Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Nhìn cằm phán tính cách của bạn

Chọn hình ảnh có chiếc cằm gần giống với cằm của bạn nhất. Bấm vào hình để xem đáp án!
Nhìn cằm phán tính cách của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhin-cam-phan-tinh-cach-cua-ban nhin-cam-phan-tinh-cach-cua-ban-1
Cằm ngắn và hẹp Cằm tròn
nhin-cam-phan-tinh-cach-cua-ban-2 nhin-cam-phan-tinh-cach-cua-ban-3
Cằm dài Cằm chẻ
nhin-cam-phan-tinh-cach-cua-ban-4 nhin-cam-phan-tinh-cach-cua-ban-5
Cằm nhô Cằm thụt

Alexandra V (theo vonvon)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn cằm phán tính cách của bạn

Thử bàn tướng mạo qua Tử vi

Theo dõi giai phẩm KHHB từ số đầu tiền đến nay tôi cảm thấyhứng thú vô cùng, vì không những tôi đã được học hỏi được nhiều điều mới lạ,nhất là về khoa Tử vi mà lại còn tìm ra được phương thức cho riêng mình để traudồi tích cực về Tử vi. Vì vây, để gián tiếp bày tỏ cảm tình của tôi đối vớigiai phẩm KHHB, tôi mạo muộn đem hết khả năng giới hạn của mình để trình bàyvới quý bạn một ít điều tôi đã học hỏi và ghi nhớ được, với hy vọng những bàicủa tôi được đăng và giúp ích được phần nào cho các bạn chưa có vốn liếng gì vềTử vi. Tôi cũng xin các bậc đàn anh trong KHHB khoan dung cho sự liều lĩnh củatôi khi xin đăng bài này.
Thử bàn tướng mạo qua Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Sở dĩ bài đầu tiên của tôi bàn về tướng mạo vì một lý do giản dị : Hồi tôi mới lập gia đình tôi có đi coi một thầy Tử vi ở Sài gòn. Khi đoán đến cung Thê của tôi, thầy đó tả hình dáng của vợ tôi đúng y như thầy ta thấy vợ tôi trước mặt (lẽ dĩ nhiên hôm đó tôi đi một mình). Vì vậy tôi lấy làm thích thú quá và từ đó hết sức lưu tâm vấn đề tướng mạo qua Tử vi. Bây giờ xin quý vị đọc qua những điều tôi ghi chú và chiêm nghiệm được. Đương nhiên những điều này rất sơ đẳng và không chính xác hoàn toàn được vì ai đã học Tử vi đều hiểu rằng khoa học này rất linh động và uyển chuyển.

Tử Vi cư Tý
Tôi cần nói một điểm chung với các bạn mới học Tử vi (vì những bạn đã khá đương nhiên phải biết) là theo cách bố cục của các chính tinh thì khi Tử Vi cư Tý bao giờ cũng độc thủ, nghĩa là không có chính tinh khác nào đồng cung, cho nên khi thấy Phá Quân, Tử Vi cư Tý chẳng hạn là hiểu ngay an sao sai, vì Tử Vi, Phá Quân chỉ đồng cung ở Sửu hoặc Mùi. Đối với các cung khác dưới đây cũng phải theo định lệ tương tự, bây giờ tôi xin nói đến tướng mạo.

Người nào có Tử Vi cư Tý người tầm thước, không mập, nước da không trắng và cũng không hồng hào mặc dù có câu : « Tử Vi mặt đỏ lưng dầy». Trừ phi có Thiên Khôi, Hồng, Đào, Xương, Khúc thì người đó mới cao lên hơn một chút và nước da khá trắng trẻo, nhưng vẫn khó hồng hào chứ chưa nói là đỏ được. Tử Vi ở cung Tý tuy không hãm địa (vì theo các sách thì không có trường hợp hãm địa với Tử Vi mà chỉ có bình hoà) nhưng Thổ cư Thuỷ thì không thể nào phát triển đúng khả năng, đặc tính. Còn như trường hợp mạng mình khắc Tử Vi (ví dụ mạng Thuỷ) thì tướng mạo khách hẳn vì lúc đó mình sẽ chịu ảnh hưởng của sao xung chiếu (là Tham Lang thuộc Thuỷ - Tôi không cho là Mộc như một vài sách có nêu ra) và sẽ hơi cao dù không có Khôi và trắng trẻo dù không có Hồng, Đào…

Tử Vi cư Sửu

Nói đến đây tôi chợt nhớ chưa nói với quý bạn là tôi không nêu miếu, vượng vì tôi nêu ra cả 12 cung để các bạn khỏi phải cân nhắc ngũ hành của sao với cung, tuy vậy khi nào thấy cần tôi cũng bàn sơ qua.

Tử Vi cư Sửu bao giờ cũng đồng cung với Phá Quân, nếu hợp với mạng (Thổ, Kim hoặc Hoả) thì tạm cho là ứng với lưng dầy nhưng mặt vẫn chưa thể hồng hào và vẫn thấp. Tuy vậy chưa thể mập nhiều vì Phá Quân thuộc Thuỷ đã làm hao mòn chất Thổ của Tử Vi mặc dù Tử Vi ở Sửu là Thổ cũng đã gặp môi trường thuận lợi để phát triển khả năng, đặc tính. Trường hợp gặp mạng Thuỷ hoặc Mộc thì Phá Quân sẽ ảnh hưởng mạnh tới mạng, nhất là có thêm Thiên Tướng xung chiếu (theo cách bố cục đương nhiên) cũng thuộc Thuỷ lại càng làm cho người đó có tầm vóc cao hơn nhiều, nhưng cũng không thể gọi là cao lắm được vì dù sao Phá Quân cũng vẫn phải « kiêng nể » Tử Vi một tí. Tuy nhiên nếu có thêm Thiên Khôi, Tướng, Ấn, Hoá Quyền thì Tử Vi hết có uy nữa và người đó có thể cao được.

Tử Vi cư Dần

Khi Tử Vi cư Dần bao giờ cũng có Thiên Phủ đồng cung. Đối với người mạng Thổ hay Hoả thì 2 sao Tử Phủ hoàn toàn ảnh hưởng tới tướng mạo, tức là người đó hơi thấp, người thanh tú vì tuy Tử Phủ đắc cách ở Dần, Thân nhưng vì cũng Dần thuộc Mộc nên vẫn có sự trở ngại cho Thổ, do đó không thể mập được, nhất là lại có Thất Sát ở cung Thân xung chiếu làm cho gầy ốm bớt đi. Nhưng dù sao cũng được dáng bộ chững chạc, quý phái, vẻ mặt phúc hậu, đầy đặn dù cho người không mập, nước da không trắng mấy trừ phi có Đào, Hồng, Quang, Phúc thì đỡ hơn. Đối với người mệnh Kim, tuy cũng chịu ảnh hưởng mạnh của Tử Phủ (vì Thổ sinh Kim) nhưng đồng thời hợp với Thất Sát khá nhiều cho nên lại càng không thể mập và trắng được. Riêng đối với người mạng Mộc thì lại phải tìm các trung tinh tại mạng xem sao nào hợp để giải đoán tướng mạo vì Tử Phủ thuộc Thổ không hợp với Mộc và chính sao Thất Sát cũng khắc với mạng Mộc (còn Liêm Tướng ở Ngọ và Vũ Khúc ở Tuất tam hợp chiếu không gây ảnh hướng gì về phương diện tướng mạo theo kinh nghiệm của riêng tôi). Trường hợp này thí dụ mạng có Địa Kiếp, Kiếp Sát, Đà la, Hoả Linh thì thực gầy đét như con cá mắm và mất hết phúc hậu, quý phái. Bởi vậy thấy Tử Phủ Dần, Thân đừng mừng vội.

Tử Vi cư Mão

Tử Vi cư Mão bao giờ cũng có Tham Lang đồng cung, riêng trong trường hợp này tôi nghiệm thấy có thể hoàn toàn dùng câu : « Tử Vi mặt đỏ lưng dầy » được miễn là hợp mạng và đừng có nhiều trung tinh và bàng tinh khác chế hoá đi nhiều. Tôi đã được xem lá số nhiều người có Tử Tham thì thấy hầu hết là lùn và mập, mặt lại đỏ như người uống rượu nhưng nếu khắc mệnh thì không đúng, vì người mạng Thuỷ hoặc Mộc chẳng hạn thì Tham Lang sẽ ảnh hưởng nhiều và bớt lùn đi và mặt lại không đỏ mấy. Sở dĩ không cao được nhiều mặc dù có Tham Lang vì cung Mão thuộc Mộc được Tham Lang nuôi dưỡng nên sao này yếu đi rồi không còn gây ảnh hưởng mạnh cho mạng Mộc hoặc Thuỷ nữa. Trong trường hợp Tử Vi cư Mão quý bạn không cần chú ý tới ảnh hưởng của cung xung chiếu vì cung này Vô chính diệu làm gì có chính tinh để gây ảnh hưởng. Và lại có mạng nào mà không hợp với cả 2 sao Tử Tham, thí dụ mạng Hoả tuy không hợp với Tham Lang nhưng lại hợp với Tử Vi … Ngoài ra, tôi còn nghiệm thấy dù có Khôi, Việt chăng nữa Tử Tham vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ vấn đề lùn, mập và dù có Đào, Hồng, Xương, Khúc vẫn bị mặt đỏ như thường, trừ phi sinh ban đêm có khi không ứng nghiệm.

Tử Vi cư Thìn
Bao giờ cũng có Thiên Tướng đồng cung, nói chung gặp Tử Tướng ở Thìn bao giờ cũng có chiều cao một chút dù gặp mạng nào, vì Tử Vi ở La Võng (Thìn, Tuất) bị câu thúc không phát huy được đặc tính của mình mặc dù Thiên Tướng cũng bị vướng víu vì lưới nhưng không đến nỗi « khổ sở » quá, cho nên Thiên Tướng chủ về cao gầy được ảnh hưởng nhiều hơn, nhất là được Phá Quân xung chiếu hỗ trợ thêm vì Phá Quân thuộc Thuỷ. Tuy vậy cũng nên lưu ý một điểm là nếu Tuần, Triệt án ngữ tại mạng thì Tử vi lẫn Thiên Tướng đều bị mất ảnh hưởng và lúc đó Phá Quân « làm chủ tình hình » và mình sẽ đoán tướng mạo theo Phá Quân cư Tuất, nghĩa là người cao và to con. Còn trường hợp gặp Thiên Hình (tượng trưng cho con dao) thì lưới trời được cắt đứt, lúc đó Tử vi có thể vùng vẫy được và người sẽ lùn bớt đi nếu mạng Thổ hoặc Kim. Còn vẻ mặt nói chung thì có vẻ kiêu kì, còn đẹp hay xấu tuỳ vào sao phụ.

Tử Vi cư Tị

Ở cung này có cách Tử Sát đồng cung, đối cung có Thiên Phủ. Trong trường hợp này, chưa bao giờ tôi thấy có người nào mập lùn và nước da trắng, dù cho ngũ hành hợp (như Thổ hoặc Kim), mặc dầu có người nói rằng Thất Sát là Kim cư cung Tị là Hoả bị khắc nên không có ảnh hưởng, nhưng Tử Vi là Thổ ở cung Hoả bị nung cháy rồi thì khối lượng đâu còn nở nang mà phải rút bớt đi, còn sao Thiên Phủ xung chiếu là Thổ bị cung Hợi là Thuỷ làm tan rã đất rồi còn gì mà ảnh hưởng mạnh. Vì vậy người nào Tử Sát ở cung Tị thường thường gầy (trừ phi có thêm trung tinh Quan, Phúc hoặc Hoá quyền thì còn đầy đặn một chút) và da ngăm ngăm, vẻ mặt nghiêm trang như quan toà. Phụ nữ không nên có cách này vì như thế bớt vẻ nữ nhi đi nhiều, nhưng nếu kén vợ thì quý, bận nên lựa chọn người Tử Sát (vì người đó vừa đoan trang, vừa khá giỏi vì « Tử Sát đông lâm Tị Hợi nhất triều phú quý song toàn » mặc dầu phải chịu vợ kém nhan sắc kiều diễm. Tuy vậy nếu có Long, Phượng, Tả, Hữu, Thai, Toạ, Quang, Quý hội chiếu thì trông cũng được lắm.

Tử Vi cư Ngọ
Cũng như ở Tý, Tử Vi không có chính tinh nào đồng cung ở Ngọ, nhưng về tướng mạo lại khác nhau vì Tử Vi cư Ngọ là đắc vị nhất, chưa bàn tới công danh tính tình. Người mạng Thổ, Kim thì trông bệ vệ, bảnh bảo nhất và cũng cao lớn để để cho xứng với Tử Phủ Vũ Tướng với Tử Vi cư Ngọ. Vẻ mặt nhất định là vừa uy nghi, vừa đẹp một cách quý phái nước da cũng không đen hoặc hồng mà lại trắng. Nếu là phụ nữ thì đúng là mệnh phụ rồi.[/blockquote] Nếu không may gặp người mạng Thuỷ hoặc Mộc, thì mất biết bao cách hay (đây tôi chỉ đề cập tới tướng mạo) vì lúc đó Tử Vi chẳng có tí gì ảnh hưởng tới mạng mà chính sao Tham Lang cư Tý xung chiếu chi phối hoàn toàn, mà Tham Lang cư Tý tuy đẹp đẽ, duyên dáng nhưng tham vọng, dâm đãng nên vẻ mặt, hình dáng kém quý phái, đoan trang đi nhiều. Tuy vậy, nếu may cung mạng có nhiều sao Kim thì đỡ lắm vì lúc đó Tử Vi sinh các sao Kim rồi các sao sinh mạng Thuỷ (mạng Mộc thì coi như hỏng) do đó lại ăn được sao Tử vi mặc dù vẫn không hoàn toàn. Ngoài ra, tuổi Giáp, Đinh, Kỷ cũng dễ được hình dánh như vậy vì khi đã được hưởng về công danh, sự nghiệp, không lẽ lại bị mất tướng mạo tốt đẹp hay sao.

Tử Vi cư Mùi
Bao giờ cũng có Phá Quân đồng cung và Thiên Tướng xung chiếu giống như cư Sửu. Vì cũng Mùi và Sửu đều thuộc Thổ cho nên quý bạn có thể tạm đoán trường hợp này như trường hợp Tử Vi cư Sửu. Tôi chưa nghiệm thấy được điều khác biệt, nếu quý bạn thấy khác, chẳng qua vì các sao phụ chi phối mà thôi.

Tử Vi cư Thân

Cũng như cư Dần, nghĩa là Tử Vi đồng cung với Thiên Phủ và có Thất Sát cư Dần xung chiếu. Tử Phủ cư Thân kém hơn Tử Phủ cư Dần vì hai sao thuộc Thổ sinh cung Kim (sinh xuất) nên kém ảnh hưởng trong khi cư Dần thuộc Mộc không hợp nhưng không mất khả năng vì Thổ khắc Mộc chỉ bị cản trở chút đỉnh (nhưng đó là nói về công danh). Do đó người mạng Thổ, Kim trong trường hợp cư Thân không có dáng quý phái và phúc hậu như cư Dần tuy hình dáng cao thấp vẫn giống nhau và nước da vẫn không trắng lắm, thường thường được hàm răng đều (kể cả hai trường hợp).

Tử Vi cư Dậu

Bao giờ cũng có Tham Lang đồng cung, cũng như trường hợp Tử Vi cư Mão. Nhưng có điều khác biệt là Tử Vi ở Dậu bị sinh xuất, trong khi Tham Lang thuộc Thuỷ được cung sinh nên Tham Lang có uy thế mạnh hơn. Do đó gặp người hợp với mạng Tử Vi cũng không được mập lắm và cũng không lùn lắm, mặt cũng bớt hồng hào mà trái lại phải cao hơn Tử Tham ở Mão vì Tham Lang có bản chất khá cao (trừ khi Tham Lang cư Tí Ngọ). Còn mạng Thuỷ hoặc Mộc thì đương nhiên hết ảnh hưởng của Tử vì và lúc đó người phải dong dỏng cao, thon, nước da trắng nhưng vẻ mặt đa tình, nhất là nếu có thêm Đào Hoa, Thiên Hỉ. Tôi không bao giờ ưa phụ nữ có Tử Tham (dù cư Mão hay Dậu) có Đào Hoa, Thiên Hỉ vì đương nhiên lẳng lơ, bất chính, lộ ra vẻ mặt.

Tử Vi cư Tuất

Đoán giống như cư Thìn vì hai cung đều thuộc thổ và vướng vào lưới trời (một bên là Thiên la, một bên là Địa võng). Rất có thể có sự khác biệt phần nào về tướng dạng, nhưng tôi chưa tìm ra được.

Tử Vi cư Hợi

Không thể nào đoán giống như cư Tỵ, vì cư Tỵ là được sinh nhập trong khi cư Hợi (Thuỷ) bị khắc chế, còn Thất Sát Kim lại sinh cung Hợi làm Thuỷ vượng thêm và khắc Tử Vi mạnh hơn. Do đó người nào có mạng Tử Sát cư Hợi cũng gầy và mặt hơi đen, u buồn hơn Tử Sát cư Tị, nhất là người mạng Thuỷ và Kim. Mạng Thổ và Hoả còn đỡ hơn. Và chính vợ tôi có Tử Sát (theo cung Thê của tôi) nên ông thầy nói trên đã đoán như vậy khiến tôi phục quá và nhớ mãi, nhất là vợ tôi mạng thuộc Thuỷ lại càng đúng nữa.

Tôi xin tạm ngưng bài tướng mạo tại đây và nếu được KHHB chiếu cố, tôi sẽ tiếp tục bàn tới các chính tinh khác theo phương thức trên đây. Đáng lẽ tôi phải bàn thêm trung tinh nữa, nhưng thế bài sẽ quá dài mà khuôn khổ giai phẩm không cho phép, mong quý bạn thông cảm. Do đó mỗi khi quý bạn muốn quyết đoán tướng mạo của ai, xin quý bạn hãy phối hợp thêm các sao phụ cho chính xác.

Theo vietbao1623
KHHB 73 D1 (Ngày 18/4/1973)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thử bàn tướng mạo qua Tử vi

Mơ thấy đậu cô ve: Lòng không vừa ý với tình yêu –

Đậu cô-ve trong mơ là hình ảnh tiêu biểu cho tình yêu và hôn nhân. Nếu nam nữ chưa kết hôn mơ thấy đậu cô-ve, chứng tỏ không vừa ý hài lòng với tình yêu trong giai đoạn này. Nếu nam nữ đã kết hôn mơ thấy đậu cô-ve, cho thấy có đôi chút thất vọng và b
Mơ thấy đậu cô ve: Lòng không vừa ý với tình yêu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy đậu cô ve: Lòng không vừa ý với tình yêu –

Các ngày “Ngũ quỷ” (xấu), cần tránh mọi việc –

Tháng Giêng kỵ ngày Ngọ Tháng Bảy kỵ ngày Sửu Tháng Hai kỵ ngày Dần Tháng Tám kỵ ngày Tị Tháng Ba kỵ ngày Mão Tháng Chín kỵ ngày Tý Tháng Tư kỵ ngày Thìn Tháng Mười kỵ ngày Hợi Tháng Năm kỵ ngày Mão Tháng Mười một kỵ ngày Mùi Tháng Sáu kỵ ngày Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

cung-kham

  1. Tháng Giêng kỵ ngày Ngọ
  2. Tháng Bảy kỵ ngày Sửu
  3. Tháng Hai kỵ ngày Dần
  4. Tháng Tám kỵ ngày Tị
  5. Tháng Ba kỵ ngày Mão
  6. Tháng Chín kỵ ngày Tý
  7. Tháng Tư kỵ ngày Thìn
  8. Tháng Mười kỵ ngày Hợi
  9. Tháng Năm kỵ ngày Mão
  10. Tháng Mười một kỵ ngày Mùi
  11. Tháng Sáu kỵ ngày Thân
  12. Tháng Chạp kỵ ngày Tuất


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các ngày “Ngũ quỷ” (xấu), cần tránh mọi việc –

Luận về việc so đôi tuổi vợ chồng

Bài viết chủ đề luận về việc so đôi tuổi vợ chồng của tác giả Ân Quang. Đây là một chủ đề rất hấp dẫn!
Luận về việc so đôi tuổi vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Anh Việt

Từng được đọc những sách chỉ về việc so đôi tuổi cách đây mấy chục năm, chúng tôi rất lấy làm lạ rằng tại sao hai tuổi khắc kị lấy nhau mà có thể đi đến một sự suy bại tàn bạo, đi đến sự sanh ly tử biệt, sự không con, sự suy bại trong việc làm ăn và cho cuộc đời con cái, như các sách đó đã nói (cả sách Tàu và cả sách ta dịch theo sách Tàu)

Tôi nghĩ, có thể vợ chồng khắc nhau, là khắc khẩu, khắc trong hành động, thì vợ chồng sẽ giảm sức làm ăn, giảm sự yêu thương khiến cho bớt con, giảm sự chăm non con cái khiến cho chúng bị khổ, hoặc là vợ chồng khắc khẩu nhau, bất bình nhau rồi từ đó đi dần đến chỗ bỏ nhau; hoặc một ông tức mình mà “phơ” bà hoặc một bà tức mình mà “đốt” ông. Nghĩa là trong sự giải đoán các tuổi khắc nhau rồi vợ chồng sanh ly tử biệt, làm ăn suy sụp, mất đường con cái…thì cái lời giảng đó vẫn có chỗ hợp lý khoa học. Tuy nhiên, những lời giảng đó vô ly quá, theo tôi. Vì chẳng lẽ cứ khắc nhau về tuổi là phải tước lấy những hậu quả thảm thê trong tình vợ chồng như vậy?

Thắc mắc cho nên đi tìm hiểu

Vì thắc mắc nên đi tìm hiểu. Sự tìm hiểu này tiến theo hai con đường: một mặt là cố xét tuổi các vợ chồng để quan sát cuộc sống của họ (sức là tìm kinh nghiệm), mặt khác là đi hỏi các vị am hiểu về tướng số để hỏi cho rõ.

Sau mấy chục năm tìm hiểu, chúng tôi đã đi đến những kết quả tương đối khác với những lời giải đoán trong sách, ít nhất cũng khác đi phần nào. Chúng tôi muốn nói là sách có nói đúng, nhưng chỉ đúng phần nào thôi. Có vợ chồng đáng lẽ phải sanh ly, tử biệt theo như sách nói, thì lại không có gì xẩy ra. Có vợ chồng mà sách nói là làm ăn suy bại, thì sự suy bại đó không đến, họa chăng có sự giảm kém mà thôi.

Còn các cụ am hiểu về tử vi, nghĩa là những vị có nhiều kinh nghiệm, cho rằng sự khắc kị về tuổi chỉ đúng một phần theo sách, vì còn những yếu tố khác ảnh hưởng vào mỗi trường hợp. Nhận xét giản dị của các cụ như sau:

1- Lá số tử vi mà chúng ta cầm ở tay không phải là một con đường số mạng khẳng định như vậy và cố định, và còn những sự thay đổi do con người lựa chọn đường (sự tự do của con người trước định mạng, điều này được cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần giải thích rõ và chúng tôi sẽ đăng bài của cụ để khoa Tử vi thêm phần giá trị). Do con người biết tu và sự tu đó ảnh hưởng tốt vào số mạng, do các yếu tố địa lý ảnh hưởng vào định mạng, do phúc đức của cha mẹ truyền cho con cái, và cũng do sự kết hợp hai mạng số của vợ chồng (thí dụ: chồng nghèo, vợ giầu, hoặc chồng nhiều con, vợ ít con, thì kết cuộc là số mạng của vợ chồng về tiền của và con cái được ở quãng trung bình của hai số mạng, cộng lại chia đôi) như vậy tức là cũng có sự đổi thay số mạng. Một yếu tố nữa làm thay đổi mạng số là sự khắc kị tuổi hoặc hợp tuổi của vợ chồng.

2- Tuy nhiên, các cụ cho rằng những sự đổi thay ấy chỉ có một phần thôi, chứ không thể là đổi thay hoàn toàn. Nói vậy, nghĩa là số mạng theo lá số Tử vi vẫn có, và có sự thay đổi nào thì cũng chỉ có một phần mà thôi, và không thể có sự thay đổi đảo ngược. Thí dụ sách nói là sự làm ăn có thể suy sụp, thì ta có thể tin được là giảm kém, sách nói là con cái suy bại, ta cũng chỉ có thể tin được một phần nhỏ, nghĩa là việc chăm nom con cái bị bu ông trôi và vợ chồng thay vì để nhiều tiền cho con, chỉ để lại một phần nào thôi. Là vì mỗi đứa con cũng có cái số mạng riêng của nó, chứ không phải là kết chặt vào số mạng của cha mẹ.

Những câu hỏi đặt ra

Chúng tôi mới đặt ra những câu hỏi như thế này:

  • Tại sao không đúng hẳn mà sách ghi lại ghi như vậy?
  • Tại sao cũng có những cặp vợ chồng khắc kị về tuổi mà rồi sanh ly tử biệt, suy sụp về sự làm ăn và đường con cái?

Cụ TDĐ đã cho hay: sách nói ra một cách theo cái nghĩa mộc mạc của nó, còn chúng ta suy đoán thì phải gia giảm.

Thí dụ: hai vợ chồng ông Long kia gặp trường hợp tuổi khắc kị nặng đến độ vợ chồng sanh ly tử biệt nhưng ta phải gia giảm đoán thêm bằng những yếu tố khác. Nếu xem số hai ông bà Long đều thấy hai người long đong về đường vợ chồng (phải thành hôn mấy lần), hoặc nếu thấy số một người là yểu và một người là sớm ở góa, thì cái lẽ sanh ly tử biệt là đúng (đúng theo số nhiều hơn). Nhưng nếu cả hai ông bà Long cùng có số tốt về đường hôn nhân, cùng sống lâu, thì sự khắc kị kia đâu có thể đoán mộc mạc là sanh ly tử biệt được à. Vì chẳng lẽ có sự khắc kị tuổi vợ chồng, mà rỗi phải đem se cả hai lá số vợ chồng đó sao? Khi đó, không thể nói rằng sự khắc kị tuổi có sự sanh ly tử biệt, mà phải đoán theo thế khác (thí dụ: khắc khẩu, giảm kém trong sự làm ăn…)

Chúng tôi mới hỏi: Nếu hai ông bà Định cùng có số xấu về hai ba lần hôn nhơn, hoặc một người yểu, một người sớm góa, mà tuổi hai người lại hợp nhau, thì có thể cứu vãn được không?

Cụ T.V.T. cho biết: Làm sao cứu vãn được, chẳng lẽ một sự hợp tuổi biết đổi được hai lá số thật xấu thành hai lá số thật tốt hay sao.

  • Vậy thưa cụ, trong trường hợp đó, phải giải thế nào?
  • Phải coi rằng hai vợ chồng ý hợp tâm đầu, thế thôi. Chứ cái số mạng khe khắc của họ theo như lá số của họ cho biết thì vẫn có thể xảy ra.

Như vậy chúng tôi đã được sự giải đáp: có những vợ chồng khắc kị về tuổi, rồi bị sanh ly tử biệt, thì đó là vì lá số của họ đi đúng cách đó. Còn như hai lá số của họ đều tốt về đường hôn phối thì chẳng sao. Lá số vẫn là nòng cốt để giải đoán một cuộc sống vợ chồng tốt hay xấu hơn là sự hợp hay khắc kị.

Một thắc mắc khác: trời se duyên lộn

Nhưng giải thích sao được trường hợp trời se duyên một ông Văn, có số chết yểu, với một bà (Văn) có số về hôn nhân rất tốt, không thể ở góa sớm?

Chúng tôi có một số kinh nghiệm ly kỳ. Như cụ Xuyên, thuở nhỏ mấy lần xây dựng tình yêu, có lễ ăn hỏi rồi mà vẫn hỏng, vì nhà gái sanh sự. Ít lâu sau, các cô suýt làm vợ của cụ đều bị mạng vong.

Về sau, cụ Xuyên cưới vợ, hai cụ sống với nhau đến đầu bạc răng long, hiện vẫn còn sống và tâm đầu ý hợp. Tôi cố xin lá số của hai cụ, thấy đường hôn phối rất tốt, và hai cụ đều sống lâu. Như vậy, Trời đã không se duyên lầm, vì hai cô chết yểu kia đã không thành được vợ của cụ Xuyên.

Nói cho vui, cũng có những trường hợp Trời đi vắng, nghĩa là có sự se duyên lầm, thì sao? Cụ T.V.T cho biết: thì lúc đó sẽ có những biến cố cởi gỡ ra cho đúng số mạng.

  • Nhưng thưa cụ, đó là những biến cố nào?
  • Khó mà biết được, mỗi trường hợp có một biến cố lạ xẩy ra, và các biến cố đó khác nhau. Có ông chồng sắp gặp cảnh sắp ở góa, tự nhiên đi mèo và đi thật xa, bỏ vợ ở lại. Bà vợ thoát chết và mười năm sau, ông kia lại quay về tái hợp với vợ. Số đã khác đi rồi. Ông kia đáng lẽ có số chết vợ, lại thành ra chết…mèo vì sau mấy năm ở với nhau, cô mèo đã chết. Xét số của cô mèo thấy cô ta yểu thật, trong thật tế, số đã đổi khác đi, hoặc đúng ra là những người đoán không ra. Còn bà vợ nọ, có số yểu, mà lại thoát chết, thì chỉ có nghĩa là bà bị hạn nặng, đã mất chồng rồi, thì cũng kể như bị một lần chết.

Trong những tập sau, chúng tôi sẽ xin kể các cách so đôi tuổi và các lời giải đoán đúng mực.

KHHB số 29


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về việc so đôi tuổi vợ chồng

Top 5 con giáp giữ bí mật còn khó hơn lên trời

Hãy cảnh giác cao độ, nếu bạn muốn chia sẻ chuyện riêng tư của mình với người tuổi Dậu, Ngọ... bởi khóa miệng của họ, thường xuyên bị hỏng ^^.
Top 5 con giáp giữ bí mật còn khó hơn lên trời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Dậu

Người tuổi Dậu sẽ không thể qua nổi "ải" giữ bí mật đến phút chót nếu ai đó lỡ chia sẻ bí mật với họ. Trong từ điển của con giáp này không hề tồn tại hai từ "bí mật" bởi tính cách tò mò, mau miệng và thích bàn luận chuyện thị phi của họ quá lớn.

dau-7866-1402528826.jpg

Chỉ cần người tuổi Dậu nghe thấy chứ chưa nói tới việc nhìn thấy nhé, "loa phóng thanh" thường trực ở họ sẽ nhanh chóng phát tán thông tin cho tất cả mọi người xung quanh. Dù bạn có muốn bịt miệng họ lại thì cũng không thể dập tắt được khát khao "quảng cáo" của họ.

No2: Tuổi Ngọ

Ngo-8865-1402528826.jpg

Con giáp này vốn tính tình thẳng như ruột ngựa, có gì nói nấy. Lời nói phát ra từ họ dường như không được đại não kiểm duyệt, nói mà không suy nghĩ. Hoặc giả họ có ý thức coi trọng bí mật ai đó đã chia sẻ với mình, nhưng vì cảm thấy phấn khích cũng như bứt rứt nếu cứ giữ nó trong lòng, nên người tuổi Ngọ đành phải "buông lời". Với họ, giữ bí mật là chuyện không thể xảy ra, nó khó như lên trời vậy.

No3: Tuổi Thân

Sở thích của người tuổi Thân là chia sẻ với mọi người những điều mắt thấy tai nghe hoặc đơn giản chỉ là cảm xúc khó diễn tả. Họ sẵn sàng khuấy động bầu không khí bằng cách kể chuyện giật gân đến mức bản thân đã tiết lộ bí mật lúc nào không hay.

than-2261-1402528827.jpg

Thậm chí, vì quá vội vàng muốn chiếm được cảm tình của mọi người, nên họ không suy nghĩ điều mình nói ra là đúng hay sai, nên hay không nên. Những rắc rối cũng theo đó mà bám lấy người tuổi Thân.

No4: Tuổi Dần

tuoi-dan-7788-1402528827.jpg

Phản ứng nhanh nhạy của con giáp này được thể hiện trong mọi tình huống, việc giữ bí mật cũng không ngoại lệ. Vì muốn thể hiện năng lực nhạy bén của bản thân, con giáp này không kiềm chế được cảm xúc, không làm chủ được suy nghĩ đành tiết lộ bí mật thầm kín của bản thân hoặc người khác, bất chấp cảm nhận của mọi người xung quanh.

No5: Tuổi Tỵ

ti-6977-1402528827.jpg

Tuy người tuổi Tỵ không thuộc tuýp hiếu kỳ hay nhiều lời hoặc cố ý làm tổn thương danh dự người khác, nhưng đôi khi họ vô tình tiết lộ bí mật sâu kín nhằm có được mối quan hệ tốt cũng như sự đánh giá cao trong mắt mọi người.

Dù đã dặn kỹ người nghe là không được "buôn bán" bí mật đó cho ai, nhưng có người thứ 3 biết được thì khả năng người thứ 4, thứ 5, thứ n… nghe thấy là rất cao.

Mr.Bull

396707-1402007118-1402007133-3-3670-9772

Top 3 con giáp 'đuối' chuyện tỏ tình

Người tuổi Dần có lòng tự trọng quá cao lại thiếu yếu tố lãng mạn, nên khó lòng bày tỏ tình cảm một cách trơn tru, mạch lạc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp giữ bí mật còn khó hơn lên trời

Xem bói nốt ruồi trên đùi, ở rốn là tốt hay xấu?

Bạn muốn biết nốt ruồi ở đùi là tốt hay xấu, ý nghĩa nốt ruồi ở đùi mang lại điều gì cho chủ nhân. Bài viết dưới đây Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn những ý nghĩa của nốt ruồi ở các vị trí khác trên cơ thể:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn muốn biết nốt ruồi ở đùi là tốt hay xấu, ý nghĩa nốt ruồi ở đùi mang lại điều gì cho chủ nhân. Bài viết dưới đây Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn những ý nghĩa của nốt ruồi ở các vị trí khác trên cơ thể:

Xem bói nốt ruồi trên đùi, ở rốn là tốt hay xấu?

Nốt ruồi ở đùi

Theo quan niệm của các nhà Nhân tướng học thì nốt ruồi mọc ở đùi ( hay còn gọi là vế, bắp đùi, cẳng chân) thì đều không tốt. Những người có nốt ruồi mọc ở đùi thường không có con, hoặc gặp khó khăn về đường con cái. Với đàn ông nếu có nốt ruồi mọc ở bắp chân hay ống quyển thì thường không vợ.

Với những nốt ruồi trên đùi, tức là kể cả hai bên bẹn hay hai bên háng, bất kể là nốt ruồi chìm hay nốt ruồi nổ, chỉ cần mọc ở vị trí từ háng đến trên đầu gối thuộc mặt trước thì đều là tướng tốt, là người có của cải, cuộc sống sung túc ngày càng giàu sang. Những nốt ruồi trên đùi đều tốt không kể là nốt ruồi đen hay đỏ, nốt ruồi nổi cao hay bằng phẳng.

Nốt ruồi ở háng phụ nữ:

Đối với phụ nữ thì nốt ruồi ở háng hay còn gọi là nốt ruồi ở bẹn nhất là có nốt ruồi son thì biểu thị chủ nhân của những nốt ruồi này thường là những người đắc chí, công việc, sự nghiệp của họ luôn thuận buồm xuôi gió. Còn trong lĩnh vực tình yêu, hôn nhân sẽ luôn được may mắn, gặp được người chồng tốt.

Nốt ruồi ở rốn.

Với những người có nốt ruồi ở rốn hay nốt ruồi gần rốn thì đều tốt. Với những người có nốt ruồi ở rốn thì thường có tương lai sáng lạn, trong trường hợp nốt ruồi mọc nổi thì lại càng tốt hơn. Kể cả nốt ruồi mọc ở rốn đàn ông hay nốt ruồi mọc ở rốn phụ nữ thì đều tốt, con đường sự nghiệp của những người này đôi khi có thể gặp khó khăn nhưng đều vượt qua được.

Trên đây là những ý nghĩa của nốt ruồi ở các vị trí khác nhau trên cơ thể, để tham thảo thảo thêm những bài viết hữu ích khác, bạn có thể xem những bài viết dưới đây của chúng tôi:

+ Nốt ruồi trên thái dương có nên xóa hay không?

+ Nốt ruồi trên trán báo hiệu mệnh sướng khổ

+ Xem bói nốt ruồi trên cơ thể

+ Nốt ruồi ở gót chân phải có ý nghĩa gi?

+ Xem tướng người có lông mày rậm

Key liên quan: nốt ruồi ở rốn, nốt ruồi gần rốn, nốt ruồi ở rốn phụ nữ, nốt ruồi ở rốn đàn ông, nốt ruồi ở đùi, nốt ruồi trên đùi, nốt ruồi ở háng phụ nữ, nốt ruồi ở háng, nốt ruồi ở bẹn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói nốt ruồi trên đùi, ở rốn là tốt hay xấu?

Đặt tên cho con năm Nhâm Thìn 2012 –

Con Rồng là đại diện cho quyền lực, sức mạnh thống trị và sự linh thiêng cao quý, là biểu tượng của vinh quang tột bậc nhưng cũng là một sản phẩm hư cấu mang tính chất thần bí. Chính vì vậy rất nhiều gia đình mong muốn sinh con vào năm Nhâm Thìn 2012

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con Rồng là đại diện cho quyền lực, sức mạnh thống trị và sự linh thiêng cao quý, là biểu tượng của vinh quang tột bậc nhưng cũng là một sản phẩm hư cấu mang tính chất thần bí.

Chính vì vậy rất nhiều gia đình mong muốn sinh con vào năm Nhâm Thìn 2012, đặc biệt là con trai, để giúp bé có thể vững vàng, phát triển tột bậc trong cuộc sống.

dat-ten-cho-con-gai

Đôi điều về tuổi Nhâm Thìn
Những người tuổi Nhâm Thìn thường thông minh, có tài và có nhiều tiềm năng lớn. Tuy nhiên với tính chất “bá vương” của tuổi Thìn, do vậy nếu không khéo léo linh hoạt thì cuộc đời và sự nghiệp dễ thăng giáng thất thường, hoặc lo nghĩ nhiều, hoặc vất vả bon chen, hoặc bị phản bội tráo trở… mà chỉ khi qua trung vận mới có thể yên ấm an nhàn.
Tuổi Nhâm Thìn 2012 mang mệnh Trường Lưu Thủy (nước sông dài). Rồng gặp nước có thể nói là biểu tượng tốt, chính vì vậy nếu được khai thác hết tiềm năng thì hoàn toàn có thể “vùng vẫy” và thành đạt trong xã hội.

Đặt tên cho con năm Nhâm Thìn
Rất nhiều bậc cha mẹ băn khoăn về việc đặt tên cho con năm Nhâm Thìn (2012) sao cho hợp với tuổi của bé và giúp bé có sự phát triển tốt đẹp trong tương lai. Để đặt tên cho con tuổi Nhâm Thìn, bạn có thể tham khảo thêm các thông tin về bản mệnh, Tam hợp hoặc nếu kỹ lưỡng có thể xem Tứ Trụ, Tử Vi (nếu bé đã ra đời mới đặt tên). Có nhiều thông tin hữu ích có thể giúp cho cha mẹ chọn tên hay cho bé.

Xét theo bản mệnh
Bản mệnh Trường Lưu Thủy là yếu tố quan trọng để xác định tên phù hợp cho con, vì vậy các chữ thuộc hành Kim, Thủy hay Mộc có thể chọn làm tên cho con. Ngược lại các bộ chữ gắn với Thổ, Hỏa thì ít nhiều khắc kỵ với tuổi Nhâm Thìn, hoặc bản ngã quá lớn khó dung hòa, hoặc tâm thần mệt mỏi bất định.

Xét theo Địa Chi
Tuổi Thìn thuộc Tam hợp Thân – Tí – Thìn và Lục hợp Thìn – Dậu, vì vậy những cái tên thuộc bộ chữ có liên quan đều có thể coi là tốt đẹp. Ngược lại nếu liên quan tới Mão (lục hại), Thìn (tự hình), Tuất (lục xung) thì đều không hợp và nên tránh.

Xét theo đặc tính
Theo quan niệm Á Đông, tuổi Thìn được coi là biểu tượng của vua, chính vì vậy những cái tên thể hiện sự dũng mãnh, can đảm, vị thế tột bậc… sẽ rất hợp với tuổi Thìn. Ngược lại những cái tên làm hạ thấp vị thế của con Rồng thì nên tránh.

Các nguyên tắc khác
Để đặt tên cho con hay và hợp lý, các yếu tố về ý nghĩa, thuận Ngũ Hành hay âm luật cũng nên được lưu ý, các yếu tố này không chỉ giúp cho cái tên hay hơn mà còn tạo nên những thuận lợi không ngờ cho tương lai sau này. Một cái tên có ấn tượng tốt sẽ giúp con được may mắn, thời vận dễ dàng và thành công vượt bậc. Kỹ lưỡng hơn, việc tham khảo Tứ Trụ và Tử Vi cũng ít nhiều giúp cho bố mẹ đặt cho con một cái tên hay và hợp lý.

Một số tên phù hợp với năm 2012
– Hành Kim: Bách, Bảo, Cẩm, Châm, Chinh, Cương, Chí, Hiền, Cường, Kim, Linh, Loan, Ngân, Hoàng, Giáp, Đồng, Liêm, Luyện, Phong, Quân v.v….
– Hành Thủy: Băng, Bích, Bình, Giang, Hà, Hải, Hiệp, Lam, My, Nguyên, Thanh, Tuyết, Thắng, Triều, Vũ v.v…
– Hành Mộc: Đỗ, Đông, Bách, Dương, Hạnh, Mai, Lê, Liễu, Kiệt, Lâm, Phương, Lương, Thư, Xuân v.v…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho con năm Nhâm Thìn 2012 –

Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì?

Bên cạnh đó, bạn có thể thấy được Nốt ruồi ở vùng kín ở cả nam và nữ. Vậy, với vị trí này thì Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì? Cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trên cơ thể của con người, nốt ruồi có thể mọc ở bất cứ đâu, từ đầu tóc đến chân, thậm chí là lòng bàn chân v.v Mỗi nốt ruồi trong nhân tướng học đều có ý nghĩa nhất định và có thể gắn với những câu chuyện riêng khó lòng lý giải. Bên cạnh đó, bạn có thể thấy được Nốt ruồi ở vùng kín ở cả nam và nữ. Vậy, với vị trí này thì Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì? Cùng Phong thủy số tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé.

Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì?

Xem thêm:

+ Xem bói nốt ruồi ở ngực đàn ông

+ Nốt ruồi son trên ngực nói lên điều gì?

+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh của bạn

1. Vùng kín là vùng như thế nào?

Nhiều người nghe từ vùng kín thì có thể hiểu được là vùng nào trên cơ thể nhưng đối với nhiều người lại chưa hiểu rõ. Đặc biệt là với phụ nữ thì lại có nhiều nơi gọi là vùng kín hơn nam giới. Để biết Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì thì chúng ta cùng tìm hiểu vùng kín là xác định vùng nào nhé.

Trong bài viết này, vùng kín của phụ nữ được xác định là vùng dưới hông đến phần đùi, hay trong ý học thường gọi là vùng âm đạo của phụ nữa để nói chính xác hơn về vùng kín. Đối với nam giới cũng là phần được xác định tương tự.

Nốt ruồi ở mỗi vị trí có ý nghĩa khác nhau. Việc xác định vùng kín để phân biệt các vùng này khác với ngực của phụ nữ cũng được cho là vùng kín, không mấy khi lộ liễu của họ. Từ đó là xác định được ý nghĩa Nốt ruồi ở vùng kín của cả nam và nữ.

Hiện nay có 2 loại nốt ruồi là nốt ruồi đen và nốt ruồi đỏ (hay còn gọi là nốt ruồi son). Khi Nốt ruồi ở vùng kín có các màu khác nhau cũng sẽ mang những ý nghĩa khác nhau.

2. Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì với nam giới?

Nốt ruồi ở vùng kín nam giới tức là mọc trên dương vật hay còn gọi là Ngọc hành. Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì?

Nếu là nốt ruồi đen: đề phòng chứng thượng mã truy phong. Hay còn gọi là đột tử trong quá trình quan hệ của nam giới.

Nếu là nốt ruồi đỏ: nghĩa là có mệnh sinh quý tử, nhiều con cháu

Nếu nốt ruồi mọc ở đầu ngọc hành: cũng có mệnh sinh quý tử, con cháu đầy đàn.

Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì đối với nam giới cũng có thể mở rộng thêm về phần mông. Kể cả với nốt ruồi đen hay nốt ruồi son, nếu mọc ở đây thể hiện là người có năng lực nhưng không có khuynh hướng nhất quán nên họ thường lười biếng, dễ chôn vùi tài năng, dần dần trở thành người sống không thật, thấy động tình động, thấy tĩnh thì tĩnh.

Mở rộng thêm Nốt ruồi ở vùng kín nam giới một chút xuống phần bắp đùi kể cả trước hay sau, kể cả nốt ruồi đen hay nốt ruồi son thì đều là người gian xảo, mưu hèn kế bẩn, nói vậy mà không làm vậy.

3. Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì với nữ giới:

Trên là Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì đối với nam giới. Vậy đối với nữa giới thì sao?

Nếu là nốt ruồi đen thì duyên tình dang dở, con cái ngu hèn, đề phòng mắc nạn vì người khác lừa đảo, lừa tình

Nếu là nốt ruồi son thì có chồng giàu sang, phú quý, rất tốt

Nốt ruồi ở vùng kín phụ nữ có thể mở rộng lên phần ngực.

Nếu mọc ở ngực trái là sinh con quý tử, ngực phải là sinh con gái lành

Nốt ruồi đỏ mọc ở nhũ hoa thì con quý tử, thông minh. Nếu là nốt ruồi đen thì khó nuôi con, con là nghịch tử

Nốt ruồi đỏ mọc ở kẽ nhũ hoa thì tình duyên vợ chồng nồng thắm, một mực thương nhau. Nếu là nốt ruồi đen thì bồn khổ, có khi còn dang dở chuyện hôn nhân.

Trên đây là những lý giải cho Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì ở cả nam giới và nữ giới. Kết quả này chỉ mang tính tham khảo. Do đó, nếu có nốt ruồi mọc ở những vị trí không tốt thì bạn cũng không nên quá buồn. Mọi sự là tùy duyên và từ sự cố gắng thấu hiểu nhau của 2 vợ chồng và sự hoàn thiện bản thân của chính bạn nữa nhé!

Tìm kiếm liên quan: nốt ruồi ở vùng kín, nốt ruồi ở dương vật, nốt ruồi trên dương vật, nốt ruồi ở vùng kín phụ nữ, nốt ruồi vùng kín phụ nữ, nốt ruồi ở vùng kín đàn ông, nốt ruồi vùng kín, phụ nữ có nốt ruồi ở vùng kín, có nốt ruồi ở vùng kín, nốt ruồi ở vùng kín của đàn ông, nốt ruồi ở vùng kín nữ, nốt ruồi ở vùng kín nam giới, nốt ruồi vùng kín đàn ông, nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì, nốt ruồi ở chỗ kín phụ nữ, nốt ruồi chỗ kín đàn ông, nốt ruồi chỗ kín, nốt ruồi chỗ kín phụ nữ, ý nghĩa nốt ruồi ở chỗ kín của đàn ông, nốt ruồi ở chỗ kín của phụ nữ, nốt ruồi mọc ở chỗ kín của đàn ông, nốt ruồi ở chỗ kín đàn ông​


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì?

Thành phố vàng và hành trình của giấc mơ triệu đô

Theo truyền thuyết, El Dorado là một thành phố ở Nam Mỹ được làm hoàn toàn bằng vàng, gắn liền với những chuyến thám hiểm truy tìm kho báu bí ẩn nhất hành tinh.
Thành phố vàng và hành trình của giấc mơ triệu đô

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo truyền thuyết, El Dorado là một thành phố ở Nam Mỹ được làm hoàn toàn bằng vàng. Có rất nhiều đoàn thám hiểm và cá nhân không màng hiểm nguy quyết truy tìm kho báu vô giá nhưng mất tích bí ẩn này.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

Thanh pho vang va hanh trinh cua giac mo trieu do hinh anh
 
Truyền thuyết xuất hiện vào thế kỷ 16 và 17 cùng với sự phát triển của thế giới mới và không có nguồn gốc rõ ràng. Khi những nhà thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên đặt chân lên thế giới mới, họ được người dân trong các bộ tộc khác kể về một vị vua ném thần dân của mình cùng đồ trang sức quý giá xuống hồ Guatavita để xoa dịu vị thần sống trong hồ. 
 
Đây là một truyền thuyết lâu đời và có nhiều dị bản được truyền miệng xung quanh thành phố huyền thoại được làm bằng vàng này. Dù những câu chuyện không hề logic nhưng nhiều người vẫn muốn tin rằng thành phố vàng thực sự tồn tại.
 
Người Tây Ban Nha cố gắng tát nước từ chính chiếc hồ đó và tìm thấy một ít vàng nhưng không thể tát cạn nước hồ để lấy được số vàng lớn được cho là nằm sâu dưới đáy nước.
 
Nhiều người mạo hiểm đi vào vùng hoang dã của Nam Mỹ để tìm kiếm thành phố này nhưng hầu hết các cuộc thám hiểm đều kết thúc trong bi kịch. Một nhà thám hiểm mất con trai của mình trong khi tìm kiếm thành phố El Dorado huyền thoại. Sau đó, do mặc cảm tội lỗi về cái chết của con trai, ông cũng tự sát.
 
Nhưng những bài học nhãn tiền đó không làm lung lay ý chí của những người muốn sở hữu kho báu khổng lồ này. Họ tin rằng, sẽ có cơ hội sống sót để tìm được sự giàu có vượt ra ngoài những giấc mơ ngông cuồng nhất, dựa vào một thành phố mất tích từ lâu.
 
Tuy nhiên, gần đây, những dấu vết khảo cổ mới được phát hiện, cho thấy giấc mơ El Dorado chưa chắc đã là viển vông. 3 nhà khoa học đã tiến gần tới việc chứng minh sự tồn tại của El Dorado. Tạp chí Antiquity vừa đăng bài viết của họ về việc phát hiện hơn 200 vết tích lớn của El Dorado tại khu vực lòng chảo Amazon, gần biên giới Brazil và Bolivia. 
 
Từ trên cao, trông các vết tích này như những đường kẻ địa lý được khắc vào mặt đất. Nhưng các nhà khoa học nói rằng những đường nét này là phần còn lại của các con đường, cây cầu, hào sâu, các đại lộ và quảng trường từng là nền tảng của một thành phố văn minh nằm trên một khu vực dài hơn 200km. Thành phố này có thể đã là nơi sinh sống của một cộng đồng dân cư khoảng 60.000 người và những tàn tích mới được phát hiện có niên đại từ năm 200 - 1283 sau Công nguyên. 
 
Đó là một phát hiện đáng kinh ngạc do lâu nay không ít người vẫn nghi ngờ sự tồn tại của El Dorado. Và biết đâu, đây là bước ngoặt lớn, đánh dấu sự trở lại của những hành trình đi tìm giấc mơ vàng.
Theo Thế giới văn hóa tâm linh
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thành phố vàng và hành trình của giấc mơ triệu đô

Ngày “Không ma” bất lợi cho hôn phối –

Tháng Hai kiêng các ngày Thìn Tháng Năm kiêng các ngày Mùi Tháng Tám kiêng các ngày Tuất Tháng Mười một kiêng các ngày Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

everlasting-love-450x337

  1. Tháng Hai kiêng các ngày Thìn
  2. Tháng Năm kiêng các ngày Mùi
  3. Tháng Tám kiêng các ngày Tuất
  4. Tháng Mười một kiêng các ngày Sửu


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày “Không ma” bất lợi cho hôn phối –

Ngày tam nương tương sát tháng 7 Âm lịch có đáng sợ?

Mỗi tháng đều có các ngày tam nương tương sát. Tuy nhiên, ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch được nhiều người coi là xấu hơn những tháng khác. Sự thực thế nào?
Ngày tam nương tương sát tháng 7 Âm lịch có đáng sợ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Ngày nào là ngày tam nương tương sát

Theo trang Tử vi số mệnh, ngày tam nương có xuất xứ từ Trung Quốc. Tam nương có nghĩa là “ba người đàn bà”. Theo dân gian Trung Quốc, tam nương gồm ba nàng: Muội Hỉ, Đát Kỉ và Bao Tự (những giai nhân tuyệt sắc làm sụp đổ ba triều Hạ, Thương, Tây Chu trước Công nguyên). Trong suốt thời đại của mình, họ được coi là “hồng nhan họa thủy” mang lại sự xui xẻo cho mọi người liên quan. Ngày tam nương chính là ngày sinh và ngày mất của 3 người này, nên một tháng có 6 ngày tam nương, đó là các ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27 âm lịch.

Theo các nhà khoa học tâm linh, những ngày tam nương tương sát trong phong thủy được tính là các phi tinh (trong Cửu cung bát quái) có Ngũ hoàng (trung cung) xấu nhất, bay tới đâu mang họa tới đó và cứ phi tinh hết các cung (nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử) lại gặp ngũ hoàng. Ngày tam nương tương sát cũng là những ngày năng lượng giao động khiến cơ thể con người mất cân bằng, kém minh mẫn…

Ngày tam nương tương sát còn được kiêng trong các sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ quan niệm: Đón dâu về nhà ngày tam nương tương sát thì vợ chồng sẽ cãi cọ, không ở được với nhau dài lâu, tuyệt đường con cái; Nếu đi sông biển ngày tam nương tương sát sẽ gặp họa vì khó tìm được bến bờ trở về; Nếu có bổ phong, nhận chức vào ngày này thì gặp họa thảm sầu, hoặc phải đi xa biền biệt…

Nhận định về ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch có “xấu” hơn so với các tháng khác trong năm không, ông Doãn Phú, Chủ nhiệm bộ môn Phong thủy (Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người) cho rằng, những ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch cũng như những ngày tam nương trong các tháng khác, không xấu hơn. Cũng theo ông Doãn Phú, không chỉ 6 ngày trên, những ngày 5, 14, 23 (các số cộng lại bằng 5) cũng là ngày xấu, được cho là "nửa đời, nửa đoạn", làm gì cũng không như ý.

Ông Doãn Phú cho biết thêm, người phương Tây cũng có quan niệm về những ngày xấu, gọi là ngày nguyệt kị, rơi đúng vào các ngày tam nương tương sát. Khoa học giải thích rằng, khi Trái đất tự quay quanh nó và mặt trăng quay quanh Trái đất thì khoảng 2 ngày rưỡi, mặt trăng sẽ di chuyển qua một “vùng trời” mới, khiến các dòng năng lượng giao động, ảnh hưởng tới toàn bộ sự sống trên Trái đất. Các chuyên gia thiên văn hiện đại cho rằng, vũ trụ thường xuyên xảy ra những vụ va chạm trong thiên hà và phát sinh những bức xạ, tia xạ ảnh hưởng lớn đến Trái đất, chi phối đời sống của sinh vật, trong đó có con người. Và những ngày tam nương là thời điểm mặt trăng chuyển sang vùng mới, tránh ngày xấu chính là tránh thời điểm không tốt của sự vận động vũ trụ và khí quyển.

Hạn chế làm việc gì?

Đại đức Thích Pháp Đạt,nguyên trụ trì chùa Trường Sa lớn (huyện đảo Trường Sa), người đã có nhiều chuyến đi về giữa đảo và đất liền nhân tháng Vu Lan đã chia sẻ rằng, nhà chùa không phân biệt ngày tốt, xấu, ngày thường hay ngày tam nương tương sát như trong dân gian. Nhà chùa khuyên mọi người không nên lệ thuộc, sợ hãi quá vào những ngày tốt, xấu. Nhà chùa không kể ngày, giờ tốt hay xấu, đặc biệt khi có người cầu cứu, các nhà sư không chờ ngày tốt, giờ tốt mới đi, hoặc né tránh giúp người vì lý do ngày, giờ xấu.

Với đạo Phật, mọi việc đều do nghiệp quả, quan niệm xui hay không là do con người. Nếu cố chấp, lo lắng nhiều thì khó khăn sẽ đến. Nhưng nếu buông bỏ, không coi trọng những quan niệm đó thì sẽ không có gì. Bỏ đi được quan niệm xấu, tốt, hay không bỏ quan niệm đó cũng tùy “nghiệp” của từng người, nhưng đừng sa đà vào mê tín dị đoan.

Ông Doãn Phú cũng khuyên, ngày tam nương, nguyệt kị là xấu theo dân gian và tâm linh, nhưng thực sự chưa có nghiên cứu, kiểm chứng khoa học nào về những xui xẻo do ngày đó mang lại. Ông Doãn Phúc nhận định: “Quan sát gần đây thấy có những kiêng kị dân gian có cái còn phù hợp, có cái không. Và thực tế nhiều vụ tai nạn máy bay rơi, đắm tàu thuyền lớn… gần đây không hoàn toàn rơi vào những ngày xấu. Đã từng có nhiều việc trọng đại diễn ra vào các ngày 13/6, 13/7 Âm lịch và đều đạt kết quả rất tốt. Như vậy, những ngày này không phải xấu như quan niệm. Người dân không nên quá lo lắng để tìm cách hóa giải”.

Tuy nhiên, ông Doãn Phú cũng khuyến cáo vì các ngày tam nương tương sát thường là những ngày năng lượng giao động khiến cơ thể con người mất cân bằng, kém minh mẫn. Vì vậy, nên thận trọng khi lái xe, điều khiển máy móc, hạn chế các chuyến đi chơi xa, leo núi, tới nơi rừng rú...

Ông Doãn Phú nói: "Quan điểm của tôi là việc kiêng hay không kiêng, tránh hay không tránh ngày tam nương tương sát là tùy mỗi người. Nếu là người làm ăn, hoặc khi triển khai các việc lớn như khai trương, ký hợp đồng, khởi công nhà mới.. thì cần xem kỹ ngày để tránh xui xẻo. Còn bình thường thì không nên xem trọng quá. Ngày tam nương tương sát chỉ nên xem đó là một ngày bình thường, cứ sinh hoạt, làm việc bình thường, đừng để những quan niệm ảnh hưởng đến cuộc sống của mình vì con người vẫn là yếu tố quyết định".


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày tam nương tương sát tháng 7 Âm lịch có đáng sợ?

Ý nghĩa vái 3 vái trong đời sống tâm linh người Việt

Lễ bái hay cúi lạy vái 3 vái là một trong những nghi thức quan trọng nhất trong đời sống tâm linh của người Việt,nhưng không phải ai cũng hiểu ý nghĩa vái 3 vái
Ý nghĩa vái 3 vái trong đời sống tâm linh người Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ bái hay cúi lạy là một trong những nghi thức quan trọng nhất trong đời sống tâm linh của người Việt. Vái 3 vái lạy trước Phật đài mong bình an thanh thản, lạy trước tổ tiên tôn kính nhớ thương, lạy trước thần thánh chứng giám lòng thành. Và như nếp cũ, phong tục vái ba vái, lạy ba lạy được phổ biến tự nhiên, nhưng không phải ai cũng hiểu ý nghĩa vái 3 lạy này.


► Tra cứu: Lịch âm và Lịch vạn niên 2017 chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Y nghia vai 3 vai trong doi song tam linh nguoi Viet  hinh anh
 
Vái lạy là hình thức, nghi lễ xuất hiện ở khắp nơi trong đời sống văn hóa người Việt. Người Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, vì thế lễ này cũng có nguồn cơn từ những lễ nghi của đạo Phật.

 

Ý nghĩa vái 3 vái

  Theo Phật giáo, để thể hiện sự tôn kính, ngưỡng mộ với Đức Phật chúng Phật tử sẽ chắp tay và cúi đầu lạy sát đất. Khi Phật giáo dần ăn sâu bén rễ vào đời sống người Việt thì nghi lễ lạy này lan dần ra trong các dịp khác như lễ cúng ông bà tổ tiên, lễ cúng các vị thần thánh,….   Tại sao lại là lạy ba lạy? Ý nghĩa vái 3 vái là gì? Ba lạy tượng trưng cho lễ ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Một lạy nhớ ơn, kính ngưỡng Đức Phật soi sáng, chỉ đường để chúng sinh thoát khỏi khổ đau luân hồi, tìm thấy an nhiên cực lạc. Hai lạy Pháp – những lời vàng ý ngọc mà Phật truyền tụng lại, nguyện ý thực hiện những lời răn dạy quý báu để hướng tới chân tâm, học Phật soi mình. Ba lạy Tăng dẫn dắt chúng sinh trên con đường đạo, giúp chúng sinh gần gũi, thấu hiểu hơn với Phật pháp.

Y nghia vai 3 vai trong doi song tam linh nguoi Viet  hinh anh 2
 
Ngoài ra, Phật giáo cũng nhấn mạnh, ý nghĩa vái 3 lạy không chỉ lạy Tam Bảo mà còn là lễ chính ba ngôi quý trong mỗi cong người và trong toàn thể chúng sinh. Đó là Phật tính, Pháp tính và Thanh tịnh tính. Ai cũng có Phật tính sáng suốt, Pháp tính từ bi bình đẳng và Thanh tịnh tính hòa hợp. Cung dưỡng những tính ấy chính là cách để học Phật, hướng Phật.   Khi lạy, người đứng thẳng, hai chân nép sát vào nhau, hai tay chắp lại nghiêm trang, thể hiện của sự nhất tâm, chính tà hòa làm một, thiện ác không phân tranh. Khi cúi lạy chắp hai tay trước ngực, đưa cao lên quá đầu rồi từ từ quỳ xuống, đầu cúi sát đất, hai tay mở rộng ra hai bên. Lặp đi lặp lại như vậy 3 lần.   Quan trọng nhất khi lạy vái là thành tâm, giữ tâm thanh tịnh, không mang tới thế sự, không suy nghĩ chuyện nhân sinh. Một lòng hướng về đáng tâm linh, có như vậy mới sở cầu đắc sở nguyện, mọi sự hanh thông, thể hiện đúng tính chất và quy củ của lễ bái.
8 quy tắc dâng hương lễ Phật nên nhớ đừng quên Lễ Cúng cơm trong trăm ngày có ý nghĩa gì?
Tâm Lan

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa vái 3 vái trong đời sống tâm linh người Việt

Dự đoán về Tài vận (2)

- Thân nhược tài nhiều thì gặp tài là mang hoạ. - Trụ ngày giáp ất, mà hành vận dần mão thì kiếp tài phá tài. - Quan vượng, thân nhược , hành đến quan vận thì hại vô cùng, phá tài là chắc chắn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

-         Kiếp tài, kình dương thì nhất thiết kiêng kị gặp tuế vận, vì như thế sẽ phá tài, bại nghiệp, vì tài cạnh tranh nhau nên phải rời bỏ quê hương, thất nghiệp.

-         Trên trụ giờ có thiên tài thì sợ anh em, hành đến vận kiếp tài thì sẽ bị phá tài và tranh tài.

-         Tài nhiều, thân nhược là nhà cửa nhiều, nhưng của cải ít.

-         Thiên tài sợ hành vận tỷ kiếp, vì gặp vận đó sẽ phá tài, bại tài.

-         Tuế quan bị khắc là bại tài, phá tài.


-         Thân vượng, ấn vượng là tiền hao tán không tụ, chẳng thà rằng trữ của, bất động sản còn hơn.

-         Kiếp tài không nên gặp vượng địa, gặp hao tài.

-         Tài nên tàng ẩn, không nên để lộ, lộ thì dễ bị tranh giành.

-         Thương quan có tài khi hành đến đất quan, sát, gặp đất suy, tài tuyệt thì sẽ mất tài, mất lộc.

-         Thực thần gặp kiêu là tài vật hao tán.

-         Tài quan gặp tài quan là vì tham ô mà bãi chức.

-         Trong trụ kiêu ấn gặp đất tài lại không có tỉ kiếp thì tai hoạ vô cùng.

-         Trụ ngày yếu không thắng nổi tài thì vì của cải mà bị tai hoạ.

-         Kiêu thần mừng nhất gặp tài tinh, thân vượng gặp được là phúc, thân nhược gặp phải là hoạ.

-         Thân vượng hành đến vận tỷ kiếp thì phá tài bại nghiệp.

-         Trong trụ kiếp nhiều lại hành vận kiếp thì nên án binh bất động.

-         Tỉ, kiếp nhiều lại gặp tỉ kiếp là phá tài, ra cửa quan.

-         Thân vượng, tỉ kiếp nhiều lại không có tài thì khi gặp tài là tai hoạ ập đến.

-         Tài tinh nhập mộ thì vợ tính nhỏ nhen, quý của hơn người .

-         Trong trụ có tỉ kiếp , có tài tranh tài, khi không có tài là lúc hoạ đến ; anh em tranh của, vợ chồng tranh giành nhau.

-         Tài rơi vào không vong tất sẽ nghèo.

-         Tứ trụ không có tài để giữ cho mình khi ra ngoài cầu tài cần phải cẩn thận.

-         Tài tinh gặp kình dương thì mất của, mất người .

-         Hành đến vận kình dương thì của cải hao tán, khắc vợ, nát nhà.

-         Trong trụ có thập ác đại bại thì vàng đầy kho cũng thành đất bụi.

Năm 1987, ông Trình giám đốc một nhà máy ở Tây an muốn biết tình hình nhà máy như thế nào nên ông đã đứng chủ nhờ đoán vận nhà máy. Tôi thấy trong trụ của ông tỉ kiếp gặp tài, đại vận bính tuất gặp kiếp, lưu niên đinh mão gặp ngang vai, đúng là tỉ kiếp gặp vượng địa. Nên nói : nhà máy năm đó không những hiệu quả kém mà còn hao tài, nên dặn ông không được đầu tư một cách mù quáng để đề phòng phá sản. Ông nói: nhà máy mấy năm nay luôn làm ăn khá, chắc không đến nổi nghiêm trọng như thế, do đó không nghe theo lời khuyến cáo của tôi. Kết quả nhà máy cuối năm phá sản, ông rất hối hận. Trụ này, ứng với câu : " Tài tinh sợ nhất hành vận tỷ kiếp". 

Tháng 5 năm 1990, một phóng viên nhà báo nhờ tôi đoán hậu vận, tôi thấy trong trụ tài vượng, tài nhiều lại gặp kho, năm 1990 la lưu niên lại hợp với dần, ngọ, tuất của Tứ trụ thành tam hợp tài cục nên đoán : "Năm 1986 lại đây đã phát tài, tuy năm nay có tài, nhưng ngược lại có nguy hiểm về tính mạng". Ông và vợ liền nói: Năm nay nằm viện bị mổ nặng, tí nữa thì mất mạng. Trụ này ứng với câu : "Thân nhược không thắng tài thì vì của mà sinh nạn." 

Tháng 6 năm 1990 khi tôi giảng bài ở Thâm Quyến, gặp Tứ trụ của một tay đánh bạc. Trong trụ ngang vai gặp vượng địa, lại đại hành đại vận canh thân , lưu niên canh ngọ, tức là một loạt ngang vai đều vượng, vì đánh bạc bị thua mà trộm cướp nên bị bắt giam ra toà. Trụ này ứng với câu: " tỉ kiếp trùng trùng lại gặp tỉ kiếp là phá tài và ra cửa quan." 

Trong trụ này tỉ kiếp trùng lặp, đại vận là giáp tuất cung là đất kiếp, vì mưu lợi một cách phi pháp nên nửa đầu năm 1991 bị công an Quảng Châu Phá án bắt giam. Người này đã vi phạm câu "Tứ trụ kiếp nhiều hành vận tỉ kiếp thì nên giữ mình an phận". 

Ðây là Tứ trụ của Phó tổng giám đốc một Công ty ở Thâm Quyến, vì không biết mệnh vận của mình nên năm 1991 cho người khác vay 200 vạn đồng. Người vay tiền vừa nhận tiền là chạy ra nước ngoài. Do đó năm sau Phó tổng Giám đốc bị mất chức, ra toà. Ðó là sự tai hại vì không đoán mệnh, hối hận vì gặp tôi muộn quá. 

Vì sao Phó tổng giám đốc laị gặp tại hoạ này. Ðó chỉ là vì thời gian trước đó vận của ông rất thuận, từ năm 35 tuổi đến năm 44 tuổi là lúc bắt đầu bại vận mà không biết. Kiêu vận gặp năm tân mùi 91 kiếp tài, tức là kiêu sinh ra kiếp cho nên khó tránh khỏi việc mất của. 

Năm nhâm thân 1992 gặp thực thần, kiêu thần đoạt thực thần, tức là chỉ cho sinh hoạt phí thấp nhất. Lại lưu niên nhâm thân và thân tý thìn trong Tứ trụ cùng hội lại làm thương tổn quan cục cho nên Phó tổng giám đốc bị mất chức.

Ví dụ này ứng với câu: " Thực gặp kiêu thì tài vật hao tán", " Thương quan gặp quan là tai hoạ liên miên". 

Tháng 9 năm 1989, khi tôi giảng bài ở Ðại học giao thông Thượng Hải, có một người là người nhà của Chủ tịch Hội đồng quản trị một Công ty nhờ tôi đoán vận cho ông Chủ tịch ấn. Tôi thấy Tứ trụ nhược gặp ngang vai nhiều, vượng mà gặp ấn, đại vận lại hành vận thương quan. Lưu niên kỉ tị kiếp tài ; tiểu vận quý hợi cùng với lưu niên phạm thiên khắc địa xung. Nên đoán : tháng 4 năm 1989 có tai hoạ lớn. Ông ta nói : đúng như thế ! Ông chủ tịch vừa mới ký một hợp đồng với khoản tiền rất to, vừa về đến Ðài Loan thì bi ô tô đâm. Ðến nay đã 7 tháng vẫn chưa tỉnh, không biết từ nay về sau tính mệnh ra sao. Tôi nói tháng 10 âm lịch năm nay có một cửa ải, nếu vượt qua được thì mới bình an vô sự. 

Ông chủ tịch quản trị ấy hồi trẻ đã làm ăn nên nổi, gia tư giàu có, một vụ buôn bán cũng lên đến hàng chục triệu, không ngờ vận chuyển sang kiếp tài, đã hao tiền lại còn nguy hiểm đến tính mạng. Cho nên nếu không biết được mệnh vận thì tiền ức vạn quanh lưng biết đã tốt chưa ? 

Tháng 4 năm 1991, khi tôi đoán vận cho ngài Trương ở Singapo thấy trong Tứ trụ kiêu thần ba lần xuất hien , tính ra lưu niên đến năm kỷ tị lại gặp kiêu, đại vận ất sửu là đất tài tất sẽ có chuyện. Cho nên tôi đoán : năm 1989 có tai nạn lớn, nếu không bị bệnh nặng thì cũng mất của rất nhiều, thậm chí có thể khuynh gia bại sản. Ông Trương và bạn của ông nghe xong rất kinh ngạc. Bạn ông nói : Ðúng ! Gần 1 triệu đồng toàn bộ mất hết vì làm sai luật thuế nên bị tịch thu. Ông Trương ngồi bên lắc đầu lia lịa, không rõ là ông đang hối hận vì không biết vận hạn của mình hay là đang hối hận mình đã không tuân thủ luật pháp. Chắc cả hai điều đều có. Ví dụ này ứng với câu: " ấn kiêu gặp tài địa, không tỷ kiếp thì tai hoạ vô cùng." 

Ðây là một cô gái Mianma, đã buôn bán vàng bạc đá quý nhiều năm, lần này cố ý đến Băng Cốc tìm tôi để nhờ đoán vận. Tôi thấy trong Tứ trụ không có tài, xem các vận thấy trước năm 21 tuổi tài vận đã qua, do dó tôi nói với cô ta: cô không nên tiếp tục buôn bán nữa, bởi vì không những không phát tài mà chỉ càng thêm thua thiệt. Cô ta nói : chẳng trách gì mà nhiều năm nay tôi thua lỗ liên tục. Trụ này ứng với câu : " Trong mệnh không có tài thì không nên làm gắng". 

"Dự đóan theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán về Tài vận (2)

Ngựa và ảnh hưởng đối với phong thủy

Theo quái tượng Bát quái, ngựa thuộc quẻ Càn, mà Càn thuộc Kim tương ứng với phần đầu trên cơ thể con người, tượng của quẻ là Trời. Bởi vậy, không
Ngựa và ảnh hưởng đối với phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngựa pha lê

nên đặt các vật trang trí có hình ngựa ở hướng Nam, vì phương Nam thuộc Hỏa, sẽ tạo thành thế “lửa đốt cửa trời”. Phạm phải điều kỵ này rất dễ dẫn đến những tình huống bất lợi sau đây:

- Người trong nhà dễ bị tật bệnh ở phần đầu như đau đầu, chóng mặt.

- Con cái không hiếu thảo, thường xung đột với cha mẹ.

- Người trong nhà dễ mắc chứng bệnh ho khan do phổi nóng.

Phương pháp hóa giải khá đơn giản: chuyển các vật trang trí này sang vị trí khác, các vấn đề bất lợi tự nhiên sẽ biến mất.

Cần đặc biệt chú ý rằng, nếu trong nhà có người tuổi Tý thì càng không nên đặt những vật trang trí có hình ngựa tại hướng Nam, nếu không, người tuổi Tý rất dễ bị đau ốm. Bởi vì phương chính Nam xung khắc với chuột, lại là hướng do ngựa làm chủ, đặt ngựa ở hướng Nam sẽ gia tăng lực xung khắc này.

(Theo Bát trạch Minh Kính)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngựa và ảnh hưởng đối với phong thủy

Mơ thấy én bay mùa xuân: Bạn từ phương xa đến –

Én thuộc loài chim theo mùa. Mơ thấy cảnh én bay mùa xuân, dự báo bạn bè phương xa có thể sẽ đến thăm; mơ thấy én bay vòng tròn trên đầu, nhắc nhở bạn chớ nên do dự trù trừ; trong mơ nghe thấy tiếng kêu chim én, sẽ có tin tốt lành; mơ thấy én bay về
Mơ thấy én bay mùa xuân: Bạn từ phương xa đến –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy én bay mùa xuân: Bạn từ phương xa đến –

Bày tượng Phật theo phong thủy để xua điềm dữ và đón vận may

Bày một bức tượng Phật trong nhà có thể thu hút tích các chi năng lượng tích cực. Nhưng khi bày tượng trong nhà sẽ có một vài quy tắc "bất di bất dịch" cần tuân theo để tránh xúc phạm đến Thần Phật.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có rất nhiều Phật tử để dành ra một vị trí đặc biệt trong ngôi nhà hay khu vườn để lập bàn thờ cầu nguyện và trong đó đương nhiên không thể thiếu những bức tượng Phật. Ngoài ra, nhiều người cũng kết hợp tượng Phật vào trang trí nội hoặc ngoại thất.

Tuy nhiên, trước khi bạn đi mua sắm, bạn cần hiểu được ý nghĩa và biểu tượng của mỗi bức tượng trong mối quan hệ với khu vực bạn muốn đặt nó. Đặc biệt hãy làm theo những hướng dẫn dưới đây để cả gia đình luôn bình an.

1. Những quy tắc về vị trí

- Tuyệt đối không được đặt tượng Phật trực tiếp trên mặt đất hoặc trong phòng tắm. Vì cả hai vị trí này đều được coi là thiếu tôn trọng.

- Phật không nên đặt trong phòng ngủ của bạn, ngoại trừ tượng được giữ trong tủ có cửa đóng kín.

- Hãy nhớ, luôn đặt tượng quay mặt vào trong phòng. Tuy nhiên, nếu tượng Phật đặt ở lối vào của ngôi nhà thì có thể ngoại lệ, đối mặt với những người bước vào trong nhà.

- Khi đặt tượng Phật ở trong vườn cần quay mặt vào nhà để mang lại bình an cho gia đình.

2. Tượng Đức Phật Thích Ca ngồi thiền

Với những bức tượng Đức Phật trong tư thế ngồi với cả 2 tay trong vị trí thiền thường được đặt ở bàn thờ Phật trong nhà. Chú ý, tượng Phật Thích Ca nên đặt quay mặt về hướng Đông vì Đức Phật ngồi thiền luôn hướng về phía mặt trời mọc để giác ngộ.

Cách bày tượng Phật trong nhà 
Tượng Phật Thích Ca nên đặt quay mặt về hướng Đông vì Đức Phật
ngồi thiền luôn hướng về phía mặt trời mọc để giác ngộ

3. Tượng Phật Di Lặc

Tượng Phật Di Lặc thường được sử dụng rộng rãi trong nhà và dễ nhận biết nhất. Đức Phật cười mang lại thịnh vượng, may mắn. Chiếc bụng lớn của ông chứa đầy tài lộc, của cải. Mọi người nếu muốn được ban tặng nhiều may mắn thường hay lấy tay xoa bụng Phật Di Lặc. Tượng ông Phật cười có thể bày trên tủ đựng tiền, két sắt  hoặc góc Đông Nam của ngôi nhà.

Tượng Phật 
Tượng ông Phật cười có thể bày trên tủ đựng tiền, két sắt  hoặc góc Đông Nam của ngôi nhà

4. Tượng Phúc - Lộc - Thọ

Theo quan niệm, tượng Phúc Lộc Thọ đem lại cuộc sống trường thọ và tài vận cho gia chủ. Tượng Phúc Lộc Thọ được làm từ rất nhiều chất liệu như gốm sứ,  ngọc thạch, mạ vàng,... tuy nhiên tượng làm từ đồng nguyên chất được coi là linh nghiệm nhất. Khi bày nên bày heo thứ tự tượng ông Phúc đặt ở giữa, ông Thọ nằm ở bên phải và ông Lộc đặt bên trái.

Tượng 3 ông Phúc Lộc Thọ nên bày ở một trong hai vị trí bên cạnh cửa chính để mang Tam Tinh vào nhà. Lưu ý, mặt tượng không được hướng ra ngoài mà chỉ có thể hướng vào trong phòng. Bởi, khi mặt hướng vào trong tức là đem tiền tài đến cho người trong nhà, còn nếu như hướng ra ngoài tức là tiễn tiền tài ra ngoài.

cách bày tượng phật 

5. Tượng Phật bà Quan Âm

Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát được nhiều gia chủ lựa chọn vì Phật bà khiến cho gia đạo được bình yên, mang điều may mắn và cứu rỗi khi gặp khó khăn. Tượng hoặc tranh ảnh Phật bà nên được dặt ở vị trí trang nghiêm và tốt nhất nên ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách.

Những nguyên tắc khi bày tượng Phật 
Tượng hoặc tranh ảnh Phật bà nên được dặt ở vị trí trang nghiêm

(Theo Khám Phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày tượng Phật theo phong thủy để xua điềm dữ và đón vận may

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1963 Qúy Mão –

Hướng kê giường Tuổi Quý Mão 1963 - Năm sinh dương lịch: 1963 - Năm sinh âm lịch: Quý Mão - Quẻ mệnh: Khảm Thủy - Ngũ hành: Kim Bạch Kim (Vàng pha bạc) - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh - Hướng tốt: Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng kê giường Tuổi Quý Mão 1963

– Năm sinh dương lịch: 1963

– Năm sinh âm lịch: Quý Mão

– Quẻ mệnh: Khảm Thủy

– Ngũ hành: Kim Bạch Kim (Vàng pha bạc)

– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh

– Hướng tốt: Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y); Đông Nam (Sinh Khí); Nam (Diên Niên);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Lục Sát); Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Nam (Tuyệt Mệnh); Tây (Hoạ Hại);

Giuong_cuoi

Phòng ngủ:

Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Kim, Thổ sinh Kim, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Thổ, là hướng Đông Bắc; Tây Nam;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Vàng, Nâu, đây là màu đại diện cho hành Thổ, rất tốt cho người hành Kim.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1963 Qúy Mão –

Nhận diện khuôn mặt trường thọ

Những người có viền tai rõ ràng, dầy, hồng hào thường không phải lo lắng về tuổi thọ. Ngược lại, tai nhỏ, mỏng thường yếu, hay mắc bệnh vặt.
Nhận diện khuôn mặt trường thọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nhân trung sâu và rộng

Những người có nhân trung vừa dài vừa rộng lại rõ ràng không những cuộc sống sung túc, có địa vị trong xã hội, mà còn rất khỏe mạnh, trường thọ.

2. Lông mày với râu tóc hài hòa

Lông mày với râu tóc kết hợp hài hòa với nhau, càng về già càng dày, bóng khỏe thì càng tốt - tượng trưng cho cơ thể khỏe mạnh, trí lực dồi dào. Ngược lại, dưới 30 tuổi mà lông mày dài ra bất thường lại là dấu hiệu đáng lo ngại.

nhan-dien-khuon-mat-truong-tho

3. Sống mũi đầy, có thịt

Mũi có liên quan đến tỳ vị. Vì vậy, người có sống mũi đầy, nhiều thịt thường sẽ sống lâu và khỏe mạnh.

4. Tai lớn, dầy, rắn chắc

Tai có đường viền rõ ràng, dầy, hồng hào thường sẽ không phải lo lắng về tuổi thọ. Ngược lại, tai nhỏ, mỏng thường yếu, hay mắc bệnh vặt.

6. Răng chắc khỏe

Răng chắc khỏe là biểu hiện thận khỏe. Thận khỏe ảnh hưởng trực tiếp đến tuổi thọ bền lâu.

Maruko (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận diện khuôn mặt trường thọ

Tử vi đẩu số - Bản đồ giải mã vận mệnh bậc nhất

Tử vi đẩu số được mệnh danh là bản đồ giải mã vận mệnh bậc nhất của các nhà thuật số. Tìm hiểu sơ lược lịch sử & các khái niệm của tử vi đẩu số trong loạt bài Tự xem tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi đẩu số là một hình thức dự trắc về vận mệnh của con người được xây dựng trên cơ sở triết lý chu dịch với các thuyết Âm dương, Ngũ hành, can chi bằng cách lập lá số tử vi với Thiên bàn, Địa bàn và các cung sao; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những sự kiện xảy ra trong diễn biến đời người.

Theo quan niệm của số đông thì Tử vi đẩu số là thuật ngữ được hình thành dựa vào tên một loài hoa màu tím. Từ ngàn xưa chiêm, tướng phương Đông thường dùng loại hoa màu tím này để chiêm bốc, trong đó “tử” chính là “tím” còn “vi”“huyền diệu”. Cũng có người cho rằng, thuật ngữ đó được lấy từ sao Tử vi, một ngôi sao quan trọng nhất trong môn dự trắc này.

Trần Đoàn - Hy Di lão tổ

Vậy, tử vi bắt nguồn từ thời nào?

Cho đến nay, sử sách không ghi lại ai là người khai sáng ra nó. Các nhà tử vi thường chỉ chú ý đến việc giải đoán tử vi hơn là đi tìm hiểu lịch sử. Bởi vậy cho đến nay, lịch sử về nó vẫn còn là một ẩn số. Thậm chí có người còn nhầm lẫn tử vi với những truyện kỳ hoang đường.

Năm Gia Tĩnh triều Minh có lưu truyền cuốn Đẩu Số Toàn Thư do tiến sỹ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa nói Tử vi đẩu số toàn thư là của tiên sinh Hy Di Trần Đoàn.

Các sách về tử vi sau này cũng đều thống nhất rằng, người đầu tiên có công tổng hợp, hệ thống bộ môn dự trắc này là Trần Đoàn tức Hy Di Lão Tổ, sống vào đời BắcTống, Trung Quốc.

Tuy xuất phát từ Trung Quốc, tử vi không được chú ý nhiều trong các môn dự trắc học, nhưng khi du nhập vào Việt Nam, nó trở thành bộ môn được quan tâm nhất. Có nhiều học giả Việt Nam đã cống hiến thêm cho bộ môn này, trong đó có sự tham gia tích cực của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Quý Đôn. Dần dần, tử vi Việt Nam có thêm những khác biệt so với tử vi nguyên thủy của Trung Quốc.

Những khác biệt giữa tử vi Việt Nam và Trung Quốc bao gồm:

  • Cách an mệnh của tử vi Việt Nam bắt đầu từ cung Dần, trong khi ở Trung Quốc bắt đầu từ cung Sửu.
  • Cách tính tuế hạn của tử vi Việt Nam tùy thuộc vào cầm tinh của người xem. Trong khi tuế hạn của Trung Quốc cố định.

Song điểm thống nhất ở đây là dựa trên cơ sở lý luận là hệ thống Thiên can, Địa chi, Âm dương, Ngũ hành, Tử vi đẩu số tiếp thu rộng rãi các kiến thức về thiên văn học, toán học, sử học, thống kê học, dự đoán học cổ đại... để tiến hành phân tích mối quan hệ giữa các vì sao và số mệnh con người, từ đó rút ra các vấn đẽ thuộc nhân sinh và vũ trụ. Chính vì thế Tử vi đẩu số vừa mang màu sắc thần bí của mệnh lý học truyén thống, lại vừa kế thừa những nguyên lý chất phác trong vũ trụ quan Đạo giáo, đồng thời hợp nhất hai nhân tố đó để hình thành nên một môn khoa học vừa giản dị, vừa uyên thâm, mang đậm sắc thái kỳ bí mà nội dung luận đoán lá số là một trong những đặc sắc đó.

Tử vi đẩu số có tất cả 518.400 lá số khác nhau trong tử vi, bao gồm trong đấy là 14 chính tính cùng với khoảng 120 sao phụ tinh bao gồm các loại như phúc tinh, lộc tinh hay sát sinh. Tất cả các sao chính tinh và phụ tinh sẽ theo các nguyên tắc nhất định được an vào 12 cung trong lá số. 12 cung trong lá số tử vi bao hàm toàn bộ đời sống của một con người về mặt thời gian và không gian. Nó bao gồm cung Mệnh, cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Bạch, cung Điền Trạch, cung Phu Thê, cung Huynh Đệ, cung Phụ Mẫu, cung Tử Tức, cung Thiên Di, cung Nô Bộc và cung Tật Ách. Có  một số quan điểm cho rằng Tử vi đẩu số bị giới hạn bởi 518.400 lá số nên không thể phản ánh hết hàng tỷ người trên trái đất và đi đến kết luận rằng, tử vi không thể dùng để lý giải sự khác nhau của những người sinh cùng thời điểm. Nhưng cũng có nhiều người cho rằng tử vi là một bộ môn dự trắc mang tính khoa học. 

tử vi đẩu số toàn thư

 Luận mệnh Tử vi đẩu số lấy chủ tinh làm cơ sở. Trong vô vàn các vì sao, có 14 chủ tinh ảnh hưởng nhiều đến vận mệnh nhất, chúng chia thành hệ thái tinh động và hệ thái tinh tĩnh, có mối quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng toàn bộ cả vận mệnh.

Có nhiều sao của Tử vi đẩu số, trong đó ảnh hưởng đến vận mệnh nhất là 14 chủ tinh (hay còn gọi là chính tinh). 14 chủ tinh này có thể chia thành hệ sao động “sát, phá, lang” gồm 8 sao:

  1. Tử vi
  2. Thiên phủ
  3. Vũ khúc
  4. Thiên tướng
  5. Liêm trinh
  6. Thất sát
  7. Phá quân
  8. Tham lang

và hệ sao tĩnh “cơ, nguyệt, đồng, lương” gồm 6 sao:

  1. Thiên cơ
  2. Thái âm
  3. Thiên đồng
  4. Thiên lương
  5. Cự môn
  6. Thái dương

Các sao trong hệ sao này thường đồng cung, đối cung, hoặc tam hợp cùng chiếu, có mối quan hệ mật thiết với nhau mà sự thay đổi chủ yếu nhất trong hai hệ sao này chính là sao Phá quân và sao Thiên cơ.

Mệnh bàn Tử vi đẩu số có 12 cung, trong 14 chủ tinh thường có 2 tinh cùng tọa thủ trong một cung. Khi đó, một số cung vị thường không có chủ tinh, cần phải mượn chủ tinh của cung đối diện để suy đoán cát hung, nhưng chức năng của sao này bị giảm xuống nhiều. Như các trường hợp: Nếu cung Mệnh không có chủ tinh thì phải mượn chủ tinh của cung đối diện (cung Thiên di); nếu cung Tài bạch không có chủ tinh thì chủ tinh của cung Phúc đức có thể được mượn dùng làm “Tài bạch”. Như vậy, 12 cung và cung đối diện của nó đều là quan hệ đối chiếu. Các cung cũng đều có chức năng của chủ tinh.

Do cung Mệnh có thể rơi vào một cung nhất định trong 12 cung, mà 14 chủ tinh cũng có thể xuất hiện tại bất cứ cung nào trong 12 cung, vì vậy, kết cấu của cung Mệnh tổng cộng có 144 (12 nhân với 12) loại biến hóa tổ hợp khác nhau. Lại thêm 18 trợ tinh như 6 cát tinh, 6 sát tinh, 4 hóa tinh, Lộc tồn tinh, Thiên mã tinh, cùng với tổ hợp hơn trăm loại thứ cấp tinh như Ât, Bính, Đinh, Mậu, cấu thành nên mệnh bàn Tử vi đẩu số thiên biến vạn hóa.

Trong 14 chủ tinh, 6 sao: Tử vi, Thiên cơ, Thái dương, Vũ khúc, Thiên đồng, Liêm trinh thuộc hệ sao Tử vi (căn cứ vào sao Tử vi); 8 sao: Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân thuộc hệ sao Thiên phủ (căn cứ vào sao Thiên phủ). Hai hệ sao này đều có nguyên tắc phân bố nhất định. Khi quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy hệ sao động và sao tĩnh thường là tương cận nhau mà 12 cung trong mệnh bàn được sắp xếp một âm một dương giao nhau, như vậy, sự thay đổi của mệnh và vận là sự tiến hành thay đổi luân phiên một âm, một dương, một động, một tĩnh. Đời người cũng luôn trong quá trình luân phiên giữa chuẩn bị - ấp ủ - kế hoạch (đặc trưng của hệ sao tĩnh) và bắt đầu - làm mới - thay đổi (đặc trưng của hệ sao động). 

Người biết nuôi dưỡng bồi đắp tinh thần, trí lực trước; lại trong vận hạn của hệ sao động, chọn thời cơ thích hợp để thực thi, đột phá thay đổi vận mệnh. Người không hiểu về vận mệnh thường hay hao tổn tinh lực, hay gặp trở ngại, khi mới làm được một nửa, đã cho rằng mình sẽ mãi không thể thực hiện được, từ đó mà có thái độ tự cam chịu, sống uổng sống phí cuộc đời này. Tính quan trọng của việc nghiên cứu mệnh lý không nói cũng đã rất rõ ràng như vậy!!!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi đẩu số - Bản đồ giải mã vận mệnh bậc nhất

Ông Bà Tổ Tiên

Giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Việt liên hệ với việc truyền giáo Lm Vũ Kim Chính, SJ Giáo sư Ðại Học Công Giáo Phụ Nhân, Ðài Loan
Ông Bà Tổ Tiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ðề cập tới văn hóa, phong tục của một dân tộc là một đề tài hết sức phức tạp, vì mỗi dân tộc không ít thì nhiều là một đơn vị đặc thù, dầu vậy tính cách đặc thù văn hóa này không khải là cô lập, nhưng là kết tinh vừa tế nhị vừa phức tạp qua sự giao tiếp với các dân tộc khác, với những nền văn minh khác. Văn hóa, phong tục tập quán của nfười Việt cũng thế, là những tinh hoa đã được gạn lọc, biến hóa qua cuộc sống dân tộc của biết bao nhiêu thời đại, qua việc tiếp xúc với nền văn minh, những nguồn tư tưởng sâu rộng nhất, mạnh mẽ nhất của nhân loại như Hoa-Ấn, Hy-La. Ở đây khi chọn đề tài "Ông bà tổ tiên" liên hệ với việc truyền giáo, chúng ta đã thu hẹp phạm vi không thảo luận những liên hệ Lão giáo và Phật giáo, nhưng chỉ chú tâm vào Nho giáo và Kitô giáo có liên quan tới vấn đề "lễ nghi" đối với ông bà tổ tiên. Trước tiên chúng ta truy xét lý do tại sao người Việt thành kính ông bà tổ tiên, thứ tới thảo luận lý do người Việt Công giáo trong quá trình lịch sử gặp phải những khó khăn khi bầy tỏ lòng thành kính này theo như phong tục tập quán của mình. Cuối cùng chúng ta tự hỏi có thể học được gì trong kinh nghiệm lịch sử này để hy vọng có thể suy tư về một thần học bản vị hóa việc thành kính ông bà tổ tiên?

1. Nguồn Gốc Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên

Tuy ai cũng biết mỗi người, mỗi gia đình đều có ông bà tổ tiên riêng, nhưng nói tới việc tôn kính ông bà tổ tiên cách chung là chấp nhận những điểm tương đồng của những nền văn hóa Viễn Ðông trong lịch sử ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của Nho học, như Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam. Nên ở dây khi bàn về nguồn gốc tôn kính ông bà tổ tiên hay ở phần sau thảo luận những tranh chấp về "lễ nghi" thì những tài liệu của các quốc gia trên đều có thể dùng để bổ túc cho nhau để hiểu rõ vấn đề.

Việt ngữ dùng danh từ "tôn giáo" để chỉ chung các tín ngưỡng. Chữ "tôn" cũng còn một âm nữa là "Tông" nguyên ủy chỉ ông "thứ tổ" (ông tổ thứ hai), rồi dùng rộng hơn nữa để chỉ nơi thờ kính tổ tông, cũng như chỉ các giáo phái, học phái. Như vậy, "tôn giáo" theo ngữ văn là thực hiện lòng hiếu kính đối với tổ tông, tổ tiên. Lòng hiếu kính này được biểu tỏ nôm na theo lối bình dân như:

"ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
uống nước nhớ tới nguồn"
, hoặc:

"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn đạo hiếu mới là đạo con"
.

Hay Nguyễn Du viết trong truyện Kiều:

"Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân"
.

hay ở đoạn khác:

"Lấy tình thâm, trả tình thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời"
.

Như vậy căn nguyên tôn kính ông bà tổ tiên ở đâu? Phải chăng là một sự tôn kính "Thần Thánh" theo phẩm trật? Như sách Lễ Ký, thiên Khúc-lễ-hạ đã chép: "Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn xuyên, tế ngữ tự, chư hầu phương tự, tế ngũ tự (tức là tế Thần cửa, ngõ, giếng, bếp và giữa nhà), chư hầu tế phương mình ở, tế ngũ tự, quan đại phu tế ngũ tự, kẻ sĩ tế tổ tiên). Thực ra đây là những phương châm cho những nền văn hóa chịu ảnh hưởng Khổng học, nên dù ở Thiên An Môn bên Trung Hoa hay ở Ðàn Nam Giao tại Huế, việc tế trời chỉ có nhà vua mới có quyền đứng chủ tế. Trong lễ tế Nam Giao, trên Viên-Ðàn ở giữa là bàn Thời Trời Ðất, hai bên có hai hàng hương án song hành thờ các Tiên Ðế. Xem như thế, thừ Vua quan tới thứ dân, tế tự là việc rất quan trọng, lễ nghi được minh định có trật tự, chung qui vào hai nguyên ủy là Trời và Tổ, vì "vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ" (Lễ ký) (dịch: muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở Tổ). Nhưng thực ra hai nguyên ủy này chỉ bắt nguồn bởi một mà thôi, vì các Tổ Tiên tuy sinh ra người, nhưng tất cả đều do Trời sinh dưỡng, như Kinh Thi chép: "Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức" (Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, mới có đức tốt).

"Ông Trời" là nguyên ủy của muôn loài, nên tế Trời là quan trọng nhất, do đó không phải ai cũng được phép mà chỉ có Thiên Tử, dân chi phụ mẫu, mới được trực tiếp hành lễ mà thôi. Ông Trời tuy rất gần kề đại chúng trong cuộc sống, khi vui khi buồn đều có thể gọi "Trời ơi" được, nhưng họ không được phép trực tiếp cúng tế, nên thường kêu cầu tới Tổ Tiên hay cúng tế các thiểu thần. Chính vì thế mà Trần Trọng Kim đã viết: "Việc thờ Trời, thờ quỉ thần và tổ tiên, tuy là phân biệt, nhưng kỳ thực cũng là theo một lý cả, và chính là cái tôn giáo đặc biệt của những dân tộc theo văn minh Tầu ở Á đông". Dù được trực tiếp tế tự "Trời" hay chỉ gián tiếp qua Thần Thánh, tổ tiên, người Việt đều tin tưởng vào sự liên đới "Thiên nhân tương dữ". Theo đó con người được phú cho nhân tính để nhận ra thiên lý, để mô phạm Thiên tính, để trong cuộc sống họ thực thi nhân đạo hợp với Thiên đạo. Nói cách khác: "Trời đối với quần chúng như một nguyên ủy tiền định con người, nhưng vượt trên con người, định đoạt sinh tử, phúc họa, giầu nghèo. Họ kêu Trời vì Trời không xa ta. Trời thấu suốt tất cả, cả những tâm tư thầm kín. Họ kêu Trời vì Trời toàn năng, không mù quáng trong việc xét xử. Trời công minh vì thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ".

Nho gia thừa hưởng tư tưởng Khổng tử tin Trời là chủ tể vũ trụ, điều hòa mọi biến hóa bởi vậy tri Thiên mệnh là nguồn gốc và lý tưởng của tu tâm và dưỡng tính của bậc quân tử". "Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã" (Luận Ngữ; Nghiêu viết, XX) (dịch: không biết mệnh Trời thì không lấy gì làm quân tử). Khi bậc quân tử quyết tâm học biết và tuân theo mệnh Trời tức là sống trong tâm tình Kính và Thành. Mặc dù khi họ cúng tế thì biểu tỏ lòng chân thành: "tế thần như thần tại" (Luận Ngữ: Bát dật, III) (dịch: tế thần như có thần ở đó); nhưng đồng thời "kính quỉ thần nhi viễn chi" (Luận Ngữ: Ung giả, VI) (dịch: quỉ thần thì kính mà xa ra), vì theo Khổng tử con người làm sao biết được thế giới quỉ thần cao xa, u ẩn, nếu có tưởng tượng ra không khỏi bầy ra những điều huyền hoặc, dẫn đường cho mê tín. Như vậy, Khổng tử tuy rất trọng lễ, coi nghi thức là bày tỏ lòng Thành Kính, nhưng đồng thời cũng coi thực hành đạo Nhân là sống Thành Kính hợp với Thiên mệnh là rất quan trọng. "Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ sự" (Kinh Dịch:Văn Ngôn truyện) (dịch: quân tử lấy cái nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là đủ làm hòa cái nghĩa, biết cái trinh-chính mà cố giữ là đủ lam gốc cho mọi sự). Vậy đạo Nhân là gì? "là Cung, khoan, tín, mẫn, huệ". Khổng tử giải thích thêm: "Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người ta tin cậy được, mẫn thì có công, huệ thì đủ khiến được người" (Luận Ngữ: Dương Hóa, XVII). truy ngồn năm cái kết quả diễn đạt đạo Nhân này, chúng ta sẽ tìm ra cái Nhân Tâm Thành Kính. Tam đạo là quan trọng như thế, nên sau này, mặc dù Mạnh tử và Tuân tử mỗi người phát huy Khổng học theo đường hướng riêng, một người coi trọng "Nhân" là bảo tồn tính bản thiện của con người, một người trọng "Lễ" để chế ngự tính bản ác của người, nhưng tất cả hai đều công nhận sự trọng yếu của tâm đạo: bảo tồn lương tâm (Mạnh Tử), tu dưỡng tâm tri (Tuân tử). Ði xa hơn nữa, Mặc tử phê bình chỉ trích Nho đạo cũng vì trong thực tế tâm đạo đã bị nghi lễ tha hóa làm mất tính cách phổ biến của tâm đạo vậy.

Ðạo hiếu là một đặc tính của đạo tâm, làm cho con người tỏ lòng Thành Kính đối với cha mẹ, tiền nhân, nên chỉ nuôi dưỡng cha mẹ mà không có lòng hiếu thảo thì làm sao gọi là hiếu được! Lòng hiếu thảo này phụng sự cha mẹ lúc các ngài còn sống, tang lễ nếu các ngài quá cố: "sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế" (Luận Ngữ: Vi chính II). Hiếu đễ đối với cha mẹ tức là kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, lễ tế những bậc cha mẹ đã lễ tế. Ðó là nguồn gốc của tôn kính tổ tiên vậy. Bởi đó Tăng tử nói: "Thận chung, truy viễn, đức qui hậu hĩ" (Luận Ngữ: Học Nhi, I) (dịch: cẩn thận lúc cha mẹ chết, nhớ đến tổ tiên xa, thì cái đức của dân trở nên hậu).

Tư tưởng đạo hiếu đã thấm nhuần vào lòng người Việt trở thành một phần quan trọng của Việt tính. Kính bái tổ tiên là chân nhận giới vô hình và hữu hình luôn luôn có sự liên lạc mật thiết với nhau. Ðó là cách diễn tả sự hiệp thông giữa ông bà cha mẹ và con cháu, giữa người sống và cả chết, là dịp đoàn tụ của đại gia đình. Quan niệm vong hồn gia tiên luôn gần gũi với con cháu được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau. Ðại đa số quần chúng Việt Nam được coi là theo "đạo Ông Bà" thường có phong tục làm lễ cáo gia tiên, trong mọi tuần tiết, hoặc ngày kị giỗ, hoặc khi có việc hiếu hỉ, tang chay. Toan Ánh diễn giải thêm: Những biến cố quan trọng trong gia đình, lẽ tất nhiên gia trưởng đều có lễ cáo gia tiên, như: sinh con cái, con cái đầu cữ, đầy tháng, đầy năm, con cái bắt đầu đi học, sửa soạn đi thi, thi đỗ, dựng vợ gả chồng cho con... hay nhiều khi chỉ sửa sang lại nhà cửa, nhất là những di sản của tiền nhân để lại. Vui đã thế, buồn cũng khấn trình tổ tiên để các ngài biết và phù hộ, như việc làm ăn thua lỗ, có người đi xa, có người mệnh một... Ngoài những biến cố trong gia đình ra, gia trưởng cũng kính cáo những việc quan trọng khác xẩy ra trong làng nước, như làng có cướp tới, đất nước sinh loạn lạc hay những tin vui trong thôn xã,... Tất cả những kính cáo, trình khấn trên mục đích để tổ tiên hiệp thông hay phù trợ trong những khi vui cũng như lúc buồn. Tùy từng trường hợp, tùy từng gia cảnh mà sửa soạn lễ. Nhiều khi gia chủ chỉ cần sửa soạn cái lễ nhỏ, như chén trà, đĩa xôi, nải chuối. Cũng có khi lễ lạc linh đình. Toan Ánh kết luận: "Con cháu nhớ đến tổ tiên thì cúng, năng cúng bái càng tỏ rõ lòng hiếu thảo của mình đối với các cụ. Sống khôn chết thiêng, các cụ thấy con cháu hiếu kính, ất vong hồn cũng vui mừng".

Nói tới cúng vái tổ tiên tức là phải nói tới bàn thờ gia tiên. Bàn thờ này mặc dù trang trí có khác nhau, nhưng đại để đều có bài vị, bình hương, nến sáp... Nếu là bàn thờ họ thường đặt trong miếu đường, chính giữa có bàn thờ riêng thờ ông "Thủy Tổ" của dòng họ. Còn các bàn thờ biệt tông, biệt phái khác trong mỗi ngày giỗ kỵ của tông, phái mình mới được bày ra. Trên bàn thờ Thủy Tổ luôn có cuốn gia phả ghi rõ danh tánh các chi nhánh dòng họ. Nhiều khi gia phả này được ghi khắc trên tường sau bàn thờ Thủy Tổ.

Quần chúng tuy một đàng muốn bày tỏ lòng hiếu kính mình đối với tổ tiên, nhưng họ không thể phân biệt rõ ràng như những nho sĩ "vụ dân chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi", nên thực hành đạo hiếu và thờ quỉ thần đã trở thành lẫn lộn. Vì muốn bảo vệ phần mộ ông cha, nên nhớ tới Thần Thổ Công, Thần Hà Bá. Ngoài ra còn có những thần tại gia khác như: Thần Tài, Thần Tiên Sư (hay Thánh Sư, Nghệ Sư, tức là ông tổ mỗi nghề), Ðức Quan Thánh... để bảo vệ che chở mình hay giúp phát tài,... Chính vì thế mà khi các nhà truyền giáo Tây Phương tới Việt Nam hay Trung Hoa gặp phải những khó khăn làm sao thấu hiểu tinh thần, nhất là về tinh thần "lễ nghi" tôn kính ông bà tổ tiên.

2. Tôn Kính Tổ Tiên Liên Hệ Tới Việc Truyền Giáo:

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa bắt đầu bằng những bước dò dẫm, va chạm những khó khăn về phiên dịch, vì hai loại ngôn ngữ biểu tả hai văn hóa quá khác nhau, nên không biết phải làm sao mới có thể đạt tới việc "bản vị hóa" chân chính được. Thoạt đầu những nhà truyền giáo tiên khởi dùng ngôn ngữ địa phương để phiên âm những từ căn bản của Kitô giáo, như thánh Phanxicô Xavier đã Nhật âm hóa tiếng Latinh: Deus Pater, Deus Filius, Deus Spiritus Sanctus là: Deusu Patere, Deusu Hiiruo va Deusu Spiritusu Santa (có khoảng 50 ngữ vựng căn bản như thế). Nhưng cách phiên âm này đã gặp những khó khăn lớn, vì hoặc là âm đó có một nghĩa khác trong ngôn ngữ là "Deusu" làm trò cười cho nhiều Phật đồ Nhật, vì họ liên tưởng tới một âm tương tự là "daiuso", có nghĩa là "Nói dối đại tài". Thấy cách phiên âm này không ổn, nên các nhà truyền giáo kế vị các bậc tiên khởi này như A. Valignano, M. Ricci, A. Schall, A. de Rhodes v.v... đã học hỏi ngôn ngữ và tư tưởng địa phương để Kitô giáo được thích ứng với môi trường mới. Trong lúc phiên dịch và thích ứng này đã xảy ra cuộc tranh chấp về "lễ nghi". Cuộc tranh chấp này mặc dù đầu tiên là bàn về hai phương pháp truyền giáo được hai phe (một bên là dòng Tên, một bên là dòng Ðaminh, dòng Phanxicô và hội Thừa Sai Balê) chủ trương, nhưng dần dần đã vượt qua phạm vi thuần túy truyền giáo và tôn giáo trở thành một tranh chấp bị những ảnh hưởng chính trị, quyền bính chi phối, nên đã trở thành một tấm bi kịch của lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông. Ở đây chúng ta chỉ có thể chú tâm tới những dự kiện chính yếu mà thôi.

Trước tiên chúng ta bàn về vấn đề phiên dịch. Sau khi thảo luận những khả thể dịch chữ, "Deus", các nhà truyền giáo đã đồng ý dùng chữ "Thiên Chúa". Nhưng dùng cách thế nào để giải thích chữ "Thiên Chúa" thì hai phe có những lập trường khác nhau. Một bên cho rằng dùng chữ "Thiên Chúa" để chỉ Deus thì phải hiểu hoàn toàn khác, hoàn toàn độc lập, không thể dùng một từ ngữ nào như "Thiên", "Thượng Ðế" để diễn giải được, vì "Thiên" theo ý họ "chỉ có nghĩa là bầu trời" (ciel materiel et visible), còn quan niệm "Thượng Ðế" là quan niệm dân ngoại thường dùng, nếu ta dùng sẽ rơi vào giới "vô thần" như dân ngoại. Một bên khác cho rằng chữ "Thiên Chúa" mặc dù là chữ ghép mới để chỉ Deus, nhưng có thể dùng những quan niệm sẵn có trong kinh điển Trung Hoa xưa như "Thiên", "Thượng Ðế" để người Trung Hoa có một mấu cứ để thăng hóa, nhờ đó mới dễ dàng hiểu rõ nghĩa thực sự của "Thiên Chúa" được. Thực ra, hai bên dùng hai phương pháp thần học cổ điển vẫn dùng là: phương pháp "phủ nhận" (via negotiva) và phương pháp "sánh loại" (via analogia). Ðứng trên phương pháp học không có chi đáng bàn cãi, nhưng động lực nao khiến họ chọn hai phương pháp này để nói lên thái độ của họ đối với nền văn hóa địa phương. Ðó mới là điều quan trọng. Dù sao đi nữa, sự kiện xẩy ra trong lịch sử là: Giám Mục Charles Maigrot, đặc sứ tông tòa ở Phúc Kiến đã nhân danh Thánh Bộ truyền giáo tuyên bố: từ ngữ "Thiên Chúa" phải được dùng để chỉ chữ "Deus" còn những tiếng khác như "Thiên" và "Thượng Ðế" thì không được dùng.

Ðối với người Công Giáo Việt Nam hiện nay, ta dùng chữ "Thiên Chúa" trong văn chương, nhưng cũna dùng chữ "Ðức Chúa Trời" theo nghĩa bình dân để chữ "Deus". Trong khi đó những người không Công Giáo thường dùng "Ông Trời" (Trung Hoa dùng chữ Lão Thiên) để chỉ Ðấng Tối Cao. Thực ra, quan niệm "Trời" không phải chỉ là "bầu trời", nhưng cũng là "Hóa Công", đấng sinh thành vũ trụ, vì vậy tại sao chúng ta không thể dùng những quan niệm đã có sẵn trong kinh điển Trung Hoa, đã được nhiều người biết tới để giải thích một quan niệm chí ư "trừu tượng", đối với họ hoàn toàn mới lạ như Deus. Phải chăng phản đối dùng những quan niệm như "Thượng Thiên", "Hiển Thiên", "Hoàng Thiên", "Thượng Ðế" để giải thích chữ "Thiên Chúa", vì các nhà truyền giáo sợ người Trung Hoa, Việt Nam không hiểu xác thực được nghĩa Deus của Kitô giáo, hay là các nhà truyền giáo đó đã không hiểu rõ được những quan niệm trên trong tư tưởng Trung Hoa? Trần Văn Hiến Minh còn đi xa hơn nữa, khi ông quả quyết: "Quan niệm một Tiên Chúa có ngôi vị, Thượng Ðế là một trực giác đầu tiên của người Trung Hoa từ xa xôi bao ngàn năm trước. Tất cả cuộc sống Trung Hoa cổ kính đều qui hướng vào đó". Ðề mục họ Trần nêu ra có thể là một đề tài thảo luận hào hứng, nhưng vượt qua phạm vi của bài nói chuyện này. Dù "Thượng Ðế" theo người Trung Hoa hiểu có "ngôi vị" hay không, cũng không thể là lý do chính đáng không dùng những quan niệm đó để "giải thích" tiếng "Thiên Chúa" được.

Như vậy ta thấy được tranh luận về mấy danh từ trên không phải chỉ là một cuộc thảo luận lý thuyết thần học hay ngôn ngữ, văn chương, nhưng là tỏ rõ đường hướng của hai phe đối với vấn đề truyền giáo: giáo hội có thể dùng di sản văn hóa của địa phương để diễn đạt giáo lý, nghi lễ của mình hay không? Mà được phép dùng tới mức nào? Tại sao có thể dùng hay bị cấm dùng như vậy?

Bây giờ chúng ta trực tiếp đề cập tới cuộc tranh luận "lễ nghi". Vấn đề chính của cuộc tranh chấp này là câu hỏi: lễ nghi đối với tổ tiên là "tôn thờ" tổ tiên vì nghi thức này có tính cách tôn giáo. Tôn thờ tổ tiên là những người theo "đạo Ông Bà". Nói cách khác, nghi lễ tôn thờ này được cử hành trong những nơi nhất định (chủ đường hay tông đường hoặc tại gia, trước bàn thờ tổ), có những qui định riêng (thành văn hoặc bất thành văn) và đối tượng của đạo này là "tôn thờ Bài Vị" của những người quá cố, Bài Vị này là chỗ của các Hồn người quá cố "cư ngụ". Khi hành lễ gia trưởng chắp vái hay quì lạy, dâng hương, báo cáo, cầu xin trước bàn thờ vong linh có đốt nến và bày những lễ cúng như hoa quả, bánh rượu... lễ nghi này cũng giống như lễ nghi trước phần mộ khi mai táng hay trong các dịp kỵ lễ. Sau khi đã mô tả những chi tiết trên, cộng thêm sự ghi chú những tính cách tôn giáo của đạo ông bà, các vị thừa sai này đã đặt những câu hỏi xin thánh bộ giải quyết, như: xin hỏi người Kitô hữu có được phép cử hành những nghi lễ và dâng cúng trước bài vị theo như tập tục ở chủ đường hoặc nơi phần mộ hay trước linh cửu? Và nếu họ được phép làm như vậy thì họ có thể tham dự với dân ngoại hay hành lễ một mình? Hay câu hỏi: Người Kitô hữu có được dựng bài vị tổ tiên ở trong nhà mình với chữ khắc "Thần Chủ" không? Dĩ nhiên những câu hỏi này đã được sửa soạn bằng những "mô tả" hàm xúc một câu trả lời phủ nhận. Có người còn đi xa hơn nữa, coi việc "Tôn thờ tổ tiên" ở Trung Hoa giống hệt như việc thờ phượng các thầ Manes xưa ở Hy lạp hay La Mã: "Theo lịch xưa của người La Mã khi thời thờ ẩu thần còn hiển trị, có nhắc tới một dịp lễ gọi là "Feralia", bắt đầu từ 20 tháng 2 kéo dài tới cuối tháng 2. Lễ này là dịp tôn thờ các Thần Manes. Dân ngoại đem thịt đặt trên mộ các người quá cố để họ hưởng, như tiến sĩ Varron đã giải thích. Ðó cũng là những việc mà những người Trung Hoa hành lễ ở các chùa chiền, trên phần mộ hay trong tư thất trước bài vị tổ tiên". Sự so sánh này đặt người hữu trách trước một sự lựa chọn không thể chối được: Nếu xưa giáo hội đã hủy bỏ phong tục thờ tà thần Manes, tại sao ngày nay lại có thể cho phép làm như thế ở trung Hoa. Lý chứng này càng ảnh hưởng tới người hữu trách khi người đó không hiểu thấu hiện trạng phức tạp ở miên Viễn Ðông.

Trong khi đó, phe khác coi nghi lễ đối với ông bà tổ tiên là sự "tôn kính" bày tỏ lòng hiếu đễ của con cái đối với bậc tiền nhân, dù khi còn sống hay đã quá cố. Trước tiên họ nhận định những nghi lễ trong các chùa chiền hay trước những thần tượng bày rải rắc khắp nơi là có tính cách tôn giáo và nhuốm nhiều màu sắc mê tín, dị đoan. Họ cũng công nhận thái độ mê tín này có thể ảnh hưởng tới việc tôn kính tổ tiên, nếu không được giải thích minh bạch giữa nơi tôn thờ và tôn kính: Ngược với "chùa miếu" là nơi tôn thờ các thần thánh, "đường" nơi có tính cách "trung tính" (có thể dùng liên quan tới tôn giáo hay không). Do đó, "chủ đường" hay "tông đường" (hay nói nôm na là "chỗ dành cho tổ tiên") là "nơi" kính nhớ ông bà tổ tiên để tỏ lòng biết ơn với những người quá cố, cũng như phong tục tập quán địa phương có những "nơi" riêng trọng kính các vị tiền bối lúc sinh thời. Còn Bài Vị thực ra không phải là "bàn thờ" thực, nhưng thường là một thanh gỗ được sửa soạn tươm tất ở trên đó có ghi danh tánh ông bà tổ tiên được bày trên án hương. Tuy Bài Vị "là biểu tượng" cho vong linh người quá cố, nhưng không phải là chỗ "cư ngụ" của hồn linh đó. Các vị này giải thích: trong quá khứ người Trung Hoa có thói quen tìm một người "thay thế" cho một người thân quá cố. Phong tục này được chuyển hóa bằng việc dùng bài vị như là biểu tượng của người quá cố ở giữa con cái. "Bài vị được dựng nên không phải để đánh dấu sự hiện hữu của một linh hồn mà người ta tin rằng linh hồn đó cư ngụ ở bài vị, nhưng đúng hơn là để thức tỉnh một thái độ luân lý và sự biểu tượng này có thể coi như sự hiện diện của một thân xác". Trong khi đó, việc "hóa" vàng giấy, đốt những đồ vật làm bằng giấy cho tổ tiên dùng là những điều mê tín, dị đoan cần cấm bỏ. Ngược lại, những cử chỉ bái lạy hay quỳ gối là những cung cách người Trung Hoa thường dùng để tỏ lòng tôn kính đối với bậc trên, dù những người này còn sống hay đã qua đời. Ðiều đáng chú ý là, chính vua Khang Hy ngày 30.11.1700 đã tự tay chứng thực bản văn do các cha dòng tên thảo nói những lễ nghi tôn kính Khổng Tử, tổ tiên là những hình thức bày tỏ lòng thành kính mà thôi: "Nói là Khổng Tử được thờ phượng để xin sự khôn ngoan hay để xin được thăng chức hay thêm bổng lộc là không đúng... Dựng bài vị tiền nhân quá cố không có nghĩa là linh hồn tổ tiên được nghĩ là thực sự ngự trị trong miếng gỗ này... Mục đích thực sự của nghi lễ tôn kính tổ tiên là con cháu trong một dòng tộc không được phép quên, nhưng luôn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên cho đến muôn đời". Nhưng lời chứng thực của vị hoàng đế trung Hoa, người có thẩm quyền nói lên ý nghĩa thực sự của phong tục tập quán, đã không được tòa thánh thời đó lưu ý tới.

Trên đây là lược thuật tổng quát lập trường của hai phe phái về vấn đề đối với tổ tiên có liên hệ đến việc truyền giáo. Cuộc tranh chấp "lễ nghi" này đã tạm thời kết thúc khi Ðức Giáo Hoàng Clement XI ngày 20.11.1704 đã quyết định:

- Cấm dùng chữ "Thiên" hay "Thượng Ðế" để giải nghĩa "Thiên Chúa". Theo đó không được dùng "mensa seu altare" (bàn thờ) để "kính Thiên" trong nhà thờ.

- Người Kitô hữu không được phép tổ chức hay tham gia những lễ nghi theo như phong tục đối với Khổng Tử hay những người quá cố. Do đó cũng không được phép lập "chủ đường", miếu đường", cũng không được phép dâng lễ vật trong miếu đường hay gia thất vì những nghi thức này liên hệ tới mê tín ("tamquam superstitione inseparabilia"). Tông huấn (Ex illa die) đã được quyết định, đã được đặc sứ tòa thánh, Hồng Y De Tournon mang sang Trung Hoa để ban hành. Sau ba lần De Tournon hội kiến với Hoàng Ðế Khang Hy, Tông huấn đã không được chính thức ban hành cho tới ngày 19.3.1715 mới được Giám Mục đầu tiên của địa phận Bắc Kinh Charles Castorano ban hành. (Trong khi đó De Tournon đã mất ngày 8.6.1710 ở Macao). Tông huấn "Ex illa die" được chính thức ban hành gây ra nhiêu phản ứng khác nhau, nhưng khi phải quyết định phát thệ "chống lễ nghi" theo chỉ thị của tòa thánh, các nhà truyền giáo đã anh dũng bỏ lập trường riêng để chấp nhận tông huấn "Ex illa die". Về phần Khang Hy, ông thấy Công Giáo chống đối lễ nghi và tập tục Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, đã đổi thái độ từ thân thiện sang nghịch thù. Nhưng cuộc tranh chấp chưa kết thúc, vì chính Ðức Clement XI lại sai một đặc sứ khác là Charles Ambrose Mezzabarba, tân giáo phụ của Alexandria tới Bắc Kinh ngày 26.12.1720. Sau khi đã hội kiến, lắng nghe các nhà truyền giáo báo cáo và đã được tiếp kiến Hoàng Ðế, C. A. Mezzabarba đã trở về Maccao và thảo một bức thư mục vụ ca ngợi tinh thần phục tùng và thống nhất của các nhà truyền giáo, đồng thời đã liệt kê "Tám điều được phép" để dễ dàng thực hành mục vụ. "8 điều được phép này" đã được ban hành ngày 4.11.1721, nới rộng những điều cấm ngặt của tông huấn "Ex illa die". Tỉ dụ: được lập "bài vị" trên đó chỉ được phép ghi tên người quá cố. Tất cả các lễ nghi trung Hoa đối với tổ tiên nếu không pha trộn mê tín mà chỉ có tính cách "dân sự" (Civil) thì đều được phép tổ chức hay tham dự. Hay là: được phép dùng nến, hương, hoa quả, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với người quá cố... "8 điều được phép này" đã làm sống lại cuộc tranh chấp "lễ nghi" một lần nữa, nhất là sau khi đặc sứ C.A. Mezzabarba đã trở về Âu Châu. Một đàng khác, Dũng Thành kế vị Khang Hy được một năm thì ra chỉ thị trục xuất những nhà truyền giáo trừ những người được mời ở lại. Tình trạng hỗn độn này cuối cùng đã được chấm dứt với Tông huấn "Ex Quo Singulari" do Ðức Benedictus XIV ban hành ngày 11.1.1742. Tông huấn này là tông huấn cuối cùng cấm ngặt "lễ nghi" đối với tổ tiên và rút lại tất cả những điều cho phép trước kia. Ðức Benedictus XIV đã minh định: "không phải xấu vì bị cấm, nhưng bị cấm vì xấu".

3. Bàn Về Việc Tranh Chấp "Lễ Nghi"

Trong quá trình tranh chấp như chúng ta thấy ở trên khó mà phân định được "bị cấm vì xấu" hay "xâu vì bị cấm". Ngay cả khi đã bị cấm nhưng trên thực tế chỉ là tránh né vấn đề hơn là giải quyết vấn đề. Bằng chứng là sau gần 200 năm bị cấm ngặt, ngày 8.12.1939 thánh bộ truyền giáo đã hủy bỏ việc bắt các nhà truyền giáo phải tuyên thệ chối bỏ "lễ nghi" mà tông huấn năm 1742 đã đòi buộc và đồng thời tuyên bố các Kitô hữu và các nhà truyền giáo ở trung Hoa, Việt Nam... đối với việc tôn kính Khổng Tử và tổ tiên cần có một cái nhìn "mới". Cái nhìn mới này sau công đồng Vaticanô II đã trở thành một khía cạnh quan trọng để thành lập một nền thần học bản vị hóa. Như vậy Bản vị hóa không những chỉ được phép mà phải được khuyến khích. Ðứng trên một thái độ mới này nhìn lại lịch sử tranh chấp chúng ta dễ có cái nhìn khách quan hơn.

Trước tiên chúng ta nhận định "mạch sống" của hai phe. Một bên đứng trên quan điểm của người trí thức, của tân nho gia đời Minh, để tìm hiểu ý nghĩa của các nghi lễ. Nếu lễ nghi đối với hổng Tử, tổ tiên thuộc về tôn kính hơn là tôn thờ thì hiển nhiên thuộc về phạm vi luân lý hơn là tôn giáo. Quả thực các nhà trí thức Trung Hoa đã hiểu như thế, vì vậy lập trường của các nhà truyền giáo này đã được Hoàng Ðế Khang Hy chứng thực. Chúng ta thấy hiện nay những "lễ nghi" tưởng niệm Khổng Tử hay các vị tiên đế đã mang một ý nghĩa hoàn toàn "dân sự". Các nhà trí thức Việt Nam như Trần Văn Chương, Hồ Ðắc Diễm, Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim v.v... cũng cho những nghi lễ tôn kính ông bà là bày tỏ lòng con cái hiếu thảo đối với tổ tiên, là hành động muốn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên mà thôi. Vì thế cúng bái ông bà tổ tiên theo như tập tục không phải là hành động của "niềm tin", nghĩa là qua đó cắt nghĩa một sự mầu nhiệm liên quan tới sự sống và sự chết, cũng không phải là hành động "phi lý" nhưng là những củ chỉ "tự nhiên" (theo phong tục tập quán của một nền văn hóa) do tấm lòng hiếu thảo thôi thúc. Cũng vì thế những việc dâng hương cúng quả, tiến rượu bày cỗ trước Bài vị không mang một ý nghĩa phụng dưỡng vật chất nào cả. Quan trọng nhất là vì nhớ tới ông bà tổ tiên nên con cái cháu chắt thấy họ có bổn phận phải sống như một người tốt, một tôi trung, một đệ tử thành tín, một người chồng gương mẫu, một người vợ hiền, một người con thảo... để khỏi làm nhơ danh tiền nhân. Ðây là quan niệm tôn kính tổ tiên trong mạch suấng của trueỳn thống nho học đặt nặng trên bổn phận luân lý.

Trong khi đó các nhà truyền giáo khác đứng trên phương diện của giới bình dân coi việc tôn kính ông bà tổ tiên là một lễ nghi tôn giáo, vì vậy họ nghĩ rằng cho phép cử hành những nghi thức này tức là hỗn hợp các tôn giáo, làm tha hóa, làm tha hóa Kitô giáo và làm hoang mang lòng các tín hữu. Do đó, họ xin tòa thánh qui định rõ ràng để dễ thực hành mục vụ. Ở đây ngôn ngữ là vấn đề then chốt. Nhưng để giải quyết nạn ngôn ngữ thiếu minh bạch mà cấm dùng ngôn ngữ đó thì không phải là giải pháp thỏa đáng, vì nếu không dùng chữ "Thiên" để giải thích "Thiên Chúa" thì khi dùng chữ "Thiên Chúa" người địa phương cũng không thể hiểu khác hơn mạch sống văn hóa của họ được. Cũng vậy, gọi Khổng Tử là "Thần nhân" thì ý nghĩa của chữ "Thần" này không thể hiểu theo một mạch văn hóa khác được (tỉ dụ như thánh nhân theo nghĩa hẹp của Giáo Hội Công Giáo). Cũng thế, những hạn ngữ như "Altare", "Sacrificium", genuflectio, templum... là những từ ngữ tùy theo nền văn hóa Âu Châu hay Trung Hoa, Việt Nam mà mang một ý nghĩa khác nhau. Nếu dùng cái nhìn của nền văn hóa Âu châu phán đoán những hiện trạng của nền văn hóa Á Châu tức là đã tách những dự kiện, hình ảnh tượng trưng ra khỏi mạch sống văn hóa. Nếu hai nền văn hóa đó quá khác nhau và chưa hiểu nhau được, thì làm sao tránh khỏi được những ngộ nhận. Nếu quyền phán quyết dành cho một phía khi chưa thấu triệt vấn đề thì phán đoán đó làm sao tránh khỏi những thiên kiến?

Tóm lại, cuộc tranh chấp "lễ nghi" nói lên những khó khăn mà một thần học bản vị hóa trong một môi trường cụ thể đã gặp phải và dần dần vượt qua. Cuộc tranh chấp trên không những chỉ bộc lộ hai phe đứng trên hai phạm vi khác nhau để nhìn một vấn đề mà cũng đứng trong những giai đoạn tiến tới thần học bản vị hóa khác nhau, nên gặp nhau trong đối thoại. Sự tranh chấp lễ nghi trở thành một thảm kịch trong lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông, vì giải quyết sự tranh chấp đã không nằm trong mạch sống đó, nhưng ở ngoài và ở trên mạch sống văn hóa, nên không thấu đáo được những nhu cầu sống của giáo hội địa phương.

Như vậy, đề cập tới vấn đề "Ông Bà Tổ Tiên" có liên quan tới việc truyền giáo tức là phản tỉnh một nền thần học bản vị hóa. Bản vị hóa không có nghĩa là chỉ hội nhập và chấp nhận những gì có sẵn trong nền văn hóa đó, nhưng đồng thời cũng thăng hóa những giá trị đó. Vậy theo đó ý nghĩa của lễ nghi đối với ông bà tổ tiên là gì? Nếu chỉ coi lễ nghi đối với tổ tiên là cách bày tỏ lòng hiếu đễ, tức là thực thi một bổn phận luân lý, thì chưa chứng minh lý do tại sao con người đòi buộc phải thực hành luân lý như vậy. Nếu ta coi sự đòi buộc đó là một sự tự minh (self-evident) thì hoặc là rơi vào chủ nghĩa độc đoán (dogmatism) hoặc chủ trương thuyết "vô tri thức" (agnosticsm) như khuynh hướng của một số nhà nho tân thời ở Ðài Loan hiện nay. Cả hai khả thể trên chỉ là né tránh vấn đề mà không giúp chúng ta hiểu tại sao con người phải thi hành bổn phận luân lý với tổ tiên. THực ra khi những nhà truyền giáo dòng Tên chủ trương coi lễ nghi tôn kính ông bà thuộc phạm vi luân lý, họ tin rằng một khi đã tìm ra ý nghĩa nguyên ủy và chính yếu của lễ nghi này, họ có thể giáo dục quần chúng gọi bỏ những mê tín mọc rườm rà bên ngoài và cuối cùng có thể biến hóa những bổn phận luân lý đó cho họp với niềm tin Kitô giáo. Như vậy, mặc dù học nhấn mạnh "lễ nghi" này thuộc phạm vi luân lý, nhưng ngầm xác định cn bản của luân lý không thể tách rời khỏi niềm tin tôn giáo được. Mối liên hệ giữa luân lý và tôn giáo này có thể dùng tư tưởng sẵn có trong kinh điển Trung Hoa như niềm tin "Thiên nhân tương dữ" và "vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ" để giải thích. Theo đó tôn kính ông bà không thể độc lập với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc kính Thiên được, vì con người cũng là thành phần của vạn vật mà nguyên ủy của vạn vật là Thiên. Hiểu như thế, việc tôn kính ông bà tổ tiên không những không phản với đạo Công Giáo mà còn bộc lộ được tính cách đặc biệt đông phương, đạo hiếu của người Việt, đồng thời qua việc đưa hành động tôn kính này hòa hợp với tinh thần Kitô giáo, chúng ta vừa thăng hóa vừa qui tụ những giá trị luân lý và những hình thức bày tỏ trên về cội gốc của muôn loài: chúng ta hiếu thảo cha mẹ vì Chúa là Cha chúng ta đã dậy như thế. Nói cách khác, một khi việc tôn thờ "Trời". "Thượng Ðế"... những danh từ chỉ Thiên Chúa ẩn hình (Deus absconditus) được niềm tin do Ðức Kitô mặc khải soi chiếu, canh cãi và hoàn hảo hóa, thì những hành động có tính cách nhân bản của một nền văn hóa cũng được xác định và thăng hóa theo đúng mức nahn bản của nó.

4. Kết luận

Thảo luận việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ tới việc truyền giáo là dịp may hiếm có để chúng ta suy tư về một khía cạnh của nền thần học bản vị hóa Việt Nam. Trong bài học lịch sử trên chúng ta nhận ra hậu quả của một cuộc tranh chấp lễ nghi mà đã bị tách rời khỏi mạch sống văn hóa và bị phán quyết do những người chưa thấu đáo ý nghĩa của nó. Tấm bi kịch này là một điển hình của bước khó khăn trong cuộc gặp gỡ của hai nền văn hóa cổ truyền, mạnh mẽ nhưng khác nhau, khi hai nền văn hóa đó thiếu uyển chuyển nên ngăn cản việc thăng hóa tới một hợp đề bao gồm một nền nhân bản phong phú hơn. Sau công đồng Vaticanô II việc tích cực tìm hiểu nền văn hóa địa phương, xác định những giá trị nhân bản chân chính của những tôn giáo khác, những luồng tư tưởng khác trở thành một nhu cầu thường nhật của mỗi giáo hội địa phương. Chúng ta nghiên cứu việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ với việc truyền giáo ở Việt Nam, ở Trung Hoa, không phải để nuối tiếc một dịp may đã qua, nhưng quan trọng hơn là tìm thấy những ý nghĩa có liên quan tới cuộc sống đạo hiện tại của chúng ta. Nói cách khác sau khi đã nhận định lòng hiếu thảo là một giá trị nhân bản căn bản của nền văn hóa ảnh hưởng nho học, và ý thức được những lễ nghi tôn kính khác với những mê tín dị đoan, chúng ta tự hỏi, chúng ta có thể thực hiện những hình thức, "lễ nghi" nào để biểu tỏ lòng thành kính, hiếu đễ của chúng ta? Nhưng để những nghi thức đó không rơi vào trạng thái "vụ hình thức" "cố chấp" chiếu lệ. điều quan trọng nhất là tấm lòng người Việt thành kính mà chúng ta có thể gọi là "Tâm Việt". Tâm Việt đối với ông bà tổ tiên là một khía cạnh biểu lộ của Tâm Việt. Khía cạnh này không thể tách rời khỏi lòng thành đối với Thượng Ðế được, nếu không Tâm Việt này sẽ thiếu nguồn sống và trở thành độc đoán. Bởi đó Tâm Việt là nguồn sống của "Việt tính". Dĩ nhiên Tâm Việt này còn có thể biểu lộ theo những cách thế khác tùy theo ta nhìn từ Phật Giáo hay Lão Giáo mà trong bài này chúng ta không có dịp để bàn tới. Có Tâm Việt như vậy chúng ta mới có thể bước thêm một bước nữa là đi tìm một hợp đề của Tâm Việt trong môi trường cụ thể mà chúng ta đang sống ở hải ngoại này. Hợp đề này là một mức độ nhân bản cao hơn vì nó được cải hóa và bổ túc do hai nền văn hóa khác nhau. Tiên chuẩn canh cải và hoàn thiện này không gì khác hơn là một nhân bản thuần túy: Hiện Thân của một mẫu mực Thiên Nhân tương dữ, Thiên Nhân hợp nhất, Thiên Chúa Nhập Thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ông Bà Tổ Tiên

Xem bói -xem tướng tay của người xưa

Dường như đôi tay hàm chứa toàn bộ ý nghĩa cuộc đời và sự thăng trầm chủ yếu trong vận mệnh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói, xem tướng tay là một thuật xem tướng xa xưa, mức độ phức tạp của nó dường như có thể tương đương với tướng mặt. Độ to nhỏ, dày mỏng của bàn tay, độ dài ngắn, to nhỏ của nắm tay tương quan giữa các ngón tay, đường vân tay đều liên quan đến nhiều học thuyết mệnh lý.

Các nhà xem tướng thuật cho rằng, tay bên ngoài nối với tứ chi, trong nốì với nội tạng, dự báo được mất. Do đó từ xem bói tướng tay tốt xấu có thể đoán được thọ yểu, quý tiện, hiền ngu. Trong các điển tập tướng thuật cổ xưa có nhiều luận thuật về tướng tay, phần lớn dựa vào các vị trí trên tay để luận.

Dường như đôi tay hàm chứa toàn bộ ý nghĩa cuộc đời và sự thăng trầm chủ yếu trong vận mệnh. Lấy hình tay để luận thì thường cho rằng tác dụng của tay là “giữ” và “cầm”. Do đó cho rằng, người có tay dài thanh mảnh có tính tình lương thiện, thích cho đi. Người có tay dày ngắn tính tình keo kiệt. Thân người nhỏ tay to thì phúc thọ, người có thân to tay nhỏ bần cùng và đoản mệnh. Người có tay nhỏ mềm là thanh quý, người có tay thô cứng là hạ tiện. Người có tay như bàn chân của gà thì không có trí tuệ, như móng lợn thì ngu đần, mu bàn tay lộ gân là ngưòi gian khó. Ngưòi có tay trái ngắn ít tài năng, người có tay phải ngắn giỏi võ lược. Ngón tay nhỏ dài thông minh, ngón tay ngắn thì bần tiện ngu đần.

Bàn tay dày khít thì nhiều của, người có bàn tay cứng và ngón tay tách ròi nhau là phá bại. Bàn tay trong tướng thuật được coi là hình ảnh thu nhỏ của toàn bộ vũ trụ, phân thành Tam tài, Bát quái, Ngũ hành tương ứng với thiên tượng và nhân sự. Thuyết mệnh lý trong nó được khắc họa khá tỉ mỉ với đặc điểm chủ yếu là vân bàn tay, sau đó là vân mu bàn tay và vân nắm tay, vân ngón tay. Trong Ngọc quản chiếu thần cục của Tống Tề Khưu thời Nam Đường liệt kê 72 loại vân bàn tay, mỗi loại đều có các ca quyết, được các thuật sỹ đều coi là pháp điểm, lưu truyền rộng khắp.

Thuật xem bói tay cổ đại Trung Quốc xuất hiện vào khoảng thời Xuân thu cùng với thuật xem bói tướng mặt. Ban đầu là xem chân tay, sau là xem bàn tay, tiếp đến xem ngón, xem vân, dần dần phát triển thành một tướng pháp cực kỳ quan trọng trong tướng thuật. Lý luận tướng tay cổ đại thường kêt hợp với lý luận Đông y, học thuyết Âm dương Ngũ hành, Bát quái, từ đó mà có tác dụng trong nhiều phương diện như chân đoán điều trị bệnh và dự đoán 3 vận mệnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói -xem tướng tay của người xưa

Nhận biết số mệnh lấy chồng giàu có qua đường hôn nhân

Nếu nữ giới có một trong những đặc điểm về đường hôn nhân dưới đây, ắt sẽ lấy chồng giàu sang, sống trong vinh hoa phú quý.
Nhận biết số mệnh lấy chồng giàu có qua đường hôn nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nữ giới có đường hôn nhân kéo dài chạm vào đường sinh đạo thường lấy chồng giàu sang, hưởng vinh hoa phú quý nhưng dễ gặp trắc trở, mâu thuẫn trong tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên cuối cùng mọi sự đều yên ổn. 
 

Tuy nhiên, tùy vào từng đặc điểm đường chỉ tay hôn nhân mà nhận biết được cuộc sống hôn nhân của họ hạnh phúc hay gặp trở ngại.
 
1. Đường hôn nhân ngắn, hướng thẳng đến gò Thái Dương

Nhan biet so menh lay chong giau co qua duong hon nhan hinh anh
Nữ giới có tướng tay này sẽ lấy chồng giàu sang và hạnh phúc trong hôn nhân

Nữ giới có đường chỉ tay hôn nhân ngắn, nhưng hướng lên phía trên đến tận gò Thái Dương là số quý nhân, sẽ lấy chồng giàu sang và được thừa hưởng cơ nghiệp lớn. Hơn thế, người này còn có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, được chồng hết mực yêu thương và chiều chuộng.
 
2. Đường hôn nhân kéo thẳng xuống đường sinh đạo

Nếu bàn tay nữ giới có đường hôn nhân dài, nhập vào đường sinh đạo (hay còn gọi là đường sinh mệnh), đây là dấu hiệu cho thấy khả năng người này sẽ được gả cho nhà quyền quý là rất cao. Tuy nhiên, cuộc sống hôn nhân sau này cũng gặp không ít trắc trở, nhưng cuối cùng mọi sự yên ổn.

Nhan biet so menh lay chong giau co qua duong hon nhan hinh anh 2
Tướng chỉ tay này lấy chồng giàu sang nhưng dễ mâu thuẫn trong tình cảm vợ chồng

Mọi cử chỉ ngôn từ ban đầu khi về nhà chồng của người này đều gây sự chú ý cho mọi người. Vì đó là gia đình quyền thế, có địa vị nhất định trong xã hội. Người này cũng dễ trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý. 
 
3. Trên đường hôn nhân xuất hiện hình đảo

Đây là tướng tay hiếm gặp, tuy nhiên vẫn xuất hiện ở một số người. Phụ nữ có đường hôn nhân xuất hiện một hình tròn nhỏ như một ốc đảo thường được gả vào nhà giàu sang, có thế lực. Tuy nhiên, tình cảm vợ chồng sau hôn nhân của người này không thuận lợi, dễ bị người thứ ba chen ngang phá đám. 

Nhan biet so menh lay chong giau co qua duong hon nhan hinh anh 3
Mặc dù lấy chồng giàu có nhưng dễ bị người thứ ba chen ngang phá hoại tình cảm

Vì suy nghĩ quá nhiều đến tình cảm vợ chồng, người này có thể lâm trọng bệnh, tinh thần và sức khỏe suy yếu. 
 
Ngoài ra, nếu đường hôn nhân dài, có hình đảo nhưng lại đứt đoạn cũng là biểu hiện cho thấy người phụ nữ này lấy chồng giàu sang nhưng gặp trục trặc và không cảm thấy hạnh phúc với cuộc hôn nhân đó.
 
Tâm Nhân (Theo DYXZ)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận biết số mệnh lấy chồng giàu có qua đường hôn nhân

Văn khấn cầu công danh ở chùa Hương

Văn khấn cầu công danh ở chùa Hương. Theo quan niệm của nhà Phật, Phật chỉ phù hộ an bình, che chở cho con Phật chứ không thể phù hộ đường công, danh, tài, lộc. Vì vậy, khi chúng ta làm lễ cầu tới cửa Phật nên xin được Phật che chở, bảo vệ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm của nhà Phật, Phật chỉ phù hộ an bình, che chở cho con Phật chứ không thể phù hộ đường công, danh, tài, lộc. Vì vậy, khi chúng ta làm lễ cầu tới cửa Phật nên xin được Phật che chở, bảo vệ.

Sắm lễ:

Lễ chay: Hương, hoa tươi (hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu…), quả chín, oản, xôi chè… đặt trên hương án của chính điện.

Lễ mặn: Cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt gà, giò chả… đặt tại nơi thờ Đức Ông, Thánh, Mẫu và chỉ dâng đặt tại ban thờ hay điện thờ. Tuyệt đối không được dâng trên ban thờ Phật, Chư Bồ tát và Thánh Hiền.

Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng Phật tại chùa. Nếu có sửa lễ này thì đặt ở bàn thờ thần linh, Thánh Mẫu hay ở bàn thờ Đức Ông.

Tiền thật cũng không nên đặt lên hương án của chính điện mà nên bỏ vào hòm công đức.

5 bước hành lễ:

  1. Đặt lễ vật: thắp hương và làm lễ ở ban thờ Đức Ông trước.
  2. Sau khi đặt lễ ở ban Đức Ông xong, đặt lễ lên hương án của chính điện, thắp đèn nhang.
  3. Sau khi đặt lễ chính điện xong thì đi thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà Bái đường. Khi thắp hương lên đều có 3 lễ hay 5 lễ. Nếu chùa nào có điện thờ Mẫu, Tứ phủ thì đến đó đặt lễ, dâng hương cầu theo ý nguyện.
  4. Cuối cùng thì lễ ở nhà thờ Tổ (nhà Hậu).
  5. Cuối buổi lễ, sau khi đã lễ tạ để hạ lễ thì nên đến nhà trai giới hay phòng tiếp khách để thăm hỏi các vị sư, tăng trụ trì và có thể tùy tâm công đức.

Văn khấn:

Nam mô A Di Đà Phật!


Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, vô thượng Phật pháp, Chư Thánh hiền tăng, Công Đồng các quan thường trụ Tam Bảo (hoặc ban nào cần lễ thì kêu tên tại ban đó), ngự tại (địa chỉ)………………………………………..
– Hôm nay là ngày…………….tháng………………. năm………..
(âm lịch) tín chủ con tên là………………….tuổi……….. (âm lịch).
– Ngụ tại………………………xin Đức……………..chứng giám, Hương tử con lễ bạc lòng thành, nhất tâm tường vạn tâm thành dâng lên cúng tiến. Xin chắp bái lễ bái, chắp kêu chắp cầu, ngửa trông ơn Phật, Quan Ầm Đại sỹ, chư Thánh hiền Tăng, Thiên Long bát bộ, Hộ pháp Thiện thần, từ bi gia hộ chứng giám cho con đến xin lộc cửa…………………chúng con người trần phàm tục, ăn chưa sạch, bạch chưa thông cúi xin được bề trên xá lầm xá lỗi. Con xin đức Phật…….độ cho bách gia họ ……………họ………………chúng con được sức khỏe dồi dào, bách bệnh tiêu tan, cho chúng con xin được công thành danh toại, tứ thời vô hạn vạn sự hanh thông, có quý nhân phù trợ.
Cúi xin chư Phật độ trì cho gia đình con được hòa thuận hạnh phúc, trong ấm ngoài êm, trên bảo dưới nghe, trên đe dưới sợ, trên kính dưới nhường, độ cho con làm ăn phát tài phát lộc, có của ăn của để tiền tài dư dả, lộc đầy lộc vơi. Xin bề trên ban đức ban lộc ban tài, cho con xin vạn sự may mắn, gặp dữ hóa lành, gặp hung hóa cát, năm xung xin giải xung, tháng hạn giải hạn điều lành xin đem lại, điều dại xin đem đi, cho con tránh được những điều thị phi, phiền muộn. Độ cho con đi một về lơ, đi tươi về tốt, 3 tháng hè 9 tháng đông được bình an trăm sự. Con xin chắp bái lễ bái, chắp kêu chắp cầu kêu thay cho phụ thân phụ mẫu (hoặc người cần xin hộ, tên, tuổi, nơi cư ngụ của người đó), (xin điều gì mình đang mong muốn). Con xin thành tâm bách bái tấu lạy Đức……………….độ trì cho con cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
– Khấn lễ tạ: Con lạy đức……………….. tín chủ con tên…………tuổi, ngụ tai…………….., tấu xin Đức……………. chứng tâm cho con cầu gì được nấy; cầu sao được vậy, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm. Nhất tâm tưởng vạn tâm thành, con xin bách bái lạy tạ Đức Phật.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn cầu công danh ở chùa Hương

Những con giáp cần phải kiêng kị trong tháng Chạp (tháng 12 - Âm lịch)

Những ngày cuối cùng của năm giống như một bước đệm mà con người ta cần đi qua một cách êm xui để đón vận may đến. Vậy trong tháng Chạp này,12 con Giáp có những thay đổi và cần chú ý điều gì? Bài viết dưới đây sẽ giải đáp cho bạn câu hỏi này.
Những con giáp cần phải kiêng kị trong tháng Chạp (tháng 12 - Âm lịch)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Những ngày cuối cùng của năm giống như một bước đệm mà con người ta cần đi qua một cách êm xui để đón vận may đến. Vậy trong tháng Chạp này,12 con Giáp có những thay đổi và cần chú ý điều gì? Bài viết dưới đây sẽ giải đáp cho bạn câu hỏi này.

1. Tuổi Tý

Tháng nay tuổi tý sẽ gặp vận may

Tháng này những người tuổi Tý sẽ gặp vận may, được mọi người tán dương dù là về bản thân hay người thân của mình. Mọi vấn đề đều thuận lợi và được giải quyết êm xuôi. Duy chỉ có tình duyên có phần rắc rối. Vào những ngày này, tốt nhất là nên biết kiềm chế lại cảm xúc bản thân, tránh cãi vã.

Về công việc, tháng này là tháng phát tài của tuổi Tý, trong sự nghiệp có bước tiến triển lớn. Tuy tài vận tốt, nhưng tuyệt đối không nên dính vào bài bạc đỏ đen, sẽ bị hao tài. Ngoài ra, cần chú ý ăn uống và nghỉ ngơi điều độ để có tinh thần tốt nhất trong năm mới.

2. Tuổi Sửu

 

Tinh thần tuổi Sửu tháng này khá áp lực, căng thẳng

Tháng này tuổi Sửu bước vào giai đoạn khủng hoảng, vận may đi xuống. Những ngày cuối năm có rất nhiều vấn đề nảy sinh ngoài ý muốn. Trong công việc, bạn sẽ đau đầu về những rắc rối chưa giải quyết được và những vấn đề mới liên tục phát sinh. Về tình cảm cần tránh tranh cãi. Tốt nhất nên suy nghĩ thật kĩ trước khi phát ngôn.

Tháng này cũng không hợp để đầu tư hay làm ăn. Chính vì vậy, tinh thần của người tuổi Sửu tháng này khá áp lực, căng thẳng, nên có chế độ nghỉ ngơi hợp lí. Tuy nhiên, vào cuối tháng vận may sẽ thay đổi và mọi chuyện sẽ khả quan hơn.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

3. Tuổi Dần

 

Người tuổi Dần nên học cách thu chi

Từ giờ cho đến cuối năm, bạn sẽ gặp vận may. Mọi phương diện cũng đều rất tốt và phát triển. Nhưng vấn đề tình cảm lại có chút vấn đề cần phải chú ý. Người độc thân thì nên cẩn thần khi ra ngoài nhất là vào ban đêm. Còn những ai đang yêu thì nên dành thời gian trò chuyện, quan tâm đến đối phương nhiều hơn. Tránh những hiểu lầm vụn vặt không đáng có.

Về công việc, tuy không có bất kì trở ngại nào nhưng cũng cần chú ý giải quyết những vấn đề nhỏ mới phát sinh. Ngoài ra, bạn nên học cách thu chi. Sức khỏe không có vấn đề gì to tát nhưng sẽ có lúc suy nghĩ khá nhiều.

4. Tuổi Mão   

Người tuổi Mèo nên để mọi chuyện thuận theo tự nhiên

Tháng này Hung Tinh hội tụ, vận thế đi xuống một cách nghiêm trọng. Trong tình yêu, không nên quá cưỡng cầu, hãy cứ để mọi chuyện tự nhiên sẽ tốt đẹp hơn.

Trong sự nghiệp, phát sinh ra những vấn đề trầm trọng mà lại chưa có hướng giải quyết tích cực. Tháng này cũng không nên mở rộng quy mô kinh doanh hay đầu tư vào bất kì dự án nào. Thậm chí, có thể có nguy cơ phá sản. Dù có nhiều vấn đề phải bận tâm nhưng chú ý không nên tụ tập ăn uống quá khuya, rất dễ gánh họa vào thân.

5. Tuổi Thìn

Người tuổi Thìn sẽ có tài vận tốt

Tháng này nhờ có sao Cát tinh Thái Dương chiếu rọi, mọi sự rối rắm được xóa bỏ, tổng thể rất tốt. Trong công việc, tuy có nhiều chuyện cần phải lưu tâm nhưng chỉ cần kiên trì, ắt sẽ có thành công.  

Về tình cảm, cần dành thời gian để kiểm điểm lại bản thân. Đồng thời, cần thể hiện sự quan tâm với đối phương nhiều hơn nữa. Tháng này, tài vận tốt nên đầu tư sẽ có lợi, không mất mát nhiều. Sức khỏe khá tốt, chỉ cần nghỉ ngơi điều độ là được.

6. Tuổi Tỵ

Công việc trong tháng của người tuổi Tỵ sẽ rất khó khăn

Tháng cuối năm này có chút biến động với người tuổi Tỵ. Do Cát Tinh và Hung Tinh đều xuất hiện nên mọi việc trở nên khó khăn hơn. Những ai đã có gia đình hay người yêu cần suy nghĩ về những buổi hẹn hò để hâm nóng tình cảm. Tranh việc bằng mặt nhưng không bằng lòng.

Về công việc, bạn sẽ học hỏi được nhiều bài học từ những vấn đề đang phát sinh và người khác. Đặc biệt, cần cẩn trọng trong những quyết định. Cuối cùng, cần đề phòng những bệnh truyền nhiễm.

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp cần phải kiêng kị trong tháng Chạp (tháng 12 - Âm lịch)

Phong thủy âm trạch: Thế mộ nguy hiểm "bi thạch đoạn pháp"

Bi thạch đoạn pháp là thế mộ hung hiểm thứ hai trong phong thủy âm trạch. Nên đọc để tránh mang họa cho cả nhà.
Phong thủy âm trạch: Thế mộ nguy hiểm "bi thạch đoạn pháp"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bi thạch đoạn pháp là thế mộ hung hiểm thứ hai trong phong thủy âm trạch. Nên đọc để tránh mang họa cho cả nhà.


Phong thuy am trach The mo nguy hiem bi thach doan phap hinh anh
 
Âm trạch nếu không chăm sóc và xây dựng cẩn thận theo phong thủy dễ dẫn đến nhiều điềm xấu và tai họa cho cả gia đình. Bi thạch đoạn pháp là những sai lầm trong phong thủy âm trạch liên quan tới bia mộ. Bia mộ tượng trưng cho sự tồn tại của vong linh trên chốn trần gian. Khí từ bia mộ tiến vào bên trong, cảm ứng tới vong linh.   Tùy theo gia cảnh và điều kiện của gia đình, bia mộ thường là đá nguyên khối, trên có khắc tên tuổi, thông tin của người đã khuất. Một số người dùng cả đá Quan Âm, đá bành hồ hay các loại đá đắt tiền, quý hiếm để dựng bia.   Bia mộ xây dựng cho người khuất làm bằng đá sẽ bị mài mòn qua thời gian, dưới tác động của ánh nắng, mưa, gió, độ ẩm sẽ sản sinh các phản ứng hóa học nên xuất hiện vết ố, mờ, nứt, vằn. Từ các hiện tượng trên bia mộ có thể suy ra tình hình bên trong mộ phần, dựa vào đó luận đoán cát hung, họa phúc trong hậu vận của con cháu.   Yếu tố gây động trong phong thủy âm trạch
Phong thủy âm trạch (tức mồ mả) của thế hệ trước có sự ảnh hưởng nhất định tới cuộc sống của người hiện tại.

Bia mộ độ cứng cao, không bị thay đổi do mưa nắng, ánh sáng màu sắc nhu hòa, không lẫn tạp chất, hoa văn rõ ràng là phong thủy tốt, con cháu vượng tài.
  Bia mộ có chỗ bị nứt mòn, vết bẩn không thể tẩy sạch thì đề phòng con cháu trong nhà có người có bệnh.   Quang ám, ánh sáng mờ tối, bia lung lay, người trong nhà gặp họa bất ngờ hoặc có tai nạn.

Trên đây là đôi nét cần biết về phong thủy âm trạch, các gia đình nên biết để làm theo tránh tai ương, mang lộc về nhà!
  Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy âm trạch: Thế mộ nguy hiểm "bi thạch đoạn pháp"

Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lục Lang Phùng Cứu

Điển tích Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lục Lang Phùng Cứu có nguồn gốc từ tiểu thuyết truyền kỳ "Dương gia tướng", chứ không phải có nguồn gốc từ chính sử.
Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lục Lang Phùng Cứu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Hai hai  trong quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát, mang tên Lục Lang Phùng Cứu(còn gọi là Lục Lang Giải Cứu). Điển tích Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lục Lang Phùng Cứu có nguồn gốc từ tiểu thuyết truyền kỳ “Dương gia tướng”, chứ không phải có nguồn gốc từ chính sử.

Khi Tống Thái Tông đi chinh chiến lần thứ hai, Dương Nghiệp phụng mệnh yểm hộ, dân chúng bốn châu mới thu phục được di chuyển vào trong cửa ải. Trong trận kịch chiến với quân Liêu, do bị cô lập không có viện trợ, Dương Nghiệp bị vây khốn ở cốc Trần Gia. Sau khi bị trọng thương, ông vẫn gắng sức giết được hàng trăm tên địch, phá được vòng vây. Sau khi phá vòng vây, ông một mình đi theo con đường nhỏ, chưa được bao xa, thì đến một dốc núi, chỉ nghe gió thối ào ào, hổ gầm vượn hú, lại thấy lá rụng tơi bời, trùng đông treo ngược, trước mắt một màn âm u mờ mịt.

Dương Nghiệp dừng bước, ngẩng đầu lên nhìn, thấy trước mắt hiện ra một ngôi miếu cố lâu năm không được tu sửa, hoang phế và sạt lờ, trước cửa có tấm biển, tuy vàng son đã bong tróc, nhưng vẫn có thể thấy rõ được nét chữ. Ông lại gần, thấy trên biển viết ba chữ “Tô Vũ miếu”. Bên cạnh miếu có tấm bia cũ, cao hơn năm thước, ban đầu ông không chú ý, sau đó hàng chữ lớn trên đầu bia đã thu hút ông: “Bia Lý Lăng”. Bỗng từ xa vọng đến tiếng trống động trời, kèn thối vang dậy, tiếng quân Liêu hô lớn: “Nếu ra hàng sẽ miễn tội chết, được làm quan cao và hưởng nhiều lộc. Ai bắt được Dương Nghiệp, sẽ được thăng quan phong tước. Dương Nghiệp nhìn ngôi miếu Tô Vũ, lại nhìn bia Lý Lăng, ngẩng đầu lên trời cười lớn: “Thà làm ngọc vỡ chứ không làm ngói lành, phải học theo Tô Vũ, chớ có giống Lý Lăng!” ông lui ra sau mấy bước, rồi lao thẳng về phía trước, đâm đầu vào bia Lý Lăng mà chết.

Lúc này, Dương Thất Lang vâng lệnh cha, xông ra núi Lưỡng Lang, trở về đem quân giải cứu, lại trúng gian kế của Phan Nhân Mỹ, vu cho Thất Lang tự ý trốn khỏi đất Tấn, câu kết với giặc phương bắc. Thất Lang bị trói lại, treo lên cây cột trăm thước, bị tên của loạn quân bắn chết.

Dương Lục Lang đi suốt ngày đêm, thẳng đến Biện Lương ở Đông Kinh. Một hôm, Dương Lục Lang đi thuyền định qua sông Mặc Thủy, đến giữa sông, người nhà thuyền rút kiếm muốn giết. Dương Lục Lang nhìn kỹ, nhận ra người nhà thuyền, một người là Lang Thiên, một người là Lang Vạn, hai người đó nói với Lục Lang rằng: “Lục gia, nói thực, chúng tôi phụng mệnh đi tuần ven sông, chính là để bắt cậu. Hôm qua cả hai người chúng tôi đều suốt đêm không ngủ, cảm thấy việc này là thất đức! Nếu nói về người khác thì chúng ta không biết, nhưng nếu nói về cha con nhà họ Dương, thì có ai mà không khen ngợi?” Dương Lục Lang nói: Nếu đã như vậy thì xin hai vị tướng quân hãy cứu tôi!”

Hai người nói: “Lục gia! Nếu không cứu cậu, thì chúng tôi đã không chuẩn bị chiếc thuyền này. Nhanh lên, hãy theo chúng tôi!” Nói rồi, họ chèo thuyền vào bờ sông, rời thuyền lên bờ, đưa Lục Lang vào trong khu rừng ở ven sông mà nói: “Lục gia! Phan Nhân Mỹ hãm hại Thất Lang, người người đều thấy rõ. Cậu hãy đến kinh thành thưa kiện, chúng tôi sẽ làm chứng. Còn nữa, hai anh em chúng tôi đã đưa thi thể của Thất Lang đến đây. Cậu ấy chết thật thảm thương! Tống cộng đã trúng một trăm linh ba mũi tên, có bảy mươi hai mũi xuyên qua đầu. Chúng tôi đã đóng chiếc quan tài lớn, đựng cả thi thể và các mũi tên, chôn ở dưới gốc cây lớn trước miếu Hà Bá. Sau này nếu như lão tặc đó không chịu nhận tội, có thể sai người đến lấy thi thể!” Dương Lục Lang nghe xong, vội vàng dập đầu tạ ơn.

Dương Lục Lang chia tay Lang Thiên và Lang Vạn lên đường. Đường đi đến phía tây không có đường lớn, chỉ có cách xuyên rừng, trèo núi, lội suối, vượt sông, đi suốt ngày đêm. Sau đó lại được Dương Ngũ Lang đã xuất gia làm hòa thượng cứu giúp, cuối cùng đã về đến được kinh thành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lục Lang Phùng Cứu

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd