Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Linh hồn sau khi chết của bạn sẽ thành "MA" hay thành "THIÊN THẦN"

Bản chất của linh hồn sau khi chết là gì? Trong Phật giáo thường có khái niệm vong linh siêu thoát, vậy sau khi chết, bạn sẽ thành
Linh hồn sau khi chết của bạn sẽ thành "MA" hay thành "THIÊN THẦN"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bản chất của linh hồn sau khi chết là gì? Trong Phật giáo thường có khái niệm vong linh siêu thoát, vậy sau khi chết đi, bạn sẽ thành "ma" hay thành "thiên thần"?


► Tham khảo thêm: Giải mã việc mơ thấy cá, mơ thấy máu theo thế giới tâm linh
  Chủ thể của sinh mệnh, sau khi cơ thể đã chết đi, được gọi là vong linh (linh hồn sau khi chết). Trong dân gian người ta thường có quan niệm rằng con người sau khi chết chính là ma, và mãi mãi sẽ là ma. Nhưng trong Phật giáo không có quan niệm như vậy, nếu không thì chúng ta cũng không thể nào nhắc đến hai chữ “siêu độ”.
Linh hon sau khi chet cua ban se thanh MA hay thanh THIEN THAN hinh anh
Ảnh minh họa
Phật giáo nhìn nhận rằng thế giới phàm của chúng sinh, bao gồm có 6 ngả, đó là : thiên, người, Atula, quỷ, súc sinh (như bò, ngựa, kiến, muỗi và các động vật khác) và địa ngục. Trong 6 ngả này thì cứ được sinh ra rồi lại chết đi, chết đi rồi lại sinh ra, được gọi là 6 ngả luân hồi. Bởi vậy, sau khi người ta chết đi thì sẽ có 1/6 khả năng có thể sẽ trở thành ma quỷ. Trong Phật giáo cho rằng, có thể khiến con người giải thoát và siêu xuất khỏi vòng sinh tử của luân hồi, đó cũng chính là điều người ta gọi là “siêu độ”.   Nhưng thường sau khi chết, ngoài những người cực kỳ tàn ác ngay lập tức bị hạ xuống địa ngục, thì những người cực kỳ tốt cũng sẽ được lên thiên giới, còn đối với những người bình thường không đủ uy đức thì sẽ chuyển sinh ngay. Linh hồn mà chưa chuyển sinh thì không phải là ma, mà trong Phật giáo gọi là “thân hữu trung” hay “thân âm trung”, đó là một loại cơ thể đang trong quá trình đợi tái sinh sau khi chết. Nhiều người thường nhầm lẫn gọi những người âm này là hồn ma; trên thực tế, nó là một loại linh khí tồn tại mà gắn liền với lượng rất ít chất khí của cơ thể, chứ không phải hồn ma.   Khoảng thời gian mang thân âm thông thường là 49 ngày, ở trong giai đoạn này mà chờ đợi cơ duyên chuyển sinh thành thục. Vì vậy, trong giai đoạn bảy lần bảy ngày này của người chết nếu những người thân và bạn bè của họ mà làm những việc Phật sự tốt thì sẽ đem lại một tác dụng rất lớn. Giả dụ đem những tài vật mà người mới qua đời yêu thích cung cấp và cúng dường cho Phật đường, cứu trợ những người bệnh tật nghèo đói. Hơn nữa cũng nói thêm rằng nó là để tích công đức nhất định cho người đã khuất để họ có thể siêu sinh, người chết vì thế mà có thể được sinh ra ở một nơi tốt hơn.   Vì vậy, trong Phật giáo có siêu độ vong linh, tốt nhất là trong khoảng thời gian bảy lần bảy ngày. Nếu qua khoảng giai đoạn này mà làm những việc Phật sự, thì tất nhiên nó vẫn hữu ích, nhưng nó chỉ giúp tăng phúc phận của họ, chứ không thể thay đổi nơi mà họ chuyển sinh.
Linh hon sau khi chet cua ban se thanh MA hay thanh THIEN THAN hinh anh
6 nẻo luân hồi trong Phật giáo
Giả sử có người lúc sống làm nhiều điều ác, và kiếp sau điều đón chờ họ là phải đầu thai làm bò hay lợn, trong vòng 49 ngày khi người này qua đời, nếu như thân quyến trong gia đình hoặc bạn bè của người chết vì họ mà làm nhiều việc Phật sự. Đồng thời cũng chính trong giai đoạn chờ đợi này còn giúp họ có thể nghe được những lời tụng kinh của các nhà sư, qua đó mà biết được một số Pháp lý, cảm thấy ăn năn và lập tức chuyển tâm hướng thiện, thì họ có thể được miễn thành bò hay lợn mà tái sinh thành người.   Nếu như họ đã được sinh ra trong bầy lợn hay đàn bò, mà sau đó người nhà vì anh ta làm nhiều việc tốt trong Phật giáo, nó chỉ có thể cải thiện điều kiện sống của con bò hoặc lợn. Ví như vì đó mà có một chế độ ăn phong phú, không bị làm việc cực khổ, và thậm chí làm giảm nỗi đau bị giết thịt, được người phóng sinh… Nếu như được sinh ra trong nhân gian, thì họ sẽ có được sức khỏe tốt, gia đình và bạn bè yêu mến, sự nghiệp thành công thuận lợi.   Tất cả của cải, danh vọng, địa vị, đều là biểu hiện bên ngoài. Đức hạnh mới là cơ bản, “hậu đức tái vật” – câu nói này quả là một chút cũng không sai. Bởi vì nhiều đức thì mới có thể chuyển thành nhiều vật chất, thiên kim tài phú.   Tóm lại, từ thời xa xưa cho đến nay, trong dân gian hay chùa chiền tu viện cũng vậy, đều có những người đang tu hành, tu luyện thực sự. Và nếu quả thực có thể tu luyện viên mãn, tam giới sẽ không cách nào dung nạp được họ bởi họ đã siêu thoát khỏi nó rồi.   Có được quả vị, hay có thể trở thành Thần, Phật hay Đạo, không còn phải chịu trong vòng khổ đau của luân hồi – Đây mới là một mục tiêu mà con người nên theo đuổi. Chúng ta không nên lãng phí đời người, mà hãy cố gắng tìm lại bản tính chân thật của mình, đó mới chính là đạo lý làm người!

ST.

Vong hồn, ma quỷ, yêu tinh và Thần Phật khác nhau như thế nào? Có thể bạn chưa biết: Sự thật về MA QUỶ Sự thật về tồn tại ma quỷ trong đời?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Linh hồn sau khi chết của bạn sẽ thành "MA" hay thành "THIÊN THẦN"

Cử chỉ tự xoa dịu bản thân

Trong quá trình trưởng thành, con người có những cử chỉ tự trấn an dưới nhiều dạng thức khác nhau nhằm giúp cơ thể điều hòa căng thẳng.
Cử chỉ tự xoa dịu bản thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ thường biểu lộ cử chỉ này bằng cách mút ngón tay cái, nhai nhai rìa tấm chăn hoặc với tay đòi người nào đó có thể làm chúng an tâm. Lớn hơn một chút, chúng tự có sự điều chỉnh hành vi cho thích hợp hơn.

Để xoa dịu bản thân, người ta thường cọ nhẹ 2 chân với nhau, kéo cổ áo, khoanh tay và xoa 2 tay vào nhau hoặc tự ôm lấy bờ vai mình. Cũng có khi họ đặt bàn tay này vào lòng bàn tay kia và nhẹ nhàng massage các ngón tay. Cách này không chỉ giúp xoa dịu mà còn tạo nên một sự tự vệ cho cơ thể.

Mọi tiếp xúc giữa tay và cơ thể đều có tác dụng xoa dịu. Những cử chỉ tự tiếp xúc này thường biểu lộ các cảm giác xấu hổ, nghi ngờ, lo lắng và ngạc nhiên...

Sự đụng chạm ấy có hiệu quả rõ rệt ở những vùng nhạy cảm như mặt và cổ. Vỗ mặt, xoa trán, kéo hoặc massage dái tai bằng ngón cái và ngón trỏ hay nghịch tóc có thể được xem là những cử chỉ xoa dịu. Cắn hoặc gặm móng tay hay bút chì cũng là một phản ứng thường thấy khi người ta căng thẳng.

Vuốt hoặc xoa cổ là một trong những cử chỉ xoa dịu thường xuyên và quan trọng trước các tác nhân gây căng thẳng bên trong hoặc bên ngoài. Kéo cổ áo có thể là cách gián tiếp thể hiện sự ngột ngạt. Cằm là nơi tập trung nhiều dây thần kinh, do vậy khi vuốt cằm, áp lực máu và nhịp tim sẽ giảm đi, giúp người đó tĩnh tâm lại.

Ở phụ nữ, điệu bộ sờ cổ nhằm xoa dịu bản thân có sự khác biệt so với nam giới. Đôi khi, họ chạm hoặc xoắn sợi dây chuyền đang đeo, cũng có thể chạm hoặc che đi phần lõm ở cổ khi cảm thấy bất an, sợ hãi hoặc lo lắng.

(Theo Sức mạnh của ngôn ngữ không lời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cử chỉ tự xoa dịu bản thân

Câu chuyện về ứng dụng ngũ hành trong kinh doanh

Một câu chuyện có thật về thuật phong thủy trong kinh doanh được một thành viên chia sẻ với các chuyên gia của chúng tôi.
Câu chuyện về ứng dụng ngũ hành trong kinh doanh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Tôi có người anh họ ở Nam Định, lên Hà Nội mở quán Hải Sản, một lần tôi rủ mấy người bạn đến đó nhậu, ngạc nhiên thấy nét mặt ông chủ quán - Anh họ tôi rất ỉu xìu". Quán nhậu này từ lúc mở tại đây đã hơn 1 năm đều đông khách và thu về rất nhiều. Cách đây chừng 3 tháng, có một quán Hải Sản khác chuyển đến đúng căn nhà đối diện bên kia quán và cướp kết khách của anh" - Anh tôi tâm sự. Ngoài ra anh còn nói rằng không thể tin nổi vì sao lại bị mất khách vì giá thành của 2 bên gần như nhau trong khi đồ ăn thức uống bên đó có phần kém mình. Mấy tháng nay quán vắng như chùa bà đanh, có chăng cũng chỉ vài người khách quen. Anh đứng ra ngoài chỉ trỏ, "đấy, em nhìn bên kia, khách nó lườm lượp đúng như quán anh mấy tháng trước thôi", rồi thở dài buồn rười rượi muốn chuyển quán ăn đến khu vực khác. Khi nhìn sang quán đó, tôi nhận ra 1 điều, đây là 2 quán hải sản duy nhất của Khu phố mà vị trí đối diện nhau chan chát, con phố thì hẹp, 2 quán ăn có chiều rộng gần bằng nhau và đều là 2 tầng. Trên quán đối diện treo một tấm biển to và bên dưới đỡ bằng 1 hàng thép khoảng D16 neo chặt vào tường, cái đặc biệt ở chỗ là hàng thép gồm nhiều thanh thép xếp song song, một đầu được cán nhọn hoắt như đầu mũi kim nhọn hướng thẳng về phía đối diện.

Tôi chợt hiểu ra đây giống cách thức dùng lưỡi cày mà chôn trước cửa nhà người ta để mong hại cả nhà người ta đây mà. Kéo anh vào trong nhà trong, tôi thủ thỉ bày anh cách hóa giải cái hại này. Anh tôi là thành phần vô thần, ko mê tín dị đoan chỉ biết làm ăn chân chất, có lẽ nghe tôi nói một hồi không hiểu lắm, anh bèn bắt tôi ghi cụ thể ra giấy để làm theo, vì sợ nghe mà chưa hiểu hết chưa nhớ được sẽ làm sai. Tôi nói sao viết vậy cho anh như sau: "Đây là một trò của bọn làm ăn, dùng phong thủy để cạnh tranh với người đối diện. Nó dùng mũi sắt để phá quán nhà anh. Bây giờ anh phải thay biển cửa hàng, nó dùng kim khí phá mình thì mình phải dùng hỏa khắc lại, biển cửa hàng anh phải làm bằng kích thước biển nhà nó, đặt thấp hơn, 3/4 diện tích phía trên biển sơn màu đỏ đậm đối diện với mũi sắt chĩa sang, chính giữa phần này ghi tên quán ăn, 1/4 diện tích phía dưới sơn màu đen tuyền, phần này ghi địa chỉ quán ăn. Vì màu đỏ hành hỏa, hỏa khắc kim, làm chảy kim, khi mũi sắt hướng sang bị kim khắc sẽ biến thành thủy, thủy chảy xuống dưới nên để 1/4 diện tích dưới là màu đen tuyền (đen là thủy), phần này ghi địa chỉ chính là làm vượng cho quán ăn. Đồng thời biển cửa hàng nhà anh phải dùng vật liệu sáng bóng, phản chiếu để phản chiếu toàn bộ mũi nhọn ngược trở lại. Như thế, biến cái khắc của nó thành cái vượng của mình đồng thời đem cái khắc của nó cho nó hưởng một ít".

Thực ra tôi bày cho anh cũng chỉ là cảm hứng nhất thời và không nghĩ anh sẽ làm theo, khoảng 5 tháng sau, anh gọi cho tôi cảm ơn và mời tôi đến quán nhậu 1 bữa. Tôi rất ngạc nhiên khi đến nơi mọi thứ đã thay đổi hẳn, anh treo biển rất cẩn thận theo đúng như lời khuyên. Anh kể rằng, từ khi thay biển mới khoảng chừng 1 tháng, khách hàng lại đông dần lên và quán làm ăn được trở lại. Bên kia thì khách hàng đã thưa dần tuy nhiên vẫn không đến mức hiếm hoi như quán anh trước đây. Anh nói nhờ tôi mà anh không phải chuyển cửa hàng. Tôi cũng mừng thầm và nghĩ rằng có lẽ cái thâm thúy của Ngũ hành thực ra đơn giản vậy".

Bởi vậy, khi bắt tay vào kinh doanh bạn phải làm dày thêm vốn hiểu biết về phong thủy, như chọn ngày, chọn đối tác, xem hướng, hiểu ngũ hành... như vậy mọi việc sẽ trở nên suôn sẻ hơn rất nhiều.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện về ứng dụng ngũ hành trong kinh doanh

Tướng đàn ông vừa thành đạt lại có hôn nhân viên mãn

Không khó để nhận ra những nét tướng đàn ông vừa thành đạt về sự nghiệp lại hạnh phúc trong hôn nhân, quý cô nên xem xét kĩ càng để có sự lựa chọn chính xác.
Tướng đàn ông vừa thành đạt lại có hôn nhân viên mãn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Không khó để nhận ra những nét tướng cách trên khuôn mặt của người đàn ông vừa thành đạt về sự nghiệp lại hạnh phúc trong hôn nhân. 
 

  1. Đầu mũi hơi rủ xuống, cánh mũi đầy đặn   Trong nhân tướng học, mũi đàn ông đại diện cho cung Tài bạch trong 12 cung tướng mệnh, cho biết sự nghiệp, tài lộc của nam giới.    Nếu có tướng mũi mà đầu mũi rủ xuống, hai cánh mũi đầy đặn, chứng tỏ chủ nhân rất có chí tiến thủ, nuôi giữ khát vọng làm giàu vô cùng lớn.  
Tuong dan ong vua thanh dat lai co hon nhan vien man hinh anh
 
Hơn thế, người này còn biết cách quản lý, tích lũy tiền bạc. Một khi tiền đã vào túi là khó lòng mà thoát ra được.    Nếu có thêm đặc điểm là lông mày hình chữ “Bát” (八) càng chứng tỏ người đàn ông này giỏi tính toán về tài chính, làm việc thận trọng và cũng hết mực cưng chiều phái yếu.   2. Răng đều, hơi thu vào phía trong và phần giữa cằm hơi lõm   Tướng đàn ông mà răng đều, có xu hướng thu vào phía trong thường ít nói, ghét sự rườm rà, hành động chứng minh tất cả chứ không phải bằng lời nói suông. Người này làm việc chu đáo, suy nghĩ thận trọng, kiếm tiền không khó.   Nếu có thêm đặc điểm phần giữa cằm hơi lõm chứng tỏ vận đào hoa của người này rất vượng, đi đâu cũng có phụ nữ đẹp bao quanh.    Có cả hai đặc điểm tướng cách trên, bạn đúng là người đàn ông thành đạt trong sự nghiệp và còn rất hạnh phúc về hôn nhân.  
Tuong dan ong vua thanh dat lai co hon nhan vien man hinh anh 2
 
3. Tai có nốt ruồi   Trong nhân tướng học, tai có nốt ruồi là cát tướng. Phần trên của tai có nốt ruồi là biểu hiện của người thông minh, phần giữa có nốt ruồi là con người hiếu thảo, phần dưới (dái tai) có nốt ruồi thì sống thọ, công thành danh toại.   Phía trong tai có nốt ruồi là dấu hiệu cho thấy khả năng quản lý tài chính nhạy bén, kiếm tiền như nước, cuộc sống không phú thì quý.    Thêm nữa, chủ nhân của tướng nốt ruồi này cũng rất đào hoa, đường tình duyên thuận lợi, cuộc sống hôn nhân khá viên mãn.
Xem tướng đàn ông nghèo khổ và có nguy cơ ế dài
Chỉ cần nhìn thấy một vài đặc điểm tướng cách dưới đây, quý cô nên cân nhắc kĩ lưỡng trước khi quyết định trao thân gửi phận cho người đàn ông này.

4. Lông mày rậm, xương mày hơi nhô
  Đàn ông có kiểu lông mày này thường khí chất hơn người, nhân duyên tốt đẹp, được nhiều người theo đuổi.    Ngoài ra, người này kiên trì theo đuổi mục tiêu, có chí tiến thủ nên không khó để đạt được thành công trong sự nghiệp.    Việt Hoàng
Xem phong thái đi đứng của đàn ông có số làm quan
– Nhìn nhanh một vài tư thế đi đứng của các anh chàng dưới đây, quý cô sẽ biết tướng đàn ông có số làm quan để trao thân gửi phận suốt cuộc

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông vừa thành đạt lại có hôn nhân viên mãn

Địa khí nhà ở quyết đinh gia đình vượng hay suy

Bên cạnh yếu tố Thiên và Nhân thì Địa khí nhà ở cũng vô cùng quan trọng. Địa khí tốt thì gia đình vượng, địa khí xấu thì hiểm họa khôn lường
Địa khí nhà ở quyết đinh gia đình vượng hay suy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy theo phái Bát trạch thường chỉ quan tâm tới hai yếu tố Thiên và Nhân (chú trọng hướng nhà hợp với gia chủ) nhưng bỏ qua một yếu tố cực kì quan trọng - Địa. Nhà ở nơi Địa khí tốt thì con người mới vượng, chứ dẫu được hướng mà Địa khí xấu thì vẫn họa khôn lường.


Nha co Dia khi, khoi lo ve huong hinh anh
 
Địa là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới con người, bởi nhà xây trên mặt đất, con người sống ở đó sẽ hấp thu những năng lượng của đất, các dòng sóng trong đất. Chính vì thế phong thủy hiện đại luôn lấy Địa khí làm đầu rồi mới chọn đến hướng. Nhà tuy chọn được hướng Sinh Khí, Diên Niên mà Địa khí xấu thì chủ cũng bại vong. Ngược lại, được Địa khí mà hướng chưa tốt thì có thể cải thiện.
 
Để đo được Địa khí thì phải sử dụng chỉ số đo năng lượng của đất bằng vật lý cảm xạ (chỉ số BOVIS). Chỉ số Bovis được sử dụng trong môn cảm xạ học, dùng để đo năng lượng của người, động vật, sinh vật, khoáng vật và địa đất.
 
Chỉ số đo năng lượng của của các khoáng vật và địa đất được tính từ 0 đến 20.000 đơn vị. Xác định năng lượng tốt xấu được phát ra từ lòng đất hoặc các khoáng vật như sau:
 
Từ 0 đến 3000: đất ung thư (không thể ở được)
 
Từ 3000 đến 5000: đất gây bệnh (không tốt cho sức khỏe)
 
Từ 5000 đến 7000: đất trung bình (không tốt lắm)
 
Từ 7000 đến 8500: đất trung bình khá (có thể ở được)
 
Từ 9000 đến 12.000: đất tốt
 
Từ 12.000 đến 16.000: đất rất tốt (long mạch)
 
Từ 16.000 đến 20.000: đất cực kỳ tốt (long mạch)
 
Ở những nơi đất có Địa khí tốt, năng lượng phóng lên rất có lợi cho sức khỏe và trí tuệ. Qua những cuộc khảo sát trên lãnh thổ Balan, Đức, Pháp và một số nước trong khu vực Châu Âu, chuyên gia cảm xạ học Nguyễn Ngọc Sơn - Viện trưởng Viện nghiên cứu Khoa học Kiến trúc Phong thủy năng lượng cảm ứng đã thu được các kết quả chứng minh điều đó. Nơi xây cung vua hoặc nhà thờ đều có chỉ số Bovis đo được từ 18.000 đến 20.000 đơn vị. Những nơi dùng để xây dựng khó chứa lương thực của cải dành cho các hoàng đế, giới quý tộc đều đo được năng lượng đạt từ 16.000 đến 18.000 đơn vị Bovis.
 
Từ xa xưa các vị vương giả đã biết tìm kiếm những mảnh đất tốt, có năng lượng sinh khí cao để xây dựng và phát triển đế chế của mình thông qua các nhà cảm xạ giỏi thời kỳ đó. Khoa học kỹ thuật ngày nay đã phát triển vượt bậc, đã sản xuất ra các máy đo năng lượng sinh học của người, đất và các vật thể khác để ứng dụng trong cuộc sống. Tìm chọn đất để xây cất nhà ở, xây dựng nhà xưởng, làm trường học,… dựa vào Địa khí là rất quan trọng, tránh được nhiều hậu quả đáng tiếc sau này.
► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online, xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác

ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Địa khí nhà ở quyết đinh gia đình vượng hay suy

Xem tướng mẹ chồng khó tính mà tránh xa

Những ai có kiểu lông mày nhô lên nhìn trông khá dữ dằn. Lại có thêm ánh mắt “sát thần”, lúc nào cũng hằm hằm sát khí thì đích thị là tướng mẹ chồng khó tính.
Xem tướng mẹ chồng khó tính mà tránh xa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Những ai có kiểu lông mày nhô lên nhìn trông khá dữ dằn. Lại có thêm ánh mắt “sát thần”, lúc nào cũng hằm hằm sát khí thì đích thị là tướng mẹ chồng khó tính.

7 kiểu lông mày cho biết vận đào hoa vượng hay suy Khám phá những thú vị bất ngờ qua chiếc miệng đàn ông 1. Vầng trán nhô cao   Nhìn thấy mẹ chồng tương lai có nét tướng cách này, bạn chẳng thể vui vẻ, cười nói nổi. Bởi vì, trong nhân tướng học, những ai có vầng trán nhô lên cao tính tình cứng nhắc, lại chấp vặt, hay bới lông tìm vết và thù dai nhớ lâu.    Làm dâu trong gia đình có mẹ chồng như vậy, bản thân bạn phải “tập xác định” ngay từ đầu. Làm việc gì cũng phải thận trọng, nghĩ kĩ càng trước khi nói. Trong mọi tình huống, dù không phạm sai lầm, nhưng nếu mẹ chồng đã không muốn, tốt nhất bạn vẫn nên khiêm nhường, chịu trách nhiệm về tất cả.   Ngoài ra, cách nói chuyện của bà mẹ chồng này cũng rất khó nghe, cảm giác như lúc nào cũng “đâm bị thóc, chọc bị gạo”. Nếu có thêm đặc điểm là trán vuông vức thì độ khó tính lại tăng lên gấp bội. Người này không những có trí tuệ thông minh mà còn thích áp đặt người khác. Nếu nàng dâu không cư xử khéo léo, e rằng gia đình sớm đổ vỡ.  
Xem tuong me chong kho tinh ma tranh xa hinh anh
 
2. Mặt gày, sống mũi cao   Đặc điểm của tướng mặt này là nhìn trông gày guộc, sống mũi cao tạo cảm giác như mặt khá nhọn. Chủ nhân của nét tướng cách này thường có vẻ ngoài lạnh lùng, vô tình, cuộc sống có vẻ khá tẻ nhạt.    Nếu có thêm đặc điểm là sống mũi nhô cao và gồ lên, chứng tỏ người này rất ích kỉ, chỉ biết tới lợi ích cá nhân.    Thường ngày, người này đều tỏ vẻ thanh cao, coi khinh người khác, làm gì cũng xuất phát từ lợi ích cá nhân. Làm dâu trong gia đình này là điều không may mắn. Dù nàng dâu có cố gắng làm việc, lấy lòng mẹ chồng tới đâu cũng khó mà được ghi nhận.  
Xem tuong me chong kho tinh ma tranh xa hinh anh
 
3. Lông mày nhô lên, ánh mắt hằm hằm sát khí   Những ai có kiểu lông mày nhô lên nhìn trông khá dữ dằn. Lại có thêm ánh mắt “sát thần”, lúc nào cũng hằm hằm sát khí thì đích thị là tướng mẹ chồng khó tính.   Người này sống ích kỷ, chỉ biết tư lợi cá nhân, lại mắc tật hay soi mói nên lúc nào trong nhà cũng rối như mớ bòng bong. Nếu có mẹ chồng như vậy, tốt nhất bạn nên ở riêng, hạn chế gặp mặt để tránh “đụng độ”.  
Xem tuong me chong kho tinh ma tranh xa hinh anh
 
4. Mặt rộng nhưng mũi khoằm   Sở hữu khuôn mặt rộng, nhưng mũi lại khoằm cho thấy đây sẽ là bà mẹ chồng khó tính, thậm chí tính tình bá đạo, động tý nổi giận, ăn nói bỗ bã, khó nghe. Thêm nữa, người này rất hay quản chuyện bao đồng, việc lớn nhỏ trong nhà đều chịu sự chi phối của họ. Làm dâu nhà này, địa vị của bạn dường như không tồn tại.    Tuy nhiên, nhược điểm của người này là rất ưu nịnh. Chỉ cần bạn xử lý khéo léo, thi thoảng nịnh nọt vài câu hoặc mua quà tặng thì mọi khúc mắc đều sớm được giải quyết.  
► Xem tướng số biết vận mệnh chuẩn xác

Hoàng Lam
    Quan sát tướng mặt của người khó thành công, dễ thất bại
Theo quan điểm nhân tướng, vầng trán nhỏ, gồ ghề, nhiều đường vân ngang dọc, nhiều nốt thâm đen thì cuộc đời gặp không ít trở ngại. Vận khí trước năm 30 tuổi ở

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mẹ chồng khó tính mà tránh xa

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè. Mùa hạ - mùa xa cách của lứa tuổi học trò, mùa của những chú ve sầu kêu da diết
Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè. Mùa hạ – mùa xa cách của lứa tuổi học trò, mùa của những chú ve sầu kêu da diết. Chính vì thế, mùa hạ là cảm hứng của biết bao câu nói hay, vần thơ đầy xúc động.

Mời bạn tham khảo những câu nói hay và vần thơ hay nhất về mùa hè sau đây!

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

ĐÀN CHIM SẺ

Hót trên cánh đồng
Bạn ơi biết không
Hè về rồi đó

Chiều nay bạn gió
Mang nồm về đây
Ôi mới đẹp thay!
Phượng hồng mở mắt

Dòng sông trong vắt
Trườn lên bãi xa
Một chuyến đò qua
Mang theo lũ bướm

Cánh diều bay lượn
Thênh thang lúa đồng
Bạn ơi thích không?
Hè về rồi đó!

MÙA HÈ

“… Mùa hè hoa rau muống
Tím lấp lánh trong đầm
Cơn mưa rào ập xuống
Cá rô rạch lên sân …”
—Tạ Vũ—

Mùa hè còn chan chứa bao nhớ thương, bao vấn vương và lưu luyến của bao cô cậu sinh viên, học trò. Mùa hè – mùa thi – mùa chia ly. Không ít những ánh văn bất hủ, bài thơ, những câu nói hay và ý nghĩa nhất vẽ lên những kỷ niệm, những tâm trạng đầy lưu luyến nơi mái trường xưa yêu dấu.

Có ai đi xa rồi không nhớ những tháng năm học trò, những kỷ niệm góc sân trường thân quen, tiếng ve hè râm ran, nhưng kỳ thi, nét bút nghiêng nghiêng. Hãy cùng xemboituong.com cảm nhận những câu thơ, câu nói hay nhất về mùa hè qua bài thơ “Trường xưa”

TRƯỜNG XƯA

Cứ ngỡ rồi đây xa lắm một mái trường
Ta không đủ sức níu thời gian gần lại
Mái ngói mờ rêu, tán lá bàng xa ngái
Những con đường, sỏi đá nhịp buồn tênh

Tháng năm rơi trên bậc thềm chênh vênh
Sân trường cũ, và bài thơ cũng cũ
Ô cửa sổ bốn mùa nắng rủ
Và cơn mưa trong trẻo mắt bạn bè

Một mùa xa hoa phượng chật vòng xe
Nét mực tím vương dấu tay mùa hạ
Màu xanh dịu thân thương trên vòm lá
Nhạt sắc trời, con chim sẻ nào bay…

Qua những mùa thu vương lối heo may
Hoa cỏ tím góc sân trường thầm lặng
Ai không nhớ những vòm trời mây trắng
Mùa tựu trường gom gió hát vu vơ…

Gốc bàng xưa im lặng đến bây giờ
Mong mỏi phía hành lang xa vời vợi
Chỉ một câu thơ cũng thành tiếc nuối
Chuyện giận hờn, viên sỏi nhỏ màu xanh

Ta cứ ngỡ rồi tất cả qua nhanh
Mái tóc xưa chắc giờ không còn ngắn
Đã đơn giản như ta từng ngộ nhận
Một điều gì, mà nào có gì đâu…

Bàn ghế xưa rưng rưng ngả màu
Mùa xưa cũ bâng khuâng như thần thoại
Hoa cỏ may buồn đi vào xa mãi
Kỷ niệm giăng đầy rợp một mái trường quê

Bạn bè xưa chẳng có lúc tìm về
Trái bàng chín nằm ngơ trong mùa cỏ
Giọng thầy khan, trầm ngâm trong gió
Mái tóc thầy điểm bạc hoa lau

Ta cứ ngỡ rồi tất cả qua mau
Tuổi thời gian nhòe lem như giọt mực
Thương nhớ ấy nhuộm màu mây ngũ sắc
Lá học trò vụng dại trốn nơi nao…

Ô cửa mùa thu mây trắng lại bay vào
Ta lại thấy mình những ngày thu lớp trước
Con đường mùa xa, bàn tay nào với được
Giấc mơ một mái trường màu ký ức phong rêu

Hiên lớp xưa lời thầy vọng đều đều
Bụi thời gian phủ đầy lên kỷ niệm
Bài thơ cũ đợi ta về viết tiếp
Tuổi vụng về hát gọi tháng năm ơi…

Ta bước đi tiếng trống giục bồi hồi…
— Phạm Trung Kiên –

MÙA HÈ

Tác giả: Nguyễn Nhật Ánh
Mùa hè nào gặp gỡ
Mùa hè nào chia ly
Mùa hè nào hội ngộ
Tôi cầm trên tay hai mùa hè rực rỡ
Còn mùa hè cuối cùng rơi đi đâủ
Ai nhặt được mùa hè tôi đánh mất
Xin trả lại cho tôi
Xin trả lại cho tôi người yêu tôi
Dẫu chỉ là xác con ve sầu chết khô
Ấy chính là mùa hè của tôi
Ngủ quên trong nách lá
Những ngọt bùi tôi đã nếm trải
Những đắng cay tôi đã nếm trải
Những mùa hè bỏng rát sau lưng
Còn mùa hè cuối cùng tôi gặp lại
Trốn đi đâu ngoài tầm mắt tôi tìm ?

MÙA HÈ KỶ NIỆM

Tác giả: Dung Nguyên
Sân trường văng vẳng tiếng ve
Kìa cây phượng vĩ hoa che kín cành
Xuân qua hè đến phải đành
Xa thầy xa bạn độc hành lẻ loi …..

Thời gian thoăn thoắt như thoi
Chợt đi chợt đến khiến tôi chạnh buồn
Hai mươi năm xa mái trường
Chưa ngày về lại cội nguồn tuổi thơ

Học trò đầy ắp mộng mơ
Nhưng đời như sỏi trơ trơ gót mòn !

MỘT SÁNG MÙA HÈ

Tác giả: Trường Phi Bảo
Một sáng mùa hè đẹp biết bao
Giở trang lưu bút tuổi ước ao
Một bầy bướm phượng xôn xao múa
Kỷ niệm còn vương nét chữ nào

Có phải là anh của em không?
Cho yêu thương năm tháng chất chồng
Thuở học trò gói mơ ươm mộng
Áo trắng nào đẹp trong mắt trong

Bạn bè thân ơi giờ nơi đâu?
Có về họp nhau trên đỉnh sầu
Quay quắt ấu thơ quay quắt nhớ
Giấu nụ cười sau nét ngây ngô

Một sáng mùa hè ngập nắng vàng
Hồn thơ thanh thoát ý mênh mang
Kỷ niệm em cài trên ngực áo
Nghe trái tim mình đập rộn ràng

Sao anh chẳng về lại ngày xưa
Đôi bóng kề nhau đếm sao thưa
Đôi bóng quyện vào trang sách mới
Mở một chương đời chuyện nắng mưa

Mùa hạ xin cho lời nhắn gởi
Với người năm cũ lắm xa xôi
Rằng em vẫn chờ bên song cửa
Một tình yêu tha thiết mà thôi

Mùa hè đến rồi đi chứng kiến bao kỷ niệm, bao yêu thương của lứa đôi. Hãy cùng xemboituong.com cảm nhận những câu thơ, câu nói hay nhất về mùa hè qua bài thơ “Tình yêu giữa mùa hè”

TÌNH YÊU GIỮA MÙA HÈ

Tác giả: Đông Hòa

Hân hoan mùa hè cùng nhau đón
Trên tay cầm những cánh diều hoa
Vẽ lên con bướm màu xanh tím
Vươn bay trên bầu trời cao xa

Hân hoan đây mùa hè hãy đến
Cùng lắng nghe dế lúc tờ mờ
Trong hộp nhỏ khoe anh , khoe bạn
Vui sướng một thời của tuổi thơ

Hè về nhìn phượng đỏ đầy sân
Chân đứng ngước nhìn mắt bâng khuâng
Thấy em đã thành cô thiếu nữ
Đã qua thời đuổi bướm hái trâm

Và giờ đây anh đã yêu nàng
Yêu mái tóc thề buông gió sang
Yêu hình dáng bao ngày thầm ước
Một đời với tiếng hẹn trăm năm

Mùa hè cùng bao những vất vả nhọc nhằn của mẹ ngày ngày gánh hàng đi bán, bất chấp cái nắng oi bức, như thiêu như đốt. Mẹ luôn là người che chở, lo lắng cho con từng miếng cơm, manh áo. Đâu đó nơi góc phố có dáng người mong manh của mẹ. Hãy cùng xemboituong.com cảm nhận những câu thơ, câu nói hay nhất về mùa hè qua bài thơ “Mùa hè và tiếng rao của mẹ”

Mùa Hè Và Tiếng Rao Của Mẹ
Tác giả: Ngưng Thu
Sáng lên hạ chuyền cánh phượng
Ve ran tình khúc mùa hè
Nắng vàng ngẩn ngơ bờ giậu
Dế mèn râu vểnh lắng nghe

Gió cõng mưa về ngang lối
Ướt nhòe áo gánh hàng rong
Liêu xiêu dáng gầy bóng mẹ
Tiếng rao thảng thốt chạnh lòng

Sáng nay nắng tràn góc phố
Em tung tăng với điểm mười
Trong veo ánh cười mắt mẹ
Gói hành trang tuổi đôi mươi

NHỚ MÃI HÈ ƠI

Tác giả: Khuất Việt Hưng
Thẫn thờ giữa buổi trưa hè
Chạnh lòng thương những tiếng ve học trò
Phượng hồng nhớ đến ngẩn ngơ
Tuổi thơ trong sáng bây giờ lùi xa.
Nhớ sao ngày ấy đã qua
Trèo lên cây bẻ nhành hoa trong trường
Tặng người bạn gái yêu thương
Đến giờ còn đọng vấn vương trong lòng.
Rời tuổi thơ với phượng hồng
Gói vào nỗi nhớ mênh mông đường dài
Mang theo khát vọng tương lai
Giảng đường đại học miệt mài luyện chăm.
Thương ôi năm tháng khó khăn
Sinh viên toàn nói chuyện ăn suốt ngày
Trưa hè ngồi dưới hàng cây
Ngắm thềm nắng rải đong đầy vần thơ.
Mang lòng yêu đến ngẩn ngơ
Mà không dám nói phải nhờ cành hoa
Rợp bằng lăng tím chiều tà
Là tình yêu của riêng ta gửi nàng.
Ước gì quay ngược thời gian
Để mình lại được mơ màng trộm yêu
Thả hồn như những cánh diều
Chao nghiêng giữa lộng gió chiều mênh mang.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

Các lễ hội ngày 13 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Và

Các lễ hội ngày 13 tháng 1 Âm Lịch gồm có các lễ hội sau Hội Đền Và ở Hà Nội, Hội Cống Yên, Hội Đền Hiền Quan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 13 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Và

Các lễ hội ngày 13 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Và

1. Hội Cống Yên

Thời gian: đền Cống Yên, phường Cống Vị, quận Ba Đình, thành Phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn vị đại vương Thánh Quảng Hồng.

Nội dung: Hoạt động lễ hội diễn ra rất sôi nổi, tế nam quan, tế nữa quan; tiếp đó là các phần hát ca trù, và trò chơi dân gian như: chọi chim, chọi gà.

2. Hội Đền Và

Thời gian: tổ chức vào ngày 13 tới ngày 15 tháng 1. Hội thu rằm tháng 9 âm lịch.

Địa điểm: thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thành phố Sơn Tây, tỉnh  Hà Tây cũ, nay thuộc thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Thần Tản Viên (tức Sơn Tinh là một trong tứ bất tử trong diện thần Việt Nam).

Nội dung: Ngày 13, nhân dân lên đền dọn dẹp, trang trí cờ hội. Buổi chiều các thôn rước cỗ kiệu của làng mình về đặt ở sân trước nhà tiền tế tại đền Và.

Trong lễ rước kiệu, khi các cỗ kiệu xuống thuyền qua sông. Cư dân vạn chài ở trên sông tấp nạp kéo tới, ghép thuyền lại thành một cầu phao lớn cùng đưa đoàn rước sang sông và họ nhập vào đoàn rước trở thành những người đi hội. Quan niệm của người dân vào ngày này vạn chài nào trên sông làm nhiều điều Phúc thì Thánh Tản sẽ cho nhiều lộc lớn trong năm. Ngày 15 tháng giêng là ngày hội chính, những cuộc vui chơi của người dân địa phương và các hoạt động vui chơi được tổ chức để tiếp đón khách thập phương đến đền và dâng hương. Ngoài ra, ở sân trước nhà tiền tế còn có đấu vật. Các đô vật sứ đoài đến vật chầu bóng thánh, sau đó diễn trò vui vật giật giải, một thú vui đua sức, đua tài vốn rất được người dân hào hứng tham gia.

3.Hội Đền Hiền Quan

Thời gian: Tổ chức vào ngày 13 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: Xã Hiền Quan, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.

Đối Tượng suy tôn: nhằm ghi nhớ công đức của bà Thiều Hoa (nữ tướng của hai bà Trưng).

Nội dung: Mở đầu lễ hội là lễ dâng hương, tiếp đó là trò chơi đánh phết (đánh cầu gỗ bằng gậy cong ở đầu).

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 13 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Và

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tướng mặt đàn ông tốt toàn diện

Nếu sở hữu những tướng mặt tốt này, chàng trai này không chỉ có công danh sự nghiệp phát triển mà còn là người chồng, người cha tốt trong gia đình.
Tướng mặt đàn ông tốt toàn diện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu sở hữu tướng mặt này, bạn không chỉ có công danh sự nghiệp phát triển mà còn là người chồng, người cha tốt trong gia đình.


1. Huyệt thái dương đầy đặn – Sự nghiệp và tình duyên thuận lợi

Trong Nhân tướng học, huyệt thái dương còn gọi là “cung Phu Thê. Nếu đàn ông có huyệt thái dương đầy đặn, to bản vừa có khả năng phát triển sự nghiệp lại hết mực yêu thương vợ con. Nếu bạn đang muốn tìm đối tượng cho mình, nên lựa chọn theo tướng mặt tốt này.
 
2. Trán cao và vuông – Trình độ học vấn cao

Vầng trán cao, vuông vức và rộng là quý tướng. Nam giới có nét tướng này thường có trình độ học vấn cao. So với các thành viên trong gia đình, đường công danh sự nghiệp của họ là vượng nhất. 
 
Ngoài ra, người này có chí tiến thủ, ham học hỏi, quyết tâm cao độ, không ngại khó ngại khổ để phát triển sự nghiệp bằng chính thực lực của mình.

Tuong mat dan ong tot toan dien hinh anh
Đàn ông có những nét tướng này không chỉ thành công trong sự nghiệp mà còn là người chồng người cha tốt

3. Miệng rộng – Lập nên đại nghiệp

 
Cổ nhân có câu: “Đàn ông miệng rộng thì sang”, điều này được tích lũy từ kinh nghiệm sống từ nhiều năm, tất nhiên nó vẫn đúng đến tận ngày nay. 
 
Nam giới có miệng rộng tức hai khóe miệng hướng lên trên, đôi môi dày và có hình dạng như chiếc thuyền rồng. Nếu cộng thêm đặc điểm là vầng trán cao rộng, ánh mắt sắc bén và chiếc mũi đầy đặn, chắc chắn đây là người có thể lập nên đại nghiệp. 
 
4. Răng cửa to đều – Tướng người quân tử

Theo quan điểm Nhân tướng học, răng cửa to, đều và mau là tướng cát. Chủ nhân của hàm răng này thường có tính phóng khoáng, thẳng thắn và đích thị là người quân tử. Người này hành xử trượng nghĩa, không bao giờ trục lợi cá nhân bằng những mánh khóe hiểm độc. Đây là một trong những tướng mặt đàn ông tốt mà bạn có thể dựa vào đó để lựa chọn bạn đời cho mình.
 
5. Mắt sáng, có thần khí – Biết che chở cho người yếu thế
 
Mắt sáng tức phần lòng đen và trắng phân biệt rõ ràng, đồng thời ánh mắt lúc nào cũng đầy thần khí và vô cùng nhạy bén. 
 
Đàn ông có đôi mắt “biết nói” này rất thích bảo vệ và che chở cho người yếu thế hơn mình. Họ sống tình cảm, chu đáo và biết hi sinh vì người khác.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt đàn ông tốt toàn diện

Điểm danh những con giáp thành đạt trong 3 năm tới

Nhờ vận khí vượng mà những con giáp thành đạt trong 3 năm tới dưới đây liên tiếp đón nhiều tin vui về sự nghiệp, tài lộc và hôn nhân.
Điểm danh những con giáp thành đạt trong 3 năm tới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Trong 3 năm tới, nhờ vận khí vượng mà những con giáp dưới đây không thăng quan cũng phát tài phát lộc, tình duyên lí tưởng.

 

5 con giáp có sự nghiệp thành công rực rỡ nửa cuối năm 2016  

1. Người tuổi Tỵ

  Theo tử vi trọn đời 12 con giáp cho biết, vận khí của người tuổi Tỵ trong 3 năm nữa luôn giữ ở mức bình ổn, tốt đẹp. Nhất là năm 2017, vận khí đạt mức đỉnh điểm, tin vui nối tiếp tin vui, tài lộc phát vượng vô cùng.   Cục diện sự nghiệp trong 3 năm tới của con giáp này có sự biến động lớn, cơ hội thăng quan tiến chức rộng mở thênh thang. Ngay từ bây giờ, bạn cần xác định mục tiêu phấn đấu rõ ràng. Công sức và sự nỗ lực bạn bỏ ra chắc chắn sẽ gặt hái được thành quả tốt đẹp trong thời gian sắp tới. Vậy nên đừng vội nản chí mà bỏ cuộc giữa chừng nhé.  
Diem danh nhung con giap thanh dat trong 3 nam toi hinh anh

Tuổi Tỵ là một trong những con giáp thành đạt trong 3 năm tới 

2. Người tuổi Mùi

  Theo Tử vi, trong danh sách con giáp thành đạt trong 3 năm tới không thể không nhắc đến người tuổi Mùi. Bước vào năm 2016, vận thế của người tuổi Mùi đã có sự chuyển biến tích cực. Ảnh hưởng của Thái Tuế trong năm 2015 giảm đi đáng kể, thay vào đó là vận khí tốt lành. Tính cách của con giáp này cũng trở nên lạc quan, suy nghĩ tích cực và thông thoáng hơn rất nhiều. Gặp sự khó khăn không né tránh mà sẵn sàng đương đầu, hạ quyết tâm xử lý triệt để. Đó chính là một trong những yếu tố góp phần tạo nên thành công sự nghiệp rực rỡ cho bạn.   Trong công việc, tư duy sáng tạo của bạn linh hoạt hơn hẳn, làm việc gì cũng xông xáo để thể hiện tài năng. Vậy nên, cơ hội thăng quan tiến chức ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, lại gặp được bạn hiền, có quý nhân ở bên, khó khăn trong công việc nhanh chóng được tháo gỡ.    Dẫu sao, vận khí may mắn cũng chỉ là một phần nhỏ trong chuỗi yếu tố liên kết để mang lại thành công cho bạn. Sự nỗ lực của bản thân vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu. Đừng bao giờ quên điều đó.
Diem danh nhung con giap thanh dat trong 3 nam toi hinh anh
 

3. Người tuổi Thân

  Năm 2016 là năm tuổi của người tuổi Thân trong mười hai con giáp, chịu ảnh hưởng của Thái Tuế, vận thế tổng quan không mấy lý tưởng. Nhưng so với những năm tuổi của các con giáp khác, vận thế của bạn có phần khá hơn, vẫn có không ít cơ hội phát triển.   Tuy nhiên, bạn sẽ trải qua một năm bận rộn, khá vất vả. Đổi lại, bạn cũng được đồng nghiệp tin tưởng, cấp trên đánh giá cao, con đường công danh sự nghiệp cũng từ đó được củng cố và phát triển. Tương lai trong 3 năm tới sẽ gặt hái được thành tựu lớn, đáng khiến người khác ngưỡng mộ.   Đặc biệt, khi bước sang năm 2017, vận thế của người tuổi Thân được ví như cá gặp nước, hanh thông đủ đường. Đó chính là thời điểm lý tưởng để bạn phát triển mọi mặt của bản thân, bao gồm cả sự nghiệp, tài lộc và tình duyên, cần chủ động nắm bắt để sớm “về đích”.  
Diem danh nhung con giap thanh dat trong 3 nam toi hinh anh
 

4. Người tuổi Hợi

  Trong ba năm tới, có thời điểm người tuổi Hợi được sự tương trợ của Lưu niên đại vận, xuất hiện nhiều cơ hội kiếm tiền và thành danh. Dù bản thân con giáp này không thích bon chen, có thể tự mình bỏ lỡ một vài cơ hội tốt đẹp, nhưng xét về tổng thể, vận khí may mắn sẽ giúp bạn vượt lên tất cả, mang về thành quả đáng tự hào.   Chính vì thế, cuộc sống trong 3 năm tới của bạn hứa hẹn sự thảnh thơi, đón nhận nhiều tin vui liên tiếp về sự nghiệp và tài lộc. Bên cạnh đó, bản mệnh lại được Hồng Loan cát tinh chiếu mệnh, vận đào hoa theo đó cũng vượng dần lên, không khó để tìm được nửa kia ưng ý và sống với nhau tới đầu bạc răng long.
 
Hoàng Lam

Những con giáp khó tránh tình tay ba nửa cuối năm 2016
Trong nửa cuối năm 2016, người tuổi Mùi và nửa kia cần phải củng cổ lại tình cảm. Bởi chỉ khi nào tình yêu ổn định, gắn kết thì kẻ thứ ba mới không có cơ hội

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh những con giáp thành đạt trong 3 năm tới

Khám phá bí mật ẩn giấu sau mỗi đường vân tay (phần 2)

Từ hình dạng khác nhau của tướng vân có thể đoán biết tính cách và vận mệnh không giống nhau ở mỗi người.
Khám phá bí mật ẩn giấu sau mỗi đường vân tay (phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Nhân tướng học, tướng vân tay được chia thành hai loại: vân hình xoáy ốc và vân hình nước chảy. Từ hình dạng khác nhau của hai loại vân này có thể đoán biết tính cách và vận mệnh không giống nhau ở mỗi người.

van tay 2
Hai loại vân tay: Hình xoáy ốc và hình nước chảy


16. Ngón cái và ngón giữa có vân hình nước chảy

Đây là tướng tay của người thu không đủ chi, thích tiêu hoang. Cho đến khi về già họ vẫn phải nương tựa vào người khác mà sống. Tuy nhiên, nếu sớm bỏ thói quen hoang phí, thực hành tiết kiệm sẽ có cuộc sống no đủ về sau.
 
17. Ngón trỏ và ngón áp út có vân hình xoáy ốc

Người có tướng vân tay này thường kiên định về ý chí, không dễ bị khuất phục trước khó khăn. Người này có thể chịu khó, chịu khổ, biết tích lũy cho cuộc sống lâu dài. Cuộc sống về trung và hậu vận của ngày này khá tốt.

18. Ngón giữa và ngón út có vân hình xoáy ốc

Dạng vân kiểu này thể hiện vận mệnh của cuộc đời chủ nhân nó có nhiều sóng gió, lúc thành công, lúc thất bại. Tuy nhiên, chỉ cần người này đừng quá hấp tấp, làm việc theo đúng trình tự thì cuối đời được an nhàn, hưởng phúc.
 
19. Ngón áp út và ngón út có vân hình xoáy ốc

Người có dạng vân tay này thường có tài hùng biện nhưng lại dễ nóng vội trong hành xử. Chỉ cần người này có ý chí phấn đấu vươn lên thì nhất định sẽ thành công.

20. Ngón trỏ và ngón giữa có vân hình nước chảy

Điều này cho thấy đây là người hiền lành, thực thà, hơn nữa lại được sự tín nhiệm và danh vọng rộng mở. Tuy cuộc sống trước tuổi trung niên không ổn định, thậm chí còn vất vả, nhưng đến khi về già thì có xu hướng thay đổi tốt dần lên. 
 
21. Ngón giữa và ngón áp út có vân hình xoáy ốc

Người có đường vân tay như này có năng lực hành động, nhưng lại thiếu khả năng quyết đoán và phán đoán. Nhưng nếu người này kiên trì làm việc quán triệt tới cùng thì sẽ thành công ở một mức nhất định nào đó.
 
22. Ngón cái và ngón trỏ có vân hình nước chảy

Tướng vân tay này cho thấy đây là người có tính cách thẳng thắn, đơn điệu, ý chí bạc nhược, tuy có chủ kiến nhưng không biết sắp xếp ổn thỏa cuộc sống. Nếu người này không thay đổi lối sống bấp bênh đó, chắc chắn cuối đời vẫn sống trong nghèo khổ.
 
23. Ngón giữa và ngón út có vân hình nước chảy
 
Người có kiểu vân tay này có chí hướng cao xa, khéo nắm vững cơ hội. Người này thích hợp làm những việc mang tính đầu cơ, mặt khác càng đến hậu vận thì vận khí của người này càng thuận lợi.
 
24. Ngón giữa và ngón áp út có vân hình nước chảy

Thông thường, người có vân tay này ngay thẳng, thật thà, coi nhẹ tiền bạc. Tuy nhiên làm việc gì người này cũng không chú tâm, dễ bỏ dở giữa chừng nên thường khó có được thành công lớn.
 
25. Ngón áp út có vân hình nước chảy

Vì người có dạng vân tay này thường giỏi ứng đối trong quan hệ giao tiếp, hơn nữa lại là người đôn hậu nên dễ nhận được sự đề bạt của cấp trên, sự ủng hộ giúp đỡ của cấp dưới. Vào hậu vận, vận thế của người này cực mạnh, có thể gặt hái được nhiều thành công.
 
26. Ngón giữa có vân hình nước chảy
 
Người có dạng vân kiểu này giàu dũng khí và tinh thần hiệp nghĩa. Họ luôn cố gắng hết mình để hoàn thành việc được giao, do đó nhận được sự tín nhiệm của mọi người xung quanh. Mặt khác, đây là người tính toán chi li, nếu không sửa chữa dễ gây thù địch hoặc vướng vào những rắc rối về tài chính.
 
27. Ngón trỏ có vân hình nước chảy
 
Chủ nhân của dạng vân này có tính cách và phẩm chất đạo đức tốt. Cách đối nhân xử thế hiền hòa, khéo léo nhưng không thích hợp với kinh doanh buôn bán mà hợp với làm nghề giáo, làm các công tác tôn giáo hoặc là học giả.
 
28. Ngón trỏ và ngón giữa có vân hình xoáy ốc

Đây là tướng tay phúc đức, chỉ người có phẩm chất đạo đức cao thượng, tính cách hòa đồng, dễ chiếm được tình cảm và sự ủng hộ của mọi người xung quanh. 
 
29. Ngón cái và ngón áp út có vân hình nước chảy

Chủ nhân của tướng vân tay này là người chất phác, giỏi tích lũy và vun vén. Nếu người này thực sự cố gắng, từng bước tiến lên phía trước thì không bao lâu sẽ có tiền tài và danh vọng.
 
30. Ngón cái và ngón út có vân hình nước chảy
 
Người có vân tay này thường thẳng thắn nhưng ngoan cố, tính ích kỉ cao, nên dễ đắc tội với người khác. Do đó, phải sau trung vận thì người này mới ổn định cuộc sống và vận khí dần tốt đẹp.
 
Theo Tìm hiểu tính cách con người qua bàn tay   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá bí mật ẩn giấu sau mỗi đường vân tay (phần 2)

Bất ngờ với giấc mơ về chén bát: Mơ thấy chén bát có ý nghĩa gì?

Bạn cần phải buông bỏ những cảm xúc đau khổ và vết thương trong quá khứ và bắt đầu một tâm trạng thoải mái và tươi mới hơn nếu mơ thấy mình rửa chén.
Bất ngờ với giấc mơ về chén bát: Mơ thấy chén bát có ý nghĩa gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Tra cứu: Tử vi 2017 theo cung, mệnh bản thân, xem bói ngày sinh chuẩn xác

Bat ngo voi giac mo ve chen bat hinh anh
Ảnh minh họa



Mơ thấy có người đang xếp chén bát là điềm báo gia đình bạn sẽ được yên ổn, may mắn.    Mơ thấy nhận được chén bát bằng vàng, bạc là điềm tốt, gia đình bạn sắp được phát tài.    Mơ thấy nhận được chén bát bằng ngọc là bạn sẽ có tài lộc bất ngờ.    Mơ thấy chén bát bằng sứ, bạn nhận được lời mời ăn uống.    Mơ thấy chén bát đổ tung hay bị đập vỡ là điềm cãi vã trong gia đình, có thể bị đổ vỡ.    Mơ thấy người khua chén bát, bạn nên đề phòng chuyện tai tiếng, thị phi.    Mơ thấy chén bát rơi xuống giếng hay xuống sông, bạn cần đề phòng có nguy hiểm.

Nếu trong giấc mơ của bạn nằm mơ thấy mình đang rửa chén, giấc mơ này thể hiện tinh thần và khả năng kiểm soát cảm xúc của bạn. Giấc mơ này cũng cảnh báo một điềm báo bạn hãy cẩn thận kẻo bị chết đuối.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bất ngờ với giấc mơ về chén bát: Mơ thấy chén bát có ý nghĩa gì?

Xem hướng nhà theo tuổi cho phụ nữ tuổi Mão

Xem hướng nhà theo tuổi là nhu cầu cần thiết để có một nơi ở hợp phong thủy. Với phụ nữ tuổi Mão, hướng nhà nào tốt, hướng nhà nào không tốt, xin mời xem.
Xem hướng nhà theo tuổi cho phụ nữ tuổi Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem hướng nhà theo tuổi là nhu cầu cần thiết để có một nơi ở hợp phong thủy, hanh thông lâu dài. Với phụ nữ tuổi Mão, hướng nhà nào tốt, hướng nhà nào không tốt, xin mời xem hướng dẫn dưới đây.

Xem huong nha theo tuoi cho phu nu tuoi Mao
 
Theo phong thủy nhà ở, không có hướng tuyệt đối xấu cũng có hướng tuyệt đối tốt, chỉ có hướng phù hợp nhất và hướng không phù hợp nhất. Chính vì vậy mà gia chủ nên xem hướng nhà theo tuổi để chọn hướng phù hợp nhất với bản mệnh, tránh những hướng không cát lợi.    Từng tuổi có những hướng tốt hướng xấu khác nhau, cùng tuổi nhưng nam nữ khác mệnh nên hướng cũng thay đổi. Cùng xem hướng nhà tốt xấu cho phụ nữ tuổi Mão.  

1. Tuổi Kỷ Mão 1999 – mệnh Cấn

  - Hướng tốt:   Hướng Tây Nam – Sinh khí: Nhà này giàu có về điền sản, nhiều nhân đinh, hạnh phúc. Nhưng do Mộc tinh hành Mộc khắc hướng (Thổ) nên về sau sẽ kém dần.   Hướng Tây – Diên niên: Nhà này phát tài phát lộc nhanh chóng. Con cháu thông minh, đỗ đạt cao, gia đình hạnh phúc.   Hướng Tây Bắc – Thiên y: Nhà này được giàu sang phú quý, người nhà lương thiện, nhân đinh nhiều, tài lộc dồi dào theo phúc đức để lại. Do nhà thuần dương nên phụ nữ ốm yếu.   - Hướng xấu:   Hướng Đông Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu có tiền tài, có của ăn của để nhưng về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà sẽ kém hơn nam giới về sức khỏe và công danh tiền tài.   Hướng Đông Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này thường gặp nguy hiểm từ bên ngoài vào. Người trong nhà dễ mắc bệnh chứng gió, dễ gặp tai họa, trộm cướp, thiệt mạng. Con út là người dễ thương tổn.   Hướng Đông – Lục sát: Nhà này ban đầu bình yên, về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.   Hướng Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng giàu có, nhưng về sau tài lộc suy dần, nhân khẩu không tăng, vợ lấn át chồng, gia đình hay mâu thuẫn.   Hướng Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, kiện tụng cãi vã. Gia sản ngày càng suy, không vượng. Do nhà dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà hay bị tổn thương.
Xem thêm bài viết 12 con giáp mua nhà năm nào được tuổi, hướng nhà nào phát tài phát lộc?
 

2. Tuổi Đinh Mão 1987 – mệnh Khôn

  - Hướng tốt:   Hướng Đông Bắc – Sinh khí: Nhà này nhiều tài lộc, giàu sang phú quý, nhiều tiền của, con cái thành đạt, nhiều đất đai. Về sau sẽ kém vì hành Mộc của sao Sinh khí sẽ làm suy giảm tài lộc.   Hướng Tây Bắc – Diên niên: Nhà này nhiều tài lộc, giàu có, có danh có tiếng, con cháu thông minh học giỏi, gia đình hạnh phúc, người trong nhà trường thọ.   Hướng Tây – Thiên y: Nhà này âm thịnh dương suy, ít con trai. Nhà này gia đạo tốt, nhiều tài lộc làm ăn, nhưng về sau dễ suy kém về kinh tế.   - Hướng xấu:   Hướng Tây Nam – Phục vị: Nhà này thời gian đầu cũng cũng phát đạt giàu có, nhưng về sau bị tổn hại, nam bị tổn thương, nữ nắm quyền trong gia đình, có khi trở thành cô quả.   Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn suy bại, không giàu có. Sức khỏe suy yếu, con trai thứ dễ tổn thọ sớm.   Hướng Nam – Lục sát: Nhà này những năm đầu cũng có tài lộc, nhưng về sau sa sút, giảm đinh, dương khí suy do đó nam giới đoản thọ, thiếu con nối dõi.   Hướng Đông – Họa hại: Xem hướng nhà tốt xấu cho phụ nữ tuổi Mão, nhà này lúc đầu giàu có, nhân khẩu tăng, nhưng về sau thì sa sút, thường gặp tai họa; người mẹ già dễ bị tổn thương.   Hướng Đông Nam – Ngũ quỷ: Nhà này không có tài lộc, gia sản bại sút, nhiều chuyện thị phi, dễ bất hòa, gia đình không yên, tranh chấp tài sản, hiếm con trai. Người mẹ dễ gặp tai họa.  

3. Tuổi Ất Mão 1975 – mệnh Cấn


Xem huong nha tot xau cho phu nu tuoi Mao
 
- Hướng tốt:   Hướng Tây Nam – Sinh khí: Nhà này giàu có về điền sản, nhiều nhân đinh, hạnh phúc. Nhưng do Mộc tinh hành Mộc khắc hướng (Thổ) nên về sau sẽ kém dần.   Hướng Tây – Diên niên: Nhà này phát tài phát lộc nhanh chóng. Con cháu thông minh, đỗ đạt cao, gia đình hạnh phúc.   Hướng Tây Bắc – Thiên y: Nhà này được giàu sang phú quý, người nhà lương thiện, nhân đinh nhiều, tài lộc dồi dào theo phúc đức để lại. Do nhà thuần dương nên phụ nữ ốm yếu.   - Hướng xấu:   Hướng Đông Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu có tiền tài, có của ăn của để nhưng về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà sẽ kém hơn nam giới về sức khỏe và công danh tiền tài.   Hướng Đông Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này thường gặp nguy hiểm từ bên ngoài vào. Người trong nhà dễ mắc bệnh chứng gió, dễ gặp tai họa, trộm cướp, thiệt mạng. Con út là người dễ thương tổn.   Hướng Đông – Lục sát: Nhà này ban đầu bình yên, về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.   Hướng Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng giàu có, nhưng về sau tài lộc suy dần, nhân khẩu không tăng, vợ lấn át chồng, gia đình hay mâu thuẫn.   Hướng Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, kiện tụng cãi vã. Gia sản ngày càng suy, không vượng. Do nhà dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà hay bị tổn thương.
Xem thêm bài viết Cách bố trí cửa sổ theo hướng nhà hợp phong thủy
 

4. Tuổi Quý Mão 1963 – mệnh Cấn

  - Hướng tốt:   Hướng Tây Nam – Sinh khí: Nhà này giàu có về điền sản, nhiều nhân đinh, hạnh phúc. Nhưng do Mộc tinh hành Mộc khắc hướng (Thổ) nên về sau sẽ kém dần.   Hướng Tây – Diên niên: Xem hướng nhà theo tuổi, nhà này phát tài phát lộc nhanh chóng. Con cháu thông minh, đỗ đạt cao, gia đình hạnh phúc.   Hướng Tây Bắc – Thiên y: Nhà này được giàu sang phú quý, người nhà lương thiện, nhân đinh nhiều, tài lộc dồi dào theo phúc đức để lại. Do nhà thuần dương nên phụ nữ ốm yếu.   - Hướng xấu:   Hướng Đông Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu có tiền tài, có của ăn của để nhưng về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà sẽ kém hơn nam giới về sức khỏe và công danh tiền tài.   Hướng Đông Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này thường gặp nguy hiểm từ bên ngoài vào. Người trong nhà dễ mắc bệnh chứng gió, dễ gặp tai họa, trộm cướp, thiệt mạng. Con út là người dễ thương tổn.   Hướng Đông – Lục sát: Nhà này ban đầu bình yên, về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.   Hướng Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng giàu có, nhưng về sau tài lộc suy dần, nhân khẩu không tăng, vợ lấn át chồng, gia đình hay mâu thuẫn.   Hướng Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, kiện tụng cãi vã. Gia sản ngày càng suy, không vượng. Do nhà dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà hay bị tổn thương.  

5. Tuổi Tân Mão 1951 – mệnh Khôn


Xem huong lam nha
 
- Hướng tốt:   Hướng Đông Bắc – Sinh khí: Nhà này nhiều tài lộc, giàu sang phú quý, nhiều tiền của, con cái thành đạt, nhiều đất đai. Về sau sẽ kém vì hành Mộc của sao Sinh khí sẽ làm suy giảm tài lộc.   Hướng Tây Bắc – Diên niên: Nhà này nhiều tài lộc, giàu có, có danh có tiếng, con cháu thông minh học giỏi, gia đình hạnh phúc, người trong nhà trường thọ.   Hướng Tây – Thiên y: Nhà này âm thịnh dương suy, ít con trai. Nhà này gia đạo tốt, nhiều tài lộc làm ăn, nhưng về sau dễ suy kém về kinh tế.   - Hướng xấu:   Hướng Tây Nam – Phục vị: Nhà này thời gian đầu cũng cũng phát đạt giàu có, nhưng về sau bị tổn hại, nam bị tổn thương, nữ nắm quyền trong gia đình, có khi trở thành cô quả.   Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn suy bại, không giàu có. Sức khỏe suy yếu, con trai thứ dễ tổn thọ sớm.   Hướng Nam – Lục sát: Nhà này những năm đầu cũng có tài lộc, nhưng về sau sa sút, giảm đinh, dương khí suy do đó nam giới đoản thọ, thiếu con nối dõi.   Hướng Đông – Họa hại: Xem hướng làm nhà, nhà này lúc đầu giàu có, nhân khẩu tăng, nhưng về sau thì sa sút, thường gặp tai họa; người mẹ già dễ bị tổn thương.   Hướng Đông Nam – Ngũ quỷ: Nhà này không có tài lộc, gia sản bại sút, nhiều chuyện thị phi, dễ bất hòa, gia đình không yên, tranh chấp tài sản, hiếm con trai. Người mẹ dễ gặp tai họa.
Xem thêm bài viết Tính chất 8 sao quyết định hướng nhà trong bát trạch phong thủy
 

6. Tuổi Kỷ Mão 1939 – mệnh Cấn

  - Hướng tốt:   Hướng Tây Nam – Sinh khí: Nhà này giàu có về điền sản, nhiều nhân đinh, hạnh phúc. Nhưng do Mộc tinh hành Mộc khắc hướng (Thổ) nên về sau sẽ kém dần.   Hướng Tây – Diên niên: Nhà này phát tài phát lộc nhanh chóng. Con cháu thông minh, đỗ đạt cao, gia đình hạnh phúc.   Hướng Tây Bắc – Thiên y: Nhà này được giàu sang phú quý, người nhà lương thiện, nhân đinh nhiều, tài lộc dồi dào theo phúc đức để lại. Do nhà thuần dương nên phụ nữ ốm yếu.   - Hướng xấu:   Hướng Đông Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu có tiền tài, có của ăn của để nhưng về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà sẽ kém hơn nam giới về sức khỏe và công danh tiền tài.   Hướng Đông Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này thường gặp nguy hiểm từ bên ngoài vào. Người trong nhà dễ mắc bệnh chứng gió, dễ gặp tai họa, trộm cướp, thiệt mạng. Con út là người dễ thương tổn.   Hướng Đông – Lục sát: Nhà này ban đầu bình yên, về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.   Hướng Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng giàu có, nhưng về sau tài lộc suy dần, nhân khẩu không tăng, vợ lấn át chồng, gia đình hay mâu thuẫn.   Hướng Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, kiện tụng cãi vã. Gia sản ngày càng suy, không vượng. Do nhà dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà hay bị tổn thương.
Xem hướng nhà theo tuổi: Nam tuổi Mão nên và không nên làm nhà theo hướng nào? Giải đáp những thắc mắc thường gặp để xác định hướng nhà tốt Muốn chọn hướng nhà tốt, nhớ ngay 4 lưu ý
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem hướng nhà theo tuổi cho phụ nữ tuổi Mão

Top con giáp luôn coi nhan sắc là nhất –

Trong 12 con giáp mỗi con giáp có một tính cách không giống nhau. Và đặc biệt là có những con giáp luôn coi trọng nhan sắc nhất. Trong đầu của họ luôn đặt nhan sắc lên hàng đầu? Vây những con giáp nào luôn coi nhan sắc là nhất?. Con giáp nào luôn coi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong 12 con giáp mỗi con giáp có một tính cách không giống nhau. Và đặc biệt là có những con giáp luôn coi trọng nhan sắc nhất. Trong đầu của họ luôn đặt nhan sắc lên hàng đầu? Vây những con giáp nào luôn coi nhan sắc là nhất?. Con giáp nào luôn coi trọng nhan sắc? Để giải đáp được những điều này thì chúng ta cùng đọc bài viết sau để xem mình có nằm trong danh sách ấy không nhé. Theo các chuyên gia xem tử vi thì sinh ra với thân phận rồng phượng cao quý, cô nàng tuổi Thìn vô cùng tự tin với nhan sắc trời phú của mình. Những tuổi khá thì sao chúng ta cùng đọc nhé!

Nội dung

  • 1 Những con giáp luôn coi nhan sắc là nhất
    • 1.1 Thứ 1: Cô nàng tuổi Thìn
    • 1.2 Thư 2: Cô nàng tuổi Mùi
    • 1.3 Thứ 3: Cô nàng tuổi Thân

Những con giáp luôn coi nhan sắc là nhất

Thứ 1: Cô nàng tuổi Thìn

Bất kể là với bản thân hay đối tượng để chọn làm người yêu, họ đều có yêu cầu cao về ngoại hình.

images851511-tuoiRong2-2272-1405816326

Cô gái tuổi Thìn có thể đứng trước gương hàng giờ để chải chuốt, ngắm nghía và mỉm cười tự hào về sắc đẹp kiêu sa của bản thân. Thậm chí, nếu nhan sắc chỉ ở mức trung bình, họ vẫn đưa ra những yêu cầu cao về ngoại hình trong việc lựa chọn nửa kia cho “đôi lứa xứng đôi”.

Thư 2: Cô nàng tuổi Mùi

Bản thân người tuổi Mùi đã có sức hút thiên bẩm đối với người khác giới. Đây là ưu điểm mà những quý cô tuổi Mùi luôn tự hào và muốn khai thác triệt để. Do vậy, họ thường kén chọn ai có tướng mạo bảnh bao để cân xứng với “độ hot” của bản thân.

van-han-nguoi-tuoi-mui-nam-201-5740-5450-1405816326

Nếu một ngày nào đó thức dậy với khuôn mặt nhăn nhúm, những cô nàng tuổi Mùi sẽ mất ăn mất ngủ, thậm chí lo lắng, trầm cảm. Bởi với họ, nhan sắc thời thanh xuân không gì có thể mua nổi. Và chỉ có nó mới tạo ra ma lực khó cưỡng đối với hội đầu keo.

Thứ 3: Cô nàng tuổi Thân

Nổi bật với tính cách linh hoạt, năng động và có phần xông xáo nên những nàng tuổi Thân thường tự tin với năng lực và vốn kiến thức sâu rộng mình. Theo họ, nhan sắc bên ngoài dù không có tính chất lâu dài, nhưng lại là tiền đề quan trọng trong các mối quan hệ xã giao. Bởi cái đập vào mắt mọi người đầu tiên chính là vẻ ngoài chứ không phải nội tâm bên trong.

khi-7489-1405816326

Người tuổi Thân sẽ không bao giờ ăn mặc tùy tiện khi ra đường. Với họ, bản thân trau chuốt, xinh đẹp cũng là cách để tôn trọng mọi người. Đồng thời nó cũng phát huy hiệu quả trong việc tạo ấn tượng và tình cảm tốt đối với những người xung quanh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top con giáp luôn coi nhan sắc là nhất –

Cách khai vận cho 12 con giáp thật hanh thông

Căn cứ vào đặc trưng của từng con giáp mà có cách khai vận phong thủy phù hợp. Hãy cùng ## hãy khai vận cho 12 con giáp.
Cách khai vận cho 12 con giáp thật hanh thông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Căn cứ vào đặc trưng của từng con giáp mà có cách ứng dụng cũng như khai vận phong thủy phù hợp. Hãy cùng ## tìm hiểu kỹ về vấn đề này, giúp cuộc sống của bạn thêm may mắn và thư thái hơn.

  1. Người tuổi Tý   - Tý gặp Thìn thì hưng vượng. Nên có thể bài trí tranh, tượng Rồng bên phía tay trái. Tý gặp Thân thì phong hầu, tìm được quý nhân giúp đỡ.   - Tý gặp Sửu thì ngạo mạn, có thể bày tượng trâu ở hướng Đông Bắc để hút vận quý nhân.    - Chuột có lương thực thì trường thọ, có thể bày những vật phẩm phong thủy mang hình các loại ngũ cốc, thể hiện sự trường thọ. Người tuổi Tý nên tham gia các công việc thu hoạch mùa màng, cây trái để tăng vận khí.  
Cach khai van cho 12 con giap that hanh thong hinh anh
 
- Chuột gặp nhà tức là hưởng phúc. Trong nhà nên bài trí những vật phẩm phong thủy mang ý nghĩa phúc lộc thọ để cầu phúc đức.   - Tý được khoác lên mình những trang sức lộng lẫy thì càng thêm quý phái, sang trọng. Đồng thời, có thể đeo trang sức bằng cây cỏ, hoa lá để tăng tài khí.   - Tý gặp Ngọ thì xung sát, cần tránh thì hơn.   - Tý gặp Mùi thì không cát lành, đề phòng bị Mùi hãm hại.   - Chuột gặp lửa chẳng thể sống nổi, chuột sợ lửa, nên tránh xa lửa.   - Phương vị khai vận cho Tý: Thân Tý Thìn khai vận ở hướng Tây, nên hướng Tây chính là phương vị khai vận cho người tuổi Tý.    2. Người tuổi Sửu   - Sửu gặp Tý tức có phú quý, phúc đức. Có thể bày bảo bối phong thủy hình con chuột, chuột mang châu báu, chuột mang ngọc để mang tới lục hợp phú quý, tài lộc dồi dào, quý nhân tương trợ.   - Sửu gặp Tỵ như gặp được quý nhân giúp sức, phúc đức muôn phần. Có thể bài trí tượng rắn ở hướng Đông Nam để thúc vận quý nhân.   - Sửu gặp Dậu càng đại cát. Có thể bài trí tượng gà ở chính Tây, ngụ ý tìm được quý nhân phù trợ.  
Cach khai van cho 12 con giap that hanh thong hinh anh 2
 
- Sửu gặp nhà sẽ càng thêm trưởng thành, do đó nên bài trí bình hoa quý hay để người tuổi Sửu tiếp xúc với những vật dụng liên quan tới gia đình để tăng vận khí.   - Trâu ra đồng như khí thêm vượng, nên tiếp xúc với đồng ruộng, vườn cây để tăng vận khí phúc lộc thọ.   - Sửu gặp xe như thêm năng lượng. Có thể bài trí vật phẩm phong thủy là xe các loại để thúc vận khí sự nghiệp tăng lên.   - Trâu gặp cỏ, cuộc sống no đủ. Nên có thể trưng các vật phẩm phong thủy có hình ảnh ngũ cốc biểu trưng, mùa thu về đồng ruộng, tham gia gặt hái, thu hoạch mùa màng thì vận khí sẽ tăng.   - Sửu gặp Mùi thì xung sát, cẩn thận bị Mùi tương xung.   - Sửu gặp Ngọ thì tương hại, cần đề phòng Ngọ.   - Phương vị khai vận của Sửu là hướng chính Nam.   3. Người tuổi Dần   - Xét về vấn đề khai vận cho 12 con giáp, khi Dần gặp Hợi càng hưởng phúc, có thể bài trí vật phẩm phong thủy hình con lợn ở hướng Tây Bắc để tăng vận quý nhân.   - Dần gặp Ngọ, sự nghiệp càng vượng. Có thể bài trí tượng ngựa hay tranh ngựa ở hướng chính Nam, cầu quý nhân giúp đỡ.  
Cach khai van cho 12 con giap that hanh thong hinh anh 3
 
- Dần gặp Tuất, giàu càng thêm giàu. Có thể bài trí tượng, tranh con chó ở hướng Tây Bắc để được quý nhân phù trợ.   - Dần gặp núi ví như có điểm tựa, khí thế càng thêm mạnh. Nên có thể bài trí hòn non bộ, vật phẩm phong thủy hình ảnh núi non, cây cảnh để nạp thêm phúc khí.   - Dần gặp rừng ví như “thả hổ về rừng”, tìm được nơi thân quen, người thân tín. Vì thế, có thể bài trí đồ vật bằng gỗ để tăng vận khí.   - Hổ gặp Thân thì tương hại, không mâu thuẫn thì cũng dễ đắc tội lẫn nhau.    (Còn nữa)  
=> Xem ngày tốt để khai vận theo Lịch vạn sự

Hoàng Lam   Phương pháp khai vận phong thủy để 6 tháng cuối năm hốt bạc
Nếu muốn công việc, sự nghiệp và tài lộc của bạn hưng vượng trong 6 tháng cuối năm, bạn có thể áp dựng một số phương pháp khai vận phong thủy dưới đây, mọi

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách khai vận cho 12 con giáp thật hanh thông

Những điều cơ bản cần nắm vững tránh sinh tà khí trong nhà

Tà khí là gì và cách hóa giải tà khí trong nhà như thế nào?
Những điều cơ bản cần nắm vững tránh sinh tà khí trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tà khí là gì?

Tà khí là những luồng khí có thể giết chết năng lượng tích cực xung quanh ngôi nhà.  Tà khí sinh ra chủ yếu do bố cục nội thất bất hợp lý và địa thế đất xung quanh. Tuy nhiên, những thực thế sống như những đối thủ cạnh tranh hay những người vô đạo đức, những tên đầu trộm đuôi cướp cũng có thể tạo thêm sát khí xung quanh nhà của bạn. 

Vì khí tự nó có thể chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác nên sinh khí rất có thể chuyển thành tà khí. Ví dụ như đối diện nhà là hồ nước, điều này tưởng chừng như rất tốt nhưng lại có thể hóa thành tà khí nếu nhà ở vị trí ngã ba.

Tà khí đến từ đâu?

'Mũi tên độc' được tạo ra từ các vật sắc nhọn

Nhà gần nghĩa trang

Khí di chuyển với một tốc độ quá nhanh

Hàng xóm xấu

Không gian sống bức bối (Ví dụ: trần nhà thấp)

Đồ đạc bị nứt, vỡ

Tà khí có thể dễ dàng chuyển đổi trở lại sinh khí bằng cách sử dụng các pháp khí hóa giải. Hành lang dài có thể dễ dàng tạo ra tà khí do đường thẳng của mình, hãy thử đặt đèn sáng hoặc cây xanh để làm chậm lại luồng khí nhanh và mạnh. 

Các bảo bối phong thủy nào giúp hóa giải tà khí?

Tượng Quan Công cưỡi ngựa: Quan Công với vẻ mặt hung dữ, tay cầm đại đao và gươm giúp trấn yểm tà khí. 

Đèn ngũ hành: Đèn ngũ hành có vai trò lớn trong việc ngăn chặn khí xấu ảnh hưởng đến ngôi nhà, hóa giải được sao Ngũ Hoàng đại sát (ngôi sao mang lại bất hạnh, bi kịch và rủi ro). 

Chuông chày Kim Cang:


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cơ bản cần nắm vững tránh sinh tà khí trong nhà

Những bước luận đoán lá số Tử vi (phần 1) –

Muốn lập thành một lá số Tử Vi cần phải hội đủ 4 yếu tố là Năm-Tháng-Ngày-Giờ sinh theo Âm Lịch. Cách lập thành lá số Tử Vi nói chung có nguyên tắc chỉ dẩn khá rỏ ràng, nhưng về phương cách giải đoán thì còn phải tùy theo trình độ, cơ duyên và kinh n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ghiệm… của người giải đoán mà sẽ có những lời giải đoán khác nhau cho lá số tu vi.

Để giải đoán được Tử Vi giỏi, đại khái cần phải có 4 điều kiện sau:

Trí nhớ – Tử Vi là một khoa lý số cổ học rất phức tạp nên rất cần có trí nhớ tốt để thuộc các nguyên lý của Âm dương, Ngũ hành, Can Chi và ý nghĩa tính chất của các Sao.
Suy luận – Phải suy luận để phân tích, phối hợp, chế hóa sự sinh khắc của âm dương ngũ hành và xấu tốt của các sao đóng tại mỗi cung số.

Trực giác – Cần phải có trực giác bén nhạy để giúp ích cho những sự suy luận.

Kinh nghiệm – Phải thực hành cho nhiều, đối chiếu phần thực nghiệm với lý thuyết để suy luận ra những lời giải đoán cho súc tích, phong phú và chính xác.

Để giúp các bạn mới bắt đầu tự nghiên cứu Tử Vi được dễ dàng, dễ hiểu và có kết quả, chúng tôi mạo muội xin đưa ra những phương pháp, hướng dẫn cụ thể để các bạn theo thứ tự học hỏi hầu có thể tự giải đoán được lá số của mình.

Xem giải thích cách trình bày và hiểu ý nghĩa của lá số.

Những Nguyên Tắc Căn Bản phải nhớ trong tu vi

Những nguyên tắc căn bản về Âm Dương / Can Chi và Ngũ hành sinh khắc trong tu vi .

Những quy tắc phối chiếu của Tam hợp – Nhị hợp – Xung chiếu giữa các cung trong lá số Tử Vi.

tl-tu-vi-3

Những Tiến Trình Luận Đoán Số phải theo:

Xét sự thuận nghịch về lý âm dương giữa Năm sinh với vị trí cung an Mệnh để biết tổng quát tốt xấu của cung cần giải đoán.

Xét sự sinh khắc ngũ hành của Can Chi Năm sinh

Xét sự tương quan ngũ hành giữa bản Mệnh và Cục

Xem phối hợp hai cung tam hợp với cung an Mệnh-Thân

Xem phối hợp cung nhị hợp với cung an Mệnh-Thân

Xem phối hợp cung xung chiếu với cung an Mệnh-Thân

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Thái Tuế trên lá số

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Lộc Tồn trên lá số

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Tràng Sinh trên lá số

Phải xét qua tất cả các yếu tố trên rồi phối hợp lại để đưa ra lời lý giải tổng quát về những nét đại cương của cuộc đời cho lá số.

Những Đặc Tính của các Sao phải hiểu trong tu vi

Xem tổng hợp bộ cách của Chính tinh và các trung tinh tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an Thân và cung Phúc Đức để biết tổng quát lá số của mình được các cách gì.

Xem ý nghĩa và đặc tính của Chính tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại cung Mệnh và Thân.

Xem ý nghĩa và đặc tính của các Trung tinh và Phụ tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp của cung Mệnh-Thân.

Xét ý nghĩa, đặc tính, vị trí và sự đắc hãm của các Hung Sát tinh trên lá số.

Xem ảnh hưởng của các Hung Sát Bại tinh (nếu có) tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại các cung quan trọng như tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an Thân và cung Phúc Đức.

Xét tới giá trị và ảnh hưởng biến đổi của các sao theo thời gian của mệnh số.

Xem sự liên đới của các sao với nhau, nếu các sao này kết hợp thành cách cục hay bộ cách thì sẽ có tác dụng mạnh mẽ hơn là đóng đơn lẽ hay lạc lỏng.

Nếu muốn xem cung nào thì phải phối hợp ý nghĩa, đặc tính và đặc điểm của các sao tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại cung đó, quân bình số lượng các sao rồi đúc kết các yếu tố lại để đưa ra lời lý giải kết luận về cung muốn xem.

Phải tập xem phần giải đoán qua các lá số mẫu để biết cách lý giải lá số. Phần này có thể xem qua các bài sưu tập về “Vấn đáp Tử Vi < vdap_tv.html&g thienduc thamluan.lysodongphuong.com” của Tướng Số gia Thiên Đức đăng lại trên trang Web này để rút tỉa kinh nghiệm về cách thức giải đoán lá số. Mỗi câu vấn đáp nói trên đều có phần lược giải về Tử Vi cho người đặt ra câu hỏi.

Hiện tại phần “Tính lý các sao” của trang Lý Số Đông Phương chưa được hoàn thành đầy đủ, nên các bạn có thể qua trang Web của Vietshare , sau khi lấy xong lá số thì nhấn nút chuột trên tên của mỗi sao tại cung nào muốn xem thì sẽ có ngay lời giải tóm tắt về đặc tính của sao đó ngay trên màn ảnh.

Những cung cần phải xem

Cùng một cách xem cho cung Mệnh-Thân và Phúc Đức, xét và luận đoán các cung liên hệ đến bản thân mình là Quan lộc – Tài bạch – Tật ách – Thiên di – Điền trạch – Nô bộc.

Cùng một cách xem cho cung Mệnh-Thân và Phúc Đức, xét và luận đoán các cung liên hệ đến lục thân như Phối ngẫu – Tử tức – Phụ mẫu – Huynh đệ

Những Vận Hạn Trong Cuộc Đời phải biết

Cách Giải Đoán Vận Hạn

Xem các Đại vận 10 năm của lá số

Xem Tiểu vận từng năm

Luận về cung tam hợp

Sách số nào cũng chỉ khi xem một cung thì phải xem phối hợp: cung chính, hai cung tam hợp, cung xung chiếu và cung nhị hợp, tất cả là 5 cung cùng một lúc để giải đoán.

Có quan điểm còn đánh giá thứ tự ưu tiên hoặc xếp đặt ra giá trị tỷ lệ cho cung chiùnh là quan trọng nhất, thứ nhì là cung xung chiếu, thứ ba mới đến hai cung tam chiếu với cung chính và sau hết là cung nhị hợp. Sự đánh giá này nhằm phân định được các ảnh hưởng nào là trực tiếp và ảnh hưởng nào là gián tiếp để giúp cho việc giải đoán được cụ thể và đầy đủ hơn.

Riêng theo cụ Thiên Lương thì căn bản chính yếu của một cung chỉ có một cung chính và hai cung tam hợp. Cung nhị hợp (tương sinh) chỉ phụ thêm bổ túc cho cung chính. Còn cung xung chiếu (tương khắc) tuyệt đối chính là đối phương.

Dưới đây là 4 bảng Tam Hợp trong tu vi:

Sở dĩ không có tam hợp hành Thổ vì trong 4 tam hợp trên đều có hành Thổ làm nền tảng để cho Tứ Sinh (Dần-Thân-Tỵ-Hợi) phát nguồn bồi đắp cho Tứ Chính (Tý-Ngọ-Mão-Dậu) được đầy đủ sung túc để trở thành những hành chính trong tam hợp.

Theo Dịch học, hành Thổ là nguồn gốc phát xuất ra các hành khác, rồi tập trung về lại nguồn cội trung ương, hành Thổ phối hợp với 4 hành Kim-Mộc-Thủy-Hỏa thành 4 cục diện, là thế tam hợp căn bản của Tử Vi Đẩu Số.

Nhận xét về bảng Tam Hợp dưới đây sẽ thấy trong mỗi cục diện gồm có 3 hành, tuy khác nhau nhưng cùng liên minh với nhau thành một hành chung, để cùng các cục diện khác tranh đua biến đổi sinh khắc lẫn nhau.

Ngoài ra, theo cụ Việt Viêm Tử thì cần phải phân biệt đến hai chiều thuận nghịch theo quy lý âm dương của tam hợp cục nữa. Lấy ví dụ người có cung mệnh tại Ngọ trong tam hợp cục Dần-Ngọ-Tuất. Nếu là Dương Nam/ Âm Nữ khởi theo chiều thuận đi từ cung Dần đến cung Tuất nên những sao tam hợp đóng tại cung Dần sẽ ảnh hưởng nhiều hơn là những sao cùng tam hợp tại cung Tuất. Còn với người Âm Nam/ Dương Nữ theo chiều nghịch đi ngược lại từ cung Tuất đến cung Dần nên những sao tam hợp tại cung Tuất sẽ ảnh hưởng nặng hơn là những sao tại cung Dần.

Thuyết Âm Dương theo kinh Dịch Chúng tôi xin sơ lược tóm tắt về thuyết Âm Dương:

Theo học thuyết cổ của Trung Hoa, nguồn gốc sơ khởi của vạn vật trong vũ trụ là Thái Cực. Trong thái cực có hai động thể tiềm phục đó là hai khí Âm Dương – gọi là Lưỡng Nghi.

Âm và Dương là hai mặt tương phản đối lập, mâu thuẫn, ức chế lẫn nhau nhưng thống nhất, nương tựa, thúc đẩy lẫn nhau, trong Dương có mầm của Âm và trong Âm có mầm của Dương. Vạn vật được sinh thành và biến hóa nhờ hai khí Âm Dương này phối hợp.

Hai khí Âm Dương giao tiếp tuần hoàn sinh hóa ra vạn vật theo 4 trạng thái phát triễn và suy tàn được gọi là Tứ Tượng (Thiếu Dương – Thái Dương và Thiếu Âm – Thái Âm)

“Khí của trời đất, hợp thì là một, chia thì là Âm và Dương, tách ra làm bốn mùa, bày xếp thành Ngũ hành.” (Đổng Trọng Thư)

Tứ tượng nhờ ảnh hưởng của hai khí Âm Dương thúc đẩy và biến hóa khai sinh ra:

4 mùa – Xuân Hạ Thu Đông

5 chất gọi là Ngũ hành : Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ

8 hình dạng khác nhau của vũ trụ được gọi là Bát Quái
Càn chỉ trời, Khảm chỉ nước, Cấn chỉ núi non, Chấn chỉ sấm sét, Tốn chỉ gió, Ly chỉ lửa, Khôn chỉ đất, Đoài chỉ đầm lầy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bước luận đoán lá số Tử vi (phần 1) –

30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại

30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại. Những câu nói từ vĩ nhân, thiên tài, người nổi tiếng cho đến người vô danh đã tạo được sức truyền cảm lớn
30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại. Những câu nói từ vĩ nhân, thiên tài, người nổi tiếng cho đến người vô danh đã tạo được sức truyền cảm lớn và ảnh hưởng đến hàng triệu người trên thế giới.

30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại

1. “Bất cứ ai đã từng làm được điều gì đó quan trọng chắc chắn đều đã trải qua những kỷ luật hà khắc”. – Andrew Hendrixson.

———

2. “Đừng lãng phí thời gian đập đầu vào tường với hy vọng biến nó thành một cánh cửa”. – Coco Chanel.

———-

3. “Sáng tạo chính là để trí thông minh rong chơi”. – Albert Einstein.

———-

4. “Lạc quan là một trong những phẩm chất tốt để gắn kết thành công và hạnh phúc hơn mọi thứ khác”. – Brian Tracy.

———-

5. “Hãy luôn mở to đôi mắt. Hãy quan sát khắp mọi thứ xung quanh. Bởi vì bất kỳ điều gì bạn thấy đều có thể truyền cảm hứng cho bạn”. – Grace Coddington.

6. “Những gì bạn có được sau khi đạt mục tiêu không quan trọng bằng bạn trở thành người thế nào sau khi đạt được điều đó”. – Henry David Thoreau.

7. “Nếu kế hoạch đề ra không hiệu quả, hãy thay bằng một kế hoạch khác, đừng bao giờ thay đổi mục tiêu”. – Author Unknown.

8. “Tôi hạ gục đối thủ của mình bằng cách kết bạn với họ”. – Abraham Lincoln.

9. “Đừng sống cùng một năm đến 75 lần và gọi đó là cuộc đời”. – Robin Sharma.

10. “Bạn không thể cứu sống người khác, bạn chỉ có thể yêu thương họ”. – Anaïs Nin.

11. “Trời đã không mưa khi Noah dựng nên con tàu”. Howard Ruff.

12. “Hãy ước mơ một cách nghiêm túc”. – Author Unknown.

13. “Không có con đường nào dẫn đến hạnh phúc. Hạnh phúc chính là một con đường”. – Thích Nhất Hạnh.

14. “Kiềm chế sự giận dữ giống như khi bạn uống thuốc độc và hy vọng người khác phải chết”.

15. “Những nhà vô địch không bao giờ ngừng chơi cho đến khi họ đạt được đúng nghĩa của từ vô địch”. – Billie Jean King.

16. “Bạn sẽ thành công thôi, bởi vì hầu hết mọi người đều rất lười”. – Shahir Zag.

17. “Thiên tài là 1% cảm hứng và 99% mồ hôi”. – Thomas Edison.

18. “Một môi trường yên bình là một nơi rất đẹp, nhưng chẳng có gì có thể phát triển được ở đó cả”. – Author Unknown.

19. “Bạn cần phải thay đổi theo cách bạn muốn để khám phá thế giới”.- Mahatma Gandhi.

20. “Kìm nén nỗi đau một thời gian chỉ khiến bạn đau hơn cho đến khi bạn thực sự cảm nhận được nó”. – Albus Dumbledore.

21. “Hãy làm mọi thứ với niềm đam mê hoặc không cần làm gì cả”. — Rosa Nouchette Carey.

22. “Nếu bạn muốn sống hạnh phúc, hãy buộc nó với một mục tiêu nhất định, không phải với người nào đó hay điều gì khác”. – Albert Einstein.

23. “Cỏ sẽ xanh hơn nếu như bạn tưới nước cho nó hàng ngày”. – Neil Barringham.

24. “Không bao giờ được từ bỏ ước mơ chỉ vì mất quá nhiều thời gian để thực hiện. Dù sao thì thời gian cũng sẽ trôi đi mà thôi”. – Earl Nightingale.

25. “Thay vì tự hỏi sẽ đi đâu trong kỳ nghỉ tiếp theo, có lẽ bạn nên tự tạo cho mình một cuộc sống mà bạn không cần phải chạy trốn”. – Seth Godin.

26. “Nếu có điều gì đó khiến bạn sợ hãi, đó cũng có thể là điều rất đáng để trải nghiệm”. – Seth Godin.

27. “Đôi khi bạn chiến thắng nhưng đôi khi bạn cũng cần phải học hỏi”. – John Maxwell.

28. “Đừng bao giờ cảm thấy có lỗi khi có một lối sống xa hoa. Những ai thực sự muốn có cuộc sống như bạn sẽ phải phấn đấu để đạt được nó”. – Ziad K. Abdelnour.

29. “Tôi chưa bao giờ mơ tưởng về sự thành công. Tôi chỉ làm việc để đạt được nó”. – Estee Lauder.

30. “Trốn tránh thất bại nghĩa là là bạn đang bỏ qua sự tiến bộ”. – Unknown Author.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 30 câu nói truyền cảm hứng hay nhất mọi thời đại

Giải mã tất tần tật về nốt ruồi trên ngón tay

Nốt ruồi trên ngón tay hay các đốt ngón tay khác nhau sẽ mang ý nghĩa biểu thị không giống nhau. Nhưng tất cả đều tiết lộ về cá tính, con người bạn.
Giải mã tất tần tật về nốt ruồi trên ngón tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nốt ruồi trên ngón tay hay các đốt ngón tay khác nhau sẽ mang ý nghĩa biểu thị không giống nhau. Nhưng tất cả đều tiết lộ về cá tính, con người cũng như vận mệnh của bạn.


not ruoi tren ngon tay hinh anh
 

1. Nốt ruồi trên ngón tay cái   Đốt ngón tay cái thứ nhất có nốt ruồi: Chủ nhân của tướng nốt ruồi này có sức cuốn hút mãnh liệt với người khác giới, đi tới đâu cũng thành trung tâm chú ý. Nhưng đường tình duyên lại không mấy thuận lợi, bản thân luôn chìm đắm trong đó, lãng phí nhiều thời gian và tiền bạc, dần già bị hao tài tốn của.   Giữa hai đốt ngón tay cái có nốt ruồi: Khả năng phán đoán của người này kém, đầu óc ảo tưởng, nghĩ tới điều hão huyền, rối loạn. Thêm nữa, tính cách ngạo mạn, tự phụ.   Đốt ngón tay cái thứ hai có nốt ruồi: Tính cách người này cố chấp, khó kết giao bạn bè. Khả năng ứng biến kém, đối diện với khó khăn thường rơi vào trạng thái tâm lý hỗn độn, đặc biệt là về mặt tiền bạc.  
not ruoi tren ngon tay hinh anh 2
 
2. Nốt ruồi trên ngón tay trỏ   Đốt ngón tay trỏ thứ nhất có nốt ruồi: Sở hữu tướng nốt ruồi này, bạn dễ rơi vào trạng thái tinh thần hoảng hốt, khả năng tập trung kém, thường là do bế tắc mà bị phân tâm, thậm chí gặp họa ngoài ý muốn cũng vì thế. Trong công việc, đôi khi bạn xử lý khá tiêu cực, hành động phân tán, không chịu được áp lực, không thích hợp làm những nghề mang tính cạnh tranh và dễ bị kích động.   Đốt giữa có nốt ruồi: Bạn có ý chí lập nghiệp lớn, tinh thần ngoan cường, không sợ khó khăn nguy hiểm, dũng cảm đối mặt với khó khăn. Đôi khi sự liều lĩnh của bạn lại khiến người khác phải kinh ngạc.   Đốt ngón tay trỏ thứ ba có nốt ruồi: Bạn tôn sùng chủ nghĩa cá nhân, không biết tha thứ và yêu thương người khác, giữa bạn và mọi người có một khoảng cách khá lớn. Ngoài ra, khả năng giao tiếp kém, lòng đố kị lại lớn nên không mấy khi bạn tiếp thu ý kiến của người khác.   3. Nốt ruồi trên ngón tay giữa   Đốt thứ nhất có nốt ruồi: Người này tính khí hung bạo, dễ bị kích động, thích gây hấn với mọi người vì thế mà vướng vào thị phi, tranh cãi liên miên.   
not ruoi tren ngon tay hinh anh 3
 
Đốt giữa có nốt ruồi: Điều này cho thấy tư tưởng chủ nhân nhỏ hẹp, nhưng có thế xử lý công việc khá cẩn thận, tận tâm tận lực trong công việc. Nhưng nhược điểm mà họ mắc phải là khó kiểm soát cảm xúc, có cái nhìn phiến diện đối với người khác, nên gặp sự ít người giúp đỡ, số mệnh cũng long đong lận đận.   Đốt thứ ba có nốt ruồi: Người này khó tập trung tinh thần cao độ trong công việc, làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm, không muốn đảm nhận trọng trách. Họ chi tiêu theo kiểu giữ thể diện, với người khác thì hào phóng, nhưng bản thân mình lại tằn tiện.   4. Nốt ruồi trên ngón vô danh (ngón áp út, ngón đeo nhẫn)   Đốt thứ nhất có nốt ruồi: Bạn thuộc tuýp dễ bị kích động, vội vàng hấp tấp, làm việc thiếu nhiệt tình và tùy hứng. Vì thế bạn dễ bỏ dở giữa chừng, lại để chuyện tình cảm xen ngang vào công việc nên khó thành đại sự.    Đốt giữa có nốt ruồi: Tài vận của bạn không tốt lắm, không thích hợp với những việc mang tính đầu cơ quá lớn. Có nốt ruồi này, bạn tuyệt đối tránh xa cờ bạc, những trò may rủi kẻo khuynh gia bại sản lúc nào không hay.   Đốt thứ ba có nốt ruồi: Bạn quá coi trọng cái tôi, chúa ghét bị ràng buộc, xử lý công việc thì độc đoán, chuyên quyền, không hòa nhập với tập thể. Về tiền bạc, tiền tới rất nhanh, đi cũng rất nhanh vì thói quen tiêu tiền như nước.  
not ruoi tren ngon tay hinh anh 4
 
5. Nốt ruồi trên ngón tay út

Đốt thứ nhất có nốt ruồi: Khả năng ăn nói của người này không tốt, nói năng không nể nang ai nên dễ làm tổn thương tới người xung quanh. Người này tính cách quá bảo thủ, tư tưởng nhu nhược nên làm gì cũng thấy chật vật, vất vả.   Đốt giữa có nốt ruồi: Đây là người thích bịa chuyện, đặt điều nên không được mọi người tin tưởng. Về mặt tiền bạc, người này không biết tính toán, khả năng phán đoán kém, thường thất bại trong đầu tư hoặc kinh doanh, thương mại.   Đốt thứ ba có nốt ruồi: Người này nhiều toan tính, thích động não, ham kiếm tiền nhưng thái độ với bạn bè, người thân lại thờ ơ, lãnh đạm.   
=> Xem nốt ruồi biết số mệnh, vận hạn chuẩn xác

Việt Hoàng

Bật mí thú vị ít biết về nốt ruồi ở cằm nam giới
– Nếu phía cằm phải bất ngờ xuất hiện nốt ruồi, nhiều khả năng người thân trong nhà mắc trọng bệnh, sức khỏe giảm sút. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã tất tần tật về nốt ruồi trên ngón tay

Tử vi Tân Sửu phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

TÂN SỬU: BÍCH THƯỢNG THỔ   Tử vi Tân Sửu là con trâu rừng, tính cách đôn hậu, đại lượng vô tư, bậc quân tử kính trọng mà kẻ tiểu nhân thì đố kỵ. Bích thượng Thổ là chỗ nương tựa của nóc nhà, xà nhà, dựng cổng dựng cửa, có đức ngăn nóng chống lạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

TÂN SỬU: BÍCH THƯỢNG THỔ

 

Tử vi Tân Sửu là con trâu rừng, tính cách đôn hậu, đại lượng vô tư, bậc quân tử kính trọng mà kẻ tiểu nhân thì đố kỵ.

Bích thượng Thổ là chỗ nương tựa của nóc nhà, xà nhà, dựng cổng dựng cửa, có đức ngăn nóng chống lạnh, có công che sương che tuyết.

Đây là tường đất trong nhân gian, không có Bình địa Mộc không có chỗ dựa. Tý Ngọ là trụ chính trong thiên địa, gặp nó rất cát khánh.

Canh Dần, Tân Mão Tùng bách Mộc cũng là nóc nhà, xà nhà. Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Môc, có gió, nếu như không có Thổ chịu lực lại thêm Thủy tất làm việc khó thành, nghèo khó, yểu thọ.

Gặp Kim hoàn toàn không tạo ra sự thay đổi, phạm chủ về nguy nan. Nếu như mệnh trưóc tiện gặp Mộc, lại gặp Hỏa trợ chủ về họa hoạn, yểu thọ. Các trụ khác có Thủy bổ cứu còn có thể giảm bớt điềm hung.

suu-1

Thủy gặp Giáp Thân Tịnh tuyền Thủy là cát lợi nhất, tiếp đến là Ất Dậu. Thiên thượng Thủy cũng tốt. Duy kỵ Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, chủ về trôi dạt, Thổ này sao có thể yên định được?

Trong các Kim duy ưa Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim.

Trong mệnh trước tiên gặp Mộc chủ về quý, có thành tựu.

Không ưa Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim, phạm chủ về thương hại, các Kim khác vô dụng.

Tân lộc tại Dậu, các Địa chi của trụ khác ưa Dậu.

Tân “quý tại Dần, các Địa chi của trụ khác ưa Dần, gặp đại, tiểu hạn hoặc lưu niên Thái tuế Dần chủ cát tường như ý.

Người sinh năm Tân, Văn xương tại Tuất, các Địa chi của trụ khác có Tuất, là người thông minh, có tài ăn nói, giác quan thứ 6 nhạy bén, có thể học đoán mệnh, giáo viên.

Tân Sửu Không vong ở Thìn, Tỵ. Các Địa chi của trụ khác có Thìn, Tỵ là mệnh không tốt.

Tân Đương nhẫn tại Tuất, các Địa chi của trụ khác có Tuất, không tốt.

Tử vi Tân Sửu gặp năm Ngọ, năm Mùi, trong nhà không yên ổn. Nếu không thương hại đến bản thân cũng tổn thương người nhà.

Bạn đời nên tìm người sinh năm Giáp, Ất. Không nên lấy người sinh năm Bính, Đinh.

Các trụ khác gặp Giáp, Dần, lộc quý thích đạp.

Nhật chi gặp Sửu, vợ chồng duyên bạc, khắc bạn đời.

Trước khi kết hôn nếu như thấy ngũ trụ của đối phương có 2 Sửu, nên cự hôn, tránh hối hận.

Thời chi gặp Sửu, nên hiến thân cho tôn giáo.

Các trụ khác lại có Đại dịch Thể, Thành đầu Thổ, chủ trưóc nghèo sau giàu, xuất thân nghèo khổ nhưng sau làm quan lớn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Tân Sửu phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Hướng xuất hành đầu năm 2015 – Ất Mùi, gia chủ tuổi Kỷ Mùi –

Lịch âm được phân bổ theo vòng Thập Lục Hoa Giáp, mỗi giờ, mỗi ngày, mỗi tháng và mỗi năm đều thay đổi theo thứ tự 60 Can Chi trong vòng hoa giáp này. Năm 2016 là năm Bính Thân, mệnh Sơn Hạ Hỏa, tức Lửa Dưới Núi. Năm Bính Thân: ngũ hành Hỏa Khắc hàng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lịch âm được phân bổ theo vòng Thập Lục Hoa Giáp, mỗi giờ, mỗi ngày, mỗi tháng và mỗi năm đều thay đổi theo thứ tự 60 Can Chi trong vòng hoa giáp này. Năm 2016 là năm Bính Thân, mệnh Sơn Hạ Hỏa, tức Lửa Dưới Núi.

  • Năm Bính Thân: ngũ hành Hỏa
  • Khắc hàng Can: Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất
  • Khắc hàng Chi: Giáp Dần

Năm Bính Thân 2016, các tuổi Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất và Giáp Dần đều bị xung khắc với Thái Tuế nên khi chọn người xông nhà, gia chủ nên tránh những tuổi này.

Phân tích các yếu tố về âm dương ngũ hành của gia chủ Kỷ Mùi

Người tuổi Kỷ Mùi có mệnh là Thiên thượng hỏa, nghĩa là Lửa trên trời, thuộc hành Hỏa.

Kỷ Mùi khắc hàng Can, hàng Chi: Ất Sửu, Đinh Sửu nên các tuổi này cũng không phải là những đối tượng thích hợp để lựa chọn người xông đất.

Xem tuổi xông đất tốt nhất cho gia chủ Kỷ Mùi

Bước đầu tiên là cần chú ý tránh những vị khách có tuổi xung khắc với năm mới, nghĩa là:

  • Ngũ hành
  • Thiên can
  • Địa chi

Cả 3 yếu tố trên, tuổi của người khách không được xung khắc với Thái Tuế của năm 2016 là Bính Thân.

Tương tự đối với chủ nhà, 3 yếu tố trên của người khách cũng không được xung khắc với chủ nhà. Ít nhất các yếu tố trên phải Bình Hòa, tức là không hợp cũng như không xung khắc.

Tiếp theo là ưu tiên những người có nhiều yếu tố hợp nhất, như: tam hợp, lục hợp với tuổi chủ nhà, vận hạn năm nay tốt đẹp, có nhân cách tốt, tính tình vui vẻ hòa hiếu với mọi người.

Sau đây là 5 tuổi xông đất năm 2016 hợp nhất, đã được sắp xếp tốt nhất từ trên xuống thích hợp cho chủ nhà Kỷ Mùi

ktt30_8tuoimuioutkienthuc_ZIFW

 

Giờ Tý: từ 23h đến 1h

Giờ Sửu: từ 1h đến 3h

Giờ Thìn: từ 7h đến 9h

Giờ Tỵ: từ 9h đến 11h

Giờ Mùi: từ 13h đến 15h

Giờ Tuất: từ 19h đến 21h


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng xuất hành đầu năm 2015 – Ất Mùi, gia chủ tuổi Kỷ Mùi –

Cải thiện phong thủy nhà ở nhờ treo rèm cửa chuẩn

Phong thủy nhà ở nhấn mạnh tác dụng của rèm cửa, không chỉ để che nắng, chắn sáng hay làm đẹp không gian mà còn giúp cho ngôi nhà có thêm nhiều may mắn, cát
Cải thiện phong thủy nhà ở nhờ treo rèm cửa chuẩn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy nhà ở nhấn mạnh tác dụng của rèm cửa, không chỉ để che nắng, chắn sáng hay làm đẹp không gian mà còn giúp cho ngôi nhà có thêm nhiều may mắn, cát tường.


Cai thien phong thuy nha o nho treo rem cua chuan hinh anh
 

1. Chặn sát

  Phong thủy nhà ở cho rằng, khí từ cửa lớn tiến vào, lưu động trong không gian rồi cũng đi ra từ cửa lớn. Nếu bố trí nhà vệ sinh đối diện cửa chính, bên trong lại có cửa thông gió thì nên treo một chiếc rèm cửa để ngăn cản sát khí, trợ giúp gia cư có bầu không khí tốt lành hơn.  

2. Tăng tiến tình cảm

  Treo rèm cửa ở phòng ngủ có thể giúp tình cảm vợ chồng hòa thuận, không một khe hở. Nên sử dụng rèm cửa màu hồng phấn, sức mạnh đào hoa lớn, làm cho tình cảm đôi bên ngày càng tăng tiến, không khí tràn ngập yêu thương, đánh đuổi kẻ thứ 3. Vì thế, treo rèm cửa còn có tác dụng chặn đào hoa sát, tránh đào hoa dữ.  

3.  Rèm thủy tinh khai tài trừ tà

  Nếu nhà phạm trường hợp hai cửa đối nhau thì dùng rèm cửa bằng thủy tinh treo lên, vừa ngăn chặn sát khí lại khai tài. Hoặc có thể dùng làm vật ngăn cách giữa phòng khách và huyền quan, hành lang, nhà vệ sinh đều rất tốt cho phong thuỷ nhà ở.  
Cai thien phong thuy nha o nho treo rem cua chuan hinh anh
 

4. Rèm vải ngăn cản thị phi

  Rèm vải dùng ở phòng ngủ, phòng khách, cửa chính bảo vệ sự riêng tư, mang đến không gian thầm kín, bầu không khí thân mật, ấm áp. Đây cũng là biện pháp phong thủy loại trừ thị phi, ngăn ngừa miệng lưỡi tiểu nhân hiệu quả.  

5. Rèm trúc thể hiện sự bình an

  Rèm trúc trong phong thuỷ nhà ở mang ý nghĩa bình an cát tường, có tác dụng phong thủy cực kì tốt. Rèm trúc ngăn cách phòng vệ sinh, treo trước phòng khách, phòng ăn tạo cảm quan trang nhã, yên tĩnh, chặn sát và mang đến nhiều điềm may mắn cho ngôi nhà.  

6. Màu sắc rèm phong thủy

  Cầu xin làm quan, có thể chọn rèm cửa màu xanh lam, treo ở phòng làm việc hoặc nơi thường xuyên qua lại. Muốn tăng vận học hành, vượng sự nghiệp hãy dùng rèm cửa màu xanh lục. Rèm màu này còn có lợi cho sức khỏe, tăng cường cảm giác yên bình. Rèm cửa màu đỏ đại diện cho nhân duyên, đào hoa, thích hợp với người độc thân.
► Tham khảo: Phong thủy phòng ngủ chuẩn hợp mệnh gia chủ
Cách sử dụng rèm cửa để tăng vượng khí cho ngôi nhà Những mẫu nhà ven hồ không chỉ đẹp còn chuẩn phong thủy hướng sơn hạ thủy Thiết kế nhà đẹp theo phong cách tối giản của Nhật Bản Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cải thiện phong thủy nhà ở nhờ treo rèm cửa chuẩn

9 cách cải thiện vận số may mắn –

Nếu bạn đang gặp nhiều xui xẻo trong cuộc sống, hãy thực hiện theo vài cách đơn giản dưới đây để thu hút vận may. Dưới đây là một số cách mà ## tìm hiểu về kiến thức tử vi tổng hợp được, cùng tham khảo để cải thiện vận số may mắn của ch
9 cách cải thiện vận số may mắn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

iFWmCMh8tYK7V 9 cách cải thiện vận số may mắn

ính mình nhé!

1. Đặt một bể cá nhỏ ở phía Bắc căn nhà

Không nhất thiết phải đặt bể cá lớn, bạn chỉ cần có một bể thủy tinh nhỏ và thả vào những chú cá bé xíu như cá bảy màu và nê-ông. Điều quan trọng là bạn nhớ chăm sóc mỗi ngày để bầy cá luôn khỏe mạnh. Những con cá nhỏ bơi lội tung tăng giúp đẩy mạnh dương khí trong căn nhà, đem đến nhiều may mắn cho công việc của bạn.

2. Treo bức tranh có hình chim chóc ở cửa trước

## thấy chim chóc tượng trưng cho các cơ hội nhằm cải thiện cuộc sống theo hướng tốt hơn. Các con chim còn đem đến nhiều tin tốt lành cho những người sinh sống ở đây. Bức tranh càng có nhiều chim càng tốt, loại nào cũng được miễn là lông của chúng có nhiều màu sắc.

3. Tổ chức tiệc tùng

Vào một ngày đặc biệt nào đó, bạn hãy mời những người bạn thân thiết đến nhà và tổ chức những bữa tiệc vui vẻ. Không khí vui tươi của buổi tiệc sẽ làm tăng dương khí, giúp giải phóng các năng lượng xấu bị tù đọng lâu ngày rồi chuyển hóa chúng thành năng lượng tốt. Do đó, cuộc sống của bạn sẽ luôn tràn ngập niềm vui.

4. Đặt một gói muối biển trong ví

Ngoài tính năng làm sạch đồ vật, muối biển còn có khả năng thu hút tiền tài. Bạn cho một ít muối vào túi ni-lông nhỏ rồi nhét vào góc ví và luôn đem theo bên mình tiền tài sẽ nhanh chóng đến với bạn

5. Trồng cây ở phía Đông Nam

Trồng cây ở hướng này, bạn sẽ kích hoạt sinh khí cho ngôi nhà. Nhờ vậy, bạn sẽ có thêm nguồn thu nhập mới. Nếu để ngôi nhà thiếu sinh khí ở hướng này, năng lượng về của cải ngày càng yếu dần. Nó sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của bạn.

6. Trang trí nhà bằng biểu tượng mặt trăng và mặt trời

Khi hai biểu tượng này kết hợp với nhau, chúng tạo nên sức mạnh không ngờ. Kết hợp này còn thể hiện sự cân bằng âm dương, giúp cuộc sống trong ngôi nhà trở nên hài hòa.

7. Đeo mặt dây chuyền hình quạt

Cánh quạt là biểu tượng sức mạnh có tác dụng chuyển hóa hạn xui thành vận may. Nó giúp bạn xua đi những điều tiêu cực, lời gièm pha và ý đồ xấu của người khác nhằm vào bạn

8. Chôn nữ trang màu đỏ để cầu tài

Theo ## thì bạn dùng một miềng vải đỏ hoặc vàng gói món nữ trang có mặt đá màu đỏ rùi chôn hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc của khu vườn (Có thể làm hai gói để chôn ở hai nơi). Cách này giúp bạn vượt qua sự thiếu thốn về tiền bạc và đặc biệt hiệu quả trong giai đoạn bạn khó khăn nhất.

9. Đào ao nhỏ ở hướng Tây Nam

Nếu nhà bạn có vườn hãy đào một ao nhỏ ở hướng này rồi thả rong vào nuôi cá. Việc này giúp kích hoạt các yếu tố tích cực, đem đến nhiều may mắn trong cuộc sống và tài chính cho bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 cách cải thiện vận số may mắn –

Mơ thấy phi công: Sự nghiệp sẽ bay cao –

Giấc mơ phỉ công đa phần có liên quan đến nam giới. Mơ thấy phi công, dự báo sự nghiệp của bạn sẽ bay cao. Mơ thấy mình trở thành phi công, chứng tỏ bạn là người không ưa dựa dẫm, thích làm việc độc lập. Nếu mơ thấy phi công hay mơ thấy mình trở thàn
Mơ thấy phi công: Sự nghiệp sẽ bay cao –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy phi công: Sự nghiệp sẽ bay cao –

Bố trí và trang trí phòng ăn –

1. Phòng ăn không kén chọn đất bố trí, do đó có thể tùy chọn nơi phụ thuộc vào diện tích của ngôi nhà cũng như mối tương quan giữa các phòng, các tầng. - Nơi tốt nhất để bố trí phòng ăn là liền kề với bếp. Nói cách khác phòng ăn và bếp ở trong khu bế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Phòng ăn không kén chọn đất bố trí, do đó có thể tùy chọn nơi phụ thuộc vào diện tích của ngôi nhà cũng như mối tương quan giữa các phòng, các tầng.

– Nơi tốt nhất để bố trí phòng ăn là liền kề với bếp. Nói cách khác phòng ăn và bếp ở trong khu bếp.

– Phòng ăn cần sáng sủa và ánh sáng ấm của đèn.

phongthuy04

2. Bài trí đơn giản

– Mỗi bộ bàn vuông, chữ nhật, ô van hai đầu hay tròn.

– Ghế với số thuộc âm 2, 4, 6, 8, 10… nhưng rất vững chắc; màu ấm áp như mận chín, cà phê hay màu gỗ tự nhiên.

– Các vật dụng trên không nên làm bằng sắt (hành kim).

– Tranh ảnh thuộc hành Thủy, Mộc, Hỏa vui tươi.

3. Đồng hồ treo theo phép phong thủy (nơi treo hình, dáng và màu sắc) xem ở phần phòng khách.

– Phòng ăn là nơi động vì vậy tường nên sơn màu vàng, hồng nhạt.

Cái màu thích hợp với cảnh sinh hoạt vui vẻ, sống động của gia cư, là nơi tụ tập của gia đình để vừa ăn uống, vừa trao đổi, chuyện trò.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí và trang trí phòng ăn –

Những cặp đôi con giáp kết hôn nhất định sẽ hạnh phúc suốt đời

Cặp đôi con giáp dưới đây khi kết hôn với nhau sẽ hạnh phúc suốt đời vì có nhiều điểm tương đồng với nhau.
Những cặp đôi con giáp kết hôn nhất định sẽ hạnh phúc suốt đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Dần và Hợi là cặp đôi con giáp cùng tương trợ và cổ vũ cho nhau, có thể hy sinh bản thân vì đối phương, coi nửa kia quan trọng hơn bản thân mình, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc vô cùng.

    1. Dần và Hợi   Đây là cặp đôi con giáp cùng tương trợ và cổ vũ cho nhau, có thể hy sinh bản thân vì đối phương, coi nửa kia quan trọng hơn bản thân mình.   Nam tuổi Dần và nữ tuổi Hợi: Đàn ông tuổi Dần thẳng thắn, chân thành, suy nghĩ lạc quan, nhưng đôi khi tính tình nóng nảy, dễ đắc tội người khác. Nữ giới tuổi Hợi lại dịu dàng thục nữ, biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, trí tuệ lại thông minh lanh lợi. Ở bên cạnh nàng tuổi Hợi, các chàng tuổi Dần luôn cảm thấy sự bình yên và thư thái trong tâm hồn.   Nữ tuổi Dần và nam tuổi Hợi: Phụ nữ tuổi Dần năng động, phóng khoáng, nhan sắc lại hơn người, có tinh thần trách nhiệm với gia đình. Đàn ông tuổi Hợi kiên trì theo đuổi mục tiêu tới cùng, không ngừng phấn đấu trong sự nghiệp. Khi hai người cạnh nhau, có sự phân công vị trí rõ ràng, cuộc sống hanh thông, thuận lợi.  
Cap doi con giap hinh anh
 
2. Thìn và Dậu   Thìn và Dậu bên nhau được ví như “tương hỗ tương thành”, cùng hỗ trợ nhau thành công. Sự nỗ lực của cả hai người sẽ mang tới niềm hạnh phúc ngập tràn cả về đời sống tinh thần và vật chất.   Nam Thìn và nữ Dậu: Chàng trai tuổi Thìn dũng cảm, kiên cường, tính tình ngay thẳng, cầu tiến, dám đương đầu với mọi thử thách, dù là khó nhất. Nữ tuổi Dậu khoan dung, độ lượng, trí tuệ minh mẫn, sẽ là trợ thủ đắc lực cho người chồng tuổi Thìn.   Nữ Thìn và nam Dậu: Nữ mệnh tuổi Thìn đa phần có cá tính mạnh mẽ, thậm chí bướng bỉnh, không thích làm theo lời khuyên của người khác. Nam tuổi Dậu lại có lòng bao dung độ lượng, trí tuệ lại thông minh hơn người nên luôn biết cách dung hòa mối quan hệ đôi bên.  
Cap doi con giap hinh anh 2
 
3. Ngọ và Mùi   Cặp đôi con giáp Ngọ và Mùi cùng tin tưởng, nương tựa vào nhau để sống. Cả hai sẵn sàng hy sinh cho nhau, đặt lợi ích gia đình lên trên tất cả.   Nam Ngọ và nữ Mùi: Nam tuổi Ngọ chúa ghét sự cô đơn, thích tự do bay nhảy đó đây để tìm nguồn cảm hứng mới lạ. Nữ tuổi Mùi lại có tuyệt chiêu riêng biệt để có thể giữ được trái tim chàng trai tuổi Ngựa.   Nữ Ngọ và nam Mùi: Đàn ông tuổi Mùi nhạy cảm, trí tưởng tượng phong phú và thường có tài năng nghệ thuật. Nữ tuổi Ngọ lại có lối tư duy thực tế, luôn tìm ra cách để biến những ước mơ của chàng trai tuổi Mùi trở thành hiện thực, là “trợ thủ” đắc lực cho đối phương.  
Cap doi con giap hinh anh 3
 
4. Tý và Sửu   Cả Tý và Sửu đều có lối tư duy về tài chính nhạy bén, cách suy nghĩ hiện thực và có thể bổ trợ cho những nhược điểm của nhau, cùng nhau tiến tới cuộc sống no đủ về vật chất, hạnh phúc về tinh thần.   Nam Tý và nữ Sửu: Hai bên cùng khích lệ, cổ vũ tinh thần cho nhau, cùng nhau nỗ lực hết mình để xây dựng mái ấm gia đình hạnh phúc.   Nữ Tý và nam Sửu: Nữ tuổi Tý có tấm lòng bao dung rộng lượng, tính tình hiền hòa, điềm đạm. Nam tuổi Sửu làm việc chu đáo, cẩn trọng, sẽ không làm điều gì khiến đối phương phải tức giận hay khó chịu. Cuộc sống sau hôn nhân của cặp đôi con giáp này nhất định hạnh phúc.  
Cap doi con giap hinh anh 4
 
5. Mão và Tuất   Cùng nhau theo đuổi chủ nghĩa hoàn mỹ, dù người tuổi Mão và Tuất đôi khi xảy ra mâu thuẫn nhưng sớm hòa giải để đồng tâm hiệp lực, cùng nhìn về một hướng mà phấn đấu hết mình.   Nam Mão và nữ Tuất: Anh chàng tuổi Mão có trí tuệ thông minh, hành sự chu đáo, cẩn trọng nên dễ lập nghiệp lớn. Cô nàng tuổi Tuất giỏi giang, năng động, sẽ là “trợ thủ” đắc lực con giáp kia.   Nữ Mão và nam Tuất: Đàn ông tuổi Tuất lý trí, có lối sống khách quan, tài năng lại hơn người. Nữ tuổi Mão sở hữu trí tuệ thông minh, luôn tìm kiếm cảm giác an toàn, tất nhiên, họ thấy điều đó ở chàng trai tuổi Tuất.   Những con giáp cả đời chôn chặt mối tình đầu trong tim
– Ai cũng có mối tình đầu và tình đầu thường khó quên. Nhưng với những con giáp dưới đây, tình đầu còn được họ chôn chặt trong tim suốt cuộc

6. Tỵ và Thân
  Người tuổi Tỵ và Thân có khá nhiều điểm tương đồng, đặc biệt rất coi trọng tình cảm và cuộc sống gia đình.   Nam Tỵ và nữ Thân: Quan điểm đồng nhất, lý tưởng tương đồng khiến cặp đôi này dễ tiến lại gần nhau hơn. Sau khi kết hôn, cả hai không ngừng nỗ lực hoàn thiện bản thân để nửa kia hài lòng.   Nữ Tỵ và nam Thân: Nữ giới tuổi Tỵ thông minh, lanh lợi, thường có những ý tưởng sáng tạo mới, thậm chí có chút “điên” trong đó. Đàn ông tuổi Thân lại điềm tĩnh, suy xét vấn đề thấu đáo. Những đặc điểm đó giúp cả hai dễ hòa hợp, tìm thấy sự đồng điệu trong tâm hồn.   Hoàng Lam  
=> Tất tần tật về mười hai con giáp bạn nên xem

Những nàng giáp lỗ cả tình lẫn tiền trong tình yêu
Tình yêu viên mãn là điều mọi cô gái mong muốn, tuy nhiên những nàng giáp sau đây hay gặp trắc trở trong tình duyên, dễ lỗ cả tình lẫn tiền.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những cặp đôi con giáp kết hôn nhất định sẽ hạnh phúc suốt đời
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd