "49" này, xét thấy tương đương với số "1". Chúng ta đã phối ứng "Thời gian" với Hào từ Kinh Dịch, thấy rằng một "thông tin" ẩn tàng trong "can chi", ví như trong ngày Giáp Tý, thì sau 49 ngày, tới ngày Nhâm Tý thì "thông tin" quay trở lại (phản bản hoàn nguyên - quy luật Phản Tổ).

Ta đang bàn về học thuyết thuyết "Bản thể", đã nhận thấy sự khởi nguồn khi người xưa định "Tuần không", khi chúng ta tìm hiểu về học thuyết thuyết "Sinh - Thành", thì sẽ nhận thức rõ thêm tại sao người xưa quy định như vậy.

...

Một Ví dụ mà Tôi thường ứng dụng và trải nghiệm:

Can Chi ngày sinh của Tôi là ngày Ất Mùi, nếu tính theo số TỬ BÌNH hay LỤC NHÂM, thì hiện tại Tôi đang ở trong VÒNG 6.

Trước tiên, Tôi tìm hiểu ý nghĩa cấu tạo của VÒNG 6 cho ta biết về những "Sự" gì?

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

- Hướng Nam, đó là sự lìa tan - Phong Thuỷ Hoán

- Hướng Bắc, đó là sự thịnh lớn - Lôi Hoả Phong

- Hướng Đông, đó là "Mạch nước ngấm không cùng" - Thuỷ Phong Tỉnh

- Hướng Tây, đó là sự khiêm tốn - Địa Sơn Khiêm

- Hướng Tây - Bắc, đang là sự bong ra từng mảng - Sơn Địa Bác

- Hướng Tây - Nam, đang có sự quyết đoán - Trạch Thiên Quải

- Hướng Đông - Nam, đang có sự cắn để hợp lại - Trạch Thiên Quải

- Hướng Đông - Bắc, đang có nhắc nhở về "sự thận trọng trong đi lại" - Thiên Trạch Lý.

Một người bạn có lời mời Tôi đi miền Nam, từ VÒNG 6 xét thấy, phía Nam đang có sự lìa tan, ứng hợp vào tháng nào đây? Chắc là tháng Nhâm Ngọ vậy. Tôi thành thật cảm ơn bạn mình, và trả lời không thể đi được.

Hướng Tây Nam đang có sự quyết đoán, lại có lưu "Lộc Tồn", tôi chiêm đoán rằng: cơ quan mà tôi đã làm việc, đang cân nhắc tiền thưởng cho một số cán bộ lão thành.

Khi tính theo số ĐỘN GIÁP thì can ngày sinh Ất Mùi của Tôi cho tôi biết những thông tin gì đây?

.........................................Tân gia Mậu

..................Kỷ gia Canh................................Đinh gia Nhâm (Đinh gia Giáp)

....Mậu / Tân...............................+.......................Ất / Bính

...................Nhâm / Đinh................................Bính / Quý

.............................................Canh / Kỷ

Như vậy, Can ngày sinh của Tôi đang nhắc nhở tôi, cho tôi biết thông tin rằng: tôi cần phải có sự khiêm tốn (Địa Sơn Khiêm) trong những ngày tới.

Không biết số Thái ất của Tôi còn nói cho tôi biết thêm những thông tin gì đây.!

...

Khảo sát vòng 2

...........................LỮ

.....TIỂU SÚC.........................PHỤC

...DỰ.....................+....................KHỐN

..........BÍ..................................CẤU

...........................TIẾT

Nhận xét thấy

- Hướng Tây -Nam cung Khôn 2, mang quẻ Địa Lôi Phục phối hợp với hướng Đông, cung Chấn 3 mang quẻ Lôi Địa Dự, hướng Tây - Nam thì: Địa ở bên ngoài mà Lôi ở bên trong ; Địa ở trên mà Lôi ở dưới ; Địa ở ngọn mà Lôi ở gốc,...v.v... Đối với hướng Đông thì vị trí Nội quái và Ngoại quái được thay đổi cho nhau (không phải là đảo - ngược quái): Lôi lại ở bên ngoài còn Địa lại ở bên trong => Lôi Địa <==> Địa Lôi (Tây Nam <==> Đông). Tương tự:

- Hướng Tây - Bắc cung Càn 6, mang quẻ Thiên Phong Cấu phối hợp với hướng Đông - Nam cung Tốn 4, mang quẻ Phong Thiên Tiểu súc => Thiên Phong <==> Phong Thiên (Đông Nam <==> Tây Bắc)

- Hướng Đông - Bắc quẻ Cấn 8, mang quẻ Sơn Hoả Bí phối hợp với hướng Nam cung Ly 9 mang quẻ Hoả Sơn Lữ => Sơn Hỏa <==> Hỏa Sơn (Đông Bắc <==> Nam)

- Hướng Bắc cung Khảm 1, mang quẻ Thuỷ Trạch Tiết phối hợp với hướng Tây cung Đoài mang quẻ Trạch Thuỷ Khốn => Thuỷ Trạch <==> Trạch Thuỷ (Bắc <==> Tây)

Nội ngoại, trong ngoài, trên dưới, trước sau, gốc ngọn, nhân quả...v.v... đều thay đổi vị trí cho nhau. Khi sự thay đổi vị trí quái như vậy, thì chúng ta nhận thức được gì đây? Phải chăng, cái "bên ngoài" của hướng Tây phản ảnh thông tin cái "bên trong" của hướng Đông - Bắc, cũng như cái "bên trong" của hướng Tây Bắc phản ánh thông tin về cái "bên ngoài" của hướng Đông Nam,...v.v...

VÒNG 3

...........................ĐỈNH

........GIA NHÂN.........................LÂM

...GIẢI.....................+.................TỤY

........ĐẠI SÚC......................ĐỘN

..........................TRUÂN

NHẬN XÉT:

- Cung Càn 6 với cung Cấn 8: trong ngoài, trên dưới, nội ngoại, thay đổi vị trí cho nhau: Thiên Sơn <=> Sơn Thiên, hướng Tây Bắc <=> Đông Bắc.

- Cung Khảm 1 với cung Chấn 3: trên dưới thay đổi vị trí cho nhau: Thuỷ Lôi <=> Lôi Thuỷ

- Cung Khôn 2 với cung Đoài 7: trên dưới thay đổi vị trí: Địa Trạch <=> Trạch Địa

- Cung Tốn 4 với cung Ly 9: Phong Hỏa <=> Hoả Phong.

VÒNG 4

...........................VỊ TẾ

........ÍCH.............................THÁI

...HẰNG.....................+...............HÀM

..........TỔN...................................BĨ

...........................KÝ TẾ

- Cung Càn 6 với cung số Khôn 2: Thiên Địa <=> Địa Thiên => Giáp Nhâm = Ất Quý >> hướng Tây Bắc và hướng Tây Nam

- Cung Đoài 7 với cung Cấn 8: Bính <=> Đinh

- Cung Khảm 1 với cung Ly 9: Mậu <=> Kỷ

- Cung Chấn 3 với cung Tốn 4: Canh <=> Tân

VÒNG 5

.............................MÔNG

......VÔ VỌNG.......................ĐẠI TRÁNG

...THĂNG.....................+...................KIỂN

........KHUÊ...................................QUAN

...........................CÁCH

- Cung Cấn 8 với cung Khảm 1: Bính <=> Mậu

- Cung Tốn 4 với cung Khôn 2: Tân <=> Ất (Quý)

- Cung Chấn 3 với cung Càn 6: Canh <=> Giáp (Nhâm)

- Cung Ly 9 với cung Đoài 7: Kỷ <=> Đinh

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

- Tây Bắc cung Càn 6 phối ứng với Tây cung Đoài 7: Đinh <=> Nhâm (Giáp)

- Đông Bắc cung Cán 8 phối ứng với Tây Nam cung Khôn 2: Bính <=> Quý (Ất)

- Hướng Bắc cung Khảm 1 phối ứng với hướng Đông Nam cung Tốn 4: Mậu <=> Tân

- Hướng Đông cung Chấn 3 phối ứng với hướng Nam cung Ly 9: Canh <=> Kỷ.

VÒNG 7

..........................Nam

..........................TỤNG

...........DI............................NHU

...ĐẠI QUÁ...............+...............TIỂU QUÁ

........TRUNG PHU.....................TẤN

...........................MINH DI

.............................Bắc

- Cặp [ 9 <=> 2 ] => Ly <=> Khôn (Nam ~ Tây Nam)

- Cặp [ 7 <=> 4 ] => Đoài <=> Tốn (Tây ~ Đông Nam), (Đinh ~ Tân)

- Cặp [ 6 <=> 1 ] => Càn <=> Khảm (Tây Bắc ~ Bắc)

- Cặp [ 8 <=> 3 ] => Cấn <=> Chấn (Đông Bắc ~ Đông)

VÒNG 8

....................ĐỒNG NHÂN

...........CỔ.........................TỶ

...TUỲ...............+...............QUY MUỘI

..........TIỆM.....................ĐẠI HỮU

......................MINH DI

- Cặp 6 ~ 9 => Hỏa Thiên ~ Thiên Hỏa

- Cặp 3 ~ 7 => Trạch Lôi ~ Lôi Trạch

- Cặp 1 ~ 2 => Địa Thủy ~ Thủy Địa

- Cặp 8 ~ 4 => Phong Sơn ~ Sơn Phong

Chúng ta đã xong được một bước. Tiếp theo, ta cần phải biết được, trong 32 cặp phối hợp này, cặp nào là cặp có sự "dao động" mạnh nhất. Hệ số "dao động" này, giúp được gì cho chúng ta khi ứng dụng vào thực tiễn?

Có người, gặp hệ số "dao động" thấp mà vẫn bị họa tai, có người lại gặp hệ số "dao động" cao mà họ vẫn có khả năng vượt qua (!).

Ta tiếp tục khai phá những điều mà người xưa cho là "nghiêm mật".

...

Điều mà người xưa cho là "nghiêm mật", chính là "cái mà phải dựa vào đang dần mất đi sự ổn định".

Phàm là 10 tuổi thích chạy, 20 tuổi thích đi nhanh, 30 tuổi thích đi bộ, 40 tuổi thích sự ngồi, 50 tuổi thích sự nghỉ, 60 tuổi thích sự nằm.

Dịch - Sơn Địa Bác, tượng hào 2 nói: "Bác sàng dĩ biện, vị hữu dữ dã", có nghĩa rằng: "Đã đến lúc muốn nằm nghỉ, thì giường nằm từ cứng mạnh đang chuyển thành hư yếu".

Phải dừng lại, vì người ta không thể quên nguồn cội của mình. Thường ngày cần phải củng cố cái "gốc" để phòng sự "bác". Khi "thời gian" tích lại ngày một lớn, có nghĩa rằng tuổi ngày một tăng lên, thì "vật chất" ngày càng mất dần đi.

Cái mà ta phải dựa vào đó vậy!

...

Chúng ta tiếp tục khảo sát xem người xưa đã tổ hợp như thế nào (?), từ 48 cặp can chi mang thông tin này, làm sao có thể quy tụ về còn 12 cặp can chi, mà người xưa gọi là 12 "thần". Như vậy, sẽ hình thành 4 chu kỳ của 12 "thần".

...

Năm Canh Dần - 2010, do vậy ta bắt đầu khảo sát từ LỤC CANH

Canh Dần

1. Chu kỳ 1 - Canh Dần - Thuần Chấn, hào 2

- “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc.”

- “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.”

- Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – ý nói tượng hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy.

2. Chu kỳ 2 - Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2

- “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát.”

- “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – "Không đợi ngày mà biết", vì Sáu Hai đã trung, lại chính.

3. Chu kỳ 3 - Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2

- “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát.”

- “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – "Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành", nói lên được đạo ở giữa không lệch.

4. Chu kỳ 4 - Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2

- “Cửu Nhị, hối vong.”

- “Chín Hai, hối hận tiêu hết.”

- Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – "Chín Hai hối hận tiêu hết", nói lên Chín Hai có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch.

5. Chu kỳ 5 - Canh Dần - Địa Phong Thăng, hào 2

- “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.”

- “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi tội lỗi.”

- Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” - Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh.

6. Chu kỳ 6 - Canh Dần - Thủy Phong Tỉnh, hào 2

- “Cửu Nhị, tỉnh cốc xạ phụ, ủng tệ lậu.”

- “Chín Hai, rốn giếng bị uổng dùng để bắn mấy con cá nhỏ, lúc này gầu bị thủng không có gì để múc lên.”

- Tượng “Tỉnh cốc xạ phụ, vô dữ dã.” - "Rốn giếng bị uổng dùng", nói lên Chín Hai không có ứng với trên. (Mỹ, Nga, Trung quốc)

7. Chu kỳ 7 - Canh Dần - Trạch Phong Đại quá, hào 1

- “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.”

- “Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.”

- Tượng “Tạ dụng bạch mao, nhu tại hạ dã.” - "Lấy cỏ tranh trắng lót vật biếu người trên", nói ý hào Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng.

8. Chu kỳ 8 - Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2

- “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu.”

- “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng.”

- Tượng “Hệ tiểu tử, phất khiêm dữ dã” - "Quấn quýt với kẻ tiểu tử", nói lên Sáu Hai không thể cùng một lúc thân hiếu với nhiều nơi.

...

Khảo sát từ LỤC CANH Dịch - Hệ từ thượng - Chương 9 - Tiết 1 viết: "Thiên nhất địa nhị. Thiên tam địa tứ. Thiên ngũ địa lục. Thiên thất địa bát. Thiên cửu địa thập." Như vậy trong hệ chu kỳ số đếm 10, thì can Canh ở vị trí thứ 7. Dịch - Hệ từ thượng - Chương 9 - Tiết 5 viết: "Nhị thiên chi sách, vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã" (Số trong hai thiên của Kinh Dịch là 11520, tương đương với số chỉ vạn vật." Dịch viết: số 11.520 là số tương đương chỉ vạn vật (!), như một di ngôn "mật khẩu" được mật truyền trong Kinh, ta nhận thức như thế nào về lời di ngôn này? Từng bước tiếp cận, khởi đầu từ lời Dịch viết: " Vạn vật xuất hồ Chấn ". Sử dụng 3 chu kỳ: đó là chu kỳ 10, chu kỳ 12, và chu kỳ 14 làm phương tiện nhận thức về Thiên đạo (đường vận hành trời). Chu kỳ 10 được gọi là chu kỳ Thiên can, gồm thứ tự số đếm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Chu kỳ 12 được gọi là chu kỳ Địa chi, gồm thứ tự số đếm: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Chu kỳ 10 và 12 cho chúng ta một hệ chu kỳ số đếm 60, khởi nguyên từ Giáp phối ứng với Tí, kết thúc khi Quý phối ứng với Hợi, thường gọi là một Giáp Tí. Khi tổ hợp phối ứng với chu kỳ 14, có nghĩa là khởi nguyên đồng thời cả ba chu kỳ, thì ta được một hệ chu kỳ số đếm 420, thường được gọi là một Đại Giáp Tí (7 x 60). Một Đại Giáp Tí là một chu kỳ gồm 420 năm (ngày).

...

Khảo sát một số sách chú giảng về Dịch nói: số chỉ vạn vật tương đương với số 11520 (!)

1. Sách " Chu Dịch Đại truyện " - Nhà XB KHOA HỌC XÃ HỘI - 2006 - Lê Anh Minh dịch - chú (tr 94):

- "Thiên" = Kinh dịch có hai thiên ; thượng thiên (tức thượng kinh) có 30 quẻ ; hạ thiên (tức hạ kinh) có 34 quẻ.

- 64 quẻ cả thảy 192 hào dương và 192 hào âm. Khi bói:

- Lập được hào Dương, số que kẹp kẽ tay là 13, còn lại là 36 que. Vậy 36 x 192 = 6912.

- Lập được hào Âm, số que kẹp kẽ tay là 25, số que còn lại là 24. Vậy 24 x 192 = 4608

- Kết quả: 6912 + 4608 = 11520

- Khi nói "vạn vật", thì "vạn" là mười ngàn (nhưng đó là nói tổng quát).

- Số 11520 tương đương với con số chỉ vạn vật.

2. Sách: KINH DỊCH - ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ - Nguyễn Hiến Lê - Trang 462 - CHƯƠNG IX - Tiết 5 viết:

- " Nhị thiên chi sách vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã "

- Dịch: " Số thẻ của hai thiên (tức thiên thượng và thiên hạ trong Kinh dịch, tức số thẻ của 64 quẻ trùng - vì thiên thượng gồm 30 quẻ, thiên hạ gồm 34 quẻ) là 11.520, hợp với số của vạn vật ".

- Chu Hi giảng: Hai thiên trong Kinh dịch gồm tất cả 192 hào dương và 192 hào âm. Như tiết trên đã nói, số của quẻ Càn là 216, vậy số của mỗi hào quẻ Càn, tức mỗi hào dương là 216 / 6 = 36. Số của quẻ Khôn là 144, vậy số của mỗi hào quẻ Khôn, tức mỗi hào âm là 144 / 6 = 24.

- Tổng số 192 hào dương là 36 x 192 = 6.912 ; Tổng số 192 hào âm là 24 x 192 = 4.608 Cộng cả dương lẫn âm được 6.192 + 4.608 = 11.520

- Số 11.520 hợp với số của vạn vật là nghĩa làm sao? Chúng tôi không hiểu. Có lẽ người Trung Hoa thời đó cho rằng trong vũ trụ thời đó có khoảng một vạn mốt loài chăng?

3. Nguồn sách: Thư viện Đại học Cambridge University Library

http://www.lib.cam.a...lu/fb70306.html

TRUNG HOA ĐẠO THÁNH [ 中华 道 藏 ]

Dịch Số 7 - 8 - 9 - 6

Chúng ta có bốn con số, được quy định như sau: cặp số 7 - 8 được quy định đại diện cho "tĩnh", cặp số 9 -6 được đại diện cho "động".

Trong cặp số 7 - 8 đại diện cho cho "Tĩnh", thì số "8" là số đại diện cho Dương "Tĩnh", còn số "7" là số đại diện cho Âm "Tĩnh".

Các bước thực hiện:

- Quẻ Càn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Càn là 8 + 16 + 32 = 56

- Quẻ Khôn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khôn là 7 + 14 + 28 = 49

- Quẻ Chấn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 8 + 14 + 28 = 50

- Quẻ Khảm: hào một có trị số là 7, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là 7 + 16 + 28 = 51

- Quẻ Đoài: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là 8 + 16 + 28 = 52

- Quẻ Cấn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Cấn là 7 + 14 + 32 = 53.

- Quẻ Ly: hào một 8, hào hai là 7 x 2 = 14, hào ba là 16 x 2 = 32. Tông trị số ba hào quẻ Ly là 8 + 14 + 32 = 54

- Quẻ Tốn: hào một là 7, hào hai là 16, hào ba là 32. Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là 7 + 16 + 32 = 55

Bát quái tương đương với trị số quẻ được xếp như sau:

..49.....50.......51......52.....53....54....55....56.

Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn.

Từ đây, chúng ta thấy mối liên hệ của thuật toán "Cỏ thi", tại sao lại dùng có 49 cây Cỏ thi để thực hiện 18 lần chia, mỗi lần 3 biến thì được một hào, 18 lần thì được 6 hào của một quẻ Dịch. Từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "Có", từ tối tới sáng, từ đêm tới ngày,..., Cũng từ đây, có thể số 50 được coi là "Đế xuất hồ Chấn"

Bây giờ, chúng ta xếp các trị số của quẻ theo mô hình được gọi là Tiên thiên như sau:

....................56....................

...........52................55..........

...54...............+.................51..

..........50.................53............

.....................49....................

Khi chúng ta đọc thứ tự số từ "không" tới "có", từ Âm tới Dương, lần lượt tăng thêm một đơn vị, bắt đầu từ số 49, thì chúng ta thấy đường đi hình chữ số 8 thật là vui mắt.

Tổng trị số của Càn-Đoài-Ly-Chấn, đều có hào một là hào dương là: 56 + 52 + 52 + 50 = 212

Tổng trị số của Tốn-Khảm-Cấn-Khôn, đều có hào một là hào âm là: 55 + 51 + 53 + 49 = 208

Như vậy, trị số của Dương và Âm có khác biệt 4 đơn vị. Không hiểu tại sao người xưa lại gọi 4 là chìa khóa của âm dương khi sinh Ngũ hành?

Nhìn vào đồ hình sắp xếp các trị số của quẻ, ta thấy những cặp số đứng liền nhau mà khác biệt 4 đơn vị gồm có: Càn và Đoài, Khôn và Cấn, Chấn và Ly, Tốn và Khảm. Có thể từ đây, mà người xưa đặt ra điều lệ: cặp Khôn-Cấn và cặp Càn-Đoài là Tây tứ trạch. Còn cặp Tốn-Khảm và Chấn-Ly là Đông tứ trạch (?) Những cặp này đều có trị số cách nhau 4 đơn vị

Tiếp tục khảo sát, tổng trị số của 8 quái là: 212 + 208 = 420. Thật lạ, như vậy Tổng trị số của tám quẻ khi "Tĩnh" lại bằng với Tổng Trị số tám quẻ Khi "Động", đều bằng 420. (?)

Lại tiếp tục khảo sát:

..49.....50.......51......52......53....54....55....56......... (khi dùng cặp số 7 - 8)

Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn.

..63.....60.......57......54......51.....48....45....42..........(Khi dùng cặp số 6 - 9)

Nhận thấy, từ Khôn tới Đoài số thứ tự là 4 khi "Tĩnh", thì khi "Động" có trị số cách nhau là 42 + 9 = 51. Tiếp tục từ Đoài tới Tốn, thì thứ tự khi "tĩnh" cũng cách nhau là 4, mà khi "động" cũng có trị số cách nhau là 9, cụ thể là 51 + 9 = 60.

Từ "Tĩnh" chuyển sang "động", từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "có", thông qua 9 con số Cửu cung, chúng ta từng bước tìm hiểu về những con số của Dịch 7 - 8 - 9 - 6.

...

Có thể, những con số là sợi dây nối liền Bốc Dịch với Khoa học.

...

Chúng ta khảo sát lại với cặp số 9 - 6, được coi là cặp số đại diện cho "động"

....................CÀN.........................KHÔN..........

Hào ba.......18 x 2 = 36...............12 x 2 = 24......

Hào hai...... 9 x 2 = 18.................6 x 2 = 12.....

Hào một...............= 9..........................= 6......

- Quẻ Chấn:

hào một dương 9,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba âm 12 x 2 = 24.

Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 9 + 12 + 24 = 45 (Hàm tam vi nhất)

- Quẻ Khảm:

hào một âm 6,

hào hai dương 9 x 2 = 18,

hào ba âm 12 x 2 = 24.

Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là: 6 + 18 + 24 = 48

- Quẻ Cấn:

hào một âm trị số là 6,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba dương 18 x 2 = 36.

Tổng 3 hào: 6 + 12 + 36 = 54.

- Quẻ Tốn:

hào một âm trị số là 6,

hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18,

hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36.

Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là: 6 + 18 + 36 = 60

- Quẻ Ly:

hào một dương trị số là 9,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36.

Tổng trị số ba hào quẻ Ly là: 9 + 12 + 36 = 57.

- Quẻ Đoài:

hào một dương trị số là 9,

hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18,

hào ba âm trị số là 6 x 2 x 2 = 12.

Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là: 9 + 18 + 24 = 51.

Tổng trị số 3 hào của Càn là: 9 + 18 + 36 = 63.

Tổng trị số 3 hào của Khôn: 6 + 12 + 24 = 42.

.42.......45.........48.........51......54........57.......60.........63...

Khôn....Chấn......Khảm.....Đoài....Cấn......Ly.......Tốn.......Càn..

.49.......50.........51.........52.......53.......54........55........56...

Tổng trị số tám quái khi tĩnh: 420 (cặp số 7 - 8)

Tổng trị số tám quái khi động: 420 (cặp số 6 - 9)

Âm Dương sinh Ngũ hành, có thể thông qua chìa khóa của Ngũ hành là số 4, và những con số từ 1 => 9, chúng ta nhận thức được không? Người xưa đã thực hiện tính toán như thế nào để quy tám quái về Ngũ hành?

Tại sao Càn Đoài thuộc Kim, Chấn Tốn thuộc Mộc, Ly thuộc Hỏa, Khảm thuộc Thủy, Cấn Khôn thuộc Thổ???.

Người xưa nói: phương Đông sinh Mộc, vậy phương Tây có sinh Mộc không?

...

Trước khi tìm hiểu về Âm Dương sinh Ngũ hành như thế nào? Có lẽ, chúng ta khảo sát trước về những con số Âm Dương khi sinh.

Một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Khôn là 49 như sau:

..1......2......3......4......5......6......7......8......9..

.49....48.....47....46.....45....44.....43....42....41..

.40....39.....38....37.....36....35.....34....33....32..

.31....30.....29....28.....27....26.....25....24....23..

.22....21.....20....19.....19....17.....16....15....14

.13....12.....11....10......9......8......7......6......5

..4......3......2......1......0..............................

.................................9......8......7......6.....???

Thông qua năm lần hàng ngang, trị số giảm dần của Khôn, thì hàng dọc cho chúng ta thấy những cặp số: 1 -4, 2 - 3, 3 -2, rồi lại 1 - 4, thì trị số của quẻ Khôn từ 49 => 1 ở vị trí có số thứ tự là 4.

Tiếp tục một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Càn là 56 như sau:

...1......2......3......4......5......6......7......8......9..

..56.....55....54....53.....52....51.....50....49....48..

....................................................................

....................................................................

....................................................................

....................................................................

..11.....10.....9......8......7......6......5.....4.......3..

...2.......1.....0................................................

Trị số của Càn là 56, nếu theo thứ tự là một, thì từ hàng dọc, trị số của Càn được khởi đầu lại là 2, là số "Chẵn", là số "Ngẫu". Vậy thì tại sao Dịch lại nói: Dương lẻ Âm chẵn, Dương cơ âm ngẫu?

...

Khảo sát Lịch sử về chiêm bốc, thì "cỏ thi" đã thay thế cho "mai rùa". Trên thực tế, ngoài ghi chép của Khổng Tử ra, không có phương pháp bói "cỏ thi" nào khác, được ghi chép lại. Tới tận đời Đường, thời gian có tới hơn hai ngàn năm. Một cuộc cách mạng đã làm thay đổi thời gian Bốc quẻ, khi thay thế Ba đồng tiền để tiến hành lắc quẻ. Theo thời gian, Bốc dịch lại sản sinh ra một cuộc cách mạng trọng đại nữa, cho tới khi xuất hiện Thiệu Ung. Ông cho rằng: "Thần sinh Số, Số sinh Tượng, Tượng sinh Khí". Được gọi là Khang Tiết Thần số. Thời Tam quốc, Vương Bật, một người thanh niên đề xướng tư tưởng trị dịch: "đắc ý quên tượng". Thì Dịch học đã chuyển từ Chiêm Bốc sang Triết học. Trường phái Nghĩa - Lý đã thay thế Dịch Số thời nhà Hán. Cho tới ngày hôm nay, Bốc Dịch cần Khoa học, hiện đang là thời mà Khoa học không cần Chiêm Bốc.

Chiết Tự Số - Chữ Quốc Ngữ

Chào Anh Chị Em trên diễn đàn.

Khi tìm hiểu những phương pháp để lập quẻ Dịch, trong MAI HOA DỊCH SỐ của ngài Thiệu Ung, có phương pháp CHIẾT TỰ SỐ. Theo sách "Bí bản trắc tự toàn thư", ngài Tự Thạch đã nổi danh thiên hạ về khoa Chiết tự. Chữ Quốc ngữ VN có thể xây dựng nên phương pháp Chiết tự này. Tham khảo từ Nguồn: Dichminh.co.cc, được xây dựng Chiết tự số như sau:

A: 3 nét ; Ă: 4 nét ; Â: 5 nét

B: 3 nét

C: 1 nét

D: 2 nét ; Đ: 3 nét

E: 4 nét ; Ê: 6 nét

G: 2 nét ;

H: 3 nét

I: 1 nét

K: 3 nét

L: 2 nét

M: 4 nét

N: 2 nét

O: 2 nét

Ô: 4 nét

Ơ: 3 nét

P: 2 nét

Q: 3 nét

R: 3 nét

S: 1 nét

T: 2 nét

U: 1 nét

Ư: 2 nét

V: 2 nét

X: 2 nét

Y: 3 nét

Sắc(/): 1 nét

Huyền (\): 1 nét

Hỏi (?): 2 nét

Ngã (~): 1 nét

Nặng (.): 1 nét

Một ví dụ về khoa Chiết tự số tương ứng với chữ Quốc ngữ: Câu thành văn như sau:

Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá,

Mọi người ở dưới thấp, nên tự chán.

Cụ thể:

- "Trèo lên ngọn cây": tổ hợp Chiết tự số làm Ngoại quái

- "thấy mình cao quá": tổ hợp Chiết tự số làm Nội quái

Thực hiện:

- Chữ "Trèo": T = 2, r = 3, e = 4, 0 = 2, dấu "huyền" = 1

=> 2 + 3 + 4 + 2 + 1 = 12

- Chữ "lên": l = 2, ê = 6, n = 2

=> 2 + 6 + 2 = 10

- Chữ "ngọn": n = 2, g = 2, 0 = 2, n = 2, dấu "nặng" = 1

=> 2 + 2 + 2 + 2 + 1 = 9

- Chữ "cây": c = 1, â = 5, y = 3

=> 1 + 5 + 3 = 9

Tổ hợp câu "Trèo lên ngọn cây" = 12 + 10 + 9 + 9 = 40

40 / 8 = 5 => được quái Khôn.

- Chữ "thấy": t = 2, h = 3, â = 5, y = 3, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 3 + 5 + 3 + 1 = 17.

- Chữ "mình": m = 4, i = 1, n = 2, h = 3, dấu "huyền" = 1

=> 4 + 1 + 2 + 3 + 1 = 11

- Chữ "cao": c = 1, a = 3, 0 = 2

=> 1 + 3 + 2 = 6

- Chữ "quá": q = 3, u = 1, a = 3, dấu "sắc" = 1

=> 3 + 1 + 3 + 1 = 8

Tổ hợp câu: "thấy mình cao quá" = 17 + 11 + 6 + 8 = 42

42 / 8 = 5 dư 2 => được quái Đoài

Câu: "Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá" được quẻ ĐỊA TRẠCH LÂM.

Tiếp tục với vế đối là câu: "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán", lại phân câu này thành 02 quái:

- Chữ "mọi": m = 4, 0 = 2, i = 1, dấu "nặng" = 1

=> 4 + 2 + 1 + 1 = 8

- Chữ "người": n = 2, g = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "huyền' = 1

=> 2 + 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 11

- Chữ "ở": ơ = 3, dấu "hỏi" = 2

=> 3 + 2 = 5

- Chữ "dưới": d = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 9

- Chữ "thấp": t = 2, h = 3, â = 5, p = 2, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 3 + 5 + 2 + 1 = 16

Tổ hợp câu: "mọi người ở dưới thấp" = 8 + 11 + 5 + 9 + 16 = 59

59 / 8 = 7 dư 3 => được quái Ly

- Chữ "nên": n = 2, ê = 6, n = 2

=> 2 + 6 + 2 = 10

- Chữ "tự": t = 2, ư = 2, dấu "nặng" = 1

=> 2 + 2 + 1 = 5

- Chữ "chán": c = 1, h = 3, a = 3, n = 2, dấu "sắc" = 1

=> 1 + 3 + 3 + 2 + 1 = 10

Tổ hợp câu: "nên tự chán" = 10 + 5 + 10 = 25

25 / 8 = 3 dư 1 => được quái Càn

Câu "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán" được quẻ HOẢ THIÊN ĐẠI HỮU.

- Tượng hai quẻ Lâm thừa Đại hữu: theo Bốc Dịch, động hào 3, 4, 6

Posted Image Posted Image

- Theo Dịch Lâm được quẻ Lâm chi Đại hữu.

Chúng ta tham khảo thêm một phương thức lập quẻ Dịch.

Hà Uyên.

...

dichnhan07, on May 17 2010, 03:04 PM, said:

Tôi có một thắc mắc đó là tại sao không phải là an quẻ từ dưới lên mà lại an từ trên xuống, trong khi đó tên gọi lại là Lâm (dưới)-Đại Hữu (trên). Tôi thử biến lại thành Tụy (dưới)-Đồng Nhân (trên), bác thử xét xem liệu quẻ nào hợp hoàn cảnh hơn.

Kính Bác.

Anh Dichnhan

Khi ngài Tiêu Diên Thọ xây dựng kết cấu cho học thuyết của mình, Ông lấy Can Chi "ngày" làm "Bản" (gốc). Do vậy, ngài Tiêu mới lấy "Trực nhật" để minh chứng cho "Tiêu Lâm".

Hôm nay, là ngày Đinh Mão, là Can Chi ứng cho ngày "Âm", nên tôi trải nghiệm theo nguyên tắc mà ngài Tiêu Diên Thọ đã đặt ra.

Anh tham khảo thêm.

Hà Uyên.

...

Chào Thiên đồng

Cảm ơn Bạn rất nhiều từ những ý kiến mà Bạn đặt vấn đề. Tôi đang trải nghiệm, cùng luận giải thêm với Thiên Đồng sau.

Gần đây, về cá nhân, tôi đang thử nghiệm, nhưng không nói ra, về: Họ và Tên của sự Hợp khí, với điều kiện là: Âm dương đã hợp hóa => đã "sinh". Ví dụ như tên của Dương: Trần văn A, tên của Âm là Nguyễn thị B => tôi phân: Trần Văn làm Ngoại quái, còn tên là chữ A, thì đặt làm Nội quái. Đối ứng với Âm, thì Nguyễn Thị tổ hợp làm Ngoại quái, còn tên chữ là B, thì tổ hợp làm Nội quái. Tôi thử nghiệm xét thấy, có nhiều điều rất lạ khi thông tin được bộc lộ ra, từ hai quẻ Đối ứng.

Chia sẻ cùng Thiên Đồng và Anh Chị Em.

Hà Uyên.

HÀO DỊCH THÔNG KHÍ - 72 SỰ CHUYỂN HOÁ CỦA QUẺ DỊCH

SƠN LÔI DI – 72 CỤC

Di: Trinh cát ; quan di, tự cầu khẩu thực.

Dịch: “Quẻ Di tượng trương cho sự nuôi dưỡng: giữ vững chính bền thì được tốt lành. Xem xét hiện tượng nuôi dưỡng sự vật, cần biết dùng chính đạo trong việc từ tìm thức ăn nuôi mình.”

Chú thích: chứ “di” cổ văn mà nhìn ngang thì giống như cái mép, là tên gọi “cái mép”, tượng trưng trong mồm ngậm thức ăn, dưới Chấn động trên Cấn ngưng chỉ, có tượng như đang nhai thức ăn, nhai vật, khi động khi ngừng. Trời đất tạo hóa nuôi nấng muôn vật, mỗi vật được một cách nuôi riêng thì đó cũng là chính đạo mà thôi. Xem cách nuôi của người và cách họ tự tìm thức ăn cho mình, thì sự thiên ác lành giữ có thể thấy được.

Thoán viết: Di, trinh cát, dưỡng chính tắc cát dã. Quan di, quan kỳ sở dưỡng dã ; tự cầu khẩu thực, quan kỳ tự dưỡng dã. Thiên địa dưỡng vạn vật, thánh nhân dưỡng hiền dĩ cập vạn dân: di chi thời đại hỹ tai.

Dịch: “Thoán truyện nói: Nuôi dưỡng, giữ vững chính bền thì được tốt lành. Quan sát hiện tượng nuôi dưỡng sự vật, là quan sát điều kiện khách quan để có được sự nuôi dưỡng ; nên biết dùng chính đạo trong việc tự tìm thức ăn nuôi mình, tức quan sát để biết được về phương pháp chủ quan tự nuôi mình đúng đắn nhất. Trời đất nuôi dưỡng vạn vật, thánh nhân nuôi dưỡng người hiền cho tới muôn dân ; công hiệu của thời “di dưỡng” lớn vậy thay!”

Chú thích: Người quân tử cắt (miếng thịt) không ngay ngắn không ăn, huống chi là miếng ăn phi nghĩa. Bởi vậy cho nên kẻ được nuôi dưỡng phải là kẻ hiền minh, từ nuôi mình tất phải hợp lễ, đó là nghĩa “dưỡng chính” vậy. Về sự sinh và sự dưỡng của muôn vật, thì “thời” là lớn.

Tượng viết: Sơn hạ hữu Lôi, di ; quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực.

Dịch: “Tượng truyện nói: Dưới núi vang động tiếng sấm của quẻ Chấn (dưới động trên ngưng, như miệng nhai thức ăn), tượng trưng cho sự “nuôi dưỡng”, người do vậy thận trọng nói năng để dưỡng đức, tiết chế sự ăn uống để nuôi mình.”

Chú thích: noi theo đạo “dưỡng chính” của quẻ Di, dưỡng đức và dưỡng thân rất quan trọng đối với thời “nuôi dưỡng”. Họa theo miệng mà ra, hoạn theo miệng mà vào, cho nên đối với sự nuôi dưỡng, thì phải “thận trong” và “tiết chế” vậy.

HÀO 9.1

1- Sơn Lôi Di 9.1:

- “Xả nhĩ linh quy, quan ngã đóa di, hung.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, người bỏ phần tốt đẹp như rùa thiêng của mình mà nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, có hung hiểm,”

- Tượng: Hào Chín Đầu không đáng được tôn trọng. Chưa đủ nói lên sự sang giầu quý phái.

2- Sơn Trạch Tổn hào 1:

- “Sơ Cửu, dĩ sự xuyền vãng, vô cữu ; chước tổn chi.”

- Dịch: Hào Chín Đầu, hoàn thành việc tự tu dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp người ở ngôi cao, tất không có cữu hại, nên châm chước giảm bớt chất cứng của bản thân.”

- Tượng: Hào Chín Đầu tâm chí hợp nhất với bậc tôn trưởng.

3- Sơn Thiên Đại súc hào 1:

- “Sơ Cửu, hữu lệ, lợi dĩ.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, có nguy hiểm, lợi về sự tạm dừng không tiến.”

- Tượng: Hào Chín Đầu không thể cứ dấn thân vào tai biến, hoạn nạn mà đi. Không gặp tai ương.

4- Hỏa Thiên Đại hữu: hào 1

- “Cửu Tứ, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp tội tỗi.”

- Tượng: Hào Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai thì cũng không mắc phải họa hại.

5- Thuần Càn hào 1:

- “Cửu Ngũ, Tiềm long, vật dụng.”

- Dịch: “Hào Chín đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.”

6- Trạch Thiên Quải hào 1:

- “Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn đến cữu hại.”

- Tượng: Hào Chín Đầu không thể thủ thắng mà vội tiến lên, là mời gọi sự họa hại đến.

7- Trạch Phong Đại quá hào 1:

- “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng.

8- Trạch Sơn Hàm hào 1:

- “Sơ Lục, Hàm kỳ mẫu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu chí hướng phát triển ra phía ngoài.”

9 Trạch Địa Tụy hào 1:

- “Sơ Lục, hữu phu bất chung, nãi loạn nãi tụy, nhược hào, nhất ác vi tiếu: vật tuất, vãng vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, nếu không giữ được đến cùng sự thành tín trong lòng, tất sẽ làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người ; nếu chuyện tình mà kêu gọi người ở trên, thì có thể chỉ một cái bắt tay với người bạn dương cứng là lại vui cười được ngay ; Không phải lo nghĩ, đi lên tất không gặp cữu hại.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu tâm chí có sự mê loạn.

10- Thủy Địa Tỷ hào 1:

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô vữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục, mà hưởng được sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu nói hào Chín Năm ứng rộng tới các nơi khác, tất sẽ được tốt lành.

11- Thuần Khôn hào 1:

- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí.”

- Dịch: “ Hào Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu nói lên khí âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày sẽ đến.

12- Sơn Địa Bác hào 1:

- “Sơ Lục, bác sàng dỹ túc, miệt ; trinh hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gãy gục, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu trước tiên bị làm ruỗng mọt phần nền móng phía dưới.

13- Sơn Lôi Di 9.1

HÀO 6.3

1- Sơn Lôi Di 6.3:

- Lục Tam, phất di ; trinh hung, thập niên vật dụng, vô du lợi.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, trái với lẽ thường “nuôi dưỡng” ; giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, mười năm dài lâu không được thi thố tài dụng, nếu thi thố tất sẽ không được lợi gì.”

- Tượng: Hào Sáu Ba đại nghịch bất đạo với chính đạo nuôi dưỡng.

2- Hỏa Lôi Phệ hạp 9.4:

- “Lục Tam, phệ tích nhục, ngộ độc ; tiểu nhân lận, vô cữu.”

- Dịch: “ Hào Sáu Ba, gia hình không thuận lợi, như cắn phải thịt khô rắn cứng, lại ngộ độc ; nhưng như vậy bất quá chỉ hơi tiếc, chứ không đến nỗi cữu hại”

- Tượng: Hào Sáu Ba cư vị không thỏa đáng, đến nỗi bị kẻ thụ hình sinh oán.

3- Thiên Lôi Vô vọng 9.5:

- “ Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.”

- Tượng: Hào Sáu Ba vận số đến lúc bị tai bay vạ gió, bị đổ tội oan.

4- Trạch Lôi Tùy 6.6:

- “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền.”

- Tượng: Hào Sáu Ba là bỏ kẻ tiểu tử ở dưới.

5- Trạch Địa Tụy 6.1:

- “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự tiếc nhỏ.”

- Tượng: Sáu Ba lòng muốn hướng lên trên thuận theo dương cứng.

6- Trạch Thủy Khốn 9.2:

- “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung.”

- Dịch: “khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dừa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm.”

- Tượng: Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi lên kẻ cương cường. “Về nhà không thấy vợ” đây là hiện tượng chẳng lành.

7- Trạch Phong Đại quá 9.3:

- “Cửu Tam, đống náo, hung.”

- Dịch: “hào Chín Ba, cột ỏe, hung.”

- Tượng: Chín Ba không thể thêm gì để phụ giúp.

8- Thủy Phong Tỉnh 6.4:

- “Cửu Tam, tỉnh tiết bất thực, vị ngã tâm trắc ; khả dụng cấp, vương minh tịnh thụ kỳ phúc.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, giếng nước được nạo vét sạch sẽ mà không được múc nấu ăn, khiến ta động lòng trắc ẩn, nên mau mau múc lấy nước giếng trong này, được vị vua sáng suốt thì vua tôi sẽ chung hưởng phúc trạch.”

- Tượng: Chín Ba có hành vi chưa được hiểu, thật khiến cho người ta động lòng chắc ẩn, “nhà vua sáng suốt” là để cho vua tôi cùng hưởng phúc trạch.

9- Địa Phong Thăng 6.5:

- “Cửu Tam, thăng hư ấp.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.”

- Tượng: Chín Ba thượng thăng sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ.

10- Sơn Phong Cổ 9.6:

- “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn.”

- Tượng: Chín Ba mạo hiểm đưa ra lời can gián, cuối cùng không thể có cữu hại

11- Sơn Thiên Đại súc 9.1:

- “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh, nhật nhàn cư về, lợi hữu du vãng.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe, lợi về có sự đi.”

- Tượng: Chín Ba hợp chí với hào Chín Trên.

12- Sơn Hỏa Bí 6.2:

- “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững chính bền được lâu dài sẽ được sự tốt lành.”

- Tượng: Chín Ba có thể làm được như vậy thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn.

13- Sơn Lôi Di 6.3

HÀO 6.4

1- Sơn Lôi Di 6.4:

- “Lục Tứ, điên di, cát ; hổ thị đam đam, kỳ dục trục trục, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, đảo điên mà cầu dưới nuôi dưỡng (rồi lại dùng sự nuôi dưỡng đó nuôi lại mọi người), tốt lành ; như mắt hổ nhìn đăm đăm, gấp gáp cầu xin tiếp liền không dứt, tất không có cữu hại.”

- Tượng: Sáu Bốn ở ngôi trên mà có thể tỏa rọi ánh sáng của đức đẹp xuống dưới. Lòng đầy thèm muốn. Điềm cát, đã thực hiện xong công việc.

2- Phong Lôi Ích hào 4:

- “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân.”

- Tượng: Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công

3- Thủy Lôi Truân hào 4:

- “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.”

- Tượng: Sáu Bốn muốn cầu hôn ở phía dưới mà tiến lên, như vậy là kẻ sáng suốt hiểu biết.

4- Thủy Địa Tỷ hào 4:

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, ở ngoài thân mật, gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành.”

- Tượng: Sáu Bốn thuận theo bậc tôn thượng.

5- Thuần Khảm hào 4:

- “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu.”

6- Thủy Phong Tỉnh hào 4:

- “Lục Tứ, tỉnh trụ, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, giếng nước đang được xây lại, tất không cữu hại.”

- Tượng: Sáu Bốn chỉ có thể sửa giếng (không thể nóng vội mà nuôi người.

7- Trạch Phong Đại quá 9.4:

- “Cửu Tứ, đống long, cát ; hữu tha, lận.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, cột vươn thẳng như trước, tốt lành ; nếu ứng viện với dưới, tất sinh thẹn tiếc.”

- Tượng: Chín Bốn không thể cho cột lại ỏe xuống nữa.

8- Lôi Phong Hằng hào 4

- Lục Tứ, điền vô cầm.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, đi săn không được cầm thú.”

- Tượng: Sáu Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú?

9- Hỏa Phong Đỉnh hào 4:

- “Cửu Tứ, đỉnh chiết túc, phúc công tốc, kỳ hình ốc, hung.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, vạc khó lòng chựu nổi sức nặng, chân vạc gãy, cao lương mỹ vị của vương công bị đổ hết, thân vạc ướt át bẩn thửu, có hung hiểm.”

- Tượng: Chín Bốn làm sao còn tín nhiệm được nữa. Chân đỉnh bị cắt, tức là lật đổ chế độ cũ, nên tin như thế nào cho phải?

10- Hỏa Thiên Đại hữu hào 4:

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, đừng để tỏ ra quá sự giầu có thì không bị họa hại.”

11- Thuần Ly hào 4:

- “Cửu Tứ, đột như kỳ lai như, phần như, tử như, khí như.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán diệt vong, bị vứt bỏ sạch trơn.”

- Tượng: hư thế của Chín Bốn sẽ làm cho nó không còn nơi phụ bám, chứa chấp. Vật đột nhiên đến, không có chỗ dung thân.

12- Hỏa Lôi Phệ hạp hào 4:

- “Cửu Tứ, phệ can tỷ, đắc kim thỉ ; lợi gian trinh, cát.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, gia hình không thuận lợi như cắn miếng thịt có xương khô, nhưng có khí phách cương trực như mũi tên đồng, lợi về trong gian nan giữ vững được chính bền, tốt lành.”

- Tượng: đạo trị ngục của Chín Bốn chưa phát huy được sáng lớn, không sáng sủa gì.

13- Sơn Lôi Di hào 4

HÀO 6.5

1- Sơn Lôi Di 6.5

- “Lục Ngũ, phất kinh, cư trinh cát, bất khả thiệp đại xuyên.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm (ví như bậc “quân vương” dựa vào sự kẻ trên nuôi nình để nuôi thiên hạ), trái với lẽ thường, ở yên giữ vững chính bền thìđược tốt lành, không thể vượt qua sông cả sóng lớn.”

- Tượng: Sáu Năm nên thuận theo và dựa vào người hiền lương dương cứng Chín Trên. Thuận tình đi theo cấp trên, là điềm lành do “cư trinh”.

2- Địa Lôi Phục hào 5:

- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận.”

- Tượng: Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, tự mình suy xét để thành được đạo phục thiện.

3- Thuần Khôn hào 5:

- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.”

- Tượng: Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ đạo “trung”. “Hoàng thường”, văn hóa là trung tâm.

4- Địa Thủy Sư hào 5:

- “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu, trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vây bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nhiệm cho bậc trưởng giả cương chính thì có thể thống xuất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọ tuổi trẻ không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

- Tượng: “trưởng tử xuất sư”, hoạt động của trung tâm ; “đệ tử dư thi”, là kết quẻ của việc sử dụng người không đích đáng. Lệnh ban ra không thỏa đáng.

5- Địa Phong Thăng hào 5:

- “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.”

- Tượng: hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao, ý chí thật lớn lao.

6- Lôi Phong Hằng hào 5:

- “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm.”

- Tượng: cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà tất có hung hiểm. Chồng ở rể, theo vợ là hung.

7- Trạch Phong Đại quá hào 5:

- “Cửu Ngũ, khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sỹ phu ; vô cữu vô dự.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, cây dương khô ra hoa mới, bà già lọm khọm lấy được người chồng khỏe mạnh, không bị cữu hại, cũng không được khen.”

- Tượng: “dương khô ra hoa” như vậy thì sức sống làm sao lâu bền được. “bà già lọm khọm”, tình trạng như vậy thật đáng xấu hổ.

8- Thiên Phong Cấu hào 5:

- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự nhiên.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che trở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống.”

- Tượng: tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời. Hàm nghĩa 9.5 nói về hiện tượng lạ “thiên thạch từ trời rơi xuống.”

9- Thuần Càn hào 5:

- “Cửu ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

10- Thiên Hỏa Đồng nhân hào 5:

- “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp.”

- Tượng: “trước thì khóc lóc kêu rên”, do Chín Năm trung chính, chân thành thẳng thắn. “Phải đến khi đại quân xuất chiến mới tương ngộ hội hợp cùng kẻ chí đồng”, là do Chín Năm cùng với kẻ địch giao chiến và đã chiến thắng.

11- Thiên Lôi Vô vọng hào 5:

- “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà vui vì khỏi bệnh.”

- Tượng: Chín Năm không dùng thử linh tinh, không thể thử thuốc.

12- Phong Lôi Ích hào 5:

- “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: Hữu phu huệ ngã đức.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, có lòng chân thành, tín thực ban ơn cho thiên hạ, không cong nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp: Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta.”

- Tượng: “tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi. “báo đáp ân đức của ta”, nói lên hào Chín Năm được lớn chí tổn thượng ích hạ. Cái đạt được lớn nhất là ý chí.

13- Sơn Lôi Di hào 5

HÀO 9.6

1- Sơn Lôi Di hào 6

- “Thượng Cửu, do di ; lệ cát, lợi thiệp đại xuyên.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, thiên hạ nhờ nó mà được nuôi dưỡng, biết nguy mà thận trọng thì được tốt lành, lợi về vượt qua sông cả sóng lớn.”

- Tượng: Chín Trên có phúc khánh lớn.

2- Sơn Địa Bác hào 6:

- “Thượng Cửu, thạc quẻ bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, quẻ lớn chưa bị hái xuống ăn, người quân tử hái được nó thì có thể ruổi xe đi cứu đời, kẻ tiểu nhân hái được tất sẽ đi đến chỗ phá vạn nhà.”

- Tượng: “quân tử đắc dư”, nói lên ý trăm họ do vậy được bề trên che trở. “tiểu nhân bác lư”, nói lên kẻ tiểu nhân cuối cùng không thể tin dùng được. Cuối cùng nhà nát không thể dùng được nữa.

3- Sơn Thủy Mông hào 6:

- “Thượng Cửu, kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối, không lợi về dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên ngừa giặc mạnh.”

- Tượng: Chín Trên có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận.

4- Sơn Phong Cổ hào 6:

- “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình.”

- Tượng: ý chí của Chín Trên đáng để noi theo. Không việc gì là không đến tay vương hầu.

5- Hỏa Phong Đỉnh hào 6:

- “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi.”

- Tượng: Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm. Cương nhu hòa hợp.

6- Thiên Phong Cấu hào 6:

- “Thượng Cửu, cấu kỳ giác, lận, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, gặp nơi trống vắng, lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cưu hại.”

- Tượng: ở nơi cao cùng cực nên dẫn tới sự hối tiếc là tương ngộ mà không người. Nghèo hèn sinh ra tiếc của (từ giầu có tụt dốc xuống thành nghèo khổ).

7- Trạch Phong Đại quá hào 6:

- “Thương Lục, quá thiệp diệt đỉnh ; hung, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, lội nước quá sâu đến nỗi ngập cả đầu ; có hung hiểm, nhưng không có lỗi gì.”

- Tượng: cứu đời mà mất mạng, không thể coi là có lỗi. qua sông hỏng thuyền.

8- Trạch Thiên Quải hào 6:

- “Thượng Lục, vô hào, chung hữu hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, không phải gào khóc, cuối cùng khó tránh sự hung hiểm.

- Tượng: Với tình thế ở cao bên trên cuối cùng không thể lâu dài.

9- Trạch Hỏa Cách hào 6:

- “Thương Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện, chinh hung, cư trinh cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau làm thay đổi khuynh hướng thời trước, lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng: “quân tử báo biến”, ngôn ngữ hoa mỹ bay bổng. “Đánh dấu vào mặt tiểu nhân”, thuận tòng sự niến cách của nhà vua.

10- Trạch Lôi Tùy hào 6:

- “Thương Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi; vương dụng hưởng vu tây sơn.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà rằng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây.”

- Tượng: ở ngôi trên cùng, đạo theo cùng tận, “trên” nghèo khổ.

11- Thủy Lôi Truân hào 6:

- “Thương Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có sự cảm ứng) nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa.”

- Tượng: làm sao mà có thể trường cửu như vậy được.

12- Địa Lôi Phục hào 6:

- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại, dĩ kỳ quốc, quân hung, chí vu thập niên bất khắc chinh.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến nhiều năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển.”

- Tượng: Sáu Trên đi ngược với con đường của đạo quân chủ dương cứng. Ngược với đạo lý của vua.

13- Sơn Lôi Di hào 6

...

Chào VanTrungHac

- Theo Hà Uyên, 1 hào chỉ có 5 quá trình tiệm tiến chuyển hoá, Hà Uyên cũng đã trao đổi với Liêm Trinh. Khi chúng ta trao đổi với nhau, thì Hà Uyên phân tích 12 quá trình là để hiểu thêm về những nguyên lý của Kinh Dịch.

- Hai người cùng Năm-Tháng-Ngày-Giờ đến hỏi vận mệnh, thì Hà Uyên chưa có câu trả lời với VanTrungHac.

- Quẻ ứng tức thì,...Hà Uyên rất ít, thiếu kinh nghiêm.

Hà Uyên có thể cùng thảo luận với VanTrungHac về chủ đề: tại sao một cung, lại quy định 7 quẻ phải theo Ngũ hành của quẻ Bát Thuần, vì phần này Hà Uyên vẫn có nhiều chỗ lúng túng.

TIÊN THIÊN NỘI TĨNH NGOẠI ĐỘNG - HẬU THIÊN NỘI ĐỘNG NGOẠI TĨNH

TIÊN THIÊN NỘI TĨNH NGOẠI ĐỘNG

Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số là 99, trong và ngoài đều là số “thành”, nội tĩnh ngoại tĩnh

Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49, trong là số “thành”, ngoài là số “sinh”, do quẻ Càn hào 6 biến. Ngoại động nội tĩnh.

Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, ngoài “sinh” trong “thành”, ngoaì do quẻ Càn hào 5 biến.

Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89, cả trong và ngoài đều là số “thành”, ngoài do quẻ Khôn hào 4 biến.

Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29, nội tĩnh ngoại động, ngoại động do quẻ Càn hào 4 biến.

Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu, số là 79, nội và ngoại đều là số “thành”, ngoại do quẻ Khôn hào 5 biến.

Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69, nội và ngoại đều là số “thành", ngoại do quẻ Khôn hào 6 biến.

Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái, số là 19, nội “thành” ngoại “sinh”.

Vị trí thứ 9 là Thiên Trạch Lý, số là 94.

Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài, số là 44.

Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê, số là 34.

Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội, số là 84 Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu, số là 24.

Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết, số là 74.

Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64 Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm, số là 14.

Vị trí thứ 17 là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93.

Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách, số là 43.

Vị trí thứ 19 là Thuần Ly (10 + 9), số là 33.

Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong, số là 83.

Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23.

Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73.

Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí, số là 63.

Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13.

Vị trí thứ 25 là Thiên Lôi Vô vọng, số 98 Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy, số là 48.

Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp, số là 38.

Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88.

Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích, số là 28 Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân, số là 78.

Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di, số là 68.

Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục, số là 18.

Vị trí thứ 33 là Thiên Phong Cấu, số là 92.

Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá, số là 42.

Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32.

Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng, số là 82.

Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22.

Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72.

Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, số là 62.

Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12.

Vị trí thứ 41 là Thiên Thủy Tụng, số là 97.

Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47.

Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37.

Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 82 Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán, số là 27.

Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77.

Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông, số là 67.

Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư, số là 17.

Vị trí thứ 49 là Thiên Sơn Độn, số là 96.

Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm, số là 46.

Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ, số là 36.

Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá, số là 86.

Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm, số là 26.

Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76.

Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66.

Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm, số là 16 Vị trí thứ 57 là Thiên Địa Bĩ, số là 91.

Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy, số là 41.

Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn, số là 31.

Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự, số là 81.

Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan, số là 21.

Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71.

Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác, số là 61.

Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11.

HẬU THIÊN NỘI ĐỘNG NGOẠI TĨNH

1- Càn ngoại:

- Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số thực dụng là 99

- Vị trí thứ 9 (1 +8) là Thiên Trạch Lý, số là 94.

- Vị trí thứ 17 (9 + 8) là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93.

- Vị trí thứ 25 (17 +8) là Thiên Lôi Vô vọng, sô là 98

- Vị trí thứ 33 (25 +8) là Thiên Phong Cấu, số là 92.

- Vị trí thứ 41 (33 +8) là Thiên Thủy Tụng, số là 97.

- Vị trí thứ 49 (41 + 8) là Thiên Sơn Độn, số là 96.

- Vị trí thứ 57 (49 + 8) là Thiên Địa Bĩ (bế tắc), số là 91 2- Đoài ngoại:

- Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49,(58 + 8 = 66 – 64 = 2)

- Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài (vui vẻ), số là 44

- Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách (cải cách), số là 43.

- Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy (theo), số là 48.

- Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá (quá lớn), số là 42.

- Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47.

- Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm (trai gái cảm nhau), số là 46.

- Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy (nhóm họp), số là 41. 3- Ly ngoại:

- Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, (59 + 8 = 67 – 64 = 3)

- Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê (chia lìa), số là 34.

- Vị trí thứ 19 là Thuần Ly, số là 33.

- Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp (cắn để hợp), số là 38.

- Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32.

- Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37.

- Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ (bỏ nhà đi tha hương), số là 36.

- Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn (tiến lên), số là 31. 4- Chấn ngoại:

- Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89,(60 + 8 = 68 – 64 = 4)

- Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội (em gái về nhà chồng), số là 84.

- Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong (thịnh, lớn) số là 83.

- Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88.

- Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng (lâu dài), số là 82

- Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 87.

- Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá (quá chút ít), số là 86.

- Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự (vui sướng), số là 81. 5- Tốn ngoại:

- Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29 (61 + 8 = 69 – 64 = 5)

- Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu (có đức tin trong lòng), số là 24.

- Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23.

- Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích (tăng lên), số là 28. -

- Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22.

- Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán (chia lìa, tan tác), số là 27.

- Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm (tiến dần), số là 26.

- Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan (xem xét), số là 21. 6- Khảm ngoại:

- Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu (chờ đợi), số là 79 (62 + 8 = 70 – 64 = 6)

- Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết (tiết chế lại), số là 74.

- Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73, nạp Mậu Thìn, hành 9 vận.

- Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân (đầy và khó khăn), số là 78.

- Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72.

- Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77.

- Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76.

- Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71. 7- Cấn ngoại:

- Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69 (63 + 8 = 71 – 64 = 7)

- Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64.

- Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí (rực rỡ, sáng sủa), số là 63.

- Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di (nuôi nấng), số là 68

- Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, (đổ nát, công việc), số là 62.

- Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông (non yếu, mù mờ), số là 67.

- Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66 (46), Cấn nạp Bính Dần, hành 1 vận.

- Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác (tiêu mòn, bóc lột), số là 61 8- Khôn ngoại:

- Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái (hanh thông), số là 19.

- Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm (lớn tới), số là 14.

- Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13.

- Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục (trở lại), số là 18.

- Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12.

- Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư (đám đông), số là 17.

- Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm (nhún nhường), số là 16.

- Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11.

...

Thiệu Ung viết: "Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8". Theo Tiên thiên, thì quẻ Thuần Càn ở vị trí thứ 1, cộng thêm với 9 thì tới quẻ Thuần Đoài có số thứ tự là 1 + 9 = 10. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Ly có số thứ tự là 10 + 9 = 19. Tiếp tục cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Chấn có số thứ tự là 19 + 9 = 28. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Tốn có số thứ tự là 28 + 9 = 37. Tiếp tục công thêm với 9 thì được quẻ Tập Khảm có số thứ tự là 37 + 9 = 46. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Cấn có số thứ tự là 46 + 9 = 55. Tiếp tục cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Khôn có số thứ tự là 55 + 9 = 64. Theo Hậu thiên, quẻ Thuần càn gồm: 1, 9, 17, 25, 33, 41, 49, 57 (1, 9, 7, 5, 3, 1, 9, 7). Từ số thứ tự cuối của quẻ Càn 57 + 9 = 66 ta trừ đi 64 quẻ 66 - 64 = 2. Nên quẻ thuần Đoài mang số thứ tự khởi đầu là 2. Thiệu Ung nói: Càn 1, Đoài 2. Theo Hậu thiên, quẻ Đoài gồm các số: 2, 10, 18, 26, 34, 42, 50, 58 (2, 0, 8, 6, 4, 2, 0, 8). Từ số thứ tự cuối của quẻ Đoài cộng thêm với 9, tức là 58 + 9 = 67 - 64 = 3. Do vậy 3 là số thứ tự đầu tiên của quẻ Ly. Nên nói Ly 3. Tiếp tục như vậy, nên Thiệu Ung viết: Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Thiên Trạch Hỏa Lôi, Phong Thủy Sơn Địa - 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8.

...

Từ hai sườn dốc - từ đó sinh ra các đối lập tạo nghĩa. Âm Dương, tự nhiên luôn tồn tại "thái quá" và "bất cập", đối lập tạo nghĩa của Âm Dương cũng theo quy luật của tự nhiên, Âm thái quá và bất cập, cũng như Dương thái quá và bất cập, hình thành bốn trạng thái: Thái âm, Thiếu dương, Thái Dương, Thiếu âm. Trong tự nhiên, đặc thù mang tính khái quát cao đó là "nước", luôn luôn giữ được sự "thăng bằng". Trời 1 ở Bắc, Đất 2 ở Nam, Trời 3 ở Đông, Đất 4 ở Tây, Trời 5 ở Trung tâm, Đất 6 ở Bắc.

...

ỨNG DỤNG TIÊN THIÊN - HẬU THIÊN

Can Chi Năm-Tháng-Ngày-Giờ nạp quẻ Dịch

Ví dụ: Năm Kỷ Sửu 2009, tháng Kỷ Tị, ngày Canh Tý, giờ Mậu Tuất.

- Năm Kỷ Sửu, nạp quẻ Hỏa thủy Vị tế, có số thứ tự là 43, có số thực dụng là 37.

- Tháng Kỷ Tị, nạp quẻ Thủy Lôi Truân, có số thứ tự là 30, có số thực dụng là 78

- Ngày Canh Tý, nạp quẻ Lôi Phong Hằng, có số thứ tự là 36, có số thực dụng là 82.

- Giờ Canh Tuất, nạp quẻ Phong Hỏa Gia nhân, có số thứ tự là 21, có số thực dụng là 23.

+ Thiên Can: Kỷ - Kỷ - Canh - Canh nạp số thực dụng là 3-7-8-2, đã hội đủ TAM QUÝ: Sinh khí - Thiên y - Diên niên (Tham Cự Vũ)

+ Địa chi: Sửu - Tị - Tý - Tuất nạp số thực dụng là 7 -8- 2- 3, cũng hội đủ Sinh khí - Diên niên - Thiên y (Tham-Cự-Vũ)

...

Ý NGHĨA CỦA SỰ KẾT HỢP

CẶP SÔ KÊT HƠP

16, 27, 38, 49 là sao Tham lang, thần là Sinh khí (hào 3 biến)

12, 34, 67, 89 là sao Liêm trinh, thần là Ngũ quỷ (hào 2 – 3 biến)

19, 28, 37, 46 là sao Vũ khúc, thần là Diên niên (3 hào đều biến)

13, 24, 68, 79 là sao Văn khúc, thần là Lục sát (hào 1 – 3 biến)

18, 29, 36, 47 là sao Lộc tồn, thần là Họa hại (hào 1 biến)

14, 23, 69, 78 là sao Cự môn, thần là Thiên y (hào 1 – 2 biến)

17, 26, 39, 48 là sao Phá quân, thần là Tuyệt mệnh (hào 2 biến)

1- Sinh khí – Tham lang: phát sinh sự quan hệ về vật chất hay tinh thần, như có tiền, có tiền để trả nợ,… hay gặp gỡ đồng nghiệp, bạn cũ, chiêu đãi, …Sức khỏe tốt, sinh tài thêm đinh. Là những điều kiện sinh sôi, nảy nở, tiến hành thuận lợi, cây côi tươi tốt, chăn nuôi phát triển,…

2- Ngũ quỷ - Liêm trinh: là 5 thứ tà khí quấy rối sự sống, quấy rối quan hệ con người với con người, thường gây ra sự bực mình, rắc rối (do bị tai nan, mất mát, kiện thưa, cãi vã, vạ miệng,…), đi họp đi công tác, công việc bận rộn. Hay bị tai nạn nếu gặp thêm Ngũ hoàng (số 5)

3- Diên niên – Vũ khúc: là chủ về sự bền vững dài lâu, sức khỏa vững vàng, trường thọ, sự may mắn trong các mối quan hệ tình cảm gia đình và xã hội có tính bất ngờ (như trúng số, hay bị tai nạn mà người thì không bị sao,…) {chỉ Chấn và Tốn kết hợp mới được trường thọ bách niên}

4- Lục sát – Văn khúc: là sự thiệt hại những gì thuộc phạm vi chủ thể có trách nhiệm chăm sóc: như con cái, gia súc, cây trái,…là sự cản trở, công việc trái với ý định ban đầu, quan hệ bị xấu đi do tác động của bên ngoài. Tâm trạng thường bất an, công việc khó có kết quả (va chạm xe cộ).

5- Họa hại - Lộc tồn: là sự thiệt hại, hao tán tài vật thuộc quyền chủ thể quản lý sử dụng. Thiệt hại về vật chất hay tinh thần (trả tiền, mất tiền, đồ đạc đang sử dụng tự nhiên bị hư hỏng, cãi vã về đồ đạc, thị phi điều tiếng,…), phải đi xa, tổn tài, dễ mắc bệnh tật.

6- Thiên y - Cự môn: là sự giải thoát những vướng mắc trong đời sống mọi mặt. Người xưa cho rằng Thiên y như là một lực âm phù đã theo sát để cứu nguy. Giả thoát khỏi sự bế tắc. Đúng lúc gay go nhất, bí nhất, nan nguy nhất thì lại có cơ hội để vượt được qua như vật chất hay tinh thần. Có lợi cho sức khỏe, ít bệnh hay nếu có bệnh thì mau khỏi. Tâm lý ổn định, đạo đức lành mạnh.

7- Tuyệt mệnh – Phá quân: sức khỏe suy giảm, sự nghiệp trở ngại, tai nan, tình cảm hay các mối quan hệ bị xấu đi, bị người trở mặt, gặp sự chia lìa, gặp khách không mời mà đến,…, nhưng những việc lớn trong đời lại thường đến vào thời điểm này, tùy theo mệnh cục của mỗi người mà gặp hung hay cát.

8- Phục vị: là khí chất sinh học theo tự nhiên, mọi việc diễn tiến bình thường, nếu gặp tốt thì sẽ tốt, nếu gặp xấu thì sẽ xấu, căn cứ phụ thuộc vào các mối quan hệ và tại thời gian, thời điểm ảnh hưởng vào lúc đó. Ví như ngày là Phục vị, mà gặp tháng hay năm là Thiên y, thì sẽ thuộc về Thiên y, còn nếu gặp năm, tháng hay giờ là Ngũ quỷ, thì sẽ là Ngũ quỷ. Tuổi Khôn Cấn hay có sự va chạm nhất về xe cộ.

...

Đất và Trời giao nhau thì thái bình (Địa Thiên Thái), Sấm (lôi) và Gió (phong) giao nhau thì lâu dài (Lôi Phong Hằng), Thủy và Hỏa giao nhau thì vượt qua (Thủy Hỏa Ký tế), Đầm (trạch) và Núi (sơn) giao nhau thì trai gái cảm nhau (Trạch Sơn Hàm). Cứ một âm một dương gọi là Đạo, là con đường của sự điều chỉnh.

Dương sinh ở Đông mà thịnh ở Nam ; Âm sinh ở Tây mà thịnh ở Bắc ; trong Dương có Âm, trong Âm có Dương, rồi Lưỡng nghi, rồi Tứ tượng, rồi Bát quái, đều là tự nhiên mà có.

Hà đồ giải thích sự sinh thành của Ngũ hành: “Thiên 1 sinh Thủy, địa 6 đã thành ; Địa 2 sinh Hỏa, Thiên 7 đã thành ; Thiên 3 sinh Mộc, Địa 8 đã thành ; Địa 4 sinh Kim, Thiên 9 đã thành ; Thiên 5 sinh Thổ, Địa 10 đã thành”.

Lạc thư: “Dọc ngang đều là 15, mà 7, 8, 9, 6 lặp lại là giảm đi. Hư 5 chia 10, mà 1 hàm 9, 2 hàm 8, 3 hàm 7, 4 hàm 6, như vậy tham ngũ tổng hợp. Đan xen không thích hợp thì không gặp số hợp của nó.

Vạn vật sinh – thành đều có số và môi trường tồn tại, sinh - tử tồn vong, đủ số thì sinh, số tăng thì trưởng, số giảm thì suy, số hết thì mất. Thịnh suy được mất tất cả đều ở số.

Thiên thời, tức là sắp xếp sử dụng thời gian Năm – Tháng – Ngày - Giờ

...

Thiệu Ung viết: “Cái gọi là cung vị Mậu là ở hai ngôi sao Khuê (Tuất) và sao Bích (Hợi). Cung vị Kỷ là ở hai sao Giác (Thìn) sao Chẩn (Tị).

Khuê Bích là thời tiết giữa Lập thu đến Lập đông. Giác Chẩn là giữa Lập xuân đến Lập hạ, vì vậy là cửa ngọc của Trời Đất.”

Ngày dài thì thời tiết ấm áp, vạn vật phát sinh, đều bắt đầu từ cung vị sao Khuê sao Bích (Tuất - Hợi). Ngày ngắn thì thời tiết giá lạnh, vạn vật thu tàng, đều bắt đầu từ cung vị sao Giác, sao Chẩn (Thìn - Tị), vì vậy mà nói rằng: tiết Xuân phân thì chủ “mở”, tiết Thu phân thì chủ “đóng”.

Từ sao Khuê – Bích đi về phương Nam, mặt Trời là đạo Dương, vì vậy gọi là Thiên môn. Từ sao Giác - Chẩn đi về phương Bắc, mặt Trời là đạo Âm, vì vậy gọi là Địa hộ.

Từ cung vị sao Khuê, sao Bích, và can Mậu thì bắt đầu ngày dần dài ra, khí Dương thịnh dần, giống như là mở cửa Trời. Đến cung vị sao Giác, sao Chẩn, can Kỷ thì ngày dần ngắn lại, khí Âm thịnh dần, khí Dương thu bế, giống như mở cửa Đất. Cho nên gọi là Thiên môn Địa hộ.

Thuyết Thiên môn Địa hộ trình bày: “do Âm xuất Dương, do Dương nhập Âm”, thể hiện quy luật thịnh suy, chuyển hoá, tiêu trưởng Âm Dương bốn mùa. Trùng âm tất dương, trùng dương tất âm. Nguyên lý này cùng ý nghĩa với “dương trưởng thì âm tiêu”, “âm tiêu thì dương trưởng”.

Cái máy của tạo hoá không thể không có sinh, cũng không thể không có chế ước. Không có sinh thì không có sự phát triển, không có chế ước thì sự phát triển cao lên mà có hại. Do vậy, trong sinh phải có chế ước, trong chế ước phải có sinh. Nếu giữa Âm Dương mất chế ước, thì sẽ phát sinh thiên thắng (mất cân đối), thậm chí quyết ly máy tạo hoá không thể nào duy trì được.

Nguyên nhân cái gì gây ra sự mất chế ước giữa Âm Dương?

Quá trình sinh mệnh của con người từ khi sinh ra, lớn lên, khoẻ mạnh, già yếu và chết, cũng là giai đoạn chuyển hoá tiêu trưởng của Âm Dương, từ Dương bắt đầu sinh, Dương thịnh dần, Dương thịnh vượng, đến Âm bắt đầu sinh, Âm thịnh dần, Âm cực thịnh.

Nguyên lý Thái cực sinh ra Âm Dương, Âm Dương hoá hợp sinh ra Ngũ hành, Ngũ hành hàm chứa vạn vật. Khí hoá vận hành, Âm Dương thăng giáng: “Thuỷ là chí âm, cho nên ở dưới ứng với vị trí cực âm. Hoả là chí dương, nên ở trên, ứng với vị trí thịnh dương. Mộc chủ thăng phát, nên ở trên, ứng với vị trí phương Đông. Kim chủ thu giáng, nên ở bên phải, ứng với phương Tây. Thổ là mẹ của số thành, nên ở giữa.

Địa khí thăng lên, Thiên khí giáng xuống, là khí của Trời Đất tác dụng hỗ tương. Sau khi thăng rồi giáng xuống, đó là tác dụng của Trời. Sau khi giáng rồi thăng, đó là tác dụng của Đất. Thiên khí giáng xuống, khí rót về mặt đất. Địa khí thăng lên, khí bay bốc ở khung trời. Cho nên, trên dưới giao nhau và hô ứng với nhau, thăng giáng lấy làm nhân quả lẫn nhau, mà phát sinh biến hoá.

Kỳ số

Nhất Lục cư hạ, Nhị Thất cư thượng, Tam Bát cư tả, Tứ Cửu cư hữu, Ngũ Thập cư trung. Phục hy tắc chi, dĩ họa Bát quái.

Số sinh từ 1 đến 5, tượng trưng sự phát sinh của vạn vật. Số thành từ 6 đến 10, tiêu biểu cho sự hình thành của sự vật. Thổ là nơi vạn vật bắt đầu sinh ra. Thổ là gốc của số sinh, cho nên số sinh và số thành đều là “5”.

Số dương của Hà đồ sinh ở “1”, cực ở “9”. Số âm sinh ở “2”, cực ở “8”. Lấy “9” làm cực của số dương, là bắt đầu của số âm.

...

Mô hình “từ trong ra” là mô hình mở, đi ngược chiều kim đồng hồ, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Khác với chiều vặn đi vào, đi thuận chiều kim đồng hồ, từ trái sang phải, là mô hình đóng.

Khi xét việc đã qua phải theo trật tự thuận, đi theo các con số lớn dần, (tức là chiều từ âm đến dương). Còn khi xét việc sắp tới thì phải theo trật tự nghịch của các con số, đi theo các con số nhỏ dần.(tức là chiều từ dương sang âm)

Theo nguyên tắc cơ chế tâm truyền, mọi thông tin đều phải từ giữa phát ra, đây là thời điểm xẩy ra sự việc. Nếu lấy thời điểm này mà xét, thì việc trở về quá khứ của sự việc, là trở về những quẻ đã sinh, tức là những quẻ ta đã biết trước. Như vậy phải là những quẻ ở miền dương, tức là từ Chấn-4 đến Ly-5, đến Đoài-6, rồi đến Càn-7. Đi từ Chấn đến Càn là miền Dương, là đi theo chiều thuận của các con số 4-5-6-7 là chiều các con số lớn dần.

Khi muốn xét tương lai của sự việc đang xẩy ra thì phải theo hướng các quẻ chưa sinh, tức là những quẻ chưa biết. Như vậy phải là những quẻ ở miền âm, tức là từ Tốn-3 đến Khảm-2, rồi đến Cấn-1, và đến Khôn-0, tức là đi theo chiều ngược của các con số (chiều các con số nhỏ dần 3-2-1-0), như người kể ngược bốn mùa vậy!

Càn-7, Đoài-6, Ly-5, Chấn-4, Tốn-3, Khảm-2, Cấn-1, Khôn-0.

<-- <-- <-- <-- --> - - -> - - -> - - ->

Khi ta cho rằng Chấn-Tốn là thời điểm hiện tại của sự việc thì, muốn biết tương lai phải đi theo chiều nghịch của các con số, tức là chiều các con số giảm dần cùng với các quẻ tương ứng của chúng. Cũng có thể tìm hiểu quá khứ của sự việc để đoán biết tương lai thông qua các quẻ đối xứng, là các quẻ biến dịch hay “quẻ đối” phản của chúng, vì quy luật sinh-thành của các con số là đối xứng từng cặp một, các con số đều có hai miền đối xứng: quá khứ và tương lai so với thời điểm xẩy ra. Tìm hiểu quá khứ để biết được tương lai, đây chính là chìa khóa của Dịch.

Mặt trời mọc từ Đông sang Tây, là quy luật của tạo hóa, là từ tối đến sáng, là từ âm đến dương, từ “không” đến “có”; giai đoạn này được gọi là “ quẻ đã sinh”, đây là trật tự thuận. Ngũ hành thuận bắt đầu từ: Thổ - Thủy - Mộc - Hỏa – Kim. Giai đoạn quẻ chưa sinh bắt đầu bằng trật tự từ Tây sang Đông, từ sáng đến tối, ngũ hành ngược lại là: Kim-Hỏa-Mộc-Thủy-Thổ. Nên nói Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8 thì đều được các quẻ chưa sinh, như người kể ngược thứ tự bốn mùa vậy. Đây là thứ tự của quẻ chưa sinh.

Quy luật của tự nhiên tiến từ “không” đến “có”, cái “không” thuộc âm, cái “có” thuộc dương. Âm Dương cũng là trạng thái “đóng - mở” của tạo hóa. Tạo hóa tiến từ trạng thái “đóng” sang trạng thái “mở”, từ không đến có, từ thế giới vô hình sang thế giới hữu hình. Cái “có” đầu tiên thuộc về Dương, nó tương ứng với số 1, là số lẻ, số cơ.

Vạn vật hiện hữu quanh ta thì muôn hình vạn trạng theo từng chủng loại, theo từng loài. Tất cả, đều xuất phát từ sự “sinh-thành” và vị trí ban đầu của các con số trong không gian, cũng như quy luật biến hóa theo “tượng âm dương” của chúng.

Biến Dịch là vòng tuần hoàn lớn của Tạo hóa, Càn Khôn đóng vai trò mở đầu và kết thúc những quá trình lâu dài. Đối với đời người cũng như vạn loại sinh giới, sự biến dịch từ Càn tới Khôn, đồng nghĩa với sự kết thúc chu trình sống này, để chuyển sang một chu trình sống khác. Sự biến dịch từ Âm sang Dương hay từ Dương sang Âm, là sự biến đổi về bản thể các tượng số, luôn luôm tiệm tiến trải qua 10 giai đoạn.

Suy nghĩ về bát quái

Trải qua mấy ngàn năm, hệ Bát Quái được sắp đi xếp lại nhiều lần, trong đó lần sắp xếp của Chu Văn Vương phản ánh một sự biến đổi nhất định về chất. Bát Quái sắp xếp theo cách được coi là của Chu Văn Vương này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”. Đây là hình Bát Quái phổ biến nhất cho đến ngày nay.

Bài báo này nói riêng về một số điều tìm hiểu thêm về trật tự trong “Hậu Thiên Bát Quái”.

Trong sách Kinh Dịch, Nguyễn Hiến Lê cho biết hai tên “Tiên Thiên Bát Quái” và “Hậu Thiên Bát Quái” không thấy dấu hiệu xuất hiện trong Kinh Dịch, chắc là do người đời sau đặt ra, có thể là từ đời Hán. Nhưng, những “người đời sau này” căn cứ vào đâu để đặt ra hai cái tên đối chọi nhau như vậy. Hình như ngay tên gọi đó đã xác nhận một sự phân biệt rạch ròi, một bước biến đổi về chất. Nguyễn Hiến Lê cũng đưa ra một số lời giải thích, nhưng rồi chính ông lại bác bỏ cả, và thú thật là “không hiểu nổi”, và “Kinh Dịch có nhiều điều khó hiểu”... “ta phải chấp nhận vậy thôi”.

Trong một công trình hết sức nghiêm túc và rất có triển vọng, mới đây ông Nguyễn Hoàng Phương đã dùng lý thuyết dập mờ để nghiên cứu phân tích một số thuyết dự báo Trung Quốc cổ, trong đó có Bát Quái. Về Bát Quái, ông đã đưa ra một hệ phương trình có hai hệ nghiệm, và ông gán cho một hệ nghiệm là của “Tiên Thiên”, còn hệ nghiệm kia là của “Hậu Thiên” thì chưa có lời giải thích. Nhưng vì sao cái này là "Tiên Thiên", cái kia là "Hậu Thiên" thì chưa có lời giải thích. Và từ những hệ nghiệm đó tìm ngược trở lại các đặc thù của “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” thì chưa thấy nói đến, ngay đến cách làm việc này cũng còn bỏ ngỏ. Cho nên, chưa thể từ các hệ nghiệm đó mà nhận biết sự phân biệt về chất giữa “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên”, thậm chí cũng chưa nêu bật được sự khác nhau về hình thức giữa hai cách sắp xếp này.

“Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” khác nhau trước hết ở cách sắp xếp thứ tự, và đặc biệt ở nội hàm, tượng ở “Hậu Thiên” được mở rộng thêm nhiều. Mỗi cách sắp xếp là theo một tiêu chí riêng nào đó, và chính cái tiêu chí sắp xếp đó sẽ bộc lộ tư tưởng, ý đồ của sự sắp xếp. Như bài báo trước đã trình bày, “Tiên Thiên” được sắp xếp theo hệ thống cấu trúc. Cứ theo ngôn từ mà xét, từ điển Hán ngữ hiện đại cho biết “Tiên Thiên” là để chỉ “người và động vật khi còn là bào thai”. Vậy “Tiên Thiên Bát Quái” là Bát Quái thời kỳ phôi thai, còn là một “cấu trúc tự thân”, thậm chí chưa phải là một sự vật cụ thể, có sức sống. “Kinh dịch” Khi chỉ mới có Bát Quái, chưa có lời văn, thì ý nghĩa “dịch” dù có hàm súc mấy đi nữa cũng chứa đựng một nội hàm rất mờ. Khi Văn Vương viết lời văn đầu tiên cho “Kinh Dịch”, có thể ông còn được học truyền khẩu cái nội hàm mờ đó, và đã chế biến nó theo cách của ông.

Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo những tiêu chí nào đó phù hợp với những lời giải thích “dự báo học” mà ông gán cho các quẻ. “Kinh Dịch” hình thành và ra đời dưới dạng hoàn chỉnh, cả về biểu tượng và lời văn. Bát Quái được sắp xếp lại này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”, tức là Bát Quái thời kỳ đã thực sự ra đời và hoạt động như “người và động vật sau khi rời khỏi thân thể mẹ và có một đời sống độc lập” (Từ điển Hán ngữ hiện đại). Vấn đề của chúng ta là dò tìm lại các tiêu chí mà ngày xưa các cụ đã dùng để sắp xếp lại thành “Bát Quái Hậu Thiên”. Gần như không có khả năng tìm được đúng các tiêu chí đã được sử dụng, chẳng qua chỉ là một cách minh họa lời phán đoán về các tiêu chí có thể đã được dùng.

Bát Quái thường được đưa ra cùng với các sơ đồ “Hà Đồ” và “Lạc Thư”, hai hình tượng được coi là hình tượng gốc gợi lên ý tưởng và biến dịch cho Bát Quái. Thực ra, mối liên quan giữa: “Hà Đồ” và “Lạc Thư” với Bát Quái tỏ ra khá mỏng manh, có tỉnh hình thức. Có thể nghĩ rằng người xưa có hứng thú đặc biệt với các “ma phương”, vĩ “Hà Đồ” và “Lạc Thư” đều thuộc loại “ma phương” theo nghĩa nào đó. “Lạc Thư” rõ ràng là một “ma phương” cấp 3 theo nghĩa tương tự như ngày nay (tổng theo dòng ngang, cột dọc và đường chéo đều bằng 15). Còn “Hà Đồ” lại là một ma phương loại khác, theo đường xoắn (tham khảo “Chu Dịch Thập Nhật Đàm”, Trung Văn, Nhà xuất bản Thượng Hải, 1946).

Posted Image

Trong Hà Đồ và Lạc Thư, số 5 đứng giữa không ứng với quẻ nào, nên thứ tự sắp xếp các quẻ của Văn Vương có thể mã hóa thành.

Posted Image

Trật tự Quẻ: Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài

Mã xuôi..........1..... 2...... 3.... 4...... 6.. 7... 8...... 9..

Mã ngược...... 9..... 8...... 7.... 6...... 4...3... 2...... 1

Có thể thấy ngay rằng dù mã xuôi hay mã ngược, cách sắp xếp theo thứ tự này của Văn Vương cũng không phù hợp với trật tự các con số trong Lạc Thư hay Hà Đồ.

Ngược lại, có thể mã theo trật tự Tiên Thiên rồi theo các con số của Lạc Thư hay Hà Đồ mà đổi thành trật tự Hậu Thiên chăng?

Bảng mã sẽ là:

Posted Image

Trật tự Quẻ Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn

Mã xuôi........ 1..... 2... 3.... 4.....6.... 7..... 8...... 9...

Mã ngược..... 9..... 8... 7.... 6..... 4.... 3..... 2...... 1...

Với Hà Đồ, ta cũng vẫn không thể làm cho cách sắp xếp phù hợp được. Còn với Lạc Thư, mặc dù bằng các phép chuyển vị (đổi dòng thành cột). đổi hàng, đổi cột ta có thể có 8 ma phương khác nhau, nhưng vẫn không thấy được sự phù hợp cần thiết. Vậy là với giả thiết dựa vào sự gợi ý của Lạc Thư hay Hà Đồ, ta đều chưa tìm ra được một hình ảnh có thể minh hoạ cách sắp xếp của Văn Vương. Có thể còn có những khóa mã khác nữa mà người viết bài này không biết đến. Mong rằng nó vẫn còn là một gợi ý có ích.

Tiêu chí sắp xếp thứ hai có thể nghĩ đến là tiêu chí “giá trị”. Do bói toán có nhu cầu xác định trình độ “Cát - Hung” nên mỗi quẻ có thể được gán một “giá trị” biểu thị phần cát, phần hung, và có thể có phần phi cát, phi hung. Có thể coi giá trị của một quẻ là tổng hợp (theo một nghĩa nào đó) của các giá trị của các hào tạo nên nó. Ta có thể lấy giá trị ban đầu của các hào là bằng nhau vào bằng 0,5. Và, vì theo lý thuyết Trung Quốc cổ đại, trong âm có dương và trong dương có âm, nên phép hợp ở đây có thể dùng phép cộng xác suất biến cố không độc lập (giá trị được coi như xác suất), tức là phép hợp phi bài trung (hợp (a, :lol: = a + b - ab). Cáo hào âm và dương ban đầu có giá trị 0,5 như nhau, nhưng khi trở thành thành phần một quẻ thì giá trị của nó thay đổi tuỳ theo vị trí và vai trò trong quẻ. Vị trí và vai trò này được thể hiện bằng những hệ số làm thay đổi giá trị của hào. Trong mỗi quẻ có ba hào, mà sự phân chia hệ số thay đổi phải tùy thuộc vào tính chất của hào mà thay đổi. Theo Nguyễn Hiến Lê, giá trị của hào có thể thay đổi theo các điều kiện sau đây:

- Đắc trung: hào chiếm vị trí giữa của quẻ.

- Đắc chính: hào dương chiếm vị trí lẻ, hào âm chiếm vị trí chẵn.

Có thể xét thêm hai điều kiện phụ:

- Hợp chủ: hào dương trong quẻ dương, hào âm trong quẻ âm.

- Có thế: hào ở trên được coi là thế phát triển cao hơn hào ở dưới.

Tôi đã chọn các hệ số sau đây để tính giá trị các quẻ:

- Trung: đắc trung = 0,6; không đắc trung: 0,2.

- Chính: đắc chính = 0,5; không đắc chính: 0,25.

- Chủ: hợp chủ = 0,4; không hợp chủ: 0,3

- Thế: hào trên tăng giá trị 1,5 so với hào dưới.

Với các hệ số này, tôi đã tính giá quẻ theo hai cách:

- Cách thứ nhất: kết hợp phép hợp xác suất với phép tính thông thường (với các yếu tố không phụ thuộc).

- Cách thứ hai: dùng phép hợp xác suất phổ biến và đã thu được kết quả như sau:

Posted Image

Quẻ.... Càn........ Đoài........ Ly.... Chấn...... Tổn..... Khảm... Cấn...... Khôn...

Giá tích 0.12267 -0.11725 -0.12164 0.12149 -0.12556 0.12457 0.12227 -0.11950

Giá hợp 0.99963 -0.25264 -099219 0.91971 -0.99546 0.95432 0.94987 - 0.25529

Xếp riêng các quẻ âm và dương và theo thứ tự trị tuyệt đối của “giá trị” giảm dần, ta sẽ được:

Posted Image

............Quẻ dương...................................... Quẻ âm.............................

Càn (giá tích: 0.12667; giá hợp: 0.99963.. Tốn giá tích: - 0.12556; giá hợp: - 094546

Khảm (GT:0.12457; GH: 0.95432)............. Ly (GT: - 0.12164;GH: - 0.99219)

Cấn (Giá Thành 0.12227; GH:0.94987)....... Khôn (GT: - 0.11950; GH: - 0,25529)

Chấn (GT:0.12149; GH:0.91971)............... Đoài (GT: - 0.11726; GH: - 0.25264)

Trong kết quả tính trên đây, riêng quẻ Đoài đã được điều chỉnh bằng một hệ số bộ phẩn bổ sung).

Thứ tự sắp xếp trên đây phù hợp với cách sắp xếp “Hậu Thiên Bát Quái” của Văn Vương. Như vậy, lời phán đoán trong số báo trước nói “thứ tự sắp xếp các quẻ... được làm lại theo nhu cầu bói toán”... đã được minh họa bằng cách tính giá trị các quẻ, có thể coi như “biểu thị hàm lượng cát - hung” chứa đựng trong quẻ đó. Chưa ai tìm được tư liệu đáng tin cậy nào có thể chứng minh được rằng Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo tiêu chí gì và như thế nào. Cách suy nghĩ và tính toán như trên nhiều lắm cũng chỉ đáng coi là một ví dụ minh hoạ một cách tiếp cận vấn đề nan giải này.

Việc dùng tập mờ có giá để minh hoạ “Hậu Thiên Bát Quái” trên đây mới chỉ được thực hiện với 8 quẻ đơn, 24 hào. Tôi chưa dám đi vào 64 quẻ trùng, với 368 hào, một việc vượt quá xa khả năng rất hạn chế của mình. Xin nêu cách làm như một lời gợi ý thô thiển./.

Đỗ Nguyên Đương - Tạp chí Hán Nôm

...

Một danh xưng khi bàn về Dịch, đó là phép xem Hồng phạm, dùng hai chữ "trinh, hối". Trong đó "trinh" tức là tĩnh, còn "hối" tức là động.

Nội dung chính của sánh căn cứ theo hai nghĩa “biến dịch” và “không biến dịch” làm chuẩn mực để làm sáng tỏ lẽ động và tĩnh của nhân sự. Cho nên, sách có nói, số cơ ngẫu là 7, 8 vậy, giao trùng là 6, 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7, 8 là “không biến dịch”, hào vạch theo số 6, 9 là "biến dịch" vậy. Quẻ tuy “không biến dịch”, mà bên trong có “biến dịch”, thì có nghĩa là "hối ". Hào tuy “biến dịch”, mà trong lại có cái "không biến dịch”, thì gọi là “trinh”.

Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ có dùng. Khi thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ có xử. Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt. Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đầu cho thoát được. Đó là nghĩa lý thâm sâu vi tế mà Thánh nhân làm Dịch vậy.

...

Hàm nghĩa cơ bản của “thần” là chỉ sự biến hoá. Sự biến hoá của “thần” được khởi nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ thượng: “Không suy đoán dược âm dương được gọi là thần”. Ý nghĩa của sự biến hoá, không những biểu thị “không lường được” biến hoá của âm dương, mà còn chứng tỏ sự biến hoá của vạn vật cũng rất diệu kỳ. Thần, chính là sự biểu hiện biến hoá tới những chi tiết nhỏ nhất của vạn vật, đạt tới đỉnh tối cao của tinh thần. Đây chính là: “cùng thần tri hoá, đức chi thịnh dã” (thần biến hoá đến tận cùng, để đạt được đức tối đa). Số chẵn, số lẻ và hào tượng cương nhu, sự biến hoá kỳ diệu của nó rất khó đoán định, cũng gọi là “thần”. Khi hào tượng biến hoá, trước tiên cũng khó xác định được: hào nào là hào Lão âm (6), hào nào là hào Lão dương (9), mà gốc nguồn cũng bởi âm dương rất khó đoán định. Tính chất biến hoá khôn lường của âm dương, Kinh Dịch gọi là “đạo”, còn Hệ từ” gọi là “thần”. Nên có câu “người biết đạo của biến hoá, thì hiểu được hành vi của thần”. Trời Đất vận hành, vạn vật động – tĩnh, đều là tự tạo - tự chuyển dịch - tự hoá, để thích nghi với môi trường của tự nhiên; Nó không phụ thuộc vào sự điều khiển chủ quan của ý chí con người, mà cùng chựu sự tác động qua lại, chi phối bởi tính chất của tự nhiên. Nguyên nhân của sự biến hóa khôn lường này, cũng được gọi là “thần”.

...

Thiên nhiên, cơ chế của tạo hoá luôn thấy ở "sinh," đồng thời cũng luôn thấy ở "chế ước". Không có "sinh" thì không có sự phát triển, không có "chế ước" thì sự phát triển thái quá mất đi tính quy luật của tự nhiên mà có hại. Do vậy, trong sinh phải có chế ước, trong chế ước phải có sinh. Nếu giữa Âm Dương mất chế ước, thì sẽ phát sinh thiên thắng (mất cân đối), thậm chí quyết ly máy tạo hoá không thể nào duy trì được. Nguyên nhân cái gì gây ra sự mất chế ước giữa Âm Dương? Giai đoạn chuyển hoá tiêu trưởng của Âm Dương. Từ Dương bắt đầu sinh do Âm xuất Dương, Dương thịnh dần, Dương thịnh vượng; rồi đến Âm bắt đầu sinh do Dương nhập Âm, Âm thịnh dần, Âm cực thịnh. Địa khí thăng lên, Thiên khí giáng xuống, là khí của Trời Đất tác dụng hỗ tương. Sau khi thăng rồi giáng xuống, đó là tác dụng của Trời. Sau khi giáng rồi thăng, đó là tác dụng của Đất. Thiên khí giáng xuống, khí rót về mặt đất. Địa khí thăng lên, khí bay bốc ở khung trời. Cho nên, trên dưới giao nhau và hô ứng với nhau, thăng giáng lấy làm nhân quả lẫn nhau, mà phát sinh "biến" và "hoá".

...

Âm Dương có nguồn gốc từ động tĩnh. Thịnh suy có nghĩa là đắp đổi lẫn nhau, nuôi nhau, cái này nương tựa vào cái kia mà biến thông, nhờ biến thông nên phối hợp với Bốn mùa. Âm thắng Dương thì Tĩnh, Âm thịnh thì nhu. Dương thắng Âm thì Động, Dương thịnh thì cương. Động đúng quy luật thì việc gì cũng thắng, động sai quy luật thì việc gì cũng hỏng. Động gây họa phúc, động tạo ra hưng thịnh hay diệt vong cũng là ý nghĩa ấy. Tại Thiên thì Dương động mà Âm tĩnh, Âm sinh ở trên. Tại Địa thì Dương tĩnh mà Âm động, Dương sinh ở dưới. Thăng giáng gây nên sự biến hóa. Thăng chủ sinh, giáng chủ tiêu. Do vậy, vạn vật đều phản sinh.

...

HÒA

Vạn vật luôn luôn sống động theo những hòa điệu nhịp nhàng. Heraclitus, nhà triết học cổ Hy Lạp, cho rằng tính năng động tuần hoàn của những cặp siêu lực đối nghịch là nguyên nhân của sự sống động của vũ trụ

Triết học Đông phương cũng có niềm tin tương tự. Triết học Trung Hoa cho rằng vạn vật luôn luôn biến hóa năng động nhịp nhàng giữa hai thái cực âm dương. Triết học Phật giáo thì có đạo trung dung biểu hiện qua Bát Chánh Đạo.

Khái niệm về một vũ trụ hài hòa và sống động cũng được biểu hiện trong những triết học cận đại. Saint-Simon nhìn những lịch sử văn minh nhân loại như những xen kẻ giữa những thời kỳ “hữu cơ” và những thời kỳ “khủng hoảng”. Herbert Spencer nhìn vũ trụ như đang biến đổi theo những thời kỳ thăng trầm hợp tan. Hegel thấy lịch sử nhân loại phát triển theo hình xoắn ốc từ hợp nhất đến phân hóa rồi trở lại hợp nhất ở một mức độ cao hơn. Toynbee thấy được những thăng trầm tuần hoàn của các nền văn minh nhân loại. Sorokin thấy được sự thăng trầm tuần hoàn của những nền triết học duy vật và duy linh.

Đạo, là quá trình biến đổi liên tục của vũ trụ, trong đó vạn vật biến đổi hài hòa trật tự giữa hai thái cực âm dương. Khi dương thịnh, sự biến hóa sẽ có khuynh hướng về âm. Tương tự, khi âm thịnh, sự biến hóa sẽ có khuynh hướng về dương. Âm dương điều hòa chính là Đạo. Những thái cực âm và dương không phải là hai thái cực riêng rẻ độc lập. Trái lại, chúng là hai giới hạn của một thể thống nhất. Quá trình biến đổi của mỗi hiện tượng hay sự vật là những dao động không ngừng giữa hai thái cực đó. Quá trình của một hiện tượng hay sự vật kể cả chúng ta, dù nam giới hay nữ giới, đều có cả âm tính lẫn dương tính. Dịu dàng, trực cảm, tổng hợp, hợp tác, bảo tồn là những âm tính. Hung hăng, thuần lý, phân tích, cạnh tranh, khai thác là những dương tính. Âm tính và dương tính liên hệ mật thiết với hai loại tâm thức tương ứng trong mỗi chúng ta. Chúng bổ sung lẫn nhau, phản ảnh những tầm nhìn, lời nói, hành động của chúng ta.

Xã hội đương thời của chúng ta dường như đang ở vào thời kỳ dương thịnh, một xã hội dựa trên phát triển khoa học kỹ thuật để cạnh tranh khai thác tài nguyên thiên nhiên, làm ô nhiễm và gây hại môi trường sống. Phương pháp phân tích dường như vẫn được tận dụng so với phương pháp tổng hợp. Điều này làm xã hội mất đi sự hài hòa âm dương, do đó trì trệ sự phát triển trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, y học, kinh tế, chính trị, quân sự, v.v.

Sự nhấn mạnh vào triết học Descartes phân chia ranh giới giữa tri thức và vật chất đã dẫn đến quan điểm trong đó vũ trụ được xem như một hệ thống cơ khí với những vật thể được xem như những bộ phận riêng rẻ. “Cái tôi” của mỗi người được dựng nên như để tượng trưng cho phần hồn của mình với đầy đủ đầu óc phán đoán suy luận. Phần xác được xem như thứ yếu. Dần dần con người quên đi cái bản chất thực sự của suy tư là, không những xuất phát từ toàn bộ con người chúng ta mà còn từ môi trường chung quanh chúng ta nữa. Từ đó, chúng ta xem cơ thể chúng ta như những chiếc máy cơ khí, và xem thiên nhiên quanh chúng ta như độc lập với chúng ta, cần được chế ngự và khai thác triệt để.

Chúng ta tin rằng tính chất cục bộ có thể hoàn toàn xác định tính chất của toàn bộ. Do đó, chúng ta xem nhẹ mối tương quan mật thiết giữa những cơ cấu xã hội như giáo dục, văn hóa, y tế, kinh tế, chính trị, quân sự. Chúng ta xem trọng phẩm lượng và xem nhẹ phẩm chất. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng tương tự, các nhà nghiên cứu dường như xem những ngành chuyên môn khác không dính dáng gì đến ngành mình đang nghiên cứu. Môn hình học vị tướng chẳng hạn, trước đây được xem như một sản phẩm thuần túy của trí tuệ, độc lập với các ngành nghiên cứu khoa học. Bây giờ họ đã thấy tầm quan trọng của hình học vị tướng được áp dụng hữu hiệu trong nhiều ngành khoa học.

Thời xưa, thiên nhiên và nhất là địa cầu được xem như một người mẹ hiền hòa nuôi dưỡng chăm sóc sự sống trên địa cầu. Cổ Hy Lạp có nữ thần Gaia tượng trưng cho mẹ địa cầu. Vào thời cận đại, dương thịnh âm suy, thiên nhiên và mẹ địa cầu bị thống trị. Nam giới chiếm ưu thế. Capra cho rằng quan điểm này được Do Thái giáo và Ky Tô giáo ủng hộ, và do đó Thượng Đế được nhân cách hóa thành một nam giới, thống trị thiên nhiên bằng những định luật nhiệm mầu với những suy lý và quyền lực tối cao. Những định luật khoa học tự nhiên được xem như phản ảnh của những định luật nhiệm mầu đó của Thượng Đế. Ngày nay, thời dương thịnh đó dường như đã đạt đến mức tối đa và đã bắt đầu suy thoái. Nhiều người không còn tin rằng Thượng Đế là một nam giới đầy phép nhiệm mầu nữa. Kaku cho rằng sở dĩ khoa học và tôn giáo khó thông cảm nhau bởi vì khoa học tin vào một “thượng đế của trật tự” trong lúc tôn giáo tin vào một “thượng đế của phép lạ”.

Dường như văn minh nhân loại đã chuyển mình hướng về sự điều hòa âm dương. Đã đến lúc phân tích cần được phối hợp với tổng hợp, cạnh tranh phối hợp với hợp tác, thuần lý phối hợp với trực cảm, khoa học phối hợp với tôn giáo, nam tính phối hợp với nữ tính, văn hóa phối hợp với sinh hóa, v.v.

Tâm Đàn.

...

Lời của Đại tượng truyện 64 quẻ Dịch luôn hướng tới HÒA.

Tâm cảm.

...

Tự nhiên vốn tĩnh, đó là gốc của Đạo. Tĩnh sinh ra động, thế rồi Động sinh ra Trời Đất, mà sinh ra muôn loài. Vạn vật đoạt Khí của Trời Đất, con Người đoạt chất của vạn vật, vạn vật đoạt Khí lực của con người. Đây có phải cái lý tương sinh, tương dưỡng, tương thành của Tam tài: Trời Đất Người. (?) Có thể, Đạo Tam tài là kết cấu tạo nên một quái Dịch, có cấu tạo ba Hào. (!) Tâm sự.

...

DỊCH HỌC HỌ HÙNG VIẾT:

Tam Tòa hay Tam Tài

Tòa trong tiếng Việt có nghĩa là đơn nguyên, Thiên Chúa tam ‘tòa’ tức Thiên chúa ba ‘ngôi’. Tòa nhà tức một khối nhà. Chu Dịch viết rất giản đơn: Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái … có người gọi đó là Dịch, thực ra đó chỉ là phương pháp luận Dịch lý chứ không phải là Dịch học.

1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8 chính là định luật sóng đôi mà ta đã nói tới. Ngoài sự diễn biến theo qui luật trên Dịch học còn có một loại hình diễn biến khác.

1 → 3 → 5 → 9

thái cực → tam tài → ngũ hành → cửu trù

1 cục →3 tòa → 5 hình → 9 chỗ

Ở lưỡng ngôi ta có 2 thành phần hợp tác với nhau để sinh thành. Con người đầu đội trời, chân đạp đất như vậy con người đứng giữa, ở trung tâm đúng nghĩa chữ nhân; do mối tương quan tay ba.

Xã hội < = > Con người < = > Tự nhiên.

Một bên là tương quan: người – xã hội; bên kia là tương quan: người – tự nhiên thông qua trung tâm là con người, 2 mối tương quan này trở thành ràng buộc của nhau, chế độ xã hội phải phù hợp với mối quan hệ người – tự nhiên. Tức trình độ khoa học và công cụ kỹ thuật. Tam tài có tính mẫu mực là Thiên Nhân Địa, vẫn được dùng để tôn cao địa vị con người ngang với trời đất. Thiên là những yếu tố vô hình, địa là những yếu tố hữu hình cụ thể. Năng lượng, ánh sáng đến từ vũ trụ hợp với các nguyên liệu từ đất tạo thành cây cỏ thực vật, đến khi có sự tham gia của bàn tay khối óc con người thành ra sự kết hợp tay ba: Thiên – Nhân – Địa và nền nông nghiệp ra đời từ sự kết hợp đó. Sự ra đời của kỹ thuật trồng trọt được Dịch học đánh giá rất cao trong hào Nhị quẻ Kiền: “hiện long tại điền lợi kiến đại nhân” nếu dịch là “rồng hiện trên mặt ruộng kiến (gặp) đại nhân thì có lợi” chỉ đúng về mặt chữ còn đối với Dịch học thì coi như vô nghĩa. ý nghĩa câu trên theo kiến giải Dịch học là: “con người trở nên người lớn tức vượt qua thời người nguyên thủy khi bắt đầu biết trồng trọt, lúc chấm dứt sự phụ thuộc hoàn toàn vào giới tự nhiên cũng là lúc xuất hiện thần tính (được ví như con rồng) khiến con người vượt trên mọi sinh vật, sánh ngang cùng trời đất. Cặp từ Thiên và Địa không nhất thiết phải là trời và đất như ở trên ta đã nói đến: trời chỉ các yếu tố vô hình, đất là những gì cụ thể, có thể nắm bắt được. Thí dụ: trong công thức nổi tiếng về binh pháp: ‘thiên thời – địa lợi – nhân hòa’, thì thiên đâu có nghĩa là trời mà là thời cơ lịch sử, địa là điều kiện vật chất đang thủ giữ, còn nhân là lòng người, lòng quân và lòng dân, yếu tố quan trọng nhất. Trong Tam tòa thì Tòa Nhân luôn luôn là quan trọng nhất, có một thế giới gọi là khách quan vận động một cách mù lòa, vô hướng, vô nghĩa; tất cả những giá trị xuất phát từ thế giới ý thức, vũ trụ trở nên có “giá trị” từ khi nó được phản ánh bằng thông tin vào não con người và được chính con người ban cho phần giá trị để trở thành 1 phần của thế giới đã được định hướng.

Ở Âm mà vô Âm, Âm do đó được sinh ra. Ở Dương mà vô Dương, Dương do đó mà hình thành. Khi nói "nhất Âm nhất Dương", tuy là hai Khí, xong thường lấy cái nhất làm Đạo ở hư vô để sử lý. Theo thuộc tính riêng của vạn vật, khi ta làm một chiếc bàn gỗ, đứng ở quan điểm gỗ là "phá", nhưng đứng ở quan điểm cái bàn là "thành". Như vậy, "phá" và "thành" cũng là tương đối ở trong tình trạng biến đổi không ngừng, như Dịch đã bàn đến.

Nhất Tĩnh - Tam Động - Ngũ ứng - Cửu thông.

Có cách nào để bốc dịch chính xác hơn

Hà Uyên mới tham gia vào diễn đàn này, với những bầy tỏ của Liêm Trinh, trong quá trình nghiên cứu vì sự yêu thích cá nhân của mình, Hà Uyên xin được chia sẻ cùng Liêm Trinh.

Chắc Liêm Trinh cũng hiểu cấu tạo của quẻ Dịch có 6 hào, khi một hào (hay nhiều) động, thì đều phải trải qua 10 quá trình. Ví dụ: quẻ Trạch Sơn Hàm động hào 2:

- Ta coi quẻ Trạch Sơn Hàm là số 1, theo thứ tự đến số 2 là quẻ Quan hào 3, đến số 3 là quẻ Tỷ hào 4, đến số 4 là quẻ Khôn hào 5, đến số 5 là quẻ Bác hào 6, đến số 6 là quẻ Di hào 1, đến số 7 là quẻ Tổn hào 2, đến số 8 là quẻ Đại súc hào 3, đến số 9 là quẻ Đại hữu hào 4, đến số 10 là quẻ Càn hào 5, đến số 11 là quẻ Quải hào 6, và cuối cùng đến số 12 là quẻ Đại quá hào 1.

- Như vậy, khi độn được 1 quẻ như ví dụ trên, quá khứ đã để lại cho chúng ta: hào âm biến thành hào dương, hào dương biến thành hào âm, gieo quẻ được quẻ Hàm hào 2 được quẻ Đại quá.

- Khi ta coi quẻ Hàm là "đầu", thì quẻ Đại quá là "cuối", nhưng thực chất bên trong đã phải trải qua 10 quá trình (10 quẻ)

- Trong 10 quá trình phải trải qua này, có 2 quẻ động đến hào 6, đó là quẻ Bác theo thứ tự là số 5 và quẻ Quải theo thứ tự là 11. Vấn đề ở đây, tại sao Kinh Phòng khi quy nạp quẻ theo Ngũ hành, thì không cho biến động đến hào 6?

- Khi từ quẻ cuối cùng có số thứ tự là 12, là quẻ Đại quá, ta tiếp tục cho động hào 2 thì lại trở về quẻ ban đầu là Trạch Sơn Hàm hào 2. (1 = 13)

Như vậy, theo Liêm Trinh, thông tin được bộc lộ từ quẻ Dịch, chúng ta sẽ chon lựa điểm dừng ở đâu?

Mỗi một hào quẻ Dịch luôn chuyển hóa 12 lần, một quẻ có 6 hào, vậy một quẻ Dịch có 72 sự chuyển hoá. Do vậy 64 quẻ Kinh Dịch sẽ có 4608 sự chuyển hoá.

Mong được chia sẻ cùng Liêm Trinh, có thể chưa được sự đồng cảm, cũng mong sao Liêm Trinh góp ý thêm.

...

Cùng được bộc lộ thêm với Liêm Trinh, khi Hà Uyên có nói: 1 = 13 Tulokho có 52 quân bài (bỏ 2 fan), khi chia làm 4 thì được 4 phần, mỗi phần có 13 con bài, nếu ta coi f - q - k - a có trị số bằng 1 (f = q = k = A = 1). Chia 52 quân bài làm 2 phần bằng nhau (52/2=26). Lấy 1 phần có 26 quân bài, rút 1 quân bài xem. Xem xong, trộn đều 52 quân, thì ta vẫn tìm được con bài mà ta đã rút ra xem. Người Ấn độ nói: muốn học lập trình ở đất nước họ, thì phải hiểu văn hóa dân tộc của họ. Hà Uyên thấy có mối liên hệ giữa Kinh Dịch và 52 quân bài. Liêm Trinh có nghĩ như vậy không?

..

Vâng, chào Liêm Trinh.

Để thống nhất được với nhau về phương pháp tính toán, Hà Uyên xin được trình bầy theo quan điểm của mình, mong rằng các anh chị, cùng Liêm Trinh chia sẻ:

- Khi bốc Dịch được một quẻ, ta coi là số 1, thì quẻ số 7 luôn luôn là quẻ "đối phản".

Theo ví dụ mà Hà Uyên đã trình bầy, bốc Dịch được quẻ Trạch Sơn Hàm hào 2, thì quẻ thứ 7 là quẻ Sơn Trạch Tổn, cũng động hào 2 (Thất sát)

- Sự thông "khí" của hào động

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Hàm thuộc cung Đoài - Kim, động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ, theo thứ tự của 12 quẻ, sẽ có quá trình tiệm tiến thông tin như sau:

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ.

2- Trạch Địa Tụy hào 2 là Quan quỷ Tị.

3- Thủy Địa Tỷ hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

4- Thuần Khôn hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

5- Sơn Địa Bác hào 2 là Quan quỷ Tị

6- Sơn Lôi Di hào 2 là Thê tài Dần (Huynh đệ)

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Mão (Huynh đệ)

8- Sơn Thiên Đại súc 2 là Thê tài Dần (Quan quỷ)

9- Hỏa Thiên Đại hữu hào 2 là Thê tài Dần

10- Thuần Càn hào 2 là Thê tài Dần

11- Trạch Thiên Quải hào 2 là Thê tài Dần

12- Trạch Phong Đại quá hào 2 là Tử tôn Hợi (Phụ mẫu)

Theo như quá khứ đã cho chúng ta biết, Quan quỷ động hóa Tử tôn, nhưng quẻ thứ 7 lại cho chúng ta thông tin về Thê tài. Thông qua quá trình trải nghiệm với nhiều môi trưỡng và lĩnh vực khác nhau, Hà Uyên cũng nhận thức được một số quy luật, xin được trình bầy sau.

- Sự thông "khí" của quẻ Dịch

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Trạch Sơn Hàm (không xét thuộc cung Đoài - Kim), động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ

2- Trạch Địa Tụy hào 3 là Huynh đệ Dậu

3- Thủy Địa Tỷ hào 4 là Tử tôn Thân

4- Thuần Khôn hào 5 là Thê tài Hợi

5- Sơn Địa Bác hào 6 là Thê tài Dần

6- Sơn Lôi Di hào 1 là Phụ mẫu Tý

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Dần

8- Sơn Thiên Đại súc hào 3 là Huynh đệ Thìn

9- Hỏa Thiên Đại Hữu hào 4 là Huynh đệ Dậu

10- Thuần Càn hào 5 là Huynh đệ Thân

11-Trạch Thiên Quải hào 6 là Huynh đệ Mùi

12- Trạch Phong Đại quá hào 1 là Thê tài Sửu

Khi ta lấy quẻ thứ 7 là quẻ Sơn Trạch Tổn làm "Trung Tâm", từ vị trí thứ 7 ta tiệm tiến thuận 7-8-9-10-11-12 và tiệm tiến nghịch 7-6-5-4-3-2-1, ta sẽ có 2 phương pháp để suy luận thông tin.

Hà Uyên xin phép sẽ cùng luận bàn sau.

...

Hà Uyên xin được trình bầy tiếp:

- Khi bốc được quẻ Dịch, ta coi là số 1 tương ứng với cung Tý, thì quẻ số 7 sẽ tương ứng với cung Ngọ. Tại thời điểm khi bốc quẻ, đồng thời ta bấm số Tử vi, sau đó ta an 12 quẻ theo thứ tự. Thì nẩy sinh rất nhiều điều kỳ lạ về thông tin. Liêm Trinh thử nghiệm cùng nhé.

- Kinh Phòng khi nạp Ngũ hành vào quẻ không cho "khí" Dịch phát triển đến hào 6. Hà Uyên sẽ trình bầy quan điểm ở một chuyên đề khác nhé.

...

- Sự thông "khí" của hào động

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Hàm thuộc cung Đoài - Kim, động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ, theo thứ tự của 12 quẻ, sẽ có quá trình tiệm tiến thông tin như sau:

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ.

2- Trạch Địa Tụy hào 2 là Quan quỷ Tị.

3- Thủy Địa Tỷ hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

4- Thuần Khôn hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

5- Sơn Địa Bác hào 2 là Quan quỷ Tị

6- Sơn Lôi Di hào 2 là Thê tài Dần (Huynh đệ)

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Mão (Huynh đệ)

8- Sơn Thiên Đại súc 2 là Thê tài Dần (Quan quỷ)

9- Hỏa Thiên Đại hữu hào 2 là Thê tài Dần

10- Thuần Càn hào 2 là Thê tài Dần

11- Trạch Thiên Quải hào 2 là Thê tài Dần

12- Trạch Phong Đại quá hào 2 là Tử tôn Hợi (Phụ mẫu)

13- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ

..

Hà Uyên tản mạn thêm. Khi bốc được quẻ Dịch, ta coi là số 1 tương ứng với cung Tý, thì quẻ số 7 sẽ tương ứng với cung Ngọ. Tại thời điểm khi bốc quẻ, đồng thời ta bấm số Tử vi, sau đó ta an 12 quẻ theo thứ tự 12 cung từ Tý, Sửu,..., đến cung Hợi. Như chúng ta đã biết, tổng số tối đa của môn Tử vi chỉ có 512640 bảng là số. Khi áp dụng mối quan hệ thông tin giữa Tử vi và Bốc Dịch, thì thống kê được: 512 640 x 4 608 = 2 052 245 120 So sánh với 6 tỷ người, mức độ tin cậy cần phải thống kê thêm.

...

Xin chào các Anh các Chị trên diễn đàn. Hà Uyên chào VIETHA. Quá trình nghiên cứu những gì Người xưa để lại, với sự đam mê tìm hiểu của mình mang tính cá nhân, Hà Uyên trong mục đích, không mang tính chuyên nghiệp. VIETHA có viết: "nguyên tắc trong gieo quẻ Dịch là: Tâm không động không được gieo, nếu gieo quẻ thì không chính xác". Xét về Ngôn ngữ học, tại thời điểm quyển sách được viết ra cho tới ngày hôm nay, đã để lại những "quy định" cho mỗi một người khi đọc, tiến tới thử nghiệm, rồi trải nghiệm, đều có những đắng cay riêng. Xét về mặt "thời gian", từ Tiêu Diên Thọ, Kinh Phòng, Trần Đoàn, Thiệu Ung cho tới Thiệu Vĩ Hoa, cũng chỉ có mấy con người để lại những kiến thức mà chính chúng ta đang quan tâm. Hà Uyên cũng có tìm hiểu về: thế nào là "Tâm không động"? Hà Uyên đọc, trong đó có quyển HUỲNH ĐÌNH KINH dịch từ nguyên tác tiếng Đức, cũng thấy rất nhiều vấn đề cần phải bàn về "TÂM" động và không động. Hà Uyên thấy rất lạ, một Người đàn ông quốc tịch Đức ở Thế kỷ 16, sau khi nghiên cứu về Thiệu Ung, lại thấy đồng cảm và đồng thuận về HỆ NHỊ PHÂN. Và ngày hôm nay, chính chúng ta đang được hưởng những lợi ích hết sức to lớn. Vấn đề VIETHA quan tâm là một khoảng trời rộng lớn, Hà Uyên xin phép được chia sẻ khi chúng ta cùng đồng thời có một sở thích.

...

Chào Liêm Trinh Cảm ơn Liêm Trinh đã dành thời gian cho Hà Uyên. Khi giao lưu trên diễn đàn này, Hà Uyên không hề có ý gì về "mưu lược". Hà Uyên chỉ bộc lộ quan điểm của mình: tại sao Trần Đoàn lại cấu tạo 12 cung trong môn TỬ VI, tại sao THÁI ẤT lại có cấu tạo 16 cung? Hà Uyên đã nhận thức được KINH DỊCH là gốc nguồn của các môn học thuật: 1 = 13. Tại sao Trần Đoàn trong môn TỬ VI, vòng Tứ hóa: LỘC-QUYỀN-KHOA-KỴ lại căn cứ vào Can của Năm để an sao.? Năm nay 2009 - Kỷ Sửu, Hóa kỵ an theo GIỜ, như vậy vào giờ Thân chiều nay, Hà Uyên gặp Hóa Kỵ rồi.

...

dichnhan07, on May 5 2009, 05:34 PM, said:

Bàn về Mai Hoa Dịch Số, trong lòng có thắc mắc nghi vấn điều gì đó đã có thể coi là Tâm động, giả sử có người cho rằng Tâm mình vẫn chưa thật động, chẳng lẽ lại phải đi cầu cho Tâm động thật mạnh hay sao?. Lập quẻ xong, nếu chỉ căn cứ vào quẻ đó thì e rằng phiến diện chủ quan nên cần thêm các phương pháp hỗ trợ đảm bảo, đó là Tam Yếu và Thập Ứng. Mai Hoa Dịch Số chỉ nói tới các sự việc bất thường, xem việc gần mà biết việc xa. Luận sự việc không nhiều được như lục hào hay các môn khác nhưng để trắc nghiệm một điều nghi vấn thì rất tiện lợi. Nói không luận được nhiều đó là nói về phương pháp lấy quẻ chủ động chứ không phải theo như các quẻ ví dụ trong sách Mai Hoa Dịch Số, phương pháp khác nhau do lý dùng khác nhau, điều này cần phải phân biệt rõ.

Vâng, xin chào dichnhan07.

Thú thực, Hà Uyên hầu như rất ít khi BỐC DỊCH, mà đã dành thời gian rất nhiều để tự trả lời với chính mình rằng: Tại sao (?) "Quá khứ - Hiện tại - Tương lai", khi nào thì hội tụ thành 1, có nghĩa là:

Quá khứ + Hiện tại + Tương lai = 1

Có thể, chỉ có như vậy, thì các môn Học thuận mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta một sân chơi, mà không biết bao nhiêu Thế hệ, đều có rất nhiều Người đã dành THỜI GIAN về chủ đề này.

Khi đã và đang có số " 1 ", loài Người lại luôn luôn hướng về số " 0 "

Cảm ơn dichnhan07.

...

Liêm Trinh viết "Tôi gieo một que đơn thấy Hà uyên suất hiện ở diễn đàn vào vào đoài cung". Theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, thì Hà Uyên có thể tính như sau: Số người đã đăng ký tham gia diễn đàn LYHOCDONGPHUONG, tới lượt Hà Uyên là 3717. Hà Uyên lấy 3717 chia cho 64, số dư còn lại là 5. Số của Năm-Tháng-Ngày-Giờ mà Hà Uyên đăng ký tham gia lam Tổng chia cho 6 tìm hào động. - Theo Tiên thiên thì 5 là số thứ tự của quẻ Phong Thiên Tiểu súc. - Theo Hậu thiên, thì số 5 bao gồm những quẻ: theo thứ tự như sau: Tiểu súc - Tổn - Vô vọng - Đỉnh - Hoán - Thuần Cấn. Liêm Trinh thấy Hà Uyên theo phương pháp này có được không?

...

Dear Liêm Trinh. Một tâm sự! Trước khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, số người đã đọc bài viết của Liêm Trinh là (ví dụ là:...), sau khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh, thì số người đã đã đọc bài viết này, tại thời điểm này là (ví dụ:... lượt đọc). Đây là một chủ đề mà Hà Uyên đang rất quan tâm, sẽ dành phần nhiều giời gian để tìm hiểu về chủ đề này. Trước khi TA sinh ra, đã tồn tại bao nhiêu Người? Sau khi TA sinh ra, sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao nhiêu NGƯƠI nữa? Trước khi ÂM gặp DƯƠNG, hoặc trước khi DƯƠNG gặp ÂM, sau khi ÂM gặp DƯƠNG hay sau khi DƯƠNG gặp ÂM, điều gì sẽ đến với chúng ta? Mong Liêm Trinh đừng hiểu sai ý nghĩa của sự giao lưu giữa hai chúng ta, Hà Uyên chỉ lấy "số lượt người đã đọc" (làm Hình - Tượng) mà làm một ví dụ thôi.

...

Xin chào các anh chị trên diễn đàn. Hà Uyên chào VanTrungHac. Khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, Liêm Trinh có nói: "...thống nhất về phương pháp tính..." Quá khứ mà "Cổ nhân" đã để lại cho mỗi người yêu thích về những môn học thuật này, đối với Hà Uyên còn nhiều trăn trở, Hà Uyên chưa dành nhiều thời gian về luận quẻ Dịch. Trước tiên mong VanTrungHac thật sự thông cảm. Hà Uyên đang tập trung vào tìm hiểu về: Nguyên lý cấu tạo các môn Học thuật mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta. Tính chính xác? Độ tin cậy? Tại sao lại "quy định" như vậy?. Hà Uyên.

...

Chào Liêm Trinh Khi Liêm Trinh nói: "Làm thế nào để BỐC DỊCH chính xác hơn" Hà Uyên xin kể lại: Những người đi trước đã hướng dẫn cho Hà Uyên: tư duy về "tượng quẻ trước". Sau đó mới tư duy về "Lục thân". Ví dụ: khi Bốc Dịch được quẻ Trạch Sơn Hàm hào 2 được quẻ Trạch Phong Đại quá - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Dịch: quẻ Hàm tượng trưng cho sự giao cảm. Quẻ Đại quá tượng trưng cho sự quá mức - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Phòng, Bốc phệ chính tông, Tăng san bốc dịch: quẻ Hàm có tượng "Manh nha xuất thổ", rồi đến quẻ Đại quá có tượng: "Dạ mộng kim ngân" Cũng phải mất đến 8 tháng hay một năm sau, Hà Uyên mới thuộc được tượng của 64 quẻ, và cảm nhận được một phần nào đó về ý nghĩa của "tượng quẻ". Mặc dù tại thời điểm đó, Hà uyên trong lòng vẫn thích xác định được hào động, tìm lục thân, an Thế - Ứng, tìm dụng thần,... Bước thứ hai là: đi sâu vào phân tích 8 quẻ "bát thuần", khi Kinh Phòng đưa Ngũ hành vào nạp cho hào quẻ Dịch. Đây là bước quan trọng, mối quan hệ "mẹ - con"? từ quẻ Mẹ với 7 quẻ con? Hình thành một phương pháp tư duy cho mỗi người, thì các nước phát triển đã làm rất có hiểu quả. Phương Tây hình thành một phương pháp sư phạm chuẩn mực cho loài người. Từ cá nhân Hà Uyên, một chia sẻ kinh nghiệm, một người Hà Uyên giao lưu đầu tiên trên diễn đàn (số "1")

...

Hà Uyên trao đổi tiếp tục Mỗi chúng ta, không ai có thể làm đảo lộn được trật tự của thời gian. Từ đây, chắc rằng cũng rất ít người làm thay đổi được quá trình nhận thức của mỗi một cá nhân. Ví như, Hà Uyên không thể tự cho mình dùng kiến thức của học sinh lớp 4, mà chưa qua quá trình nhận thức của lớp 1, lớp 2. Cũng ví như, Hà Uyên và Liêm Trinh giao lưu trên diễn đàn lyhocdongphuong, được gọi là "số 1", thì đến vị trí thứ 5, Hà Uyên giao lưu với anh Thiên Sứ, số "5" được coi như vị trí "Trung tâm" của Hà - Lạc. Giả thiết như Hà Uyên có "mưu lược" như Liêm Trinh đã nói, từ cái "ngẫu nhiên" để biến thành cái "tất nhiên", thì đương nhiên đến người thứ năm Hà Uyên giao lưu, là anh Thiên Sứ. Vị trí của Trung tâm. Một đặc trưng cơ bản của BỐC DỊCH, là "dụng thần" lại do đối tượng Khách quan quy định, trên nền giao lưu của Hoàng đế Nội kinh: Hoàng đế hỏi - Kỳ Bá trả lời. Làm thế nào để bốc dịch được chính xác?, Ai là Hoàng đế, ai là kỳ bá? Ai là Âm, ai là dương? Giả thiết là Liêm Trinh chủ động giao lưu với Hà Uyên, như vậy Liêm Trinh là Dương mà Hà Uyên là Âm, nhưng thực tiễn thì Hà Uyên chủ động chào Liêm Trinh, như vậy thì Hà Uyên là âm chủ động gặp dương. Vậy thì, chưa thể dùng một mình hào động làm nguyên nhân "gốc" để xác định thông tin.

...

Tại sao lại như vậy? Khi Hoàng đế hỏi, có nghĩa rằng Hoàng đế động, tại sao lại coi là Hoàng đế động? Vì Hoàng đế có thắc mắc ở trong lòng mà chưa hiểu, như vậy là bên trong của Hoàng đế động, có thể coi như "Nội quái động" mà "Ngoại qoái tĩnh", cũng có nghĩa Hoàng đế là Dương gặp Âm vậy. Như vậy, ta có thể nói Dương động - Âm tĩnh được không?

...

Khi Hà Uyên chọn thông số ban đầu để tính, là căn cứ theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, lấy "số thứ tự" của Hà Uyên khi tham gia vào diễn đàn là 3717, chia cho 64 quẻ, được số 5. Lấy Năm-Tháng-Ngày-Giờ khi Hà Uyên đăng khí tham gia làm Tổng chia cho 6 tìm hào động.

- Đối với Hà Uyên, thì số 5 theo Tiên thiên là quẻ Phong Thiên Tiểu súc.

- Với diễn đàn này, thì số 5 được hiểu như thế nào đối với Hà Uyên? Vì sự giao lưu là: Liêm Trinh --> VIETHA --> dichnhan07 --> VanTrungHac --> Thiên Sứ (thực ra còn Như Thông nhưng vì Hà Uyên chưa giao lưu). Số 5 đối với Hà Uyên là anh Thiên Sứ.

Theo Nguyên lý vị trí: Vị trí trung tâm 5 - 10, thì Hà Uyên chọn giải pháp ứng xử theo "Đại cục", có nghĩa là, từ "Trung tâm", Hà Uyên tôn trọng nguyên tắc: Tìm về cội nguồn.

...

Chào Liêm Trinh

Thực tình, Hà Uyên chủ động chọn cách viết, khi chúng ta trao đổi trên diễn đàn, không phải là vì viết nhiều.

Hà Uyên trở lại với chủ đề: Có cách nào để bốc dịch chính xác hơn? Trên tinh thần: Tìm về cội nguồn.

Cội nguồn của Bốc Dịch, có thể bắt đầu từ Kinh phòng. Ông nói:"Dương thắng âm là tráng, tráng cực tắc phản ở âm".

Trong 64 quẻ của Kinh Dịch, thì có 3 quẻ nói về số 7, quan trọng hơn cả là quẻ Địa Lôi Phục. Tại sao lại nói đến số 7?

Quy luật của tự nhiên đã để lại cho người phương Đông thích ứng theo thời gian: cứ 19 năm thì có 7 năm có tháng nhuận.! Thời gian vẫn cứ tiếp tục trôi, khi chúng ta phải chấp nhận: tháng nhuận = "0", trong quá trình tính tháng nhuận cho chu kỳ 19 năm. (19 - 7 = 12, hoặc 7 + 12 = 19).

Kinh Phòng đưa ra thuyết Ngũ hành nạp vào Hào của quẻ Dịch, cũng vẫn trên nguyên lý của Kinh Dịch: số 7

Ví dụ: quẻ Thuần Càn, là quẻ Cha - Mẹ, khí Dịch bắt đầu từ hào 1

1- Thuần Càn hào 1

2- Thiên Hoả Đồng nhân hào 2

3- Thiên Lôi Vô vọng hào 3

4- Phong Lôi Ích hào 4

5- Sơn Lôi Di hào 5

6- Địa Lôi Phục hào 6

7- Thuần Khôn hào 1

Từ quẻ Thuần Càn hào 1, đến quẻ thứ 7 là quẻ Thuần Khôn, thì hào 1 là hào Dương quẻ Càn mới biến thành hào 1 là hào Âm quẻ Khôn. Tiếp tục từ quẻ Thuần Khôn khí Dịch lại bắt đầu từ hào 1:

7- Thuần Khôn hào 1

8- Địa Thuỷ Sư hào 2

9- Địa Phong Thăng hào 3

10- Lôi Phong Hằng hào 4

11- Trạch Phong Đại quá hào 5

12- Thiên Phong Cấu hào 6

13- Thuần Càn hào 1

Quẻ Thuần Càn khí Dịch bắt đầu từ hào 1, thì đến quẻ thứ 7 hào 1 dương biến thành âm, và đến quẻ thứ 12, thì "thể" của quẻ Thuần Càn trở lại ban đầu, duy nhất chỉ có hào 1 biến đổi dương thành âm. Ta có thể viết như sau:

1 -> 2 -> 3 -> 4-> 5 -> 6 -> 7 -> 8 -> 9 -> 10 -> 11 -> 12 -> 13

Như vậy: 1 = 13

Khi ta chấp nhận quẻ số 7 là quẻ "Trung tâm". Từ quẻ số 2 đến quẻ số 6 bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Tý -> Giáp Thân. Từ quẻ số 8 đến quẻ số 12 cũng bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Ngọ -> Giáp Dần. Mối quan hệ Lục thập hoa giáp với 60 hào này như thế nào? Vấn đề Giáp Tý bắt đầu khởi từ đâu?

Hà Uyên đang ở hào 3 quẻ Thuần Càn, khi cộng thêm với 7 thì ở hào 4 quẻ Thuần Khôn: "Thắt chặt miệng túi".

...

Liêm Trinh nói: "Đây là vấn đề hóc búa nhất và cũng cần giải quyết nhất vì nó liên quan đến đông y học cứu người. Liêm trinh đã mất không ít thời gian tìm cơ sở khoa học cho vấn đề này mà chưa tìm ra. Trong ứng dụng thực tiễn trên hệ tính toán Liêm trinh thấy hình như hệ này không nhất quán."

Như vậy, chúng ta cùng bắt tay nhau, tiến thêm một bước nữa xem xét lại từ đầu: những cống hiến của Kinh Phòng, để trả lời cho câu hỏi: có cách nào để bốc dịch được chính xác hơn?

Việc này, Liêm Trinh chủ động mở chủ đề mới, Theo Hà Uyên, chủ đề nên tập trung vào thế hệ đi trước chúng ta "một đời", tức là theo cách nói của Kinh Phòng, là quẻ Bố - Mẹ --> Càn - Khôn

...

Hà Uyên xin chào các anh chị trên diễn đàn Chào VinhL

Trước khi chúng ta trao đổi học thuật, chúng ta xem lại bối cảnh Lịch sử giai đoạn khi xuất hiện Thiệu Ung. Bắt đầu từ Khổng Tử, Ông nói: "Đồng Đồ nhi thù quy" (nghĩa cùng một dòng mẹ mà chia làm hai dòng con vậy). Tại thời điểm này, hình thành hai trường phái: phái tượng số và phái nghĩa lý. Phái Tượng số có quan hệ mật thiết với khoa học tự nhiên, còn phái Nghĩa lý lại có mối quan hệ chặt chẽ với khoa học xã hội. Trong Lịch sử, hai trường phái này, là một "thể" thống nhất của cặp mâu thuẫn. Trong Kinh Dịch có viết: "Quan vật thủ tượng" (xem vật lấy tượng). Trong Dịch truyện có viết: "Quan tượng thủ nghĩa" (xem tượng lấy nghĩa). Chiêm phệ chỉ là một bộ phận của phái Tượng số, nhưng "chiêm phệ" có vai trò quan trọng trong việc ứng dụng và lưu truyền, nó có ý nghĩa truyền bá rộng và sâu cho Kinh Dịch. Thiệu Khang Tiết là người đại diện tiêu biểu cho phái Tượng số, phương pháp "tư duy số " của Thiệu Ung, hình thành một hệ thống, mà nền tảng từ Kinh Dịch, là một đóng góp hết sức to lớn. Như chúng ta đã biết, một người đàn ông quốc tịch Đức thế kỷ 16, Ông không bàn về "tâm" động hay tĩnh, mà Ông đã đồng cảm và đồng thuận với Thiệu Ung về HỆ NHỊ PHÂN. "Số" có hai nghĩa lớn: nghĩa thứ nhất là "âm dương số", ví như số lẻ gọi là dương, số chẵn gọi là âm. Nghĩa thứ hai là "hào số", lấy thứ tự của các "hào", để nói lên mối quan hệ về ngôi vị giữa các sự vật. Đặc trưng là lấy "số" 9 làm số dương, số 6 làm số âm. Do vậy, "tượng" và "số" là nội dung cơ bản của Dịch học, đã được Thiệu Ung phát huy, phát triển lên một tầm cao mới. Đối với quy luật của "thời gian", người Phương Đông xây dựng hệ thống Can - Chi, ngày âm lịch dựa vào chu kỳ của Mặt Trăng, mà hệ quả của hệ thống này là: tháng "nhuận" = "0". Theo Hà Uyên, thì Thiệu Ung đã nghiên cứu rất sâu ở lĩnh vực này, tìm ra những quy luật sai số về "thời gian" giữa mặt Trời với mặt Trăng. Cụ thể là, cứ 19 năm, thì có 7 năm có tháng "nhuận" = "0". Điều này có ý nghĩa rất lớn khi Thiệu Ung xây dựng học thuyết cho mình. Ví dụ: một hào luôn luôn trải qua 12 quá trình (12 quẻ), còn hệ thống Can - Chi, theo Thiệu Ung: 60 x 60 x 60 x 60 = 12 960 000 là một đơn vị tính. Khi Quá khứ + Hiện tại + Tương lai = 1, thì buộc người Phương Đông phải chấp nhận "tháng nhuận", với quy luật của số "7". Thiệu Ung đã căn cứ vào đây, lấy số "7" làm vị trí "trung tâm", làm phương pháp cho tư duy của mình, khi ông tự ngôn. Do vậy, khi VinhL hỏi: Năm-Tháng-Ngày-Giờ để lấy quẻ Mai hoa, sử dụng bao nhiêu quẻ khi một hào động. Theo Hà Uyên thì có 7 quẻ, nhưng thực chất chỉ có 5 quẻ. Tại sao lại như vậy? Có lẽ, Hà Uyên phải dùng "tượng" của Dịch để trả lời: theo Nguyên lý vị trí của "trung tâm", với con số "nhị - ngũ" (2 - 5), nhiệt độ trung bình của con người là 37 độ, khi tiến thêm 5 (37 + 5 = 42), hoặc khi lùi đi 2 (37 - 2 = 35), đây là giới hạn cho sự tồn tại của con người, Hà Uyên qua quá trình trải nghiệm, thấy có tính thực tiễn, nên trao đổi với VinhL như vậy, VinhL có thể kiểm nghiệm thêm. Tại sao Càn 9 Khôn 1? Khi tư duy theo phương pháp của Thiệu Ung, Ông là người đưa ra khái niệm Tiên thiên - Hậu thiện thông qua Động - Tĩnh của âm dương chuyển hoá. Ví dụ, theo Tiên thiên, ta gọi Càn là vị trí số 1 thì cộng thêm với 9 là tới số thứ tự của Thuần Đoài. Như vậy, số "10" là một giới hạn cho sự chuyển hóa từ Càn đến Đoài. Nên Thiệu Ung lấy Tứ tượng xắp xếp như sau: - Thái dương tương ứng với cặp số 4 - 9, trong đó: Càn - 1, Đoài - 4 - Thiếu âm tương ứng với cặp số 3 - 8, trong đó: Ly - 3, Chấn - 8 - Thái âm tương ứng với cặp số 1 - 6, trong đó: Khôn - 1, Cấn - 6 - Thiếu Dương tương ứng với cặp số 2 -7, trong đó Tốn - 2, Khảm - 7 Đây là sự đối đãi giữa những con số, khi xây dựng học thuyết cho Ông. Những trao đổi trên, mang tính cá nhân, mong rằng đây là một sự tham khảo vậy.

...

Hà Uyên đính chính lại: - Thái dương tương ứng với căp số 4 - 9: trong đó Càn - 9, Đoài - 4

(Nguồn: Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

10 cách xem hung cát trong bát tự tử vi

Xem tử vi đoán định hung cát đời người là truyền thống của người Á Đông. 10 cách xem bát tự dưới đây sẽ giúp bạn có thêm hiểu biết về bộ môn khoa học tâm linh
10 cách xem hung cát trong bát tự tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi đoán định hung cát đời người là truyền thống của người Á Đông. 10 cách xem bát tự dưới đây sẽ giúp bạn có thêm hiểu biết về bộ môn khoa học tâm linh vi diệu này.


10 cach xem hung cat trong bat tu tu vi hinh anh
 
1. Thiên khắc địa xung   Hung thần thiên khắc địa xung. Mệnh cục có Thiên La, Địa Võng, Tai Sát, Kiếp Sát là vướng phải tai ương liên quan tới lao tù. Hoặc tứ trụ phạm hình cũng là rất xấu. Hướng trụ năm ứng với cha mẹ có tai, bản thân cũng không thuận. Hướng trụ tháng ứng với đồng bảo có tai, bản thân cũng ảnh hưởng. Hướng trụ ngày ứng với chính mình hoặc người vợ có tai, hướng trụ giờ là người nữ có tai hoặc bản thân không thuận.   2. Lâm tuế vận   Gặp tuế vận thì người nam trong nhà hoặc chính mình có họa tử vong hoặc sinh bệnh nặng phá tài. Nếu có người đang mang thai thì khả năng cao là tai.   Hướng dẫn xác định số mệnh có Cát thần Phúc Tinh Quý Nhân tốt lành
3. Sửu Mùi Tuất tam hình
  Xem tử vi người có mệnh này thì cả đời không thuận, mệnh cục có hai đại vận xấu, trung vận bất ổn, có người kết bè kết đảng hãm hại. Tam hình lại gặp thiên khắc địa xung thì bản thân có bệnh, trong nhà có người mất, trưởng bối ốm đau, rủi ro liên tiếp. Hình nhập trụ năm, trưởng bối có tai, hình nhập trụ tháng hoặc trụ ngày, bản thân hoặc vợ có tai. Gặp Thiên Đức, Nguyệt Đức hoặc Thiên Ất quý nhan thì may ra hóa giải được.
4. Dần Tỵ Thân tam hình   Nguyên cục toàn bộ chủ tai ương nghiêm trọng, vướng họa lao tù, có quý nhân tương trợ thì giảm bớt. 10 năm trung vận không thuận, phải bôn ba, xem bát tự có tam hình này thì không ốm đau cũng rủi ro, mắc lừa, nếu xuất hiện cùng với thiên khắc địa xung thì lại càng nặng.
Xem tử vi quý nhân vận theo ngày sinh siêu chuẩn
Cả đời gặp quý nhân cũng không tránh khỏi bị tiểu nhân hãm hại. Vì vậy, xem tử vi quý nhân vận không chỉ là xem bạn gặp được bao nhiêu quý

5. Thìn Ngọ Dậu Hợi tự hình
  Mệnh cục đại vận, năm hạn tiểu vận cấu thành Thìn Ngọ Dậu Hợi thì trong nhà có tai. Cả đời trắc trở, gặp năm Thìn Ngọ Dậu Hợi thì khó tránh khỏi tai kiếp, có quý nhân thì mới giảm bớt đôi chút. Nguyên cục có hai Thìn, hai Ngọ, hai Dậu, hai Hợi gặp tuế vận thì là đại tai.
6. Thương Quan gặp Quan   Nguyên cục có Thương Quan, tuế vận gặp Chính Quan; nguyên cục có Chính Quan, tuế vận gặp Thương Quan; nguyên cục có Thương Quan cùng Chính Quan đồng thấu thì phải phòng tai họa lao tù. Nguyên cục có Thương Quan cùng Chính Quan gặp tuế vận là năm tai ương.    7. Kiêu Thần đoạt Thực   Trong trụ có Kiêu, tuế vận gặp Thực là có tai. Trong trụ có Thực, tuế vận gặp Kiêu là không thuận. Trong trụ Kiêu Thực đồng thấu, cuộc đời chỉ toàn gian nan. Kiêu Thực Giáp ngày, họa lao tù.    Ngày sinh chào đón sự ra đời của mỹ nhân
8. Ba xung một hoặc một xung ba 
  Nhẹ thì rủi ro sinh bệnh, có thai không bình an. Ba xung một hoặc một xung ba mà gặp  thiên khắc địa xung nặng thì bản thân hoặc người thân nguy hiểm. Xung năm thì bất lợi cho người lớn tuổi, xung tháng thì bản thân có họa, xung ngày người vợ không an, xung giờ ảnh hưởng tới con. Có khi là tai nạn xe, sinh bệnh bị thương, trong nhà có người mất hoặc phá tài. Nhờ cát thần may ra giải trừ được. 9. Dương nhận phùng hướng  
10 cach xem hung cat trong bat tu tu vi hinh anh
 
Thân vượng có nhận chi mệnh, phùng tuế vận hướng nhận, đặc biệt có thiên khắc địa xung thì mệnh đại nguy. Thân nhược thì họa không lớn. Các ngày nhận chi mệnh là Kỷ Tỵ, Bính Ngọ, Nhâm Tý, Quý Hợi, Mậu Ngọ.
  10. Đại vận cùng trụ ngày thiên khắc địa xung   Có mệnh cục hợp thì giải trừ được, không hợp thì tai nặng. Sát vận sát năm thì càng hung, 10 năm trung vận bất ngờ gặp họa.
=> Xem lá số tử vi của bản thân chuẩn xác theo ngũ hành, phong thủy

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 cách xem hung cát trong bát tự tử vi

Lịch vạn niên là gì ?

Lịch vạn niên còn gọi là Hoàng lịch thông thư, Hiệp ký lịch, Hiệp kỷ biện phương thư, Vạn bảo toàn thư, Tuyển trạch nhật, Ngọc hạp v.v...
Lịch vạn niên là gì ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Lịch vạn niên
là loại lịch dùng cho nhiều năm, soạn theo chu kỳ năm tháng ngày giờ hàng can hàng chi, cứ 60 năm quay lại một vòng, lịch vạn niên dựa vào thuyết âm dương ngũ hành sinh khắc chế hoá lẫn nhau, kết hợp với thập can, thập nhị chi, cửu cung, bát quái và nhiều cơ sở lý luận khác thuộc khoa học cổ đại phương Đông như thập nhị trực (Kiến Trừ thập nhị khách), Nhị thập bát tú, 12 cung Hoàng đạo, Hắc đạo... để tính ngày giờ tốt xấu.

Cuốn lịch Vạn niên thông dụng ở nước ta dưới triều Nguyễn là cuốn “Ngọc hạp thông thư”. Sở dĩ gọi là thông dụng, vì rải rác qua các tủ sách của các nhà Nho còn sót lại, chúng tôi tìm được các bản viết tay, quyển thì rách đầu, quyển thì mất đuôi, quyển thì bị xé giữa, mặc dầu viết tay, mặc dầu sưu tầm ở các địa phương cách xa nhau (Bắc Thái, Hải Hưng, Hà Nội,Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên...) nhưng nội dung vẫn thống nhất.

Có thể nói, Ngọc hạp Thông Thư là cuốn sách gối đầu giường của các cụ nhà Nho nước ta thời trước: Động đến việc gì lớn hay nhỏ trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, chài lưới, săn bắn, trong lễ nghi tế tự, giao dịch, trong mọi mặt sinh hoạt gia đình, họ hàng, làng xóm, các cụ đều mở lịch ra chọn ngày lành,tránh ngày dữ.

Ngoài ra, trước năm 1945, ở nước ta cũng lưu hành một số sách khác như Vạn bảo toàn thư, Đổng công tuyển trạch nhật, Chư gia tuyển trach nhật in ấn ở Trung Quốc đưa sang, hay cuốn Tăng bổ tuyển trach thông thư quảng ngọc hạp ký in ở Việt Nam dưới các triều đại nhà Nguyễn. Tất cả những cuốn trên đều dùng nội dung lịch vạn niên, nhưng pha trộn thêm nhiều tà thuyết, trong đó có những tà thuyết đã bị bác bỏ từ thời vua Khang Hy triều nhà Thanh.

Dưới triều Nguyễn (1802-1945) có Khâm định Vạn niên thư (triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu trị, Tự Đức) và Đại Nam hiệp kỷ lịch (Từ triều Thành Thái1900 trở về sau). Đó là những cuốn lịch có tính pháp định, do toà Khâm thiên giám soạn, đệ trình nhà Vua và do nhà vua ban cho thần dân hàng năm. Ngọc hạp thông thư tức cuốn lịch vạn niên chúng tôi đề cập ở đây cũng do Khâm Thiên giám ban hành, cũng có chung cơ sở lý luận thuộc thiên văn học cổ dại nhưng không phái là Khâm định Vạn niên thư.

Lịch Vạn niên dùng để chọn ngày tốt ngày xấu còn phải dựa vào một loạt “thần sát” của thuật chiêm tinh cổ đại.

Lịch vạn niên cũng khác với Lịch vạn sự của từng năm, nhất là các cuốn gọi là “Lịch vạn sự” lưu hành trên thương trường nước ta những năm gần đây.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lịch vạn niên là gì ?

Tổng quan tài vận tháng 9 của 12 con giáp

Tài vận tháng 9 của 12 con giáp: Nhìn chung tài vận tháng 9 của người tuổi Sửu khá tốt, nguồn thu chính ổn định, nguồn thu phụ tăng.
Tổng quan tài vận tháng 9 của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tài vận tháng 9 của 12 con giáp: Nhìn chung tài vận tháng 9 của người tuổi Sửu khá tốt, nguồn thu chính ổn định, nguồn thu phụ tăng. 


► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Tài vận tuổi Tý

Trong tháng 9, nguồn tài chính của người tuổi Tý khá vượng và ổn định nhưng nguồn tài phụ hao hụt. Người làm kinh doanh khó tránh việc khách hàng phàn nàn về thái độ phục vụ của mình, cần phải điều chỉnh ngay.
 
Những ai làm trong ngành đầu tư có cơ hội gia tăng lợi nhuận, kiếm được bội tiền. Người vừa mới khởi nghiệp lại khá bế tắc vì không tìm được đối tác phù hợp. 
Tài vận tuổi Sửu
 
Nhìn chung tài vận tháng 9 của người tuổi Sửu khá tốt, nguồn thu chính ổn định, nguồn thu phụ tăng. Người làm kinh doanh hoặc đầu tư phải thận trọng khi chọn đối tác làm ăn, tránh tình trạng tranh chấp tài sản sẽ dẫn tới kiện tụng.    Tài vận tuổi Dần
 
Bước sang tháng 9, tài vận của người tuổi Dần kém sắc, nguồn thu chính và phụ đều không khả quan. 
 
Đặc biệt, người làm kinh doanh, buôn bán phải đối diện với sự cạnh tranh khốc liệt. Do đó, cần phải thay đổi phương thức làm việc và quản lí thì mới mong đánh bại được đối thủ và giành chiến thắng.
Tài vận tuổi Mão
 
Tài vận tháng 9 của người tuổi Mão khởi sắc và càng ngày càng có xu hướng ổn định.
 
Người kinh doanh nên làm tốt khâu quảng cáo, tuyên truyền để tăng lợi nhuận. Giới đầu tư cần giữ tinh thần bình tĩnh và sáng suốt thì mới vượt qua được rủi ro một cách dễ dàng.

Tong quan tai van thang 9 cua 12 con giap hinh anh
Tổng quan tài vận tháng 9 của 12 con giáp
  Tài vận tuổi Thìn
 
Tài vận của người tuổi Thìn trong tháng 9 kém sắc, các nguồn thu đều giảm, thậm chí xuất hiện tình trạng phá tài. Con giáp này không nên tiến hành những giao dịch tiền bạc quan trọng, tránh tiền mất tật mang.
Tài vận tuổi Tỵ
Nguồn chính tài và phụ tài của người tuổi Tỵ đều chững lại trong tháng 9. Với những người kinh doanh, buôn bán nên tập trung khắc phục tình trạng cũ thay vì tiến hành những dự định mới mẻ. 
Tài vận tuổi Ngọ
Tương tự người tuổi Tỵ, tài vận trong tháng 9 của người tuổi Ngọ không khả quan. Với những ai có ý định xin việc mới, nếu không nhờ bạn bè hoặc người thân giới thiệu, e rằng sẽ khó tìm được ưng ý.   Tài vận tuổi Mùi
 
Các nguồn thu của người tuổi Mùi trong tháng 9 không như ý. Nguồn chính tài hao hụt, phụ tài chững lại. Đây không phải là thời điểm lí tưởng để bạn tiến hành đầu tư, nguy cơ thua lỗ cao.   Tài vận tuổi Thân
 
Tài vận của người tuổi Thân trong tháng 9 khá ảm đạm với nguồn thu chính giảm sút đáng kể, nguồn thu phụ gần như không có.    Tài vận tuổi Dậu
 
Nếu không thay đổi phương thức làm việc hoặc kinh doanh, chắc chắn tài vận của người tuổi Dậu sẽ giảm một cách tệ hại trong tháng 9. 
 
Với những người đi xin việc, tạm thời chưa có công việc như ý nên phải bình tĩnh và kiên nhẫn chờ đợi.   Tài vận tuổi Tuất
 
Tài vận tháng 9 của người tuổi Tuất bình ổn. Nguồn thu chính vẫn giữ ở mức trung bình, nguồn thu phụ kém hơn. 
Tài vận tuổi Hợi
 
Tình hình tài chính của người tuổi Hợi trong tháng 9 không lí tưởng. Nguồn chính tài hao hụt, phụ tài trung bình. Người đầu tư phải hết sức thận trọng, tìm đối tác hợp lí nếu không sẽ xảy ra tranh chấp tiền bạc.
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng quan tài vận tháng 9 của 12 con giáp

Các vị trí phòng tắm đặt ra thử thách –

Phòng tắm dù được đặt ở đâu đều không thật thích hợp, nhưng có một số vị trí gây phiền phức hơn các vị trí khác. Cần chú ý là hệ thống ống nước phòng tắm (vòi nước, bồn toilet, vòi hoa sen...) có tác động “tiêu hao” dù nó được bố trí bất cứ vị trí nà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng tắm dù được đặt ở đâu đều không thật thích hợp, nhưng có một số vị trí gây phiền phức hơn các vị trí khác. Cần chú ý là hệ thống ống nước phòng tắm (vòi nước, bồn toilet, vòi hoa sen…) có tác động “tiêu hao” dù nó được bố trí bất cứ vị trí nào. Có thể xem xét vị trí phòng tắm trong ngôi nhà theo cung bát quái đồ để biết lĩnh vực nào đang bị suy yếu. Ví dụ:

nha_dep_qua_thien_duong_cung_phai_ghen_9

– Phòng tắm ở cung Phú quý có thể làm tiêu hao tài chính của bạn.

– Phòng tắm ở cung Danh vọng có thể báo hiệu danh tiếng của bạn nằm “trong nhà vệ sinh”.

– Ở cung Hôn nhân, phòng tắm có thể “dội trôi” hạnh phúc của bạn.

– Nếu phòng tắm ở cung Sự nghiệp, các cơ hội dường như trôi tuột trước khi bạn có thể được lợi từ chúng.

Để đánh giá các vị trí của phòng tắm trong ngôi nhà, hãy chú ý là năng lượng hành thủy – vốn gần với phòng tắm – thích hợp ở cung Sự nghiệp, nuôi dưỡng năng lượng hành mộc của cung Gia đình và Phú quý. Trong những trường hợp này, tác động “tiêu hao” của hệ thống ống nước phòng tắm có thể là vấn đề nhưng sự tương hợp về ngũ hành của hành thủy với cung bát quái đó có tác dụng trợ giúp.

Do phòng tắm là nơi chúng ta tự chăm sóc và “buông thả” mình, nên về mặt năng lượng, phòng tắm cũng liên quan tới các đặc điểm chăm sóc và nuôi dưỡng của cung Hôn nhân.

Vị trí đặt phòng tắm ít gây hại nhất nằm giữa hai cung bát quái; vì như vậỵ, khả năng làm tiêu hao không tập trung ở một cung bát quái, tác động tiêu cực sẽ giảm.

Phòng tắm nằm ngoài phần chính của ngôi nhà cũng mang lại ít vấn đề hơn, nhưng nó bù đắp một vài lợi ích rõ ràng của “phần mở rộng” của sơ đồ mặt bằng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các vị trí phòng tắm đặt ra thử thách –

Cách hóa giải phong thủy cửa chính không thuận –

Theo quan niệm trong phong thủy nhà, phong thủy cửa chính là một trong ba yếu tố quan trọng để hợp thành nhà tốt. Nếu cửa chính không thuận phong thủy… Theo quan niệm truyền thống của phong thủy học về phong thủy cửa trong ngôi nhà thì nhà có góc nhọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm trong phong thủy nhà, phong thủy cửa chính là một trong ba yếu tố quan trọng để hợp thành nhà tốt. Nếu cửa chính không thuận phong thủy…

Theo quan niệm truyền thống của phong thủy học về phong thủy cửa trong ngôi nhà thì nhà có góc nhọn chiếu thẳng vào cửa chính (thường là cửa bị góc tường nhọn của nhà hàng xóm hoặc đốc nhà hàng xóm chiếu thẳng cửa chính) sẽ dẫn đến nhiều hậu quả không tốt.
Thực ra nói như vậy có phần thái quá, nhưng nếu lo lắng về hiện tượng có góc nhọn chiếu thẳng vào cửa chính nhà, bạn có thể xử lý bằng cách treo tấm biển đầu thú. Tấm biển đầu thú rất ít thấy.

Đây là một tấm ván rộng 8 thốn (một thốn = 3,333 cm), cao 12 thốn, trên đó vẽ một đầu thú đang mở rộng miệng. Cách làm rất đơn giản, bạn chỉ cần treo tấm biển đầu thú trên dọc cửa, hướng thẳng vào góc nhọn phía trước, làm như vậy hóa giải được tà khí chiếu vào cửa chính của góc nhọn.

171

Ngoài ra, bạn cũng có thể treo gương lõm, còn gọi là “gương lòng chảo”. Do cấu tạo của gương lõm có thể phản chiếu trở lại toàn bộ hình ảnh vật chắn phía trước, vì vậy nó được coi là công cụ tốt nhất hóa giải góc nhọn chiếu thẳng vào cửa chính.

Cách treo gương lõm đơn giản, làm như treo tấm biển đầu thú. Bên cạnh đó, xây tường chắn cũng là một cách hóa giải hay. Việc xây đoạn tường chắn ở ngoài hoặc trong cửa giúp tường sẽ trở thành tấm chắn để chắn góc nhọn đang chiếu thẳng vào cửa chính.

Nếu trước cửa có đường cái đâm thẳng vào, theo phong thủy học đó cũng là điều không tốt. Nó ảnh hưởng rất lớn đến ngôi nhà. Cửa nhà nếu có đường cái chạy thẳng tới gọi là: “Ám tên tường hung” (mũi tên vô hình đâm thẳng vào ngực). Điều này không có lợi cho chủ nhà, còn trong nhà sẽ có người bị tàn tật. “Kinh lỗ ban” nêu ra biện pháp hóa giải bằng cách “Dùng đà cản”.

172

Một số nhà xây dựng ở chân dốc, cửa chính đối diện với dốc, thế này không thuận. Theo phong thủy học, đường cái là “nước” (thủy), tuy nói “thủy” là “tài” nhưng nếu như nước ào ào từ đường dốc chảy vào cửa chính (trừu tượng) hùng thế này tất biến thành họa.
Trong trường hợp này, ở phía bên ngoài cửa, bạn có thể xây bậc vào cửa (một bậc, 2 bậc hoặc 5 bậc), làm như thế để làm giảm thế nước chảy vào cửa. Những dòng nước vô hình sau khi bị các bậc xây trước cửa ngăn cản thế của nước đã giảm đi rất nhiều, vì vậy không thể gây họa được. Số bậc thang xây trước cửa phải là số lẻ.

“Đường cong hình cánh cung ngược” là đoạn đường cong trước cửa mà chiều cong hướng thẳng vào cửa chính, phong thủy học gọi nó là “lưỡi liềm cắt sườn”. Nếu trước cửa có đường cái cong hình cánh cung ngược, hướng cánh cung vào cửa chính thì trong nhà luôn có chuyện dâm loạn, có người bị thương tật, nhà thường xẩy ra hỏa hoạn mắc bệnh về thần kinh…

Trong “Bát quái minh kính” cũng có nói rằng: “Đường cong như cánh cung ngược trước cửa thì dữ” Cách hóa giải có thể dùng một trong 3 giải pháp: Chôn bí “thái sơn thạch cảm đương” trước cửa hoặc treo tấm gỗ ghi “sơn hải trấn” hay treo gương lõm.
Kinh lỗ ban ghi rằng: “Hai nhà không thể đối diện vì như thế sẽ có một chủ bị suy. Hai cửa không thể đối nhau vì như thế sẽ có một nhà gặp dữ”. Để hóa giải, một số người treo gương: Tam xoa, bát quái, bạch hổ nhưng làm như vậy lại gây ra lo lắng cho nhà đối diện và hai bên cùng tìm cách hóa giải.

Nếu như muốn vừa xóa bỏ được sự uy hiếp về tâm lý “hai cửa đối nhau” lại vừa không để hàng xóm có cửa đối cửa với mình bị mặc cảm, cách làm tốt nhất để giải quyết là trên dạ cửa treo 4 chữ “thiên quan tứ phúc” (ông trời ban phúc). Ngoài ra, chủ nhà có thể bàn với nhà hàng xóm cùng treo 4 chữ “thiên quan tứ phúc” trên cửa để 2 bên đều có phúc.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải phong thủy cửa chính không thuận –

Sao Cự Môn

Một bài viết sưu tầm về sao Cự Môn. Mời các bạn cùng đọc và tham khảo.
Sao Cự Môn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Cự môn - Toàn thư

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Cự môn thuộc âm thủy. Tại Đẩu là ngôi sao thứ hai thuộc chòm Bắc Đẩu, tại Số là ngôi sao thứ tư theo phép định cục an sao Thiên bàn thuộc chòm Nam Đẩu. Hóa khí là ám, chủ về thị phi, đa nghi, hiềm khích.

Cự môn là ngôi sao về nói năng, nên chủ về có tài ăn nói, phù hợp với những ngành nghề cần giao tiếp, năng nói, có sở trường xử lý các mối quan hệ công cộng, nên có khả năng trở thành nhà ngoại giao. Nhưng, cũng vì nói nhiều, dễ rước lấy điều tiếng thị phi, lại khó tránh được đố kị, hiềm khích, cạnh tranh, nên không hợp với mệnh nữ. Trừ khi theo những nghề như giáo viên, biểu diễn, ngoại giao, quảng cáo marketing, nếu không rất dễ trở thành ngôi lê đôi mách, buôn chuyện thị phi.

Sao Cự môn hóa ám, chủ về lo lắng buồn phiền, cũng chủ về vất vả. Nằm tại bất lỳ cung vị nào, bất kể có Cát tinh ở tam phương hiệp trợ hay không, đều chủ về tuổi trẻ vất vả, phải phấn đấu gian khổ rất nhiều mới có được thành tựu.

Sao Cự môn ưa gặp Hóa Lộc, tăng cường lý tính và mức độ hoạt ngôn, lại có thêm uy quyền. Nếu sao Cự môn miếu, vượng gặp Hóa Quyền, lại gặp lục Cát tinh, phần nhiều đều trở thành các nhà ngoại giao có tài hùng biện, đảm đương những chức vụ quan trọng. Nếu sao Cự môn không ở cung miếu, vượng mà gặp được Hóa Quyền, sẽ trở thành bậc thầy nổi tiếng, nhiều học trò đệ tử.

Sao Cự môn cũng nên Hóa Lộc tại cung miếu, vượng, chủ về có khẩu phúc (được ăn ngon), đồng thời tăng cường phần cảm tính và tài hùng biện. Nếu như lại gặp thêm Cát tinh, chắc chắn sẽ thành tựu về sự nghiệp. Nếu như Hóa lộc lại gặp Hồng loan, Thiên hỷ, Văn xương, Văn khúc, Thiên diêu, Hàm trì, Hóa Khoa, nên phát triển trong lĩnh vực biểu diễn, diễn xuất, khả năng trở thành nghệ sỹ có danh tiếng. Sao Hóa lộc, Hóa quyền của Cự môn có tửu lượng tốt, được hưởng khẩu phúc.

Sao Cự môn không có khả năng kháng cự với lục Sát tinh và sao Hóa Kị, nhất là khi gặp Kình dương và Đà la, sẽ khiến cho đường tình duyên gặp nhiều sóng gió trắc trở. Nếu gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp chủ về vất vả trắc trở. Khi sao Cự môn Hóa Kị thì ăn nói khó nghe nhưng lại nói quá nhiều gây phản cảm cho người khác, tự chuốc lấy điều tiếng thị phi, có khuynh hướng bất mãn với hiện thực, dễ gây nên vạ miệng mà bị kiện tụng.

Sao Cự môn nếu gặp Thái dương thì cát hung lẫn lộn. Gặp sao Thất sát chủ về bị sát thương. Gặp Tham lang, Phá quân dễ bị tù tội lưu đầy. Gặp Tử vi sẽ khắc chế được tính cách ngoan cố của Cự môn. Gặp Lộc tồn sẽ giải trừ được tai ách. Gặp Kình Đà trai làm giặc cướp gái dâm tà. Nếu tại cung đối xung có Hỏa tinh, Linh tinh, Bạch hổ, mà không có sao Tử vi trấn áp hay Lộc tồn hóa giải, dễ bị đầy ải hoặc xung quân đến phương xa. Tam phương hội Sát trùng điệp ức hiếp, là thần hà khắc, dễ trở thành số cô độc, dễ gặp hỏa hoạn. Nếu theo nghiệp cửu lưu sẽ tránh được vất vả. Hai hạn gặp hung tinh tai họa không nhẹ.

Sao Cự môn và sao Thái dương trấn mệnh tại Dần hoặc Thân, là cách "Cự Nhật đồng cung", có tài ăn nói hùng biện, vất vả trước thành công sau. Sao Cự môn trấn mệnh tại Tý hoặc Ngọ, cung vị tam phương tứ chính có thêm hóa Lộc, hóa Quyền hoặc hóa Khoa hiệp trợ, là cách "Thạch trung ẩn ngọc" (Ngọc ẩn trong đá), bất khuất kiên cường, khi trẻ vất vả trung niên sẽ có thành tựu. Sao Cự môn nhập Thân cung lạc hãm tại Thìn hoặc Tuất, lại gặp bốn Sát tinh Kình Đà Hỏa Linh tại cung mệnh, là cách "Cự phùng tứ sát", nếu không có Cát tinh ứng cứu, dễ vì trốn tội mà lưu lạc tha hương. Sao Cự môn và Thiên cơ cùng trấn mệnh tại Dậu, tại Dậu hoặc cung vị tam phương tứ chính gặp Hóa Kị, là cách "Cự Cơ hóa dậu", làm việc gì cũng không thành tựu, mệnh nữ ắt phá bại, phiêu đãng vô định.

SAO CỰ MÔN TỌA THỦ CUNG MỆNH

Dung mạo và tính cách

Người có sao Cự môn tọa thủ cung Mệnh, thường ánh mắt nhìn đoan chính, vẻ mặt nghiêm túc, giọng nói cao mà thanh, hành động nhanh nhẹn. Nhập miếu thì cơ thể cao đậm, nhìn vẻ bề ngoài toát ra hình thức là người phúc hậu lương thiện, lạc hãm thì thân thể cao gầy.

Ngay thẳng bộc trực, tính đa nghi, có khuôn mặt thánh thiện khả ái, cũng có vẻ mặt hiền lành ít nói. Lục thân thiếu hòa hợp, là người chủ quan lại tự tin, thường hay tỏ thái độ bất mãn với hiện tại, nên thích gây chuyện thị phi, lúc thiện lúc ác thường không biểu hiện lộ ra ngoài mặt. Học nhiều nhưng ít tinh thông, phong cách làm việc thường tỏ ra khó khăn vất vả nên khó có được sự thanh nhàn thảnh thơi.

Tính tình đa nghi, kết bạn với mọi người ban đầu thì tốt nhưng cuối cùng lại ác. Tư duy lãnh đạm, trong lòng nhỏ nhen hiếm khi rộng lượng, làm việc lớn thường quá chú trọng tới hình thức mà bỏ qua khả năng phân tích, khả năng quan sát, khả năng phán đoán tình huống, khả năng ghi nhớ, và khả năng liên tưởng. Tuy nhiên, là người giầu khả năng nghiên cứu, nên thường có tầm hiểu biết rộng, có sáng kiến, dù không giao tiếp nhưng khả năng biểu đạt lại rất tốt, biện luận sắc sảo. Có xu hướng sống cuộc đời thanh bạch, ít thiên về thú vui của cuộc sống, lấy công việc là mục đích hành đầu.

Phụ nữ cung mệnh có sao Cự môn thường có lòng tự tôn rất cao, bụng thẳng dạ ngay, sức sống mạnh mẽ, đa nghi, thường hay tự so bì với người khác mà tự chuốc lấy phiền muộn trong lòng. Khi can thiệp vào chuyên gia đình hay công việc của chồng, thường thiếu thận trọng trong ngôn ngữ, lời nói phản cảm thường gây tổn thương bầu không khí hạnh phúc, ấm cúng. Làm việc chăm chỉ cần mẫn, xử lý mọi việc trong gia đình chu đáo, công việc và gia đình đều đảm nhiệm tốt.

Suy đoán vận mệnh

Cự môn + 3

Cự môn + 3

Cự môn – 1

Thiên đồng – 1

Cự môn + 4

Thái dương + 2

Cự môn – 2

   

Cự môn + 4

Thiên cơ + 3

Cự môn + 4

Thiên cơ + 3

   

Cự môn – 2

Cự môn + 4

Thái dương + 3

Cự môn – 1

Thiên đồng – 1

Cự môn + 3

Cự môn + 3

Độ sáng của sao Cự môn tọa thủ 12 cung

Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Cự môn.

Mối quan hệ của chúng như sau:

- Miếu = + 4

- Vượng = + 3

- Địa = + 2

- Lợi = + 1

- Bình hòa = 0

- Không đắc địa = - 1

- Hãm địa = - 2

Cự môn là miệng, cho nên sao Cự môn tượng trưng cho "miệng", nói chung không thể tách rời khỏi "miệng", có "khẩu phúc", giỏi quan hệ công chúng, phần nhiều là những người gây dựng sự nghiệp bằng "miệng", như giáo sư, quan tòa, luật sư, nhà ngoại giao, người dẫn chương trình, người làm việc kinh doanh đối ngoại, nhân viên kinh doanh, ca sỹ, diễn viên, nghề dịch vụ công hay tư,... đồng thời còn thiên về việc xử lý các mối quan hệ chung.

Sao Cự môn phần nhiều là nói về "miệng", cho nên ngay thẳng bộc trực là ở "miệng", nhưng "ngôn đa tất thất" là nói về người phụ nữ thị phi, cho nên sao Cự môn không nên xuất hiện trong mệnh của nữ giới.

"Thị phi" của sao Cự môn không phải là có ý gây chuyện "thị phi", người mệnh sao Cự môn có khả năng phân tích rất tốt, rõ ràng là rất "thị phi", cố gắng không nên gây những chuyện "thị phi", nhưng cũng khó có thể thoát khỏi những chuyện "thị phi".

Ba sao Cự môn, Tham lang và Thiên cơ, đều thuộc kiểu giao tiếp hướng ngoại, nhưng tính chất của chúng lại có sự khác biệt. Sao Tham lang đa tài đa nghệ, tính chất giao tiếp của nó thiên về trường phái lãng mạn: tửu, sắc, tài, khí; Sự giao tiếp của sao Thiên cơ thiên về liên lạc giao thiệp, vì người mà bôn tẩu vất vả; Sao Cự môn thì dùng "miệng" là chính, thiên về diễn giảng biện thuyết đúng sai, phải trái.

Sao Cự môn và sao Văn khúc đều thiên về tài biện luận ăn nói, nhưng tài biện luận ăn nói của sao Văn khúc phần nhiều thuộc về kỹ xảo biện luận, chú trọng tu từ mà lời nói hướng thiện, cũng mang hàm nghĩa "tài" và "đào hoa". Tài biện luận ăn nói của sao Cự môn thì lại chú trọng đến thực tế, gồm có phân tích và liên tưởng, cũng có nội dung nhưng "tài khí" thì lại tương đối ít.

Khí hóa của sao Cự môn là ám, trong bóng tối có thể thấy được ánh sáng bên ngoài, cố nhiên sao Cự môn với khả năng quan sát sự vật một cách thấu đáo hơn người, phần nhiều có những biểu hiện như sau:

1. Bất luận ở hoàn cảnh khó khăn nào, phần lớn đều có thể tháo gỡ được trở ngại khó khăn bước đầu, biết hy vọng vào tương lai.

2. Khoan dung độ lượng, biết khoan dung hơn nữa còn hiểu đạo lý.

3. Có khả năng hội nhập được cuộc sống đa dạng muôn mầu, và có biểu hiện cụ thể bằng ngôn ngữ, hành động, dễ được mọi người chấp nhận và hoan nghênh.

4. Có thể hiểu được sự việc và truyền đạt thông tin, hóa giải khúc mắc.

5. Nằm giữa ranh giới thị phi và chính trực, nhưng không bị mất đi bản tính lương thiện, mà còn giữ được đạo trung dung.

6. Có chuyện thầm kín trong lòng không thể bày tỏ với người khác, hoặc là dấu đầu hở đuôi.

7. Thường rơi vào ảo tưởng mà tự chuốc lấy phiền muội, thậm chí còn tự hủy hoại mình.

8. Nhàn rỗi, càng nói càng sai, thường khổ tại miệng, bị người khác hiểu lầm oán trách.

9. Trước khi được xã hội công nhận, phải trải qua nhiều vất vả, chỉ cần giữ vững ý chí, cuối cùng cũng thành công.

10. Mạnh bạo hơn người, thường làm những chuyện mà mọi người không ngờ tới, hoặc những việc mà không được mọi người tán thành, khiến mọi người bàn tán.

11. Cơ hội sự dụng ngôn ngữ hơn người, cũng thường vận dụng tài ăn nói của mình mà đạt được lợi ích.

12. Cuộc đời có nhiều cơ hội phải đấu tranh.

Người có sao Cự môn thủ mệnh, nên theo những nghề dùng miệng là chính, có thể nên học và tinh thông nhiều thứ tiếng ngoại ngữ, để có cơ hội làm việc theo phương thức chính phái, qua đó, bản tính thị phi dễ bị "phê bình" thường sẽ chuyển biến sang xu hướng "giám sát đúng sai", "đánh giá sự hoàn thiện", phát huy khả năng phân tích có tính thực tiễn của sao Cự môn. Ngoài ra, người có sao Cự môn thủ mệnh, cuối đời phần lớn đều nhận được sự chăm sóc của con cháu.

Sao Cự môn cũng là sao đơn độc, duy có sao Lộc tồn mới có thể hóa giải được. Sao Cự môn thâm nhập vào các cung Lục thân, chủ về phần lớn người đó bạc duyên với lục thân, nếu không kết hợp với sao Lộc tồn, hoặc đồng cung với sao Hóa Lộc, thì tâm thần thường thường dễ bất an, hoặc có hiện tượng cô đơn.

Sao Cự môn được tam cát hóa Lộc Quyền Khoa, chủ về bổng lộc dồi dào, tài diễn thuyết hùng biện được trọng dụng phát huy. Song tính chất lại có sự khác biệt: Hóa Lộc mà lại mang cảm tính, hiền lành không cưỡng bức, quan sát tình cảnh nói chuyện. Hóa Quyền giảng lý mà mang tính quyền uy, trật tự rõ ràng, tăng thêm trọng lượng lời nói, hơn nữa còn tăng thêm lòng tin và độ tin cậy vào người khác mà giảm bớt chuyện thị phi. Hóa Khoa là lời nói nho nhã, mang phong thái của người quân tử.

Sao Cự môn thích nhất là Hóa Quyền, khi miếu vương Hóa Quyền, lại kết hợp thêm lục Cát tinh, thì phần nhiều là người làm quan lớn gánh vác trách nhiệm ngoại giao. Nếu không thuộc miếu vượng mà gặp sao Hóa Quyền, thì cũng là người gánh vác trọng trách. Khi sao Cự môn nhập miếu vượng Hóa Lộc, có thêm cát tinh hội chiếu, chủ về sự nghiệp sẽ được thể hiện thấy rõ, nếu Hóa Lộc lại gặp Hồng loan, Thiên hỷ, Văn xương, Văn khúc, Hàm trì, thì nên phát triển theo hướng văn hóa nghệ thuật, biểu diễn giải trí, phần nhiều sẽ thành danh trên con đường này.

Sao Cự môn không thích gặp Hóa Kị, ngôn từ sắc bén, nói chuyện khó nghe, lại thích nói chuyện, dễ khiến cho người phản cảm, đắc tội với người mà không biết. Nếu sao Hóa Kị lại gặp phải Sát tinh, thì nên chú ý chuyện thị phi nơi quan trường.

Sao Cự môn kỵ nhất gặp sao Kình dương và sao Đà la, chủ về chuyện tình cảm gặp nhiều sóng gió, một lời không thể nói hết được, phần lớn là những chuyện thị phi mang tới. Sao Cự môn gặp phải Hỏa tinh, Linh tinh thường tăng thêm phần khó khăn. Cự môn đồng độ cùng Địa không, Địa kiếp tọa thủ cung mệnh, chủ về một đời vất vả, thậm chí thời thơ ấu còn bị bỏ rơi.

Sao Cự môn - Lục Bân Triệu

Sao Cự môn trong thuyết Ngũ hành vừa thuộc âm thổ, vừa thuộc âm kim, đây là Thổ yên tĩnh chôn Kim, cho nên hóa khí là "ám tinh" (sao u ám). Ở trên trời thuộc chòm sao Bắc Đẩu, ở trong mệnh bàn chủ về lời qua tiếng lại, tranh chấp ra mặt hay ngấm ngầm đấu nhau.

Nếu sao Cự môn hóa Quyền thì làm thầy người ta, thanh danh vang xa. Có Thái dương hội chiếu thì quang minh lỗi lạc, vừa phú vừa quý. Cự môn ở Tý hoặc Ngọ, gọi là cách "Thạch trung ẩn ngọc", lấy Cự môn hóa Quyền hoặc hóa Lộc làm thượng cách, lấy Lộc tồn đồng cung làm thứ cách, lấy không có Lộc làm cho tốt lên làm kế đó, chủ về phú quý song toàn, một đời chức vị cao lộc hậu. Nhưng không thể lên tới đỉnh tối cao, nếu lên tới đỉnh sẽ có hậu quả không tốt, hoặc bị mọi người chỉ trích, dẫn đến thân bại danh liệt.

Cự môn ở Dần hoặc Thân, đều chủ về danh lợi song thu, có thể thành đại phú, thanh danh lừng lẫy ở tha hương. Có điều lấy Dần làm Thượng cách, kế đến là tới Thân. Ở Dần lấy thân thể phát mập là hợp cách.

Cự môn ở Tị không lợi cho Phụ tinh (cha), hoặc tuổi còn nhỏ đã làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ tổn hại cha, hay còn nhỏ nhiều bệnh tật, chủ về vất vả tất bật, nên theo học một nghề chuyên môn. Nếu được Lộc tồn đồng độ, thì phúc dày lộc trọng, song tính tình mộc mạc giản dị mà cẩn thận, chủ về giầu có. Nếu có Hóa Quyền, Hóa Lộc thì khí phách cực lớn, giỏi sáng lập sự nghiệp, chủ về sang quý.

Cự môn ở Hợi, có Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Lộc tồn đồng độ, chủ về đã phú lại quý, lừng danh ở tha hương, song tài năng quá lộ, chí cao mà khí ngạo, nên dễ bị người chỉ trích.

Cự môn ở Thìn, nếu hóa Quyền hoặc hóa Lộc chủ về phú cách, gặp thêm Lộc tồn chủ về đại phú. Nếu Cự môn và Văn xương cùng đến tọa tại Thìn, mà Cự môn Hóa Lộc, còn Văn Xương Hóa Kị, là cách rất đặc biệt, chủ về đại phú đại quý. Bởi vì sao Thiên đồng ở Tuất có thể hóa cái xấu của sao Kị thành hữu dụng.

Cự môn và Thiên cơ ở tại Mão, có Hóa Lộc hay Hóa Quyền, hoặc Lộc tồn đồng độ, và có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, là chủ về cực quý.

Cự môn và Thiên cơ ở tại Dậu, tuy có cát tinh Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Lộc tồn đồng độ, nhưng vẫn chủ về quý mà không hiển, phú mà không bền.

Các cung vị trên đều lấy tiêu chuẩn tam phương tứ chính không gặp Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh là nhập cách.

Sao Cự môn đồng độ với sao Thiên đồng ở Sửu hoặc ở Mùi, chủ về hình khắc, khổ cực, nhiều thị phi, có gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền tuy tốt nhưng không được lâu dài. Cự môn ở Tuất Hóa Quyền hoặc Hóa Lộc là cách đặc biệt (kỳ cách), bởi vì Thái dương ở cung Ngọ là mặt trời giữa trời hội chiếu Cự môn, thì khí u ám tan hết.

1. Cự môn ở cung Mệnh viên

Sao Cự môn đến cung Mệnh, chủ về người sắc mặt xanh vàng, có Thái dương đồng độ hoặc hội chiếu thì chủ về sắc mặt hồng trắng hoặc hồng vàng. Khuôn mặt hình chữ nhật dài hoặc tròn dài. Nhập miếu hoặc có Thái dương ở Tị Ngọ thì chủ về béo mập, thân hình trung bình cao, nếu không sẽ chủ về thân hình trung bình, hoặc gầy nhỏ. Tính tình trung hậu, mặt mày thanh tú, có nghề chuyên môn, khéo ăn nói, hay hùng biện. Có lòng chính nghĩa, không có việc gì nhưng lại thường thể hiện bận rộn tất bật, học nhiều mà ít tinh, có theo học về pháp luật, cơ giới, y học, và tinh tướng tạp nghệ, hoặc làm thầy mọi người, lãnh đạo bang hội. Ưa nhất là Hóa Quyền, Hóa Lộc, và Lộc tồn, chủ về vừa quý vừa phú. Nếu Hóa Kị thì lời qua tiếng lại liên miên, tai họa tơi bời. Phàm làm việc gì cũng nhiều nghi ngờ mà ít quyết đoán, tiến thoái bất định. Có Đà la đồng cung thì trong mình có nốt ruồi lạ. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Kiếp sát, Thiên hình, Âm sát, mà không có Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền hóa giải, thì xảy ra tình hình xem nhẹ mạng sống, như tự tử, đâm đầu xuống sông, uống thuốc độc, hoặc gặp hỏa tai, bị điều ra tiền tuyến, bôn ba ngàn dặm, làm việc điên đảo, hoàn toàn không có chủ trương.

Nữ mệnh có sao Cự môn lâm mệnh cung, nhập miếu hoặc có Lộc tồn, Hóa Lộc, hoặc Hóa Quyền, thì chủ về vừa phú vừa quý, hơn nữa, thọ mệnh rất dài. Nếu lạc hãm, hoặc Hóa Kị thì mang tiếng người ghét, nhiều thị phi. Nếu có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu thì chủ về hình khắc, thọ yểu, lấy kế thất, vợ lẻ là thích hợp, song vẫn nhiều tranh giành đấu đá.

Lưu niên đại hạn có sao Cự môn, đồng độ với Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn thì chủ về phát triển sự nghiệp, có thể sáng lập đại nghiệp, thành đại sự, mọi việc thấy hung mà thực ra là cát, danh lợi song thu. Nếu Hóa Kị, hoặc hội chiếu Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, thì chủ về tai họa kiện tụng lao ngục, hình khắc, hoặc gặp hỏa tai, binh lửa, trộm cướp, nhiều tai họa vô vọng.

2. Cự môn ở cung Huynh đệ

Sao Cự môn đến cung Huynh đệ, chủ về hình khắc bất hòa, lời qua tiếng lại cãi vã, hoặc có anh em khác mẹ. Có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, Ân quang, Thiên phúc hội chiếu, và có các sao Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn cùng đến, thì chủ về anh em sáng lập sự nghiệp thành tựu, ba người trở lên. Song phải có Thái dương đồng độ mới nhập cách. Đồng độ với Thiên cơ thì anh chị em đều có cơ tâm, phân ly đông tây. Đồng độ với Thiên đồng là có anh em kết nghĩa, song trước tốt sau xấu. Hội Không Kiếp Hình Hao, thì bị anh em cắt xén bớt. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Âm sát, Cô thần, Quả tú hội chiếu thì hình khắc, tranh chấp thị phi. Sao Hóa Kị cũng chủ về lời qua tiếng lại thị phi, tai nạn bệnh tật, phá hao.

3. Cự môn ở cung Thê (Phu)

Sao Cự môn đến cung Thê, thường có tình trạng lời qua tiếng lại, cãi vã, gây sự, nên lấy người lớn tuổi hơn mình. Nếu có Thái dương đồng độ, thì tính tình hào sảng, làm việc sáng suốt, dũng cảm gánh vác trách nhiệm. Có các cát diệu Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật hội chiếu thì giúp chồng dạy con, thông minh lanh lẹ. Đồng độ với Thiên cơ, gặp sao làm cho tốt lên, thì thông minh nhanh nhạy, xinh đẹp giỏi chăm lo gia đình. Đồng độ với sao Thiên đồng, tuy thông minh nhưng có hình khắc sinh ly. Nếu có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Cô thần, Quả tú hội chiếu, thì chủ về khắc hại vợ, sinh ly, ở riêng, lời qua tiếng lại.

Nữ mệnh có sao Cự môn đến cung Phu, có các cát tinh Thái dương, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì chủ về lấy được người chồng đã phú mà còn quý, đa tài đa năng, sự nghiệp lớn lao, còn được người kính mến. Nếu có sao Hóa Kị thì lời qua tiếng lại thị phi, lúc nào cũng cho bản thân là đúng, nhiều tranh cãi vô ý nghĩa. Nếu hội chiếu Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, thì chủ về hình khắc phân ly, mệnh ba lần lấy chồng. Nên làm kế thất, vợ lẻ, ở chung mà không cử hành nghi thức kết hôn. Đây là tinh diệu nóng nảy, nhiều tranh chấp.

4. Cự môn ở cung Tử nữ

Sao Cự môn đến cung Tử nữ thì nên chậm có con. Nếu có Thái dương đồng độ, hội chiếu Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, thì chủ về có ba con trở lên, có thể phát, đã phú mà còn quý, thông minh đa tài, sự nghiệp hơn cha ông. Có Thiên cơ đồng độ thì nên làm con thừa tự của người khác hoặc ở riêng, nếu không sẽ hình khắc. Có Thiên đồng đồng độ, gặp sát diệu, nuôi con thừa tự. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì chủ về cô độc. Có Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, thì chủ về con cái nhiều bệnh tật, phá hao tiền bạc về sau còn hình khắc. Đây là tinh diệu cô độc, cho nên cần phải có Thái dương đến chiếu sáng mới trừ khí u ám. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, thì mới sinh được ánh sáng tốt lành.

5. Cự môn ở cung Tài bạch

Sao Cự môn đến cung Tài bạch, chủ về nhờ có lao tâm lao lực và dựa vào trí lực, khẩu tài mà được, có thể tay trắng lập nên sự nghiệp. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn đồng độ thì chủ về giầu có, song tối kị chí khí cao ngạo, tài năng bức người, nếu không, tất sẽ bị người chèn ép, gặp phải khó khăn cực lớn, vì bị mọi người xúm lại đánh đổ, hoặc bị con cái làm hao tổn, suy bại. Có Thái dương đồng độ, chủ về được người tin cậy, mở rộng cơ nghiệp đã thành, và có thể được người ở tha hương tôn sùng. Có Thiên cơ đồng độ, vào nhiều ra nhiều, nhiều biến động. Có sao Thiên đồng đồng độ, có thể dựa vào kỹ thuật, nghệ thuật hoặc tay trắng mà sáng lập sự nghiệp; hoặc làm các nghề như luật sư, thẩm phán, bác sỹ, thầy thuốc mà làm nên. Có Kình dương Đà la cùng đến, chủ về nhiều rắc rối tranh chấp, kiện tụng. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao đồng độ hoặc hội chiếu, sẽ có tổn hao vì họa binh đao, cướp bóc, hỏa tai,...

6. Cự môn ở cung Tật bệnh

Sao Cự môn đến cung Tật bệnh, chủ về các chứng âm tổn, thương tổn ngầm, bệnh phổi, mụn nhọt ngầm, ung thư bao tử. Có Thiên cơ đồng độ thì "Can Vị bất hòa", hoặc trường vị nhiều khí, tâm phiền uất kết. Có Thái dương đồng độ thì huyết áp cao, đau mắt, đầu choáng, nhức đầu, hư hỏa bốc lên. Có Đà la đồng độ thì bán thân bất toại. Có Thiên đồng đồng độ thì đau thần kinh tọa, đau lưng eo, cơ nhục ngày càng teo tóp, hoặc mụn nhọt. Có Lộc tồn, Hóa Lộc thì bệnh bao tử. Có Hóa Kị thì thường lở miệng.

7. Cự môn ở cung Thiên di

Sao Cự môn có Hóa quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng độ, nhập miếu đến cung Thiên di, chủ về xuất ngoại đại phát, nhờ khẩu tài diễn thuyết hùng biện mà nổi tiếng tha phương. Trong chính giới là nhân tài của ngành tư pháp, yếu nhân trong công tác ngoại giao, trong thương giới là người phụ trách doanh nghiệp công ty. Sao Cự môn Hóa Kị thì xuất ngoại nhiều tranh chấp cãi vã, tiến thoái không quyết đoán, đa nghi bất định, đông bôn tây tẩu, vất vả lạ thường. Có Thái dương đồng độ thì xuất ngoại vẻ vang, có thu hoạch bất ngờ. Nhưng, Thái dương ở Tị Ngọ dễ bị tiểu nhân đố kị. Đồng độ với Thiên đồng, lại gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, chủ về xuất ngoại tay trắng lập nghiệp. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, thì xuất ngoại gặp tai nạn, thiếu duyên với người, nhiều thị phi. Lưu niên hóa sát thì có tai họa về lao tù, hình khắc tử thương.

8. Cự môn ở cung Giao hữu

Sao Cự môn Hóa Quyền đến cung Giao hữu, gặp cát diệu nhập miếu Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, chủ về bạn hữu tuy nhiều cãi vã tranh chấp, song có nhiều bạn đa mưu, lập nên sự nghiệp, hoặc có thuộc hạ tính tình thẳng thắn, siêng năng, giỏi làm, đa tài. Có Thái dương đồng độ chủ về "úy hữu", hoặc được bạn tốt, trượng nghĩa, nói điều phải. Đồng độ với sao Thiên đồng thì nhiều bạn bè khẩu thị tâm phi, ngôn hành bất nhất. Gặp sao Hóa Kị thì ít được bạn bè giúp đỡ, nhiều lời qua tiếng lại, nhiều tranh chấp. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, thì chủ về bạn bè làm liên lụy, hoặc thủ hạ là người bất nghĩa. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Âm sát đồng độ hoặc hội chiếu thì chủ về vì bạn bè mà phá hao, hoặc bị thủ hạ trộm cắp.

9. Cự môn ở cung Sự nghiệp

Sao Cự môn nhập miếu đến cung Sự nghiệp, chủ về sáng lập sự nghiệp, hoặc phát triển từ nghề nghiệp chuyên môn, như làm thầy thuốc, luật gia, nhà quân sự, cho đến phát triển sự nghiệp trong lĩnh vực tướng học, hoặc lãnh đạo bang hội, lãnh đạo tôn giáo, dùng đầu óc hơn người và khẩu tài hùng biện mà thành công. Nhập miếu, có các cát tinh, lại gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng độ, chủ về làm yếu nhân trong giới quân sự, người nổi tiếng trong xã hội, nhân vật lớn trong giới thương nghiệp. Có Thái dương đồng độ, thì danh tiếng lớn hơn tiền tài. Có Thiên cơ đồng độ thì biến động đa đoan không thể làm một việc một nghề suốt đời được, khi văn khi võ, khi đông khi tây, ảo tưởng nhiều, dục vọng nặng. Đồng độ với sao Thiên đồng, thì có đầu mà không có đuôi, việc nhiều mà không thể kết thúc. Có sao Hóa Kị thì sự việc không yên định, nhiều tranh chấp, cãi vã thị phi, trong sự thành công có nhiều thất bại. Gặp các sát tinh Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hình, thì trong công việc bị nhiều kiện tụng, dính dáng đến pháp luật, đấu đá tranh chấp, nghề nghiệp không ổn định, tai họa tơi bời. Có khi được tiền tài bất ngờ, song bạo phát bạo tàn, được đó mất đó, hoặc bôn ba giang hồ, bị thất bại bất ngờ, hay bị đả kích một cách đặc biệt.

10. Cự môn ở cung Điền trạch

Cự môn nhập miếu, đến cung Điền trạch, có cát diệu, lại Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng cung, chủ về tự tạo sản nghiệp. Có Thái dương đồng độ, tuy có điền sản, song vì điền sản tranh chấp ra mặt, hay ngấm ngầm đấu tranh, có nhiều điều tiếng. Có sao Thiên cơ đồng độ, lúc lên lúc xuống, dễ thành dễ bại. Đồng độ cùng sao Thiên đồng, phần nhiều vì ruộng đất thấp và sông lạch mà gây ra tranh chấp, rắc rối. Cự môn Hóa Kị thì gia trạch không yên, vì lời qua tiếng lại thị phi mà rời xa nhau, hoặc trong gia trạch lắm chuyện thị phi. Có Kình dương, Đà la, Thiên hình hội chiếu, thì chủ về vì nhà cửa đất đai mà sinh ra tranh chấp rắc rối hay liên quan đến pháp luật, hoặc người trong nhà thường hay bị hình khắc tổn thương, tai họa. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên nguyệt, Âm sát hội chiếu, thì chủ về gia trạch gặp họa binh đao, hỏa tai, cướp trộm, hoặc chủ về bản thân phải phiêu bạt tứ hải.

11. Cự môn ở cung Phúc đức

Sao Cự môn đến cung Phúc đức, chủ về người lao tâm lao lực, hao tổn tinh thần. Hóa Kị thì tâm thần bất định, mất ngủ, làm việc không có định hướng, không thể làm suốt một mạch, nửa chừng thường muốn thay đổi, hoặc nửa chừng mất đi nhiệt tình. Có Thiên cơ đồng độ thì càng nặng lòng muốn thay đổi, làm việc hay thay đổi nửa chừng, hoặc muốn làm lại từ đầu, hoặc hối tiếc, nên tinh thần không được sảng khoái, chủ người mẫn cảm. Có Thái dương đồng độ, tuy tâm chí luôn bận rộn, song có thể hưởng thụ. Chỉ khi nào đồng độ với phúc tinh Thiên đồng mà không có sát diệu, thì mới được vui vẻ, yên ổn. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ hoặc hội chiếu, thì chủ về tự tìm phiền não, ngực tức khí kết, nhiều lo nghĩ ưu phiền, nói nhiều hay gây rắc rối, không được hưởng phúc.

12. Cự môn ở cung Phụ mẫu

Sao Cự môn đến cung Phụ mẫu, tất nên làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ khắc hại hình thương. Có Thiên cơ đồng độ, tất nên làm con thừa tự của người khác, hoặc bái thêm người khác làm cha mẹ, nếu không sẽ hình khắc phân ly. Có Thái dương đồng độ thì giữa cha con có sự tranh chấp, nhiều cãi vã. Đồng độ cùng Thiên đồng, không lợi cho cha mẹ, gia sản của tổ tiên dần dần lụn bại, hoặc bị kẻ khác chiếm đoạt. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng cung, thì không hình khắc, hoặc chủ về cha mẹ giầu có, được thừa hưởng di sản. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình thương khắc hại, cha mẹ không thể đầy đủ.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Cự Môn

Những bộ phận càng đầy đặn cho thấy chủ nhân có số hưởng

Lỗ tai đầy đặn (hay phần tai “béo”, nhiều thịt) nói lên rằng bạn có số được quý nhân giúp đỡ, con đường học vấn và công việc gặp nhiều thuận lợi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không phải cái gì có dáng vẻ "màu mỡ" cũng đều xấu đâu! Theo Nhân tướng học, ai sở hữu những bộ phận này càng dày, càng phúng phính thì đảm bảo có số đại phúc đại quý nhé!

Trán đầy đặn

Bestie-tuong-co-phuc

Những người này sẽ sớm có thành tựu, thực hiện được tham vọng, có công việc và tiền bạc ổn định.

Khóe mắt nhiều thịt

Bestie-tuong-so-huong

Đây là dấu hiệu cho thấy bạn sẽ có cuộc sống hôn nhân như ý. Nữ thì có số vượng phu, nam thì lấy được vợ tốt, gia đình hạnh phúc, êm ấm.

Lông mày đầy đặn, hướng lên

Bestie-tuong-co-phuc

Biểu hiện này cho thấy bạn gặp nhiều may mắn về tài vận, thích hợp làm kinh doanh, buôn bán.

Lỗ tai

Bestie-tuong-co-phuc

Lỗ tai đầy đặn (hay phần tai “béo”, nhiều thịt) nói lên rằng bạn có số được quý nhân giúp đỡ, con đường học vấn và công việc gặp nhiều thuận lợi.

Gáy đầy đặn

Bestie-tuong-co-phuc

Đây là tướng của người đại phúc, đại quý, cả đời gặp nhiều may mắn thuận lợi. Cuộc sống luôn vui vẻ, không có gì phải lo lắng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bộ phận càng đầy đặn cho thấy chủ nhân có số hưởng

Đồi mồi - linh thú cát tường thống trị biển cả

Đồi mồi là loài vật được xưng tụng là “hoàng kim đáy biển”, có tác dụng phong thủy cực kì tốt. Cùng tìm hiểu về loài linh thú cát tường này nhé!
Đồi mồi - linh thú cát tường thống trị biển cả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đồi mồi là loài vật không mấy quen thuộc nhưng lại được xưng tụng là “hoàng kim đáy biển”, có tác dụng phong thủy cực kì tốt. Cùng tìm hiểu về loài linh thú cát tường này nhé!


Doi moi - linh thu cat tuong thong tri bien ca hinh anh 2
 
Đồi mồi là một loại động vật bò sát sinh sống tại các vùng biển nhiệt đới. Tuổi thọ của loài lên tới 1500 năm, trên lưng có 13 khối hình thù khác nhau, phân thành 3 hàng nên còn có tên gọi là “thập tam lân” hay “trường thọ quy”. Vẩy của đồi mồi rất quý hiếm, trong suốt, hoa văn rõ ràng xinh đẹp, ánh sáng nhu hòa, là một trong những vật báu hiếm có khó tìm, hàm lượng nguyên tố rất cao, là của quý nơi đại dương, rất được ưa chuộng để làm vật trang sức.   Không chỉ có giá trị về thẩm mĩ, vật chất, đồi mồi còn là linh thú cát tường, mang trong mình những biểu tượng tốt đẹp, cao quý, có lợi đối với chủ nhân. Trong quan niệm của người phương Đông, đồi mồi là biểu tượng của trường thọ, trừ tà hưởng phúc, hoàng thất quý tộc, phú hào. Nếu đeo vật phẩm phong thủy đồi mồi bên người thì tránh được sương gió phong hàn, làm thuốc có thể thanh nhiệt giải độc, đặc trị phong thấp.    Từ xưa đến nay, dân gian đều lưu truyền rộng rãi về tác dụng phong thủy của đồi mồi. Người yếu nhược, có bệnh nhẹ mà mang theo bên mình thì thân thế tốt lên, khí sắc hồng hào. Thế nên mới có câu “mang kim mang ngân không bằng mang thập tam kì lân”. 
Doi moi - linh thu cat tuong thong tri bien ca hinh anh 2
 
Đeo trang sức đồi mồi bên mình trong thời gian dài thì khí huyết tương thông, càng đeo càng ngời sáng, có thể trừ tà, điều tiết huyết áp, thông thấu khí huyết, trừ phong thấp, diều tiết nội tiết, rất có lợi cho sức khỏe, đặc biệt là người lớn tuổi. 
  Không chỉ hóa sát, vượng vận mà linh thú cát tường đồi mồi còn có tác dụng chiêu tài. Bởi đây là thần thú, tuy nhỏ bé nhưng có thể sánh ngang với đại bàng trên trời,, kỳ lân dưới đất, bên trong hung mãnh vô địch, người kinh doanh mang bên mình có thể chỉ dẫn tài lộ, tăng thêm may mắn, thu về thành công, càng đeo lâu công dụng càng phát tác, có phú quý mệnh theo đến cửa.
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Sư tử trong phong thủy Gương Bát quái và công dụng 7 lưu ý phải nhớ khi muốn thỉnh bản mệnh Phật bảo hộ bình an
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đồi mồi - linh thú cát tường thống trị biển cả

Con giáp dễ 'rước họa vào thân' trong năm 2015

Vì quá hiền lành hay vận may chưa đến mà người tuổi Sửu, Mùi, Tý dễ gặp chuyện chẳng lành trong năm nay.
Con giáp dễ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Sửu

Gặp năm Mùi, người tuổi Sửu xung phạm thái tuế, không được công thành danh toại. Hầu hết các phương diện như tình cảm, sự nghiệp, tài vận đều ở mức bình thường, thậm chí không được như ý muốn.

tuoi-suu-2725-1429628009.jpg

Trong chuyện tình cảm, con giáp này cần chủ động chia sẻ với nửa kia của mình. Tránh tình trạng vì quá bận rộn trong công việc mà không quan tâm nhiều tới đối phương, tạo điều kiện cho người thứ ba xen ngang. Người tuổi Sửu nên tránh các hạng mục kinh doanh, đầu tư mang tính ngắn hạn, thay vào đó nên tích lũy tiền bạc. Trong công việc, bạn nên tập trung làm tốt việc của mình, không nên lo việc bao đồng tránh gây rắc rối thị phi.

No2: Tuổi Mùi

Năm bản mệnh của mình, người tuổi Mùi phạm thái tuế, làm việc gì cũng gặp trở ngại hoặc không được thuận lợi. Đặc biệt về đường công danh sự nghiệp, hàng loạt khó khăn chồng chất đòi hỏi con giáp này phải có ý chí kiên định, vững vàng mới có thể vượt qua. 

mui-8064-1429628009.jpg

Tốt nhất người tuổi Mùi nên “biết thân biết phận”, học cách tích lũy tài sản cũng như kinh nghiệm sống để bứt phá khi thời cơ đến. Trong tập thế, bạn cần từ chối thẳng thắn việc theo bè theo phái, khiến kẻ tiểu nhân lợi dụng. Nếu không cẩn thận, bạn sẽ tự “rước họa vào thân” vì tính cả nể của mình.

No3: Tuổi Tý

Nửa cuối năm 2015, người tuổi Tý nên cẩn trọng trong vấn đề sức khỏe của mình. Tốt nhất bạn nên tránh xa những nơi công cộng đông người, tránh lây trọng bệnh từ người khác. Công việc và tình duyên của người tuổi Tý ở mức bình thường, không có gì đáng lo ngại. 

tuoi-ty-5307-1429628009.jpg

Ngay từ bây giờ, con giáp này cần phải lên kế hoạch ăn uống, luyện tập thể thao hợp lý để tăng cường sức khỏe, hạn chế nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm. 

Mr.Bull (theo XZW)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp dễ 'rước họa vào thân' trong năm 2015

Nôn ọe với giấc mơ thấy canh đậu hũ –

Nôn ọe là do bị bệnh thần kinh, là một loại bệnh do kích thích không tốt của tim. Lứa tuổi nào cũng có thể mắc loại bệnh này, trong đó trẻ em mắc tương đối nhiều. Có một số người bệnh trước khi mắc bệnh đều nằm mơ thấy canh đậu hũ. Nguyên nhân tâm lý
Nôn ọe với giấc mơ thấy canh đậu hũ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nôn ọe với giấc mơ thấy canh đậu hũ –

Mơ thấy chuột thường là không tốt

Chuột là loài gặm nhấm chuyên phá hoại mùa màng và reo rắc bệnh tật nên ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Nếu chuột xuất hiện trong giấc mơ thường là điềm
Mơ thấy chuột thường là không tốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Chuột là loài gặm nhấm chuyên phá hoại mùa màng và reo rắc bệnh tật nên ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Nếu chuột xuất hiện trong giấc mơ thường là điềm báo ít may mắn, đặc biệt là mơ thấy chuột cống, loài chuột sinh sống ở các cống rãnh bẩn.


Mo thay chuot thuong la khong tot hinh anh
Ảnh minh họa
Thấy bầy chuột cống trong mơ, ám chỉ những cảm giác nghi ngờ, tội lỗi và ganh tỵ thậm chí ghê sợ điều gì đó. Nếu bạn không thích một người, giấc mơ này cũng có thể mang ý nghĩa ám chỉ họ giống như con chuột.   Thấy 1 con chuột đen trong mơ, tượng trưng cho sự dối lừa và hành động vụng trộm.   Thấy 1 con chuột trắng trong mơ, nghĩa là bạn sẽ có khoảng thời gian đau buồn, bạn sẽ phải nhận sự giúp đỡ từ những người mình không thích.   Mơ thấy 1 con chuột đang cắn vào 2 bàn chân bạn, biểu tượng cho cuộc tranh giành quyết liệt mà bạn đang trải qua trong cuộc sống thực tại.
 
Chuột chũi là loài vật ăn côn trùng sống trong đất. Chúng thường đào hang vào trong lớp đất tơi xốp, ẩm ướt và đẻ con ở đó. Chuột thường bị nhiều người ghét bởi chúng là loài gây hại, thậm chí còn gieo rắc mầm bệnh.    Thấy một con chuột chũi trong mơ tượng trưng cho sự nguy hiểm và những phá hoại bất ngờ ảnh hưởng tới bản thân. Bạn đang có một âm mưu bí mật chống lại người khác hoặc ai đó đang tìm cách chống lại bạn. Ngoài ra, chuột chũi trong mơ còn là biểu tượng của những rắc rối trong tiềm thức bạn. Có thể bạn đang lo sợ một điều gì đó hoặc cảm thấy bản thân mình đang bị ai đó đe dọa...   Mơ thấy một con chuột chũi đang bò ở trên mặt hoặc thân thể bạn, ám chỉ rằng có cái gì đó đang quấy rối và làm ảnh hưởng đến danh dự của bạn. Nó cũng có tượng trưng cho việc bạn không có khả năng tạo được thiện cảm và sự tôn trọng ở người khác. 

Theo Bí ẩn điềm chiêm bao
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chuột thường là không tốt

8 loại cây nên trồng để rước may mắn và tài lộc vào nhà

Theo phong thủy, cây củ cải đỏ, kim phát tài, vạn niên thanh, lộc vừng... trồng trong nhà không chỉ tốt cho sức khỏe mà còn giúp gia chủ rước may mắn và tài lộc vào nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Cây củ cải đỏ

cu cai.
Củ cải đỏ mang lại no đủ, ấm áp may mắn
Củ cải đỏ hình tròn tượng trưng cho sự đầy đặn, no đủ. Màu đỏ tượng trưng cho sự ấm áp, may mắn. Vì thế bạn đây là loại cây bạn nên trồng trong nhà của mình, nó không chỉ giúp không gian sống của bạn có thêm sắc màu mà còn mang nhiều điều tốt lành đến cho ngôi nhà của bạn.

2. Cây phất dụ

Cây phất dụ còn có tên gọi khác là cây phát tài, theo phong thủy đây là loại cây mang lại may mắn cho gia chủ. Phất dụ có trên 20 loài, mỗi loại tượng trưng cho một sự may mắn, tài lộc riêng.


cay phat du.
Cây phất dụ
Khi trồng phất dụ bạn nên trồng hướng Đông hoặc Đông Nam trong nhà - vì khu vực này thuộc Mộc là nơi có ánh sáng thích hợp cho cây xanh tốt. Và lưu ý chỉ nên trồng một chậu nhỏ vì nếu trồng cây quá lớn sẽ ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe.

3. Cây lộc vừng

Theo quan niệm của người xưa lộc ứng với tài lộc còn vừng ứng với nhỏ nhưng nhiều. Màu đỏ của hoa lộc vừng tượng trưng cho hỷ sự. Vì thế trồng cây lộc vừng trong khuôn viên nhà, đặc biệt khi cây nở hoa đỏ rực sẽ mang lại nhiều tài lộc và niềm vui cho gia chủ. Nên trồng trước sân, ở vị trí thoáng đãng để cây có thể phát triển tốt.

lộc vừng.
Cây lộc vừng
4. Vạn niên thanh

Vạn niên thanh là loài cây có sức sống trường tồn, quanh năm lá xanh tốt nên được xem là cây cát tường. Vạn niên thanh chưng, trồng trong nhà trong các ngày lễ tết với ngụ ý mang sung túc và mọi điều tốt đẹp cho gia đình trong năm mới. Ngoài ra, vạn niên thanh được tặng, chưng trong đám cưới ngụ ý cho lời chúc như ý, trong lễ mừng thọ chúc sống lâu trường thọ.


van nien thanh.
Cây vạn niên thanh
Tuy nhiên tốt nhất bạn không nên trồng vạn niên thanh trong nhà đặc biệt là trong phòng ngủ vì cây có chất độc, nếu nhựa cây dính vào mắt sẽ gây tổn thương cho mắt, đặc biệt là trẻ nhỏ.

5. Cây kim tiền

Là loài cây cảnh thuộc họ thiên nam tinh, sống lâu, quanh năm xanh tốt, thân cây khỏe, rễ bám sâu dưới lòng đất. Cây có tuổi thọ từ 2-3 năm. Nó được xem là cây “phát”. Loại cây này giúp chiêu tài nên được dùng để làm quà tặng trong dịp lễ tết, thăng chức, khai trương. Cột thêm vào sợi chỉ đỏ lên thân cây hoặc treo vài đồng tiền vàng tượng trưng sẽ trở thành cây phát tài rất tốt cho phong thủy nhà bạn.

kim tien.
Cây kim tiền
Nên trồng cây ở hướng Đông hoặc Đông Bắc trong ngôi nhà, phòng họp, văn phòng, khách sạn… cây sẽ mang lại nhiều may mắn cho gia chủ.

6. Cây ngọc bích

Cây ngọc bích hay còn gọi là cây thường xanh, hoa đá. Theo phong thủy cây ngọc bích nếu được đặt đúng vị trí sẽ mang lại nhiều may mắn và sức khỏe cho gia đình.

ngoc bich.
Cây ngọc bích
Loại cây này không ưa nước vì thế bạn nên trồng ở những nơi thoáng mát, có đủ ánh sáng và nơi nhiệt độ thấp trong ngôi nhà.

7. Hoa đồng tiền

dồng tiền.
Hoa đồng tiền
Loài hoa này rất hữu ích nếu được trồng trong nhà, chúng sẽ giúp lọc khí benzen – loại khí có trong các loại sơn. Bên cạnh đó hoa đồng tiền còn là biểu tượng của mùa xuân, sẽ mang đến nhiều tài lộc và tiền cho gia đình.

8. Hoa cúc

hoa cúc 2.
Hoa cúc
Theo phong thủy hoa cúc là loài hoa có thể giúp ổn định phúc khí trong nhà. Vì thế bạn có thể trồng một chậu hoa cúc nhỏ hoặc thường xuyên cắm hoa cúc trong nhà sẽ mang lại nhều may mắn và vui vẻ cho gia đình. Ngoài ra nguồn năng lượng của hoa cúc còn đem lại cho gia chủ cuộc sống cân bằng, bình dị.

Yeutre.vn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 loại cây nên trồng để rước may mắn và tài lộc vào nhà

Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ –

Thiềm thừ là con vật huyền thoại cóc vàng có 3 chân, nó là biểu tượng của Thần tài, của sự may mắn về kinh doanh và tiền bạc. Bài viết sau đây nói về Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ. Truyền thuyết Cóc vàng phong thủy vốn là yêu tinh, được tiên ông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiềm thừ là con vật huyền thoại cóc vàng có 3 chân, nó là biểu tượng của Thần tài, của sự may mắn về kinh doanh và tiền bạc. Bài viết sau đây nói về Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ.

Nội dung

  • 1 Truyền thuyết
  • 2 Ý nghĩa về phong thuỷ
  • 3 Vị trí đặt Thiềm thừ
    • 3.1 Đặt ở tài vị
    • 3.2 Thiềm Thừ tránh Hỏa, cần Thủy
    • 3.3 Đặt theo loại Thiềm Thừ
    • 3.4 Đặt ở vị trí sạch sẽ, sáng sủa, có thực vật xanh
  • 4 Cách khai quang điểm nhãn cho Thiềm Thừ

Truyền thuyết

Cóc vàng phong thủy vốn là yêu tinh, được tiên ông Lưu Hải thu phục, theo tiên ông Lưu Hải để tu hành nên không làm hại nhân gian như trước, mà ngược lại dùng phép thuật của mình đi khắp nhân gian để nhả tiền giúp đỡ mọi người, để thể hiện sự phục thiện, sự cải tà quy chánh với tiên ông Lưu Hải.

Cóc vàng phong thủy thường ngậm đồng tiền cổ trong miệng, tượng trưng cho việc cóc mang tài lộc vào nhà. Người Hoa từ xưa tới nay đều tin rằng, nếu họ nhà cóc ở dưới giếng, dưới ao, hồ sau nhà bạn, thì gia đình bạn có thể tránh khỏi những nguy hiểm rình rập. Như vậy cóc biểu tượng linh thiêng trong phong thủy về tài lộc và yên lành.

Do đó, mọi người hay dùng đón Cóc tài lộc để chiêu tài, chuyển hung hóa cát trong phong thủy nhà cửa, hoặc để tặng cho bà con bạn bè thân hữu khi có dịp hỷ sự.

Nếu có dịp đi mua sắm ở khu vực chợ lớn sài gòn, bạn sẽ thấy rất nhiều gia đình người HOA, chưng hình tượng của thiềm thừ tại hai bên cửa ra vào, bàn thờ thổ thần, thần tài, hay nhiều nơi khác trong nhà để chiêu tài khí tạo may mắn trong việc kinh doanh cho gia chủ về tài lộc, công danh và sức khỏe.

Ý nghĩa về phong thuỷ

Trong phong thủy Cóc ba chân là biểu tượng rất may mắn vì nó có thể đem lại tài lộc cho gia chủ. Hình ảnh cóc ba chân ngậm tiền xu trong miệng tượng trưng cho việc cóc rước tài lộc vào nhà và được gọi là thiềm thừ.

Thiềm Thừ thông nhân tính, vì thế khi khai quang tốt nhất chỉ nên có một mình gia chủ. Thiềm Thừ sau khi được khai quang, nhìn thấy ai đầu tiên sẽ mãi mãi “phù hộ” cho người đó. Vì thế, có người dùng rất tốt nhưng đem tặng cho người khác thì lại không linh là vì lí do này.

Vị trí đặt Thiềm thừ

Đặt ở tài vị

Thiềm Thừ có quan hệ chặt chẽ tới tiền tài, không thể tách rời nên đặt ở tài vị là tốt nhất, mang tới hiệu quả chiêu tài, thúc tài lớn nhất. Căn cứ vào ngũ hành bản mệnh, bát tự của gia chủ để xác định tài vị theo phương hướng của chính rồi bày Thiềm Thừ ở đó.

Thiềm Thừ tránh Hỏa, cần Thủy

Thiềm Thừ tuy rằng đại diện cho tài vận, nhưng cũng là một loại sinh vật sống dưới nước, cần có Thủy nuôi dưỡng, nên đặt ở vị trí có Thủy vượng để thúc tài hiệu quả. Nhưng tránh đặt Thiềm Thừ đối diện bể cá hay hồ nước, vì tài hóa Thủy mà chảy đi mất. Cũng vì cần nước nên Thiềm Thừ kị Hỏa, Thủy Hỏa tương khắc sẽ phá tài vận.

Đặt theo loại Thiềm Thừ

Có hai loại là Kim Thiềm Thừ và Thiềm Thừ. Mỗi loại bày theo một phương khác nhau mới đem lại kết quả tốt. Kim Thiềm Thừ là con cóc ba chân ngậm đồng tiền trong miệng thì nên quay vào trong nhà, mang tiền về nhà. Thiềm Thừ không ngậm tiền thì nên đặt hướng ra ngoài, ngụ ý mang của vào nhà.

Đặt ở vị trí sạch sẽ, sáng sủa, có thực vật xanh

Lưu ý khi bày Thiềm Thừ là muốn phát huy tối đa công dụng phong thủy thì phải đảm bảo nơi đó sạch sẽ, thoáng đãng và có cây xanh. Thủy Mộc tương sinh, trợ lực rất lớn, cây càng xanh tốt thì tài vận của gia đình càng thịnh vượng.

Cung phựng Thiềm Thừ chỉ cần chén nước sạch, ít hoa quả là đủ. Mỗi ngày Rằm phải đổi nước, thay quả một lần.

Cách khai quang điểm nhãn cho Thiềm Thừ

1, Chon một ngày đẹp, tắm rửa sạch cho Thiềm Thừ.

2, Lấy nửa thùng nước giếng, lấy tiếp nửa thùng nước mưa.

3, Đổ vào đồ chứa đã chuẩn bị từ trước, đồ chứa đó phải sạch sẽ.

4, Đặt Thiềm Thừ vào nước ngâm 3 ngày 3 đêm.

5, Sau khi lấy ra dùng khăn bông sạch lau khô Thiềm Thừ.

6, Lấy một chút nước CHÈ vẩy vào mắt Thiềm Thừ – đây còn gọi là khai quang điểm nhãn.

7, Thiềm Thừ thông nhân tính, vì thế khi khai quang tốt nhất chỉ có mình ở đó, Thiềm Thừ sau khi khai quang người đầu tiên nó nhìn thấy là bạn sẽ mãi mãi “phù hộ“ bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ –

Phong tục Chúc tết

Tục chúc tết đầu năm là nét đẹp văn hóa người Việt, thường 3 ngày Tết mọi người gặp nhau thường chúc nhau những lời tốt đẹp.. an khang thịnh vượng, năm mới phát tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong tục Chúc tết đầu năm

Tết Nguyên đán là một dịp để cho mọi thành viên trong gia đình vui vầy sum họp. Đó là thời gian bày tỏ sự thương yêu thắm thiết và mong muốn cho mọi người được như ý.

“Mồng một là Tết nhà cha”: sáng mồng một sau khi lễ gia tiên thì cha mẹ được mời ngồi vào ghế để cho con cháu lần lượt chúc Tết. Ngày xưa họ còn được con cháu tế sống với hai lạy hai vái.

chuc tet dau nam

Đến “Mồng hai nhà mẹ″: cha mẹ và con cháu phải sang nhà ngoại để mừng tuổi chúc Tết. Cũng tuần tự những nghi thức như bên nội vậy. Sau đó thì nán lại để ăn cỗ đầu xuân nhằm thắt chặt tình cảm giữa hai gia đình.

“Mồng ba Tết thầy”: sau công ơn đấng sinh thành dưỡng dục là ơn dạy dỗ của thầy cô. Đến chúc Tết thầy cô là một phong tục nói lên tư cách đạo đức của một con người. Tóm lại, tục chúc Tết là một nét văn hoá thể hiện tình cảm sâu sắc và sự quan tâm, lòng hiếu thảo trong một thứ tự phải có của sự tồn tại và phát triển của một dân tộc.

Về chúc Tết, trong ba ngày Tết, những thân bằng quyến thuộc hoặc những người phải chịu ơn người khác thường phải đi chúc Tết và mừng tuổi gia chủ; sau đó xin lễ ở bàn thờ Tổ tiên của gia chủ. Tục này ngày nay ít còn, vì thì giờ eo hẹp, đưòng sá xa xôi cho nên đã được thay thế bằng những tâm thiệp “Chúc Mừng Năm Mới” hay “Cung Chúc Tân Xuân”. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cũng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất. Chú ý  tránh phạm tên huý gia tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc.

Chúc Tết những người trong năm cũ gặp rủi ro tai hoạ thì động viên nhau “Của đi thay người”, “Tai qua nạn khỏi”, nghĩa là ngay trong cái hoạ cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Kể cả đối với người  phạm tội vẫn với thái độ nhẹ nhàng, khoan dung. Nhưng, nhìn chung trong những ngày đầu nắm, người ta kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa. Quanh năm làm ăn vất vả; ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đậm đà ý vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn quá câu nệ, công thức ruờm rà, không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mới vui lòng, năm mới từ chối sợ bị giống cả năm.

Sau đây là những câu chúc Tết thông dụng.

Ngàn lần như ý, Vạn lần như mơ, Triệu sự bất ngờ, Tỷ lần hạnh phúc.

Tống cựu nghênh tân – Vạn sự cát tường – Toàn gia an phúc.

Tết tới tấn tài Xuân sang đắc lộc, Gia đình hạnh phúc – Vạn sự cát tường.

Đong cho đầy Hạnh phúc. Gói cho tròn Lộc tài. Giữ cho mãi An Khang. Thắt cho chặt Phú quý. Cùng chúc nhau Như ý, Hứng cho tròn An Khang, Chúc năm mới Bình An. Cả nhà đều Sung túc.

Sang năm mới chúc mọi người có một bầu trời sức khoẻ, một biển cả tình thương, một đại dương tình cảm, một điệp khúc tình yêu, một người yêu chung thủy, một tình bạn mênh mông, một gia đình thịnh vượng.

Cung Chúc Tân Xuân Phước Vĩnh cửu; Chúc Trong Gia Quyến Được An Khang; Tân Niên Lai Đáo Đa Phú Quí; Xuân Đến An Khang Vạn Thọ Tường.

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua.
Phúc lộc đưa nhau đến từng nhà.
Vài lời cung chúc tân niên mới.
Vạn sự an khang vạn sự lành

Năm mới chúc nhau sức khỏe nhiều.
Bạc tiền rủng rỉnh thoải mái tiêu.
Gia đình hạnh phúc bè bạn quý.
Thanh thản vui chơi mọi buổi chiều.

Đầu xuân năm mới chúc BÌNH AN,
Chúc luôn TUỔI TRẺ chúc AN KHANG.
Chúc sang năm mới nhiều TÀI LỘC,
Công thành danh toại chúc VINH QUANG.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong tục Chúc tết

Nồi cơm điện có mối quan hệ gì với phong thuỷ? –

Với một cuộc sống công nghiệp, thời gian dành cho người thân và bạn bè ngày càng ít, để rút ngắn khoảng cách ấy, con người đã phát minh ra rất nhiều thứ như: điện thoại, internet, máy bay... Trong ố đó, có một thứ mà các bà nội trợ hoan nghênh nhất,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với một cuộc sống công nghiệp, thời gian dành cho người thân và bạn bè ngày càng ít, để rút ngắn khoảng cách ấy, con người đã phát minh ra rất nhiều thứ như: điện thoại, internet, máy bay… Trong ố đó, có một thứ mà các bà nội trợ hoan nghênh nhất, đó là nồi cơm điện. Dù có bận công việc đến đâu, với chiếc nồi nhỏ xinh, bạn có thể nấu được một nồi cơm ngon nhờ thao tác cực kỳ ngắn gọn là cho gạo, nước vào và cắm điện là xong.

noi-com-dien-blacker brc_08dhg (4)

Ngoài tác dụng mang lại cho bạn một bữa cơm ngon, ít ai biết rằng nồi cơm điện cũng ảnh hưởng đến từ trường trong nhà và ảnh hưởng đến hung cát của phong thuỷ ngôi nhà. Phong thuỷ cho rằng, để nồi cơm điện vào chỗ có lưu niên vượng nhất có thể thúc đẩy được cát tinh khí trường. Vì vậy, cách tốt nhất là đặt vị trí của nồi cơm điện ở vị trí thuộc mệnh của chủ nhà. Nếu người chủ là nam muôn tăng tính Hoả thì để ở hướng Tây Bắc, người chủ là nữ thì để ở hướng Tây Nam, con trai cả thì để ở hướng Đông, con gái cả thì để ở hướng Đông Nam.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nồi cơm điện có mối quan hệ gì với phong thuỷ? –

ĐỊA THẾ PHONG THỦY

Địa hình, địa thế khu đất ở và những ảnh hưởng đối với nhà ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa thế và địa điền

Địa hình là hình dạng khu đất. Địa hình khu thổ cư có thể có ranh giới cong quẹo, có thế vuông văn lại cũng có thể hai bề rộng hoặc hai bề dài không bằng nhau. Ranh giới ngay ngắn khiến khu thổ có hình vuông hay hình chữ nhật thì rất tốt. Ranh giới ngay ngắn khiến cho cả khu thổ cư có một đầu lớn và một đầu nhỏ thì xấu. Đầu trước nhà nhỏ hơn phía sau thì lúc đầu trạch chủ chịu nhiều gian nan hay không thuận lợi, nhưng về sau càng hanh thông hơn. Nếu thế đất phía trước rộng, phía sau hẹp thì sự sinh hoạt của trạch chủ dẫu cho lúc trước phát đạt, lâu dần phải suy tàn. Vì vậy người ta ít chuộng thế đất “Đầu voi đuôi chuột” này. Thế đất tốt là thế đất đúng cách, giúp làm ăn thuận lợi. Thế đất xấu thì ngược lại. Dĩ nhiên còn nhiều các yếu tố khác thuộc nhân sự, chứ chẳng phải chỉ có địa thế phong thủy và địa cuộc riêng đủ năng lực giúp người nên cửa nên nhà, chớ nên mê tín để mua lấy tiếng cười miệng thế.

Địa thế phong thủy 

(1,2,3 Đất dạng hình vuông, hình chữ nhật -  cát.

4 Đất mở rộng về phía sau - cát.

5, 6 Đất hẹp phía sau, đất hình tam giác - hung ).

Đại điện là mặt đất. Bề mặt khu thổ cư bằng phẳng là tốt, nếu chỗ bị khuyết hõm, chỗ lại mô, gò là xấu. Tính theo cửa lớn, những xấu hại như sau:

Nền nhà cửa Càn (Tây Bắc) mà khuyết cung Ly (chính Nam) thì con gái thứ có nhiều hành vi mờ ám, mông muội.

Nhà cửa Khảm (chính Bắc) mà nền nhà khuyết phía cung Tốn (Đông Nam) thì thứ nam èo uột khó nuôi, nhiều bệnh, tệ hơn là mất sớm.

Nhà cửa Cấn (Đông Bắc) mà nền nhà khuyết cung Khôn (Tây Nam): Trưởng tử không con.

Nhà của Chấn (chính Đông), rìa quanh nền nhà, tức là bìa bên thềm mà khuyết lõm phía cung Càn (Tây Bắc) thì trưởng tử ít bộc lộ tâm tư, hay giấu nhẹm hành động của mình.

Nhà cửa Tốn (Đông Nam), khuyết ở bìa nền hướng Chấn (Chính Đông): Trưởng tử chết non.

Nhà cửa Ly, khuyết bìa bên hướng Càn: Trưởng tử không có con kế tự.

Nhà cửa Khôn, khuyết ở bìa nền hướng Cấn: Con trai thứ mất sớm từ nhỏ.

Nhà cửa Đoài, chung quanh bề nền nhà lồi lõm cùng khắp thì chủ nhà bại thoái.

Nhà cửa Khảm bìa nền nhà cao đầy ở cung Càn thì đàn ông lớn tuổi rất mê đắm tửu sắc.

Gần sông, gần đường đi.

Mặt tiền nhà hướng ra sông, nếu gần sông, hay hướng ra đường, nếu gần đường là đúng cách.

Có sách nói nhà có ba mặt nước đổ dồn lại tất đại phát. Kinh nghiệm của tôi sau khi nghe lời truyền dạy của cha ông thì hoàn toàn ngược lại: Đại phát đâu chưa biết, chỉ thấy có nước lênh láng mỗi khi trời mưa, gia cảnh thật khó ngóc đầu lên được. Lý do cha ông tôi chê địa thế này vì “ nước mọi nơi đổ dồn về, đạp trôi hết tiền của”.

Tổ phụ tôi cũng chê địa thế “đầu ghềnh, cuối bãi”. Không biết có phải vì mỗi khi thủy triều xuống sẽ cuốn theo hết cả sự cần lao trong nhà, lại phải chịu áp lực nặng nề mỗi khi thủy triều thủy triều lên. Tôi chỉ thấy quả thực những ngôi nhà đầu ghềnh cuối bãi, đầu doi cuối vịnh, chưa có ngôi nhà nào có hoàn cảnh khả quan.

Nếu nhà ở gần sông, suối, chẳng khác nào đánh trận theo thế “thủy bối”, dựa lưng vào sông, biển, một thế trận quyết tử, không thắng tất chết. Nỗ lực của các tướng sỹ thường có hạn, nhà ở thì có tính chất bền vững lâu đời. Đời người lúc thịnh lúc suy, sức người có khi mạnh khi yếu, những lúc suy yếu thì lấy gì chống đỡ với hoàn cảnh theo thế thủy bối. Chắc chắn cơ nghiệp sẽ theo dòng nước cuốn trôi!

   Địa thế phong thủy

 Nhà dựa lưng về sông

Xem hướng nhà phù hợp với tuổi của gia chủ

Còn nhà xoay lưng ra đường chẳng khác gì người ngoảnh mặt lại với thế cục, mà cuộc đời là trường tranh đấu. Đâu có cái thế tranh đấu mà ngoảnh mặt? Vậy nhà quay lưng ra đường nói lên hành động “ngã nón chào thua” của trạch chủ.

Sông và đường cái, đường công cộng, không phải lúc nào cũng ngay thẳng, lúc thì cong bên trái, lúc thì quẹo bên phải. Nếu đường hay sông uốn qua trên trái, chỗ cong bên phải tạm gọi là góc bẹt, chỗ cong bên trái tạm gọi là góc nhọn: nhà cất ở góc bẹt thì đắc cách, nhà cất bên góc nhọn là bại cách. Nếu đường hay sông lượn qua bên phải: nhà cất ở góc bẹt là đắc cách, cất ở góc nhọn là bại cách.

Địa thế phong thủy

(Đường hình cung, ôm nhà như chiếc đai ngọc)

Lý do là chỗ uốn khúc của đường hoặc sông có hai lực khác nhau: lực bên góc bẹt thoáng hơn vì tỏa ra, lực bên góc nhọn quần lại, tù hãm hơn.

Đường cái hay đường hẻm mà đâm thẳng vào cửa nhà, dù là đã ngăn cách bằng một con đường hay một con sông cũng là điều đại kỵ: vì đây là thế xuyên tâm sát, gia chủ không chết bất ngờ thì cũng khó cất đầu lên nổi. Cái lực ấy nếu chỉ đâm vào một phần của mặt tiền nhà cũng coi là bất lợi, dù kém trường hợp đâm thẳng vào cửa cái.

Địa thế phong thủy

 Đường đâm thẳng trực xung với nhà (Thương sát)

Tiền đề hậu cao và thế tiền cao hậu đề.

Cũng đòng thời quay mặt ra đường, nhưng cả dãy nhà ở bên này lô lại có sự phát triển không giống dãy nhà ở bên kia lộ, vì nhà ở một bên lộ mà dựa lưng vào đồi cao chẳng hạn, còn nhà bên kia lộ xoay lưng xuống ruộng thấp. Con đường lúc đó trở thành cái bờ đê ngăn lưng chừng cửa của những ngôi nhà bên phía khu ruộng thấp. Đó là sự khác biệt giữa hai địa thế tiền đê, hậu cao (trước nhà thấp sau nhà đất cao hơn). Thế tiền đê hậu cao là thuận cách, giúp đem lại sự thịnh đạt. Thế tiền cao hậu đê là phá cách, đem lại sự âm trầm và suy bại. Địa thế của cách tiền đê, hậu cao còn giúp cho con cái trong nhà nối truyền được chí khí trượng phu, quân tử.

Địa thế có núi cao.

Phía sau nhà đất cao hơn thế đất trước nhà: Tốt đẹp, như người nằm có gối kê đầu. Vậy nhà gần núi buộc phải dựa lưng vào núi. Nếu xoay mặt tiền về hương núi, bấy giờ nhà như bị treo ngược, cái lực từ núi đổ, gây sức ép nặng nề cho nhà. Chiến trận mà đặt vào thế đất quải địa (thế đất treo ngược) như vậy tất quân tan, tướng chết. Hệ luận của cách này là không nên chơi non bộ cao  quá 1m 20 trước mặt tiền nhà, khi đặt non bộ có tầm vóc đồ sộ như vậy không khác gì núi thật.

Đường trong khuôn viên thổ cư.

Trước đây có phong tục: ai có việc muốn băng qua sân nhà người khác đều phải xin phép chủ nhân ngôi nhà. Cố nhiên những người hỏi này không phải là những người hàng xóm hay những người thân cận. Sở dĩ phải có lời xin phép vì sân nhà người ta không phải là lối đi, không phải là thông hành đại dịch cho bất cứ ai, không bao giờ làm lối đi ngang qua trước của nhà, trước mặt tiền nhà cũng không làm lối đi từ cửa thẳng ra đường, khiến cho có cái lực ngược lại từ đường đâm vào cửa, dễ dẫn đến tai họa diệt nhân đinh, vô nhân kế tự. Làm lối đi xa cửa hay tránh né một bên cửa thì vô hại. Xa hay gần tùy địa thế.

Làm đường đi sau nhà thì nên đề phòng trộm cắp, nhưng tiêu hao tiền bạc vì những lú do khác thì không biết đâu mà tiên liệu. Tốt hơn là chớ làm đường xe ở phía sau nhà, làm ở bên hông nhà thì được.

Tuy nhiên, làm đường bên trái của hông nhà không thuận tiện bằng làm đường bên phía phải hông nhà. Bên trái hay bên phải của hông nhà là tính theo hướng từ trong nhà nhìn về phía trước, chứ không phải từ nhà nhìn vào. Bên trái nhà ứng với Thanh long thuộc Mộc cần tĩnh, nên trồng nhiều cây cối, hoa cảnh. Bên phải nhà là hướng Bạch hổ, cần sinh động, nên mới làm đường đi (Chấn, Mộc, Thanh long; Đoài, Kim, Bạch hổ).

Chớ khai đường mương dẫn nước, đường thoát nước, ao hồ, rãnh nước, ở ngay phía trước nhà, trước nhà bếp, trước miệng hỏa lò (hỏa môn). Phạm vào điều này: Tiền tài thoái tán, người trong nhà giảm dần, gia đạo suy vi dẫn đến tuyệt tự. Nếu không phải tư gia mà là công sở, cơ quan công quyền mà phạm điều này thì nhân dân trăm họ trong vùng khốn khổ, xiêu tán, là đền chù thì đồ đạc sinh tâm phản phúc, lụn bại đến không còn hương khói, là nhà máy, công xưởng thì dẫn đến cảnh hoang tàn, đổ nát.

Đình chùa, mồ mả.

Nhà cất trước cửa miếu, chùa, đình thần: Xấu nếu xây dựng chỉ là ở một bên, nhà ở bên phía phải của đình chùa được thuận thế hơn những nhà cất bên phí trái. Phải hay trái là tính từ trong miếu, chùa nhìn ra phía trước.

Nhà ở phía sau mồ mả: tốt, nhất là những người có quan chức.

Nhà cất phía trước mồ mả: bại vong.

Nhà ở chẳng nên đối diện với tượng đài, bia tưởng niệm lộ thiên, dù gì đó cũng có hình tượng của anh hùng nghĩa sỹ trên thế gian, hay những bậc thần thông quảng đại như Thánh thần, Tiên, Phật. Kiêng như vậy để tránh những áp lực từ những nơi này đưa vào nhà.

Đó là mối liên hệ của nhà ở với đình, chùa, mồ mả, tưởng cũng nên nói tới mối quan hệ giữa mồ mả và đình chùa.

Mồ mả của người dân phải chôn cách đình, chùa ít nhất là 50m. Phạm điều này vong nhân khó siêu thoát. Quyến thuộc của vong nhân muốn táng xác gần đền chùa để người quá cố được nghe sư tăng tụng niệm kinh điển. Quan niệm này trái với chính pháp của Phật môn, chẳng giúp ích gì được cho vong nhân.

Mồ mả của tăng ni trong chùa chỉ được an táng và xây tháp sau chùa Tổ, nơi Đức Đông Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Dù bậc cao tăng đắc đạo cũng không được phép xây ngang tháp với Chùa Tổ. Phạm vào điều này: mắc tội kiêu mạn. Hai điều kể trên mà không được tôn trọng: Ngôi tam bảo dần dà đi đến chõ khói lạnh hương tàn.

Những tu tạo phụ.

Trước cửa nhà có xây lập, chất chồng những hòn đá màu hồng, đỏ và đen: gọi là nhà lửa (hỏa ốc), chắc phải gặp hỏa tai, nhất là ngôi nhà phạm ngũ quỷ(Liêm trinh – Hỏa) thì tai họa máu, lửa thật khó thoát.

Cây đòn dông của nhà khác đâm thẳng vào mặt tiền nhà mình dù cách con đường hay một con sông chắn ngang cũng là điều tối kỵ. Tác hại của nó chính là sự bất an như tai nạn, đau bệnh, quan tụng, xào xáo trong nhà mà bị cây đòn dông này đâm thẳng vào mặt tiền, nếu đâm thẳng vào cửa cái còn nguy hại cho trạch chủ nữa. Nó giống như cây phương thiên họa kích của Lã Bố đâm thẳng vào yết hầu Đổng Trác. Nhà bị thế đòn dông đâm, nếu không tổn hại sinh mạng, suy bại về tài sản, sức khỏe, rốt cuộc sẽ tàn lụi.

Hai bên nhà chính, lại lập thêm nhà hướng phụ vào nhà chính, thì kho lẫm suy hao.

Phía sau nhà chính, lại xậy thêm nhà hướng thẳng vào nhà chính, là “thế trực xạ”, như vậy gây bất lợi cho thân mạng của trạch chủ.

Phần bên tay phải của phía sau nhà (thuộc Bạch hổ, nhưng ở nửa phần sau của ngôi nhà), nếu lập thêm một ngôi nhà ngang ở cung Tị (thuộc sơn hướng Thìn, Tốn, Tị), thì trong nhà sẽ có người chết vì tự vẫn.

Phần bên tay trái ở phía sau ngôi nhà (thuộc Thanh long, nhưng ở phía sau), nếu có thêm một gian nhà ngang thì ở trong sẽ có người chết vì tai nạn sông nước.

Phía trước nhà, lại xây thêm một ngôi nhà nhỏ hướng vào thẳng cửa thì nhà sẽ sản sinh ra con cháu ngỗ ngược, bất hiếu.

Quanh nhà có giếng và ao, tối kỵ hướng Tây (cung Đoài) vì cung Đoài tượng trưng cho ao đầm, nay lại còn thêm ao, giếng thì thủy qua đa, thủy là sao Văn khúc, là dâm tinh, rất bất lợi cho con gái (Đoài chỉ thiếu nữ).

Đào hầm hố (chữ Hán là Khanh) quanh nhà cũng cần lưu ý, nếu đào tại cung càn đàn ông lớn tuổi trong nhà mang tai tiếng, họa hoạn, tại cung Khảm, con cái chết yểu, tại cung Cấn chẳng phát văn tài mà con mang bệnh tật, tại cung Khôn tổn hại cho người đàn bà lớn tuổ trong nhà, tại cung Đoài con gái út mang bệnh.

Cầu tiêu không làm gần giếng đã đành, nhưng cũng không được xây ngay trước mặt tiền của ngôi nhà, khiến chiêu lấy những xấu xa, quái dị, đảo lộn lẽ luân thường. Các sơn hướng sau đây có thể dùng làm nhà cầu: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý và Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Cần tránh các sơn hướng: Càn, Khô, Tốn, Cấn, Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Dần, Thân, Tị, Hợi.

Cầu tiêu, nhà tắm, chuồng gia súc, trên nguyên tắc phải ở phương vị hung để trấn áp bớt hung sát, nguy hại. Lập các nơi uế trược còn phải phụ thuộc vị trí của ngôi nhà, nên thực tế rất khó áp dụng các sơn hướng trên. Cốt yếu là dùng nó để trấn áp các hướng xấu.

(Trích trong Dương cơ chứng giải – Lộc Dã Phu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: ĐỊA THẾ PHONG THỦY

Huyền thoại về đất phát công hầu đế vương của nước Việt

Đất Việt quả thật là nhiều quý địa. Chỉ tính từ Ninh Bình trở ra mà đã có tới 27 ngôi đất kết Đế vương, hơn 2000 ngôi kết công hầu khanh tướng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đất Việt quả thật là nhiều quý địa. Chỉ tính từ Ninh Bình trở ra mà đã có tới 27 ngôi đất kết Đế vương, hơn 2000 ngôi kết công hầu khanh tướng. Ngày nay lãnh thổ nước ta đã vượt qua Ninh Bình rất xa vào phía Nam với một đại cán long nữa là dãy Trường Sơn thì hẳn là phải thêm hàng ngàn ngôi đất quý nữa. Mặc dù bị Cao Biền trấn yểm, khắp nước Việt Nam vẫn còn hàng ngàn ngôi đất kết phát có thể sản sinh ra nhân tài anh kiệt xuất chúng.

Đất kết là khái niệm để chỉ nơi có sinh khí tụ lại trong khoa phong thủy. Người xưa quan niệm ở những nơi có đất kết, nếu đặt tro cốt của ông bà, tổ tiên xuống đó thì do tú khí của đất đai, tro cốt sẽ lâu mục nát, do đó sẽ phát phúc cho con cháu.

nui-tan-vien

Mức độ kết phát của đất tới đâu lại tùy thuộc vào các yếu tố tổng thể của cả cuộc đất. Có đất phát giàu có tiền tài, có đất phát quan tước công hầu khanh tướng và cao nhất là đất phát vương giả. Trong phần địa đạo diễn ca, cụ Tả Ao – người được xem là thánh địa lý của Việt Nam mô tả về huyệt đất phát quan:

"Muốn cho con cháu nên quan

Thì tìm Thiên mã phương Nam ứng chầu

Muốn cho kế thế công hầu

Thì tìm chiêng trống dàn chầu hai bên"

Còn đất phát đến vương giả thì cụ nói:

“Ngũ tinh cách tú chiều nguyên

Kim Mộc Thủy Hỏa bốn bên loan hoàn

Thổ tinh kết huyệt trung ương

Ấy đất sinh Thánh sinh Vương đời đời”

Là mảnh đất phát tích của khoa Địa lý Phong thủy, các vua chúa Trung Quốc rất trọng vọng khoa này. Lý luận phong thủy được họ đem áp dụng cả vào trong việc ngoại trị. Một trong những ví dụ điển hình là việc vua Đường sai Cao Biền sang trấn yểm các long mạch của nước ta.

Ngược dòng lịch sử, nước Việt ta từ đầu công nguyên cho đến đầu thế kỷ 10 nằm dưới ách đô hộ của người Hán. Thời bấy giờ Trung Quốc chia nước ta thành quận huyện và phái quan lại người Hán sang cai trị. Tuy nhiên, người Việt ta không chịu khuất phục mà luôn luôn tìm cách nổi dậy giành độc lập.

Vua chúa Trung Quốc tin rằng sở dĩ người Việt không chịu khuất phục mà liên tiếp nổi dậy là vì đất nước ta có nhiều huyệt đất kết nên sinh ra nhiều anh hùng. Để triệt tận gốc mầm mống chống đối, các triều đình Trung Quốc đã nghĩ đến chuyện triệt âm phần bằng khoa Địa lý Phong thủy. Đó chính là sứ mệnh mà Đường Trung Tông giao phó cho Cao Biền khi phái ông này sang làm quan cai trị ở bên nước ta.

Nội dung sự việc được tập Phong thủy địa lý Tả Ao – Địa lý vi sư pháp của Vương Thị Nhị Mười nói chi tiết: “Thời vua Đường Trung Tông đổi tên nước ta là An Nam đô hộ phủ và phong Cao Biền làm An Nam đô hộ sứ sang cai trị.

Trước khi Cao Biền sang nhậm chức, nhà vua cho triệu vào ngự điện và nói: Khanh học địa lý tối vi tinh diệu, trẫm nghe An Nam có nhiều quý địa, kết phát tới Thiên tử, sản xuất ra nhiều nhân tài, anh kiệt nên luôn luôn nổi lên chống đối. Qua đó khanh nên tường suy phong thủy, kiến lãm sơn xuyên và làm tờ biểu tấu kèm theo lời diễn ca các kiểu đất bên An Nam gửi ngay về cho trấm xem trước rồi ở bên đó khanh đem tài kinh luân, đoạt thần công, cải thiên mệnh, trấn áp các kiểu đất lớn đi, đó là cách nhổ cỏ thì nhổ cả gốc, để tránh hậu hoạn sau này”.

Cao Biền nhận lệnh sang nước ta liền tập trung đi xem xét các cuộc đất lớn nhỏ. Dân gian nói rằng Cao Biền ngày ngày cưỡi chim thần đi xem xét phong thủy, tài liệu nói trên của Vương Thị Nhị Mười thì nói Cao Biền dùng gỗ chế một cái diều rồi ngồi lên. Nhìn chung đó chỉ là những chi tiết làm tăng thêm sự thần bí cho nhân vật Cao Biền.

Tuy nhiên việc Cao Biền nhận lệnh trấn yểm phong thủy nước ta là có thật. Nó thể hiện qua một tập sách mang tên “Cao Biền địa lý tấu thư kiểu tự”. Tập sách này, theo như tài liệu của Vương Thị Nhị Mười đã nói ở trên thì năm 1427 Lê Lợi công phá thành Đông Quan bắt được Hoàng Phúc – Thượng thư bộ Công của nhà Minh nên thu được.

Sở dĩ Hoàng Phúc có nó là do vua Minh trao cho Y với nhiệm vụ xét duyệt lại xem còn huyệt lớn nào mà Cao Biền chưa yểm thì yểm nốt. Âm mưu của nhà Minh là hòng làm cho Đại Việt không thể nào sản sinh ra được những thế hệ như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo – những anh hùng đã gây khó khăn cho họ thời trước, để Đại Việt lại quay về thời là quận huyện của Tàu như mấy trăm năm trước.

Tập Cao Biền địa lý tấu thư kiểu tự này nói đến 632 huyệt chính cùng 1517 huyệt bàng từ Ninh Bình trở ra (thời Đường, lãnh thổ nước ta chỉ mới vào đến khu vực này). Những kiểu đất này đều là đất phát nhân tài anh kiệt, văn thì đến Tam khôi Trạng Nguyên, võ thì đến Quận công danh tướng… Tổng cộng là hơn 2000 ngôi đất quý.

Ngoài tập Cao Biền địa lý tấu thư kiểu tự, Cao Biền còn một bản tấu nữa về phong thủy là Cao Biền tấu thư cửu long kinh. Bản tấu này đề cập đến 27 ngôi đại địa có thể phát đến đế vương ở nước ta. Trong 27 ngôi đất này có những ngôi đã kết phát rực rỡ như ngôi đất ở Tức Mặc – Nam Định đã tạo nên một Trần triều hiển hách võ công hay ngôi đất ở Cổ Pháp kết phát ra triều Lý.

Về nhiệm vụ trấn yểm các mạch, dân gian còn lưu truyền nhiều câu chuyện. Trong đó có chuyện Cao Biền yểm thành Đại La và yểm thánh Tản Viên. Cả hai lần Cao Biền đều thất bại. Đối với các huyệt nhỏ chỉ phát công hầu khanh tướng không thấy tài liệu nào hay truyền thuyết nào nói Cao Biền có trấn yểm. Tuy nhiên, theo thiển ý của tác giả với số lượng quá lớn mà thời gian trị nhậm của Cao Biền chỉ trong quãng chục năm lại còn bận bịu việc quan lại chính trị thì sao có thể yểm hết được.

Qua đó ta thấy đất Việt quả thật là nhiều quý địa. Chỉ tính từ Ninh Bình trở ra mà đã có tới 27 ngôi đất kết Đế vương, hơn 2000 ngôi kết công hầu khanh tướng. Ngày nay lãnh thổ nước ta đã vượt qua Ninh Bình rất xa vào phía Nam với một đại cán long nữa là dãy Trường Sơn thì hẳn là phải thêm hàng ngàn ngôi đất quý nữa.

Các nhà địa lý có quyền nói rằng nhờ vào những quý địa đó mà sản sinh ra các anh hùng hào kiệt để dựng nước và giữ nước suốt chiều dài mấy ngàn năm lịch sử.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Huyền thoại về đất phát công hầu đế vương của nước Việt

Tam hợp - Tứ hành xung là gì? - Xem tuổi - Xem Tử Vi

Tam hợp - Tứ hành xung là gì?, Xem tuổi, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tam hợp - Tứ hành xung là gì?, tu vi Tam hợp - Tứ hành xung là gì?, tu vi Xem tuổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tam hợp - Tứ hành xung là gì?

Thông thường người này hạp tuổi người kia hoặc người này kỵ tuổi này người kia kỵ tuổi kia v.v… dựa trên 12 con giáp: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi gọi là Tam Hạp và Tứ Hành Xung.

 Theo cách hình học thì nếu như đem 12 con giáp này chia đều nhau trên một hình tròn thứ tự như dưới thì tà sẽ có 4 tam giác cân và 3 hình chữ thập:

Trong đó 4 tam giác cân được tượng trưng cho 4 bộ Tam-Hạp: các tuổi cách nhau 4, 8, 12, 16, 20, … tuổi

 * Tỵ – Dậu – Sửu (tạo thành Kim cuộc)

* Thân – Tý – Thìn (tạo thành Thủy cuộc)

* Dần – Ngọ – Tuất

* Hợi – Mẹo – Mùi (tạo thành Mộc cuộc)

 Và 3 hình chữ thập tượng trưng cho 3 bộ Tứ-Hành-Xung: các tuổi cách nhau 3, 6, 9, 12, 15, 18, 21 …. tuổi

 * Dần – Thân – Tỵ – Hợi

* Thìn – Tuất – Sửu – Mùi

* Tý – Ngọ – Mẹo – Dậu

 Mỗi cụm tứ xung , nếu xét kỹ sẽ thấy:

 1 – Tý và Ngọ khắc kị , chống đôi nhau mạnh. Còn Mẹo và Dậu cũng vậy. Nhưng Tý và Mẹo hay Dậu chỉ xung nhau chớ không khắc mạnh. Ngọ với Mẹo hay Dậu cũng xung nhau chứ không khắc chế.

 2 – Thìn khắc chế và kị Tuất. Sửu khắc chế Mùi. Còn Thìn chỉ xung với Sửu, Mùi. Tuất chỉ xung với Sửu và Mùi.

 3 – Dần khắc chế Thân. Tỵ khắc chế Hợi. Dần xung với Hợi . Thân cũng vậy .

 Ngoài ra lưu ý Tứ hành xung lục hại (tuổi khắc):

 1 – Mùi – Tý gặp nhau lắm tai họa

 2 – Ngọ – Sửu đối sợ không may

 3 – Tỵ – Dần tương hội thêm đau đớn

 4 – Thân – Hợi xuyên nhau thật đắng cay

 5 – Mão – Thìn gặp nhau càng khổ não

 6 – Dậu – Tuất nọ trông lắm bi ai

 Thuyết âm dương ngũ hành

 Âm dương:

 Âm dương không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà thuộc tính của mọi hiên tượng mọi sự vật, trong toàn thể vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết.

 Âm dương là hai mặt đối lập: Mâu thuẫn – Thống nhất, chuyển hoá lẫn nhau, dựa vào nhau mà tồn tại, cùng triệt tiêu thay thế nhau. Trong dương có mầm mống của âm, ngược lại trong âm có mầm mống của dương. Trong tất cả các yếu tố không gian, thời gian, vật chất ý thức đều có âm dương. Âm dương không những thể hiện trong thế giới hữu hình kể cả vi mô và vĩ mô mà còn thể hiện cả trong thế giới vô hình, hay gọi là thế giới tâm linh như tư duy, cảm giác, tâm hồn …từ hiện tượng đến bản thể..

 Ngũ hành:

 Có 5 hành: Hoả (lửa), Thổ (Đất), Kim (Kim loại), Thuỷ (nước, chất lỏng). Mộc (cây cỏ). Theo quan niệm cổ xưa thì mọi vật chất trong vũ trụ đầu tiên do 5 hành đó tạo nên.

 Ngũ hành có quy luật sinh, khắc chế hoá lẫn nhau. Để bạn đọc dễ hiểu, dễ nhớ chúng tôi xin trình bày luật tương sinh, tương khắc dưới dạng mấy câu ca dao sau:

 Ngũ hành sinh:

 Ngũ hành sinh thuộc lẽ thiên nhiên:

 Nhờ nước cây xanh mới mọc lên (Thuỷ sinh mộc- màu xanh)

 Cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ (Mộc sinh hoả- màu đỏ)

 Tro tàn tích lại đất vàng thêm (Hoả sinh thổ: Màu vàng)

 Lòng đất tạo nên kim loại trắng ( Thổ sinh kim: màu trắng)

 Kim loại vào lò chảy nước đen (Kim sinh thuỷ- màu đen)

 Ngũ hành tương khắc:

 Rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dày ( Mộc khắc thổ: Tụ thắng tán)

 Đất đắp đê cao ngăn lũ nước (Thổ khắc Thuỷ: Thực thắng hư)

 Nước dội nhanh nhiều tắt lửa ngay (Thuỷ khắc hoả: chúng thắng quả, nhiều thắng ít)

 Lửa lò nung chảy đồng, chì, thép (Hoả khắc kim: Tinh thắng kiên)

 Thép cứng rèn dao chặt cỏ cây ( Kim khắc mộc: cương thắng nhu).

 Ngũ hành chế hoá:

 Chế hoá là ức chế và sinh hoá phối hợp nhau. Chế hoá gắn liền cả tương sinh và tương khắc. Luật tạo hoá là: mọi vật có sinh phải có khắc, có khắc sinh, mới vận hành liên tục, tương phản tương thành với nhau.

 Mộc khắc Thổ thì con của Thổ là Kim lại khắc Mộc

 Hoả khắc Kim thì con của Kim là Thuỷ lại khắc Hoả

 Thổ khắc Thuỷ thì con của Thuỷ là Mộc lại khắc Thổ

 Kim khắc Mộc thì con của mộc là Hoả lại khắc Kim

 Thuỷ khắc Hoả thì con của Hoả là Thổ lại khắc Thuỷ

 Nếu có hiên tượng sinh khắc thái quá không đủ, mất sự cân bằng, thì sẽ xảy ra biến hoá khác thường. luật chế hoá duy trì sự cân bằng: bản thân cái bị khắc cũng chứa đựng nhân tố (tức là con nó) để chống lại cái khắc nó.

tam hop - tu hanh xung, xem tuoi
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tam hợp - Tứ hành xung là gì? - Xem tuổi - Xem Tử Vi

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd