Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Số nét bút tên họ như thế nào thì bị phá tài –

Số nét bút của họ tên có thể thể hiện khả năng bị phá tài (tổn thất tiền của) của ai đó. Đây thường là những con số hung hoặc bán cát bán hung trong Tính danh học. Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 14: Phá tài kiểu thiếu thực tế Người có số nét bú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tech-04-559232-1371344062_500x0

Số nét bút của họ tên có thể thể hiện khả năng bị phá tài (tổn thất tiền của) của ai đó. Đây thường là những con số hung hoặc bán cát bán hung trong Tính danh học.

Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 14: Phá tài kiểu thiếu thực tế

Người có số nét bút họ tên này đa phần tình hình kinh tế bản thân không dư dật cho lắm. Lại vì không chịu thua khi so sánh với người ta nên hay mua những đồ vật đắt tiền vượt ngoài khả năng chi trả kinh tế của mình.

Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 20: Phá tài vì bạn bè thân tín vay tiền

Những người có số nét bút họ tên này thông thường rất có tài, cũng biết kiếm tiền. Nhưng vì bẩm tính lương thiện, dễ tin người đến nỗi mà bị bạn bè, họ hàng thân thích vay mượn tiền bằng đủ mọi danh nghĩa nhưng tiền cho vay một đi không trở lại.

Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 30: Phá tài vì đầu tư thất bại

Những người có số nét bút họ tên này thường hay rơi vào các ông chủ. Khi mới bắt đầu thì rất giàu, vì vậy khi nhắm đúng một dự án nào đó thì lao vào đầu tư, kết quả là thua lỗ, phá tài liên miên. Cho nên, cần phải có chỗ đứng chắc chắn, chỉ thích hợp đầu tư vào ngành nghề chuyên môn của mình, không nên đầu tư vượt ngành nghề mà mình không quen biết.

Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 38: Phá tài vì ảo tưởng

Bản thân người này rất có năng lực, nhưng thường vì ảo tưởng về một việc hay dự án nào đó sẽ đem lại nhiều tiền cho mình nên đi vay tiền để đầu tư. Kết cục thì lại không như mong muốn. Những người có số nét bút họ tên này cần phải điều tra kỹ công việc trước khi đầu tư, đừng để ảo tưởng ảnh hưởng đến mình.

Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 40: Phá tài vì thích cá cược, bài bạc

Những người có số nét bút họ tên này bản tính thích cá cược, cờ bạc nhưng đánh mười thua chín, do đó tiền tài đều mất hết trên sòng bài. Những người này dễ bị những trò cá cược mê hoặc, lúc nào cũng hy vọng không làm mà hưởng nhờ vào may mắn trong cờ bạc hoặc xổ số.

Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 43: Phá tài vì sĩ diện

Những người có số nét bút họ tên này thiếu quan niệm về quản lý tài chính, hay vung tay quá trán. Dù chẳng có bao nhiêu tiền nhưng vì sĩ diện mà lúc nào mời bạn bè ăn nhậu. Người này hay thể hiện, quăng bom trước mặt bạn bè nhưng khi về thì lại âm thầm thắt chặt lai quần mà sống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Số nét bút tên họ như thế nào thì bị phá tài –

Đặc điểm dễ nhận biết của người phụ nữ thành đạt

So với những người khác, phụ nữ trán cao dễ dàng thành đạt hơn, họ giải quyết mọi việc nhanh gọn, thấu đáo nên đi đâu cũng được mọi người kính trọng, giao phó
Đặc điểm dễ nhận biết của người phụ nữ thành đạt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

So với những người khác, phụ nữ trán cao dễ dàng thành đạt hơn, họ giải quyết mọi việc nhanh gọn, thấu đáo nên đi đâu cũng được mọi người kính trọng, giao phó trọng trách.


► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

1. Tướng trán


Theo nhân diện học, qua tướng trán cho biết phần nào về mức độ tham vọng, sự thành công trong sự nghiệp của người phụ nữ. Nữ giới có vầng trán cao và rộng thường có nhiều hoài bão ước mơ về công danh sự nghiệp. Họ luôn nỗ lực hết mình, bất chấp thời gian, tuổi tác, giới tính để có thể chinh phục được mọi mục tiêu đề ra.

So với những người khác, phụ nữ trán cao dễ dàng thành đạt hơn, họi giải quyết mọi việc nhanh gọn, thấu đáo nên đi đâu cũng được mọi người kính trọng, giao phó trọng trách. Nếu cảm thấy công việc không thuận lợi, thường xuyên gặp trục trặc, bạn có thể cắt ngắn tóc mái hoặc buộc cao tóc để cho trán lộ ra ngoài. Như vậy sẽ hút nhiều tài lộc và sự may mắn hơn.

Dac diem de nhan biet cua nguoi phu nu thanh dat hinh anh
Ảnh minh họa

2. Tướng mũi


Phụ  nữ mũi thẳng, sống mũi cao, nhìn trông sang trọng thường rất hiếu thắng, lúc nào cũng tự tin vào bản thân, kiên trì mục tiêu tới cùng nên không quá khó khăn trong việc chinh phục thành công. Đây chính là một trong những đặt điểm của tướng phụ nữ thành đạt.

Hơn thế, những cô nàng này đầy tham vọng, khát khao về cuộc sống giàu sang phú quý, cộng thêm với số mệnh may mắn nên sự thành đạt trong sự nghiệp là điều đương nhiên. Nếu quan sát kĩ, đa phần những phụ nữ có tướng mũi tốt thì công danh, tài lộc đều vượng. Đồng thời cuộc sống gia đình cũng khá hài hòa, ít phải trải qua sóng gió lớn.

3. Nhìn xương gò má

Xương gò má tượng trưng cho trí tuệ và uy quyền của con người. Phụ nữ có xương gò má cao nhưng hai má đầy đặn thì có tài làm lãnh đạo, luôn được cất nhắc ở những vị trí quan trọng.

Ngoài ra, người này có tính cách mạnh mẽ, làm việc quyết đoán độc lập và luôn kiên định ý chí, tự tin vào những quyết định của mình. Để đạt được mục tiêu lớn lao, họ có thể quên ăn quên ngủ, phấn đấu không mệt mỏi. Tất nhiên, thành quả họ đạt được cũng rực rỡ hơn so với người khác.

4. Tướng cằm

Đa phần phụ nữ thành đạt đều sở hữu tướng cằm khá dài và rộng. Ngay từ khi sinh ra họ đã có số mệnh sung sướng, được chăm sóc và giáo dục đầy đủ. Lớn lên họ lại được quý nhân giúp đỡ nên mọi chuyện đều diễn ra thuận lợi, ít khi gặp lúc thăng trầm.

Theo Ione
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc điểm dễ nhận biết của người phụ nữ thành đạt

Đừng lơ là phong thủy phòng ăn nếu muốn hút tài lộc

Phong thủy phòng ăn được đảm bảo khi nó gợi lên thèm ăn, có sự hài hòa, giúp tăng cường mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, hút tài vận.
Đừng lơ là phong thủy phòng ăn nếu muốn hút tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ăn được xem là hợp với phong thủy khi nó gợi lên thèm ăn, có sự hài hòa, giúp tăng cường mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, hút tài vận cho mọi thành viên trong gia đình.



Trong phong thủy, phòng ăn rất quan trọng vì đó là nơi sau một ngày mệt mỏi cả gia đình cùng ăn tối dành thời gian chất lượng bên nhau.
Hầu hết các phòng ăn hiếm khi được sử dụng đúng chức năng của nó vì mọi người hay có xu hướng cho đặt, để những thứ không biết nên để đâu trong nhà. Một số đồ hay để quên ở trong phòng ăn có thể kể tên ra đây như: đồ chơi, tủ cũ, túi đồ cũ, quần áo chưa giặt và rất nhiều đồ vật khác.   Tuy nhiên, bạn phải hiểu rằng việc xếp tất cả những thứ không thuộc về phòng ăn sẽ ảnh hưởng xấu đến phong thủy của phòng ăn. Có thể khẳng định rằng việc để đồ bẩn trong bất kỳ khu vực nào trong nhà hoặc văn phòng đều gây ảnh hưởng không tốt tới phong thủy cho khu vực đó bởi vì như thế gây hạn chế dòng chảy tự do của năng lượng tốt.   Nói như vậy không có nghĩa là bạn không thể có đồ chơi trẻ em hoặc quần áo chưa giặt trong nhà, mà chỉ nên để chúng ở những vị tri thích hợp và không để cho chúng lộn xộn nhà của bạn.    

Những thứ điều nên làm đối đảm bảo phong thủy phòng ăn
 

1. Duy trì sự cân bằng màu sắc: đừng để quá sáng hoặc quá ảm đạm.
 
2. Phòng ăn phải thông thoáng và sẽ tốt hơn nếu có nắng chiếu vào.
 
3. Treo gương trong khu vực ăn uống sao cho nó phản chiếu bàn ăn vì như thế sẽ mang lại sự thịnh vượng hơn cho gia đình bạn. 
 
4. Nên bố trí bồn rửa bát ở phía Bắc hoặc phía Đông của khu vực ngồi ăn uống.
 
5. Phòng ăn càng gần bếp càng tốt.
 
6. Nhà bếp và khu vực ăn uống nên ở trên cùng một tầng.
 
7. Nếu nhà bếp của bạn rất lớn nên để chung nhà bếp và phòng ăn thành 1 khu vực.
 
8. Nếu phòng ăn trong nhà của bạn là một phần của phòng khách (tình trạng phổ biến hiện nay) thì nên đặt thêm rèm cửa hoặc cây trang trí ở giữa để phân cách.
 
9. Nên chọn bàn ăn hình vuông/hình chữ nhật hoặc hình bầu dục/tròn.
 
 
 
10. Phải đảm bảo rằng bàn ăn là gỗ chất lượng cao.
 
11. Bàn ăn phải đủ rộng để có chỗ đủ cho mọi người.
 
12. Ghế cũng vừa đủ và phải thoải mái cho người ngồi.
 
13. Sắp xếp ngồi sao cho không ai quay lưng về phía cửa hoặc cửa sổ vì nó gây ra cảm giác bất an.
 
14. Người đứng đầu gia đình nên hướng mặt về hướng Đông; Các thành viên khác có thể quay mặt về hướng Bắc, Đông hay Tây trong khi ngồi ăn uống.
 
15. Hãy lịch sự và nhẹ nhàng với thành viên trong gia đình trong khi ăn uống (điều này không có nghĩa là bạn nói to hơn ở nơi khác); Luôn nhẹ nhàng và lịch sự. Hãy thư giãn, bình tĩnh, vui vẻ trong khi ăn uống; Trên thực tế luôn luôn nên như vậy.
 
16. Luôn phải có gì đó trên bàn ăn. Bạn có thể để trái cây trên đó: Hình ảnh quả táo tốt cho tình bạn, lê là để thu hút năng lượng tích cực, quả đào hỗ trợ sức khoẻ và cam tượng trưng cho sự giàu có và thịnh vượng.
 
17. Nếu không để quả có thể thay bằng hòa đặt trên bàn ăn. Chỉ cần đảm bảo không sử dụng hoa khô vì nó mang ý nghĩa là đã bị hư, hỏng.
 
18. Đảm bảo ăn uống với gia đình của bạn hàng ngày; Tuy nhiên, nếu không thể thì ít nhất cũng là 1 lần trong 1 tuần có đầy đủ các thành viên trong gia đình.
 
19. Treo các hình ảnh đồ ăn đăng được để gần miệng trong phòng để gợi lên sự thèm ăn.
 
 

Những thứ điều nên tránh đối với phong thủy phòng ăn

1. Cửa nhà vệ sinh không nên đối với bàn ăn hoặc phòng ăn.
 
2. Hãy đảm bảo rằng cửa phòng ăn và lối vào nhà không đối mặt nhau.
 
3. Phòng ăn không nên trở thành một phòng ăn tối cho bất cứ ai; Họ sẽ không còn quan tâm đến ăn uống nữa.
 
4. Bàn ăn không được đặt ở vị trí dưới xà nhà.
 
5. Tránh treo TV và các dụng cụ điện tử khác trong phòng ăn; Điều này sẽ làm cho gia đình dành thời gian chất lượng khi cùng ngồi ăn bên nhau.
 
6. Tránh trần nhà thấp
 
7. Tránh những bức tranh tiêu cực như cô bé khóc loc, chiến tranh, tội phạm vv trong phòng ăn; Trong thực tế tránh treo chúng ở khắp mọi nơi.
 
8. Tránh treo đồng hồ trong phòng ăn nếu không mọi người có xu hướng vội vàng trong khi ăn.
 
9. Không bao giờ ăn trong bóng tối.
 
10. Tránh ăn một mình vì như vậy sẽ tăng sự cô đơn. Nên mở nhạc nhẹ nhàng nếu bạn ở một mình.
 
11. Tránh các bàn ăn có hình dạng không đều, góc cạnh hoặc hình lục giác.
 
12. Tránh các bàn ăn bằng kính vì họ sẽ mang lại cảm giác căng thẳng cho gia chủ.
 
13. Tránh các bàn ăn có bề mặt mềm, nhún. Bàn ăn cứng tốt hơn vì chúng đại diện cho nền tảng vững chắc.
 
15. Không bao giờ để bàn ăn chạm vào tường, phải cách xa bất kỳ bức tường nào để mọi người có thể ngồi thoải mái.
 
16.Tránh ghế đá sử dụng trong phòng ăn.
 
17. Khi ngồi ăn mặt tránh nhìn về phía Nam.
 
18. Không để trẻ ngồi ở góc Tây Nam của bàn ăn.
 
19. Không bao giờ sử dụng hay giữ các đồ dùng bị vỡ, sứt mẻ.

HaTra

Tăng cường sức khỏe nhờ bài trí phong thủy phòng ăn hợp lí Những điều cấm kị trong phong thủy nhà ở Chọn khăn trải bàn cho phòng ăn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đừng lơ là phong thủy phòng ăn nếu muốn hút tài lộc

Tìm hiểu về ngũ hành tương khắc

Ngũ hành tương khắc là một trong hai mối quan hệ cơ bản nhất của quy luật ngũ hành tương sinh tương khắc của vạn vật, trong đó vật này khắc chế vật kia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nói đến Ngũ hành tương khắc là nói đến sự xung khắc giữa các hành với nhau, hay gọi đúng tên bản chất của sự tương khắc là hành này khống chế và làm cho hành kia bị suy yếu, hủy diệt.

Nếu Ngũ hành tương sinh được hiểu là sự nuôi dưỡng, bồi đắp của hành này cho hành kia phát triển và lớn mạnh, được coi như là tốt giữa 2 hành đó, thì Ngũ hành tương khắc lại được coi là xấu giữa 2 hành.

Ví dụ: Kim khắc Mộc, có nghĩa Kim khống chế, làm cho Mộc bị suy yếu, hủy diệt;  Thủy khắc Hỏa, Thổ khắc Thủy ... cũng tương tự như vậy.

Vậy Ngũ hành tương khắc có nghĩa như thế nào? Hiểu đơn giản, có quy luật tương khắc vì:

  1. Mộc khắc Thổ: Cây cối cắm rễ vào đất, hút chất màu mỡ của đất, làm khô nẻ đất đá nên mới nói Mộc khắc Thổ.
  2. Thổ khắc Thủy: Đất hút cạn nước, hoặc ngăn chặn dòng chảy của nước nên nói Thổ khắc Thủy.
  3. Thủy khắc Hỏa: Nước dập tắt lửa hoặc làm suy yếu cường độ của lửa nên mới nói Thủy khắc Hỏa.
  4. Hỏa khắc Kim: Lửa nóng làm cho kim loại biến dạng, suy yếu, hoặc tan chảy nên mới nói Hỏa khắc Kim.
  5. Kim khắc Mộc: Kim loại làm đổ cây cối, chế tác cây cối thành vật dụng nên mới nói Kim khắc Mộc.

