Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tác động của Hóa Khoa với các chủ tinh

HÓA KHOA-VŨ KHÚC Vũ Khúc là tài tinh chủ về hành động tìm đến với tiền bạc cho nên khi gặp Khoa để hóa với hai đặc điểm:
Tác động của Hóa Khoa với các chủ tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

a. Nổi danh về ngành nghề, khả năng nào đó rồi qua sự nổi danh ấy mà kiếm tiền. Tỉ dụ một nhà kinh tế gia được mời cai quản, tính thị trường cho hãng sản xuất

b. Nếu tự tay kinh doanh thì đã nổi tiếng với một hai vụ làm ăn rồi từ đấy có đà phát triển

Nói tóm lại Vũ Khúc Hóa Khoa kể là cách danh lợi song thâu. Nhưng danh ở Vũ Khoa khác với danh ở Thiên Cơ Hóa Khoa, Thái Dương Hóa Khoa hay Tử Vi Hóa Khoa không phải danh trên văn chương, trên thế lực mà là cái danh của thực tế kiếm tiền.

Nếu Vũ Khoa gặp Liêm Lộc thường qua danh mà thâu lợi bất ngờ. Đã Vũ Khúc Hóa Khoa thì đương nhiên Thái Dương đứng với Hóa Kị (như người tuổi Giáp tứ Hóa an theo tuần tự: Liêm Phá Vũ Dương. Người xưa thâm ý muốn nhắn bảo phải cẩn thận khi đi vào vận Thái Dương Hóa Kị, danh cao bổng hậu cho người oán ghét ắt tai họa cũng gần chứ không xa.

Vũ Khúc Tham Lang đồng cung mà Vũ Khúc đứng bên Hóa Khoa cùng lúc lại có cả Linh hay Hỏa Tinh thì hoạnh phát mau hơn nhưng cũng lại vì dương danh vô lối mà thất bại chóng hơn.

Các nhà Tử Vi Trung Quốc chủ trương Vũ Khúc Hóa Khoa nên thành công qua nghề chuyên môn hơn là xông vào doanh thương, đỡ kẻ thù đỡ kẻ ghét.

Vũ Khúc Hóa Khoa đóng Thê, vợ đoạt quyền chồng nhưng đồng thời cũng phù trợ chồng chứ không đoạt quyền để lăng loàn. Vũ Khúc Hóa Khoa đóng Tử Tức không đông con và có nhiều khả năng con hai dòng nhưng con cái đa năng.

Vũ Khúc đơn độc đóng Phụ Mẫu dễ xung khắc với cha mẹ. Nhưng có Hóa Khoa không những bớt khắc mà còn sinh trưởng từ một gia đình uy danh. Cung Tật gặp Vũ Khúc Hóa Khoa gặp Hỏa Tinh phải coi chừng phổi nhiệt, khí quản viêm.

HÓA KHOA TỬ VI

Tử Vi rất hợp với Hóa Khoa, nếu cả Thiên Phủ đứng cùng càng hay vì khi có Thiên Phủ tất nhiên phải kèm Thiên Tướng như vậy kể là tạm đủ văn võ triều đình.

Ở trường hợp không Phủ Tướng mà lại thấy tứ Sát Hình Hao hội tụ thì Hóa Khoa vô dụng. Tuy nhiên về mặt học vấn vẫn xem là con người có học, ít nhiều đến được với khoa bảng.

Tử Vi Hóa Kị đứng với Xương Khúc Khôi Việt, Long Phượng thì đa tài đa nghệ theo đuổi một ngành nghề khả dĩ thành công.

Tử Vi Hóa Khoa có một điểm dở là bạn hữu, phần lớn Tử Vi Hóa Khoa đi với nhau ở cung Nô thường xấu. Tỉ dụ Tử Vi Hóa Khoa đóng Tí, cung Nô Bộc Thái Âm ở Tỵ đứng cùng Hóa Kị không bao giờ được sự đắc lực của thủ hạ hay bạn bè. Cung Nô cũng gây ảnh hưởng luôn với cung Bào Huynh. Như vậy Tử Khoa không có thể cộng tác với ai, cộng tác chỉ bị thiệt. Trường hợp sinh ban đêm hay Thái Âm đắc địa sẽ giảm những khó khăn trên. Tỉ dụ số nữ mà Tử Vi đóng Ngọ cung, Thái Âm ở Hợi đứng với Hóa Kị mà lại sinh ban đêm thì thuộc hạ bằng hữu thật hữu dụng.

Tử Vi Hóa Khoa tính tình khoan hậu, nhưng tính cách này lại rất dễ biến thành chủ quan, yêu ghét giận mừng một cách chủ quan khiến cho lòng khoan hậu vì thiện từ mà đâm phiền, có khi lại thành đố kị.

Cho nên Tử Khoa nếu vào vận Hình Sát ắt đưa đến tình trạng hoài tài bất ngộ, vào vận hanh thông lại dễ bị đố kị. Thà đừng Hóa Khoa thì cuộc sống yên hơn.

Các cung lục thân mà Tử Vi Hóa Khoa đều kể làm tốt. Tỉ dụ cung Huynh đệ Tử Khoa, anh em ruột thịt nâng đỡ, vào Phụ Mẫu được cha mẹ che chở, vào Thê cung dễ gặp vợ hơn tuổi nhưng đảm đang, vào cung Nô Bộc mà thấy cả văn tinh thì tài năng kém thuộc hạ, cần phải biết sử dụng khéo thì tình thế này mới hay. Tử Khoa đóng Tật Ách phải săn sóc hệ thống bài tiết nhất là nhiếp hộ tuyết.

HÓA KHOA THÁI DƯƠNG

Thái Dương bản chất là tán phát nên không thật thoải mái với Hóa Khoa. Hóa Khoa làm tăng thêm tính phát tán ấy cho nên dễ thành ra tiếng nhiều mà miếng ít. Bị người chú ý quá mức dù là ngưỡng vọng thì cũng phiền. Như quẻ dịch gọi bằng “Khang long hữu hối” là thế.

Thái Dương miếu địa đứng với Khoa không bằng đứng với Lộc, Quyền trên thực tế thâu hoạch tốt. Thái Dương Hóa Khoa cũng cần bách quan tề tựu mới thành đại sự, nếu chỉ gặp Sát Hình thì là hư danh hư lợi thôi, có khi còn bị thiên hạ lợi dụng nữa.

Nói về bách quan tề tựu cũng có hai hình thái khác biệt. Thái Dương Hóa Khoa nhất định là nổi danh, người đời chú ý từ cử chỉ đến lời nói, nếu được văn tinh Xương Khúc chế giàm tục khí ngôn hành văn nhã, thiếu văn tinh sẽ thô lỗ, ẩu tả cho người đời đàm tiếu. Thái Dương hãm địa hoặc bị Tuần Triệt sự ẩu tả đậm nét hơn.

Có Xương Khúc rồi thêm Lộc Tồn càng đẹp. Cách Dương Lương Xương Lộc đóng vào Mão tốt nhất, trường hợp này Hóa Khoa sẽ đắc lực hơn Quyền Lộc nếu vào học thuật văn chương, nhưng lại không thành giàu có.

Thái Dương Hóa Khoa chỉ thành phú cách nếu xung chiếu bởi Hóa Quyền và cung Quan có Hóa Lộc. Được Thiên Mã Tả Hữu sẽ rất sớm thành công nếu như không bị Hỏa Linh Không Kiếp.

Dương Khoa có Cự Môn đứng cùng hay chiếu, ăn nói lý luận cứng cỏi vào ngành ngoại giao hay pháp luật hợp cách. Thái Dương Hóa Khoa ở hãm cung mà bị Không Kiếp sẽ vì danh vọng hão mà mang họa vào thân.

Dương Khoa đóng cung lục thân đều hay trừ cung Nô Bộc. Dương Khoa đóng Bào Huynh, Phu Thê, Phụ Mẫu những người thân ấy đều có danh vọng. Đóng vào Nô Bộc, thuộc hạ sẽ lợi dụng danh mình hoặc tựa vào mình mà vượt trội lên hơn mình.
Dương Khoa vào lục thân cung nếu bị Đà La Không Kiếp lại thành ra bị lục thân bóc lột. Thái Dương Hóa Khoa đóng Tật Ách dễ bị bệnh ở buồng gan, can khí nhiệt uất bốc lên mặt làm thành bệnh mắt.

HÓA KHOA THIÊN CƠ

Thiên Cơ bản tính phù động, đứng với Hóa Khoa tính năng động ấy sẽ thành kế hoạch, giỏi về giao tế, thuyết phục thiên hạ. Khoa đi với Cơ tốt hơn Lộc đi với Cơ.

Khoa Cơ luôn luôn đeo đẳng một điểm phiền là gặp Hóa Kị đứng với Cự Môn (người tuổi Đinh tứ Hóa an theo thứ tự Âm Đồng Cơ Cự). Cự Kị đương nhiên này không tuyệt đối thành cặp hung thần nếu không bị hung sát tinh khác. Hễ có hung sát tinh hội tụ để trợ giúp Cự Kị lập tức sinh phiền nhiễu do vạ miệng, do những lời phê bình sắc bén mà gây thù oán ảnh hưởng cho công việc làm.

Thiên Cơ Hóa Khoa càng thông tuệ, có điều Thiên Cơ đa học nhưng lại bất chuyên. Bởi vậy Cơ Khoa ít hy vọng thành một chuyên gia thật giỏi. Cơ Khoa sẽ chịu ảnh hưởng nhiều từ Cự Kị khi vận đi xuống. Bởi thế Cơ Khoa lúc đắc thời đắc thế cần thận trọng.

Ông Vương Đình Chi đưa ra lập luận sau đây: “Thiên Cơ đóng Mệnh rất ngại sao Thiên Lương đóng Phúc Đức (đó là cách Cự Cơ Mão Dậu đấy) sẽ đưa đến tình trạng tự thị thông minh mà rơi vào lầm lẫn to tát, khiến cho khả năng quyền biến thành hư ngụy, hoặc ra con người khinh bạc khó thành đại sự”

Cơ Khoa đóng Huynh Đệ, anh em bất hòa thường trực, hoặc bằng mặt mà chẳng bằng lòng, anh em cộng tác với nhau mà mỗi người lại tính toán riêng. Thà không Hóa Khoa còn hơn, có Hóa Khoa vào Huynh Đệ không chỉ ảnh hưởng đến anh em mà còn ảnh hưởng đến cả bè bạn. Có Hóa Khoa tóm lại khó lòng gặp được người cộng tác trung thực.

Cung Tật Ách thấy Cơ Khoa can hỏa vượng thịnh, khó ngủ vì tâm thần bất giao do sự hun nóng của lá gan đưa đến thần kinh suy nhược.

HÓA KHOA VĂN XƯƠNG
Xương Khúc tuy là phụ tinh nhưng cũng dự phần vào chuyện an tứ Hóa. Một phụ tinh nữa dự phần tứ Hóa là sao Hữu Bật. Xương Khúc chủ văn chương nên gặp Hóa Khoa kể như hữu lý.

Một phái hệ Tử Vi bên Trung Quốc không chấp nhận Hữu Bật đứng với Hóa Khoa, nhưng đấy chỉ đặt vấn đề thôi, không được giải quyết.

Thời xưa do khoa cử mà nên công danh (dĩ nhiên cũng không thiếu gì người qua dị lộ mà có công danh). Bởi vậy khi chuyển vào số mà chủ trương Mệnh hay Thê cung mà có Xương Khoa rất đáng mừng. Vận gặp Xương Khúc Hóa Khoa cũng thuận lợi cho công danh.

Đời bây giờ Xương Khoa không còn sức mạnh để đạt công danh như ngày trước, chỉ xem là giành được phần khoa bảng thôi.

Văn Xương chủ về văn thư khế ước, viết sách nổi tiếng, hoặc có văn bằng mà thành danh giá. Xương Khoa Hóa Lộc đi cùng khả dĩ nhờ một khế ước mà có tiền.
Xương Khoa cần có thêm Tấu Thư càng dễ nêu cao danh vọng. Xương Khoa cũng là dấu báo của một tin vui. Xương Khoa là một con người giỏi thích ứng với cuộc sống, yêu đời.

Xương Khoa vào vận hạn hay các cung lục thân mà gặp nhiều hung sát tinh thì lại không tiếp tục mang tính chất mừng vui hỉ khánh nữa mà có thể ra tang lễ. Tại sao? Vì Xương Khoa chủ về lễ nhạc kèn trống tế lễ.

Thê cung thấy Xương Khoa đi cùng Đào Hoa vào cổ thời là con người ưa lấy vợ lẽ thiếp hầu, ở thời này thường xảy ra những cuộc tình ngoại hôn. Xương Khoa vào cung Tật Ách mà có Hỏa hay Linh thì bệnh tật để lại vết sẹo, như giải phẩu hoặc nám da.


HÓA KHOA THIÊN LƯƠNG

Thiên Lương chủ quí nên cần gặp Hóa Khoa để mà danh dự. Cơ Lương đi cặp đứng cùng Hóa Khoa là con người quản trị giỏi. Thiên Lương Hóa Lộc dễ được người tin cậy.

Cách Cơ Cự Đồng Lương được Hóa Khoa là một cán bộ hành chánh cừ khôi, hoặc là loại chuyên viên có hạng. Cao thấp còn tùy sao bản mệnh.

Lương Khoa trên tính tình là con người từ ái, chuộng nghĩa khinh tài. Lương Khoa mà gặp Văn Khúc Hóa Kị đối xung thì sức lực bị giảm hẳn, gây thù chuốc oán vì cái tính bới lông tìm vết xét nét tiểu tiết nhỏ nhặt.

Lương Khoa có Tấu Thư học vào ngành viết diễn văn, làm đổng lý phụ tá đắc lực.

Lương Khoa đi cùng Thiên Đức Giải Thần học thuốc dễ thành công.

Thiên Lương Thiên Đồng hễ có Hóa Khoa thì không sợ thấy Thiên Mã, không Khoa chỉ có Thiên Mã thôi Đồng Lương sẽ ra lãng đãng, bông lông.

Đồng Lương Hóa Khoa có Thiên Mã thành ra con người giao du rộng rãi “tứ hải văn danh”. Ngay cả Thiên Lương Tỵ Hợi mà được Khoa cũng giảm bớt chất phiêu bồng thêm Khôi Việt nữa thì qua cơn phiêu lãng trải nhiều kinh hiểm khả dĩ nên công. Lương Tỵ Hợi vào Thê cung dù có Khoa cũng vẫn không đẹp.

Lương Khoa đóng Phụ Mẫu hay Tử Tức đều tốt, được ân đức cha mẹ và con cái thành đạt. Thiên Lương đóng Tật Ách gặp Không Kiếp dễ bị tê thấp đau nhức, có Hóa Khoa càng nặng.

Nữ mệnh Thiên Lương Hóa Khoa đóng Tật Ách gặp Linh Hỏa bị lưu sản, bệnh lộn xộn đường kinh. Từ trước tới giờ người ta nghĩ Hóa Khoa vào Tật Ách là giải hết bệnh hoạn, điều này qua kinh nghiệm không đúng

HÓA KHOA THÁI ÂM

Thái Âm là tài tinh, khi đã hóa thành Khoa khiến cho tài nguyên thuận lợi. Thái Âm Hóa Khoa vào kinh doanh hợp cách, dễ tạo thanh danh cho công việc kinh doanh mà sinh lợi. Tỉ dụ một tiệm ăn nổi tiếng, tiệm quần áo nổi tiếng….

Thái Âm khác Thái Dương ở điểm: Thái Dương trải ánh sáng đi, tán quang trong khi Thái Âm lại liễm ánh sáng tới. Bởi thế nên sự thành danh cũng khác với thành danh của Thái Dương. Thái Dương mở rộng ra quần chúng, Thái Âm lại cần hạn hẹp với lợi ích bản thân.

Thái Âm Hóa Khoa tạo tính lạc quan, dễ sống, thích nghi hưởng thụ. Thái Âm Hóa Khoa đóng Phúc Đức quan niệm sống thoải mái với hưởng thụ nhân sinh. Do đó mới có luận cứ rằng: Âm Khoa đóng Mệnh đắc địa không hay bằng đóng Phúc Đức trên mặt nhàn nhã hưởng thụ. Vì Âm Khoa ở Mệnh thì cung Phúc Đức có Cự Môn thường đưa đến tình trạng đam tâm thái quá dễ mệt mỏi tinh thần.

Âm Khoa vào Tài Bạch cung thì cung Mệnh sẽ là sao Thiên Lương thủ. Tiền bạc không do tự tay mình tung hoành mà nhờ thanh vọng chức tước sẵn có để hưởng bổng lộc. Thái Âm đóng hãm cung mà có Hóa Khoa càng vô duyên với những vụ đầu tư, hãy theo đuổi chức nghiệp thì hơn.

Thái Âm hãm đứng với Hóa Khoa ở Tật Ách chủ về bệnh âm hư. Âm Khoa đắc địa vào cung lục thân Phụ Mẫu Tử Tức xem là tốt đẹp kể luôn cả Thê cung, nhưng nếu lạc hãm thì ngược lại.


HÓA KHOA VĂN KHÚC


Xương hay Khúc đều là văn tinh cho nên đương nhiên cần Hóa Khoa. Thời xưa cho rằng Văn Khúc không bằng Văn Xương vì Văn Khúc mang khuynh hướng dị lộ công danh. Văn Khúc Hóa Khoa cùng với Ấn Quang Thiên Quí tốt hơn Văn Khúc chỉ với một Hóa Khoa, như vậy mới thành cách “Ân Khoa”. Cách này dễ được đề bạt vào chức vị.

Văn Khúc sao có tài ăn nói nếu gặp Cự Môn Hóa Lộc thì nói ra tiền, hoặc vì giỏi ngôn từ mà được người đời tin cậy. Văn Khúc cũng chủ về thuật số đứng với Khoa và Cơ Âm học về thuật số khả dĩ nổi danh.

Văn Khúc Hóa Khoa chịu ảnh hưởng nhiều từ các sao mà chúng đứng cùng. Tỉ dụ Tử Vi Thất Sát không ưa Văn Khúc Hóa Khoa lắm. Tử Sát chủ về quyền lực, Khúc Khoa không làm tăng tấn quyền lực, đôi khi còn làm trở ngại cho khả năng quyết đoán.

Vũ Khúc có thể cần Văn Khúc thôi, nhưng không cần Văn Khúc với Hóa Khoa vì Khoa chen vào tạo thành mâu thuẫn đáng lẽ cần tham, quyết định thì là dùng dằng mà hỏng việc. Nhưng Thiên Cơ Thiên Lương thì tuyệt đối cần Văn Khúc Hóa Khoa. Cơ Lương có được Khúc Khoa thanh vọng tăng lên, nhưng đồng thời cũng mang một khuyết điểm là nhiều lý thuyết hơn hành động.

Cự Môn Hóa Lộc đứng với Văn Khúc Hóa Khoa tài ăn nói hơn người với điều kiện đừng có Sát Kị tinh. Gặp Sát Kị sẽ bị họa do ngôn từ. So Xương với Khúc thì Văn Xương thiên về tư tưởng, Văn Khúc lại ngả về hành động. Văn Xương khi suy tư rất sáng nhưng vào hành động lại vụng về, trong khi Văn Khúc suy tính không tinh sảo nhưng hành động đắc lực.

Khúc Khoa vào cung Phúc Đức ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời. Khúc Khoa đóng Mệnh mà Thê cung lại thấy Văn Xương Hóa Kị thì trước khi có vợ đã có thiếp. Nữ mệnh mà như thế lúc lấy chồng không còn là con gái nữa. Nó không rõ rệt như Tham Đào nhưng là ngấm ngầm.

HÓA KHOA THIÊN PHỦ

Thiên Phủ ưa nhất Lộc. Khoa đối với Phủ chỉ là thứ yếu. Thiên Phủ thiếu Lộc mà gặp cả Sát tinh như Triệt Tuần, Linh Hỏa, Không Kiếp sách gọi bằng: “Phủ khố không lộ” (kho thủng, kho không cửa ngõ). Khoa vào chẳng giúp ích được gì.

Thiên Phủ Hóa Khoa không bị sát tinh là người quản thủ tiền bạc giỏi. Thiên Phủ Hóa Khoa gặp Sát tinh nên học một nghề cho tinh để vinh thân.

Phủ Khoa thành một cách đặc biệt nếu gặp Thiên Riêu đứng bên. Hễ có Riêu thì không sợ các sát tinh. Thêm Sát tinh càng tốt, biến ra con người nhiều mưu chước kinh doanh tài chánh, hoàn cảnh càng biến hóa càng lên cao. Phủ Khoa Riêu không Sát tinh thì chỉ là con người gây được tín nhiệm của thiên hạ nhưng coi chừng tâm tư người này quá lớn.

Tử Vi Thiên Phủ đồng cung hoặc đối xung thì Thiên Phủ Hóa Khoa kể làm tốt nhất là với người tuổi Nhâm vì còn hội thêm với Quyền Lộc. Phủ Khoa trong trường hợp trên đem lại khả năng lãnh đạo và được người tin cậy miễn đừng thấy Hóa Kị đứng bên Vũ Khúc. Có Vũ Kị biến ra lý tưởng quá mức mà đưa đến không tưởng.

Phủ Khoa đóng lục thân, có thể tin cậy trong mọi công việc làm ăn. Tỉ dụ vào cung Bào hãy cộng tác với anh em ruột thịt. Phủ Khoa đóng Thê cung hay Phu cung luận đoán phức tạp hơn. Vì Phủ ở Thê thì Mệnh là Tham Lang. Phủ Khoa như vậy người phối ngẫu sẽ chỉ phúc hậu với điều kiện hơn tuổi (vợ già hay chồng già). Phủ Khoa gặp Sát tinh đóng Tật Ách thường bị bệnh ở bộ phận tiêu hóa: dạ dày, ruột.

Nguồn Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tác động của Hóa Khoa với các chủ tinh

Giờ lành đi gửi tiền cho cả năm lộc vào như nước

Ngày lập xuân là thời điểm vạn vật tỉnh giấc sau một giấc ngủ đông và bắt đầu sinh sôi nảy nở. Gửi tiền vào giờ hoàng đạo trong ngày lập xuân sẽ mang lại may mắn cho mọi người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết âm lịch chỉ còn chưa đầy một tháng nữa và mọi người đang rục rịch sắm sửa cho năm mới. Bên cạnh việc chuẩn bị cho Tết, mọi người cũng bắt đầu xem lịch để đánh dấu những ngày quan trọng, ngày đẹp trời để cầu hạnh phúc, bình an.

Một trong những ngày đẹp nhất trong năm là ngày lập xuân. Tiết Lập xuân là một trong số hai mươi tư tiết khí trong âm lịch của nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc,...Ở nước ta, ngày lập xuân được coi là ngày bắt đầu mùa xuân. Ngày lập xuân thường được cho là đem lại nhiều may mắn.

Năm nay, tiết Lập Xuân rơi vào thứ Năm,  Ngày 4 Tháng 2 Năm 2016. Đây là thời điểm mở màn cho sự thức giấc, sinh sôi nảy nở của thiên nhiên sau một kì ngủ đông kéo dài. Nhiều người tin rằng nếu bạn gửi tiền của mình vào ngân hàng trong ngày này, của cải sẽ sinh sôi nảy nở cả năm dài. 

Dưới đây là giờ lành tốt nhất để gửi tiền vào ngân hàng vào ngày lập xuân và nó khác nhau cho mỗi từng con giáp. Bạn có thể đến ngân hàng để gửi tiền trực tiếp hoặc chuyển qua tài khoản ngân hàng trực tuyến.

 gio lanh di gui tien cho ca nam loc vao nhu nuoc - 1


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giờ lành đi gửi tiền cho cả năm lộc vào như nước

Chọn tháng kết hôn

Dân gian không chỉ chú ý việc chọn năm tổ chức hôn lễ mà tháng kết hôn cũng được xem là khá quan trọng. Theo phong tục, người ta hay tổ chức lễ cưới vào mùa
Chọn tháng kết hôn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

xuân và thu là 2 mùa có thời tiết đẹp nhất trong năm.

Việc chọn tháng thường căn cứ vào tuổi của cô dâu thuộc con giáp gì. Nếu năm sinh của cô dâu không hợp với chi của tháng định tổ chức hôn lễ thì phải dời đến tháng có sự tương hợp. Ví dụ cô dâu cầm tinh con mèo (Mão) nếu định tổ chức lễ cưới vào tháng 8 (tháng Dậu) thì sẽ không tốt vì Mão - Dậu tương xung.

Chọn tháng tốt cho hôn nhân hạnh phúc

Đây là việc mà hai bên gia đình rất quan tâm vì chọn được tháng tốt không những có thể hy vọng cuộc hôn nhân hạnh phúc trăm năm mà còn để có thời gian chuẩn bị chu đáo cho đám cưới.

Mục đích của việc chọn tháng kết hôn còn nhằm tránh sự xung khắc có thể xảy ra giữa cha mẹ chồng và nàng dâu.

Theo phong tục, người ta hay tổ chức lễ cưới vào mùa xuân và mùa thu là 2 mùa có thời tiết đẹp nhất trong năm.

Trong việc tìm tháng xuất giá cho con gái, có một số lưu ý sau:

- Phòng phu chủ: kỵ với chồng.
- Phòng thê chủ: kỵ với bản thân.
- Phòng công cô: kỵ với cha mẹ chồng.
- Phòng nhạc thân: kỵ với cha mẹ ruột.
- Nếu là trai, gái mồ côi thì không cần sợ tháng kỵ công cô và nhạc thân.
- Phòng mai nhân: kỵ với người mai mối.

 

Bảng lập thành tháng xuất giá

 

Tuổi xuất giá Tháng đại lợi Phòng mai nhân Phòng công cô Phòng nhạc thân Phòng phu chủ Phòng nữ thân

Tý - Ngọ

6-12

1-7

2-8

3-9

4-10

5-11

Sửu - Dậu

5-11

4-10

3-9

2-8

1-7

6-12

Dần - Thân

2-8

3-9

4-10

5-11

6-12

1-7

Mão - Dậu

1-7

6-12

5-11

4-10

3-9

2-8

Thìn - Tuất

4-10

5-11

6-12

1-7

2-8

3-9

Tỵ- Hợi

3-9

2-8

1-7

6-12

5-11

4-10

Theo Đời người qua 12 con giáp

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn tháng kết hôn

Thái Tuế Nhập Quái

Ông Trần Thế Hưng (Đài Loan) thuộc thế hệ 5x, là lớp nổi lên sau ông Tử Vân (Đài Loan). Theo lời tự thuật thì ông bắt đầu với khoa Tử Bình, từng theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian và có qua lại với Liễu Vô cư sĩ, nhưng sau nhờ một thầy khác mới được “mở hai mạch nhâm đốc”, mạnh dạn vừa làm thầy xem Tử Vi vừa viết sách Tử Vi dương danh thiên hạ. Các sách của ông Hưng nhắm vào những lá số người thật có cùng nét đặc biệt như “Vi hà bất hôn thiên” (vì sao không lập gia đình), “hôn ngoại tình thiên” (những kẻ ngoại tình). Bài sau đây được chọn vì có xử dụng cả hai kỹ thuật sau:
Thái Tuế Nhập Quái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


-Phép mượn cung: Phép này khá thông dụng ở Đài Loan, được nhiều người xử dụng từ lâu. Thí dụ: Ông X đang ở cung Tí thì cung thê của Tí (tức cung Tuất) ứng với vợ hoặc tình nhân của ông X. Giả như ông X ngoại tình với một người đã có chồng là bà Y trong hạn này thì bà Y ứng cung thê của hạn nên ứng cung Tuất (thê của Tí). Lại nữa, vì bà X ứng cung Tuất nên chồng bà X ứng cung Thân (là cung phu của Tuất). Đại khái như thế.

-Phép “Thái Tuế nhập quái”: Phép này nhờ ông Tử Vân mà trở thành hết sức phổ biến ở Đài Loan, dù chỉ mới nổi lên trong vòng hơn hai mươi năm nay thôi. Như trường hợp ông X ngoại tình với bà Y như ở trên nếu dùng lá số của ông X để xem diễn biến ra sao thì coi cung có địa chi của bà Y ứng với bà Y, lại thêm các sao hóa theo năm sinh của bà Y vào; rồi phối hợp dữ liệu mà đoán tốt xấu. Nói chung chung nhiều lộc tụ tập thì tốt, bị kị sát tụ tập thì xấu nhưng đi vào thực tế thì có thể hết sức phức tạp.

Chú ý về cách xem nhân duyên của ông Trần Thế Hưng

Chỉ xem chính tinh tứ hóa Lộc Tồn lục cát lục sát Khốc Hư Hình Riêu Đào Hồng Hỉ. Các sao còn lại bất luận lớn (như Tuần Triệt song Hao) hoặc nhỏ (như Giải Thần, Âm Sát) đều không xem.
An Hỏa Linh thuận theo giờ cả, không phân nam nữ âm dương như VN.

Trích sách “Hôn ngoại tình thiên” (dịch nghĩa “Các lá số ngoại tình”), 1994, nxb Tiêm Đoan, Đài Bắc.

Trường hợp 11: Cô Dương, Ất Mùi 1955, âm lịch tháng 3 ngày… (3 hoặc 13, hỏa lục cục, mệnh cư Sửu vô chính diệu, phu Tử Sát cư Hợi) giờ Mão.

Nguyên tác: Trường hợp 11: Cô Dương, trang 154-171, Trần Thế Hưng, “Hôn ngoại tình thiên”, Tiêm Đoan, Đài Bắc 1994.

VDTT phỏng dịch và chú thích

Cô D làm nghề phục vụ, việc không ổn định. Năm Quý Hợi quen ông M sinh Mậu Tý (1948), năm Ất Sửu 1985 sinh đôi. Năm Tân Mùi 1991 quen ông R (Kỷ Mão 1939) đã có vợ.

Mệnh Kỷ Sửu VCD Linh độc thủ (dịch giả chú = dgc: Cách tiêu chuẩn của Đài Loan là Hỏa Linh an thuận theo giờ cả), xung có Vũ Tham Xương Khúc, tam hợp Phủ Tướng.

Mệnh: VCD, hai cung giáp cung VCD nên mệnh ở vị trí rất yếu. Khi một mình đối diện chính mình không khỏi có cảm giác cô độc lo sợ, cho nên thành tính lệ thuộc ngoại cảnh, không thích một mình. Tự tin không đủ nên không hợp các công việc khó khăn phải tự quyết định nhiều, tốt nhất là có liên hệ với người. Cô D làm nghề phục vụ vậy là thích hợp cá tính.

Linh Tinh độc thủ khó tránh nóng vội, vì VCD tính nóng vội thường khiến mình phiền lụy mệt mỏi, may không gặp Kình Đà bằng không thì như người xua nói “khó tránh hình khắc”.

Mệnh VCD, di là lốt giả, Vu Tham Xương Khúc thành nhiều cách cục Xương Tham, Khúc Tham, Linh Tham, LXĐV (trong luu niên). Cô D bản tính bất ổn, có suy nghi khác thường, khả năng học hỏi cao, cũng dễ tẩu hỏa nhập ma. Thuộc týp dễ lên dễ xuống. Làm việc sáng kiến chẳng dở, công việc nhiều biến đổi.

Người xưa nam mệnh thích Xương Khúc, như “Văn Khúc Văn Xương Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân”, “Tuấn nhã Văn Xương, mi thanh mục tú; lỗi lạc Văn Khúc, khẩu tài tiện ngụy…”, “Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng”… (nhưng) nữ mệnh gặp Xương Khúc thì e bất cập, như “Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn”, “Dương phi háo sắc tam hợp Văn Xương Văn Khúc” vân vân… Thời đại ngày nay nam nữ mệnh giống nhau, ưu điểm là khả năng học tốt, ngoại hình khá; khuyết điểm là dễ chuốc phiền toái, khôn quá hóa dại; nhất là hai sao Vũ Tham rất kị Xương Khúc. Sinh giờ Mão, Dậu rất dễ gặp hai sao này cùng chỗ.

Tại sao Tham Vũ không thích gặp Khúc Xương?

1) Vũ Tham gặp Xương Khúc thành cách ác Xương Tham, thêm Linh Tinh lại thành cách LXĐV, một đời khó tránh lên xuống gập ghềnh.

2) Đại hạn luu niên dễ gặp Kị. Kỉ Tân Nhâm Quý 4 năm đều có Kị, cơ hồ thành cách “liên Kị“. Đại hạn có may tránh đuợc thì lưu niên cũng chẳng thoát qua, khiến con người bất ổn hoặc vận hạn gập ghềnh.

Theo kinh nghiệm của người viết (dgc: tức ông Trần Thế Hưng), diễn viên và quảng cáo viên nhiều người có số thế này. Bởi vì đời họ hoặc công việc của họ phù hợp với tính nhiều biến đổi, hay là vì làm các nghề ấy mà sinh ra nhiều biến đổi?

“Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân” thời xưa có thể phù hợp bởi người Vũ Tham phải có tuổi mới ổn định, mà (xưa) cá tính ổn định mới mong có tiền đồ. Ngày nay đời sống biến đổi, cá tính bất ổn có khi hợp trào lưu; nên anh hùng xuất thiếu niên chưa chắc là việc khó, miễn là vận hạn tốt, cá tính ngoại hình không quá khó thương. Người xưa ắt nói đúng, nhưng thời đại biến đổi, theo người viết phải uyển chuyển không thể quá câu nệ; phải dựa vào các ngành nghề (phù hợp hay không) mà dụng lẽ biến thông.

Thân (thiên di): Thân cư thiên di nên rất chú ý lời bình luận của người khác, lại nữa mệnh VCD nên tình hình càng nghiêm trọng. Có lúc tỏ ra cứng cỏi vì sợ người khác biết là mình “rỗng” và bất an. Di có thể nói là mạnh nên khả năng giao tế, tiếp xúc khá, lắm bạn và nhiều loại (Tả Hữu). Cho người ta ấn tượng tốt.

Phúc: Liêm Phá trái phải có Kình Đà giáp chế, hai bên đều VCD, khó thoát cảnh tâm sự trùng trùng không khai mở được. Tinh thần thiếu chỗ nương tựa. Tương đối coi trọng tiền tài.

Phu thê: Tử Sát một thuộc thổ một thuộc Kim đều không đủ linh động, xử lý tình cảm không khỏi quá lí tính, là loại ngoài nhiệt tâm mà trong lãnh đạm, tự nhiên bất lợi cho phương diện tình cảm.

Tam phương không thấy Tả Hữu, là kết cấu “cô quân”. Lúc khởi sự có thể hứng thú, sau thành thực tế. Loại người này chẳng phải là không thích hợp kết hôn, nhưng phải tìm bạn đời có tính độc lập, ai lo chuyện người nấy, không can thiệp người kia. Sống rất thực tế thì lại có thể lâu dài. Giả như gặp người tính lãng mạn, thích gần gũi thì lại có thể chịu không nổi. Loại người này, cổ nhân liệt vào dạng “cô khắc”.

Chẳng phải là người ta không thích được yêu, chỉ là mỗi ngưòi thích được yêu một cách khác nhau, chẳng thể lấy cái nhìn của mình để xét ngưòi khác.

Tiêu chuẩn chọn đối tượng của cô Dương khá cao. Không được đóng ấn phê chuẩn thì đừng hòng làm khách vào được vòng trong.

Giải thích các đại vận

Kỷ Sửu (6 đến 15 tuổi): Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.

Mậu Dần (16 đến 25 tuổi): Tham Lộc nhưng Cơ chuyển Lộc ra Kỵ, thành thử mệnh đắc Lộc còn hạn bị song Kỵ. Hạn lại VCD bị Không Kiếp Đà thủ chiếu, là vận yếu nhất trong đời. Nhà bi phá sản, kinh tế khốn quẫn mà cô Dương tranh thủ học được đại học là tại sao? (Trần Thế Hưng chú: Xem Lộc Quyền ở đâu).

Cô Dương hạn tài, quan đều có Kỵ, khi đối diện chính mình tất khổ không thể nói được; nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười, lại nghĩ được biện pháp kiếm tiền để tiếp tục học hành; tại sao thế, bạn có xem ra không?

 

Định nghĩa vài thuật ngữ:

Tiên thiên (ứng toàn bộ): Tiên thiên mệnh là cung mệnh, tiên thiên phu là cung phu v.v…

Hậu thiên, hạn (ứng đại hạn 10 năm): Hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh là cung đại hạn. Từ cung đại hạn lùi lại 2 cung thì được hậu thiên phu hoặc hạn phu. Thí dụ đại hạn ở cung Hợi thì gọi Hợi là hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh, gọi Dậu là hậu thiên phu hoặc hạn phu.

Lưu (ứng một năm): Lưu mệnh là cung chứa lưu Thái Tuế. Từ lưu mệnh lùi lại hai cung được lưu phu. Như năm xem hạn là năm Tí thì Tí là lưu mệnh, Tuất là lưu phu.

Kỷ Mão (26 đến 35 tuổi): Tứ hóa như hạn Kỷ Sửu, chỉ khác là bây giờ (Lộc Quyền Kỵ) ở hạn quan thay vì hạn di. Ba hạn liên tiếp bản mệnh đắc Lộc, hạn mệnh đắc Quyền nên trong gian khổ cô Dương vẫn đi đến trước. Hạn quan của cô Dương hình thành nhiều cách cục nên đổi việc khá nhiều lần; nhưng mặc dù công việc khác nhau vẫn có điểm chung là cơ bản dựa trên tiền thưởng, tiền hoa hồng.

Tiên thiên phu (chú: tức phu nguyên thủy) cũng ba hạn hội Lộc, cô Dương chẳng phải bỏ qua chuyện ái tình, chẳng qua hạn Mậu Dần binh hoang mã loạn, chẳng có thời giờ để bàn tính yêu đương; huống chi tiên thiên phu bị song Kị giáp chế (dịch giả chú: theo phái Tử Vân, một Kị của Âm từ Ngọ chiếu vào cung Tí VCD, Kị kia là Cơ ở Tuất hạn Mậu), nào phải dễ đâu!

Vận Kỷ Mão thì khác. Hạn thê có Lộc (Vũ) chiếu, thêm Linh thành cách Linh Tham, dễ nói chuyện yêu đương. Nhưng bị Khúc Kỵ thành cách Khúc Tham và Linh Xương Đà Vũ, sinh hoạt ái tình khó tránh trở ngại, muốn gặp đối tượng hôn nhân thích hợp có phần khó, huống chi hạn phu chính là bản mệnh là vị trí vừa bất ổn vừa yếu đuối, giả như kết hôn thì có thể sinh biến.

Người viết từng nhấn mạnh nhiều lần. Mười hai cung đều là ta cả. Cách cục đều sẽ gặp, chỉ khác là khi gặp thì hóa Lộc hoặc hóa Kỵ mà thôi. Như trường hợp cô Dương tiên thiên mệnh yếu nhược như thế, lại hình thành quá nhiều cách cục: Cơ Lương Kình Dương hội, Cự Hỏa Kình, Xương Tham, Linh Tham, Khúc Tham, Linh Xương Đà Vũ v.v… hành vận quả là khó khăn, trở ngại hơn người ta nhiều.

Kế tiếp chúng ta xét đoạn tình giữa cô Dương và ông M.

Năm Quý Hợi cô Dương 29 tuổi, lưu phu ở Dậu có lưu Lộc (Phá Quân) và Linh Tinh hội chiếu. Đại vận phu có Vũ Lộc Khúc Kỵ và Tham Kỵ xung chiếu là một kết cấu “cát xứ tàng hung” (Lộc phùng xung phá, phát động các cách xấu, đi đường dài thì gặp trở ngại.) Tiên thiên phu cũng hội chiếu song Lộc và song Kỵ. Cô Dương nội tâm không bài xích ái tình, lưu niên lại có cơ hội dẫn động, tự nhiên dễ sinh chuyên tình cảm, chỉ là vận phu kết cấu quá yếu, nên một là gặp đối tượng rồi có vấn đề, hai là cố duy trì nhưng gặp trở ngại trùng trùng.

Coi cung phu của lưu niên như cung mệnh của ông M thì Mùi là thê của ông này; lắm cách cục như thế, lại hiện đủ Lộc Kỵ xem ra mặt tình cảm của ông M phức tạp biến động nhiều. Nói cách khác, không dùng điều kiện du nhập thêm đã thấy năm này cô Dương muốn gặp đối tượng tốt thật chẳng dễ gì.

Ở đây có vấn đề trong vòng bàn cãi: Cùng lá số, vận phải giống y nhau hay sao? Cho nên người biết lô gích khoa học bài xích Tử Vi, bảo là phi lí, mê tín. Ông Liễu Vô có đề xướng rằng phải du nhập thêm dữ liệu mới mong luận mệnh, đừng hòng dùng lá số chung mà đoán cho trường hợp riêng (dgc: Liễu Vô đây là ông Liễu Vô cư sĩ, từng đề xướng nhu cầu thêm dữ liệu trong loạt sách Hiện Đại Tử Vi. Thực ra, đây là luận điểm của thầy ông Liễu Vô cư sĩ, tức ông Tử Vân, ông Liễu Vô cư sĩ chỉ làm việc tường thuật. Sau này ông Liễu Vô có một số chủ trương khác với ông Tử Vân, nhưng đó là chuyện khác). Luận điểm này xét ra hợp lý, nhưng rốt ráo thì mệnh lý thuộc triết học không phải khoa học, không thể lập lại thí nghiệm, cũng có những tính chất không giải thích bằng khoa học được. Ta không thể nói cái gì khoa học không giải thích được thì không tồn tại (bởi) chúng ta biết rằng khoa học vẫn không giải thích được hết mọi hiện tượng và sự thật.

Cùng một lá số nhất định có điểm giống nhau, nghĩa là có (một số) tiềm năng, cá tính, khuynh hướng tương tự; nhờ đó mà chúng ta có thể chỉ bằng lá số mà đoán cá tính và kể ra những đặc trưng về nhân cách, khiến người ta không thể hoài nghi về độ chuẩn xác (của lá số). Vận hạn lên xuống, chuyển ngắt vì chịu ảnh hưởng hoàn cảnh mà là phương diện có tính cá biệt hơn hết. Tuy nhiên, chỉ cần cùng lá số là phải có điểm tương tự. Chẳng hạn một người lên đỉnh cao thì không thể nào người khác xuống vực thẳm. Giá trị tuyệt đối có thể khác nhau, nhưng nội tâm cảm thấy thế nào (tâm thái) thì phải tương tự.

Du nhập điều kiện chẳng qua là tùy người, sự, vật đặc thù mà quan sát, phân tích, so sánh; hy vọng từ đó suy ra sự phát triển hỗ tương (giữa các yếu tố). Nói rộng hơn chút là hy vọng dùng lá số của mình để đoán ra trạng thái của đối phương mà thôi.

Các sao trong lá số đã định thì có thể đoán các vận tốt xấu thế nào. Người có kết cấu thế này thì dễ xảy ra diễn biến thế kia; việc này khi phát sinh thì dễ có kết cục như thế kia v.v… Bởi vậy người luận mệnh theo cách truyền thống không du nhập thêm dữ kiện mà vẫn thường đoán ra hoàn cảnh của bạn.

Về việc luận hạn không đúng, thường tùy thuộc kinh nghiệm tu dưỡng của người đoán. Như người không tiêu hóa cái cũ, không uyển chuyển biến thông thì nhất định đoán không đúng; người biết phân tích khách quan, chịu vận dụng các điều kiện được du nhập để quan sát thì có thể tăng độ chính xác; nhưng đừng nghĩ đến việc chính xác trăm phần trăm vì khi xét đại hoàn cảnh của con người thì xã hội hôm nay phức tạp hơn hẳn ngày xưa, chỉ qua một đêm đảng cộng sản giải thể (dgc: Sách này in năm 1994, nhiều đảng cộng sản Đông Âu giải thể năm 1989, có lẽ đây ám chỉ việc ấy), qua một đêm sẽ còn chuyện lớn nào xảy ra nữa? Khó mà dự liệu. Độ chính xác con người có thể đạt tới khó mà biết được.

Hóa Lộc tăng độ tự tin và khả năng phán đoán của ta. Hóa Kị khiến ta lòng động tâm biến, thậm chí tạo hành vi sai lầm. Nhìn từ một góc độ khác hóa Lộc là “động năng” có ích cho thực tế mưu danh cầu lợi, hóa Kị là “tĩnh năng” (dịch giả chú: Ở đây soạn giả dùng chữ “vị năng”, vị đây là vị trí, ý nghĩa chính xác nhưng tiếng Việt dễ bị hiểu lầm, bởi vậy dịch giả mạn phép đổi thành “tĩnh năng”, tĩnh đây phản lại nghĩa động, thiếu chính xác hơn so với “vị năng” nhưng khó hiểu lầm hơn) thích hợp cho việc tiềm ẩn tích lũy, lợi cho việc phản tỉnh, kiểm thảo, tập luyện. Hóa Lộc thì phải phát huy tinh lực, xung kích đạt mục tiêu; hóa Kị thì phải suy tư, lo nghĩ, cẩn thận trong công việc. Như thế Lộc Kị đều là đời sống con người, có gì phải sợ? Sợ chăng không biết tiến thối mà thôi!

Hệ thống giáo dục của chúng ta dạy chúng ta phải “hóa Lộc” như thế nào, nhưng ít nói đến khi “hóa Kị” phải cư thể nào cho đúng; có nói chúng ta phải cắn răng cố vượt qua khổ ải, đừng táng tâm thối chí, không thành công thì thành nhân v.v… Đời người chỉ là tranh chức quán quân hay chăng? Quán quân chỉ có một người, cũng chẳng có “thường thắng tướng quân” (ông tướng thắng hoài), vậy những người còn lại chẳng có tiền đồ hay sao? Học mệnh lý phải nhìn rộng, lòng cũng phải mở rộng, tâm phải có sự thiện, bằng không càng học càng phiền, càng không thoải mái; chẳng bằng không học biết gì về mệnh lý.

Nói lan man vậy quá đủ. Chúng ta hãy trở lại với liên hệ hỗ tương giữa cô Dương và ông M.

Ông M sinh năm Mậu Tí, thành ra Lộc (Tham) chiếu hai cung phu nguyên thủy và hậu thiên (của cô Dương), lại tam hợp lưu niên, cho nên cô Dưong dễ động lòng vì cái tình của đối phương. Từ cung Tí là cung trọng điểm của ông M mà xét thấy có Âm Hỏa Kị thành cách “thập ác”, nhưng cung Tuất lại có Lộc (Cơ) Quyền (Lương) nguyên thủy của cô Dương, ý là ông M cùng cô Dưong có tình không duyên, lâu rồi cô Dương sẽ bỏ ông, nhưng vì lưu niên dẫn động quá mạnh, đại vận phu lại có kết cấu như thế mới tạo thành mối tình lẽ ra không nên có như vậy.

Bất luân dùng lưu niên hoặc thái tuế nhập quái, cung thê của ông M đều hiển nhiên có vấn đề to. Lưu niên thê ở Mùi tựa hồ là vị trí đa tình và bất ổn; còn Tuất thì có Kị (Cơ) nguyên thủy của ông M, lại thành cách cô khắc “Cơ Lương Kình”. Ông M năm ấy 37 tuổi, có gia đình rồi mới phải, nhưng vẫn độc thân (Kình của ông M ở Ngọ cũng chiếu vào Tuất).

Năm Giáp Tí 1984 cô Dương có thai, chuẩn bị lấy ông M thì phát hiện ông M bề ngoài văn nhã mà thực ra có đi lại với băng đảng, vả tính tình bất định, ở càng lâu càng chịu không nổi, không biết thời khắc tới là vui hay giận. Trong cảnh bạn với người như bạn với hổ đó, cô quyết định bỏ đi, bạn thử đoán xem tại sao?

Lưu niên tam kỳ gia hội (Liêm Phá Vũ) tái cát hóa Hợi và Dậu; nhưng Nhật kỵ dẫn động Âm Kị xung Tí, lại khiến Mùi thành song Kị giáp Kị. Mùi đại biểu gì? Lại xung Sửu có ý nghĩa gì? Xin độc giả suy nghĩ. Chẳng phải là người viết “bán cái” mà là để quí vị tự xem mình đã luyện đến đâu.

Năm Ất Sửu Lộc Quyền ở bản mệnh tử và lưu niên tử, nhưng đại hạn tử không tốt. Cô Dương sinh hai trai, trao cho người khác nuôi nấng.

Hạn Canh Thìn (36-45 tuổi)

Đại hạn VCD có Kình Hỏa không khỏi lao khổ. Được Nhật hạn Lộc và Cơ nguyên Lộc chiếu nên (thành quả) tốt. Hai Lộc này giáp Dậu nên sự phát triển của hạn này dựa trên cái nền có sẵn của hạn Kỷ Mão (dịch giả chú: Ấy bởi vì song Lộc ứng với cái tốt của hạn Thìn lại làm lợi Dậu, mà Mão tức đại hạn trước xung Dậu, nên cái tốt của hạn này có liên hệ với hạn trước, tức là những liên hê của hạn cũ có biến chuyển tốt đẹp trong hạn này).

Hạn quan của cô Dưong 20 năm tọa Lộc là cơ hội tốt, sự nghiệp phải có một thành tựu nào đó. Nhưng hạn Kỷ Mão Lộc Kỵ cùng thủ tạo nhiều cách ác thành thử khó ổn định. Hạn Canh Thìn tốt hơn, dù có sát tinh nhưng chỉ có Lộc không gặp Kỵ trở ngại tương đối ít. Thế nhưng muốn việc suôn sẻ từ đầu đến cuối e chẳng dễ dàng; rốt ráo thì vì nguyên mệnh và hạn mệnh đều vô chính diệu khó tránh ảnh hưởng của hoàn cảnh, phải đổi thay cho phù hợp khó mà giữ được lập trường, phương hướng.

Hạn phu ở Dần VCD Đà La Địa Kiếp thủ là vị trí bất ổn. Tam phương tuy được song Lộc chiếu nhưng cũng bị song Kị ở hạn phúc chiếu (chú: Âm Kị nguyên thủy và Đồng hạn Kị); vậy là Lộc phùng xung phá, không tốt.

Nếu coi cung Dần (hạn phu) là đối tượng, thì cung thê của đối tượng ở Tí VCD lại bị Hỏa Âm (thập ác) và Kình Âm (nhân li tài tán) chiếu. Cô Dương có nhiều cơ hội được người theo đuổi, chỉ là những người ấy cảm tình có vấn đê.

Năm Tân Mùi cô Dương 37 tuổi, lưu niên ở di nguyên thủy, cách cục to, nhưng Xương lưu Kị thủ, cô Dương có xác xuất cao hành xử sai lầm.

Bản mênh phu có cách ác Xương Tham chiếu, nội tâm đối với hôn nhân có khuynh hướng làm trái lẽ thường, tuy không nhất định kết hôn nhưng có thể dính líu đến một đoạn “kỳ tình”.

Đại vận phu đắc 3 Lộc hội chiếu, tăng độ ổn định rất nhiều, nhưng cung VCD rốt ráo vẫn là VCD, có mối nguy chìm nổi bất thường.

Lưu phu có Thiên Phủ là một sao ổn định, ngưởi gặp điều kiện có lẽ chẳng dở (cung quan Dậu có hai Lộc giáp phù), cung phu Mão bị Kình Đà giáp chế (cho nên) cẩn thận trong việc hôn nhân, nhưng gặp Xương Kị (cho nên) năm ấy cảm tình, hôn nhân có vấn đề.

Ông R sinh năm Kỷ Mão 1939, hơn cô Dương 16 tuổi, mệnh Lôc (Vũ) và Kỵ (Khúc) đều ở lưu niên mệnh (Mùi) cũng là cung thân của cô Dương, lại chiếu tiên thiên phu (ở Hợi) nên năm Tân Mùi cô Dương cảm sự chiếu cố của ông R.

Mão là cung trọng điểm của ông R, hai cung giáp đều VCD. Nhật Lộc (hạn Canh) xung đến Dần, Cơ Lộc (mệnh Ất) xung đến Thìn, khiến Mão được tính ổn định của song Lộc giáp, chỉ là ảnh hưởng tương đối nhỏ (chú: vì đều do xung cả). Cô Dương ắt có ấn tượng tốt với ông R, và có một loại duyên phận khó diễn tả thành lời được.

Sửu ứng cung thê của ông R, chính là bị cách Linh Xương Đà Vũ, quan hệ giữa cô Dương và ông R. có tính “đảo điên”, lẽ ra không nên có lại có (chú: Vì cách Xương Tham, Khúc Tham là “li chính vị nhi đảo điên”). Ông R. sự nghiệp đã thành, vợ con đều đã di cư ra nước ngoài chỉ còn mình ông trong nước, mới có cơ hội trồng nhân cho đoạn tình này.

Cô Dương và ông R tương lai phát triển thế nào?

Nếu xét đại vận phu thì Tân Tị, Nhâm Ngọ hai hạn Lộc đều chiếu đến Dần (chú: Cự hóa Lộc và Lương hóa Lộc), tựa hồ tình chưa hết; nếu xét Sửu (chú: coi là cung thê của ông R sinh năm Mão) thì ba vận sau Kị đều chiếu cả, tựa hồ tình đã dứt; vậy giải thích làm sao?

Cô Dương không thể thành vợ của ông R, nhưng liên hệ giữa hai người có thể tiếp tục phát triển, chỉ là từ hạn Tân Tị trở đi thì tình cảm cô Dương dành cho ông R càng lúc càng nhạt đi. Nhanh thì năm Bính Tí (42 tuổi ta) Liêm Kị nhập Mão tình cảm phai mờ, chậm thì năm Nhâm Ngọ (48 tuổi ta) vì Vũ Kị xung kích Mão.

Các hạn về sau:

Ba hạn Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi Kỵ đều ở Mùi, phá hoại mệnh, thân và ảnh hưởng tiên thiên phu, khiến cô Dương tâm tình khó ổn định, chuyện muốn kết hôn khó xảy ra, mà nếu kết hôn thì chẳng tốt đẹp được.

Ngoài ra cô Dương hạn Canh Thìn, Tân Tị phúc đức đều hóa Kị, thành các cách ác Âm Hỏa, Linh Xương Đà Vũ v.v… ngoài cái lo mất tiền ra, trạng thái tâm lý cũng cần đề phòng, nhất là hạn Tân Tị (dịch giả chú: Vì phúc ở Mùi cách cục rất rõ nét).

Lời kết:

Cô Dương cảm tình không thuận lợi, có thể cả đời không thành hôn, nguyên nhân có thể quy về:

Một: Mệnh vô chính diệu, hai cung giáp cũng vô chính diệu, hội họp có nhiều cách ác; khiến cá tính bất an, hành sự thiếu chín chắn, phán đoán dễ sai lầm.

Hai: Tiên thiên phu sao quá cương, lại vào cách cô quân, trừ tiêu chuẩn cảm tình quá cao, xử lý tình cảm quá cương nghị, thiếu cái dịu dàng của nữ giới. (Nhưng) cũng có thể vì đó mà phù hợp với sinh hoạt cảm tình độc lập như vậy.

Ba: Các hạn trong tuổi thích hợp thành hôn cung phu đều bị Kị xâm phạm, gây trở ngại trong cảm tình, không dễ gặp đối tượng tốt, lại là cung VCD thiếu ổn định.

Hạn Mậu Dần, Tí VCD bị tiên thiên Kị xung, thành cách Âm Hỏa.

Hạn Kỉ Mão, Sửu VCD bị Khúc Kị xung, thành cách Linh Xương Đà Vũ.

Hạn Canh Thìn, Dần VCD bị song Kị (Âm nguyên Kị, Đồng hạn Kị) chiếu.

Rồi đến hạn Tân Tị lại bị Xương Kị; rõ là bị Liên Kị nên trên đường tình ái bị cảnh gập ghềnh khó đi.

Ngoài ra bốn vận Kỷ Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn Lộc hoặc Quyền đều ở tiên thiên di khiến cô Dương hiếu thắng, đòi tranh đấu với số mệnh.

Tóm lại, lá số như cô Dương một đời nhiều xung động biến hóa, chuyện gì sẽ xảy ra chẳng dự liệu được nhưng chẳng đáng ngạc nhiên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thái Tuế Nhập Quái

Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong kinh Thiện Sinh

Cha mẹ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái và phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ. Bổn phận của con cái là không để cho cha mẹ phải phiền lòng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thường thì khi đề cập đến đạo hiếu trong đạo Phật người ta chỉ nói đến việc hiếu thảo của người con, mà không đề cập nhiều đến vai trò đạo đức và giáo dục của các bậc cha mẹ. Đó là một sự thiếu sót rất lớn.

Thật ra theo tinh thần của lời Phật dạy trong kinh Nguyên thủy và Đại thừa, “Đạo hiếu” của người Phật tử được thể hiện đầy đủ về hai mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, và giữa con cái với cha mẹ. Ở đây, người viết sẽ đề cập về hai mối quan hệ thể hiện đạo hiếu đó, được mệnh danh là đạo làm cha mẹ và đạo làm con.

Trong các mối quan hệ con người, có thể nói mối quan hệ cha mẹ và con cái là thiêng liêng nhất. Sự thiêng liêng không chỉ đơn thuần nằm ở mối quan hệ di truyền và huyết thống, mà đó còn là tất cả tình người, tính giáo dục, đạo đức của hai thế hệ, trước và sau, thế hệ sinh và thế hệ được sinh ra.

  • Người con nào phá vỡ mối quan hệ thiêng liêng này đối với cha mẹ, nghĩa là bất hiếu, báo đời, hại cha mẹ, làm mất thanh danh và truyền thống tốt đẹp của gia tộc, làm các việc phạm pháp..vv. thì người con đó không còn là người con đúng nghĩa, mà chỉ là một người tội lỗi và đáng trách.
  • Trái lại, cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình, chẳng hạn như không giáo dục con cái trưởng thành về thể chất, thể trí, tự lập trong đời sống chân chính (chính mạng) thì hàng cha mẹ đó cũng không xứng đáng là các bậc cha mẹ. Cả hai hạng cha mẹ và con cái như vậy đều được xem là không xứng đáng trong tinh thần giáo pháp của Đức Phật.

Trên tinh thần xây dựng và phát huy một xã hội an bình và hạnh phúc trong chiều hướng thượng, những lời dạy của Đức Phật trong tam tạng kinh điển Nam tông và Bắc tông, đã trực tiếp và gián tiếp ca ngợi về mối quan hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Trong phần này, xin trình bày mối quan hệ này cụ thể qua kinh Thiện Sinh – Trung A Hàm. Đây là một bài kinh được xem là tiêu biểu cho đạo hiếu trong truyền thống Phật giáo Bắc phương.

Điều cần nói ở đây là trong lời Phật dạy về đạo hiếu, các giá trị giáo dục và đạo đức được thể hiện theo mối quan hệ song phương, đa chiều. Đạo hiếu, do đó, không chỉ dành cho những người con đối với cha mẹ mà quan trọng không kém đó là quan hệ của cha mẹ đối với con cái. Nói khác hơn đó là mối quan hệ của đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái.

Trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái

Nói đến mối quan hệ cha mẹ đối với con cái là nói đến tinh thần trách nhiệm và bổn phận của các bậc cha mẹ đối với một phần máu thịt mà mình đã sinh ra. Theo lời Phật dạy, cha mẹ sinh con cái không phải để thỏa mãn dục tính mà là thể hiện tình thương yêu đối với một phần máu mủ và sự sống của chính mình.

 cha mẹ
Mối quan hệ của cha mẹ như vậy được xem là nền tảng ban đầu, là cơ sở phát sinh các mối quan hệ đạo đức xã hội về sau

Ở đây, chúng ta thấy đạo Phật đã nhấn mạnh đến đạo đức trong mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ. Chính do tính chất đạo đức này mà các bậc cha mẹ cảm thấy cần phải có trách nhiệm đạo đức đối với việc nuôi nấng và dạy dỗ cho con cái trưởng thành và có lợi ích cho xã hội. Kinh Thiện Sinh đã đề cập đến mối quan hệ đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái qua năm tiêu chí căn bản sau đây:

Thương yêu con cái:

Như đã nói mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ trong đạo Phật được đặt trên cơ sở đạo đức, do đó, sự sinh sản con cái không nhằm nhu cầu thỏa mãn các khoái lạc giác quan thuần túy. Chính vì thế các bậc cha mẹ xem việc nuôi nấng con cái không chỉ là trách nhiệm mà còn là luân lý đạo đức không thể thiếu được.

Trong trách nhiệm thiêng liêng thứ nhất này, các bậc cha mẹ ngoài việc nuôi nấng con cái về thể chất, còn phải nuôi con cái bằng đạo đức và lòng yêu thương chân chính. Đó chính là thể hiện tinh thần từ bi của Phật tử. Các bậc cha mẹ phải luôn luôn quan tâm, yêu thương con cái hết mực.

Bởi vì con cái mình mà không thể yêu thương được, thì làm sao có thể yêu thương những người khác. Lòng yêu thương con cái của các bậc làm cha mẹ được thể hiện rất rõ ở văn hóa phương Đông nói chung, văn hóa Việt Nam nói riêng. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Mẹ già trăm tuổi thương con tám mươi”, chính là thể hiện sự yêu thương con cái hết mực vậy.

Ngoài ra, yêu thương con cái là phải luôn dạy con cái không làm các điều ác, phải tuân thủ luật pháp xã hội, tôn trọng thuần phong mỹ tục của quốc gia, duy trì truyền thống tốt đẹp của gia đình. Sự giáo dục con cái như vậy rõ ràng là sự giáo dục của người có trí: không nuông chiều con cái, không để chúng có cơ hội đi vào con đường tội lỗi.

Các bậc cha mẹ nuôi con mà không biết dạy con tránh xa tội ác như vậy sẽ trở thành chướng ngại cho đời sống gia đình và xã hội. Đồng thời thể hiện sự yêu thương mù quáng, không đúng tinh thần của đạo Phật.

Cung cấp cho con cái không thiếu thốn:

Điều thứ hai mà cha mẹ có trách nhiệm với con cái là không để chúng thiếu thốn. Không thiếu thốn ở đây phải thể hiện trên hai phương diện là vật chất và tinh thần.

Trên phương diện vật chất, bậc làm cha mẹ phải tùy vào khả năng, điều kinh tế của mình để lo cho con cái đầy đủ từ miếng cơm, manh áo..vv, các phương tiện để học hành phát triển tài năng, trí tuệ. Trên phương diện tinh thần, cha mẹ phải luôn quan tâm chăm sóc, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn để động viên con cái có động lực vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ngày nay nhiều bậc cha mẹ chỉ biết cung cấp cho con cái về mặt vật chất mà thiếu sự quan tâm về mặt tâm lý. Do đó con cái cảm thấy xa lạ với chính cha mẹ của mình..vv. dẫn đến khủng hoảng tâm lý mà sa đọa vào các tệ nạn xã hội. Vì vậy các bậc cha mẹ không chỉ lo cho con cái về mặt vật chất, mà phải luôn quan tâm về mặt tâm lý tinh thần.

Tạo dựng nghề nghiệp chân chính cho con cái:

Giáo dục theo tinh thần đạo Phật luôn bắt đầu và đặt nền móng trên giáo dục đạo đức. Các bậc cha mẹ nào không đặt tầm quan trọng của giáo dục đạo đức ắt sẽ gặp phải cảnh người con bất hiếu, ngỗ nghịch và tạo ra cảnh mất đầm ấm hạnh phúc trong gia đình ở hiện tại và về sau, cho dòng tộc và tha nhân. Nói như thế không có nghĩa đạo Phật bỏ rơi sự giáo dục con cái trưởng thành về thể chất.

Tạo dựng nghề nghiệp cho con cái không những bao gồm sự nuôi nấng theo tinh thần khoa học mà còn chăm lo đến nghề nghiệp tương lai của chúng. Điều này có nghĩa là giao cho con cái cả gia tài sự nghiệp sẵn có của mình không bằng truyền thụ cho chúng kiến thức để có được nguồn tài sản đó.

Ở đây, giáo dục Phật giáo nhấn mạnh đến giáo dục “nhân” để sinh ra “quả”. Vun bồi nhân là cách tốt nhất để gặt hái quả tốt. Do đó giáo dục trong đạo Phật luôn là giáo dục con đường chứ không ban cho con đường. Đây là lối giáo dục vô cùng sáng suốt vì đã loại bỏ yếu tố tha lực trong các hoạt động và phát triển nhân cách đạo đức và năng lực bản thân.

Kế đến lời dạy này còn nhắm đến tính giáo dục tinh thần tự lực cho con cái, theo quy luật của cuộc sống và theo đạo đức của cuộc đời. Chỉ có tinh thần tự lực, dưới sự hướng đạo của cha mẹ, con cái mới thật trưởng thành trong xã hội.

Một ý nghĩa khác có thể rút ra từ lời dạy trên là để khắc chế nạn lêu lổng và buông thả của đời sống thanh thiếu niên trong xã hội nhiều cám dỗ, các bậc cha mẹ phải dạy chúng ý thức về một nghề nghiệp ổn định cho bản thân. Sự sống nhờ vả, dù đó là nhờ vào cha mẹ, cũng chỉ là tạm thời và có ý nghĩa rất ít; trong khi sự tự lập bằng mồ hôi, sức lực, trí khôn trong chiều hướng đạo đức và khả năng của bản thân mới là con đường tự tồn tại lâu dài và bền bĩ.

Chính sự giáo dục này giúp cho con cái thoát khỏi các cạm bẫy ăn chơi sa đọa của xã hội, góp phần ổn định đời sống tập thể và cộng đồng, nhất là hạn chế nạn thất nghiệp và những việc làm phi pháp.

Tìm nơi chốn xứng đáng để dựng vợ gả chồng cho con cái:

Trách nhiệm của các bậc cha mẹ không chỉ dừng lại ở giáo dục đạo đức tránh ác làm lành, ổn định nghề nghiệp cho con mà còn chăm lo đến đời sống lứa đôi cho con cái. Cần nhấn mạnh ở đây rằng xây dựng gia thất cho con cái không có nghĩa là ép buộc con cái phải làm chồng / vợ một người nào đó mà mình thích, thay vì người mà chúng yêu thương.

Đạo Phật không khuyến khích một tập tục “bắt đâu ngồi đó” như trong truyền thống Ấn giáo cổ đại, cũng như truyền thống “phụ vi tử cương” của Nho giáo. Đạo Phật đề cao tinh thần bình đẳng trong nhận thức của cha mẹ và con cái. Khi chưa đến tuổi thành niên, con cái tùy thuộc vào sự quyết định đúng đắn của cha mẹ.

Khi con cái đã đến tuổi trưởng thành, việc quyết định đời sống hôn nhân của chúng phải tùy thuộc vào sự lựa chọn của chúng. “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên” là một phương châm rất phù hợp với tinh thần của lời dạy này. Ngoài ra, một ý nghĩa giáo dục khác là nếu cha mẹ có thể dạy và tạo dựng nghề nghiệp chân chính và ổn định cho con cái thì các bậc cha mẹ cũng có thể cố vấn tình yêu và hôn nhân cho chúng. Lời dạy này mang tính giáo dục rất cao.

Cha mẹ không chỉ là người sinh ra con cái mà còn là người thầy, người cố vấn, người hướng đạo đời sống yêu đương và hôn nhân cho con cái. Ở đây, ngoài yếu tố truyền trao kinh nghiệm yêu đương và hôn nhân cho con cái, các bậc cha mẹ còn phải đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn con cái chọn lựa người bạn đời thích hợp. Không có gì thiêng liêng và cao quý cho bằng khi cha mẹ còn đóng vai trò của người thầy và người cố vấn hôn nhân.

Nói rõ hơn, cha mẹ chỉ làm chức năng tư vấn cho con cái biết rõ tiêu chuẩn của một người vợ hay người chồng lý tưởng cũng như, thế nào là trách nhiệm và bổn phận của đôi vợ chồng “loan phụng hoà minh” v.v… Hoàn toàn không có chuyện ép buộc và sắp đặt của cha mẹ trên vấn đề hôn nhân của con cái. Đây là tinh thần giáo dục rất phù hợp đời sống hôn nhân hiện đại.

Một điểm cần lưu ý nữa là khái niệm “xứng đáng” không có nghĩa là “môn đăng hộ đối” như phong tục Nho giáo. Xứng đáng ở đây mang tính đạo đức và xã hội. Ở góc độ đạo đức, người con khôn ngoan nên biết chọn cho mình người bạn đời có đủ phẩm chất đạo đức ít nhất như mình.

Đây là sự tương thích về nhân phẩm giữa hai người. Kế đến, về phương diện xã hội, sự xứng đáng còn mang ý nghĩa chọn người bạn đời có cùng tính tình, chí hướng và hạnh nguyện. Không có gì đau khổ cho bằng khi vợ chồng lâm vào cảnh “đồng sàng dị mộng” vợ nắng chồng như mưa hay vợ mặt trăng, chồng mặt trời v.v…

Để tránh các tình trạng đau lòng có thể dẫn đến sự đổ vỡ mối quan hệ tình yêu và hôn nhân như vậy, con cái rất cần đến sự cố vấn của cha mẹ chúng, những người ít nhất đã một lần trải qua.

Trên tinh thần giáo dục trên, việc dựng vợ gả chồng xứng đáng cho con cái không chỉ tránh được các đổ vỡ do mối quan hệ đơn thuần “môn đăng hộ đối” về vật chất nhưng lại không thích hợp về tính tình, đạo đức, trí tuệ và hạnh nguyện, mà còn hướng đến một căn bản tương thích của đời sống lứa đôi. Nói cách khác, hạnh phúc hôn nhân không chỉ có được từ sự giàu sang mà phải đặt nền tảng trên sự tương thích về phẩm chất đạo đức, lý tưởng và hạnh nguyện. Trong bất kỳ cuộc hôn nhân nào nếu có sự tương thích về đời sống đạo đức và lý tưởng thì tất nhiên sẽ kéo theo sự hạnh phúc lứa đôi.

Cha mẹ có của cải vừa ý đều giao hết cho con cái:

Trách nhiệm thứ năm này mang ý nghĩa pháp lý và đạo đức rất cao. Về phương diện pháp lý, việc truyền trao này bao gồm di chúc và tài sản thừa tự cho con cái. Có nhiều bậc cha mẹ đã không nghĩ tới chuyện này khi còn khỏe mạnh. Do đó, một khi nhắm mắt xuôi tay, con cái bất hiếu đã gây cảnh nồi da xáo thịt về quyền thừa tự, tranh giành tài sản do cha mẹ để lại. Chính vì thế, để tránh các tình trạng trên, Đức Phật đã dạy các bậc cha mẹ phải di chúc và trao truyền gia tài khi mình còn sáng suốt và khỏe mạnh. Chỉ có trong tình trạng khỏe mạnh và sáng suốt, người ta mới có thể chọn người xứng đáng vá thích hợp để mà ủy thác.

  • Về phương diện đạo đức, sự truyền trao gia tài không chỉ có nghĩa đơn thuần là phân chia tài sản cho con cái mà còn có ý nghĩa truyền trao di sản văn hóa của dân tộc, truyền thống gia đình.
  • Gia tài đó hẳn không phải là “một nước Việt buồn” mà phải là một nước Việt thoát khỏi thực trạng khổ đau (khổ đế) hướng đến an lạc và giải thoát trên tinh thần tự chủ vô ngã.
  • Một gia tài như vậy, vàng bạc không thể mua được, đô-la không thể đổi được. Do đó cần phải cẩn trọng chọn lựa người xứng đáng mà truyền trao.
  • Ở mức độ đơn thuần hơn, sự truyền trao gia tài còn có ý nghĩa giúp cho xã hội tránh được sự truyền thừa không xứng đáng, những tình trạng cha truyền con nối, những truyền thống thế tập “con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”.

Đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đã không truyền trao y bát cho ngài Thần Tú mà trái lại truyền cho ngài Tuệ Năng. Đức Phật Thích Ca đã không trao chính pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm cho ngài A Nan bác học đa văn mà giao cho tổ Ca Diếp đạo cao đức trọng. Sự chọn lựa ở đây bao hàm nội dung đạo đức rất lớn. Chọn lựa sai lầm thì kết quả đau thương sẽ không thể tưởng tượng. Chính vì thế sự chọn lựa đối tượng trao gia tài cần phải cẩn trọng, hợp thời, hợp cơ. Trừ phi đối tượng xứng đáng về đạo đức và trí tuệ được chọn lựa và giao phó, sự truyền trao sẽ trở nên vô nghĩa và nguy hiểm cho cả nhiều thế hệ về nhiều phương diện của cuộc sống.

Nói chung, nếu tinh thần này được áp dụng ở xã hội thì lo gì xã hội không có đủ người tài đức, đất nước không có được minh quân. Mọi sự phân biệt mang tính cách bè phái, cục bộ “con ông cháu cha” sẽ không còn cơ hội để tồn tại trong một xã hội mà tinh thần giáo dục của Đức Phật được truyền thừa và phát huy triệt để.

Bổn phận của con cái đối với cha mẹ

Theo tinh thần duyên khởi của đạo Phật, bất cứ mối quan hệ nào cũng phải có sự đối lưu của ít nhất hai thành phần. Ở đây sự đối lưu là giữa cha mẹ và con cái và ngược lại. Tinh thần giáo dục của Đức Phật không đơn thuần và một chiều, mà đó là sự đối lưu của ít nhất hai trị số con người trong mối quan hệ vừa đạo đức và giáo dục.

cha mẹ
Người con cũng phải có trách nhiệm đạo đức đối với cha mẹ, nuôi nấng mình trưởng thành và trở nên hữu dụng cho bản thân và xã hội.

Sự hiếu thảo của người con như vậy được trình bày qua năm trách nhiệm đạo đức sau đây:

Tăng thêm của cải để nuôi dưỡng cha mẹ:

Trách nhiệm đạo đức trước tiên của một người con đối với hai đấng sinh thành ra mình theo Đức Phật là phải biết làm tăng thêm của cải, vật chất để nuôi dưỡng cha mẹ. Hay nói cách khác người con phải lấy sự báo đền cha mẹ bằng cách chăm sóc cha mẹ về đời sống vật chất, cũng như chính cha mẹ đã lo cho chúng ta trưởng thành, trong suốt những năm vị thành niên.

Cần lưu ý ở đây rằng: Tăng thêm của cải là để biểu thị một ý thức trách nhiệm cao độ, chứ không đơn thuần là một lời hứa suông. Như chúng ta đã biết Đức Phật định nghĩa nghiệp là những hành vi có ý thức và ý thức là chất xúc tác và dẫn đạo các hành vi của lời nói và việc làm. Do đó, chỉ có với một ý thức sâu sắc về bổn phận làm con ” Tăng thêm của cải để nuôi dưỡng cha mẹ” mới có thể giúp người con duy trì tốt truyền thống hiếu thảo đối với cha mẹ được. Bởi nếu không có của cải thì cũng không thể lấy gì mà phụng dưỡng cho cha mẹ.

Sự chăm lo đến đời sống vật chất của cha mẹ ở đây cho thấy đạo Phật rất thực tiễn. Người con hiếu thảo không chỉ biết vâng lời cha mẹ, làm việc tốt cho gia đình và xã hội mà trước tiên và hơn hết là lo phần đời sống vật chất cho cha mẹ mình. Chăm lo đời sống vật chất bao gồm việc dâng tặng cho cha mẹ tiền chi tiêu, quà quý, thuốc thang, sự thăm viếng và phụng dưỡng khi cha mẹ đau ốm hay không còn sức lao động.

Lời dạy này ngoài việc khích lệ con cái hiếu kính đối với cha mẹ còn nhắm vào việc xóa bỏ các quan niệm sai lầm cho rằng cha mẹ sinh con là để thoả mãn dục vọng cho nên con cái không cần phải có trách nhiệm lo lắng trở lại. Nếu lời dạy cao qúy này được áp dụng chắc chắn rằng xã hội sẽ không còn tình trạng các cha mẹ già phải tủi phận vào sống các nhà dưỡng lão, chỉ vì các người con bất hiếu. Kế đến, lời dạy còn có ý nghĩa cao quý khác, đó là, sẽ không còn cảnh những đứa con ngỗ nghịch “báo đời” cha mẹ dưới nhiều hình thức và về nhiều phương diện.

Cáng đáng việc nhà, làm tròn bổn phận đối với cha mẹ:

Ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của một người con là điều quan trọng thứ hai trong đạo hiếu thảo của người Phật tử. Lời dạy này mặc dù rất bao quát nhưng có ý nghĩa đạo đức rất lớn. Khái niệm bổn phận ở đây cần phải được hiểu là sự thực thi những điều trách nhiệm của người con đối với cha mẹ tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép. Nghĩa là công việc hiếu thảo không bao giờ là một sự bắt buộc mà trái là một ý thức cao độ, ý thức làm người có đạo lý.

Có nhiều trường hợp người con vì thương cha kính mẹ mà làm nhiều điều tội ác để chu cấp tài sản cho cha mẹ. Đạo Phật chống lại sự hiếu thảo phi pháp như vậy. Nói cách khác cáng đáng việc nhà để trọn bổn phận tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép là một trong những cách thể hiện chữ hiếu hợp lý nhất. Ví dụ khi còn ngồi dưới mái trường, việc làm trọn bổn phận của người con đối với cha mẹ là vâng lời thầy cô, học hành chăm chỉ, thu hoạch kiến thức để làm nền tảng trí thức và đạo đức cho bản thân, hiện tại và về sau.

Khi đã xây dựng gia thất riêng, việc làm tròn bổn phận của người con là sống đúng, sống theo và sống hợp với các nguyên tắc đạo đức của đạo Phật, không làm các điều ác, phát huy các điều thiện, chăm lo cho vợ/chồng con chu đáo, cáng đáng việc nhà để cho cha mẹ có thời gian thư nhàn lúc tuổi xế chiều, không để cha mẹ phải vất vả vì công việc gia đình. Nói chung trong mọi hoàn cảnh và trường hợp, người con làm tròn bổn phận phải là người có ý thức trách nhiệm và thể hiện trách nhiệm đó bằng hành động cụ thể, đúng chính pháp và phù hợp với đạo lý và luật pháp của xã hội hiện hành.

Dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn:

Các bậc làm cha mẹ đã suốt đời hy sinh vì con cái, cũng không ai đòi hỏi con cái phải dâng hiến cho mình những gì vượt ngoài khả của con cái. Khi còn trẻ cha mẹ đã hết mình lo cho con cái, nhưng khi về già, không còn sức lao động, không làm ra của cải vật chất nhưng cũng không ai muốn ngửa tay xin con cái.

Cho nên phận làm con cái luôn phải biết vâng lời cha mẹ, tùy theo điều kiện hoàn cảnh kinh tế của gia đình mà dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn, không đợi cha mẹ phải đòi hỏi. Đây cũng là thể hiện tính tự giác, luôn biết quan tâm đến tâm tư tình cảm của cha mẹ. Tiếc rằng xã hội ngày nay, nhiều người làm con cái sống trong cảnh dư thừa vật chất, nhưng vẫn để cho cha mẹ nghèo khổ, đói rét. Chính vì thế mà tục ngữ có câu: “Một mẹ nuôi được mười con, mười con không nuôi nổi một mẹ”.

Đây quả thực là một tình trạng đáng buồn của xã hội, lời dạy trên của Đức Phật thật vô cùng ý nghĩa đối với những người làm con cái mà chưa tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ.

Không tự làm gì khi chưa hỏi cha mẹ và không được trái ý cha mẹ:

Đây chính là bổn phận của người làm con khi tiến hành bất cứ một công việc gì cũng phải hỏi cha mẹ trước, mục đích để giữ gìn danh dự và không đi ngược với truyền thống gia đình.

Mỗi dân tộc đều có một bản sắc văn hóa riêng. Chính nét riêng là giá trị tạo nên và đóng góp cho nền văn hóa của nhân loại. Cũng vậy mỗi gia đình đều có truyền thống riêng mà các bậc tiền bối và tổ tiên đã dày công xây dựng. Người con hiếu thảo theo Đức Phật là người, ngoài việc làm tròn bổn phận, phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ đúng pháp còn là người biết tôn trọng các giá trị văn hóa và di sản truyền thống tốt đẹp của gia đình, giống nòi và dân tộc.

Cần lưu ý ở đây rằng lời dạy này không nhằm khuyến khích một chế độ thế tập “cha truyền con nối” một cách mù quáng. Nó chỉ nhằm kêu gọi ý thức trách nhiệm bảo vệ và phát huy các truyền thống tốt đẹp của một gia phả, một làng xóm, một cộng đồng, một sắc tộc, một quốc gia mà thôi.

  1. Đạo Phật không dạy chúng ta phục tùng các truyền thống lạc hậu, phản với đạo đức và sự hướng thượng trong đạo đức và tu tập.
  2. Trong tinh thần này, những quan niệm duy trì truyền thống theo kiểu “con vua thì lại làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa” cần phải được loại bỏ ra khỏi quan điểm chữ hiếu trong đạo Phật.
  3. Đức Phật chỉ khuyên chúng ta theo mặt tốt và tiến hóa của truyền thống trong khi mạnh dạn loại bỏ các mặt tiêu cực và bất lợi của nó.

Lời dạy này càng có ý nghĩa to lớn hơn nếu ta đặt nó trong sự vận động bảo tồn và duy trì các sắc thái văn hóa của tổ chức UNESCO. Nói dễ hiểu hơn, đây có thể là phương châm cho một khuynh hướng giữ gìn và bảo vệ nền văn hóa tích cực của các sắc dân, của các dân tộc trên thế giới theo chiều hướng có chọn lọc các truyền thống và đặt chúng trong tiêu chí của các giá trị phát triển đạo đức và đạo lý con người hơn là chỉ đơn thuần tìm hiểu và làm sống dậy chúng.

Tất cả những vật riêng của mình đều dâng hết cho cha mẹ:

Phận làm con phải luôn tự giác dâng nhưng tài sản, vật chất của mình cho cha mẹ, mà không giấu diếm giữ làm của riêng. Đây chính là thể hiện tinh thần tập thể của một gia đình, nhằm bảo vệ và làm tăng tiến tài sản thừa tự.

Nếu “duy trì các truyền thống tốt đẹp của gia đình, quốc gia” là một nguyên tắc chung và bao quát đối với những người con có hiếu theo tinh thần lời Phật dạy thì “bảo vệ tài sản thừa tự” là một nguyên tắc cụ thể ứng dụng trong phạm vi của truyền thống gia tộc. Điều này có ý nghĩa giáo dục rằng một mặt con cái phải biết sử dụng gia tài và di sản của cha mẹ để lại đúng pháp và mặt khác phải là người kế thừa có đạo lý. Nghĩa là cha làm thầy thì con cái không được đốt sách. Cha mẹ làm việc thiện, tôn kính Tam Bảo, thì con cái không nên làm việc ác, phỉ báng Phật Pháp Tăng. Trái lại còn phát huy một cách tốt hơn và có chiều kích hơn.

Rất tiếc hiện nay trong nhiều xã hội, lời dạy nầy không được áp dụng nên đã có nhiều cảnh con cái trở thành những kẻ phá hoại tài sản của cha mẹ và tổ tiên để lại. Nhiều người con chỉ biết chi tiêu gia tài của cha mẹ theo khuynh hướng tán gia bại sản hơn là duy trì và phát huy chúng.

Tóm lại, qua những gì vừa được trình bày ở trên, đạo hiếu của Phật giáo bao gồm đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái. Năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm cha mẹ và năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm con trong kinh Thiện Sinh có thể được xem là những chuẩn mực, khuôn vàng thước ngọc cho các mối quan hệ của cha mẹ và con cái trong một xã hội tiến bộ và văn minh.

Mối quan hệ giữa cha mẹ đối với con cái là mối quan hệ mang tính đạo đức và giáo dục rất cao. Các bậc cha mẹ không chỉ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái mà còn và quan trọng hơn hết là chăm lo và phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ của chúng. Đồng thời bổn phận của con cái không chỉ là chăm lo cho cha mẹ về mặt vật chất, mà phải luôn săn sóc cha mẹ về mặt tinh thần, không để cho cha mẹ phải phiền lòng.

Nếu năm nguyên tắc đạo làm cha mẹ nên được phổ biến rộng rãi trong các hội bô lão và các hội phụ huynh thì năm nguyên tắc đạo làm con nên được truyền bá trong các câu lạc bộ thanh thiếu niên, trong các hội đoàn sinh viên học sinh, để các bậc làm cha mẹ xứng đáng là cha mẹ và để các người con xứng đáng là những người con.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong kinh Thiện Sinh

Tướng mặt làm quan chi tiết qua Lục diệu

Lục diệu là mắt trái, mắt phải, Sơn căn trên mũi, mày trái,phải, Ấn đường giữa 2 mắt. Người có tướng mặt làm quan, phú quý, tốt lành thì Lục diệu có đặc điểm như thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lục diệu là chỉ Thái dương, Thái âm, Nguyệt bột, La hầu, Kế đô và Tử khí. Thái dương là chỉ mắt trái, Thái âm là chỉ mắt phải, Nguyệt bột chỉ Sơn căn trên mũi, La hầu là mày trái, Kế đô là mày phải, Tử khí là bộ vị Ấn đường giữa 2 mắt. Người có tướng mặt làm quan, phú quý, tốt lành thì Lục diệu có đặc điểm như thế nào?

tuong-lam-quan

Ấn đường tròn bóng lộ màu trắng bạc là tướng tốt lành

Tử khí là Ấn đường, người có hộ vị Ấn đường đầy đặn, tươi sáng, không có nếp nhăn hay đường vân nhỏ, nổi cao như hình trạng của hạt minh châu, lộ sắc trắng bạc, như thế là tướng tốt lành. Người đó có thể làm quan cao giữ nhiệm vụ trọng yếu của quốc gia.

Nếu Ấn đường lộ sắc vàng, đó chỉ là hình tướng của người bình thường, nhưng cũng chẳng lo lắng chuyện cơm áo. Tuy nhiên người này lại hiếm muộn con cái.

Nếu Ấn đường rất hẹp mà không cân xứng, lại có đường vân nhỏ, người đó sẽ chẳng có công trạng gì, kế thừa sự nghiệp của tổ tiên cuối cùng cũng sẽ phá bại, con cái chẳng có tài cán, cũng chẳng thể giúp chấn hưng gia nghiệp.

Sách xưa chép rằng: Người có Ấn đường tròn nổi cao sẽ làm trọng thần trong triều. Lại thêm cánh mũi trái phải đầy đặn tươi sáng, Nhân trung sâu rộng, cằm vuông tròn, người đó không hưởng bổng lộc của quốc gia thì tự mình cũng có khả năng tích tụ tài sản, có thể kiếm được nhiều tiền, trở nên giàu có.

Nếu Ấn đường hẹp lại nhỏ mà cằm không có râu, người đó từ nhỏ không chăm chỉ học hành, lớn lên chẳng thể đạt thành tựu.

Mắt trắng đen rõ ràng, đường quan vận hanh thông hiển đạt

Mắt nhỏ dài, trắng đen rõ ràng, mắt nhiều lòng đen, thần thái sáng rõ, người như thế anh em thân thích đều hiển đạt, có thể trợ giúp đắc lực cho vận thế của họ. Cho nên người này làm việc gì cũng thuận lợi, có quan vận, có thể làm quan lớn trong triều, từng bước dần dần được thăng quan.

Ngược lại, nếu mắt có nhiều lòng trắng là không thuận lợi, lại thếm mắt có sắc vàng sắc đỏ, như thế sẽ khắc hại cha mẹ, vợ và con cái, không rạng rỡ tổ tiên mà đa phần là họa hại, vợ cũng bị chồng khắc nên làm việc gì cũng không thuận lợi, con cái cũng gặp nhiều tai họa. Sản nghiệp theo đó cũng bị thất tán.

Sách xưa chép rằng: Người có 2 mắt tươi sáng rạng rỡ sẽ làm quan, không thành tướng trong triều cũng thành thị lang.

Nếu một người khi nhìn người khác, ánh mắt nghiêng lệch, lộ vẻ hoang mang không có thần, giữa đồng tử lộ sắc đỏ là tướng hung họa. Người như thế đa phần gặp nhiều tai họa, cuối đời có thể phải bỏ mạng dưới lưỡi đao của người khác.

Sơn căn lồi cao, cả đời phú quý

Nếu Sơn căn hẹp thấp, không nối liền với các bộ vị trên dưới, đem đến cho người khác cảm giác đứt đoạn chủ con cháu ít phúc mà gặp nhiều tai họa, sự nghiệp không thành công, gia tài bị phá hoại, khắc vợ hại con, mọi điều không thuận lợi.

Sách xưa chép rằng: Bộ vị Nguyệt bột nên cao tránh thấp, nên đầy đặn mà tươi sáng, mang đến cho người khác cảm giác tựa như ngọc lưu ly, đó là người tốt bụng, hiền lành, làm quan được dân tin yêu, tín nhiệm. Đương nhiên ở trong gia đình người này cũng được vợ hỗ trợ, cả đời được hạnh phúc, thuận lợi.

Nếu Sơn căn nhỏ hẹp mà lại nhọn, người đó cả đời gặp khốn đốn vất vả, gia nghiệp sớm bị tiêu tán, xử lý mọi việc chẳng được hài hòa thỏa đáng, gặp nhiều chuyện không may mắn.

Lông mày đen, thô dài quá tóc mai, tước vị cao quý, hưởng vinh hoa phú quý

Nếu lông mày thô đen, lại dài nhập vào tóc mai là tướng làm quan, bạn bè thân thích của họ đều là người phú quý hiển đạt, cha mẹ cũng rất giàu có, con gái cũng đều được kế thừa sự giàu có đó của cha mẹ, được hưởng vinh hoa phú quý.

Người có cặp lông mày ngắn, hoặc bên cạnh gần nhau, nối liền, sắc lông mày có màu đỏ, cha mẹ, con cái của người đó thường gặp tai họa, vận mệnh chẳng thể dài lâu.

Sách xưa chép rằng: Người có lông mày thanh tú nhỏ dài là người trọng tình nghĩa, kính trọng người già, yêu thương trẻ nhỏ, tiếng tăm và uy danh vang xa, được mọi người kính nể.

Nếu người có lông mày thưa mỏng, xương mày nổi cao, là tướng xấu, tính tình gấp gáp, thích tranh đấu, chấp điều nhỏ nhặt.

Nếu người có lông mày tương đối hài hòa, tựa như lá liễu chủ gian xảo, dùng đủ mọi thủ đoạn để có thể đạt được mục đích, thậm chí đánh đổi cả tình thân cốt nhục.

Người có lông mày khuyết lõm, xoáy tròn, thể hiện trong nhà người đó có anh chị em song sinh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt làm quan chi tiết qua Lục diệu

Những loài thực vật phong thủy –

Hồ lô Hồ lô thuộc giống thực vật dây leo. Đây leo chằng chịt, quả kết sai trĩu, hạt nhiều, người ta cho đó tượng trưng cho loại cây mang ý cát tường, con cháu thịnh vượng. Chi "mạn" cùng hiệp âm với “vạn", ngụ ý muôn đời dài lâu, bền vững. Dân gian c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hồ lô

Hồ lô thuộc giống thực vật dây leo. Đây leo chằng chịt, quả kết sai trĩu, hạt nhiều, người ta cho đó tượng trưng cho loại cây mang ý cát tường, con cháu thịnh vượng. Chi “mạn” cùng hiệp âm với “vạn”, ngụ ý muôn đời dài lâu, bền vững. Dân gian cho rằng: hồ lô cát tường và có thể tránh tà khí. Trong Tết Đoan Ngọ của dân gian, người ta thường cắm cành hoa đào trong hồ lô.

Khí công hiện đại ngày nay đã xem xét và chứng minh rằng hồ lô có chức năng cách tuyệt khí trường. Tục ngữ có câu “bất tri hồ lô ly mại đắc hà dược”, tức là khó có thể thấu suốt những vật trong hồ lô. Phân tích từ góc độ trường khí phong thủy, những đường nét uốn lượn của hồ lô có bao hàm hình chữ “S” đó bã chức năng thần kỳ giữa ranh giới phân định của Âm dương thái cực. Chính vì vậy, hồ lô thường được ứng dụng trong việc hoá giải hung khí trong phong thủy.

ngo-thu-du

Ngô Thù Du

Cây Ngô thù du: có hương thơm ngào ngạt, phát triển nhất vào dịp tết Trùng Cửu (mùng 9 tháng 9 âm lịch), màu đỏ đậm, dân gian vào những ngày này thường cắm Thù Du, làm men Thù Du để tránh tà. Trong sách Quần phương phổ có viết: “Ngày mùng chín tháng chín ngắt hoa Thù Du cài lên mủ có thể tránh được tai ương, trừ được ma quỷ”. Trong bài văn Thái bình ngự lâm cũng có dẫn sách Tạp Ngũ Hành Chí cũng viết: Trồng cây Ngô Thù Du bên cạnh nhà có thể tăng tuổi thọ, giải trừ được bệnh hoạn.

Trong Hoa kính cũng có nói: ‘Tinh tắc hà biên, dĩ chủng tủ thụ, diệp lạc kỳ trung, nhân ẩm thị thủy, vĩnh vô ôn dịch” (nghĩa là: bên cạnh giếng hoặc bên sông nên trồng loại cây này, khi lá rơi xuống giếng đó, con người uống nước đó, sẽ không bao giờ mắc bệnh tật). Đời Hán bên Trung Hoa có tranh Cát tường vẽ Ngô Thù Du, để thêu có thêu hình Ngô Thù Du. Tết Trùng dương của Trung Quốc vào ngày 9 tháng 9 hàng năm cũng thường gọi là ngày “hội Thù Du”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những loài thực vật phong thủy –

Đường vân trên ngón tay cái bật mí điều gì về bạn?

Vân mắt Phật, mắt rồng, Thứ tài... đều là những vân đặc biệt trên ngón tay cái, mang lại nhiều điều cát lành, giúp cuộc đời chủ nhân gặp
Đường vân trên ngón tay cái bật mí điều gì về bạn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– hung hóa cát, trăm sự hanh thông.

 
Duong van tren ngon tay cai bat mi dieu gi ve ban hinh anh
 
1. Vân mắt Phật (mắt Khổng Tử)   Vân mắt Phật hay còn có các tên gọi khác như vân Phật tâm, vân Khổng Tử, vân mắt phượng, vân Phu tử, Khánh vân... Đây là đường vân nối giữa đốt thứ nhất và thứ hai của ngón tay cái.    Người có vân mắt Phật thông minh lanh lợi, học hành chăm chỉ, giỏi giang, tiền độ xán lạn. Thông thường, người này xuất thân trong gia đình có điều kiện kinh tế tốt, hoặc có thể lập đại nghiệp bằng con đường thi cử, cuộc sống gặp nhiều may mắn, ít phải trải qua sóng gió. Cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, tình cảm mĩ mãn. Một đời gặp hung hóa cát, vận mệnh tốt đẹp.    2. Vân Long nhãn (mắt rồng)   Phần giữa đốt thứ nhất và đốt thứ hai của ngón tay cái có đường vân hình tròn, được gọi là vân Long nhãn (mắt rồng).    Chủ nhân của đường vân đặc biệt này sở hữu trí tuệ cao siêu hơn người, tài năng xuất chúng. Nếu có thêm đặc điểm ngũ quan không khuyết hãm thì cuộc sống càng giàu sang, phú quý.   
Xem thành công thất bại qua đường vân ngón tay áp út
Một vài dấu hiệu về đường vân trên ngón tay áp út sẽ bật mí tính cách, sự thành bại trong sự nghiệp của mỗi người.
3. Vân Lãnh tụ   Đốt thứ nhất của ngón tay cái có hai đường vân chạy gần như song song với nhau được gọi là vân Lãnh tụ. Nếu có đường vân đặc biệt này, chứng tỏ bạn có khí phách oai hùng, sức kiên trì bền bỉ, lại giỏi mưu lược, biết tiến thoái đúng thời điểm, có tài làm lãnh đạo, dẫn dắt tập thể.    4. Vân Quyền quý   Đường vân Quyền quý có hình sao, còn được gọi là vân Kim Ấn. Có đường vân này chứng tỏ cuộc sống của chủ nhân suôn sẻ, phú quý song toàn, đây là đường vân mang lại nhiều điều cát tường.    5. Vân Thứ tài   Phần nối giữa hai đốt ngón tay cái có vân hình lưới, gồm nhiều đường vân ngang dọc đan xen nhau, được gọi là vân Thứ tài. Chủ nhân của đường vân này thông minh, lanh lợi, phản ứng nhanh nhạy, thích hợp với lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, tài phúc song toàn.    Nếu vân Thứ tài nằm gần đốt thứ nhất hơn, cho thấy sự phát đạt sẽ tới sớm hơn, nếu gần đốt thứ hai thì muộn hơn một chút.    6. Vân Văn ước   đường vân đặc biệt trên ngón tay cái là vân Văn ước, bạn thuộc tuýp hướng ngoại, trí tuệ thông minh, tài hoa xuất chứng, học hành giỏi giang, tự mình lập đại nghiệp, cuộc sống tuy vất vả nhưng gặt hái nhiều thành công.

Ngoài ra bạn cũng có thể xem chỉ tay và xem tướng các bộ phận khác trên cơ thể để đoán biết vận mệnh của mình nhé!
  Việt Hoàng     Dự đoán tương lai giàu nghèo qua những đường vân đặc biệt trong bàn tay
Trong lòng bàn tay, ngoài 3 đường chỉ tay cơ bản là đường Tâm đạo, Sinh đạo và Trí đạo, còn có những đường vân đặc biệt khác như vân đảo, vân lưới... Mỗi đường

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đường vân trên ngón tay cái bật mí điều gì về bạn?

Cưới vợ cho ma - Tập tục rùng rợn của người Trung Quốc

Kết hôn với người chết còn gọi là âm hôn, nghĩa là làm đám cưới cho người đã chết, một trong những phong tục có từ lâu đời của người Trung Quốc.
Cưới vợ cho ma - Tập tục rùng rợn của người Trung Quốc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật
Cuoi vo cho ma - tap tuc rung ron cua nguoi Trung Quoc hinh anh
 
Theo tục lệ của người Trung Hoa cổ xưa, những thanh niên trẻ sau khi đã đính hôn và chờ đợi đến ngày cưới nhưng không may đột ngột qua đời thì phải giúp họ hoàn thành hôn lễ, nếu không hồn ma của họ sẽ làm loạn, khiến cho gia đình bất an. Bởi vậy, nhất định phải cử hành âm hôn, sau đó mới tiến hành mai táng, chôn cả người chết và “vợ” hoặc “chồng” vừa mới cưới cùng nhau.
 
Theo phong tục, trai gái vị thành niên nếu không may qua đời trước khi kết hôn thì những gia đình giàu có sẽ tìm người sống để tiến hành gả cưới, còn những gia đình bình thường thì sẽ tìm những gia đình cùng cảnh ngộ có con mất sớm giống gia đình mình để gả cưới.
 
Còn với những thiếu niên chưa trưởng thành không may chết sớm, do cha mẹ quá thương xót con nên vẫn nhất quyết tìm đối tượng cho con vì họ cho rằng như vậy mới làm tròn bổn phận của đấng sinh thành. Thật ra, đây chỉ là một hành động gửi gắm tình thương của cha mẹ.
 
Ngoài ra, người xưa thường tin vào phong thủy mồ mả, họ cho rằng những ngôi mộ cô độc sẽ ảnh hưởng tới sự hưng thịnh của hậu duệ sau này. Thời đó cũng có những nhà phong thủy vì muốn kiếm tiền bất chính nên xúi giục nhiều gia đình cử hành cưới cho người chết. Bởi vậy, tục này thường chỉ diễn ra trong những gia đình giàu có.
 
Âm hôn xuất hiện từ những năm trước triều Hán. Do hao tốn tiền của, sức người trong xã hội và vô nghĩa nên đã từng bị nghiêm cấm, nhưng không vì thế mà phong tục này bị triệt tiêu. 
 
Tục cưới vợ cho người chết thực sự hưng thịnh trong thời nhà Tống. Theo ghi chép trong Tạc mộng lục, phàm là những nam nữ thanh niên chưa kết hôn không may chết sớm thì cha mẹ bắt buộc phải nhờ “quỷ mai mối” đi dạm hỏi cưới xin, sau đó tiến hành xem quẻ. Nếu xem quẻ đồng ý cho cưới thì hồn ma của đôi nam nữ sẽ được may áo cưới rồi cử hành hôn lễ, chôn cất hai người cùng một mộ.
 
Thời nhà Thanh, những cô gái được chôn cùng người chết đều phải còn trinh, mãi tới tận cuối đời Thanh hủ tục này mới dần biến mất.
 
Thông thường, kết hôn với người chết cũng phải thông qua người mai mối, hai bên gia đình qua nhà nhau dạm ngõ, đến lúc cử hành lễ hợp hôn cũng có thiệp hồng thông báo. Do âm hôn chỉ diễn ra một lần duy nhất nên không có khái niệm to, nhỏ, bởi vậy lễ vật nhà trai tặng cho nhà gái cũng chỉ là những lễ phẩm thông dụng.
 
Đến nay, cưới vợ cho ma đã không còn là một phong tục phổ biến trong xã hội, nhưng nó vẫn chưa hoàn toàn bị diệt vong. 
ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cưới vợ cho ma - Tập tục rùng rợn của người Trung Quốc

4 chòm sao nữ xinh đẹp thách thức thời gian

Nhưng 4 chòm sao nữ xinh đẹp bất chấp tuổi tác, càng già càng đẹp mặn mà dưới đây dường như chẳng lo lắng chút nào, họ vô tư sống và tận hưởng vẻ đẹp.
4 chòm sao nữ xinh đẹp thách thức thời gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phụ nữ như đóa hoa, sớm nở tối tàn, nhan sắc phai màu theo thời gian, thanh xuân ngắn ngủi, ai cũng tiếc nuối. Nhưng 4 chòm sao nữ xinh đẹp bất chấp tuổi tác, càng già càng đẹp mặn mà dưới đây dường như chẳng lo lắng chút nào bởi những điều trên, họ vô tư sống và tận hưởng vẻ đẹp đúng tuổi.


► ## cập nhật thông tin Tử vi hàng ngày, Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất gửi tới bạn đọc

4 chom sao nu xinh dep thach thuc thoi gian hinh anh
 

Hổ Cáp

  Chòm sao nữ xinh đẹp Hổ Cáp có những yêu cầu nhất định đối với cuộc sống của mình, tuy không quá xa xỉ nhưng cũng không hề tầm thường. Ngay từ thời trẻ họ đã chăm chút nhan sắc, chú trọng dưỡng sinh, duy trì nếp sinh hoạt lành mạnh. Vì thế, năm tháng trôi qua nhưng Hổ Cáp vẫn rất tươi tắn, rạng rỡ, càng ngắm càng thấy hấp dẫn.  

Thiên Bình

  Thiên Bình là chòm sao nữ xinh đẹp từ tấm bé, họ thích chưng diện, có khí chất kiêu sa, rất biết hưởng thụ, mỗi ngày đều chú ý tới vẻ bề ngoài. Thêm vào đó, Thiên Bình còn là cô nàng rất lạc quan, lúc nào cũng vui vẻ, thoải mái, hiếu học, hướng về phía trước với tâm thế tốt nhất. Bởi vậy, Thiên Bình càng lớn tuổi càng đẹp, nét đẹp của sự đằm thắm, dịu dàng và từng trải.

4 chom sao nu xinh dep thach thuc thoi gian hinh anh
 
Song Tử

  Trong 12 chòm sao nữ, Song Tử là cô nàng phóng khoáng, lanh lợi nhất, lúc nào cũng vô lo vô nghĩ, lạc quan, cố gắng vượt khỏi những chuyện không vui vẻ. Họ điển hình cho tuýp người cầm lên được, đặt xuống được, càng ngày càng phấn khởi và rạng rỡ. Vẻ đẹp của Song Tử là sự ung dung tự tại, phớt đời, rất có cá tính riêng, không bị lu mờ bởi thời gian. Càng sống họ càng thú vị, càng tự tin, càng tỏa sáng bởi trí tuệ.  

Cự Giải

  Cự Giải là chòm sao nữ xinh đẹp nhờ nội tâm, tính cách thiện lương, hài hòa, bản tính tốt bụng. Với người lúc nào cũng hiền hòa, nhu thuận như vậy thì vẻ đẹp của sự phúc hậu tỏa sáng bừng. Theo thời gian, tuổi tác lớn dần thì khí chất của nội tâm càng bộc lộ rõ ràng, mang tới cho Cự Giải sự đáng mến, gần gũi, thu hút ánh nhìn của những người xung quanh.
4 cô nàng hoàng đạo mắc chứng lo lắng trước hôn nhân 1001 cách thu hút đàn ông “cực dễ” của Chòm sao nữ thông minh Top 5 sao nữ may mắn sở hữu ưu điểm “vạn người mê”
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 chòm sao nữ xinh đẹp thách thức thời gian

Con đường sự nghiệp của người tuổi Dậu

Có thể nói cuộc đời của người tuổi Dậu gặp phải khá nhiều khó khăn, trắc trở. Vào những thời điểm quyết định, nếu xử lý công việc không tốt họ sẽ gặp phải
Con đường sự nghiệp của người tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhiều khó khăn, thất bại trên con đường sự nghiệp.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Họ không phải là những người luôn có cuộc sống sung túc nhưng cũng không đến mức nghèo khổ, chật vật. Tuy gia cảnh từ nhỏ có thể gặp nhiều khó khăn hơn người khác nhưng với ý chí kiên cường chắc chắn họ sẽ vượt qua. Nếu biết nhìn nhận thực tế và luôn giữ vững tinh thần lạc quan, không chạy theo hư vinh thì cơ hội thành công dành cho họ sẽ rất lớn.

Với óc sáng tạo, tầm nhìn xa, trông rộng, biết định hướng cho tương lai, thái độ làm việc nhiệt tình, chu đáo, người tuổi Dậu luôn đi trước người khác một bước trong mọi việc. Cũng chính vì những ưu điểm đó mà tuy có tài nghệ thuật, âm nhạc, văn học nhưng rất ít người tuổi Dậu hứng thú khi theo đuổi những ngành nghề này.

Ngay từ nhỏ, người tuổi Dậu đã có nhiều ước vọng lớn lao. Họ sống có lý tưởng cao đẹp nên họ thường được rất nhiều người yêu mến, giúp đỡ, tạo cơ hội tốt để phát triển sự nghiệp.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con đường sự nghiệp của người tuổi Dậu

Bài học nhân cách qua câu chuyện lão thợ khóa chọn đồ đệ

Bất kể làm ngành nghề gì, đều phải nói đến một từ ‘đạo đức’. Thế nên, đức chính là tiêu chí nhân cách để chọn đồ đệ của lão thợ khóa trong câu chuyện này.
Bài học nhân cách qua câu chuyện lão thợ khóa chọn đồ đệ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bất kể làm ngành nghề gì, đều phải nói đến một từ ‘ĐỨC’ hay nhân cách, phúc tài bổng lộc đều từ đức mà sinh thành, sự nghiệp có trường tồn hay không cũng từ đức mà ra. Thế nên, đức chính là tiêu chí chọn đồ đệ của lão thợ khóa trong câu chuyện này.

Lão thợ khóa cả đời làm ra không biết bao nhiêu khóa, kỹ thuật cao siêu, giá cả cũng hợp lý, được mọi người vô cùng kính trọng; điều quan trọng hơn nữa là, lão là người chính trực, mỗi lần sửa khóa, lão đều cho người ta biết họ tên và địa chỉ của mình, bảo rằng: “Nếu như nhà anh có trộm, chỉ cần dùng chìa khóa mở cửa nhà anh mà đến tìm tôi, tôi sẽ thay anh tìm ra tên trộm, không thu phí của anh một đồng”.

Chọn đồ đệ

Thời gian dần trôi, lão thợ khóa càng già đi, nhưng tay nghề càng lúc càng tinh xảo, vì muốn kỹ nghệ của ông không bị thất truyền, mọi người thay ông xem xét tìm kiếm đồ đệ. Cuối cùng, lão thợ khóa chọn được hai người trẻ tuổi, cả hai đều rất có năng lực, lão vô cùng quý mến họ, định rằng sẽ đem hết kỹ nghệ tinh xảo của mình truyền thụ cho họ.

Sau một thời gian ngắn, cả hai người đều học được không ít kỹ thuật, thế nhưng, chỉ có một người có thể được chân truyền, vì vậy lão thợ khóa quyết định thử thách 2 người họ một chút.

Ngày hôm đó, lão thợ khóa chuẩn bị hai cái két sắt, đặt ở hai phòng khác nhau, rồi sai hai đồ đệ mở ra, người nào nhanh sẽ thắng. Khảo nghiệm này đối với họ mà nói rất đơn giản, vì cả hai đều có kỹ năng thành thục, chính yếu chỉ là so thời gian dài ngắn.

Kết quả là, người thứ nhất không đến 10 phút đã mở được két, còn người thứ hai lại mất đến nữa tiếng đồng hồ. Ai cũng cho rằng người thứ nhất thắng cuộc là điều không có gì bàn cãi vì cách biệt giữa hai người quá lớn, chỉ cần đợi lão thợ khóa tuyên bố ai là người chiến thắng thôi. Mọi người chờ thật lâu nhưng lão thợ khóa vẫn không có động tĩnh gì.

Trong lúc mọi người đang thắc mắc, lão thợ khóa bèn hỏi đồ đệ thứ nhất:

“Con là người mở ra trước hết, vậy con thấy trong két có cái gì?”.

Người này ánh mắt sáng rỡ, phấn khích trả lời thầy:

“Thưa thầy, bên trong có rất nhiều tiền, số tiền này có thể đủ dùng cho cả nữa đời người! Con chưa bao giờ nhìn thấy nhiều tiền như vậy!”

Lão thợ khóa quay đầu lại hỏi đồ đệ thứ hai câu hỏi giống như vậy, người này ấp úng cả buổi mới nói:

“Thưa thầy, con không thấy bên trong có cái gì cả, thầy chỉ bảo con mở khóa, thì con mở khóa, chứ con không có xem trong két có cái gì hết”.

Lão thợ khóa nghe xong, hết sức vui mừng, trịnh trọng tuyên bố đồ đệ thứ hai là người ông chọn nối nghiệp mình. Thấy vậy, đồ đệ thứ nhất không phục, mọi người cũng rất khó hiểu.

Đức tính cao quý

Lão thợ khóa mỉm cười, nói:

“Bất kể làm ngành nghề gì, đều phải nói đến một từ ‘ĐỨC’, nhất là nghề của chúng ta, đạo đức hành nghề còn phải cao hơn nữa. Một người có được một tâm hồn tốt đẹp, thế giới trong mắt anh ta, sẽ trở nên trong sáng thanh tịnh, và anh ta sẽ là một người có đạo đức cao quý; đồng thời, phẩm chất của một người sẽ nhào nặn nên tâm hồn của mình, hình thành nên một nhân cách cao thượng.

Tôi chọn đồ đệ là muốn bồi dưỡng cho người đó trở thành một người thợ khóa tuyệt vời, người đó nhất định phải được điều ‘trong lòng chỉ có làm khóa’, chứ không có thứ gì khác, đối với tiền tài nhìn mà như không thấy; nếu không, trong lòng có tư niệm, chỉ cần hơi có chút tham lam, trèo cửa vào nhà, mở két sắt trộm tiền, vậy sẽ dễ như trở bàn tay, cuối cùng chỉ có thể hại người hại mình mà thôi.

Những người làm khóa chúng ta, trong lòng mỗi người đều phải có một cái khóa không thể mở, đó chính là ‘không vì lợi mình, chỉ vì lợi người’, chỉ giúp đỡ người khác mở khóa của họ mà thôi!”

Không gì có thể quan trọng hơn thành thật, đây là cột trụ tinh thần. Danh dự và phẩm hạnh một cá nhân không ai có thể bỏ qua được, chính là: tự tôn, tự tin và chính trực. Như thế, bạn sẽ có được sự tôn kính chân thành nhất của người khác dành cho mình, và bạn mới làm được việc tuân thủ phẩm cách trân quý nhất của thế giới này – ĐẠO ĐỨC.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài học nhân cách qua câu chuyện lão thợ khóa chọn đồ đệ

Cách khai quang điểm nhãn cho Tỳ Hưu

Theo truyền thuyết Tương truyền rằng Tỳ Hưu là con út trong số 9 con của Rồng. Khi sinh ra Tỳ Hưu có dị tật là không có hậu môn nên sau vài ngày thì chết. Ngọc Hoàng Thượng đế thương tình cho Tỳ Hưu tái sinh về trần gian dưới dạng thần thú để phù hộ chúng sinh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tỳ Hưu có đặc điểm là rất tham ăn và chỉ ăn vàng bạc nhưng không nhả ra (không có hậu môn) nên được tin là giữ được tài lộc cho gia chủ. Nhưng nếu tỳ hưu không được khai quang đúng cách sẽ không có tác dụng bảo vệ và thu hút tài lộc về cho gia đình bạn.

Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu các cách khai quang cho tỳ hưu.

khai quang tỳ hưu đeo tay khai quang tỳ hưu đeo cổ khai quang tỳ hưu trang sức khai quang tỳ hưu phong thủy khai quang tỳ hưu ở chùa khai quang tỳ hưu như thế nào khai quang tỳ hưu là gì khai quang tỳ hưu bằng lá bưởi khai quang tỳ hưu cách điểm nhãn tỳ hưu cách điểm nhãn cho tỳ hưu cách khai quang điểm nhãn tỳ hưu cách khai quang điểm nhãn cho tỳ hưu ( kỳ hưu ) cách khai quang tỳ hưu đeo tay cách khai quang tỳ hưu đeo cổ cách khai quang tỳ hưu phong thủy cách khai quang tỳ hưu cách khai quang nhẫn tỳ hưu cách khai quang cho tỳ hưu

Cách khai quang tỳ hưu tại chùa

– Cách khai quang tốt nhất cho Tỳ hưu là nên đặt trên chùa để hấp thụ linh khí (các sư thầy dung mật tông và cảm xạ học để thổi phép truyền năng lượng cho tỳ hưu). Khi đó tỳ hưu phát huy công năng phong thủy sẽ bảo vệ và thu hút tài lộc về cho gia đình bạn.

– Tỳ hưu được bịt mắt bằng duy băng màu đỏ và các sư thầy “chú” theo thông tin gia chủ, công việc của gia chủ, sau đó chọn ngày giờ đẹp và phương vị tốt để gia chủ tự tay an vị Tỳ hưu tại nhà hay cơ sở kinh doanh và mở mắt khai quang Tỳ hưu, “chú” cho Tỳ hưu tốt nhất là Tỳ hưu phải được đặt trên điện Tam Bảo của chùa để Tỳ hưu hấp thụ linh khí tốt nhất.

– Bạn nên chú ý là các sư thầy chỉ dùng mật tông và cảm xạ học để “chú” cho Tỳ Hưu, chọn ngày giờ đẹp và phương vị tốt để bạn an vị, còn việc mở mắt cho Tỳ hưu để nhận dạng chủ là bạn phải làm tại gia đình của tại mình thời điểm ngày giờ đẹp thầy cho nên không có chuyện các thầy lấy mất lộc của bạn, Sư thầy đang giúp bạn đặt được nhiều may mắn và tài lộc nhất.

Cách khai quang tỳ hưu tại nhà

– Đầu tiên, bạn nên chọn một ngày đẹp.

– Đặt Tỳ Hưu quay về phía Thần Tài.

– Đứng phía sau Tỳ Hưu hai bàn tay chắp vào hình dấu +, mắt nhắm vào và cầu ước điều mình muốn, bạn chú ý, phải thật thành tâm thì mới linh.

– Sau khi ước, quay Tỳ Hưu lại phía mình.

– Lấy khăn bông thấm một chút nước chè điểm (chấm) vào mắt Tỳ Hưu, điểm mắt trái trước sau đó điểm mắt phải, lặp lại 3 lần.

– Tay trái giữ chắc Tỳ Hưu, dùng ngón cái tay phải xoa đầu Tỳ Hưu, xoa từ phía trước ra phía sau, lặp lại 3 lần.

– Thả lỏng tai, tháo dây vải đỏ ở cổ Tỳ Hưu để Tỳ Hưu bắt đầu đi ăn tiền. Đến đây thì việc khai quang cho tỳ hưu đã được hoàn tất.

Cách đánh thức tỳ hưu

Tỳ Hưu sau khi “thỉnh” (mua) về phải bịt mắt lại, đợi tới ngày khai quang mới mở ra.

Ngày khai quang bạn cần chuẩn bị đầy đủ các thứ sau:

1, Thất bảo thạch (7 viên đá quý)
2, Gạo ngũ cốc tạp
3, Sợi ngũ sắc
4, Sợi ngũ đế
5, Linh đang
6, Một tờ giấy đỏ, bên trên tờ giấy viết bài chú.

Lần lượt đổ ba món đầu tiên vào bụng Tỳ Hưu, sau đó treo sợi ngũ đế và Linh đang lên trên Tỳ Hưu, rồi chuẩn bị “niệm”.

Bài niệm chú phước lành cho tỳ hưu:

*Kim quang nhất khí, Tỳ Hưu cao tường, tiến tài tiến quý, lợi lộ hanh thông.
*Kim quang nhị khí, Tỳ Hưu phúc giáng, phúc lộc mãn đình, phúc tinh cao chiếu.
*Kim quang tam khí,Tỳ Hưu điểm hóa, nam nạp bách phúc, nữ nạp thiên tường càn, cát lợi nguyên hanh.

– Sau khi bạn Niệm chú xong đặt bài chú vào bụng Tỳ Hưu, như thế Tỳ Hưu đã có linh khí. Chờ sau khi hương cháy hết là có thể đặt Tỳ Hưu ở quầy thu ngân, hoặc phòng khách, điều quan trọng nhất là đầu Tỳ Hưu phải quay ra cửa chính hoặc cửa sổ.

– Thờ Tỳ Hưu mỗi ngày phải đốt một khoanh hương vòng để Tỳ Hưu vấn (ngửi), hoặc đặt bên cạnh Tỳ Hưu một ly nước cũng được. Như thế Tỳ Hưu mới có sức đi kiếm tiến cho chủ nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách khai quang điểm nhãn cho Tỳ Hưu

Mệnh có Thiên Phủ - lá số của người lãnh đạo

Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên Phủ là dương Thổ, ngôi sao thứ nhất trong chòm Nam Đẩu, nền tảng của phú quý, chưởng quản phúc, quyền, tại số nắm giữ tài
Mệnh có Thiên Phủ - lá số của người lãnh đạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên Phủ là dương Thổ, ngôi sao thứ nhất trong chòm Nam Đẩu, nền tảng của phú quý, chưởng quản phúc, quyền, tại số nắm giữ tài lộc, có khả năng giải trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ.


Menh co Thien Phu - la so cua nguoi lanh dao hinh anh
 
Lộc khố của Thiên Phủ chủ về tiền tài có được từ quan tước, bổng lộc chứ không phải tiền tài do tích lũy nên không thích hợp với nghề kinh doanh mà có lợi cho công chức.
 
Thiên Phủ là kho của trên trời, lại đứng đầu các sao trong chòm Nam Đẩu gồm đủ trí tuệ và tài năng, thích điều khiển, chỉ huy người khác chứ không thích bị người khác quản chế, có năng lực lãnh đạo nhưng khá bảo thủ, thiếu sáng tạo, thường chỉ biết thuận theo nếp cũ, có khả năng thích ứng với sự biến đổi của môi trường xung quanh nhưng thiếu tính độc lập, chỉ phát triển tuần tự từng bước trong điều kiện ổn định, thiếu xung lực, an phận nên sao này hợp với mệnh nữ hơn. 
 
Đánh giá về tính chất cát hung của sao Thiên Phủ cần phải quan sát miếu hãm của sao Thiên Tướng tức “phùng Phủ khán Tướng” hay “phùng Tài khán Ấn”. Nếu sao Thiên Tướng nhập miếu thì tuy Thiên Phủ chỉ có độ sáng trung bình cũng là cát lợi. Ngược lại, nếu sao Thiên Tướng ở cung bình cho dù Thiên Phủ nhập miếu cũng ít phát huy được khả năng. Qua đó có thể thấy được rằng Thiên Phủ thiếu tính độc lập.
 
Sao Thiên Phủ có khả năng giải trừ tai ách, có thể biến Kình Dương, Đà La thành tùy tùng, biến Hỏa, Linh thành phúc. Nếu gặp Tử Vi có thể tăng cường khả năng quản lý, lãnh đạo. Nếu gặp Thái Dương, Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu sẽ có địa vị cao. Nếu gặp Tử Vi, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa chủ về phú quý song toàn. Nếu gặp Lộc Tồn, Vũ Khúc sẽ thành bậc đại phú. Nếu gặp Không vong hoặc bị Không vong hội chiếu sẽ dễ trở nên đơn độc. Nếu đứng một mình chủ về có tâm rình rập, chiếm đoạt. 
 
Sao Thiên Phủ kỵ 4 sát tinh Dương, Đà, Hỏa, Linh xung phá sẽ tổn hại đến giàu sang. Nếu gặp Không, Kiếp càng không nên theo kinh doanh để tránh phí công vô ích. Thiên Phủ tọa Tài Bạch và Điền Trạch chủ về tiền của dồi dào, có vận thiên tài (của ngoài luồng) có tài quản lý tiền của. Cung Nô Bộc và Phụ Mẫu gặp hãm là vô dụng. Tọa Huynh Đệ thì bình thường, không có gì nổi bật.
 
Sao Tử Vi và Thiên Phủ cùng trấn mệnh tại Dần, Thân hoặc nằm tại cung Tỵ, Hợi hội chiếu cung mệnh là cách “Tử Phủ đồng cung”, chủ về một đời giàu có. Sao Tử Vi hoặc Thiên Phủ miếu vượng, đóng tại mệnh, cung vị Tam phương Tứ chính có cát tinh hội chiếu là cách “Tử Phủ triều viên”, chủ về bổng lộc cực hậu.
 
Sao Thiên Phủ trấn mệnh tại Tuất, Thìn không bị sát tinh xung phá là cách “Thiên Phủ triều viên”, cũng là mệnh giàu sang, phú quý. Sao Thiên Phủ (hoặc Thiên Tướng) trấn mệnh, sao Thiên Tướng (hoặc Thiên Phủ) nằm tại cung Tài Bạch hội chiếu không bị sát tinh xung phá là cách “Phủ Tướng triều viên”, chủ về phú quý song toàn. Thiên Phủ trấn mệnh tại Sửu, Mùi nhập miếu lại có Thái Dương, Thái Âm kèm hai bên là cách “Nhật Nguyệt giáp mệnh”, chủ về một đời giàu có.
► Xem thêm: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh chuẩn xác

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mệnh có Thiên Phủ - lá số của người lãnh đạo

7 điều nhất định phải làm trước khi kết thúc năm cũ

Năm mới 2016 bắt đầu bằng một kỳ nghỉ kéo dài 09 ngày. Dù bạn sẽ nghỉ ngơi, đi du lịch hay làm việc trong ngày này thì hãy nhớ dành thời gian để làm 07 điều tiễn năm cũ và đón năm mới sắp đến nhé!
7 điều nhất định phải làm trước khi kết thúc năm cũ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nhìn lại 1 năm qua mình đã làm được những gì. Cái gì nằm trong kế hoạch vẫn chưa làm được thì mau mau hoàn thành, còn nhắm không thể làm kịp thì cho qua.
Đừng chỉ nhìn vào thành công, hãy đối mặt với những thất bại để có thể rút kinh nghiệm cho một năm mới hoàn hảo hơn.

2. Cho qua những chuyện buồn, những cảm xúc tiêu cực hãy tiễn đi hết. Bạn có thể tự thưởng cho mình một chuyến đi chơi xa vào cuối năm để giải tỏa hết tất cả những tiêu cực trong năm qua. Còn bao nhiêu ngày phép, xõa hết đi nào. Bạn không thể tự dằn vặt bản thân mình hoài với những điều chưa tốt, những chuyện buồn trong năm cũ.

3. Chấm dứt hết tất cả các khoản nợ. Chẳng ai muốn năm mới lại thiếu nợ người khác đúng không nè và cũng đừng trở thành 1 con nợ “xuyên thời gian” cả 2 năm như vậy. Nó hơi kì, hơi dai. Năm sau có mượn tiền chắc không còn ai dám cho mượn.

4. Cũng đừng để nợ ai một lời xin lỗi. Có một vài mối quan hệ bị rạn nứt, ngay cả khi bạn không phải là người có lỗi, hãy cho cả 2 một cơ hội khác để cải thiện bằng cách xin lỗi trước. Đảm bảo một năm mới của bạn sẽ vui vẻ và ý nghĩa hơn rất nhiều. Hoặc ít nhất, bạn cũng cảm thấy nhẹ lòng vì bản thân đã dám làm 1 điều gì đó cho người khác.


5. Và tất nhiên, hãy dũng cảm đi đòi nợ. Thời gian cuối năm là lúc bạn cần nhiều tiền nhất để mua sắm, để chi trả rất nhiều khoản, nếu ai đó đang nợ, hãy khéo léo đòi lại vì quyền lợi của mình. Chẳng hạn như 1 status ngắn trên Facebook.


6. Thay áo cho không gian sống. Năm mới, cái gì cũng phải mới. Hãy làm 1 chút gì đó để không gian sống trở nên mới hơn, đẹp hơn. Thay drap giường, giặt sạch rèm cửa, lau chùi tất cả ngóc ngách trong nhà,…Bạn sẽ cảm thấy tràn đầy năng lượng khi không gian sống thay áo mới cho mà coi.

7. Tút tát nhan sắc bản thân. Hãy để bản thân lung linh tỏa sáng trong dịp Tết. Cả 1 năm rồi, bạn đã dành ra bao nhiêu thời gian để chăm chút cho bản thân? Tạn dụng dịp này mà làm mới bản thân luôn nào. Đừng ngại tốn kém 1 chút, mua sắm thêm quần áo mới, chỗ nào xấu thì đi cải thiện ngay, ý mình là tóc tai chẳng hạn

Webtretho.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 điều nhất định phải làm trước khi kết thúc năm cũ

Lễ nào là lễ trọng ?

Đây là câu hỏi phổ biến của nhiều gia đình: -Trong một năm có nhiều lễ giỗ: Giỗ cha, mẹ ,ông , bà, cụ , kỵ .v.v... thì giỗ nào quan trọng hơn cả ?
Lễ nào là lễ trọng ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Sau khi an táng xong, có lễ ba ngày, 49 ngày, 100 ngày, lễ giỗ đầu, lễ giỗ thứ hai.v.v...  lễ nào là lễ chính ?

Đáp: Thời xưa chưa thấy ghi trong điển lễ, nhưng thời nay lại là vấn đề rất thiết thực, vì nhà nào cũng vậy con cháu nội ngoại công tác cư trú phân tán mỗi người một nơi, không mấy gia đình không có người đi xa, trong một năm chỉ có điều kiện tụ hội gia đình một hoặc hai lần nhân ngày lễ trọng của gia đình, hoàn cảnh kinh tế eo hẹp, muốn mời bà con khách bạn trước là tới dự lễ gia tiên cùng thoả nguyện tâm linh, sau là để tỏ tình thân hiếu, không thể rải ra nhiều lần, vậy phải xác định tập trung vào lễ chính.

Về lễ giỗ thì phong tục các nơi nói chung đều thống nhất lấy giỗ cha mẹ là chính (chú ý cha mẹ của người tôn trưởng nhất trong nhà ) còn lễ tang thì phong tục mỗi nơi một khác. Có nơi chú trọng lễ 49 ngày là chính, có nơi lễ 100 ngày là chính, có nơi làm lễ 3 ngày xong xuôi tốt đẹp là được, bởi lẽ trong khi tang gia bối rối, việc thù đáp đối với thân bằng cố hữu và những người đến hộ tang có thể còn nhiều khiếm khuyết nên lấy lễ ba ngày làm lễ trọng, để nhân lễ này tang gia tạ ơn những người săn sóc cha mẹ mình khi đau yếu và giúp đỡ gia đình lo xong phần an táng. Có nơi coi trọng lễ giỗ đầu (gọi là "Tiểu tường") có nơi coi trọng lễ giỗ thứ hai (gọi là "Đại tường", còn gọi là "giỗ hết"). Có lập luận cho rằng: Đã gọi là "Tiểu tường". Xét theo lễ nghi thì ngày nay kết hợp đại tường và đàm tế có nhiều nghi tiết phức tạp hơn tiểu tường (xem phần: "Cách tiến hành đàm tế").   

Tóm lại: Hoàn cảnh kinh tế, hoàn cảnh sinh hoạt thời xưa thời nay khác nhau, đây là vấn đề thiết thực, nhất là đối với những gia đình còn nhiều khó khăn về kinh tế và con cháu làm ăn xa nên tuỳ theo phong tục từng nơi. Hoàn cảnh cụ thể từng nhà mà thoả ước với nhau, có điều kiện thì hội tụ gia đình, ai ở xa nhớ ngày nhớ tháng làm lễ tưởng niệm cũng được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ nào là lễ trọng ?

Ngũ hành trong phong thủy khu vườn –

Ngũ hành bao gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là những đại diện của khí và chúng tượng trưng cho hình thể, màu sắc và giác quan. Mục đích trong khu vườn phong thủy là tạo ra một không gian nơi không một yếu tố nào trong Ngũ hành chiếm quyền thống trị và

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

là nơi cân bằng hai trạng thái âm dương.

av

Sinh

– Mộc sinh Hỏa
– Hỏa sinh Thổ
– Thổ sinh Kim
– Kim sinh Thủy
– Thủy sinh Mộc

Khắc

– Mộc khắc Thổ
– Thổ khắc Thủy
– Thủy khắc Hỏa
– Hỏa khắc Kim
– Kim khắc Mộc

Cảm nhận về một khu vườn rất khác nhau khi các yếu tố đạt được mức hài hòa và chúng ta có thể đạt được điều này trong việc quy hoạch các cây trồng và qua sự sắp xếp cẩn thận các nhà cửa và vật dụng trang trí.

Ý nghĩa của những đề cập này không nhằm nói rằng một khu 1 vườn phải có cái gì đó hội đủ mọi màu sắc hoặc mọi hình thể. Có một câu thành ngữ của người Trung Quốc đại ý nói rằng: “Màu sắc lòe loẹt sẽ làm lóa mắt người” và tất cả chúng ta cũng đã từng nhìn thấy nhũng khu vườn đủ các loại cây trồng, các vật trang trí và các điểm nổi bật với đủ sắc màu tươi sáng. Chúng tạo thành một màn trình diễn thị giác ngoài sự tưởng tượng và giữ chặt đôi chân của khách tham quan nhưng lại không mang đến cho người thưởng ngoạn cảm giác thư thái, an bình.

Khu vườn hợp phong thủy tuân thủ theo khuôn mẫu bài trí của thiên nhiên trong việc cố gắng tạo ra sự hài hòa về hình thể và màu sắc. Nó mang đến cho chúng ta khu vực giới hạn này để trải nghiệm và giới thiệu những kỳ hoa dị thảo ưa thích của chúng ta hoặc những tác phẩm điêu khắc lạ lùng cũng như những kiến trúc nhà cửa trong vườn cuốn hút hoặc nhũng bức vách màu sắc tươi sáng – miễn là về các phương diện phối cảnh, tỉ lệ và cân bằng phải thích hợp. Xem lại bảng “Ngũ hành tương sinh, tương khắc” để có thể thể hiện đúng các yếu tố cân bằng trong Ngũ hành.

Mộc:

Tất cả các loại thảo mộc đều thuộc hành Mộc và đương nhiên giữ vai trò thống soái trong bất cứ khu vườn nào. Thế nhưng hình dáng và màu sắc của chúng cũng như cách bài trí có thể gợi ý đến một hành khác. Để giới thiệu hành Mộc một cách đặc thù, chúng ta có thể dùng các loại cây hình trụ và các giàn đỡ có cột chống bằng gỗ.

Hỏa:

Hành Hỏa được gợi ý qua các cây có lá nhọn và thậm chí dù chỉ giới thiệu một mẫu vật duy nhất cũng có thể làm biến đổi một mảnh đất không sinh khí.

Những hình máng và hình kim tự tháp cũng là biểu trưng của hành Hỏa và nhiều giàn chống cho cây leo cũng thường có hình này. Khi dựng chúng hãy cẩn thận để chúng không bất cân xứng với cấu trúc và cây cối xung quanh chúng. Hành Hỏa rất mạnh. Chỉ một đốm đỏ tượng trưng cho hành này cũng đủ để chứng tỏ sự hiện hữu của chúng.

Thổ:

Hành Thổ được gợi ý qua các chất liệu tạo nên lối đi trải sỏi hoặc con đường còn chất liệu cơ bản nhất – đất vườn – lại không được trình bày trong khu vườn phong thủy vì nó được bao phủ bởi cây cối. Những hàng rào có chóp phẳng, những giàn chống và các lối đi dạo đều gợi ý đó là hành Thổ. Quá nhiều hình thể như vậy có thể chèn ép khí của một nơi và nó có thể dễ dàng thống trị khu vườn có tường hoặc cây rào bao quanh. Hãy đưa thêm vào các hình thể khác trong kiến trúc nhà cửa trong vườn và cố gắng làm thay đổi hình thể của cảnh quan này.

Kim:

Các hình thể tròn và vòm tượng trưng cho hành Kim. Các khía cạnh âm dương của hình thể này trong vườn có thể rất khác nhau. Những cây hình bầu dục cao (thông, thuộc bài…), lá san sát nhau có thể gây lo sợ khi đi luồn lách qua chúng. Mặt khác, một loạt cây dạng tròn, thuôn ở đỉnh trồng rải khắp vườn lại thể hiện niềm vui ngộ nghĩnh. Khu vườn toàn một màu trắng có thể mang đến một cảm giác tang thương, chết chóc nhưng trong một nhà kính nhỏ, chúng lại gây ra tác dụng ấm áp thích thú.

Thủy:

Ngoài chất liệu thực, hành Thủy được gợi ý qua các hình thể uốn lượn, thể hiện qua con đường và qua việc gieo trồng. Khu vườn trải sỏi và trồng cây thạch thảo là một ví dụ về việc gieo trồng dạng Thủy và các tác dụng tương tự có thể đạt được bằng việc trồng các cây thấp lùn hoặc bằng cách đưa vào yếu tố trôi dạt của các loại cây hoặc màu sắc giống nhau.

* Sự biến thể của các hành:

Giống hệt như âm và dương, cái này có khả năng biến đổi thành cái kia khi năng lượng của chúng đã lên đến mức cực đại, các hành cũng có thể biến đổi thành cái đối nghịch với chúng. Minh họa rõ ràng nhất cho ý tưởng này bên trong một khu vườn đó là hành Mộc (cây) khi mục nát sẽ biến thành hành Thổ (đất). Trong một khu vườn gần như chỉ có một màu xanh lá, có các đường biên mang hình dáng Thổ và các đồ đạc bằng gỗ, màu nâu, có dạng chữ nhật, hành Mộc biến thành hành Thổ và kết quả là năng lượng của khu vườn xuống thấp. Cách điều chỉnh là đưa vào các hình thể và các cụm màu khác để mang sức sống đến cho khu vườn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành trong phong thủy khu vườn –

Long mạch vua chúa Việt “phát” thế nào?

Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả. Riêng núi Tản Viên là Cao Biền không dám đụng tới vì cho rằng đó là chỗ thiêng liêng của chư thần thường ngự, không thể yểm được.
Long mạch vua chúa Việt “phát” thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong những nơi mà Biền nhắm đến có một điểm khá quan trọng, đó là làng Cổ Pháp – nơi sẽ sinh ra bậc đế vương của trời Nam. Vì thế, sau nhiều ngày chú tâm xem xét về cuộc đất toàn vùng, Cao Biền cùng các thầy pháp và thầy địa lý của Trung Quốc đã ra tay “cắt đứt long mạch” bằng cách đục đứt sông Điềm và 19 điểm ở Phù Chấn để yểm.

La Quý nối chỗ đứt long mạch

Nhưng mưu thâm độc của vua Đường và Cao Biền trong việc phá hủy thế phong thủy và làm tan khí tượng đế vương ở nước ta đã bị một thiền sư thời ấy là ngài La Quý phá tan.

Ngài La Quý là trưởng lão tu ở chùa Song Lâm, thuở nhỏ du phương tham vấn khắp nơi, sau đến gặp pháp hội của thiền sư Thông Thiện liền khai ngộ. Khi đắc pháp, ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai.

Trước khi mất, vào năm 85 tuổi (năm 936), ngài gọi đệ tử truyền pháp là Thiền Ông đến căn dặn: “Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn. Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa”.

“Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo. Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật”.

Vị hoàng đế mà ngài La Quý báo trước là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn mồ côi từ nhỏ, được sư Khánh Vân đem về chùa nuôi, lớn lên Lý Công Uẩn được thiền sư Vạn Hạnh nuôi dạy và sau này lên ngôi tức vua Lý Thái Tổ, mở ra thời đại hộ pháp hưng thịnh trong lịch sử Việt Nam… Như vậy, thuật phong thủy với khí tượng đế vương của các vùng đất đã liên quan nhiều đến lịch sử Việt Nam từ xa xưa.

Đến đời Lê, có ngài Nguyễn Đức Huyên sinh tại làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, là người lặn lội học khoa địa lý phong thủy tận nơi khai sáng của khoa này trên đất Trung Hoa và cũng là người Việt Nam đầu tiên viết sách địa lý lưu truyền đến nay. Ngài là danh nhân có tên gọi quen thuộc không những trong dân gian mà cả giới nghiên cứu nữa: Tả Ao.

Tả Ao đã phân tích, nêu rõ hình các cuộc đất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cũng như việc tìm long mạch ra sao. Xin nêu ra đây đoạn nhỏ trong sách “Tả Ao địa lý toàn thư” do Cao Trung biên dịch, đại ý nêu hai mạch: Mạch dương cơ và Mạch âm phần. Mạch dương cơ nếu nhỏ thì dùng làm nhà, nếu lớn hơn làm doanh trại, hoặc rộng và tốt có thể dùng làm thị trấn, xây kinh đô. Còn Mạch âm phần dùng chôn cất.

Đại cương là vậy, về chi tiết còn có nhiều loại mạch khác, như Mạch mã tích tức mạch chạy như vết chân ngựa, lúc cạn lúc sâu; Mạch hạc tất tức mạch ở giữa nhỏ, hai đầu to ra dần, như gối của con hạc; Mạch phong yếu tức mạch nhỏ nhắn, phình ra to dần như lưng con ong; Mạch qua đằng tức mạch không chạy thẳng mà ngoằn ngoèo như các thân cây bí cây bầu, có khả năng kết được bên trái hoặc bên phải đường đi của mạch nên được xem là loại mạch quý. Đất kết có hai loại: một loại dùng chôn xương người chết và một loại để người sống ở đều tốt.

Riêng đất để người sống ở, sách Tả Ao địa lý toàn thư đã đề cập đến đất dương cơ liên quan tới lịch sử nước ta: Trừ nhà Hùng Vương được đất quá lớn ra, thì sau đó, nhà Đinh và tiền Lê trở về trước, những triều đại thịnh trị thật ngắn ngủi, không được tới ba đời, nên quốc sư Vạn Hạnh phải tìm một đại địa khác làm kinh đô. Đó là Thăng Long hay Hà Nội. Lý Công Uẩn nghe theo, dời kinh đô về Thăng Long nên nhà Lý làm vua được tám đời; và sau đó nhà Trần và hậu Lê (Lê Lợi) cũng nhờ có đại địa đó làm kinh đô, nên bền vững lâu dài hơn”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Long mạch vua chúa Việt “phát” thế nào?

Luận về Thiên Đức-Nguyệt Đức

Thiên Đức Nguyệt Đức và Long Đức với Phúc Đức gọi bằng bốn sao đức của Tử Vi khoa. Thiên Đức rất tốt khi đóng vào cung Phụ Mẫu lại gặp được Thái Dương, Thiên Lương miếu địa thì con dòng cháu dõi hoặc được sự chăm lo chu đáo nâng đỡ từ tổ phụ.
Luận về Thiên Đức-Nguyệt Đức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Đức gặp Khôi Việt là dấu hiệu báo có những cơ hội thuận lợi. Thiên Đức không có khả năng làm giảm bệnh tật hoặc những khó khăn về mặt pháp luật, vậy thì đừng coi Thiên Đức như một sao tiêu tai giảm nạn.

Thiên Đức Nguyệt Đức có tác dụng chế giảm tính trăng hoa của Đào Hoa. Nguyệt Đức cũng như Thiên Đức, nhưng Nguyệt Đức biểu tượng nữ tính, vào cung Phụ Mẫu ắt có mẹ hiền đức. Cung Phu Thê có Nguyệt Đức đứng cùng Xương Khúc nhờ bên nhạc gia mà thành danh phận.

Nguyệt Đức đứng với Xương Khúc ở Mệnh thì dễ được nữ phái mến chuộng, mến chuộng đây không nhất định là tình ái, có thể làm nghề nữ trang quần áo hoặc viết văn mà phái nữ ưa thích


Thiên Nguyệt Đức ngộ Đào tinh

Trai lấy vợ đẹp gái lành chồng sang

Khi Mệnh có đủ bộ tứ đức thì giảm được nhiều tai ách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Thiên Đức-Nguyệt Đức

Canh Ngọ mệnh gì –

Người sinh 1990, Canh Ngọ, có Ngũ hành năm sinh là Lộ Bàng Thổ, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung KHẢM, hành THUỶ, hướng Bắc, quái số 1, sao Nhất Bạch, Đông tứ mệnh (Đông Nam, Đông, Nam, Bắc). Đeo đá màu Trắng, Xám, Ghi để được Tư
Canh Ngọ mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Canh Ngọ mệnh gì –

"Ôn tửu trảm Hoa Hùng" có thật là công lao Quan Vũ?

Thắng lợi đầu tay của Quan Vũ "ôn tửu trảm Hoa Hùng" được mô tả là "uy chấn càn khôn". Nhưng một số sử liệu TQ lại cho rằng, chiến tích này thuộc về danh tướng Giang Đông Tôn Kiên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ôn tửu trảm Hoa Hùng

Trong "Tam Quốc diễn nghĩa", điển tích "ôn tửu trảm Hoa Hùng" được cho là thuật lại chiến công đầu tay của Quan Vân Trường.

Theo tiểu thuyết, bối cảnh câu chuyện diễn ra khi 18 lộ chư hầu Quan Đông khởi binh thảo phạt gian thần Đổng Trác. Quân Quan Đông bao vây thành Lạc Dương.

Tướng quốc Bình Nguyên là Lưu Bị dẫn các tướng Quan Vũ, Trương Phi... theo cùng Thái thú Bắc Bình Công Tôn Toản.

Chư hầu cùng tiến cử Viên Thiệu làm minh chủ, Thái thú Trường Sa (một địa danh thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) Tôn Kiên làm tiên phong tới Dĩ Thủy Quan khiêu chiến.

Tướng của Đổng Trác là Kiêu kị hiệu úy Hoa Hùng tiếp chiến, đánh bại Tôn Kiên, chém đầu bộ tướng của kiên là Tổ Mậu.

Hoa Hùng khiêu chiến quân Quan Đông, trảm liên tiếp 2 tướng.

Trong lúc liên quân chư hầu bất lợi, Viên Thiệu đành than - "Tiếc rằng hai tướng Nhan Lương, Văn Xú chưa tới.

Nếu có 1 người ở đây thôi, đâu cần phải sợ Hoa Hùng?"

Lời Thiệu chưa dứt, Quan Vũ đã bước ra nói - "Tiểu tướng xin đi lấy đầu Hoa Hùng!"

Thời điểm đó, Quan Vân Trường chỉ là một "mã cung thủ" vô danh tiểu tốt, cho nên Viên Thiệu và Viên Thuật đều không bằng lòng, sợ mất mặt trước Hoa Hùng.

Trong các vị "lãnh đạo" có mặt, duy nhất Tào Tháo ủng hộ Quan Vũ xuất trận, và mời Quan Công một chén rượu.

"Rượu đã rót ra, Quan mỗ sẽ trở lại ngay!" - Quan Công nói xong cầm đao lên ngựa.

Không lâu sau đã thấy Quan Vũ đem đầu Hoa Hùng về ném dưới đất.

Chén rượu của Tào Tháo vẫn còn ấm, vì vậy mới có tích Quan Công "ôn tửu trảm Hoa Hùng".

theo tam quốc diễn nghĩa, trảm hoa hùng là thắng lợi đầu tay của quan vũ, và cũng là uy chấn càn khôn đệ nhất công.

Theo "Tam Quốc diễn nghĩa", trảm Hoa Hùng là thắng lợi đầu tay của Quan Vũ, và cũng là "uy chấn càn khôn đệ nhất công".

Hoa Hùng ở Lạc Dương, Quan Vũ ở đâu?

Mặc dù "ôn tửu trảm Hoa Hùng" đã trở thành một điển tích vô cùng nổi tiếng đối với độc giả Tam Quốc, xong nhiều tư liệu lịch sử lại cho thấy "chiến công" của Quan Vân Trường hoàn toàn phi thực tế.

Tháng giêng năm Sơ Bình thứ nhất (190), các quận Quan Đông khởi binh phạt Đổng Trác, tôn Thái thú Bột Hải Viên Thiệu làm minh chủ. Khi ấy, Công Tôn Toản vẫn còn ở U Châu chứ không tham gia hội sư.

Thêm vào đó, thời điểm này, Lưu Bị còn chưa về đầu quân cho Công Tôn Toản, cho thấy chi tiết Bị cùng Toản tham gia liên minh là không chính xác.

Theo các tài liệu lịch sử Trung Quốc, vào thời gian trên, Lưu Bị đang dẫn quân đánh Đốc Bưu.

Khi đại tướng quân Hà Tiến phái đô úy Khưu Nghị tới Đan Dương mộ binh, Lưu Bị mới dẫn đội quân ít ỏi của mình theo người này.

Tại Hạ Bì đụng độ giặc Hoàng Cân (khăn vàng), quân Lưu đánh trận lập công, Lưu Bị được phong chức phó quan ở Hạ Mật, sau làm Cao Đường úy, rồi Huyện lệnh Cao Đường.

Về sau Cao Đường bị giặc Hoàng Cân phá, Bị mới về đầu quân cho Trung lang tướng Công Tôn Toản và được phong làm Biệt bộ tư mã.

Thời gian Lưu Bị làm Biệt bộ tư mã không được "Tam Quốc Chí" ghi lại, nhưng sách "Tư trị thông giám" và "Tục hậu Hán thư" đều viết, giai đoạn này vào khoảng tháng 10 năm Sơ Bình thứ hai (191), tức gần 2 năm sau khi liên minh Quan Đông thành lập.

Căn cứ vào các mốc thời gian thực tế, khi các châu quận khởi binh đánh Đổng Trác năm 190, Lưu Bị nhiều khả năng vẫn còn làm quan ở Hạ Mật, hoặc Cao Đường, chứ không thể có mặt tại tiền tuyến Lạc Dương.

Lưu Bị không ở Lạc Dương, cho thấy Quan Vũ cũng không có khả năng xuất hiện tại Lạc Dương để... trảm Hoa Hùng.

Công của Quan Vũ hay của "mãnh hổ Giang Đông"?

Mãnh hổ Giang Đông Tôn Kiên mới chính là tác giả của chiến công mà Quan Vũ hưởng.

Theo một số nguồn sử liệu Trung Quốc, "Mãnh hổ Giang Đông" Tôn Kiên được cho là tác giả của chiến công mà Quan Vũ "hưởng".

Cái chết của mãnh tướng Hoa Hùng đã được lịch sử ghi lại. Nhưng nhân vật trảm Hoa Hùng không phải là Quan Vũ, mà là "Giang Đông chi hổ" Tôn Kiên.

Tôn Kiên vốn là Thái thú Trường Sa (địa danh ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), tước Ô Trình Hầu. Thời điểm chư hầu Quan Đông khởi binh, Tôn Kiên cũng từ Hồ Nam bắc tiến, hội sư với Viên Thuật tại Lỗ Dương.

"18 lộ chư hầu" cất quân bao vây Lạc Dương, song thực tế mỗi bên đều e ngại Đổng Trác và tính toán bảo toàn thực lực nên không có bên nào tiến quân, mà tất cả đều giữ thái độ "quan sát".

Chỉ có quân đội của Tào Tháo, Tôn Kiên và Vương Khuông từng giao chiến với Đổng Trác.

Tôn Kiên bị tướng Đổng Trác là Từ Vinh tấn công ở phía đông huyện Lương, Kiên cùng mấy chục kỵ binh đột phá vòng vây.

Khi ấy, trên đầu Tôn Kiên thắt chiếc khăn màu đỏ, ông sợ bị quân địch nhận ra nên đưa khăn cho tướng thân tín là Tổ Mậu.

Tổ Mậu "đóng thế" cho Tôn Kiên, dẫn dụ quân Đổng Trác đuổi theo, Tôn Kiên mới thoát nạn.

Sự việc trên được tác giả La Quán Trung "biến tấu" trong tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa", rằng tướng Đổng Trác tập kích Tôn Kiên là Hoa Hùng, và chính Hoa Hùng chém đầu Tổ Mậu.

Lịch sử Trung Quốc cho thấy, ở chiến dịch tiếp theo - chiến dịch Dương Nhân, Hoa Hùng mới xuất trận và cũng bị chém đầu trong trận đánh này.

Trong chiến dịch này, Tôn Kiên tập trung tàn binh đóng tại Dương Nhân ở phía tây huyện Lương. Đổng Trác phái Lữ Bố, Hoa Hùng, Hồ Chẩn tấn công Kiên.

Lữu Bố bất hòa với Hồ Chẩn, trong khi Chẩn là chủ soái, cho nên Bố cố ý gây rối trong quân, tạo tâm lý hoang mang, khiến sỹ tốt phe Đổng Trác mất tinh thần.

Trước sự tập kích của Tôn Kiên, 3 tướng Lữ - Hồ - Hoa thua chạy. Hoa Hùng bị Tôn Kiên chém đầu.

Trên thực tế, Hoa Hùng không có thành tích quân sự đáng kể. "Tam Quốc diễn nghĩa" đã cường điệu tài năng của viên tướng này. Chiến công chém 2 tướng Du Thiệp, Phan Phụng cũng chỉ là hư cấu.

Có nhiều bình luận cho rằng, "Tam Quốc diễn nghĩa" đề cao hình ảnh Hoa Hùng, mục đích không ngoài "tô điểm" cho sự lợi hại của Quan Vân Trường.

Tôn Kiên vốn là tác giả chiến công trảm Hoa Hùng, song tiểu thuyết hư cấu lại "tặng" công lao của Kiên cho Quan Vũ, quả thực là một sự bất công đối với danh tướng Giang Đông.

Bất chấp thực tế lịch sử, người đọc Tam Quốc vẫn biết đến Quan Vân Trường nhiều hơn với "càn khôn đệ nhất công" trảm Hoa Hùng:

Uy chấn càn khôn đệ nhất công,

Viên môn họa cổ hưởng đông đông.

Vân Trường đình trản thi anh dũng,

Tửu thượng ôn thời trảm Hoa Hùng.

theo Trí Thức Trẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: "Ôn tửu trảm Hoa Hùng" có thật là công lao Quan Vũ?

Thai ở Vòng Tràng Sinh

Ngu dốt, mê muội hay nhầm lẫn, a dua, chơi bời. Chủ sự giao hợp, thụ thai, sinh nở. Thai tọa thủ bất cứ cung nào, gặp Tuần, Triệt án ngữ, hay gặp nhiều Sát tinh, Bại tinh hội hợp, mới lọt lòng mẹ đã đau yếu, quặt quẹo, thường là sinh thiếu tháng.
Thai ở Vòng Tràng Sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


- Cơ Thể Trong Người: Thai = Rốn, âm hộ, tử cung và bào thai.

- Tính Tình: Thai : - Dâm dật, chơi bời. Sao này chỉ mọi sự giao hợp xác thịt giữa trai gái, từ đó có nghĩa mê gái, mê trai.

- Ngu dốt, mê muội hay nhầm lẫn, a dua, dễ tin người. - Chủ sự thụ thai và sự sinh nở. - Chủ sự tái sinh thêm mới. Đặc tính dâm dật là quan trọng nhất.

- Ở bất cứ cung nào, Thai gặp Tuần Triệt án ngữ hay Sát Bại tinh hội hợp thì cũng có nghĩa mới lọt lòng mẹ đã đau yếu quặt quẹo, hoặc sinh thiếu tháng, hoặc lúc sinh gặp khó khăn, phải áp dụng phương pháp cực đoan.

** Sao Thai Khi Vào Các Hạn:  

Hạn gặp sao Thai, Mộc Dục, Long Trì, Phượng Các, là hạn sinh con. Nếu sao Thai gặp Địa Kiếp là hạn khó sinh con, hoặc thai nghén có bệnh tật.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thai ở Vòng Tràng Sinh

Đàn ông lông mày chổi sể là người thế nào

Lông mày chổi sể là đầu mày thon gọn nhưng đuôi mày tõe ra như chiếc chổi quét nhà, các sợi lông mọc thưa dần. Đàn ông có tướng mày này thường nóng tính, dễ
Đàn ông lông mày chổi sể là người thế nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

giận nhưng cũng dễ nguôi…

  Trong Nhân diện học, lông mày đại diện cho tình cảm và tính cách của con người, qua đó phản ánh phần nào về tâm tư tình cảm cũng như sự thành bại trong hôn nhân và sự nghiệp. Đặc điểm dễ nhận biết của tướng lông mày chổi sể là đầu mày thon gọn nhưng đuôi mày tõe ra như chiếc chổi quét nhà, các sợi lông mọc thưa dần.    Đàn ông lông mày chổi sể thường có một số đặc điểm nổi bật về tính cách, sự nghiệp và tình duyên như sau.

Dan ong long may choi se la nguoi the nao hinh anh
Ảnh minh họa
  Về tính cách: Đa phần đàn ông có tướng mày này thì tính tình nóng nảy, dễ nổi giận vô cớ và khó kiểm soát được cảm xúc của bản thân. Tuy nhiên, sau khi hết cơn thịnh nộ, người này lại tỏ vẻ ăn lăn hối hận, tự trách mình đã quá thô bạo.    Về sự nghiệp: Đàn ông có lông mày chổi sể thường gặp trục trặc trong công việc nên khó thành đạt, dễ bị tổn hao tiền của, không tụ tài lộc, đặc biệt đến năm 33 hoặc 34 tuổi sẽ trắng tay vì tiêu xài hoang phí, không biết tích lũy lâu dài.   Tài vận của người này không tốt, luôn trong tình trạng thiếu thốn tiền bạc, càng về già cuộc sống càng nghèo khổ và không được nương tựa vào người thân.   Về tình duyên: Người đàn ông có tướng lông mày chổi sể rất dễ rung động trước tình yêu nhưng cũng dễ dàng từ bỏ giữa chừng vì thiếu kiên nhẫn. Họ dễ yêu, dám yêu nhưng không dám bảo vệ tình yêu một cách quyết liệt.   Trong gia đình, người này chỉ đóng vai trò thứ yếu, mọi hoạt động về tài chính hay đối nội đối ngoại đều nhờ vào sự khéo léo của người vợ. Do đó, nếu lấy được vợ tốt, biết vun vén cho gia đình thì người này cũng có cuộc sống yên bình, ngược lại sẽ gặp bất hạnh trong hôn nhân và cuộc sống vô cùng nghèo khó.   Tuy nhiên, nếu người này biết tiết chế bản thân, thay đổi tính cách nóng vội và hấp tấp thì cuộc đời cũng trôi qua bình yên, không quá nhiều sóng gió, cơ cực.   An Khánh (Theo DYXZ)    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đàn ông lông mày chổi sể là người thế nào

Những kiêng kị cần biết trong ngày Tam nương sát

Không chỉ là tín ngưỡng, những kiêng kị trong ngày Tam nương cũng có những cơ sở khoa học nhất định.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong một tháng, luôn có 6 ngày Tam nương rơi vào những ngày mùng 3, mùng 7, 13, 18, 22 và 27 âm lịch. Tương truyền, những ngày này là ngày sinh và ngày mất của ba nàng "hồng nhan họa thủy" trong lịch sử nên mang đến nhiều điều xui xẻo. Còn người phương Tây lại cho rằng những ngày đó, mặt trăng sẽ di chuyển qua một “vùng trời” mới. Năng lượng xao động trong những ngày này ảnh hưởng đến toàn bộ sự sống trên trái đất, khiến nhiều người cảm thấy "khó ở".

Việc kiêng hay không kiêng, tránh hay không tránh ngày Tam nương là tùy tâm tín ngưỡng của một người. Với những người vẫn giữ quan niệm: "Có thờ có thiêng, có kiêng có lành", dưới đây là hai việc quan trọng nên tránh để khỏi chuốc lấy thất bại.

1. Không nên làm việc lớn

Trong ngày Tam nương, người ta thường tránh làm những khởi sự quan trọng như xuất hành, khai trương, động thổ xây nhà, cưới hỏi,…

Không chỉ là vấn đề duy tâm, trong Thiên Văn học hiện đại cũng chỉ ra rằng vũ trụ thường xuyên xảy ra những vụ va chạm giữa các thiên hà, làm phát sinh những bức xạ, những tia vũ trụ mà ảnh hưởng của nó đến trái đất là rất lớn, chi phối đời sống của sinh vật nói chung và con người nói riêng. Những ngày Tam nương chính là những ngày mặt trăng chuyển sang vùng mới. Vì vậy tránh ngày xấu cũng chính là tránh những thời điểm không tốt của sự vận động vũ trụ và khí quyển. 

 nhung kieng ki can biet trong ngay tam nuong sat - 1

2. Thận trọng khi đi ra ngoài đường

Năng lượng dao động làm con người bị ảnh hưởng không nhỏ. Thời tiết xấu sẽ làm cho con người ta khó chịu, cơ thể mất cân bằng, làm mọi việc kém minh mẫn và hiệu quả. Trái lại nếu thời tiết thuận lợi sẽ làm cho cơ thể khoẻ mạnh, trí não hưng phấn và là tiền đề cho mọi việc trôi trảy, đạt hiệu quả cao.

Do vậy, hãy thận trọng khi lái xe trong những ngày này để tránh tai nạn. Ngoài ra, hạn chế các chuyến leo núi, leo rừng,....

 nhung kieng ki can biet trong ngay tam nuong sat - 2
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kị cần biết trong ngày Tam nương sát

Nét “dị tướng” nhưng lại đem tới tài vận vượng phát

Thoạt nhìn những nét tướng này thực sự không có cảm tình vì khá xấu. Nhưng về mặt nhân tướng học, nó lại giúp chủ nhân vượng phát tài lộc dễ dàng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ngón tay ngắn, thô

 
Net tuong xau nhung giup chu nhan phat tai hinh anh 2
 
Nếu bạn đang sở hữu 10 ngón tay ngắn và khá thô, nhất là bạn gái, đừng vội buồn chán. Bởi trong nhân tướng học, đây không phải là nét tướng xấu, trái lại nó được coi là quý tướng, có thể mang tới nhiều may mắn về tiền bạc cho chủ nhân. Tài lộc của người ngày ngày càng vượng phát theo thời gian, chính tài tốt, thứ tài cũng không hề kém sắc.    Đa phần những ai có tướng tay này đều mang trong mình sức sống mãnh liệt, ý chí kiên cường, khả năng nhẫn nại, chịu đựng gian khổ rất tốt. Số mệnh người này được ví như “đá mài thành ngọc”, tiền vận vất vả, trải qua không ít thăng trầm, nhưng trung và hậu vận hưởng phúc lộc trời ban.    Hơn thế, người này luôn có mục tiêu phấn đấu rõ ràng, hướng đi trong sự nghiệp cũng như cuộc sống đúng đắn nên hiếm khi đi sai đường. Họ làm chủ mọi tình thế, dù đối diện với khó khăn nhưng cũng không hề nao núng. Chính sự điềm tĩnh ấy đã giúp họ vượt qua giới hạn bản thân để gặt hái thành công trong cuộc sống.  

2. Cằm ngắn hoặc hai cằm

 

Net tuong xau nhung giup chu nhan phat tai hinh anh 2
 
Chiếc cằm ngắn hay hai cằm thường không được coi là nét quyến rũ trên khuôn mặt, nhất là đối với phụ nữ. Tuy nhiên, nhìn từ quan điểm nhân tướng học, đây lại là tướng cằm “Phúc như Đông Hải”, được phúc đức bao bọc, cuộc đời tuy có chút gian nan nhưng cuối cùng giàu sang, phú quý.   Chủ nhân của tướng cằm này sở hữu trái tim lương thiện, hay giúp đỡ mọi người xung quanh nên nhân duyên tốt đẹp, vận quý nhân dồi dào, khó khăn có người đến trợ giúp, nhanh chóng biến hung thành cát, sinh tài sinh lộc, cải thiện chất lượng cuộc sống.  

3. Hai bên lông mày không cân xứng

 

Net tuong xau nhung giup chu nhan phat tai hinh anh 2
 
Nhìn hai bên lông mày không cân xứng, khuôn mặt bạn mất hẳn đi một nửa vẻ đẹp vốn có. Nhưng đừng vội buồn phiền, nét tướng này mang tới điềm báo phúc lộc song toàn. Trong cuộc sống không chỉ gặp được nhiều quý nhân giúp đỡ mà đường tài lộc cũng vượng, liên tiếp gặp vận may về tiền bạc.    Nếu hai lông mày giao nhau, tài lộc càng vượng phát theo thời gian, cơ hội phát tài phát lộc không ít, chỉ cần chủ động nắm bắt là có thể “một bước lên mây”, sống trong giàu sang phú quý.   Hoàng Lam
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nét “dị tướng” nhưng lại đem tới tài vận vượng phát

Mơ thấy trăng có ý nghĩa gì?

Mơ thấy vầng trăng là điềm lành, công việc được thịnh vượng, gia đình được hạnh phúc, ấm no.
Mơ thấy trăng có ý nghĩa gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Van su lanh khi nam mo thay trang hinh anh
Ảnh minh họa
 
Mơ thấy trăng biểu thị sự thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn trong khoảng thời gian một tháng.   Mơ thấy trăng tròn, điềm gia vận thịnh vượng.   Mơ thấy trăng mới mọc, điềm thắng lợi trong công việc.   Mơ thấy trăng lưỡi liềm vào thượng tuần, điềm báo ngập tràn hy vọng.

Tối đêm qua bạn có nằm mơ thấy trăng là điềm báo mọi sự thay đổi sẽ theo xu hướng tốt đẹp dần trong nay mai   Nằm mơ thấy trăng khuyết thì sự nghiệp cũng như no ấm gia đình chỉ mới sắp sửa bắt đầu, tương lai không xa bạn sẽ đạt được điều mong muốn.
 
Nằm mơ thấy trăng mới mọc lên là điềm thắng lợi trong công việc.
 
Nằm mơ thấy trăng lặn là con cái bạn làm ăn phát đạt.
 
Nằm mơ thấy trăng sáng tỏ cùng với sao nhiều, điều này chứng tỏ bạn sẽ trở thành người thành công nổi tiếng vang dội, bạn sẽ là người được tỏa sáng nhất giữa đám đông.
 
Nằm mơ thấy trăng nhưng mây đen ùn ùn kéo theo, bạn đang nạn, bạn cần tìm phương pháp hóa giải nếu không bóng đen sẽ bao trùm.
 
Nằm mơ thấy ánh trăng ở dưới mặt nước, điều này ám chỉ mọi chuyện đến thật viển vong mờ ảo, bạn nên đề phòng.

Mơ thấy trăng mọc sau núi là vận bạn bè chuyển tốt, khó khăn đều sẽ được quý nhân giúp đỡ ví dụ như “bệnh viêm màng túi”.

 
Mơ thấy trăng mọc từ dưới mặt nước ngụ ý đường tài lộc thăng tiến, mỗi ngày đều có thu nhập bất ngờ nhưng bạn không được lãng phí.

 
Mơ thấy trăng tròn mọc đằng đông dự báo vận trình chuyển tốt, lúc này cần sự nỗ lực gấp đôi của bạn.

 
Mơ thấy ánh trăng đơn côi trên bầu trời là tình yêu bị trì trệ, vì nhiều vấn đề phát sinh mà tranh chấp, cãi cọ thường xuyên ngăn cách hai bạn.


Mo thay trang co y nghia gi hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy ánh trăng tròn đầy phát sáng vằng vặc trên bầu trời biểu thị vạn sự như ý, đặc biệt mặc tình yêu không còn cãi cọ, không còn mâu thuẫn.

 
Mơ thấy mặt trăng vào ban ngay biểu bị những xui rủi sắp xảy ra, tốt nhất nên ở trong nhà tĩnh dưỡng.

 
Mơ thấy mặt trăng trên cây thường cảm thấy tinh thần bất ổn, bạn bè ngườ yêu đều dễ dàng khiến bạn tức giận.
 
Mơ thấy ánh trăng trên mặt nước ám chỉ các hoạt động nghỉ ngơi được tăng cao.

 
Mơ thấy mặt trăng chiếu vào cửa sổ là điềm báo chuyện tình yêu có bước tiến triển mới, nếu bạn chưa có bạn trai thì lúc này nhân cơ hội tốt để tìm đối tượng cho mình.

 
Mơ thấy mặt trăng lặn phía tây cảnh báo chuyện tình yêu gặp nguy cơ xấu, nếu bạn không xử lý tốt còn xảy ra chia ly nữa. 

 
Mơ thấy mình đi bộ dưới ánh trăng là trí tuệ đột nhiên được phát huy, bạn có khả năng xử lý mọi việc thuận lợi và được tuyên dương.    Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy trăng có ý nghĩa gì?

Xem độ dài ngón giữa để biết tính xấu của bạn |

Những người có độ dài ngón giữa chiếm hơn 81% độ dài của cả bàn tay là người thích xa rời hiện thực, khó hoà hợp với xã hội. 1. Ngón giữa ngắn Độ dài ngón giữa chưa tới 60% độ dài cả bàn tay thì thuộc loại ngón giữa ngắn. Những người có ngón tay như
Xem độ dài ngón giữa để biết tính xấu của bạn |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem độ dài ngón giữa để biết tính xấu của bạn |

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd