Soi hình dáng mắt, đoán lòng chung thủy
1. Mắt nhỏ | 2. Mắt to | 3. Mắt nhỏ, dài | 4. Mắt tròn |
Mr.Bull (theo AXD)
Xem tính cách, vận mệnh qua hình dáng mũi |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
1. Mắt nhỏ | 2. Mắt to | 3. Mắt nhỏ, dài | 4. Mắt tròn |
Mr.Bull (theo AXD)
Xem tính cách, vận mệnh qua hình dáng mũi |
Tết Trung Thu |
Cỗ cúng ngày rằm tháng 8 chủ yếu là các loại hoa quả. Cỗ được bày biện trên ban thờ từ lúc chập tối, gia chủ thắp đèn hương khấn gia thần, gia tiên cùng về vui tết Trung Thu với gia đình, con cháu.
Có nhiều sự tích liên quan đến ngày này. Theo truyền thuyết Trung Hoa, vào một đêm rằm tháng 8, trăng sáng, trời trong, Đường Minh Hoàng dạo chơi tận tới khuya thì gặp một vị tiên, vua được vị tiên này mời lên cung Quảng Hàn thưởng ngoạn cảnh đẹp.
Đường Minh Hoàng xúc cảm trước vẻ đẹp lạ thường, lại được xem vũ khúc của tiên nữ tuyệt diệu. Khi đến cung trăng, vua thấy biển đề “Quảng Hàn cung” và “Thanh Hư động”. Nhưng mới xem nửa chừng, Đường Minh Hoàng đã phải trở lại cung điện. Người luyến tiếc những giây phút thơ mộng nên nhân ngày này đã đặt lệ tết Trung Thu để mọi người được uống rượu và trông trăng. Cung trăng từ đó được gọi là cung Quảng Hàn hay cung Quảng.
Tết Trung Thu chủ yếu là để dành cho thiếu nhi, có rất nhiều trò chơi truyền thống độc đáo được tổ chức dưới trăng. Đặc biệt là tục rước đèn có từ thời nhà Tống, Trung Quốc. Chuyện kể rằng đời vua Tống có con cá chép nhưng sau hóa thành yêu tinh, cứ đêm trăng sáng lại hiện lên giả làm con gái đi hại người. Trước thảm họa đó, Bao Công đã bày cho người dân làm đèn con cá giống y như hình yêu tinh rong chơi ngoài đường. Từ đó, yêu tinh sợ không dám hại người nữa.
Sau tục rước đèn là tục hát trống quân. Tục này, xuất hiện từ thời Nguyễn Huệ. Người xưa kể lại, khi Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, quân sĩ lắm kẻ nhớ nhà, ông liền bày ra cách cho đôi bên giả làm trai gái hát đối đáp với nhau để quân sĩ vui vẻ, phấn khởi, vơi đi nỗi nhớ.
Ngày nay, đêm Trung Thu thường tổ chức cho các em nhỏ vui chơi tập thể, sau đó sẽ chia quà. Do vậy, tết Trung Thu thật sự có ý nghĩa đối với trẻ em và được coi là ngày tết của thiếu nhi.
(Theo Nghi lễ thờ cúng của người Việt)
Theo tín ngưỡng dân gian, thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhất là những gia đình buôn bán, kinh doanh đều có bàn thờ thần tài, để cầu xin thần tài cho mua may bán đắt, đem lại nhiều tiền bạc sung túc.
Người đời quý trọng tiền bạc nên tôn sùng thần tài. Những nhà kinh doanh đều lập bàn thờ thần tài, đặc biệt, bàn thờ thần tài không được đặt trên cao mà phải đặt ngay trên nền nhà.
Nguyên tắc đặt bàn thờ thần tài là phải ỏ vị trí phải quan sát hết được hết sự vào ra của khách. Bàn thờ thần tài quan trọng phải tiếp âm, ở dưới đất, bàn thờ thần tài phải được đặt ỏ tầng một. Nhưng dù đặt như thế nào thì trước mặt bàn thờ cũng phải quang đãng, sạch sẽ. Thường nên để sẵn một lọ nước hoa, vào ngày mùng một hay rằm hàng tháng thì lại xức vào bàn thờ cho thơm.
Về hướng vẫn tuân thủ theo nguyên tắc người ở mệnh nào thì hợp trạch mệnh đó, đặt theo hướng tốt của chủ nhà, có thể đặt theo cách hướng lấy dòng khí bên ngoài khi vào nhà. Bạn có thể dùng phương pháp điểm Thần sát để tính, chọn lấy các cung Thiên lộc, Quý nhân để đặt vị trí bàn thờ.
Thiên lộc: Lộc là phương Lâm quan của Tuế can, tính của Ngũ hành, Lâm quan tới cát. Lâm quan là thời đang lên, là đúng sinh thành, ỏ tại lộc mà chưa tới vượng, bỏi đã ở vượng thì thành thái quá, có thể chuyển thành hung bại.
Lộc là cách có Lộc ra chính môn. Nhà có cách này là cát khánh, rất tốt. Lộc ra chính Môn sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc, gia sản thăng tiến, điền trang vượng. Thường sinh người béo tốt, thông minh, tuấn tú lại khéo léo, tài năng, kinh doanh giỏi, làm ăn phát đạt. Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa sinh vượng lộc, tránh không vong tử, tuyệt. Nếu mộ, không vong, tử, tuyệt thì khí tán, không tụ, là vô dụng. Có lộc cũng như không.
Tài sản dù có như nước, rồi cũng tiêu tan hết, gọi là lộc tuyệt. Nếu gặp Thai khí thì mặc dù vẫn phát đạt, nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo, con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch. Trong gia đình hay sinh cãi vã, mất đoàn kết, gia đạo chẳng yên. Lộc cung là cát cung, vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra, còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc, bàn thò, giường ngủ. Tất cả được Lộc đều tốt. Tuy nhiên Lộc phải ỏ đúng cung tài, là “lộc cư lộc”, mới thật là đắc cách, mới thật sự là đại cát.
Quý Nhân là vị thần đứng đầu cát thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động, chí tôn mà cổ thể trấn được phi phù.
Nhà có chính môn ra Quý là cát khánh, gia đạo bình an, hòa thuận, hỷ khí đầy nhà, luôn gặp may mắn. Quý nhân là sao cứu trợ, là thần giải tai ách, nên nhà ra Quý nhân là gặp vỉệc có người giúp đỡ, gặp ách có người giải cứu, gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh, công danh thành đạt, dễ thăng quan, tiến chức, học hành thi cử đều tốt đẹp.
Quý nhân gặp sinh, vượng, thường sinh người hiếu lễ, khôi ngô, tướng mạo phi phàm, tính tình nhanh nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt, thẳng thắn mà ôn hòa, khôi ngô tuấn tú. Nếu ngộ không vong, tử, tuyệt thì nguồn phúc giảm đỉ nhiều, hoặc nếu có mắc nạn cững khó tránh, bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực, người và gia súc bị tổn thất, kiện cậo, thị phi. Lại hay sinh người tính tình cố chấp, bảo thủ mà suốt đời vất vả, không nên người. Quý nhân ra thai khí, nam, nữ tuy thông minh, tuấn tú, nhưng nam thì hiếu sắc, nữ thì dâm đãng, gia đạo chẳng yên, lại hay mắc bệnh tật và trong nhà xảy ra nhiều điều không như ý.
Quý nhân là cát khí rất tôn quý, nên ra vào cung nào cũng Tất tốt, ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc, bàn thờ, giưòng ngủ đều tốt. Đặc biệt bàn thờ đặt trên cung Quý nhân là đại cát khánh, như vậy sẽ được âm linh phù trợ. Không được để phòng tắm, nhà vệ sinh vào cung Quý nhân, vì như vậy sẽ bị họa hại liên miên, nữ nhân cộ thể bị thiếu máu, động thai, sinh con dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục, làm điếm, cuốỉ cùng phải tự vẫn. Tài sân tiêu tan, yêu ma hoành hành, gia đình có ngưòi bị cướp bóc, chém giết thảm khốc, bệnh tật đau khổ triền miên. Nếu đặt phòng vệ sinh vào cung Quý nhân thì hung hiểm.
Sơ đồ bài trí bàn thờ Thần Tài, bao gồm tượng Thần Tài, bài vị, tượng thần Thổ Địa, lọ đựng hương thắp, bát hương đặt chính giữa, lọ cắm hoa, địa gạo muối, nước và rượu, ngoài ra có ông Cóc ngậm tiền quay mặt vào trong nhà nữa:
THẦN TÀI |
BÀI VỊ |
THẦN THỔ ĐỊA |
||
LỌ ĐỰNG HƯƠNG THẮP |
BÁT HƯƠNG |
LỌ CẮM HOA |
||
ĐĨA ĐỰNG GẠO MUỐI, NƯỚC, RƯỢU |
CÓC BA CHÂN |
ĐĨA ĐỰNG ĐỒ CÚNG KHÁC |
Lọ đựng hương thắp và lọ cắm hoa: Lọ để hương thắp và lọ cắm hoa thường làm bằng sứ, nhưng có gia đình làm bằng chất liệu đá xanh. Hoa dùng để thờ nên dùng hoa tươi, không nên dùng hoa khô. Trong lọ hương thắp, có thể cắm các cành lộc đi lễ chùa, đền.
Bát hương: Bát hương thường làm bằng ba chất liệu cơ bản, bằng sứ, kim loại, đá (ngọc). Khi bôc bát hương, phụ nữ phải sạch sẽ, không bị kinh nguyệt, nam giới không được uống rượu, ăn thịt chó, quan hệ với người khác giới, nếu không sẽ mất đi sự linh nghiệm nhất định. Cốt bát hương gồm có giấy bát hương ghi rõ địa chỉ, thần tài, bọc lấy phần cốt bên trong gồm vàng bạc, vụn đá đỏ. Tro phủ lên trên cốt phải được giữ sạch sẽ không được ẩm mốc, đế ở nơi khô thoáng. Sau khi bốc xong nên nhờ các bậc đức minh sư khai quang hoặc mang lên chùa để trên ban đức ông khoảng 1 tuần thì mới mang về nhà. Không được dùíig khăn ướt để lau bàn thờ, vì bàn thờ mệnh Hỏa, mà Thủy khắc Hỏa, không tốt.
Đĩa đựng ba chén gạo muối, nước rượu: Dùng để mới khi thắp hương khấn vái thần tài. Khi cúng xong hương đã tàn có thể dùng muối gạo vãi ra tứ phía có nghĩa phân phát cho chúng sinh, còn nước đổ đi, rượu có I thể tưới lên tiền vàng đã hóa xong. Chú ý không được đổ nước lên vàng mã đã hóa. Có nơi dùng ba lọ đựng gạo, muôi, nước chỉ đổ đi khi làm lễ tất niên, thức cúng thì thay bằng 5 chén đựng nước (rượu) tượng trưng cho Ngũ hành.
Đĩa đựng đồ cúng khác: Yêu cầu chuyên dụng làm đồ cúng, không vì tiện dụng nhất thời mà đem ra sử dụng trong khi ăn cơm, sau lại rửa sạch để làm đồ cúng. Điều đó khiến cho thức ăn cúng không còn trai tịnh. Không nên giết mổ các loài động vật vào mùng 1 và ngày rằm, nếu bất khả kháng thì ra chợ mua đồ đã mổ sẵn. Có thể dùng 5 hoặc 7 loại quả để thay thế. Hoa quả mua về phải rửa sạch, để khô nước mới bày lên bàn thờ.
Cóc ba chân: Theo truyền thuyết Trung Quốc, cóc ba chân còn có tên gọi là Thiềm Thừ, vốn là một con yêu tinh được tiên ông Lưu Hải thu phục. Sau đó, nó theo tiên ông tu hành không làm hại người, học được phép thuật hành thiện, thường nhả tiền giúp đỡ mọi người trong nhân gian. Vì vậy nó được mọi người tôn sùng, coi là một con vật phong thủy về tài lộc, cát tường.
Cóc ban chân ngậm đồng tiền cổ (tốt nhất là loại Càn Long thông bảo, hoặc ít nhất đồng tiền đó đã xuất hiện trên 100 năm) đang quay đầu vào nhà, khi nhìn kỹ hơn ta sẽ thấy trên đầu con cóc có hình lưõng nghi, tức là hình tròn, bên trong vòng tròn có hình tượng như hai con cá quay đầu lại với nhau, giống như hình ở trung tâm của gương Bát quái.
Trên lưng cóc có những nốt sần đặc biệt, người ta gọi là chòm sao Đại hùng, bên cạnh lưng cóc có mang theo hai xâu tiền cổ và 3 chân cóc đạp lên hai lớp tiền cổ, chỉ có 3 chân, chứ không phải là 4 chân như cóc bình thường, chân thứ ba của nó mọc từ hậu môn.
Cóc ba chân được làm từ rất nhiều chất liệu như đồng, đá, bằng ngọc. Bằng đá, ngọc là tốt nhất vì các chất liệu này thuộc hành Thổ mà ở Bát vận thì Thổ vượng tướng.
Cóc ba chân chỉ có thể đặt ở bàn thò thần tài, không nên đặt trong phòng tắm, phòng vệ sinh, điều đó dẫn đến hệ quả cóc hấp thụ khí xấu trở thành hung vật có hại đến phong thủy.
Cách sử dụng cóc ba chân theo thời gian. Buổi sáng trưóc giờ đi làm bạn có thể quay đầu cóc ra ngoài, sau giờ đi làm về nhà bạn quay đầu cóc vào trong bàn thờ vì nó chỉ ăn tiền nhưng không bài tiết. Tốì về đến nhá là nhả tiền đã nuốt ra cho thân chủ.
– Phương tài vị tối kỵ nước. Vì nơi đây là cát thần tọa vị, nay ta đem nước đến là “cát thần lạc thủy”, tốt lại thành xấu.
– Phương tài vị nên sáng sủa, quang minh, không thể để tối ám. Sáng là năng lượng dương, thích hợp với dương khí. Sinh khí không ưa nơi tối tăm, nên phương này tuyệt đốì không nên để tối, nếu thiếu ánh sáng tự nhiên thì nên lắp thêm đèn.
– Phương tài vị phía sau nên có tường che chắn, không thê trổ cửa, trổ cửa sổ, có vậy mới hợp cách cục tàng phong tụ khí, tài vận mới tụ được.
– Phương tài vị tối kỵ bị các vật nhọn xung xạ đến như cạnh bàn, cạnh tủ… sẽ làm tổn hại tài khí nơi đó.
– Phương tài vị nên bày cây xanh là tốt, phải nhố là trồng loại cây luôn luôn xanh tươi, tốt nhất là các loại cây trồng bằng đất bùn, không thích hợp các loại cây trồng trong nước. Nên chọn các loại cây lá to, dày, lá xanh mãi như cây Vạn niên thanh.
– Phương tài vị tối kỵ đặt các vật nặng như tủ sách, kệ sắt, máy móc nặng sẽ làm tôn hại đến tài vận.
– Phương tài vị tốt nhất nên đặt bàn ngồi ở đấy, để cả nhà thường xuyên ngồi ở đó, hít thở không khí của tài vị hay nói cách khác lạ được thấm nhuần nguồn tài khí nơi đó, sẽ giúp ích cho tài vận người trong nhà.
– Phương tài vị không nên để tối tăm, vì u tối thì sinh khí không sinh sôi được, sẽ ảnh hưởng đến tài vận.
– Phương tài vị là nơi cát thần tọa vị nên kỵ ô uế, dơ bẩn. Vì vậy không thể để vật ô uế, bụi bặm nơi đây
– Phương tài vị nên đặt vật hay biểu tượng cát tường. Bởi phương này là nơi vượng khí ngưng tụ, nếu ta đặt thêm một biểu tượng cát khánh thì tốt càng thêm tốt.
► Xem bói tử vi 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
"Đất dưỡng thi" là loại đất gì, gồm những yếu tố hoá học nào, nhiệt độ và độ ẩm ra sao, có những đặc điểm gì để tìm ra đất dưỡng thi thì chưa ai rõ, hoặc giả xưa kia có thầy am hiểu thuật phong thuỷ đã tìm ra, ngày nay đã thất truyền hoặc giả do ngẫu nhiên, tình cờ gặp mà không biết. Chỉ biết rằng đó là một môi trường trong đó cả vi khuẩn hiếu khí và yếm khí đều bị huỷ diệt.
Hy vọng trong tương lai, khoa học phát triển hoặc sẽ có nhiều người để tâm nghiên cứu, điều bí ẩn của đất dưỡng thi sẽ được khám phá.
Việc tìm ra 10 thần trên cơ sở thiên can của trụ ngày (nhật chủ) là điều rất quan trọng để dự đoán là tổ hợp tứ trụ tốt hay xấu. Bạn có thể căn cứ vào can ngày sinh của mình sau đó đối chiếu với các can của trụ năm, trụ tháng và trụ giờ để tìm ra 10 thần.
|
Giáp
|
Ất | Bính | Đinh | Mậu | Kỷ | Canh | Tân | Nhâm | Quý |
Giáp | Ngang vai |
Kiếp tài |
Thực thần |
Thương quan |
Thiên tài |
Chính tài |
Thất sát |
Chính quan |
Thiên ấn |
Chính ấn |
Ất | Kiếp tài | Ngang vai |
Thương quan |
Thực thần |
Chính tài |
Thiên tài |
Chính quan |
Thất sát |
Chính ấn |
Thiên ấn |
Bính | Thiên ấn | Chính ấn |
Ngang vai |
Kiếp tài |
Thực thần |
Thương quan |
Thiên tài |
Chính tài |
Thất sát |
Chính quan |
Đinh | Chính ấn | Thiên ấn |
Kiếp tài |
Ngang vai |
Thương quan | Thực thần |
Chính tài |
Thiên tài |
Chính quan | Thất sát |
Mậu | Thất sát | Chính quan |
Thiên ấn |
Chính ấn |
Ngang vai |
Kiếp tài |
Thực thần |
Thương quan |
Thiên tài |
Chính tài |
Kỷ | Chính quan | Thất sát |
Chính ấn |
Thiên ấn |
Kiếp tài |
Ngang vai |
Thương quan |
Thực thần |
Chính tài |
Thiên tài |
Canh | Thiên tài | Chính tài |
Thất sát |
Chính quan |
Thiên ấn |
Chính ấn |
Ngang vai |
Kiếp tài |
Thực thần |
Thương quan |
Tân | Chính tài | Thiên tài |
Chính quan | Thất sát |
Chính ấn |
Thiên ấn |
Kiếp tài |
Ngang vai |
Thương quan |
Thực thần |
Nhâm | Thực thần | Thương quan |
Thiên tài |
Chính tài |
Thất sát |
Chính quan |
Thiên ấn |
Chính ấn |
Ngang vai |
Kiếp tài |
Quý | Thương quan | Thực thần |
Chính tài |
Thiên tài |
Chính quan |
Thất sát |
Chính ấn |
Thiên ấn |
Kiếp tài |
Ngang vai |
(Theo Dự đoán tứ trụ)
Xưa nay khi quyết định làm một việc gì đó có tính chất trọng đại, người ta hay chọn những ngày tốt đẹp nhất, để bắt tay vào công việc. Ví dụ như khởi công xây dựng, khai trương, nhậm chức, tu sửa âm phần, mai táng, cưới hỏi …
Việc lựa chọn ngày tốt, không đơn thuần là nét đẹp trong phong tục và tín ngưỡng, nó còn thể hiện niềm mong ước đón nhận điều may mắn cát lành, tránh những việc bất trắc, trở ngại, gập nghềnh trên đường đời.
Không chỉ có vậy, việc chọn ngày còn thể hiện rõ tính khoa học, kết hợp với kinh nghiệm dân gian truyền tụng từ đời này qua đời khác. Triết học Mác – Lê nin khẳng định, vật chất có dạng có thể nhận biết và cầm nắm được, có những dạng phải vô cùng nhỏ bé phải thông qua các thiết bị hỗ trợ mới nhận biết được. Ví dụ như sóng viễn thông, sóng truyền hình, truyền thanh…hay các dạng vật chất khác.
Học địa lý chúng ta biết được, sự chuyển động của các hành tinh, và quan hệ tác động qua lại ảnh hưởng của chúng lên Trái đất – nơi mà chúng ta đang sinh sống. Thủy triều nơi biển cả, chịu tác động theo chu kỳ vận hành của Mặt trăng. Và con người chúng ta cũng chịu ảnh hưởng, trong quá trình vận động của vũ trụ. Có ngày thì gặp may mắn bất ngờ, có những ngày lại gặp toàn những chuyện xui xẻo, bực mình
Ngày tốt là gì? Là những ngày mà thiên can, địa chi, âm dương, ngũ hành, các ngôi sao trong vũ trụ mang lại may mắn, tốt lành và cát khí cho con người. Lịch sử của quá trình chọn ngày thì đã có từ rất lâu đời rồi. Đến mức độ tinh vi hơn, đã là lựa chọn những ngày đó phù hợp với việc gì, phù hợp với những ai. Công việc này thường được các nhà thiên văn, các viên quan coi việc tế tự, lễ nghi trong cung đình, các học giả, hay các thầy số trong dân gian.
Để lựa chọn được một ngày tốt, trước tiên ta phải tránh những ngày xấu trước đã. Ngày xấu gồm các ngày Tam nương, Nguyệt kỵ, Thọ tử, Sát chủ, Không phòng, Quỷ khốc… Những ngày xấu này thường được thông kê trong các cuốn lịch Vạn sự
Ở đây chúng ta nên tập trung vào việc để tính một ngày tốt. Thường được dựa vào những yếu tố cơ bản dưới đây
Tính ngày theo Lục diệu. Cách tính này là một phương pháp chọn ngày nhanh, khi có việc cần kíp, dễ tính, và ai cũng có thể tính được. Tương truyền cách tính này của Gia Cát Lượng, thời Tam Quốc sử dụng, bị thất truyền khá lâu, sau đó Lý Thuần Phong, nghiên cứu và vận dụng trở lại. Phương pháp này như sau.
Tốc hỷ |
Xích khẩu |
Lưu niên |
Tiểu cát |
Đại an |
Không vong |
Cột trên cũng giống như hai ngón tay, có sáu đốt. Từ ngón thứ nhất là tháng giêng hàng năm, thuộc Đại an, đếm tiếp theo chiều kim đồng hồ, tháng hai đến Lưu niên, tháng ba đến Tốc hỷ, cứ tính tiếp đến tháng cần xét trong năm, tới cung nào thì lấy đó làm chuẩn.
Từ cung đó, coi là ngày mùng một đầu tháng. Tính tiếp theo chiều thuận đến ngày cần xét. Dừng lại ở cung nào thì sẽ lấy cung đó làm chuẩn.
Từ cung làm chuẩn coi đó là giờ Tý của ngày tính tiếp để biết cát giờ tốt xấu về sau.
Ví dụ hôm nay là ngày 14/ 6 Âm lịch. Tháng 6 âm sẽ ở chỗ Không vong. Vị trí này là ngày mùng một đầu tháng. Ngày 14 sẽ là ngày Đại an theo lục diệu.
Tương tự : giờ Tý ngày này sẽ là Đại an, giờ Sửu là Lưu niên, Giờ Dần là Tốc hỷ,… cho tới giờ Hợi hết ngày.
Ý nghĩa của các cung như sau
Đại an : Đây là một cung tốt, làm việc gì cũng đặng hanh thông.
Lưu niên: Là một cung trung bình, xấu đặc biệt vào ban ngày. Mọi sự suy tính mưu cầu đều khó thành công. Việc liên quan tới giấy tờ, chính quyền luật pháp (nhận chức, thưa kiện, khiếu nại, tố cáo, trình báo, đề nghị…) cũng phải hết sức từ từ, thư thả, thì mới có kết quả tốt. Chờ tin người thân thì chưa thấy về. Việc nhân sự cuộc sống sinh hoạt đều bình thường. Đề phòng thị phi, miệng tiếng.
Tốc hỷ: Ngày và giờ chọn được rất cát lợi, chỉ niềm vui đến một cách mau lẹ, nhanh chóng. Buổi sáng đại cát, nhưng buổi chiều không tốt. tương tự như vậy, quãng thời gian đầu giờ thì tốt, cuối giờ thì không may.
Xích khẩu: Là một cung xấu, rất dễ xảy ra việc xung đột bất hòa hay cãi vã. Nên tránh đi là hơn
Tiểu cát: Được cung này thì rất tốt, nên chọn nó để tiến hành công việc đã định
Không vong: hay tuyệt lộ, là một cung xấu, không vong nghĩa là không mong đợi gì, không thu lại được gì. Tuyệt lộ là cùng đường, làm việc gì cũng nên tránh né cung này.
Việc chọn ngày Hoàng đạo, cũng được áp dụng rất phổ biến
Bảng chọn ngày Hoàng đạo
Ngày tháng |
Thanh long |
Minh đường |
Thiên hình |
Chu Tước |
Kim quỹ |
Kim đường |
Bạch hổ |
Ngọc đường
|
Thiên lao |
Nguyên vu |
Tư mệnh |
Câu trần |
1 |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
2 |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
3 |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
4 |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
5 |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
6 |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
7 |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
8 |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
9 |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
10 |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thân |
Dậu |
11 |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
12 |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Các ngày : Thanh long, Minh đường, Kim quỹ, Kim đường, Ngọc đường, Tư mệnh là các ngày Hoàng đạo, tốt cho các công việc
Các ngày: Thiên hình, Chu tước, Bạch hổ, Thiên lao, Nguyên Vũ, Câu trần là những ngày xấu hay còn gọi là ngày Hắc đạo
Trong Thái dương hệ của chúng ta có tám hành tinh, chuyển động, Mặt trời làm trung tâm, bên cạnh ấy, ngoài Thái dương hệ là dải ngân hà, ngoài dải ngân hà này là dải ngân hà khác, và vũ trụ bao la vô cực. Các hành tinh, các vì sao luôn có lực hấp dẫn và chuyển động tương tác khác nhau. Chính vì thế, lực từ, khí trong, khí đục, may mắn, và rủi ro không phải thời điểm nào cũng như nhau cả. Phương pháp tính ngày theo nhị thập bát tú, được các nhà chiêm tinh, thiên văn học tổng hợp lại như sau
28 Sao luôn thuận theo thứ tự sau đây:
Phương Đông |
1.Giác |
2.Cang |
3.Đê |
4.Phòng |
5.Tâm |
6.Vĩ |
7.Cơ |
Phương Bắc |
8.Đẩu |
9.Ngưu |
10.Nữ |
11.Hư |
12.Nguy |
13.Thất |
14.Bích |
Phương Tây |
15.Khuê |
16.Lâu |
17.Vị |
18.Mão |
19.Tất |
20.Chuỷ |
21.Sâm |
Phương Nam |
22.Tỉnh |
23.Quỷ |
24.Liễu |
25.Tinh |
26.Trương |
27.Dực |
28.Chẩn |
Ngày tuần lễ |
Thứ Năm |
Thứ sáu |
Thứ bảy |
Chủ nhật |
Thứ hai |
Thứ ba |
Thứ tư |
Thống thuộc |
Mộc |
Kim |
Thổ |
Thái dương |
Thái âm |
Hoả |
Thuỷ |
Hai mươi tám sao thuộc các chòm sao Thanh long (Phương Đông), Bạch hổ (Phương Tây), Chu tước (Phương Nam), Huyền vũ (Phương Bắc), Hệ thống 28 sao này thay nhau trực chiếu lên Trái đất, nên nó có ảnh hưởng nhất định. Hầu hết các ngày thứ tư, thứ 5 đều là ngày tốt có sao tốt chiếu, ngày thứ 6, thứ 7 thường tập trung nhiều sao không tốt nhất, Chủ nhật tốt vừa, thứ 2, thứ 3 tốt xấu đan xen.
Cụ thể những ngày tốt xấu đó ra sao, tốt với việc gì và không tốt với việc gì, các bạn nên sử dụng các tài liệu chuyên sâu, hoặc nhờ những người có kinh nghiệm, học thức uyên bác sâu rộng, phân tích kỹ chi tiết cho.
Chung quy lại, ba cách tính ngày được sử dụng phổ biến nhất hiện nay để lựa chọn ngày tốt. Ngoài ra các nhà nghiên cứu chuyên sâu dùng cả sách “Ngọc hạp thông thư”, “Đổng Công tuyển nhật”… Nhưng theo quan điểm của tôi, việc lựa chọn càng kỹ lưỡng, càng khắt khe, thì số ngày tốt càng không nhiều. Nên nắm lấy ba yếu lĩnh cơ bản này để có thể tự xem ngày, cho công việc của mình.
Ngày tam nương (tam nương nhật ) theo tín ngưỡng dân gian Trung Quốc là những ngày rất xấu. Do đó, mỗi khi khởi sự làm một việc quan trọng (như khai trương, xuất hành, cưới hỏi, sửa chữa hay cất nhà, v.v…) để khỏi chuốc lấy thất bại, phải tránh khởi sự vào các ngày tam nương, gồm ngày mùng 3, mùng 7, 13, 18, 22, và 27 trong mỗi tháng Âm lịch.
Tam nương là “ba người đàn bà”. Theo dân gian Trung Quốc, tam nương gồm ba nàng Muội Hỉ, Đát Kỷ và Bao Tự. Hầu hết sách sử Trung Quốc đều kết tội ba giai nhân tuyệt sắc này là nguyên nhân làm sụp đổ ba triều đại Hạ, Thương, Tây Chu trước Công nguyên (TCN). Các sử gia đều phỏng chừng ba sự kiện “tan nhà đổ nước” này lần lượt xảy ra trong các năm như sau:
1. Muội Hỉ mê hoặc vua Kiệt (tức Lý Quý , cai trị? – 1600 TCN), làm sụp đổ nhà Hạ (khoảng 2100 TCN – 1600 TCN).
2. Đát Kỷ (người Việt quen gọi Đắc Kỷ) mê hoặc vua Trụ (tức Đế Tân , cai trị khoảng 1154 TCN – 1066 TCN), làm sụp đổ nhà Thương (khoảng 1600 TCN – 1066 TCN). Huyền thoại đề quyết nàng Đát Kỷ là con cáo cái thành tinh (hồ ly tinh), có phép hoá ra mỹ nhân.
3. Bao Tự (?-771 TCN) mê hoặc vua U vương (tức Cơ Cung Niết , cai trị 781 TCN – 771 TCN), làm sụp đổ nhà Tây Chu (khoảng 1066 TCN – 771 TCN). Vua U vương chưa bao giờ thấy Bao Tự cười, ra lệnh ai làm cho nàng cười sẽ được thưởng ngàn lạng vàng. Nàng thích nghe tiếng lụa bị xé, vua U vương cho xé lụa ngày đêm để nàng vui, thậm chí còn cho đốt lửa trên các hoả đài để đánh lừa các chư hầu đem quân về cứu Thiên tử nhà Chu (vua U vương). Bao Tự đứng trên lầu cao, nhìn cảnh chư hầu mắc lỡm, cười ngặt nghẽo. Hậu quả, khi bị quân Khuyển Nhung vây khốn nguy ngập, vua U vương cho đốt lửa trên hoả đài thì các chư hầu không thèm về cứu vì đinh ninh đó là trò lừa bịp cốt làm vui lòng người đẹp.
Theo dân gian Trung Quốc, ngày tam nương là ngày ba nàng Muội Hỉ, Đát Kỷ, Bao Tự được đưa vào nội cung của ba ông vua bị mang tiếng là rất hiếu sắc, tham dâm, bạo ngược vô đạo nói trên. Nhưng vì sao chỉ có ba nàng mà lại kể ra sáu ngày nhập cung? Ngày nào liên quan tới nàng nào? Xưa nay chẳng thấy ai giải thích!
Dù là truyền thuyết, hoang tưởng nhưng tín ngưỡng dân gian lâu đời này đã truyền từ Trung Quốc sang Việt Nam, ảnh hưởng tới không ít quần chúng xưa nay. Thiếu cơ sở khoa học, thiếu bằng chứng xác thực nhưng thói thường vẫn cho rằng “có kiêng có lành”!
Hiện nay, con người đề xướng không theo đuổi cuộc sống vật chất, mà đề cao cuộc sống tinh thần hơn. Tuy nhiên, muốn có cuộc sống tinh thần phong phú, vẫn cần phải dựa trên sự thỏa mãn về đời sống vật chất. Tuy vậy trong cuộc sống hiện nay, sự giàu có lại không được chia sẻ đồng đều, cũng không hẳn làm việc cần cù là có thể đạt được điều mà mình mong muốn. Vậy, muốn có cuộc sống sung túc hơn, nếu không ngại hãy thử điều chỉnh lại phong thủy chiêu tài trong gia đình.
Tìm vị trí Tài trong nhà không khó!
1. Vị trí Minh Tài và Ám Tài
Trong phong thủy học có hai cách nói về vị trí chiêu tài, đó là “Tài vị mang tính tượng trưng” và “tài vị mang tính thực chất”, cũng chính là vị trí Minh Tài và Ám Tài mà chúng ta đang nói đến. Vị trí Minh Tài thường là vị trí đường chéo bên trái hoặc bên phải khi chúng ta bước vào nhà, vị trí này khá dễ tìm, thường chỉ cần không có lối đi ở vị trí đó là được, để tránh khó hình thành địa thế tụ tài. Còn vị trí Ám Tài, là nơi có thể đem đến tài vận thật sự cho bạn, nhưng lại khó tìm hơn một chút.
Sau đây chúng tôi sẽ giới thiệu cách tìm vị trí Ám Tài theo hướng nhà.
2. Xác định vị trí Ám Tài
- Khảm Trạch (tòa nhà có hướng từ Bắc sang Nam): vị trí Ám Tài là hướng Tây Nam và chính Bắc.
- Ly Trạch ( tòa nhà có hướng từ Nam sang Bắc): vị trí Ám Tài là Đông Bắc và Tây Nam.
- Đoái Trạch (tòa nhà có hướng từ Tây sang Đông): vị trí Ám Tài là chính Nam, Đông Nam và Tây Bắc.
- Chấn Trạch (tòa nhà có hướng từ Đông sang Tây): vị trí ám tài là chính Đông hoặc chính Bắc.
- Tốn Trạch (tòa nhà có hướng từ Đông Nam sang Tây Bắc): vị trí ám tài là Tây Nam và Đông Nam.
- Khảm Trạch (tòa nhà có hướng từ Tây Bắc sang Đông Nam): vị trí ám tài là chính Tây, Tây Bắc và chính Bắc.
- Khôn Trạch (tòa nhà có hướng từ Tây Nam sang Đông Bắc): vị trí ám tài là chính Đông và Tây Nam.
- Cấn Trạch (tòa nhà có hướng từ Đông Bắc sang Tây Nam): vị trí ám tài là Tây Bắc và Đông Bắc.
Trên đây là cách xác định vị trí ám tài trong gia đình. Nếu vị trí ám tài trong gia đình vừa hay là cửa chính, thì gia đình sẽ “tiền vào như nước sông Đà”. Do vậy, khi mua hoặc xây nhà, chúng ta cũng nên xem xét một chút về vấn đề này.
Ngoài ra, hai vị trí Tài cần được giữ sạch sẽ và thoáng mát. Nếu như Tài vị có rác hoặc đồ linh tinh, sẽ khiến cho tài vận của gia đình không tốt, khó kiếm tiền hoặc không biết giữ tiền.
Đồ có nước và tranh có hình nước đều không nên đặt ở vị trí Tài. Vị trí này nên đặt tượng Tam tinh Phúc Lộc Thọ và hình Kỳ lân thủy tinh, trúc phú quý….
Đã là công chức nhà nước hay đang kinh doanh trên thương trường, chắc bạn không thể tránh khỏi nạn “tiểu nhân” trong công việc. Làm sao có thể vừa thoát khỏi kẻ ám hại mình một cách ngoạn mục, vừa giúp mình thăng tiến, chiêu tài trong công việc?
1. Rồng: thăng quan tiến chức, thoát nạn tiểu nhânRồng là con vật linh thiêng theo truyền thuyết từ xa xưa của người Phương Đông (1 trong tứ linh: Long, Lân, Quy, Phượng), được coi là con thú tốt lành, mình rồng dài, trên thân có nhiều vẩy, trên đầu có sừng như sừng hươu, chân có móng vuốt, rồng có nhiều tài như bay trên trời, bơi dưới nước…
Rồng có tác dụng trừ khử tiểu nhân, đặt biệt là rồng có màu xanh
Nếu đặt rồng xanh ở hướng rồng của ngôi nhà thì những kẻ tiểu nhân không dám gây sự quấy nhiễu, hoặc khi hướng bạch hổ của ngôi nhà khí vận phong thủy quá xấu, thì nên bày rồng xanh ở hướng rồng, để hóa giải tai ách do bạch hổ gây ra.
Là con vật đứng đầu trong các loài thú lành, nên ngoài việc hóa sát nó còn tăng cường phát huy quyền lực, người có chức vụ cao dùng nó có hiệu quả càng lớn. Ngoài ra rất phù hợp cho người làm việc hành chính , hoặc hoạt động chính trị , giúp chống lại những lời dèm pha và tăng cường quyền uy. Có thể đặt Rồng Xanh bằng ngọc (tốt nhất), bằng đá, bột đá…ở góc trái bàn viết tượng trưng cho Tả Thanh Long. Và để loại bỏ hết những khó khăn, trở ngại do bọn tiểu nhân gây ra thì rồng xanh còn có thể bày ở bên trái nhà ở, như vậy hiệu quả sẽ càng tốt hơn.
Sách có câu: “Tiểu nhân hưng ba trở trệ đa, thanh long nhất điều khứ kỳ ác” nghĩa là nếu bị kẻ tiểu nhân tác oai tác quái gây khó khăn ách tắt, thì hãy dùng một con rồng xanh trừ khử hết mọi điều xấu do nó gây ra.
Vì thanh long được coi là một loại thú lành, người ta đồn rằng nếu như người đàn bà nào trước khi sinh nở mà nằm mơ thấy rồng, thì đứa bé trai được sinh ra chắc chắn sẽ hơn người.
Tuy nhiên muốn chưng rồng xanh để tránh tiểu nhân thì phải chưng vào dịp ngũ long nhật, cụ thể là các ngày “giáp thìn”, “bính thìn”, “mậu thìn”, “canh thìn” và “nhâm thìn” thì hiệu quả mới nổi bật.
Khi chưng bày không nên đặt hướng đầu Rồng về phòng ngủ , nhất là phòng ngủ trẻ em.
Rồng là biểu tượng của Hoàng đế, của người quân tử. Rồng có khả năng dùng hơi thở thổi ra nguyên khí trời đất, nguyên khí này chính là nền tảng của học thuật Phong Thuỷ.
Hình dạng của núi sông, thung lũng, các khối nhà, đường xá đều có liên quan đến các bộ phận của Rồng như đầu, mình, thân, đuôi, móng vuốt và viên ngọc rồng từ đó ảnh hưởng đến vị trí Phong Thuỷ.
Rồng có sức mạnh tạo ra tiết khí, mưa giông, ánh sáng từ mặt trời, gió biển và đất đai. Rồng biểu trưng cho năng luợng của đất trời, là vật siêu phàm của Phong Thuỷ.
Rồng bằng ngọc, đá quý mang nguyên khí Thổ, trong vận 8 là cát khí đem lại sự may mắn về công danh, tài lộc. Bày ở các hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc trong phòng khách hoặc phòng làm việc,ở cửa hàng kinh doanh buôn bán.
2. Sư tử đá – Uy nghiêm và quyền lựcTrên bàn làm việc đặt một đôi Sư Tử nhỏ, nhất đinh cần nhớ là “Tả Công Hữu Mẫu – Trái Cha Phải Mẹ” tức là luôn đặt con đực ở bên trái của con cái, bởi vì Sư Tử Cha là Dương, Sư Tử mẹ là Âm đặt như vậy mới đúng với câu “Dương theo bên trái vòng vòng chuyển; Phải theo đường phải chuyển tương thông”. Mặt Sư Tử hướng thẳng với hướng mặt mình ngồi.
Nhưng lưu ý nếu ở kiểu bàn làm việc phổ biến hiện nay có chia từng ngăn ô thì lại đặt xoay về hướng đối diện với mặt mình. Tức cặp Sư Tử sẽ nhìn hướng về phía sau lưng mình ngồi. Có một điểm nhỏ nhưng quan trọng là cần chọn loại có nét mặt vui vẻ, dễ thương, tránh chọn loại mà mắt lộ hung quang, mặt đầy hung khí. Nên được Khai Quang thì tốt.
Vương trượng (Gậy như ý) là những vật hình cong đầu rất lớn. Ý nghĩa của biểu tượng là cầu mong đạt được mọi ước nguyện, việc gì cũng tốt đẹp, vừa ý. Trong tâm linh Phúc – Lộc – Thọ, thì Ông Lộc trong tay cũng cầm Vương Trượng. Đa phần, Vương Trượng được chế tác bằng ngọc nhưng cũng có thể làm bằng chất liệu khác như vàng, bạc đồng, sứ…
Vương trượng là vật đại diện cho quyền lực mà ngày xưa các vị quan lại vua chúa luôn sở hữu. Nó là vật khí rất quan trọng trong Phong Thủy chuyên dùng để củng cố địa vị và quyền lực, chống lại kẻ tiểu nhân; tăng thêm công danh, uy quyền, sự tôn nghiêm cho người sở hữu.
Vương trượngđược mạ vàng, kèm thêm những viên ngọc nên cát khí của nó rất lớn, không những hoá giải được hung khí của sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc vốn gây tai họa mà còn đem lại uy quyền và công danh tài lộc.
Vương trượng rất thích hợp dùng cho người mệnh cao, giữ trọng trách lớn. Đặt trên bàn làm việc, trong phòng khách, văn phòng.
4. Tiền hoa mai
Đồng tiền hoa mai còn gọi là Mai hoa kim tiền là đồng tiền bằng đồng hình hoa mai năm cánh. Một mặt chạm ngũ tự gồm : THỌ (sống lâu), MỆNH (số mạng), THỦ (đứng đầu), PHÚ (giàu có)và QUÝ (thăng tiến) trên mỗi cánh hoa. Mặt còn lại chạm hình ĐÀO TIÊN (trường thọ), CHIM KHÁCH (cát tường), THỎI VÀNG (của cải), DƠI (phúc) và TUẦN LỘC (lộc).
Mai hoa kim tiền có công dụng giải trừ tiểu nhân tránh thị phi, hỗ trợ quan vận kích vượng phú quý và may mắn tài lộc.
Thường đặt đồng tiền hoa mai trong ngăn bàn làm việc, để trong ví, trong ngăn kéo tài liệu, sau lưng ghế tựa của mình hoặc treo trên bức tường phía sau lưng mình đều với mong muốn đạt thành những ý nguyện trên.
Thời xa xưa, những gia đình giàu có thường táng theo người chết một viên ngọc bích chạm khắc hình con ve sầu, đặt trên nắp áo quan, mong cho người đã khuất có được một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới khác.
Đối với người đang sống, ve sầu được xem là một biểu tượng của cuộc sống lâu dài, hạnh phúc và tuổi trẻ bất diệt.
Căn nguyên của biểu tượng này được bắt nguồn từ truyền thuyết xưa kia. Tương truyền rằng: Có một nữ hoàng làm rất nhiều việc tốt cho dân, khi qua đời đã đầu thai thành con ve sầu. Khi đã trở thành ve sầu, bà không bao giờ già vì luôn lột xác sau mỗi mùa hè. Vì thế, loài ve sầu đã trở thành một biểu tượng cho sự trẻ trung của con người.
Bên cạnh ý nghĩa đó, loài ve sầu còn được coi như một một lá bùa hộ mệnh. Khi đeo trên mình một vật có dáng ve sầu, bạn sẽ được bảo vệ khỏi những nguy hiểm, tiểu nhân và kẻ thù.
Một miếng ngọc bích hình con ve sầu có tác dụng bảo vệ tốt. Những nhân viên trong công ty muốn tìm kiếm sự bảo vệ trước một đồng nghiệp không đáng tin cậy hay người quản lý có mưu đồ xấu có thể tìm một miếng ngọc bích hình con ve sầu như mặt dây chuyền để đeo.
1. Bảng tính tháng làm nhà
Quan Tước Tốt |
Quan Quý Tốt |
Tứ Điếu Xấu |
Vượng Trang Tốt |
Bảng tính tháng làm nhà |
Phúc Hưng Tốt |
||
Trường Bệnh Xấu |
Pháp Dân Xấu |
||
Tiền Tài Tốt |
Ồn Hoàng Xấu |
Phúc Đức Tốt |
Điên Cuồng Xấu |
2. Phương pháp tính
Các tuổi Thân – Tý – Thìn: bắt đầu tính từ tháng 5 (âm lịch) tại ô Phúc Đức, tính tiếp theo chiều kim đồng hồ, tháng nào rơi vào ô tốt (Phúc Đức, Tiền Tài, Quan Tước, Quan Quý, Vượng Trang, Phúc Hưng) thì khởi công tháng đó.
Các tuổi Dần – Ngọ – Tuất: bắt đầu tính từ tháng 11 tại ô Phúc Đức và tính thuận chiều kim đồng hồ như trên.
Các tuổi Tị – Dậu – Sửu bắt đầu tính từ tháng 2 tại ô Phúc Đức và tính thuận chiều kim đồng hồ như trên.
Các tuổi Hợi – Mão – Mùi bắt đầu tính từ tháng 8 tại ô Phúc Đức và tính thuận chiều kim đồng hồ như trên.
3. Ví dụ
Tuổi Hợi sau khi xem, nếu được năm làm nhà, cần tìm tháng tốt để khởi công. Tính tháng 8 từ ô Phúc Đức; thấy tháng 8 ở ô Phúc Đức (tốt), tháng 10 ở ô Tiền Tài (tốt), tháng Giêng ở ô Quan tước (tốt), tháng 2 ở ô Quang Quý (tốt), tháng 4 ở ô Vượng Trang (tốt), tháng Năm ở Phúc Hưng (tốt).
Vậy năm đó tuổi Hợi có thể khởi công làm nhà vào các Giêng, Hai, Tư, Năm, Tám và Mười.
Một số điều kiêng kỵ trong phòng ngủ dưới đây sẽ giúp tình cảm vợ chồng hai bạn luôn gắn bó mặn nồng và tránh được nguy cơ đổ vỡ.
Kỵ mỗi người một chăn
Giường ngủ là nơi hai vơ chồng gần gũi nhất, bởi vậy việc chọn mua chăn đệm rất quan trọng. Trong gia đình, khi ngủ hai vợ chồng không nên đắp mỗi người một chăn vì điều này sẽ khiến cho tình cảm vợ chồng trở nên hờ hững, xa cách.
Kỵ để gương đối diện với giường ngủ và cửa ra vào
Rất khó tránh khỏi việc treo gương trong phòng ngủ, tuy nhiên bạn nên chú ý không để gương trong phòng đối diện với giường ngủ hoặc cửa ra vào phòng ngủ, nếu không sẽ khiến cho người chồng – chủ nhân căn nhà cảm thấy bất an. Nếu như không thể thay đổi được vị trí để gương, có thể dùng tấm vải che lên tấm gương, khi nào dùng mới vén lên.
Kỵ người thứ ba bước vào phòng ngủ của hai vợ chồng
Phòng ngủ là nơi dành riêng cho hai vợ chồng, vì thế nên tránh để người thứ ba bước vào bởi nó có thể đem đến khí vẩn đục cho căn phòng. Ngoài ra, nhiều người thường sử dụng phòng ngủ làm nơi thay quần áo, tuy nhiên điều này cũng không ổn vì dễ khiến người chồng ngoại tình ở bên ngoài.
hay người bán hàng chọn đặt văn phòng tại nhà và như vậy phòng sách vừa là văn phòng vừa là nơi sinh hoạt.
Những gia đình có diện tích nơi ở rộng thì có thể bố trí phóng sách độc lập; gia đình nào tương đối hẹp thì bỏ ra một khu nhỏ làm nơi học tập và làm việc, che chắn cho khu này có thể dùng tủ sách hoặc rèm.
Bố trí phòng sách thể hiện cá tính và nội tâm của người chủ, thực ra, đó là một học vấn. Phòng sách là nơi rèn luyện bản lĩnh, tu thân dưỡng tính của mỗi người. Thường thì phòng sách được bài trí bàn viết, bàn để máy vi tính, tủ sách, ghế ngồi. Bàn viết và ghế phải được thiết kế tinh tế, hợp với tư thế ngồi và thuận tiện trong thao tác.
Đồ dùng trong phòng sách ngoài tủ, bàn, ghế ra, ở phòng sách dùng cho khách có thể bố trí thêm một bộ bàn ghế uống nước, tạo không khí ấm cúng. Bàn sách nên đặt trước hoặc bên phải cửa sổ để đảm bảo ánh sáng, mặt bàn tránh bị che bóng. Đèn bàn nên dùng loại cơ động, có thể điều chỉnh và đảm bảo góc độ chiếu sáng và độ sáng. Ngoài ra có thể bố trí thêm chậu cây và tranh ảnh để thể hiện không gian đặc trưng của một phòng sách.
Rèm cửa thường dùng loại vải màu nhạt, vừa có thể che được ánh sáng vừa tạo được cảm giác thông thoáng, dùng được rèm bạch diệp cao cấp càng tốt, ánh sáng cường độ mạnh khi qua rèm sẽ trở nên dịu và ẩm.
Quy mô và đầu tư phòng sách thường được xem xét căn cứ vào kích thước phòng và nghề nghiệp, thân phận và lượng sách cần có của người chủ, nếu diện tích có hạn có thế kéo không gian ra thêm khi điều kiện cho phép; củng cần căn cứ vào khả năng thu nhập kinh tế của người chủ để chọn. Bình thường, nhu cầu của một phòng sách là thực dụng, gọn gàng sạch sẽ, không nhất thiết phải đầu tư những thứ quá đặt tiền.
Trong dòng sông dài lịch sử, vô số câu chuyện đã được lưu giữ lại, truyền lại từ đời đời. Phảng phất đâu đó là hiện thực cuộc sống, những câu chuyện này mang đến một bức tranh thế giới cổ xưa làm say đắm lòng người.
Thời Xuân Thu, Tần Mục Công nước Tần có một cô con gái; lúc cô bé mới được sinh ra, có người đem dâng Tần Mục Công một viên đá ngọc bích, ông sai thợ đẽo dũa đi, thành một viên ngọc xanh biếc trông rất đẹp.
Ðến hôm con gái Mục Công tròn 1 tuổi, trong cung bày bàn tiệc tổ chức ngày lễ “chọn đồ vật đoán tương lai” cho cô bé. Đây là một tập tục của người xưa, đến ngày tròn 1 tuổi, cha mẹ sẽ bày lên một cái đĩa bao gồm các đồ vật để con tự do lựa chọn theo sở thích của mình. Lúc này, người con gái nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, bởi vậy Mục công đặt tên cho con là Lộng Ngọc.
Lộng Ngọc lớn lên, nhan sắc tuyệt trần, lại sẵn tính thông minh trời ban, rất có tài thổi sáo, không cần học ai cả, mà tự thành âm điệu, hơn nữa nàng không cứng nhắc theo chỉ dạy của nhạc sỹ, mà tự thả hồn theo âm nhạc, tiếng sáo nghe rất tuyệt diệu. Mục công sai thợ làm một cái sáo bằng ngọc để cho nàng thổi. Nàng thổi cái sáo ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng.
Mục Công rất yêu quý con gái, lại lập một cái lầu cho nàng ở, đặt tên là “Phượng lâu”, trước lầu có xây một cái đài cao gọi là “Phượng đài”. Năm Lộng Ngọc mười lăm tuổi, Tần Mục công muốn kén rễ cho nàng, Lộng Ngọc nói với cha rằng:
“Con muốn tìm người có tài thổi sáo và có thể họa xướng cùng với con, khi đó con sẵn lòng lấy người ấy làm chồng, còn không thì con cũng chẳng thiết tha gì”.
Mục Công sai người đi tìm nhưng chẳng được một người nào vừa ý. Một hôm, Lộng Ngọc ở trên lầu cuốn rèm lên ngắm cảnh, thấy trời tạnh mây trong, trăng sáng như gương, nàng gọi thị nữ đốt lên một nén hương, rồi đi lấy cái sáo bằng ngọc bích, đến bên cửa sổ mà thổi. Tiếng sáo véo von vọng lên vòm trời, gió hây hây thổi, bỗng nghe như có người họa lại, khi gần khi xa. Lộng Ngọc không khỏi băng khoăn, bèn ngừng lại không thổi nữa, cố ý để nghe xem sao. Tiếng họa bỗng im đi, nhưng dư âm còn vang vọng không dứt.
Lộng Ngọc bâng khuâng trước gió, như một ngưới vừa đánh mất vật gì. Chốc đã nửa đêm, trăng xế hương tàn, nàng đem ống sáo để trên đầu giường, gắng gượng đi nằm. Nàng đang thiêm thiếp, bỗng thấy về phía tây nam trên trời, cửa mở rộng ra, hào quang ngũ sắc, rực rỡ như ban ngày, có một chàng trai trẻ tuổi, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng ở trên trời xuống, đứng trước Phượng đài bảo nàng rằng:
“Ta đây làm chủ ở núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng thượng đế cho ta kết duyên với nàng, đến ngày trung thu này thì đôi ta gặp nhau, ấy là duyên số định sẵn như vậy!”
Chàng trai trẻ tuổi ấy nói xong, lấy tay cởi bỏ ống ngọc tiêu đeo bên hông xuống, rồi đứng dựa lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên, cũng vươn cánh ra, vừa kêu vừa múa.
Tiếng phượng cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa, cùng nhịp với nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất êm ái. Lộng Ngọc mê mẩn tâm hồn, hỏi rằng: “Ca khúc này là gì?”
Chàng trai trẻ tuổi ấy nói: “Đây là khúc ‘Họa Sơn Ngâm’ đó!”
Lộng Ngọc lại hỏi: “Ca khúc này có học đưọc không?”
Chàng trai ấy nói: “Khi ta đã kết duyên với nàng rồi thì khó gì mà ta không dạy nàng được”.
Chàng trai trẻ tuổi ấy đến gần trước mặt, cầm lấy tay của Lộng Ngọc; Nàng giật mình tỉng dậy, thì ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, Lộng Ngọc thuật lại chuyện chiêm bao cho Mục Công nghe. Mục công sai Mạnh Minh cứ theo như hình tượng người trong mộng mà đến dò tìm ở núi Họa Sơn. Người nông phu ở đấy trỏ lên núi mà bảo Mạnh Minh rằng:
“Hôm rằm tháng bảy mới rồi, có một người lạ mặt, đến làm nhà ở trên núi này, ngày nào cũng xuống mua rượu uống, đến buổi chiều lại thổi chơi khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích lắm, không rõ là người ở đâu”.
Mạnh Minh lên núi, quả nhiên thấy có một người mũ lông áo bạc, trông như một vị thần tiên. Mạnh Minh biết là không phải người thường, mới đến trước mặt vái chào, mà hỏi họ tên người ấy. Người ấy nói:
“Tôi họ Tiêu, tên Sử, chẳng hay ngài là ai? Ðến đây có việc gì?”
Mạnh Minh nói:
“Tôi là đại thần nước này, tên gọi Mạnh Minh. Chúa công tôi có một người con gái yêu, còn đang kén chồng. Người con gái chúa công tôi, tài thổi sáo, muốn tìm một người như thế nữa mà kết duyên, nay nghe ngài am hiểu âm nhạc, vậy chúa công sai tôi đến đón!”
Tiêu Sử nói: “Tôi không có tài cán gì, chỉ gọi là có biết đôi chút về nhạc điệu mà thôi, tôi đâu dám vâng mệnh”.
Mạnh Minh nói: “Xin ngài cứ đi cùng tôi xuống yết kiến chúa công”.
Khi về đến kinh thành, Mạnh Minh vào tâu Mục Công trước, rồi sau đưa Tiêu Sử vào. Mục Công ngồi ở trên Phượng đài, Tiêu Sử sụp lạy mà tâu rằng: “Chúng thần ở nơi dân giã chưa biết lễ nghi, có điều gì sơ suất, xin chúa công miễn thứ cho”.
Mục Công thấy Tiêu Sử dung mạo thanh tú, không phải là người thường, trong lòng đã có mấy phần vui vẻ, mới cho ngồi ở bên cạnh mà nói rằng: “Ta nghe nhà ngươi có tài thổi tiêu, chắc là cũng tài thổi cả sáo nữa!”
Tiêu Sử nói: “Thần chỉ biết thổi tiêu, không biết thổi sáo”.
Mục công nói: “Ta định tìm một người có tài thổi sáo, nếu chỉ biết thổi tiêu thì không sánh đôi với con ta được!”
Tần Mục công nói xong, bảo Mạnh Minh đưa Tiêu Sử đi ra. Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Mục Công rằng:
“Tiêu với sáo cũng là một loài, người ta đã có tài thổi ống tiêu thì sao chúa công không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài”.
Mục Công lấy làm có lý, bèn bảo Tiêu Sử thổi tiêu. Tiêu Sử mới dạo một khúc thì thấy có gió mát hây hây; thổi đến khúc thứ hai thì mây che bốn mặt, đến khúc thứ ba thì có đôi hạc trắng múa lượn trên không, lại có mấy đôi khổng tước bay về, và các giống chim kêu ríu rít; một lúc lâu rồi mới tan đi. Mục Công rất lấy làm hài lòng.
truyền thuyết, tiêu sử, tiêu, tiếng sáo, mục công, lộng ngọc, chuyện tình,
Bấy giờ Lộng Ngọc đứng ở trong rèm trông thấy, cũng bằng lòng mà nói rằng: “Người ấy thật xứng làm chồng ta!”
Mục Công lại hỏi Tiêu Sử rằng: “Nhà ngươi biết sáo và tiêu làm ra từ đời nào không?”
Mục Công nói: “Nhà ngươi hãy thử kể rõ nguồn gốc cho ta nghe”.
Tiêu Sử tâu rằng:
“Kỹ năng của thần là ở ống tiêu, vậy thần xin kể nguyên lai của ống tiêu: Ngày xưa vua Phục Hi ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn gọi là nhã tiêu, ghép liền hai mươi ba ống, dài một thước bốn tấc, thứ nhỏ gọi là tụng tiêu, ghép liền mười sáu ống, dài hai thước một tấc. Cả hai thứ gọi chung một tiếng là tiêu quản, còn thứ không có đáy thì là đồng tiêu.
Về sau vua Hoàng Ðế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê, chế làm ống địch, ống địch có bảy lỗ, cầm ngang mà thổi, cũng giống tiếng chim phượng, trông giản dị lắm! Người đời sau thấy tiêu quản nhiều ống quá, mới chỉ dùng một ống địch rồi cầm mà thổi dọc. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch, bởi vậy ống tiêu đời nay, không phải như ống tiêu đời xưa”.
Mục Công lại hỏi: “Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có giống chim bay đến?”
Tiêu Sử nói:
“Ống tiêu dẫu mỗi đời một khác, nhưng tiếng thổi bao giờ cũng vẫn giống tiếng chim phượng. Chim phượng là dẫn đầu các giống chim, bởi vậy các giống chim nghe tiếng phượng, đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc “Tiêu Thiều” mà chim phượng còn hay bay đến, huống chi là các giống chim khác!”
Tiêu Sử ứng đối trôi như nước chảy, tiếng nói lại sang sảng. Mục Công càng thấy bằng lòng lắm, bảo Tiêu Sử rằng:
“Ta có một người con gái, tên gọi Lộng Ngọc, cũng có biết âm nhạc, không muốn gã cho người ngu ngốc, vậy xin cùng với nhà ngươi kết duyên”.
Tiêu Sử nghe nói, nghiêm nét mặt lại, rồi sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:
“Thần vốn là người thôn giã, có đâu dám sánh với bậc tôn quý!”
Mục Công nói:
“Con gái ta vốn có lời thề nguyện, có chọn được người nào tài thổi sáo thì mới lấy làm chồng. Nay nhà ngươi mới thổi tiêu mà lại cảm động được đến trời đất và muôn vật, như vậy thì lại hơn người thổi sáo nhiều lắm. Vả lại con gái ta khi trước đã có điềm mộng, ngày nay lại chính là tiết trung thu rằm tháng tám, duyên trời định sẵn, nhà ngươi chớ nên chối từ”.
Tiêu Sử lạy tạ. Mục Công sai quan thái sử chọn ngày để làm lễ cưới. Quan thái sử nói:
“Hôm nay là ngày trung thu, trăng vừa tròn bóng, xin chúa công cho làm lễ cưới, để hợp cái nghĩa ân ái vẹn tròn”.
Tần Mục Công truyền cho Tiêu Sử tắm gội, thay mũ áo mới, rồi sai người đưa đến Phượng lâu, để cùng với Lộng Ngọc kết duyên. Ngày hôm sau, Tần Mục Công phong cho Tiêu Sử làm trung đại phu. Tiêu Sử dẫu làm trung đại phu, nhưng không dự gì đến quyền chính cả, ngày nào cũng vui chơi ở chốn Phượng lâu, lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu mà thôi. Lộng Ngọc học được thần thái của Tiêu Sử, cũng không ăn cơm.
Tiêu Sử lại dạy nàng thổi ống tiêu. Vợ chồng ở với nhau chừng được nửa năm thì một đêm, bóng trăng vằng vặc, hai vợ chồng đem ống tiêu ra thổi, bỗng thấy một con phượng xuống đậu ở bên tả, và một con rồng xuống phục ở bên hữu.
Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc rằng:
“Ta vốn là người tiên trên trời, Ngọc Hoàng thượng đế thấy sử sách ở trần gian, nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống làm họ Tiêu nhà Chu để sửa sang lại. Người nhà Chu thấy ta có công về sử sách, mới gọi là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng thượng đế cho ta làm chủ ở núi Họa Sơn. Vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhưng không nên ở mãi chốn trần gian này. Nay rồng cùng phượng đã đến đón ở đây, chúng ta nên cùng đi”.
Lộng Ngọc toan vào từ biệt với cha. Tiêu Sử can rằng: “Không nên ! Ðã là thần tiên thì chớ nên quyến luyến chút tình riêng!”
Bấy giờ Tiêu Sử cưỡi con rồng, Lộng Ngọc cưỡi con Phượng cùng bay lên trời. Ngày hôm sau, nội thị vào báo với Mục Công. Mục Công thở dài mà than rằng:
“Giả sử bây giờ rồng phượng đến đón ta thì ta cũng chẳng thiết gì ngôi vị nữa !”
Mục công liền sai người đến núi Họa Sơn để tìm, nhưng chẳng thấy Tiêu Sử đâu cả, mới truyền lập đền thờ, gọi là đền Tiêu Nữ. Mục công bấy giờ chán việc chiến tranh, giao hết quốc chính cho Mạnh Minh, rồi ngày nào cũng ham mê đường tu luyện. Chẳng bao lâu, công tôn chỉ cũng mất, Mạnh Minh tiến dẫn ba con Tử Xa Thị là Yêm Tức, Trọng Hàng và Kiểm Hồ, Mục Công đều cho làm quan đại phu.
Một hôm, Mục công ngồi ở trên Phượng đài, ngắm cảnh trăng sáng, lại nhớ đến Lộng Ngọc, bỗng chợp mắt ngủ đi, trông thấy Tiêu Sử và Lộng Ngọc đem một con phượng đến đón. Mục Công cưỡi phượng lên chơi cung trăng, khí lạnh buốt vào tận xương. Ðến lúc tỉnh dậy, liền bị bệnh cảm hàn, sau mấy ngày thì tạ thế. Ai cũng cho là Tần Mục Công đã đắc đạo thành tiên.
=> Xem tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
(Ảnh minh họa) |
Đặc điểm của loại bàn chân này là nhỏ, dài, thẳng, da mềm và trơn, gan bàn chân lõm rõ nét. Người có bàn chân này có tư chất thông minh, học vấn cao. Họ cũng là người trung hậu, dễ gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp.
Đặc điểm của loại bàn chân này là vuông mà rộng, xung quanh dày, chỗ lõm ở gan bàn chân hiện lên rõ rệt và phải tương xứng với thân hình. Người có bàn chân này có tính cách đôn hậu, được bàn bè tin cậy, thường gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.
Bàn chân ngắn, thô cứng, to ngang, gan bàn chân không lộ rõ thì chủ nhân thường xuất thân bần hàn, cuộc đời gặp nhiều sóng gió, vất vả trên con đường mưu sinh.
Đặc điểm của bàn chân này là to, mỏng, da chân khô, có nhiều nếp nhăn, không có gan bàn chân. Người có bàn chân này kém thông minh, cuộc sống nhiều trắc trở, làm không đủ ăn.
Đây là bàn chân của người có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, phản ứng nhanh nhẹn và linh hoạt. Họ là người có năng khiếu về mặt nghệ thuật và dễ gặt hái được nhiều thành công hơn nếu đi theo con đường này. Họ là người có đời sống nội tâm khá sâu sắc và có trái tim yêu rất nồng nhiệt, tuy nhiên họ ít khi bộc lộ tình cảm ra bên ngoài, thường che giấu cảm xúc thực nên đời sống của họ cô độc. Đây cũng là người có sức khỏe kém, dễ bị bệnh.
Chủ nhân của đôi bàn chân này là người giỏi giao tiếp và tận tụy với công việc. Họ sống chính nghĩa và thực tế, hay giúp đỡ người khác, có tính nhẫn nại, chịu được cực khổ, tuy nhiên lại thiếu tính quyết đoán. Nếu là nữ giới thì người này có tính tình cởi mở và thân thiện, còn nếu là nam thì sống khá kín đáo và trầm tính.
Đây là người có tính cách ổn định, giao tiếp tốt, có tài lãnh đạo và khả năng chi phối người khác. Họ có cách nhìn nhận phân minh, yêu ghét rõ ràng, biết tiếp thu ý kiến người khác. Trong công việc, họ là người khá linh hoạt và nhanh nhạy, có thể phát huy hết khả năng của mình.
(Theo Nhân tướng học toàn thư)
1. Quy tắc đầu tiên: “Bất cứ người nào bạn gặp cũng đúng là người mà bạn cần gặp”
Điều này có nghĩa rằng không ai xuất hiện trong cuộc đời chúng ta một cách tình cờ. Mỗi người xung quanh chúng ta, bất cứ ai chúng ta giao lưu, gặp gỡ đều đại diện cho một điều gì đó, có thể là để dạy chúng ta điều gì đó hoặc giúp chúng ta cải thiện tình hình hiện tại. Vì vậy, hãy tôn trọng và coi trọng những người mà chúng ta gặp gỡ!
Bài học cuộc sống: 4 quy tắc tâm linh của người Ấn Độ
2. Quy tắc thứ hai: “Bất cứ điều gì xảy thì đó chính là điều nên xảy ra”
Không có điều gì tuyệt đối, không có điều gì chúng ta trải nghiệm lại nên khác đi cả. Thậm chí cả với những điều nhỏ nhặt ít quan trọng nhất. Không có: “Nếu như tôi đã làm điều đó khác đi…, thì nó hẳn đã khác đi. “
Những gì đã xảy ra chính là những gì nên xảy ra và phải xảy ra giúp chúng ta có thêm bài học để tiến về phía trước. Bất kỳ tình huống nào trong cuộc đời mà chúng ta đối mặt đều tuyệt đối hoàn hảo, thậm chí cả khi nó thách thức sự hiểu biết và bản ngã của chúng ta.
3. Quy tắc thứ ba: “Trong mỗi khoảnh khắc, mọi sự đều bắt đầu vào đúng thời điểm”
Mọi thứ bắt đầu vào đúng thời điểm, không sớm hơn hay muộn hơn.
Khi chúng ta sẵn sàng cho nó, cho điều gì đó mới mẻ trong cuộc đời mình, thì nó sẽ có đó, sẵn sàng để bắt đầu.
4. Quy tắc thứ tư: “Những gì đã qua, cho qua”
Quy tắc này rất đơn giản. Khi điều gì đó trong cuộc sống của chúng ta kết thúc, thì có nghĩa là nó đã giúp ích xong cho sự tiến hoá của chúng ta. Đó là lý do tại sao, để làm phong phú thêm trải nghiệm của mình, tốt hơn hết là chúng ta hãy buông bỏ và tiếp tục cuộc hành trình.
Cứ đến mùa Vu lan, hầu hết người Việt Nam, dù ở bất cứ nơi đâu, cũng đều được dự lễ “Bông Hồng cài áo”, để tưởng nhớ công ơn của Mẹ, dù còn hiện tiền hay không còn lưu dấu. “Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù Người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa”. (Tản văn “Bông hồng cài áo” của Hoà Thượng Thích Nhất Hạnh)
Mùa Vu lan về, tôi lại nặng trĩu lòng khi nhớ đến Mẹ. Thực ra nói và viết về Mẹ đã là một việc làm không phải, mà phải sống như Mẹ, sống tốt với Mẹ, bây giờ Mẹ không còn thì dù ta có nói hay mấy đi nữa cũng chẳng ăn thua gì đâu. Tuy vậy, trên thực tế vẫn có những câu thơ, những áng văn bất hủ để ca ngợi hình ảnh thiêng liêng và giá trị tình thương vô bờ bến của Mẹ, cũng chính là để nhắc nhở những ai có hạnh phúc đang còn Mẹ, rằng hãy đừng quên, và đừng làm Mẹ buồn khổ.
Trong nhân gian, ai mà lại không có Mẹ. Từ người làm vua cho đến kẻ cùng đinh hà tiện tất thảy đều do Mẹ sinh ra và nuôi lớn. Mẹ của người làm vua và Mẹ của kẻ cùng đinh hà tiện đều thương con như nhau, dù khổ đau lam lũ hay hạnh phúc cao sang thì giá trị tình thương của Mẹ vẫn luôn không thay đổi. Thế nhưng những người con thương Mẹ thì lại khác.
Tôi cũng được cài bông hồng, nhưng lại “phải” cài bông hồng màu Trắng, rất quý nhưng rất buồn. Nhìn mọi người cài hoa cho nhau trong những ngày lễ Cài bông hồng lúc trước tôi như chìm hẳn vào dòng suy tư miên man, và bỗng suy nghĩ về xuất xứ của ngày lễ này (lễ “Bông hồng cài áo”). Lễ cài bông hồng lên áo đã như là một lễ hội đối với người Việt nói chung và giới Tăng Ni Phật tử nói riêng, cho dù bạn có là Phật tử hay chưa phải là Phật tử bạn cũng được tham dự và được cài bông hồng, đó là giá trị tinh thần và giá trị văn hoá, giáo dục cao. Đã là lễ hội vậy nó có từ lúc nào? Tại sao lại là bông hồng mà không là loại bông hoa nào khác? Và lễ hội này là của người Việt Nam hay còn dân tộc nào khác?
Vào những năm cuả thập niên 60 ở thế kỷ trước, cài bông hồng trong một dịp kết thúc khoá tu do Hoà thượng Thích Nhất Hạnh tổ chức, theo Ngài là có một ý nghĩa đền đáp “Tứ ân” và để nhắc nhở với đại chúng trong lúc tham dự, về sự biết ơn, báo ơn nhằm hoá giải những oán kết giữa con người với vạn loại trong cuộc sống vốn có nhiều mối ràng buộc chằng chịt với nhau, đó cũng chính là tông chỉ của tình thương và hoà hợp.
Sau đó nghi thức “Bông hồng cài áo” được giới thiệu với người Việt từ một cuốn sách cùng tên của Hoà thượng Thích Nhất Hạnh, được viết vào tháng 8 năm 1962, cùng thời điểm đó nhạc sỹ Phạm Thế Mỹ đã sáng tác nhạc phẩm “Bông hồng cài áo” - đến nay bài hát đó được coi như là “bài hát vàng” (xin đừng hiểu lầm là “nhạc vàng"). Từ đó nghi thức cài bông hồng trong ngày Vu lan được phổ thông hoá và trở thành ngày lễ, đến nay là trên bốn mươi lăm năm.
Tại Mỹ, Ngày của Mẹ được tổ chức vào ngày chủ nhật thứ 2 của tháng 5. Đây là dịp mà những người mẹ nhận được nhiều thiệp, quà và hoa. Ngày của mẹ đầu tiên được tổ chức tại Philadelphia, năm 1907, dựa vào ý kiến của Julia Ward Howe năm 1892 và của Anna Jarvis năm 1907. Mặc dù trước đó chưa hề có Ngày của Mẹ nhưng vẫn có những sự kiện đặc biệt dành cho mẹ ở Hy Lạp trước đó để tỏ lòng thành đối với Người mẹ của các vị thần, Rhea, vợ của Cronut
Sau đó, tại Anh, vào những năm của thập niên 1600 vẫn có những ngày gọi là Ngày chủ nhật của Mẹ, được tổ chức trong dịp lễ Phục Sinh, vào ngày chủ nhật thứ tư. Vào ngày này, những nô lệ được trở về nhà thăm mẹ. Việc tặng mẹ những chiếc bánh đặc biệt cùng với việc tổ chức lễ hội cũng dần trở thành truyền thống.
Các nước trên thế giới cũng tổ chức Ngày của Mẹ vào những thời gian khác nhau trong năm. Tại Đan Mạch, Phần Lan, Ý, Thổ Nhĩ Kì, Úc và Bỉ, ngày của mẹ cũng được tổ chức vào ngày chủ nhật thứ 2 của tháng năm, sau dịp Lễ Tạ Ơn.
Nhật cũng lấy ngày Chủ nhật thứ 2 trong tháng 5 là ngày của Mẹ (Mother's Day). Trong ngày này, con cái thường tặng mẹ hoa cẩm chướng đỏ (carnation) và những món quà nho nhỏ để bày tỏ lòng kính yêu mẹ.
Phong tục này khởi đầu từ thành phố Grafton, West Virginia (Hoa Kỳ) vào ngày 09 tháng 05 năm 1907 và người đầu tiên lấy hoa cẩm chường đỏ và trắng để vinh danh các bà mẹ là cô Anna Jarvis. Cô là người bỏ cả đời ra để vận động cho một ngày lễ mẹ trên toàn quốc Hoa Kỳ để vinh danh các bà mẹ, trong đó có thân mẫu của cô đã tận tụy nuôi 11 người con. Hôm đó là ngày chủ nhật mồng 9 tháng 5, Anna đã tổ chức một ngày Mother's Day trong nhà thờ nhỏ tại Grafton. Khi đó, Mother's day chưa được chấp thuận là National Holiday.
Anna Jarvis từ Grafton, West Virginia bắt đầu cuộc vận động để tổ chức Ngày lễ Quốc tế dành cho Mẹ. Anna Jarvis thuyết phục mẹ của bà ở nhà thờ tại Grafton để tổ chức Ngày của Mẹ ngay dịp giỗ của bà ngoại của bà. Thế là một loạt các nghi thức được tổ chức vào ngày 10 tháng 5 năm 1908 tại Philadelphia vào năm sau đó. Cùng với một số người khác, Anna Jarvis cũng bắt đầu viết những lá thư vận động gửi đến các nhà cầm quyền, thương nhân, chính trị gia để trình bày về việc tổ chức Ngày của Mẹ và họ đã thành công. Woodrow Wilson đã làm bảng thông cáo về việc chính thức tổ chức Ngày của Mẹ vào ngày chủ nhật thứ 2 của tháng 5 từ năm 1914.
Các nước phương Tây có khởi nguồn phong tục ngày của Mẹ (Mother’s day) vào sau dịp Lễ Tạ ơn, vì hầu hết họ theo Thiên Chúa giáo, và dùng hoa cẩm chướng đỏ và trắng là theo truyền thuyết Ki tô giáo, hoa cẩm chướng sanh ra từ những giọt nước mắt của Đức mẹ Maria lúc bà theo chân Chúa Jesus trên đoạn đường vác thánh giá. Vì vậy, hoa cẩm chướng tượng trưng cho tình yêu bất tử của người Mẹ. Và trong ngày lễ là các con tặng quà, hoa, thiệp và bánh cho Mẹ (chứ không phải tặng nhau).
Do vậy ở người Việt ta có giá trị văn hoá và phong tục Á đông (đại đa số là theo Phật), nên lấy ý nghĩa tri ân và báo ân cha mẹ mà tặng hoa cho nhau để nhắc nhở nhau kính trọng cha mẹ, sống thật tốt với cha mẹ. Điều quan trọng là đối với người Việt bông hồng thông dụng và dễ thương nhất, mang quy ước biểu hiện tình yêu, và do có một khởi đầu từ nghi thức tặng hoa hồng trong khoá tu của Hoà thượng Thích Nhất Hạnh và giới thiệu nó trong cuốn sách có tựa đề “Bông hồng cái áo” của Ngài nên đến nay chúng ta sử dụng hoa hồng trong ngày lễ, chứ thực ra hoa gì cũng được, miễn đẹp là được rồi, với lại giá trị của sự việc là ở chỗ tinh thần chứ không phải ở hoa.
Tấm lòng đẹp thì hoa gì cũng đẹp, tấm lòng đã không đẹp thì hoa lưu ly cũng vậy thôi.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nhắc đến mỹ nhân thời Tam Quốc, đa phần mọi người chỉ biết đến Điêu Thuyền. Nhưng trên thực tế, ngoài Điêu Thuyền còn có Nhị Kiều và một mỹ nhân khác vô cùng nổi tiếng, tài năng vẹn toàn tên là Chân Thị. Đây mới chính là mỹ nhân có nhan sắc quyến rũ, mê hoặc nhất thời Tam Quốc.
Tuy nhiên, trong ba người này, chỉ có Điêu Thuyền được xếp vào tứ đại mỹ nhân cổ đại của Trung Quốc, điều này cho thấy nhan sắc của Điêu Thuyền trội hơn hai người còn lại. Nhưng chỉ căn cứ vào nhan sắc bề ngoài mà nói Điêu Thuyền chính là Tam Quốc đệ nhất mỹ nhân thì hơi quá lời.
Thứ nhất, trong tứ đại mỹ nhân, Dương Quý phi, Tây Thi và Vương Chiêu Quân đều có danh phận rõ ràng và đều là người được các quân vương sủng ái nhất mực. Chỉ có duy nhất Điêu Thuyền thì ở với Đổng Trác hay Lã Bố cũng chỉ là mối quan hệ sống chung, chứ không hề có danh phận. Hai người đàn ông của đời nàng cũng không làm nên đế nghiệp, mà chỉ là những phàm phu tục tử đầy dã tâm. Nếu nói rằng, đàn ông chính là thước đo giá trị của phụ nữ, thì ngoài nhan sắc và tài năng của bản thân người phụ nữ đó, người đàn ông bên cạnh họ cũng vô cùng quan trọng. Điều này đối với Điêu Thuyền đã là một điểm trừ.
Thứ hai, vẻ đẹp của Điêu Thuyền chỉ là nhan sắc bề ngoài cộng thêm chút tài ca kỹ, nhưng vì Đổng Trác và Lã Bố đều là những người thô tục nên cũng chỉ cần có thế là đủ tạo ra cuộc tranh cướp khiến mất mạng. Hơn nữa, nếu nói Điêu Thuyền đẹp cũng chỉ là hư cấu chứ không có được bằng chứng xác thực của lịch sử để có thể đối chứng khảo sát.
Chính vì thế, nếu xét về mọi mặt thì thời Tam Quốc mỹ nhân tên Chân Thị mới chính là đệ nhất mỹ nhân. Nhan sắc và tài năng của nàng đã làm điêu đứng nhiều trái tim đa tình những anh hùng hào kiệt và văn nhân nổi tiếng trên văn đàn thời đấy giờ, trong đó có Viên Hy con trai thứ của Viên Thiệu, Tào Tháo và hai con trai là Tào Phi và Tào Thực.
Chân Thị sinh năm 182 sau công nguyên, tức năm thứ 5 Linh Đế Quang Hòa (nay thuộc Chính Định, Hà Bắc). Cha nàng tên Chân Dật, từng làm thượng thái huyện lệnh, vì thế nàng cũng xuất thân dòng dõi con nhà quan. Đáng tiếc năm nàng lên ba, cha nàng bệnh chết. Tuy còn bé nhưng nàng đã hiểu được nỗi đau mất cha, khiến cả nhà vô cùng kinh ngạc. Đến năm 9 tuổi, nàng tự học đọc sách và viết chữ, thông thường chỉ cần xem qua đã nhớ. Tuổi nhỏ nhưng đã lập trí làm hiền nữ, đồng thời rất hiểu đạo lý. Chính vì thế, sau này nàng có thể trở thành hoàng hậu cũng hoàn toàn không phải là việc ngẫu nhiên.
Khi đến tuổi cập kê, nhan sắc và tài năng của nàng đã vang xa khắp thiên hạ. Viên Thiệu đã cưới nàng cho con trai thứ hai là Viên Hy. Viên Thiệu và Tào Tháo cũng như là Chu Du và Gia Cát Lượng, nếu không có kẻ này kẻ kia tất sẽ là thiên hạ vô địch. Nhưng đáng tiếc, cha con nhà Viên Thiệu bại dưới tay Tào Tháo. Từ đó cuộc đời Chân Thị sang một ngã rẽ khác.
Tào Tháo vốn nổi tiếng háo sắc, từ lâu đã nghe và biết đến người con dâu tài năng và xinh đẹp của Viên Thiệu. Vì thế, trước khi tiêu diệt Thiệu gia ông ta đã tính toán tìm cách làm thế nào để có thể giành được Chân Thị. Đáng tiếc con trai Tào Phi của ông ta còn háo sắc hơn, nên khi quân Tào tấn công vào Nghiệp thành, Tào Phi đã dẫn một đám binh mã xông vào phủ Thiệu gia.
Lúc này Viên Hy không ở nhà, Chân Thị và mẹ chồng Lưu Thị trở thành bia đỡ đạn. Hai người đàn bà không còn chỗ nào trốn đành ở nhà đợi chết. Nhưng khi Tào Phi dẫn binh mã xông vào, thấy nhan sắc của nàng đã ngây dại. Cuối cùng Tào Phi đã nhanh chân hơn cha một bước, cướp được nàng Chân Thị làm vợ. Sau này Tào Tháo biết chuyện chỉ biết than trời, nhưng không có cách nào khác đành thuận theo ý trời.
Sau khi ở với Tào Phi, Chân Thị chỉ được hưởng hạnh phúc trong vài năm ngắn ngủi. Nàng sinh cho Tào Phi một trai một gái. Người con trai sau này chính là Ngụy Minh Đế Tào Duệ. Tục ngữ có câu: Đàn ông đi nhầm đường, đàn bà gả nhầm chỗ. Chân Thị lấy nhầm người nên đã bất hạnh. Tào Phi háo sắc đa dâm, đã có được Chân Thị mỹ nhân lại tham lam muốn có thêm Quách mỹ nhân. Có được Quách mỹ nhân, lại mơ tưởng muốn có công chúa của Hán Hiến Đế. Đến đám tiểu thiếp của cha để lại ông ta cũng không buông tha.
Chân thị vốn hơn Tào Phi 5 tuổi, do đã từng sinh nở, cộng với thời gian trôi đi, nhan sắc cũng sẽ phải tàn phai. Tào Thực là kẻ thích mới nới cũ nên dần dần hết mực sủng ái Quách phi trẻ đẹp. Quách phi là người lươn lẹo nham hiểm, gió chiều nào xoay chiều đó chứ không thẳng thắn như Chân Thị. Vì bị lạnh nhạt do thất sủng, tâm trạng Chân Thị càng chất chứa đầy ấm ức, oán tránh. Nỗi lòng này nàng đã chọn cách bày tỏ qua thơ.
Sau khi đọc được bài thơ của Chân Thị, Tào Phi tức giận lôi đình, cộng thêm những lời xúc xiểm của Quách phi, ông ta đã kiên quyết ban cho nàng Chân Thị một cốc rượu độc. Sau khi nàng chết, còn bị lấy tóc phủ mặt, miệng nhét đầy đường, dụng ý để nàng không còn mặt mũi nào mà nhìn mặt ai chốn âm gian, có nổi khổ cũng không thể nói được với ai.
Hai năm sau Tào Thực đến Lạc Dương bái kiến Tào Phi ca ca, trong lúc uống rượu Tào Phi đã đưa cho Tào Thực di vật của Chân Thị. Vốn là người bao nhiêu năm vẫn âm thầm yêu người chị dâu tài năng, xinh đẹp của mình nên khi nhận lấy di vật của Chân Thị, Tào Thực nước mắt lưng tròng. Trên đường quay về qua Lạc Thủy, cảm xúc dâng trào ông đã viết bài thơ nổi tiếng “Lạc Thần Phú”. Mãi đến sau khi Tào Phi chết, con trai nàng là Tào Duệ nối ngôi mới truy phong cho nàng là Văn Chiêu hoàng hậu, nhưng đáng tiếc rằng danh tiếng hoàng hậu được khôi phục nhưng sinh mạng đã mãi mãi tan trong cát bụi. Ảnh minh họa chân dung hai anh em Tào Phi và Tào Thực.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
1. Ánh mắt “biết nói”
Ánh mắt của mỗi người khác nhau và đều là “độc nhất vô nhị” bởi nó là cửa sổ phản ánh cảm xúc trong tâm hồn. Những người yêu nhau chỉ cần dùng ánh mắt để giao tiếp cũng có thể hiểu được đối phương muốn nói gì.
Không cần xét mắt to hay nhỏ, quan trọng là ánh mắt phải có thần, có sức sống, hay nói một cách đơn giản là “ánh mắt biết nói”. Chủ nhân của tướng mắt này thường có đời sống nội tâm phong phú, tính tình phóng khoáng, nhiệt huyết và vận đào hoa rất vượng.
Dáng đi cũng nói lên được cuộc sống của bạn vinh nhục sung sướng ra sao. Bạn có thấy tò mò không? Xem ngay nhé!
1. Tướng đi hình chữ (V), hai đầu bàn chân bẹt ra, hai gót chụm lại: là người bảo thủ, cố chấp nhưng lại có óc văn nghệ.
2. Tướng đi ngắn: là người bạc nhược, không có óc cầu tiến, ham nhục dục.
3. Tướng đi hình chữ bát: hai đầu bàn chân chụm lại, hai gót chìa ra: là người thích phô trương, ưa bợ đỡ, nịnh hót. Tính tình ky bo nhưng có óc thông minh tiến thủ, có đôi khi đoạt thời cơ cũng được thành công.
4. Tướng đi gấp rút: là người có tính nết nóng nảy, ưa hoạt động, ương ngạnh, thích kiếm tiền hơn là nghệ thuật, ý chí rất công bằng.
5. Tướng đi co giò rút chân lên quá cao, giống như bước chân con hạc: người tánh tình đạm bạc, thích cô độc, đầu óc giản dị, có tài nghệ giỏi nhưng không mấy tích cực
6. Tướng đi kéo lê bước: người có tâm xảo quyệt, hẹp hòi, kém trách nhiệm, ham vật chất.
7. Tướng đi khoảng cách không đều, bước dài bước ngắn: người có tính nết hồ đồ, chỉ thích những điều hào nhoáng, về lý trí bạc nhược.
8. Tướng đi hàng một và thẳng người: là người xem thường sinh tử, mạnh dạn làm việc nghĩa, trọng nghĩa hơn tài nhưng có hành động hấp tấp và vọng động.
9. Tướng đi thân hình ngã gục về phía trước: là người có nghị lực dám làm, có tinh thần mã thượng nhưng trí tuệ không được đầy đủ, hay suy xét sự lợi hại, quyết đoán mau lẹ nhưng hay nhầm lẫn và mau quên.
10 Tướng đi hàng đôi, là hai đầu chân không thẳng hàng: là người thẳng thắn nhưng kiêu ngạo, háo danh. Đầu óc có tiến thủ, khẳng khái tranh đấu nhưng thiếu tự tin.
11. Tướng đi dài: người sở hữu tướng đi này có lý trí và tình cảm đầy đủ, tính tình khoan hậu, ngay thẳng không lừa gạt, thích khoe khoang, không chịu nhân nhượng kẻ khác.
12. Tướng đi thân hình đong đưa, như bước đi của loài vịt: là người có tính nết thô lậu, thích hư vinh, cảm tình hời hợt, đối với kim tiền rất ưa chuộng và tính toán, ít thật tâm.
13. Tướng đi mà phần thân dưới từ bụng tới mông hơi giao động chút ít: người có tính tình ôn hòa, kiên nhẫn, lạc quan.
14. Tướng đi nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, khoảng cách giữa các bước đều đặn và hơi ngắn: là người sống thực tế, tính tình độ lượng, dung hòa bạn bè, gia đình yên ổn.
15. Tướng đi đều đặn, khoảng cách dài, chân không quá co như chân hạt, chân tới trước, thân hình tới sau, thẳng người không nghiên lệch: là người có tính tự phụ, có tài năng, việc làm chính xác và mau lẹ nhưng không thích bị ràng buộc và gò bó, người có uy tín.
16. Khi đi thường có thói quen thọc hai tay vào túi quần hoặc hai tay chống nạnh, đầu hay cúi về phía trước: là người có tính khinh người, khoác lác, thích nịnh bợ.
17. Tướng đi mà thân hình lắc lư như rắn bò, chân bước nhún nhảy như chim chìa vôi: là người có số kiếp long đong, cuộc sống tạm bợ, ít hạnh phúc gia đình.
18. Tướng đi quá nhanh, như gấp rút một việc gì: là người có tính bồng bột, bộp chộp, thiếu chủ tâm, ít nhận xét, làm theo dục vọng, tính tình bừa bãi, quan niệm một chiều.
19. Tướng đi đầu thường cúi gầm xuống đất: là người số không được thọ, thiếu hạnh phúc, tâm tính ít mở mang, cuộc sống khó phát triển.
20. Tướng đi đầu ngã về phía sau, ngực và bụng ưỡn ra phía trước: là người thiếu nghị lực, nhu nhiều cương ít, tính hay cầu an, hiền hòa nhưng thiếu khôn ngoan mưu kế, làm việc ít nhanh lẹ.
rung vận và đầu thời hậu vận của bạn…
Nếu da bụng dày lại kèm theo tướng bụng sệ xuống phía dưới nữa trông như cái “túi đựng tiền”, thì bạn sẽ sớm trở nên giàu có không chừng. Còn như da không dày nhưng bụng tròn sệ là người có phúc lộc, sẽ sống thọ và con cháu ăn nên làm ra.
Ngược lại bụng xẹp lép với tướng người “hom hem” sẽ gặp phải nhiều lo nghĩ về gia cảnh. Bụng không lép nhưng da bụng mỏng vẫn không tốt. Điều ấy được các nhà nhân tướng học đúc kết, cho biết da bụng mỏng lại thêm tướng trạng của bụng có dạng “ trồi lên” hướng trên ngực, người ấy sẽ nghèo và không được lanh lợi lắm, thường lúng túng khi phải giải quyết những tình huống khó khăn.
Dựa trên các tài liệu của tiền nhân người ta đã “thi hóa” các tướng trạng về bụng bằng hằng trăm câu, tạm trích : Bụng to mà sệ thì hay. Sôi kinh nấu sử có ngày thành danh. Bụng dày gặp buổi yên lành. Làm ăn ở chốn kinh thành gặp may. Bụng mà bị lép khổ thay. Lại thêm da mỏng khổ này kêu ai? Khổ như bụng hướng lên mày. Làm ăn thất bát tháng ngày buồn thêm …
Đó, “da bụng dày” với bụng sệ xuống thuộc tướng trạng cát tường. Nhưng cần chú ý là chỉ nói riêng về tướng tốt của da ở bụng thôi. Chứ nếu xem về tướng da tổng quát của toàn thân thì phải mỏng mịn mới thật là tốt. Xưa nay khó mà đọc thấy sử sách mô tả về những quý nhân phái nữ như các hoàng hậu, hoa hậu, hoa khôi, hoặc “tứ đại giai nhân” nào lại có da mặt dày, da tay chai cả.
Trái lại những đấng cao quý như đức Phật, các Chuyển luân Thánh vương, đều được mô tả với 32 tướng tốt chẳng hạn: tay chân mềm mại, vai tròn đẹp và da mỏng mịn: “dẫu rằng cuồng phong thổi đến nghiền nát một quả núi lớn thành vô số hạt bụi li ti thì dầu một hạt trong số đó cũng không thể dính vào làn da mỏng mịn, trơn láng của đấng chí tôn” (Luận Đại trí độ). Xét như thế, tướng “da bụng dày” là tướng khu biệt của bụng. Chứ nếu “mặt dày vai xụi” là tướng không hay!. Mà khi xét về tướng bụng cũng phải kết hợp với tướng trạng của các bộ phận khác có liên hệ về nhân tướng của bụng như: Rốn, ngực, vú…
Về các bộ phận trên, chúng tôi trích giới thiệu dưới đây phần xem xét tướng trạng liên quan dẫn từ tài liệu Khoa học nhân dạng của nhà nghiên cứu nhân dạng học Lê Giảng,, NXB Văn hóa Thông tin 2004 (nguyên văn):
1. Rốn:
Rốn là nguồn gốc của gân và mạch, là cơ quan thống lĩnh lục phủ ngũ tạng. Do đó ưu thế và yếu thế của hình dạng tướng mạo của bụng và rốn có quan hệ đến việc sống lâu, chết yểu, hiểu biết hoặc kém thông minh. Rốn là mảnh đất tập hợp của các mạch trong con người.
Rốn sâu và rộng là người hiểu biết, có phúc. Rốn hẹp và cạn thì nghèo và bạc mệnh. Nếu rốn hướng về phía dưới thì có phúc và hiểu biết – hướng về phía trên thì nghèo – thấp thì tư lự và suy nghĩ sâu xa – cao thì dốt nát – cạn mà nhô lên thì không có tướng làm quan, làm tướng.
2. Vú:
Hai vú tròn, màu tím, dựng đứng không sa xuống, không nhỏ, màu không trắng bệt là người có tướng quý. Đầu vú mà nhỏ thì khó có con, không tiền của. Đầu vú nhỏ và trắng thì tuyệt tự. Đầu vú phải to và chỏng lên, vuông thì nhiều con.
Đầu vú nhăn nheo mà thấp thì sinh con thiếu thông minh, đầu vú khỏe, vuông to sống thọ nhiều phúc – trắng hoặc vàng là nghèo, không có hậu. Đầu vú màu tím, trông sáng sủa thì nhiều con nhiều phúc. Người đầu vú có lông là người có kiến thức. Đầu vú có nốt ruồi đen thì sinh quý tử.
3. Eo lưng:
Các nhà nhận xét tướng mạo cho rằng lưng chủ yếu là vận khí của trung niên, là biểu thị của sự sang (quý): Không có lưng thì không sang, lưng không ra tấm thì không giàu. Tướng mạo về eo lưng cho rằng: Eo lưng của con người như núi của bụng, là vật để dựa, chỉ việc yên tĩnh và nguy hại. Cho nên lưng phải ngay thẳng, rộng và dày mới là con người có phúc lộc, còn như cong và hẹp, mỏng là con người ti tiện.
Nếu lưng ngắn và mỏng thì nhiều thành công mà cũng nhiều thất bại, rộng và lớn thì giữ được lộc mãi mãi, thẳng và dày thì tướng phú và quý – nhỏ và mỏng là tướng nghèo hèn, lõm và hẹp là cùng khổ – gấp khúc là dâm đảng. Lưng có nhiều hình trạng: Eo lưng như con thằn lằn thì tính tình phóng khoáng, rộng rãi, lương thiện – lưng như con ong vàng thì tính tình ngược lại. Nói tóm lại, lưng phải rộng, có lực mới tốt…
Khoa chiêm mộng tinh cũng dành cho “bụng” một số bài giải mộng như khi nằm ngủ mơ thấy mặt trăng soi vào bụng sẽ sinh quý tử. Ca dao tục ngữ cũng dành cho “bụng” nhiều câu hàm ý nhắc nhở chúng ta đừng “suy bụng ta ra bụng người”…
► Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người |
Vân tay nói lên điều gì? Bạn có biết trên thế giới có hơn 7 tỷ người nhưng không có ai có vân tay giống nhau cả. Bởi thế bạn có thể bói vân tay để đoán vận mệnh và tính cách của một con người.
Để có thể xem bói tốt nhất, Nhân Trắc Học đã cố gắng thống kê và phân loại những được điểm chung của vân tay thành 4 nhóm chính cơ bản nhất. Hãy xem vân tay của bạn thuộc vào nhóm nào nhé.
Bạn là người có tiềm năng không giới hạn. Một người với hầu hết các ngón tay đều Arch: sẽ luôn nghi ngờ, luôn đặt câu hỏi và không tin vào bất cứ điều gì cho đến khi họ thấy được bằng chứng, chứng cứ rõ ràng,xác thực. Những người này rất giỏi trong các công việc thương mại.
Bạn là người theo chủ nghĩa an toàn và thiết thực, tiếp cận trực tiếp với các công việc, nhiệm vụ, có thể tin cậy được.
Bạn thích sự ổn định,yên bình. Chăm chỉ làm những công việc được lặp đi lặp lại hằng ngày.
Bạn luôn tuân thủ vào các quy tắc và các quy định. Bạn từng bước thăm dò để quyết định hành động, thích điều đơn giản,rõ ràng và cụ thể
Bạn là người có khả năng sáng tạo mạnh mẽ, có khả năng quan sát tinh vi, sắc bén. Bạn có khả năng lĩnh hội, nhận thức thấu đáo.
Bạn luôn cho mình là trọng tâm, bạn tự bước đi trên đôi chân của mình và có phương pháp cụ thể để làm thành công 1 việc nào đó. Bạn không thể chấp nhận những suy nghĩ đần độn hoặc chậm chạp. Bạn thích sử dụng những suy nghĩ trái ngược để suy luận và làm việc.
Bạn có óc phán đoán tốt nếu Radial Loop nằm ở ngón cái hoặc ngón trỏ.
Bạn luôn thích gây ấn tượng sâu sắc, sử dụng những phương pháp kì lạ để quản lý công việc, bạn có suy nghĩ rất khác với mọi người và bị xem như bất trị hoặc kì lạ. Bạn thường có những lí luận ngược đời. Bạn thường thích quan tâm đến các tôn giáo thần bí.
Bạn thích suy luận lại, nghiên cứu lại của tất cả tiến trình từ kết quả hiện có. Có khả năng làm và xử lý công việc khi “nước đã đến chân”.
Bạn thuộc tuýp người cổ hủ, không có nhiều sáng kiến hay sáng tạo mới, nhưng bạn có khả năng học hỏi và làm theo người khác rất nhanh.
Bạn thụ động trong giao tiếp. Mặc dù bạn rất thích hòa nhập với đám đông nhưng bạn không bao giờ chủ động thiết lập quan hệ. Nếu bạn cảm thấy không thích hoặc không thể hòa nhập với cộng đồng nào đó thì bạn đồng thời cũng không thể tiếp tục hoạt động hoặc làm việc với cộng đồng đó.
Bạn không thích xung đột, không có mục tiêu rõ ràng, không có tham vọng cao
Bạn thích làm việc 1 cách trình tự, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường kể cả cái tốt và cái xấu từ môi trường đó.
Bạn thường quan tâm tận tình những người thân, bạn bè xung quanh và giữ các mối quan hệ đó rất bền vững.
Bạn là người chỉ hành động khi có mục tiêu cụ thể, đồng ý làm việc khi chấp nhận được các điều kiện hợp lý và hoạch định chiến lược rõ ràng.
Bạn có tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, theo đuổi sự thành công của những việc mang tính khó khăn và thử thách cao. Đối với bạn thì không có gì là không thể.
Bạn tự đòi hỏi và thúc đẩy bản thân hoàn thành tốt công việc và đề cao mục tiêu để tiến bộ.
Nếu chủ quan, mọi người sẽ không dễ dàng giao tiếp với bạn khi người đó thiếu tính hợp lý và mang tính chiếm hữu. Không nên áp dụng phương pháp dạy dỗ độc đoán hoặc đối xử gia trưởng đối với bạn.
Năm bản mệnh hay còn gọi là năm tuổi, có quan điểm không nên kết hôn, tiến hành hỉ sự vào năm ấy, điều đó có chính xác hay không? Cùng theo dõi 5 lưu ý khi kết hôn vào năm bản mệnh để có thêm kiến thức về vấn đề này, vận dụng cho bản thân mình. Năm bản mệnh có nên kết hôn không? Năm bản mệnh là năm trùng với tuổi của mình, ví dụ người tuổi Ngọ trong năm Ngọ gọi là năm bản mệnh. Thực chất, năm bản mệnh hoàn toàn có thể kết hôn nhưng trong quá trình bàn bạc cưới gả sẽ gặp một số trắc trở, lực cản đồng thời tiêu hao khá nhiều tiền.
Nghi thức lửa thường được làm vào những ngày cuối năm để đón một năm mới tươi mới, tinh khôi và gặp nhiều điều may mắn. Nên chọn một nơi yên tĩnh, thoáng mát, sạch sẽ, chuẩn bị một cái ghế, than, củi khô và những điều, thứ xui xẻo muốn xua đuổi (hạt mù tạt đen, mè đen – đại diện cho những điều xấu xa). Vẽ hoặc in rmột con bọ cạp nhỏ màu đen, một con rắn nhỏ màu đen, và một con ếch nhỏ màu đen trên một mảnh giấy. Đây là những con vật đại diện cho tất cả những thứ tiểu nhân, nhỏ nhen, gây ra thị phi.
Khi bắt đầu nghi thức, hãy giữ tâm thật tĩnh tại, suy nghĩ về tất cả những điều tiêu cực, những nỗi đau và thù hận rồi viết chúng ra giấy.
Thời gian tốt nhất để thực hiện nghi thức phong thủy này là từ 5 đến 7 giờ tối. Đào một lỗ trên góc vườn hoặc đặt một cái xô, chậu có thể chịu được lửa, đặt các tờ giấy vẽ biểu tượng âm dương vào, xếp than củi lên trên lên trên và châm lửa. Khi ngọn lửa bùng lên là lúc nghi thức lửa diễn ra.
Giữ cho ngọn lửa cháy đều và mạnh rồi lần lượt thả những tờ giấy in hình rắn, bọ cạp, ếch vào lửa. Vừa đốt vừa nhớ lại những điều người khác gây hại cho mình. Tất cả những thứ đó được đốt đi và tâm hồn sẽ được gột rửa, tinh khiết.
Sau đó, tiếp tục ném vào ngọn lửa mảnh giấy đã viết về sự kiện, những điều không hài lòng, khó chịu, những nỗi sợ hãi, bất hạnh trong cuộc sống. Khi nhìn ngọn lửa đang đốt cháy mảnh giấy đó, nên buông tất cả những cảm xúc tiêu cực ra khỏi bản thân và cho phép bản thân mình hoàn toàn giải phóng, thư giãn.
Lấy hạt mè và mù tạt màu đen và đốt chúng dưới ngọn lửa. Hãy tưởng tượng rằng chúng đại diện cho tất cả các suy nghĩ xấu, những hành động có hại, và những ý đồ xấu của mình. Đây là phần quan trọng nhất của nghi thức, bởi vì nó thực sự làm sạch nội tâm, xóa bỏ tất cả những suy nghĩ và hành động xấu của bản thân. Hãy chắc chắn rằng đã đốt cháy tất cả các hạt giống, không để lại bất cứ thứ gì.
Hoàn thành nghi thức lửa, hãy dập tắt đám cháy và tập trung tinh thần nghĩ tới những điều vui vẻ, mới mẻ tiếp theo.
ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thu Hương (##)