Quan hệ tương khắc của Ngũ hành được mô tả theo sơ đồ sau:

ngũ hành tương khắc

Không giống như Ngũ hành tương sinh, cơ bản như là tốt cho cả 2 hành vì không có sự khắc, đặc biệt tốt cho hành được sinh (tình trạng sinh nhập) và tốt ít, hoặc không xấu cho hành bị sinh (tình trạng sinh xuất). Trong mối quan hệ tương khắc của Ngũ hành thì dù khắc xuất hay khắc nhập đều xấu, sự xấu ít hay xấu nhiều, phụ thuộc vào hành đó ở trong tình trạng khắc xuất hay bị khắc nhập.

Khắc xuất hiểu nôm na là mình khống chế được người khác, làm cho người đó bị suy yếu, hủy diệt. Còn khắc nhập là mình là người yếu thế, bị người khác khống chế, làm cho mình bị suy sụp, hủy diệt. Dù ở tình trạng khắc xuất thì sự hao tổn, suy kiệt vẫn sảy ra. Ví dụ, muốn dập tắt được lửa buộc phải tiêu hao lượng nước nhất định, muốn ngăn được nước buộc phải có lượng đất đủ để đắp đập, ngăn bờ, thấm hút... Như vậy, dù ở tình trạng khắc xuất hay khắc nhập thì sự suy yếu cho bản thân vẫn sảy ra, đặc biệt là xấu nhất khi ở tình trạng khắc nhập, vì đó là tình trạng bị đối phương làm cho suy yếu, rất dễ dẫn đến bị huỷ diệt.

Vì Ngũ hành được biến sinh từ 2 khí Âm - Dương nên khi tìm hiểu về Ngũ hành tương khắc, nguyên tắc chú ý đến tính Âm (-), Dương (+) của Ngũ hành không thể bỏ qua.

Chúng ta đều biết, hai hành có cùng Âm (-) hoặc cùng Dương (+) thì sẽ không sinh cũng như không khắc vì hai hành này có tính đối kháng, sẽ đẩy nhau ra xa, mỗi hành lại ở một vị trí nên không thể có chuyện sinh, khắc.

Ví vụ:

  • Dương Thổ không sinh Dương Mộc
  • Âm Kim không khắc Âm Mộc

Mối tương quan sinh - khắc của Ngũ hành được hiểu như vậy nên trong khoa Tử vi mới có sự lưu ý đặc biệt:

4 cung Thìn - Tuất - Sửu - Mùi đều thuộc Thổ và chia ra 2 cặp cùng khí Dương (+) là Thìn - Tuất và cùng khí Âm (-) là Sửu - Mùi. Nên sẽ không có sự đối kháng giữa Thìn và Tuất, Sửu và Mùi như các cặp còn lại như: Tý - Ngọ, Mão - Dậu, Tỵ - Hợi, Dần - Thân.

Tại sao vậy? Vì Thìn - Tuất đều là Dương Thổ, Sửu - Mùi đều là Âm Thổ nên không có sự đối kháng. Nhưng các cặp còn lại Tý (Dương Thủy) - Ngọ (Dương Hỏa), Mão (Âm Mộc) - Dậu (Âm Kim), Tỵ (Âm Hỏa) - Hợi (Âm Thủy) và Dần (Dương Mộc) - Thân (Dương Kim). Tuy các cặp này đều cùng thể chất khí (cùng Âm hoặc cùng Dương) nhưng đặc tính của hành lại khắc nhau nên mới có sự đối kháng (Thủy >< Hỏa, Kim >< Mộc) như vậy.

Trong mối quan hệ vợ chồng, nếu tuổi vợ chồng ở thế tương khắc thì trường hợp tuổi chồng khắc tuổi vợ còn khả dĩ chấp nhận phần nào, nhưng nếu tuổi vợ lại khắc tuổi chồng (ví dụ tuổi vợ là Bính Thìn khắc tuổi chồng là Bính Ngọ) thì quả thật trường hợp này đúng là “nghi bại nghi vong” - Người vợ sẽ đem lại những bất hạnh, đắng cay cho người chồng. Đây là điều tối kỵ trong việc kết duyên đôi lứa theo thuyết Âm Dương Ngũ hành.

Nghiên cứu về sự tương khắc của Ngũ hành, thì nguyên tắc căn cứ vào Ngũ hành của nạp âm thủ tựơng nhất quyết phải được chú trọng. Đây là yếu tố quan trọng để lý giải tại sao tương sinh mà lại không tương sinh, tương khắc mà thực chất lại không tương khắc.

* Chẳng hạn, tuổi Bính Ngọ và Bính Thìn

Xét về đặc tính của Ngũ hành thì tuổi Bính Ngọ có bản mệnh là Thủy, còn tuổi Bính Thìn có bản mệnh là Thổ, sẽ xung khắc vì: Thổ làm cho Thủy (Thổ khắc Thủy) bị hao kiệt, suy yếu, thậm chí bị hủy diệt. Xét đến âm dương của ngũ hành thì Bính Thìn là dương Thổ, Bính Ngọ là dương Thủy, thì hai tuổi này cũng sẽ không có sự tương khắc mà chỉ đối kháng nhau, đẩy nhau ra xa và không thể có sự hủy diệt nhau vì đều là Dương (+), nhưng nếu xét về bản chất lý tính (nạp âm Ngũ hành) thì Sa Trung Thổ (đất bồi bờ biển, còn gọi đất trong cát) không thể làm hại được Thiên Hà Thủy (nước sông trên trời, còn gọi nước trời mưa) vì các loại Thổ (đất) không thể hút được nước trên trời, ngược lại còn bị nước sông trời (nếu nhiều) sẽ  làm cho tan rã, hư hại.

Như vậy, tuổi Bính Thìn và Bính Ngọ về cơ bản không có sự xung khắc gay gắt, không dẫn đến cảnh “hủy diệt” lẫn nhau, nhưng vì đều là khí dương (+) nên sẽ không hợp nhau, không làm tốt cho nhau mà luôn đẩy nhau ra xa, cản trở nhau trong mọi công việc.

Lưu ý: Đây là xét về Âm Dương Ngũ hành thì là vậy nhưng không thể cứ là nữ Mệnh Bính Thìn (Thổ) và nam Mệnh Bính Ngọ (Thủy) sẽ đều như vậy. Sự gia giảm về hệ quả của sự kết hợp vợ chồng phần lớn phụ thuộc vào lá số của mỗi người trong mỗi cặp vợ chồng, vì thế mới có sự khác biệt khi so sánh hạnh phúc giữa các cặp vợ chồng có bản Mệnh giống nhau. Tuy nhiên, tất cả các cặp vợ chồng trong trường hợp này đều gặp trục trặc, không ít thì nhiều trong cuộc sống lứa đôi, chứ không thể thuận hòa như những cặp vợ chồng các tuổi khác được.

Hay như tuổi Nhâm Tuất, Quý Hợi có bản mệnh là Đại Hải Thủy (nước biển rộng mênh mông), đặt cạnh Thiên Thượng Hỏa (nạp âm thủ tượng của tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi) thì lại tốt bởi Đại Hải Thủy dung nạp tất cả nước sông ngòi đổ xuống nên rất cần có Thiên Thượng Hỏa chiếu xuống làm thành cách thủy bổ dương quang. Như vậy, trong trường hợp này tưởng như khắc mà lại không xung khắc.

Luận bàn về Ngũ hành tương khắc, cổ nhân có 3 cách như sau:

Cách 1: Lấy đặc tính Ngũ hành và Âm Dương Ngũ hành làm căn bản.

Cách 2: Lấy lý tính của Ngũ hành làm căn bản (nạp âm Ngũ hành).

Cách 3: Kết hợp cả 2 cách trên.

Theo kinh nghiệm, chúng tôi chọn cách 3 làm cơ sở cho việc luận giải. Thực tế, sự tương sinh - tương khắc - tương hòa của Ngũ hành không đơn giản. Để lý giải được mối quan hệ tương sinh - tương khắc - tương hòa nào đó, nếu chỉ lấy đặc tính của Ngũ hành và Âm - Dương Ngũ hành làm căn bản sẽ dễ dẫn đến kết luận phiếm diện. Nếu chỉ lấy lý tính của Ngũ hành làm căn bản sẽ có nhiều trường hợp người đoán giải đành chịu bó tay. Vì vậy, khi xét về Âm Dương Ngũ hành bạn đọc nên lưu ý nguyên tắc:

  • Lấy đặc tính của Ngũ hành làm căn bản.
  • Lấy Âm Dương Ngũ hành làm căn bản.
  • Lấy lý tính của nạp âm Ngũ hành làm căn bản.

Cần lưu ý, khi luận giải về tương sinh - tương khắc - tương hòa hoặc quy luật chế hóa của Ngũ hành, người đoán giải phải phải linh hoạt, không được tuân thủ một cách máy móc, tùy theo từng trường hợp, mà có sự linh hoạt, không vì quá coi trọng một yếu tố nào mà đưa ra lời kết luận phiến diện, dẫn đến lời luận giải thiếu chính xác, thậm chí còn bế tắc.


(Trích trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến, nxb Thanh Hóa)

tử vi kiến giải

Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 9 năm 2015

Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:

  • Tử Vi Kiến Giải - nxb Thanh Hóa
  • Tử Vi Vấn Đáp - nxb Thanh Hóa
  • Vào chùa lễ Phật, những điều cần biết - nxb Văn Hóa Thông Tin
  • Tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng trong dân gian - nxb Thanh Hóa
  • Điềm báo và kiêng kỵ trong dân gian - nxb Lao Động - Xã Hội
  • Khám phá bí ẩn con người qua bàn tay - nxb Thanh Hóa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về ngũ hành tương khắc

Hóa giải 3 cửa thông nhau –

Chi tiết câu hỏi: Chồng tôi sinh năm 1972, tôi 1975 làm nhà ống hướng đông nam, tôi làm 3 cửa thông nhau, vậy phải hoá giải thế nào? Mong chuyên gia chỉ giúp! Trả lời: Bước đầu tiên bạn nên làm một tấm màn trúc treo ngay giữa nhà ngay lối chính giữa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

dai_ky_cau_truc_cua_doi_cua_trong_nha_3

Chi tiết câu hỏi:

Chồng tôi sinh năm 1972, tôi 1975 làm nhà ống hướng đông nam, tôi làm 3 cửa thông nhau, vậy phải hoá giải thế nào? Mong chuyên gia chỉ giúp!

Trả lời:

Bước đầu tiên bạn nên làm một tấm màn trúc treo ngay giữa nhà ngay lối chính giữa. Trên cửa nhà trên dùng chuông gió chấn lại để tán khí và dùng thêm một gương cửu long bát cát tường mà chiêu tài cho nhà bạn!  


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải 3 cửa thông nhau –

Văn Khấn Lễ Đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh)

Văn Khấn Lễ Đền Bà Chúa Kho thường dùng vào những ngày đầu xuân, để vay tiền làm ăn, cầu tài, cầu lộc, thường là thương nhân, tiểu thương
Văn Khấn Lễ Đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Lễ Đền Bà Chúa Kho thường dùng vào những ngày đầu xuân, khách thập phương từ mọi miền đất nước đổ về đền Bà chúa Kho (Bắc Ninh) để vay tiền làm ăn, cầu tài, cầu lộc, trong đó đa phần là giới thương nhân,tiểu thương. Họ quan niệm “đầu năm đi vay, cuối năm đi trả”, muốn nhờ vía của Bà để ăn nên, làm ra, kinh doanh phát đạt.

Sắm lễ cúng lễ Đền Bà Chúa Kho

Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.

– Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.

– Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.

– Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.

– Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.

– Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.
– Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.

Hạ lễ Đền Bà Chúa Kho

Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.

Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.

Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.

Văn Khấn lễ Đền Bà Chúa Kho

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

– Con xin kính lạy Tam giới Thiên chúa cập nhất thiết Thánh chúng.

– Con xin kính lạy Tam phủ cộng đồng, Tứ phủ vạn linh.

– Con xin kính lạy Thiên tiên Thánh mẫu, Địa thiên Thánh mẫu, Thủy tiên thánh mẫu.

– Con xin kính lạy Đức Chúa kho Thánh mẫu hiển hoá anh linh.

– Con xin kính lạy Đương niên hành khiển chí đức Tôn thần.

– Con xin kính lạy Đường cảnh Thành Hoàng Bản Thổ đại vương.

– Con xin kính lạy Ngũ hổ thần tướng, Thanh bạch xà Thần linh

Hương tử con là:………………..Ngụ tại:……..

Ngày hôm nay là ngày……………………………

Con sắm sửa kim ngân, hương hoa, lễ vật chí thiết một lòng thành tâm dâng lễ, sám hối cầu xin phù hộ cho hương tử con được: gia quyến bình an, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, bách sự cầu được như ý.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Chúa Kho Thánh mẫu, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Lễ Đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh)

Các lễ hội ngày 10 tháng 3 Âm Lịch - Hội Bơi Thượng Cát

Các ngày lễ diễn ra trong ngày 10 tháng 3 âm lịch gồm có: Hội Bơi Thượng Cát, Hội Đền Hùng, Hội Rước Kẻ Gía, Hội Vàm Láng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 10 tháng 3 Âm Lịch - Hội Bơi Thượng Cát

Các lễ hội ngày 10 tháng 3 Âm Lịch - Hội Bơi Thượng Cát

Các ngày lễ diễn ra trong ngày 10 tháng 3 âm lịch:

1. Hội Bơi Thượng Cát

Thời gian: Tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn các vị Quách Lãng, Đinh Bạch Nương, Đinh Tĩnh Nương (là ba anh em tướng của Hai Bà Trưng, lập nhiều công trạng).

Nội dung: Ngoài các hoạt động tế lễ dâng hương hội còn tổ chức các cuộc đua thuyền và các trò chơi dân gian vô cùng đặc sắc: chọi gà, bắn vịt, đấu vật, chạy thi, nấu cơm thi.

2.Hội Đền Hùng

Thời gian: tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: Đền Hùng (nằm trên núi Nghĩa Lĩnh), thôn Cổ Tích, xã Huy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn công đức của Đức Vua Hùng đã dạy nhân dân trồng lúa.

Nội dung: Vào ngày 10 tháng 3 tại nơi đây tổ chức quốc lể để dâng hương giỗ tổ, và cũng là ngày chính hội của đền Hùng.

Hội đền Hùng có nhiều cuộc rước như: rước thần, rước voi, rước kiệu... của các làng Tiên Cương, Hy Cương, Phượng Giao, Cổ Tích... Sau tế lễ là đến phần hội với nhiều hình thức văn hóa nghệ thuật hấp dẫn: Hát ca trù (ở đền hạ), và nhiều trò chơi thể thao phong phú đa dạng mang đậm bản sắc dân tộc như: Bắn nỏ, cờ tướng, bóng truyền... Đặc biệt hát xoan và hát ghẹo được tổ chức ở đền thượng là laoi5 hình dân ca độc đáo của đất tổ với các làn điệu: giáo trống, giáo pháp, xin huê - đố chữ, hát đúm, dã cá, xe chỉ - vá may, mời trầu, bắc cầu, xẻ ván... 

3. Hội Rước Kẻ Gía

Thời gian: tổ chức từ ngày 10 tới ngày 26 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: làng Gía, xã Yên Sở, huyện Hoài Đức (tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội).

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Lý Phục Man (danh tướng có công giúp vua Lý Nam Đế dẹp giặc vào thế kỉ 14).

Nội dung: Làng Gía xưa kia có tên là Kẻ Sở, sau đó đổi thành Cổ Sở và ngày nay là đất thuộc hai xã Đắc Sở và Yên Sở.

Sáng ngày mùng 10 tháng 3, các giáp của Yên Sở, Đắc Sở và các thôn Diễn Xã, Đại Đồng, Yên Thái mang lễ vật đến đình Yên Sở để xin phép thành hoàng làng (tức Lý Phục Man) cho trang trí ngôi đình. Cỗ kiêu lớn của thành hoàng làng là được ráp lại trong ngày hội, con ngựa bằng đồng hun được kéo vào sân.

4. Hội Vàm Láng

Thời gian: tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Kiển Phước, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Cá Ông.

Nội dung: Đây là lễ hội nghinh Ông của ngư dân vùng ven biển. Vào đêm hội, lễ nghi được tổ chức tại chùa thờ cá Ông, dân làng dâng lễ vật, các nhà sự tụng kinh, hóa vàng mã. Lễ nghinh Ông được cử hành vào lúc 1 giờ sáng, thuyền nghinh Ông được trang hoàng lộng lẫy, trên đặt bàn thờ có mâm xôi cỗ mặn, từ rạch Vàm Láng tiến ra sông Xoài Rạp. Lễ rước có tế nhạc và ca xướng. Khi quay về các thuyền thắp đèn kết hoa rực rỡ, sau đó là lễ cúng vong Ông. Kết thúc là lễ an vị Ông, đưa Ông về thờ ở chùa. Trong ngày hội dân làng tổ chức ăn uống, vui chơi, biểu diễn cái lương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 10 tháng 3 Âm Lịch - Hội Bơi Thượng Cát

Làm gì để tích lũy tài sản phước báu?

Mong ước hạnh phúc của Phật tử trong đời không phải là mơ uớc suôn. Cầu xin ai đó ban phước nhưng phải xây dựng phước báu cho mình bằng cách sống thật tốt
Làm gì để tích lũy tài sản phước báu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Có tài mà cậy chi tài”, có nhiều thứ nhưng ai chắc rằng chúng là của ta mãi mãi ? Chỉ có phước báu sâu dày, may ra mới đem lại bình an, hạnh phúc trong cuộc mưu sinh đầy biến động này

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika:

Có bốn pháp này, này Gia chủ, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời. Thế nào là bốn? Đây là bốn pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý khó được ở đời.

  1. Mong rằng tài sản khởi lên cho ta đúng pháp
  2. Mong rằng tiếng tốt được đồn về ta, cùng với bà con
  3. Mong rằng ta được sống lâu, thọ mạng kéo dài

Mong rằng khi thân hoại mạng chung, ta được sanh lên cõi thiện, cõi trời và cõi đời này.

Này gia chủ, đối với bốn pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời này, có bốn pháp đưa đến chứng được những pháp ấy. Thế nào là bốn ? Đó là đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới, đầy đủ bố thí và đầy đủ trí tuệ.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 4, phẩm Nghiệp công đức, phần Bốn nghiệp công đức [lược], VNCPHVN ấn hành 1996, tr.676)

LỜI BÀN:

Sống ở đời, ai cũng mong muốn được đầy đủ, sung túc và thịnh phát. Không những thế, họ còn mong ước được danh thơm, khỏe mạnh và sống lâu, xa hơn nữa là mong rằng sau khi từ giã cõi đời được sanh về thế giới an lành. Những hoài mong đó thật chính đáng, thiện lành nhưng khó được, bởi không mấy người có đủ phước báo tròn đầy.

Thường thì chúng ta được cái này lại mất cái kia, Tuy vậy, có cái để được cũng quý hóa lắm rồi, vì xung quanh ta có khá nhiều người chẳng còn gì để mất. Chính những thăng trầm vinh nhục trong đời, trải nghiệm về sự được mất có đó rồi không đó, khiến chúng ta nhận ra giá trị của phước đức. “Có tài mà cậy chi tài”, có nhiều thứ nhưng ai chắc rằng chúng là của ta mãi mãi ? Chỉ có phước đức sâu dày, may ra mới đem lại bình an, hạnh phúc trong cuộc mưu sinh đầy biến động này.

Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã rút ra kinh nghiệm sống quý giá “Có phước, có đức mặc sức mà hưởng”. Phước đức ấy chính là sự tiếp nối tuệ giác của Thế Tôn, ứng dụng trong đời sống hằng ngày thông qua những biểu hiện thiết thực: có đầy đủ niềm tin, giới hạnh, bố thí và trí tuệ. Niềm tin Tam bảo là cội nguồn của mọi phước báu.

  • Vì ba ngôi quý báu Phật Pháp Tăng là ngọn đuốc sáng soi đường cho mọi nẻo lành.
  • An trú vững chắc vào niềm tịnh tín Tam bảo thì tự khắc chúng ta sẽ thiết lập được đời sống đạo đức, lương thiện và hân hoan với thí xả, mở rộng lòng ra với mọi người.
  • Biết sống với niềm tin, đạo đức và buông xả, sống cho mình và mọi người, sống với an vui hiện tại và tương lai, đó chính là tuệ giác.

Vì thế, mong ước hạnh phúc của hàng Phật tử không phải là mơ uớc suông, tin tưởng mơ hồ, cầu xin ai đó ban phước báu mà phải tích lũy, xây dựng phước báu cho mình bằng cách tốt trong từng ngày, từng giờ. Một khi phước báo đã đầy đủ thì mọi việc tùy duyên thành tựu như ý, an vui và hạnh phúc bền lâu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm gì để tích lũy tài sản phước báu?

Lưu ý một số điều kiêng kị để đón Tết vui

Ngày Tết, người Việt ta vẫn áp dụng nhiều phong tục đặc biệt với quan niệm ngày đầu năm suôn sẻ, tốt đẹp, cả năm sẽ may mắn, hanh thông.
Lưu ý một số điều kiêng kị để đón Tết vui

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm của người Việt từ xưa đến nay, ngày đầu năm có nhiều điều tốt đẹp thì cả năm sẽ có nhiều điều may mắn, vì vậy, người Việt có khá nhiều quy tắc được đem áp dụng vào ngày Tết, trong đó có khá nhiều điều kiêng kỵ.

  - Không quét nhà ngày mùng Một Tết: Trước Tết, nhà nào cũng đã lau dọn cửa nhà sạch sẽ, phong quang đón Tết. Vì vậy, trong ngày đầu năm, bạn không cần phải quét dọn thêm nữa. Vào ngày này, người Việt tuyệt đối không động đến cây chổi. Theo quan niệm truyền thống, quét dọn nhà cửa trong ngày này là quét hết tài lộc trong năm mới ra khỏi nhà.   - Không đổ rác ngày mùng Một Tết: Tục kiêng đổ rác có nguồn gốc từ một truyện dân gian bên Trung Quốc. Truyện kể rằng ngày xưa có một người lái buôn được Thủy thần tặng một nàng hầu tên là Như Nguyệt. Kể từ khi có nàng hầu này về nhà, ông ta bỗng trở nên giàu có. Đến một năm, đúng ngày mùng Một Tết, Như Nguyệt mắc lỗi, bị ông chủ đánh đập, mắng nhiếc thậm tệ nên nàng tủi thân, biến vào đống rác. Người lái buôn không biết, mang rác đổ đi. Từ đấy, ông ta trở lại nghèo khó.   - Không cho lửa đầu năm: Ngày đầu năm, khi đi ra ngoài hoặc đi lễ chùa, bạn chớ nên quên mang theo diêm hay bật lửa bởi lúc này, cần dùng lửa mà không có, bạn đi xin cũng không ai cho vì lửa đỏ tượng trưng cho may mắn, cho lửa đầu năm chẳng khác nào đem may mắn của mình đi cho người khác.   - Không cho nước đầu năm: Nước, lửa là hai nguyên tố trong ngũ hành, có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống sinh hoạt thường ngày và lao động sản xuất của con người. Cũng như lửa, nước được coi như một trong những nguồn phát sinh tài lộc, chẳng thế mà dân gian có câu “tiền vào như nước”.   Đầu năm cho nước cũng coi như mất lộc. Xưa kia, khi nước còn phải gánh từ ao, hồ hoặc hứng trong chum, vại, thường ngày cuối năm, nhà nào cũng lo đổ đầy nước vào các vật chứa. Từ trong tâm thức người Việt, hình ảnh nước đầy ăm ắp giống như một điềm may, hứa hẹn năm mới sẽ dễ làm ăn, sinh sống, cửa nhà mát mẻ.  
Luu y mot so dieu kieng ki de don Tet vui hinh anh
 
- Không đi chúc Tết sáng mùng Một: Nếu không được gia chủ mời, người Việt rất ngại đến nhà người khác và trở thành khách xông nhà “bất đắc dĩ” vào sáng mùng Một. Vai trò của người xông nhà trong ngày đầu năm rất quan trọng.   Nếu năm tới, gia chủ được vạn sự tốt lành thì không sao nhưng nếu họ có việc gì không tốt đẹp, lại dễ đổ lỗi vì người xông nhà đầu năm “nặng vía”.   Chính vì sợ điều này xảy ra nên vào ngày mùng Một Tết, người Việt thường chỉ ở nhà thắp hương cúng lễ, sau đó, đi chúc Tết cha mẹ, nếu gia đình đã tách ra ở riêng. Thường người Việt chỉ đến chúc Tết anh em, họ hàng thân thiết, gần gũi trong ngày mùng Một Tết.   - Không làm đổ vỡ đồ dùng: Người Việt rất kỵ làm vỡ bát đĩa, ấm chén trong ngày đầu năm vì đổ vỡ tạo nên sự chia cắt, đứt lìa, là tín hiệu không thuận lợi của các mối quan hệ. Tuy vậy, đôi khi, việc làm vỡ bát đĩa vẫn xảy ra trong ngày Tết.   Khi đó, người ta lại có cách trấn an để người thân được yên lòng, khỏi lấn bấn ngày đầu năm. Tiếng bát đĩa rơi vỡ có phần giống với tiếng “phát”. Bát đĩa rơi vì thế được người ta “lạc quan hóa” thành tín hiệu báo gia chủ sắp phát tài tới nơi.   - Không bất hòa ngày đầu năm: Đầu năm, dù có bất đồng, khó chịu với nhau tới mức nào, vì bất cứ chuyện gì, người ta vẫn cần phải giữ hòa khí, tránh cãi vã, xích mích đầu năm. Đó thực tế là một cách để tránh không khí không vui xảy tới với gia đình trong ngày Tết.   Trong ngày này, để tránh không khí căng thẳng trong nhà, ngay cả trẻ con nghịch ngợm, phạm lỗi cũng sẽ dễ dàng được bỏ qua hơn để cha mẹ không phải cáu giận, quát mắng mà trẻ cũng không khóc lóc, nhăn nhó.   - Không mặc quần áo màu trắng hay đen: Theo quan niệm của người xưa, màu trắng và đen là màu tang tóc, vì vậy, ngày đầu năm không bao giờ được mặc trang phục quá nhiều sắc trắng hay sắc đen. Ngày Tết, người ta ưa chuộng những màu sắc sặc sỡ, tạo nên sự phấn khởi, vui vẻ, đặc biệt được ưa chuộng là hai sắc đỏ, vàng.   - Không vay mượn đầu năm: Ngày đầu năm, người Việt rất kiêng kỵ việc vay mượn, kể cả cho vay hay đi vay, đòi nợ hay trả nợ, dù là tiền bạc hay đồ vật. Đi vay đầu năm là điềm báo sẽ túng thiếu cả năm, cho vay đầu năm sẽ khiến tiền bạc phân tán, đòi nợ đầu năm dễ gây mất hòa khí và khiến người đi đòi cả năm sẽ mệt mỏi chạy theo con nợ, trả nợ đầu năm chẳng khác gì đem lộc nhà ra khỏi nhà.   Xưa kia, các cụ ta có lệ, từ ngày 23 tháng Chạp dựng cây nêu đến hết ngày mùng 7 tháng Giêng hạ cây nêu, những món nợ nần không được phép hỏi đến để trong ngày Tết, ai ai cũng được yên vui hưởng Tết, làng xóm không có chuyện to tiếng, cãi vã lúc năm hết Tết đến.   - Không xuất hành ngày mùng 5 Tết: Ngày mùng 5 tháng Giêng Âm lịch là ngày nguyệt kỵ, người Việt thường không xuất hành đầu năm vào ngày này. Dân gian có câu “mùng năm, mười bốn, hai ba; đi chơi còn lỗ nữa là đi buôn”, người Việt tin rằng mùng 5 không thích hợp cho các cuộc du xuân lấy lộc.   - Kỵ tang tóc ngày mùng Một Tết: Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc. Xưa có lệ gia đình gặp chuyện tang tóc được phép cất khăn tang trong ba ngày Tết, có lẽ để tránh cho hàng xóm láng giềng ra vào khỏi phải nhìn thấy cảnh buồn thương ngay ngày đầu năm.   Nhà “có bụi” (có tang) kiêng đi chúc Tết, ngược lại, họ hàng, làng xóm thường chủ động đến chúc Tết gia đình “có bụi”. Trường hợp gia đình có người qua đời vào ngày 30 tháng Chạp mà có thể lo liệu kịp thì thường tiến hành việc hiếu ngay trong ngày đó, kiêng để sang ngày mùng Một năm sau. Trường hợp có người thân qua đời đúng ngày mùng Một Tết thì cũng chưa phát tang ngay mà để đến sáng mùng Hai mới làm lễ phát tang.   - Không nói điều xui: Đầu năm chỉ nói những điều tốt đẹp, vui vẻ, may mắn, không khóc lóc, buồn tủi, không nói lại chuyện đen đủi, rủi ro năm cũ.

- Không treo tranh xui: Khi xưa, mỗi dịp Tết đến, ông bà ta thường mua một bức tranh mới về treo để chơi Tết. Những tranh được treo trong ngày Tết thường là tranh mang ý nghĩa tốt đẹp, may mắn như tranh đàn lợn, đàn gà, tranh cậu bé… tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở. Người ta kiêng không treo những tranh “xui” như tranh đánh ghen hay đi kiện.
 
- Không ăn món xui: Đầu năm, người Việt không bao giờ ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt… bởi quan niệm đây là những món không tốt lành, thường chỉ ăn vào cuối năm, cuối tháng, để giải đen.   - Kiêng mua đồ xui: Dân gian có câu “Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi”, mua gì đầu năm cũng là một việc rất quan trọng bởi nó là món hàng đầu tiên gia chủ mang về nhà. Món hàng mua đầu năm được coi là mua để lấy hên, lấy lộc, bởi “của mua là của được”. Món hàng này mang nhiều ý nghĩa tâm linh hơn thực dụng. Đầu năm kiêng mua dao, thớt, chày, cối… Người ta hay mua muối ngay sáng sớm mùng Một với hàm ý cả năm đậm đà, ý vị.   Câu nói “đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi” có rất nhiều cách hiểu. Muối đã nói ở trên, về vôi, khi xưa, vôi thường được sử dụng để xây nhà cửa, ăn trầu và rải bốn góc tường nhà ngày cuối năm để xua đuổi tà ma. Cũng có một cách giải thích khác là cuối năm mua vôi về để tiếp cho ông bình vôi.

Theo Vietnamnet

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý một số điều kiêng kị để đón Tết vui

3 chòm sao nghiêm khắc nói KHÔNG với tình một đêm

Cuộc sống hiện đại, tình một đêm không còn là chuyện hiếm hoi. Nhưng với 3 chòm sao nghiêm khắc dưới đây, chuyện này tuyệt đối không thể xảy ra.
3 chòm sao nghiêm khắc nói KHÔNG với tình một đêm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống hiện đại khiến cho suy nghĩ cũng trở nên thoáng hơn trước rất nhiều, tình một đêm không còn là chuyện hiếm hoi. Nhưng với 3 chòm sao nghiêm khắc dưới đây, chuyện này tuyệt đối không thể xảy ra, không chấp nhận lối sống phóng khoáng quá mức như thế.


3 chom sao nghiem khac noi KHONG voi tinh mot dem hinh anh
 
Kim Ngưu   Kim Ngưu vốn là chòm sao nguyên tắc và có lối sống hết sức nghiêm chỉnh. Họ gần như có một loại cố chấp đối với chuyện tình cảm. Phải là nhất kiến chung tình, đi tới hôn lễ chứ không bao giờ có chuyện tình một đêm, qua lại với nhau hôm nay mai đã thành xa lạ.
9 điều yêu yêu của riêng Kim Ngưu
Kim Ngưu phản cảm với trò phiêu lưu tình ái, đồng thời cũng yêu cầu đối phương phải như thế. Nếu người yêu của Kim Ngưu mà có phút lỡ lầm để xảy ra chuyện này thì khẳng định là họ sẽ không bao giờ tha thứ. Nên đừng bao giờ nhắc tới chuyện này với Ngưu chan.   Ma Kết   Xác suất Ma Kết phát sinh tình một đêm là vô cùng nhỏ, ấn tượng đối với việc này cũng không tốt đẹp gì. Ma Kết vốn là chòm sao nghiêm khắc, quá mức chính trực, quá mức phúc hậu nên đối với tình một đêm, dù có muốn cũng không thể làm được.    3 chòm sao thất tình là sụp đổ
Đối với bất kì ai, biến cố tình cảm luôn để lại những tổn thương sâu sắc và khó phai mờ. Nhưng đến mức suy sụp như 3 chòm sao yếu đuối dưới

Hơn nữa, Ma Kết là người có ý thức trách nhiệm, đối với chuyện tình cảm không cho phép bản thân buông thả và thiếu suy xét. Họ luôn nghĩ rằng, trình tự nhất định phải là gặp gỡ, yêu đương, kết hôn rồi mới tới chuyện đó, không thể đảo lộn. Nếu có đảo lộn thì tự bản thân mình quá thất bại rồi.

Song Ngư
3 chom sao nghiem khac noi KHONG voi tinh mot dem hinh anh
 
Có thể với nhiều người, Song Ngư là chòm sao lụy tình nên chuyện tình một đêm đâu phải xa lạ. Nhưng họ cũng là chòm sao nhút nhát, yêu trong sáng và thích chuyện tình cổ tích hơn là sự thực tế như vậy. Họ yêu những khoảnh khắc ngọt ngào và lãng mạn chứ không dám bước tới ranh giới đáng sợ kia.

Tuyệt chiêu chọc giận khiến 12 cung phát khùng
Hơn thế nữa, Song Ngư khao khát tình yêu nhưng lại thường xuyên bị vỡ mộng, tôn sùng thứ tình cảm hoa mĩ nhưng lần nào cũng phải ôm mối đau khổ. Vì thế, họ thường có xu hướng thận trọng trước những lời mời gọi dụ dỗ có ý đồ xấu.   Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao nghiêm khắc nói KHÔNG với tình một đêm

Điều gì quyết định nên vận may của bạn?

Vận mệnh của chúng ta được quyết định do đâu? Vận khí chịu ảnh hưởng từ những nhân tố nào? Tự bản thân chúng ta cũng có thể tìm được câu trả lời cho những câu hỏi này.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.Con người
 
Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Trong cuộc sống hàng ngày, bất luận là bạn làm nghề gì thì cũng đều phải có mối quan hệ với người khác. Mỗi người đều có tính cách, cá tính riêng, nhưng nếu ở chung với nhau trong một khoảng thời gian dài thì sẽ bị ảnh hưởng một chút tính cách của người kia. Thời gian trôi qua, càng lớn lên thì ta sẽ càng gia tăng các mối quan hệ, mối quan hệ với cha mẹ, với anh chị em, với thầy cô giáo, với bạn bè, với vợ chồng, đồng nghiệp, hàng xóm, thậm chí cả người xa lạ. Quan hệ với nhiều người xấu sẽ làm cho bạn xấu đi, có nhiều người bạn tốt thì bạn sẽ gặp nhiều may mắn. Con người, nhân khí và nhân duyên sẽ tạo nên “vận khí” của một người, vận khí này tốt hay xấu, ít nhiều sẽ ảnh hưởng tới vận mệnh. 
 
2.Phong thủy Môi trường sống khác nhau sẽ tạo ra những cách sống, những con người khác nhau, tính cách của mỗi người khác nhau thì sự tác động của môi trường lên bản chất con người cũng khác nhau. Bất kể ở đâu, con người cũng bị ảnh hưởng bởi phong thủy, phong thủy nhà ở, phong thủy văn phòng, phong thủy nơi làm việc…. Mỗi người đều có một môi trường sống riêng, nếu tinh thần và thể chất được thoải mái thì mọi việc cũng sẽ trở nên dễ dàng, công việc cũng đạt hiệu quả cao. Nếu làm việc trong môi trường phong thủy không tốt thì cảm xúc bị dồn nén, tâm trạng chán nản, mệt mỏi, ảnh hưởng nhiều tới vận may.
 
3.Quá trình tu dưỡng

Yeu to anh huong toi van may cua ban hinh anh 2
Ảnh minh họa

Tính cách của một người từ khi sinh ra cũng là một yếu tố có ảnh hưởng tới sự may mắn. Người thân thiện, tốt bụng, vui vẻ giúp đỡ người khác thì sẽ được mọi người yêu mến, nhân duyên cũng sẽ tốt, khi gặp khó khăn sẽ được nhiều người giúp đỡ, có thể vượt qua một cách dễ dàng. Tu dưỡng nhân cách còn bao gồm cả quá trình tiếp thu kiến thức, nếu thiếu khuyết tri thức thì trình độ hiểu biết cũng hạn hẹp. Chỉ số thông minh cao thì tình thương cũng phải cao. Quá trình tu dưỡng tốt sẽ hình thành nên một cái Tâm thiện, từ đó mới được nhiều người yêu mến.
 
4.Nghề nghiệp
 
Đàn ông sợ chọn sai nghề cũng như đàn bà sợ chọn sai chồng. Ông trời rất công bằng, mỗi người đều có một khả năng riêng, nếu được ở trong môi trường phù hợp thì có thể phát huy tốt sở trưởng của mình. Người làm cha mẹ chớ nên bắt ép con cái học tập hoặc theo đuổi những thứ mà con mình không có năng khiếu, việc này sẽ khiến cho con cái trở thành kẻ-tầm-thường trong tương lai. Còn với những người chọn sai nghề, thì khi làm việc sẽ chán nản và uể oải, khiến cho công việc cũng khó đạt được hiệu quả cao.

5.Tên họ
 
Cái tên sẽ có quyết định tới cảm xúc, ý chí, nghị lực, khí chất và khát vọng của một con người. Hãy tưởng tượng, mình có một cái tên thật là quê mùa thì mọi chuyện sẽ ra sao? Ví dụ, một số bậc cha mẹ đặt cho con trai của mình một cái tên có phần nữ tính, trong quá trình đi học, chắc chắn sẽ bị các bạn nhạo báng, mỉa mai, kết quả là sẽ sống khép kín, trở thành người hướng nội. Và một cái tên đẹp, thân thiện chắc chắn sẽ đem lại nhiều may mắn hơn cho bạn trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống.
 
Phương Thùy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điều gì quyết định nên vận may của bạn?

Văn khấn Thanh Minh tại nhà

Tiết Thanh Minh người không có điều kiện để tới tận nơi cúng khấn, sửa sang mộ phần thì có thể cúng tại nhà theo bài văn khấn Thanh Minh tại nhà dưới đây.
Văn khấn Thanh Minh tại nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiết Thanh Minh tảo mộ là một trong những lễ nghi truyền thống rất đáng quý. Tuy nhiên, nhiều người không có điều kiện để tới tận nơi cúng khấn, sửa sang mộ phần ông bà tổ tiên thì có thể cúng tại nhà theo bài văn khấn tiết Thanh Minh tại gia dưới đây.


 


Van khan Thanh Minh tai nha hinh anh
 
Văn khấn Thanh Minh tại nhà bao gồm hai bài, văn khấn gia tiên và văn khấn âm phần long mạch.  

1. Văn khấn âm phần long mạch

  Nam mô A Di Đà Phật (3 lần), vái về hướng có phần mộ (3 lần)   Con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư Phật mười phương.   Con kính lạy hoàng thiên hậu thổ, chư vị tôn thần.   Con kính lạy các ngài thần linh bản xứ cai quản trong khu vực…. (nơi có mộ phần)   Hôm nay là ngày: (ngày âm lịch).   Tín chủ chúng con là:….   Ngụ tại: ….   Nhân tiết Thanh Minh, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước án, kính mời chư vị tôn thần lai lâm chiếu giám.   Gia đình chúng con có ngôi mộ của: (cha, ông hay cụ tam đại, tứ đại theo vai của người dưới mộ so với tín chủ), táng tại…, nay vì đường xá xa xôi, chưa có điều kiện thăm viếng.    Vì vậy chúng con xin kính cáo các đấng thần linh, thổ công, thổ phủ, long mạch, tiền chu tước, hậu huyền vũ, tả thanh long, hữu bạch hổ và chư vị tôn thần cai quản trong khu vực này.   Chúng con kính mời các vị chư thần về đây chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho vong linh được an nhàn yên ổn, siêu thoát. Cúi xin các vị phù hộ độ trì cho tín chủ chúng con toàn gia mạnh khỏe an bình, bốn mùa không tật ách, tám tiết hưởng thái bình.
7 điều kiêng kị trong tiết Thanh Minh
Tiết Thanh Minh là dịp lễ truyền thống của người Việt, gắn liền với tục tảo mộ nhớ đến tổ tiên. 7 điều kiêng kị trong tiết Thanh Minh sẽ giúp

2. Văn khấn gia tiên

 

Hôm nay là ngày ... tháng ... năm ... Nay con giữ việc phụng thờ tên là ..., tuổi…, sinh tại xã ..., huyện...., tỉnh.... cùng toàn gia, trước bàn thờ gia tiên cúi đầu bái lễ.   Kính mời thổ công Táo quân đồng lai cách cảm.   Kính dâng lễ bạc: trầu rượu, trà nước, vàng hương, hoa quả cùng phẩm vật lòng thành nhân dịp tiết Thanh Minh, kính mời hương hồn nội ngoại tổ tiên, kỵ, cụ, ông bà, cha mẹ, cô dì chú bác, anh chị em chứng giám và hưởng lễ.   Hướng về phía phần mộ vái 3 lần.  
Van khan Thanh Minh tai nha hinh anh
 
Lưu ý khi cúng Thanh Minh ở nhà là nên bày biện lễ vật và cúng ở trước cửa, ban công và hướng về phía có phần mộ khấn vái.

Theo Sách văn khấn cổ truyền

10 điều kiêng kỵ khi đi tảo mộ tiết Thanh Minh phạm phải dễ xui xẻo 3 hình thức dưỡng sinh nên làm ngay trong tiết Thanh Minh Nguồn gốc của tiết Thanh Minh 6 tập tục truyền thống trong tiết Thanh Minh không phải ai cũng biết
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn Thanh Minh tại nhà

Tìm hiểu ngay xem ngày bánh trôi bánh chay là ngày bao nhiêu

Bánh trôi bánh chay là những loại bệnh quen thuộc không thể thiếu trong ngày Tết Hàn Thực. Ngày bánh trôi bánh chay là ngày bao nhiêu? Từ đâu mà có ngày này?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bánh trôi bánh chay là những loại bệnh quen thuộc không thế thiếu trong ngày Tết Hàn Thực. Ngày bánh trôi bánh chay là ngày bao nhiêu? Từ đâu mà có ngày này? Chúng ta hãy cùng thư viên Xem bói đi tìm hiểu rõ hơn về ngày này ngay sau đây.

Tìm hiểu ngay xem ngày bánh trôi bánh chay là ngày bao nhiêu

1. Ngày bánh trôi bánh chay là ngày bao nhiêu?

Khi được hỏi về ngày bánh trôi bánh chay, có lẽ ai cũng biết đó là ngày Tết Hàn Thực, tuy nhiên khi được hỏi ngày bánh trôi bánh chay là ngày bao nhiêu thì lại không nhiều bạn biết được chính xác.

Tết Hàn Thực hay tết bánh trôi bánh chay được tổ chức vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch hàng năm. “Hàn thực” có nghĩa là “thức ăn lạnh”. Ngày tết truyền thống này xuất hiện tại miền bắc Việt Nam và ở một số tỉnh của Trung Quốc.

Hàng năm vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch, những gia đình có thời gian họ sẽ tự làm bánh trôi bánh chay, còn với những gia đình quá bận rộn họ có thể mua sẵn ở chợ về để cúng lễ gia tiên. Đây không chỉ là ngày thể hiện nét đẹp văn hóa truyền thống mà nó còn là nét đẹp trong nghệ thuật ẩm thực.

Xem thêm: Giải mã hiện tượng nháy mắt phải, giật mắt trái

2. Nguồn gốc ngày Tết Hàn Thực – ngày bánh trôi bánh chay

Theo nghĩa chữ Há, hàn có nghĩa là lạnh, thực là ăn, Tết Hàn Thực là Tết ăn đồ lạnh. Phong tục cổ truyền này bắt nguồn từ Trung Quốc, theo một câu chuyện ly kỳ truyền tụng qua nhiều đời.

Chuyện kể lại rằng, trong thời Xuân Thu những năm 770 – 221, vua Tấn Văn Công thuộc nước Tấn, vì gặp loạn nên đã phải bỏ nước để đi lưu vong bên nước Tề, nước Sở. Một hôm trên đường đi lánh nạn, do lương thực cạn kiệt nên hiền sĩ có tên Giới Tử Thôi đã phải cắt lén một miếng thịt trên đùi mình nấu để dâng lên vua. Sau khi vua phát hiện ra hết lòng cảm kích.

Giới Tử Thôi đã theo hầu vua Tấn Văn Công liền 19 năm trời, chịu nhiều khổ cực vô cùng. Nhưng khi Tấn Văn Công giành lại được ngôi vua, giành lại được nước Tấn, đã phong thưởng cho tất cả mọi người trừ Giới Tử Thôi. Tuy nhiên Giới Tử Thôi không vì thế mà oán hận. Ông đưa mẹ về núi Điền Sơn ở ẩn. Sau vua Tấn nhớ ra và cho người đi tìm Giới Tử Thôi tuy nhiên ông không còn màng tiền bạc danh vọng vì vậy nhất quyết không về lĩnh thưởng. Vua thấy vậy liền sai người đốt rừng nhằm thôi thúc Giới Tử Thôi về nhưng không ngờ cả 2 mẹ con Giới Tử Thôi quyết chí không quay trở lại, cuối cùng chịu chết cháy trong rừng.

Nhà vua vô cùng hối hận, đã cho lập miếu thờ. Hàng năm đến ngày 3 tháng 3 tức ngày chết cháy của Giới Tử Thôi, nhà vua cấm tất cả nhân dân không được nấu lửa trong ngày này. Từ đó ngày 3 tháng 3 được gọi là Tết Hàn Thực.

3. Ý nghĩa ngày bánh trôi bánh chay

Khác với Tết Hàn Thực của Trung Quốc, ở nước ta vào ngày này mọi người vẫn nấu nướng bình thường, chỉ là sáng tạo ra 2 loại bánh trôi và bánh chay với ý nghĩa tượng trưng cho thức ăn nguội  - hàn thực để tỏ lòng thành kính tưởng nhớ đến những người đã khuất mà thôi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu ngay xem ngày bánh trôi bánh chay là ngày bao nhiêu

Mơ thấy tàu thuyền hứa hẹn nhiều niềm vui

Giấc mơ liên quan đến tàu, thuyền thường mang lại cho chủ nhân của nó những điềm tốt lành trong cả công việc lẫn tình cảm.
Mơ thấy tàu thuyền hứa hẹn nhiều niềm vui

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Giấc mơ liên quan đến tàu, thuyền thường mang lại cho chủ nhân của nó những điềm tốt lành trong cả công việc lẫn tình cảm. 


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Mo thay tau thuyen hua hen nhieu niem vui hinh anh
Ảnh minh họa

 
Nếu bạn mơ thấy tàu thủy thì sự may mắn trong việc kinh doanh đang sắp ùa về với bạn.    Bạn sắp có được món lợi lớn nếu thấy tàu, thuyền đậu san sát gần bờ trong  giấc mơ.   Nếu mơ thấy tàu, thuyền phát cháy bạn cũng đừng nên lo lắng, ngược lại, đó là điềm lành báo trước bạn sắp có lợi lộc.   Thấy tàu, thuyền chạy trên sông trong giấc mơ là điềm hứa hẹn bạn sẽ có nhiều chuyện vui.   Một ngày nào đó, trong giấc mơ, bạn thấy tàu, thuyền đến một nơi xa lạ, đông đúc? Hãy lạc quan lên vì công việc sắp tới sẽ mang lại nhiều lợi lộc cho bạn.   Trong thực tế, tàu, thuyền đang chạy bỗng nhiên bị thủng nhiều chỗ, nước tràn vào có thể sẽ mang đến những đại họa. Nhưng nếu điều đó xuất hiện trong giấc mơ thì việc trở nên giàu có đang nằm trong tầm tay của bạn. Cùng với sự “phất lên” đó, bạn cũng nên tự bảo vệ mình khỏi những sự đố kỵ xung quanh.    Mọi nguy hiểm sẽ trôi qua nhanh chóng nếu tàu, thuyền cập bến trong giấc mơ của bạn. Tàu, thuyền xuất hiện trong giấc mơ còn là dự báo một cuộc hành trình có liên quan đến tình yêu lãng mạn.   Theo Giải mã giấc mơ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy tàu thuyền hứa hẹn nhiều niềm vui

Lá số tử vi của người đa tình, mệnh làm kẻ thứ 3 rõ mồn một

Đừng nghĩ rằng đó là do sai lầm nhất thời hay yêu lầm mù quáng, nhiều trường hợp lá số tử vi của người đa tình có từ khi vừa mới ra đời đấy.
Lá số tử vi của người đa tình, mệnh làm kẻ thứ 3 rõ mồn một

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tất cả mọi người đều có ác cảm với người thứ ba, đánh giá không tốt về nhân phẩm và đạo đức của những người này. Đừng nghĩ rằng đó là do sai lầm nhất thời hay yêu lầm mù quáng, nhiều trường hợp lá số tử vi của người đa tình có từ khi vừa mới ra đời đấy.


 

1. Nữ giới có số làm người thứ 3


La so tu vi cua nguoi da tinh, menh lam ke thu 3 ro mon mot hinh anh
 
Nữ mệnh có bát tự Quan Sát hỗn tạp: bất cứ mệnh nữ nào mà Chính Quan đại diện cho người chồng và Thất Sát (hay Thương Quan) đại diện cho tình nhân hỗn tạp hoặc Thất Sát sinh vượng thì rất dễ chen chân vào chuyện tình của người khác. Thậm chí, người này sau khi kết hôn thì người chồng cũng ngoại tình, dẫn tới cục diện rắc rối. Nữ mệnh có bát tự Thực Thương vượng: lá số tử vi của người đa tình báo có Thực Thần và Thương Quan vượng và Chính Quan hoặc Thiên Quan lại nhược, tạo thành cục diện Thương Quan chế Quan hoặc Thực Thần chế Sát.   Nữ mệnh có bát tự Tỷ Kiếp kẹp Quan: bất cứ người phụ nào mà trong lá số tử vi có hai Tỷ Kiếp kẹp một Quan Sát thì chắc chắn có số mệnh làm người thứ 3.  

2. Nam giới có số làm người thứ 3


La so tu vi cua nguoi da tinh, menh lam ke thu 3 ro mon mot hinh anh
 
Nam mệnh có bát tự Tỷ Kiếp vượng: bất cứ người đàn ông nào nếu Tỷ Kiếp vượng hoặc có hai Tỷ Kiếp với một Thê Tài thì bản thân tranh vợ cướp người yêu của người khác.   Nam mệnh có bát tự Chính Tài Thiên tài hỗn tạp: trong tử vi, Chính Tài biểu hiện cho người vợ, Thiên Tài biểu hiện cho tình nhân, mệnh có hỗn tạp hoặc Thiên Tài vượng thì là lá số tử vi của người đa tình.   Nhưng đặc biệt, những người này không chỉ đi phá hoại gia đình của người khác mà chính bản thân cũng chịu nạn kiếp của người thứ 3, bị vợ hoặc chồng “cắm sừng”, qua lại với người khác, phản bội lại mình, tạo thành thế cục gia đình nhiều tranh chấp.   Kiến nghị với những người có lá số tử vi xấu như vậy nên tham khảo ý kiến của các bậc thầy về việc làm thế nào để đi đúng hướng trong đường đời. Cách hóa giải chủ yếu là tiết chế bản thân, tu dưỡng đạo đức, hạn chế những cơ hội có thể nảy sinh tình cảm, quan hệ với người khác phái đã có người yêu, gia đình, thận trọng trong mọi hành xử.
Bát tự không an phận, cả đời tìm bình yên Xem lá số tử vi đoán mệnh nữ hai chồng Xem tử vi cho người sinh tháng cô hồn
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lá số tử vi của người đa tình, mệnh làm kẻ thứ 3 rõ mồn một

Xem tướng qua dáng đi –

Đi là động, thuộc dương thể hiện phong thái và tính cách của con người. Nội tâm, nghĩ suy thế nào thì bước đi sẽ đồng điệu như thế. Vì vậy mà quan sát bước đi, dáng đi ta có thể phán đoán được tính cách sang, hèn của người đó. Người có phúc tướng đi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đi là động, thuộc dương thể hiện phong thái và tính cách của con người. Nội tâm, nghĩ suy thế nào thì bước đi sẽ đồng điệu như thế.
Vì vậy mà quan sát bước đi, dáng đi ta có thể phán đoán được tính cách sang, hèn của người đó. Người có phúc tướng đi như nước chảy không dừng. Nghĩa định dáng không giao động. Người tầm thường bước đi như cây gặp gió. Chân nặng, người nhẹ chao đảo ngả nghiêng. Để cụ thể ta có thể phân các dáng đi tự nhiên sau đây:

16908484_zpsebd2163d

I. DÁNG ĐI
1. Dáng đi ung dung, uy nghi, bước dài, vững trãi, khoan thai, người và đầu thẳng, mắt nhìn thẳng: Tướng vua quan uy qựyền, cơ mưu.
2. Bước đi điềm tĩnh, người và đầu không động đậy, không ngó nghiêng: Mưu mô tâm địa khó lường, tướng quyền uy kiêu hãnh, tự phụ hùng mạnh. Dáng vua, quan, tướng soái.
3. Dáng đi thư thả, bình lặng: Tính ôn hòa, cuộc đời no đủ, an nhàn.
4. Đi chân không bén đất: Phá gia sản tha hương, tính nôn nóng, gấp gáp, đời nghèo khổ không dừng, không thọ.
5. Dáng đi lấp sấp vội vã: Tính tình bất ổn, suốt đời lo láng, thiếu thốn.
6. Đi đầu cúi gằm nhìn đất hay ngó lại phía sau: Tướng tự ti, không bản lĩnh, bản chất lầm lỳ khó tiếp thu, thân phận hèn kém, xảo quyệt, thâm trầm.
7. Dáng đi lắc lư uốn éo (dáng rắn bò): Tướng cô độc, gái sát phu (nhiều đời chồng); Bản chất người không thật thà, tham lam bủn xỉn và không thọ.
8. Dáng đi bình lộng nhưng hai bàn tay nắm chặt: Tính khó đăm đăm, giữ của, tính toán chi ly.
9. Đi mà hai bàn tay duỗi thẳng các ngón tay thì là tướng hoang phí, tính xởi lởi, ít tính toán.
10. Đi mà hai bàn tay khum tự nhiên tướng: Căn cơ nhưng thiện tâm.
11. Dáng đi đầu chúi về phía trước: Tướng vất vả đủ đường (vật chất, hạnh phúc, công danh, nghề nghiệp).
12. Đi mà đầu ngửa ra sau: Tướng ngu đần, vũ phu.
13. Dáng đi ưỡn thân ngực đầu cất cao: Tướng tự phụ, cao ngạo, coi thường thiên hạ. Không bao giờ nhận ra lỗi của mình.
14. Bước đi nặng nề: Người suốt đời lo nghĩ, bất hạnh khổ đau.
15. Bước đi hai chân song song người thẳng: Tướng giầu bất chợt nhưng cuộc đời phải đó đây.
16. Bước đi hai tay lằng xa quạt chéo về sau:
– Nếu là con trai thì đồng tính, tầm thường.
– Nếu là con gái thì chua ngoa, nhưng đĩ thõa dâm đãng.
17. Bước đi hai tay lằng xa quạt chéo phía trước: Tính đỏm dáng, xởi lởi, quan tâm mọi người.
18. Bước đi chậm chạp: Tính lười nhác, bất cần.
19. Dáng đi nặng lề (oạt đầu gối – lặc lè về sau) tướng khất khưởng, gian xảo, bần tiện, yểu tướng.
20. Dáng đi lệch bên này, bên kia: Tướng thiếu khiêm tốn, tâm tính mưu mẹo, luồn lách.
Hai mươi dáng đi rất đại diện đặc trưng những nhân cách khác nhau của động tướng người.
Muốn đánh giá dáng đi thì phải quan sát từ xa và khi người đó đi một mình tự nhiên mới không lầm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua dáng đi –

Phong thủy cho cửa chính: Những điều nên và không nên

Nếu đảm bảo phong thủy cho cửa chính gia chủ sẽ khỏe mạnh, giàu có, hạnh phúc, thịnh vượng, an yên.
Phong thủy cho cửa chính: Những điều nên và không nên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu đảm bảo phong thủy cho cửa chính gia chủ sẽ khỏe mạnh, giàu có, hạnh phúc, thịnh vượng, an yên. Vì thế, chỉ cần lưu ý một số điểm sau cuộc sống của bạn sẽ trở nên vui tươi và nhẹ nhàng hơn.
 

Trong phong thủy, cửa chính của ngôi nhà rất quan trọng vì đó là nơi năng lượng tốt đi vào nhà. Nhà là nơi mà chúng ta về để nghỉ ngơi, thư giãn sau một ngày vất vả làm việc nơi công sở. Vì thế, ai cũng muốn đó là nơi chúng ta được thoải mái, thư giãn, có cảm giác ấm cúng và tất cả những điều tích cực khác.   Cửa chính được xem là hợp phong thủy khi nó còn giúp loại bớt các loại năng lượng tiêu cực khác để tránh hạn chế việc chủ nhà có thể gặp những vấn đề rắc rối không đáng có.
 
Không ai muốn năng lượng tràn vào nhà quá nhanh hay quá chậm. Trong thực tế nguồn năng lượng di chuyển vào nhà đều đặn sẽ tốt hơn bởi vì nếu di chuyển nhanh quá khiến gia chủ dễ bị lo lắng và nếu chậm thì họ hay thờ ơ với cuộc sống.
 
Và sau đây là những điều nên và không nên làm đối với phong thủy cho cửa chính:  
Phong thuy cho cua chinh Nhung dieu nen va khong nen  hinh anh
 

Phong thủy cho cửa chính: Nên

1. Hãy tạo cho cảm giác chào đón, vui vẻ, hạnh phúc và mời gợi cho lối vào nhà bạn có; Nói chung là phải là trạng thái tích cực.
 
2. Phải đảm bảo rằng cửa chính lớn hơn cửa khác ở trong nhà.
 
3. Cửa được mở đúng chiều kim đồng hồ.
 
4. Cửa được mở trong một không gian rộng lớn. Đối với không gian chật hẹp, sử dụng gương đúng phong thủy để làm tạo cảm giác phòng rộng. 
 
5. Nếu có bàn thờ đó phải đối mặt với phòng khách là tốt nhất.
 
6. Cửa phải vuông góc 90 độ với mặt đất và không nghiêng ra ngoài hoặc vào trong.
 
7. Sử dụng vật liệu chất lượng tốt nhất cho cửa chính.
 
8. Cửa không được phát ra bất kỳ tiếng ồn nào trong khi mở hoặc đóng cửa.
 
9. Giữ cho cửa sáng sủa
 
10. Đảm bảo cho lối vào dễ nhìn thấy, có thể để cây và đèn để cho bắt mắt.
 
11. Nếu có một vết nứt hoặc cửa bị ẩm thì sửa chữa hoặc thay cửa ngay lập tức.
 
12. Đặt ba đồng tiền gắn với dải ruy băng màu đỏ dưới mặt đất hoặc thảm bên trong cửa chính.
 
13. Một mẹo phong thủy có thể áp dụng là treo bức ảnh của 100 loài chim ở gần cửa ra vào vì điều này tượng trưng cho 100 cơ hội bay vào nhà của bạn.
 
14. Nên đặt cây cầu tài lộc ở gần cửa chính
 
15. Đặt cây bên cạnh cửa ra vào của ngôi nhà được xem là phong thủy tốt, chỉ cần đảm bảo rằng cây không chặn lối vào.
 
16. Nếu cây gần lối vào của ngôi nhà thì chúng phải tươi tốt, không có lá úa.
 
17. Một hòn non bộ, tiểu cảnh đặt bên phải của cánh cửa được xem là phong thủy tốt, mang lại năng lượng thịnh vượng trong nhà.
 
18. Con đường dẫn vào nhà phải sạch sẽ, dọn sạch rác, báo cũ, lá khô ở gần đấy.
  
Phong thuy cho cua chinh Nhung dieu nen va khong nen  hinh anh
 

Phong thủy cho cửa chính: Không nên

 
1. Cửa ra vào không được để đồ vật lộn xộn.
 
2. Cửa chỉnh không nên là cửa trượt, hình tròn hoặc cửa dáng xiên.
 
3. Tránh cửa chính của ngôi nhà khác đối diện cửa chính nhà mình, được gọi là thế "cửa đối cửa".
 
4. Không có bể tự hoại dưới lối vào nhà.
 
5. Không xây nhà vệ sinh ở phía trên cửa chính. 
 
6. Tuyệt đối không để giày dép, kệ giày, rác và thùng rác gần cửa chính.
 
7. Không nên dùng cửa chính tự động.
 
8. Cố gắng tránh cửa chính đối mặt với những con đường giao nhau.
 
9. Tránh cột đèn, cây, dây điện,… ngay phía trước cửa nhà vì như thế được xem là “mũi tên độc”, hoặc là tránh mua nhà ở đó hoặc xem phần độc mũi tên để khắc phục.
 
10. Tránh nhà ở nơi có bóng từ một tòa nhà khác hoặc một cây khác chiếu lên lối vào.
 
11. Tránh cửa chính phải đối mặt với cầu thang. 
 
12. Không nên để cửa chính buồn tẻ, bạn nên khắc hoặc thiết kế cho cửa trông sinh động hơn.
 
13. Không được gắn gương ở cửa chính nếu không tất cả năng lượng tích cực sẽ đi ra khỏi nhà.
 

Màu sắc của cửa chính:
 

Không thể phủ nhận tầm quan trọng của màu sắc trong phong thủy cho cửa chính, và sau đây là một số lưu ý về màu sắc liên quan đến hướng cửa chính của ngôi nhà.
 
Cửa hướng Bắc: Xanh hoặc đen (Xanh tốt hơn)
 
Cửa hướng Nam: Đỏ hoặc các tông màu tương tự.
 
Cửa hướng Đông và Đông - Nam: Màu của gỗ màu xanh chứ không phải nâu.
 
Cửa hướng Tây và Tây Bắc: Màu trắng.
 
Cửa hướng Đông - Bắc và Tây Nam: Màu vàng, nâu, hồng. 
 
HaTra

Phong thủy cho người mệnh Hỏa: Bài trí phòng ngủ đón tài lộc Cẩn thận kẻo nghèo và bệnh tật vì phòng tắm không đúng phong thủy Lưu ý phong thủy cho từng loại phòng ngủ để hạnh phúc viên mãn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cho cửa chính: Những điều nên và không nên

Những câu nói hay về sự Gato bạn nên biết

Những câu nói hay về sự Gato bạn nên biết. Gần đây trên các diễn đàn và mãng xã hội thường xuất hiện cụm từ “GaTo”. Hãy tham khảo bài viết sau đây nhé.
Những câu nói hay về sự Gato bạn nên biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói hay về sự Gato bạn nên biết. Gần đây trên các diễn đàn và mãng xã hội thường xuất hiện cụm từ “GaTo”. cụm từ này được các bạn trẻ sử dụng nhiều trong văn viết và văn nói. Vậy bạn có hiểu được ý nghĩa của cụm từ này không?

Hãy để xemboituong.com giải đáp ý nghĩa của cụm từ này nhé, và những câu nói hay về sự GaTo mà bạn nên biết dưới đây nhé:
GaTo không phải là một loại bánh ngọt chưa đầy kem mà ăn thì có vị ngịt như các lạo bánh mà ta vẫn thường được ăn trong các dịp sinh nhật hay cưới hỏi.

Mà GaTo ở đây là một từ viết tắt của nguyên gốc tiếng Pháp là gateaux mà cụm từ này có nghĩa là Ghen Ăn Tức Ở. Và được các bạn trẻ sáng tạo và thường được sử dụng tắt là GaTo.

Cụm từ này được sử dụng rất nhiều trong cả văn nói và văn viết và phổ biến trong giới trẻ bởi nó ngắn gọn và khá hay, thay vì nói “Mày ghen ăn tức ở à” hay “Mày ghen tị à” thì có thể nói là “Mày GATO à”, từ này cũng làm giảm đi khá nhiều về mức độ gay gắt trong câu nói. Về thời điểm xuất hiện thì nó có vào khoảng năm 2010 trên một số diễn đàn lớn sau đó được nhiều bạn sử dụng trên các cộng đồng mạng khác và đến nay thì khá phổ biến trong các câu chuyện của những bạn trẻ trên mạng và cả ngoài cuộc sống.

GATO hay Ghen Ăn Tức Ở được xem là hành động bức xúc, tức tối và luôn cảm thấy khó chịu với người khác khi thấy người ta hơn mình. Đây là một hành động không tốt, nó thể hiện tính đố kị, không chịu công nhận tài năng của người khác đồng thời không bao giờ cho rằng người khác là tốt đẹp hay tài năng hơn mình. Điều này có thể khiến bản thân luôn cảm thấy thua kém và khó chịu với người khác, phủ nhận điều mà người khác tốt hơn mình. Ví dụ như một bạn luôn khó chịu khi bạn khác có người yêu xinh hay học giỏi hơn thì có thể nói là bạn ấy đang GATO hay một bạn luôn chê bai người khác dù người ta giỏi hơn mình thì đều là hành động được cho là GATO. Như vậy, bạn có thể hiểu GATO là gì và đặc điểm nhận dạng của đối tượng GATO. Mong rằng mọi người trong chúng ta đều nhận thức được sự không tốt của thói quen GATO bởi nó ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống và nhân cách của bản thân, đồng thời thiêu rụi đi ý chí phấn đấu bởi thay vì cố gắng phấn đấu để hơn người khác thì lại tìm cách nói xấu hay phủ nhận tài năng của người hơn mình.

Một số câu nói, triết lý về GaTo (ghen ăn tức ở ) cho bạn tham khảo sau đây nhé

Những câu nói hay về sự Gato bạn nên biết

– Sự ghen tị với người khác nuốt chửng chúng ta nhiều nhất.

– Có lẽ chẳng có hiện tượng nào chứa nhiều cảm xúc tiêu cực như sự phẫn nộ vì đạo đức, nó cho phép ghen tị được hoành hành dưới vỏ bọc của đức hạnh.

– Hạnh phúc là người thầy hà khắc, đặc biệt là hạnh phúc của người khác.

– Thật may mắn cho ai học được cách khâm phục mà không ghen tị, đi theo mà không bắt chước, khen ngợi mà không tâng bốc, và dẫn đường mà không thao túng.

– Bạn không thể vừa ghen tị và vừa hạnh phúc.

Bạn có thể tham khảo những câu nói hay về triết lý cuộc sống tại xemboituong.com để mang lại nhiều điều bổ ích cũng như trang bị cho mình những kiến thức cơ bản trong cuộc sống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay về sự Gato bạn nên biết

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Mối quan hệ giữa các ngôi nhà –

Phong thủy rất coi trọng mối quan hệ giữa các căn nhà với nhau và có rất nhiều cấm kỵ. Dân gian có câu: “Mấy nhà xây song song với nhau, bắt buộc phải trên cùng một đường thẳng, thường gọi là cột sống, còn gọi là rồng, và buộc phải cao thấp như nhau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy rất coi trọng mối quan hệ giữa các căn nhà với nhau và có rất nhiều cấm kỵ.

581

Dân gian có câu: “Mấy nhà xây song song với nhau, bắt buộc phải trên cùng một đường thẳng, thường gọi là cột sống, còn gọi là rồng, và buộc phải cao thấp như nhau. Nếu nhà phía trước nhô ra thì gọi là nhạn nhô đầu, vợ (hoặc chồng) chủ nhà sẽ bị chết. Nếu nhà đằng sau không theo quy luật thì gọi là răng giao nhau, hai vợ chồng chủ nhà sẽ không được yên ổn. Nếu chiều cao không hư nhau, gọi là khí cao đè thấp. Nhà bên trái có thể cao hơn nhà bên phải. Nhưng tuyệt đốì không được phép nhà bên phải cao hơn nhà bên trái. Qui tắc dân gian là: bên trái là rồng xanh, bên phải là hổ trắng, thà để rồng xanh cao vạn trượng cũng không để hổ trắng ngóc đầu. Trong cùng một sân, dù là cùng một nhà xây cũng phải theo quy tắc này, nếu không gọi là “nô khi chủ” (người hầu bắt nạt chủ).

Trước nhà không được để phòng đổ nát không có người ở.

Nếu cửa chính lại đốì diện với góc nhà của nhà khác tức là hung.

Nếu góc tường nhà khác hướng thẳng vào cửa chính nhà mình gọi là nê tiêm sát. Nếu góc tưòng hướng vào bên trái thì không có lợi cho đàn ông, nếu hướng về bên phải thì không có lợi cho phụ nữ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa các ngôi nhà –

Lỗi phong thủy về tiền bạc khiến bạn nghèo khó mãi không thôi

Có những lỗi phong thủy về tiền bạc tưởng chừng như rất nhỏ nhưng chúng ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Lỗi phong thủy về tiền bạc khiến bạn nghèo khó mãi không thôi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Ai cũng mong cầu cuộc sống giàu có, sung túc và cố gắng sống lương thiện để mong cầu hạnh phúc. Tuy nhiên, đồng thời trong lúc đó, có nhiều việc tưởng như nhỏ nhặt như khi ăn cá, giặt đồ nhưng vì do sơ suất, không lưu tâm nên trở thành nguyên nhân chính khiến tiền bạc thất thoát, lộc tán, làm ăn bất lợi.   

Lật cá khiến tài vận xui xẻo 
 

Khi ăn cá, ăn hết một mặt của cá chúng ta thường có thói quen lật mặt bên kia của cá để ăn tiếp. Tuy nhiên, theo phong thủy điều này không mang lại may mắn. Đây được xem là lỗi phong thủy về tiền bạc thường gặp nhất. Do việc lật mặt cá trên bàn ăn tượng trưng cho điềm gở, chính vì thế khi ăn hết một bên cá, nên gỡ xương ra rồi ăn tiếp phần còn lại.     Đặc biệt, đối với những người đi xe hoặc người ở vùng biển, họ đặc biệt tránh hành động “lật” vì theo họ nếu như thế sẽ có điềm gở, lật xuồng, lật xe, lật tàu làm ảnh hưởng đến mạng sống của người đi biển, đi xe. Khi chiên cá họ cũng không lật con cá mà múc dầu/mỡ dội lên mặt trên con cá cho chín. 

Tham khảo thêm bài viết: Mẹo phong thủy nhà cửa để tiền bạc ào ạt chạy vào túi

Tai van sa sut vi thoi quen lat ca trong bua an hinh anh
 
 

Phá sản do lỗi phong thủy khi dùng máy giặt

  Khi giặt đồ nhớ ngoài lưu ý phong thủy về vị trí máy giặt, giữa cho máy giặt luôn sạch sẽ bạn còn phải lưu ý khi giặt đồ. Có nhiều người vì sơ suất nên khi thay đồ ra tiện tay vứt vào máy giặt mà không kiểm tra trong túi còn tiền hay không. Theo phong thủy, tiền bạc thuộc hành Kim, máy giặt thuộc hành Thủy, khi bạn quên tiền trong quần áo, dù là vài đồng tiền lẻ và bị máy giặt vò nát hoặc cho dù con nguyên thì điều này đồng nghĩa là mang tới vận xui, có thể phá hoại tài vận. Theo thời gian, vận may của bạn bị rửa sạch, “giặt” sạch trơn. Đây là nguyên nhân bạn thường xuyên đối mặt với việc bất ổn tiền bạc, dễ gặp họa, vận trình công danh suy thoái.

Đây là lỗi phong thủy về tiền bạc do sự cẩu thả của bạn, vì thế, đừng nghĩ đơn giản, bởi đó là sự đãng trí đáng chê trách. 

Tham khảo thêm: 6 cấm kị phong thủy dẫn tới phá sản không thể không phòng
 
Tai van sa sut vi thoi quen lat ca trong bua an hinh anh 2

Quên tiền trong quần áo vứt vào máy giặt là lỗi phong thủy về tiền bạc bạn cần lưu tâm

 

Cửa chính đối diện với cửa sổ  

  Theo phong thủy nhà ở, cửa chính không chỉ là nơi mọi người ra vào mà còn là con đường thông dẫn khí từ bên ngoài vào bên trong ngôi nhà. Khi cửa chính đối diện với cửa hậu hoặc cửa sổ ở cuối nhà, nhà bị tản khí, nguồn khí tốt không tụ lại trong nhà.
 
Điều này sẽ khiến luồng khí di chuyển nhanh và dễ mất đi. Khi cửa chính đối diện cửa sổ được xem là thế xuyên tâm sát, rất không tốt cho gia chủ và được xem là đại phá tài trong trường hợp xấu còn dẫn đến phá sản. 
 
Cửa chính của nhà để đón tài vận, may mắn, giàu có, vượng khí. Cửa chính là nơi tất cả mọi người trong nhà ra vào hàng ngày. Khi cửa chính ở vị trí tốt, thuận lợi, gió và không khí từ ngoài thổi vào cũng thuận và lành. Tuy nhiên, khi cửa chính đối diện cửa sổ nghĩa là những điều may mắn vừa đón vào sẽ ra đi thẳng theo cửa sổ. Vì thế, bạn sẽ không hiểu vì sao tiền của trong nhà cứ lần lượt đội nón ra đi, xui xẻo ập đến, công việc làm ăn gặp nhiều trở ngại, tài vận suy sụp.    Đây là lỗi phong thủy về tiền bạc rất đáng lưu tâm cho những ai chuẩn bị xây và sửa nhà. Do đó, khi thiết kế, bố trí cửa chính và cửa phòng trong nhà, tuyệt đối không để của chính và cửa sổ đối nhau hoặc nằm trên cùng một đường thẳng, tức bước vào cửa chính đã nhìn thấy cửa hậu hoặc cửa sổ ở cuối nhà.     Đặc biệt, nếu cửa sổ vừa nhiều lại vừa lớn, cát khí càng khó tụ, ảnh hưởng tới phong thủy ngôi nhà, vận mệnh những thành viên sống trong đó, tiền bạc cũng bị tổn hao dần.

Tham khảo thêm bài viết: Thoát nghèo không khó nhờ cải thiện những lỗi phong thủy thường gặp

Ha Na

Khó có thai, xem ngay phong thủy trong nhà Cách bày cây xanh ở ban công vượng tài vượng lộc, hóa sát bình an Hũ gạo đặt đúng chỗ, tài lộc đổ về nhà
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lỗi phong thủy về tiền bạc khiến bạn nghèo khó mãi không thôi

Giải mã giấc mơ thấy đánh nhau –

Bạn đang thấy sợ hãi với giấc mơ tối qua, giấc mơ bạn đánh nhau với người ta làm bạn lo lắng, run sợ. Nếu bạn thật sự lo sợ có điềm báo không lành thì hãy cùng chúng tôi đi giải mã giấc mơ thấy đánh nhau. Chúng tôi có chọn lọc các thông tin chính xác
Giải mã giấc mơ thấy đánh nhau –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy đánh nhau –

Mẹo hay hóa giải nhà thấp hơn mặt đường

Mẹo hóa giải nhà thấp hơn mặt đường: Nhà thấp hơn mặt đường là tín hiệu xấu trong phong thủy và cần phải hóa giải ngay lập tức, tránh rước họa vào thân.
Mẹo hay hóa giải nhà thấp hơn mặt đường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà thấp hơn mặt đường hay ở ngã ba mũi tên độc, bếp ở hướng Tây Bắc… là hàng loạt những tín hiệu xấu trong phong thủy và cần phải hóa giải ngay lập tức, tránh rước họa vào thân.

1. Hóa giải nhà thấp hơn mặt đường
 
Từ nhà nhìn thẳng ra đường có cảm giác như đập vào một bức tường, đó được coi là nhà thấp hơn mặt đường. Điều này có nghĩa rằng trong cuộc sống lúc nào cũng có một chướng ngại khổng lồ ngăn cản bạn tiến bước của bạn và đồng nghĩa với việc không có "người chống lưng". Thậm chí, người Trung Quốc còn cho rằng cuộc sống thấp hơn mặt đất chỉ dành cho người chết.

Meo hay hoa giai nha thap hon mat duong hinh anh
Ảnh minh họa

Xét theo yếu tố phong thủy, một ngôi nhà có vị trí tốt cần có một không gian mở ở phía trước. Đó có thể là một bãi cỏ xanh, cho phép các nguồn năng lượng vào nhà một cách nhẹ nhàng và dễ dàng. 
 
Mẹo hóa giải nhà thấp hơn mặt đường: Tốt nhất bạn nên tính đến phương án chuyển nhà. Trong trường hợp bất khả kháng, có thể tăng năng lượng của ngôi nhà bằng cách giữ cho cửa phía trước luôn sáng. Cách này cũng giúp hóa giải phần nào ảnh hưởng xấu từ mặt đường nhưng không phải là cách làm lâu dài và tối ưu nhất.
 
2. Hóa giải nhà ở ngã ba đường

Meo hay hoa giai nha thap hon mat duong hinh anh 2
Ảnh minh họa

Nhà ở ngã ba đường
thường bị đường xuyên thẳng vào nhà tạo ra mũi tên độc, là điều kiêng kị trong phong thủy nhà ở. Trong trường hợp này, nếu cửa nhà quay ra hướng Đông thì con trai lớn trong nhà có thể gặp hạn, các mối quan hệ trong gia đình không hài hòa. Còn nếu hướng nhà về phía Tây thì mọi người trong nhà hay gặp tai nạn hoặc ảnh hưởng tới những phụ nữ trong gia đình.
 
Hóa giải: Vì nguồn năng lượng chứa đầy sát khí chạy thẳng vào ngôi nhà, người ta thường tránh mua nhà ở ngã ba. Trong tình thế bắt buộc thì chỉ còn cách treo gương bát quái lồi trước cửa nhà hoặc trồng cây cao để tránh luồng sát khí.
 
3. Hóa giải bếp ở hướng Tây Bắc
 
Người đàn ông được coi là trụ cột trong gia đình. Vị trí quan trọng đại diện cho các trụ cột gia đình nằm ở góc Tây Bắc. Khi góc này đang bị ảnh hưởng bởi ngọn lửa, chẳng hạn như bếp, bình nước nóng hoặc bếp nướng ngoài trời, được gọi là "lửa ở trên trời", có thể gây ra ảnh hưởng lớn về sức khỏe, công danh sự nghiệp của người đàn ông trong gia đình. Họ có thể bị tai nạn, bệnh tật, mất việc hoặc phá sản. 
 
Hóa giải: Điều nguy hại nhất là gia đình sử dụng bếp gas vì nó là ngọn lửa thật. Do đó, có thể thay thế bếp gas bằng bếp điện giúp hạn chế bớt ảnh hưởng của lửa.

Theo Khám phá    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo hay hóa giải nhà thấp hơn mặt đường

Tác động của Hóa Khoa với các chủ tinh

HÓA KHOA-VŨ KHÚC Vũ Khúc là tài tinh chủ về hành động tìm đến với tiền bạc cho nên khi gặp Khoa để hóa với hai đặc điểm:
Tác động của Hóa Khoa với các chủ tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

a. Nổi danh về ngành nghề, khả năng nào đó rồi qua sự nổi danh ấy mà kiếm tiền. Tỉ dụ một nhà kinh tế gia được mời cai quản, tính thị trường cho hãng sản xuất

b. Nếu tự tay kinh doanh thì đã nổi tiếng với một hai vụ làm ăn rồi từ đấy có đà phát triển

Nói tóm lại Vũ Khúc Hóa Khoa kể là cách danh lợi song thâu. Nhưng danh ở Vũ Khoa khác với danh ở Thiên Cơ Hóa Khoa, Thái Dương Hóa Khoa hay Tử Vi Hóa Khoa không phải danh trên văn chương, trên thế lực mà là cái danh của thực tế kiếm tiền.

Nếu Vũ Khoa gặp Liêm Lộc thường qua danh mà thâu lợi bất ngờ. Đã Vũ Khúc Hóa Khoa thì đương nhiên Thái Dương đứng với Hóa Kị (như người tuổi Giáp tứ Hóa an theo tuần tự: Liêm Phá Vũ Dương. Người xưa thâm ý muốn nhắn bảo phải cẩn thận khi đi vào vận Thái Dương Hóa Kị, danh cao bổng hậu cho người oán ghét ắt tai họa cũng gần chứ không xa.

Vũ Khúc Tham Lang đồng cung mà Vũ Khúc đứng bên Hóa Khoa cùng lúc lại có cả Linh hay Hỏa Tinh thì hoạnh phát mau hơn nhưng cũng lại vì dương danh vô lối mà thất bại chóng hơn.

Các nhà Tử Vi Trung Quốc chủ trương Vũ Khúc Hóa Khoa nên thành công qua nghề chuyên môn hơn là xông vào doanh thương, đỡ kẻ thù đỡ kẻ ghét.

Vũ Khúc Hóa Khoa đóng Thê, vợ đoạt quyền chồng nhưng đồng thời cũng phù trợ chồng chứ không đoạt quyền để lăng loàn. Vũ Khúc Hóa Khoa đóng Tử Tức không đông con và có nhiều khả năng con hai dòng nhưng con cái đa năng.

Vũ Khúc đơn độc đóng Phụ Mẫu dễ xung khắc với cha mẹ. Nhưng có Hóa Khoa không những bớt khắc mà còn sinh trưởng từ một gia đình uy danh. Cung Tật gặp Vũ Khúc Hóa Khoa gặp Hỏa Tinh phải coi chừng phổi nhiệt, khí quản viêm.

HÓA KHOA TỬ VI

Tử Vi rất hợp với Hóa Khoa, nếu cả Thiên Phủ đứng cùng càng hay vì khi có Thiên Phủ tất nhiên phải kèm Thiên Tướng như vậy kể là tạm đủ văn võ triều đình.

Ở trường hợp không Phủ Tướng mà lại thấy tứ Sát Hình Hao hội tụ thì Hóa Khoa vô dụng. Tuy nhiên về mặt học vấn vẫn xem là con người có học, ít nhiều đến được với khoa bảng.

Tử Vi Hóa Kị đứng với Xương Khúc Khôi Việt, Long Phượng thì đa tài đa nghệ theo đuổi một ngành nghề khả dĩ thành công.

Tử Vi Hóa Khoa có một điểm dở là bạn hữu, phần lớn Tử Vi Hóa Khoa đi với nhau ở cung Nô thường xấu. Tỉ dụ Tử Vi Hóa Khoa đóng Tí, cung Nô Bộc Thái Âm ở Tỵ đứng cùng Hóa Kị không bao giờ được sự đắc lực của thủ hạ hay bạn bè. Cung Nô cũng gây ảnh hưởng luôn với cung Bào Huynh. Như vậy Tử Khoa không có thể cộng tác với ai, cộng tác chỉ bị thiệt. Trường hợp sinh ban đêm hay Thái Âm đắc địa sẽ giảm những khó khăn trên. Tỉ dụ số nữ mà Tử Vi đóng Ngọ cung, Thái Âm ở Hợi đứng với Hóa Kị mà lại sinh ban đêm thì thuộc hạ bằng hữu thật hữu dụng.

Tử Vi Hóa Khoa tính tình khoan hậu, nhưng tính cách này lại rất dễ biến thành chủ quan, yêu ghét giận mừng một cách chủ quan khiến cho lòng khoan hậu vì thiện từ mà đâm phiền, có khi lại thành đố kị.

Cho nên Tử Khoa nếu vào vận Hình Sát ắt đưa đến tình trạng hoài tài bất ngộ, vào vận hanh thông lại dễ bị đố kị. Thà đừng Hóa Khoa thì cuộc sống yên hơn.

Các cung lục thân mà Tử Vi Hóa Khoa đều kể làm tốt. Tỉ dụ cung Huynh đệ Tử Khoa, anh em ruột thịt nâng đỡ, vào Phụ Mẫu được cha mẹ che chở, vào Thê cung dễ gặp vợ hơn tuổi nhưng đảm đang, vào cung Nô Bộc mà thấy cả văn tinh thì tài năng kém thuộc hạ, cần phải biết sử dụng khéo thì tình thế này mới hay. Tử Khoa đóng Tật Ách phải săn sóc hệ thống bài tiết nhất là nhiếp hộ tuyết.

HÓA KHOA THÁI DƯƠNG

Thái Dương bản chất là tán phát nên không thật thoải mái với Hóa Khoa. Hóa Khoa làm tăng thêm tính phát tán ấy cho nên dễ thành ra tiếng nhiều mà miếng ít. Bị người chú ý quá mức dù là ngưỡng vọng thì cũng phiền. Như quẻ dịch gọi bằng “Khang long hữu hối” là thế.

Thái Dương miếu địa đứng với Khoa không bằng đứng với Lộc, Quyền trên thực tế thâu hoạch tốt. Thái Dương Hóa Khoa cũng cần bách quan tề tựu mới thành đại sự, nếu chỉ gặp Sát Hình thì là hư danh hư lợi thôi, có khi còn bị thiên hạ lợi dụng nữa.

Nói về bách quan tề tựu cũng có hai hình thái khác biệt. Thái Dương Hóa Khoa nhất định là nổi danh, người đời chú ý từ cử chỉ đến lời nói, nếu được văn tinh Xương Khúc chế giàm tục khí ngôn hành văn nhã, thiếu văn tinh sẽ thô lỗ, ẩu tả cho người đời đàm tiếu. Thái Dương hãm địa hoặc bị Tuần Triệt sự ẩu tả đậm nét hơn.

Có Xương Khúc rồi thêm Lộc Tồn càng đẹp. Cách Dương Lương Xương Lộc đóng vào Mão tốt nhất, trường hợp này Hóa Khoa sẽ đắc lực hơn Quyền Lộc nếu vào học thuật văn chương, nhưng lại không thành giàu có.

Thái Dương Hóa Khoa chỉ thành phú cách nếu xung chiếu bởi Hóa Quyền và cung Quan có Hóa Lộc. Được Thiên Mã Tả Hữu sẽ rất sớm thành công nếu như không bị Hỏa Linh Không Kiếp.

Dương Khoa có Cự Môn đứng cùng hay chiếu, ăn nói lý luận cứng cỏi vào ngành ngoại giao hay pháp luật hợp cách. Thái Dương Hóa Khoa ở hãm cung mà bị Không Kiếp sẽ vì danh vọng hão mà mang họa vào thân.

Dương Khoa đóng cung lục thân đều hay trừ cung Nô Bộc. Dương Khoa đóng Bào Huynh, Phu Thê, Phụ Mẫu những người thân ấy đều có danh vọng. Đóng vào Nô Bộc, thuộc hạ sẽ lợi dụng danh mình hoặc tựa vào mình mà vượt trội lên hơn mình.
Dương Khoa vào lục thân cung nếu bị Đà La Không Kiếp lại thành ra bị lục thân bóc lột. Thái Dương Hóa Khoa đóng Tật Ách dễ bị bệnh ở buồng gan, can khí nhiệt uất bốc lên mặt làm thành bệnh mắt.

HÓA KHOA THIÊN CƠ

Thiên Cơ bản tính phù động, đứng với Hóa Khoa tính năng động ấy sẽ thành kế hoạch, giỏi về giao tế, thuyết phục thiên hạ. Khoa đi với Cơ tốt hơn Lộc đi với Cơ.

Khoa Cơ luôn luôn đeo đẳng một điểm phiền là gặp Hóa Kị đứng với Cự Môn (người tuổi Đinh tứ Hóa an theo thứ tự Âm Đồng Cơ Cự). Cự Kị đương nhiên này không tuyệt đối thành cặp hung thần nếu không bị hung sát tinh khác. Hễ có hung sát tinh hội tụ để trợ giúp Cự Kị lập tức sinh phiền nhiễu do vạ miệng, do những lời phê bình sắc bén mà gây thù oán ảnh hưởng cho công việc làm.

Thiên Cơ Hóa Khoa càng thông tuệ, có điều Thiên Cơ đa học nhưng lại bất chuyên. Bởi vậy Cơ Khoa ít hy vọng thành một chuyên gia thật giỏi. Cơ Khoa sẽ chịu ảnh hưởng nhiều từ Cự Kị khi vận đi xuống. Bởi thế Cơ Khoa lúc đắc thời đắc thế cần thận trọng.

Ông Vương Đình Chi đưa ra lập luận sau đây: “Thiên Cơ đóng Mệnh rất ngại sao Thiên Lương đóng Phúc Đức (đó là cách Cự Cơ Mão Dậu đấy) sẽ đưa đến tình trạng tự thị thông minh mà rơi vào lầm lẫn to tát, khiến cho khả năng quyền biến thành hư ngụy, hoặc ra con người khinh bạc khó thành đại sự”

Cơ Khoa đóng Huynh Đệ, anh em bất hòa thường trực, hoặc bằng mặt mà chẳng bằng lòng, anh em cộng tác với nhau mà mỗi người lại tính toán riêng. Thà không Hóa Khoa còn hơn, có Hóa Khoa vào Huynh Đệ không chỉ ảnh hưởng đến anh em mà còn ảnh hưởng đến cả bè bạn. Có Hóa Khoa tóm lại khó lòng gặp được người cộng tác trung thực.

Cung Tật Ách thấy Cơ Khoa can hỏa vượng thịnh, khó ngủ vì tâm thần bất giao do sự hun nóng của lá gan đưa đến thần kinh suy nhược.

HÓA KHOA VĂN XƯƠNG
Xương Khúc tuy là phụ tinh nhưng cũng dự phần vào chuyện an tứ Hóa. Một phụ tinh nữa dự phần tứ Hóa là sao Hữu Bật. Xương Khúc chủ văn chương nên gặp Hóa Khoa kể như hữu lý.

Một phái hệ Tử Vi bên Trung Quốc không chấp nhận Hữu Bật đứng với Hóa Khoa, nhưng đấy chỉ đặt vấn đề thôi, không được giải quyết.

Thời xưa do khoa cử mà nên công danh (dĩ nhiên cũng không thiếu gì người qua dị lộ mà có công danh). Bởi vậy khi chuyển vào số mà chủ trương Mệnh hay Thê cung mà có Xương Khoa rất đáng mừng. Vận gặp Xương Khúc Hóa Khoa cũng thuận lợi cho công danh.

Đời bây giờ Xương Khoa không còn sức mạnh để đạt công danh như ngày trước, chỉ xem là giành được phần khoa bảng thôi.

Văn Xương chủ về văn thư khế ước, viết sách nổi tiếng, hoặc có văn bằng mà thành danh giá. Xương Khoa Hóa Lộc đi cùng khả dĩ nhờ một khế ước mà có tiền.
Xương Khoa cần có thêm Tấu Thư càng dễ nêu cao danh vọng. Xương Khoa cũng là dấu báo của một tin vui. Xương Khoa là một con người giỏi thích ứng với cuộc sống, yêu đời.

Xương Khoa vào vận hạn hay các cung lục thân mà gặp nhiều hung sát tinh thì lại không tiếp tục mang tính chất mừng vui hỉ khánh nữa mà có thể ra tang lễ. Tại sao? Vì Xương Khoa chủ về lễ nhạc kèn trống tế lễ.

Thê cung thấy Xương Khoa đi cùng Đào Hoa vào cổ thời là con người ưa lấy vợ lẽ thiếp hầu, ở thời này thường xảy ra những cuộc tình ngoại hôn. Xương Khoa vào cung Tật Ách mà có Hỏa hay Linh thì bệnh tật để lại vết sẹo, như giải phẩu hoặc nám da.


HÓA KHOA THIÊN LƯƠNG

Thiên Lương chủ quí nên cần gặp Hóa Khoa để mà danh dự. Cơ Lương đi cặp đứng cùng Hóa Khoa là con người quản trị giỏi. Thiên Lương Hóa Lộc dễ được người tin cậy.

Cách Cơ Cự Đồng Lương được Hóa Khoa là một cán bộ hành chánh cừ khôi, hoặc là loại chuyên viên có hạng. Cao thấp còn tùy sao bản mệnh.

Lương Khoa trên tính tình là con người từ ái, chuộng nghĩa khinh tài. Lương Khoa mà gặp Văn Khúc Hóa Kị đối xung thì sức lực bị giảm hẳn, gây thù chuốc oán vì cái tính bới lông tìm vết xét nét tiểu tiết nhỏ nhặt.

Lương Khoa có Tấu Thư học vào ngành viết diễn văn, làm đổng lý phụ tá đắc lực.

Lương Khoa đi cùng Thiên Đức Giải Thần học thuốc dễ thành công.

Thiên Lương Thiên Đồng hễ có Hóa Khoa thì không sợ thấy Thiên Mã, không Khoa chỉ có Thiên Mã thôi Đồng Lương sẽ ra lãng đãng, bông lông.

Đồng Lương Hóa Khoa có Thiên Mã thành ra con người giao du rộng rãi “tứ hải văn danh”. Ngay cả Thiên Lương Tỵ Hợi mà được Khoa cũng giảm bớt chất phiêu bồng thêm Khôi Việt nữa thì qua cơn phiêu lãng trải nhiều kinh hiểm khả dĩ nên công. Lương Tỵ Hợi vào Thê cung dù có Khoa cũng vẫn không đẹp.

Lương Khoa đóng Phụ Mẫu hay Tử Tức đều tốt, được ân đức cha mẹ và con cái thành đạt. Thiên Lương đóng Tật Ách gặp Không Kiếp dễ bị tê thấp đau nhức, có Hóa Khoa càng nặng.

Nữ mệnh Thiên Lương Hóa Khoa đóng Tật Ách gặp Linh Hỏa bị lưu sản, bệnh lộn xộn đường kinh. Từ trước tới giờ người ta nghĩ Hóa Khoa vào Tật Ách là giải hết bệnh hoạn, điều này qua kinh nghiệm không đúng

HÓA KHOA THÁI ÂM

Thái Âm là tài tinh, khi đã hóa thành Khoa khiến cho tài nguyên thuận lợi. Thái Âm Hóa Khoa vào kinh doanh hợp cách, dễ tạo thanh danh cho công việc kinh doanh mà sinh lợi. Tỉ dụ một tiệm ăn nổi tiếng, tiệm quần áo nổi tiếng….

Thái Âm khác Thái Dương ở điểm: Thái Dương trải ánh sáng đi, tán quang trong khi Thái Âm lại liễm ánh sáng tới. Bởi thế nên sự thành danh cũng khác với thành danh của Thái Dương. Thái Dương mở rộng ra quần chúng, Thái Âm lại cần hạn hẹp với lợi ích bản thân.

Thái Âm Hóa Khoa tạo tính lạc quan, dễ sống, thích nghi hưởng thụ. Thái Âm Hóa Khoa đóng Phúc Đức quan niệm sống thoải mái với hưởng thụ nhân sinh. Do đó mới có luận cứ rằng: Âm Khoa đóng Mệnh đắc địa không hay bằng đóng Phúc Đức trên mặt nhàn nhã hưởng thụ. Vì Âm Khoa ở Mệnh thì cung Phúc Đức có Cự Môn thường đưa đến tình trạng đam tâm thái quá dễ mệt mỏi tinh thần.

Âm Khoa vào Tài Bạch cung thì cung Mệnh sẽ là sao Thiên Lương thủ. Tiền bạc không do tự tay mình tung hoành mà nhờ thanh vọng chức tước sẵn có để hưởng bổng lộc. Thái Âm đóng hãm cung mà có Hóa Khoa càng vô duyên với những vụ đầu tư, hãy theo đuổi chức nghiệp thì hơn.

Thái Âm hãm đứng với Hóa Khoa ở Tật Ách chủ về bệnh âm hư. Âm Khoa đắc địa vào cung lục thân Phụ Mẫu Tử Tức xem là tốt đẹp kể luôn cả Thê cung, nhưng nếu lạc hãm thì ngược lại.


HÓA KHOA VĂN KHÚC


Xương hay Khúc đều là văn tinh cho nên đương nhiên cần Hóa Khoa. Thời xưa cho rằng Văn Khúc không bằng Văn Xương vì Văn Khúc mang khuynh hướng dị lộ công danh. Văn Khúc Hóa Khoa cùng với Ấn Quang Thiên Quí tốt hơn Văn Khúc chỉ với một Hóa Khoa, như vậy mới thành cách “Ân Khoa”. Cách này dễ được đề bạt vào chức vị.

Văn Khúc sao có tài ăn nói nếu gặp Cự Môn Hóa Lộc thì nói ra tiền, hoặc vì giỏi ngôn từ mà được người đời tin cậy. Văn Khúc cũng chủ về thuật số đứng với Khoa và Cơ Âm học về thuật số khả dĩ nổi danh.

Văn Khúc Hóa Khoa chịu ảnh hưởng nhiều từ các sao mà chúng đứng cùng. Tỉ dụ Tử Vi Thất Sát không ưa Văn Khúc Hóa Khoa lắm. Tử Sát chủ về quyền lực, Khúc Khoa không làm tăng tấn quyền lực, đôi khi còn làm trở ngại cho khả năng quyết đoán.

Vũ Khúc có thể cần Văn Khúc thôi, nhưng không cần Văn Khúc với Hóa Khoa vì Khoa chen vào tạo thành mâu thuẫn đáng lẽ cần tham, quyết định thì là dùng dằng mà hỏng việc. Nhưng Thiên Cơ Thiên Lương thì tuyệt đối cần Văn Khúc Hóa Khoa. Cơ Lương có được Khúc Khoa thanh vọng tăng lên, nhưng đồng thời cũng mang một khuyết điểm là nhiều lý thuyết hơn hành động.

Cự Môn Hóa Lộc đứng với Văn Khúc Hóa Khoa tài ăn nói hơn người với điều kiện đừng có Sát Kị tinh. Gặp Sát Kị sẽ bị họa do ngôn từ. So Xương với Khúc thì Văn Xương thiên về tư tưởng, Văn Khúc lại ngả về hành động. Văn Xương khi suy tư rất sáng nhưng vào hành động lại vụng về, trong khi Văn Khúc suy tính không tinh sảo nhưng hành động đắc lực.

Khúc Khoa vào cung Phúc Đức ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời. Khúc Khoa đóng Mệnh mà Thê cung lại thấy Văn Xương Hóa Kị thì trước khi có vợ đã có thiếp. Nữ mệnh mà như thế lúc lấy chồng không còn là con gái nữa. Nó không rõ rệt như Tham Đào nhưng là ngấm ngầm.

HÓA KHOA THIÊN PHỦ

Thiên Phủ ưa nhất Lộc. Khoa đối với Phủ chỉ là thứ yếu. Thiên Phủ thiếu Lộc mà gặp cả Sát tinh như Triệt Tuần, Linh Hỏa, Không Kiếp sách gọi bằng: “Phủ khố không lộ” (kho thủng, kho không cửa ngõ). Khoa vào chẳng giúp ích được gì.

Thiên Phủ Hóa Khoa không bị sát tinh là người quản thủ tiền bạc giỏi. Thiên Phủ Hóa Khoa gặp Sát tinh nên học một nghề cho tinh để vinh thân.

Phủ Khoa thành một cách đặc biệt nếu gặp Thiên Riêu đứng bên. Hễ có Riêu thì không sợ các sát tinh. Thêm Sát tinh càng tốt, biến ra con người nhiều mưu chước kinh doanh tài chánh, hoàn cảnh càng biến hóa càng lên cao. Phủ Khoa Riêu không Sát tinh thì chỉ là con người gây được tín nhiệm của thiên hạ nhưng coi chừng tâm tư người này quá lớn.

Tử Vi Thiên Phủ đồng cung hoặc đối xung thì Thiên Phủ Hóa Khoa kể làm tốt nhất là với người tuổi Nhâm vì còn hội thêm với Quyền Lộc. Phủ Khoa trong trường hợp trên đem lại khả năng lãnh đạo và được người tin cậy miễn đừng thấy Hóa Kị đứng bên Vũ Khúc. Có Vũ Kị biến ra lý tưởng quá mức mà đưa đến không tưởng.

Phủ Khoa đóng lục thân, có thể tin cậy trong mọi công việc làm ăn. Tỉ dụ vào cung Bào hãy cộng tác với anh em ruột thịt. Phủ Khoa đóng Thê cung hay Phu cung luận đoán phức tạp hơn. Vì Phủ ở Thê thì Mệnh là Tham Lang. Phủ Khoa như vậy người phối ngẫu sẽ chỉ phúc hậu với điều kiện hơn tuổi (vợ già hay chồng già). Phủ Khoa gặp Sát tinh đóng Tật Ách thường bị bệnh ở bộ phận tiêu hóa: dạ dày, ruột.

Nguồn Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tác động của Hóa Khoa với các chủ tinh

Vật phẩm phong thủy hình rồng –

Rồng là linh vật trong phong thủy, ngoài việc đem lại những ý nghĩa tốt đẹp và tránh họa tiểu nhân, sử dụng hình tượng rồng còn đem lại may mắn cho phụ nữ độc thân. Một trong những vấn đề được phong thủy đặc biệt quan tâm là việc tạo ra sự cân bằng v

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rồng là linh vật trong phong thủy, ngoài việc đem lại những ý nghĩa tốt đẹp và tránh họa tiểu nhân, sử dụng hình tượng rồng còn đem lại may mắn cho phụ nữ độc thân.

rong-cho-phong-thuy-nha-1

Một trong những vấn đề được phong thủy đặc biệt quan tâm là việc tạo ra sự cân bằng về năng lượng.

Cách tốt nhất để có được điều đó là vận dụng những vật phẩm phong thủy vào không gian sống. Với phụ nữ, nên sử dụng biểu tượng rồng để thu hút năng lượng dương.

Rồng là biểu tượng cung cấp năng lượng dương rất mạnh, chủ về vận may trong tình yêu cho những phụ nữ độc thân sống 1 mình hoặc sống với mẹ.

Trong trường hợp này, năng lượng toàn âm tạo ra sự mất cân bằng. Nếu việc trang trí của ngôi nhà phản ánh quá nhiều năng lượng âm, sẽ khiến người phụ nữ trong gia đình gặp khó khăn trong việc tìm kiếm người yêu và bạn đời của mình.

Bạn có thể khắc phục bằng cách khai thác năng lượng dương rất mạnh của rồng. Nơi tốt nhất để tạo năng lượng dương của rồng là phòng khách.

Bạn đứng ở giửa phòng khách nhìn ra phía trước và chọn bờ tường bên trái của phòng khách, tức là phương vị Thanh long, để bố trí một kệ nhỏ và đặt rồng trên kệ này, đầu rồng nhìn ra cửa chính của ngôi nhà.

Để đạt hiệu quả tốt nhất, bạn nên chọn ngày tốt để đặt rồng trong nhà.

Những ngày tốt đó gồm có 5 ngày (còn gọi là ngũ long nhật: 5 ngày rồng) như sau: Giáp Thìn, Bính Thìn, Mậu Thìn, Canh Thìn, Nhâm Thìn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy hình rồng –

Những câu danh ngôn hay và ý nghĩa về tính cách con người

Những câu danh ngôn hay và ý nghĩa về tính cách con người. Trong cuộc sống mỗi con người có một tính cách và có sự biểu hiện khác nhau
Những câu danh ngôn hay và ý nghĩa về tính cách con người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu danh ngôn hay và ý nghĩa về tính cách con người. Trong cuộc sống mỗi con người có một tính cách và lập trường, nhưng tính cách ấy được biểu hiện như thế nào mới là điều quan trọng. Những câu danh ngôn hay và ý nghĩa về tính cách con người dưới đây sẽ là những bài học và chia sẻ quý báu trong cuộc sống của bạn.

Hãy cùng tham khảo những câu nói hay này trong bài viết dưới đây nhé!

Những câu danh ngôn hay và ý nghĩa về tính cách con người

-Giận là đem lỗi lầm của người khác trừng phạt bản thân mình

—-

-Biết xấu hổ trước mọi người là một cảm xúc tốt. Nhưng tốt hơn hết là biết xấu hổ trước chính bản thân mình.

—-

-Hiểu biết và chỉ có hiểu biết mới làm cho con người tự do và đem lại cho con người sự vĩ đại.

—-

-Trong đạo đức cũng như trong nghệ thuật, vấn đề không phải ở lời nói, mà là ở việc làm.

-Mỗi ngày biết thêm điều mình chưa biết, mỗi tháng chẳng quên điều mình đã biết, như vậy mới đúng gọi là người ham học.

-Đừng bao giờ nghĩ rằng bạn đã biết tất cả mọi điều. Và dù người ta có đánh giá bạn cao đến đâu đi nữa, bạn vẫn phải luôn có dũng cảm tự nhủ: ta là một kẻ dốt nát. Đừng để lòng kiêu ngạo xâm chiếm lấy bạn. Vì nó bạn có thể bướng bỉnh ở chỗ cần phải tán thành, vì nó, bạn sẽ từ chối lời khuyên có ích và sự giúp đỡ thân ái, vì nó bạn sẽ mất mức độ khách quan

-Không kho báu nào quý bằng học thức, hãy tích lũy lấy nó, lúc bạn còn đủ sức.

-Thói quen hay nếp cũ tạo thành bầu bạn, dục vọng hay quyền lợi tạo thành những kẻ cộng sự; chỉ có riêng đức hạnh mới tạo thành những tri kỷ.

-Cái hay duy nhất là tri thức, cái dở duy nhất là không có tri thức.

-Đi ra một bước đường ta thấy ta khôn thêm một chút và tự thấy trí óc của mình thật bé bỏng vô cùng.

-Người ta có thể bỏ hết đựợc cái khôn vặt thì mới khôn to được.

-Không có tài sản nào quý bằng trí thông minh, không vinh quang nào lớn hơn học vấn và hiểu biết.

-Người khôn nghĩ rồi mới nói, người ngu đần nói rồi mới nghĩ đến điều anh ta nói.

-Trên đời không gì vĩ đại bằng con người, trong con người không gì vĩ đại bằng trí tuệ.

-Cái bất lợi của trí tuệ là ở chỗ: buộc phải không ngừng học hỏi thêm.

-Kẻ biết thì không nói. Kẻ nói thì không biết.

Hãy thường xuyên vào xemboituong.com của chúng tôi để tham khảo những câu nói ý nghĩa trong cuộc sống bạn nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu danh ngôn hay và ý nghĩa về tính cách con người

Hướng bếp hợp người sinh năm 1955 Ất Mùi –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1955: - Năm sinh dương lịch: 1955 - Năm sinh âm lịch: Ất Mùi - Quẻ mệnh: Ly Hoả - Ngũ hành: Sa Trung Kim (Vàng trong cát) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Kh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1955:

bep_gon_o_chung_cu0_00639300_1349755985

– Năm sinh dương lịch: 1955

– Năm sinh âm lịch: Ất Mùi

– Quẻ mệnh: Ly Hoả

– Ngũ hành: Sa Trung Kim (Vàng trong cát)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);

Trong trường hợp này, có thể đặt bếp tọa các hướng Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ); , nhìn về các hướng tốt Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị); 

Ngoài ra, bếp nên tránh đặt gần chậu rửa, tủ lạnh, tránh có cửa sổ phía sau, tránh giáp các diện tường hướng Tây.

Chậu rửa, cũng như khu phụ, được hiểu là nơi xả trôi nước, tức là xả trôi những điều không may mắn, nên đặt tại các hướng xấu như hướng Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1955 Ất Mùi –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd