Đinh Hợi mệnh gì –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Ngay từ khi sinh ra, mỗi người mang những nét tướng cách đặc trưng. Chính những nét tướng cách ấy có thể phản ánh phần nào số mệnh giàu nghèo, sướng khổ của mỗi cá nhân. Dưới đây là những đặc điểm dễ nhận thấy của tướng phụ nữ có số sướng bẩm sinh. 1. Phụ nữ có tướng cằm đầy đặn Cằm hay còn được gọi là Địa các, chủ về vận thế ở hậu vận của một đời người. Phụ nữ có tướng cằm đầy đặn bao giờ cũng được hưởng phúc đức khi về hậu vận, vận khí ngày càng tăng theo thời gian. Nhất là những quý cô có hai cằm, phúc khí càng lớn, hôn nhân cực kỳ viên mãn, quan hệ vợ chồng luôn hòa hợp, còn là trợ thủ đắc lực cho sự nghiệp của chồng.
![]() |
![]() |
![]() |
Đây là quẻ Quan Âm thứ 91 được xây dựng trên điển cố: Tam Anh chiến Lã Bố hay anh hùng đánh Lã Bố.
Quẻ trung bình thuộc cung Dậu. Hiện trạng giờ đây giống như phía trước là một con đường rộng lớn, có thể tự tin đi đến đích cuối cùng, không cần phải lo lắng. Những sự việc đang muốn làm, hãy yên tâm mà thực hiện.
Thử quái tiền đồ hiển đạt chi tượng. Phàm sự thông thái đại cát dã.
Câu chuyện này có nguồn gốc từ tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa“.
“Tam anh” là chỉ ba người Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi.
Cuối thời Đông Hán, thiên hạ đại loạn. Quan Thứ sử Tây Lương là Đổng Trác nắm giữ triều chính, chuyên quyền bạo ngược. Quan lại các nơi rất bất mãn, đều muốn dấy quân đánh Đổng Trác. Tào Tháo dùng mưu kế dâng đao để giết Đổng Trác nhưng không thành, bèn trốn khỏi Lạc Dương, chiêu binh mãi mã, lại viết hịch gửi các quận kêu gọi đánh Đổng Trác. Sau khi bài hịch phát ra, chư hầu các lộ đều lần lượt dấy binh hưởng ứng, nhanh chóng tập hợp được binh mã của mười tám lộ. Mọi người suy tôn Viên Thiệu làm minh chủ, tiến đánh đến Lạc Dương.
Đống Trác nghe được tin, lập tức triệu tập Lý Nho, Lã Bố để bàn bạc, quyết định tiến hành truy bắt.
Trong doanh trại của Viên Thiệu chia làm tám lộ chư hầu gồm Vương Khuông, Kiều Mạo, Bào Tín, Viên Di, Khống Dung, Trương Dương, Đào Khiêm, Công Tôn Tán, đến cửa ải Hố Lao đón địch. Tào Tháo dẫn quân đến cứu viện. Tám lộ chư hầu đều khởi binh, Thái thú Hà Nội là Vương Khuông dẫn quân đến trước tiên. Lã Bố mang ba nghìn ngựa chiến được trang bị giáp sắt, chạy như bay đến nghênh chiến. Lã Bố là con nuôi của Đổng Trác, mấy lần đại chiến, chư hầu các lộ không ai có thể địch nối.
Lúc này, ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi đang đầu quân dưới trướng của quan Thái thú Bắc Bình là Công Tôn Tán. Một hôm, Lã Bố lại dẫn quân khiêu chiến, chư hầu các lộ đều xông ra. Công Tôn Tán lên trước, đánh với Lã Bố chưa được mấy hiệp đã thất bại. Lã Bố thúc ngựa xích thố đuổi theo. Con ngựa đó một ngày có thể đi được nghìn dặm, chạy nhanh như gió, trong nháy mắt đã đuổi kịp, Lã Bố nâng cây kích nhằm phía sau Công Tôn Tán đâm tới. Trong lúc gay cấn, chỉ thấy có một vị tướng ở bên cạnh, mắt trợn tròn, râu vểnh ngược, vung bát xà mâu, phi ngựa quát lớn: “Tên đầy tớ của ba họ chớ có chạy! Có Trương Phi người đất Yên ở đây!” Lã Bố nhìn thấy, liền bỏ qua Công Tôn Tán để đánh Trương Phi. Trương Phi phấn chấn tinh thần, say sưa giao chiến với Lã Bố. Đánh nhau liên tiếp hơn năm mươi hiệp, vẫn không phân thắng bại. Quan Vũ thấy vậy, vỗ ngựa một cái, múa cây đao Thanh long yển nguyệt nặng tám mươi hai cân, đến đánh giáp công với Lã Bố, ba người dàn hình chữ đinh giao chiến, đánh đến ba mươi hiệp vẫn không đánh ngã được Lã Bố. Lưu Bị bèn múa song kiếm, thúc con ngựa bờm vàng đến trợ giúp. Ba người vây Lã Bố lại, đánh nhau loạn xạ, khiến cho người ngựa hai bên nhìn đến ngây người. Lã Bố cuối cùng không địch lại nổi ba người, dần dần chỉ tìm cách che chắn chống cự, đâm dứ một kích, tìm chỗ trống xông ra khỏi trận, kéo lê cây kích, phi ngựa chạy về. Ba người Lưu Bị sao có thể buông tha, bèn thúc ngựa đuổi theo. Quân sĩ phía sau hò reo vang động, đồng loạt xông lên tấn công. Quân của Lã Bố thất bại chạy về cửa ai Hổ Lao. Ba người Lưu, Quan, Trương đuổi theo Lã Bố đến dưới cửa ải, thấy trên cửa ải gió tây lay động chiếc lọng màu xanh, Trương Phi nói lớn: “Đây chắc chắn là Đổng Trác! Đuổi theo Lã Bố thì có gì hay? Chi bằng đến đây bắt tên giặc họ Đổng, diệt cỏ tận gốc!” Ròi thúc ngựa tiến lên để bắt Đồng Trác. Nào ngờ trên cửa ải gỗ đá ào ào ném xuống, tên bay như châu chấu, chẳng có cách nào đành phải lui quân.
Sau đó, nội bộ mười tám lộ chư hầu chia rẽ. Quan Tư đò Vương Sung sai Điêu Thuyền dùng mỹ nhân kế, mua chuộc Lã Bố giết được Đống Trác, bắt đầu hình thành cục diện hỗn chiến cát cứ quân phiệt.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào kính cẩn, chứ không có ý nghĩa nào khác. Nhưng trong trường hợp người quá cố còn để trong quan tài tại nhà quàn, những người đến phúng điếu, nếu là vai trên của người quá cố như các bậc cao niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v. v., của người quá cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan tài đã được hạ huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái.
Theo nguyên lý âm dương, khi chưa chôn, người quá cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng trưng cho âm dương nhị khí hòa hợp trên dương thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
* Ý nghĩa của 3 Lạy và 3 Vái
Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, và Tăng. Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh, không bợn nhơ. Đây là nói về nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.
Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu phục, nếu cảm thấy khó khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
* Ý nghĩa của 4 Lạy và 4 Vái
Bốn lạy để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần. Bốn lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao gồm cả cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú ngụ.
Bốn vái dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp dụng thế lạy.
· Ý nghĩa của 5 Lạy và 5 Vái
Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng trưng cho trung cung tức là hành thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý kiến cho rằng 5 lạy tượng trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng Vương, quí vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì giờ để mỗi người lạy 5 lạy.
Lý luận phong thuỷ cổ đại có viết: “Nhà lớn người ít là nhà có tướng hung”. Tại sao vậy?
Mua được nhà lớn là mơ ước của không ít người, xoay quanh vấn đề này đã xảy ra khá nhiều chuyện bi hoan và ly hợp! Thế nhưng tại sao nhà quá lớn lại không tốt?
Kỳ thực, nếu xem xét kỹ chúng ta sẽ nhận ra một đạo lý hết sức đơn giản. Ví dụ, trong một căn phòng rộng 10m2 lắp một máy điều hoà, khởi động nó chỉ sau nửa giờ phòng đã mát. Vì không gian nhỏ mà năng lượng nhanh đủ. Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng nếu không gian quá nhỏ thì sẽ thiếu năng lượng cần thiết. Cũng chiếc điều hòa ấy lắp vào căn phòng rộng 100m2 thì nó sẽ không thể đủ sức làm mát được căn phòng đó. Vì phòng càng rộng thì năng lượng cần cho nó càng nhiều, vì vậy máy điều hoà phải hoạt động liên tục nhưng nhiệt độ trong phòng vẫn không sao đạt mức đã đặt. Và như vậy chúng ta phải lắp nhiều máy diều hoà có công suất lớn hơn thì mới đủ làm mát cho căn phòng đó.

Nhìn từ một góc dộ khác, con người chúng ta cũng là một cá thể mà năng lượng có thể phát sáng và phát nhiệt. Nếu như thay cơ thể con người ta bằng chiếc máy điều hoà thì phòng càng rộng đương nhiên càng tiêu hao nhiều năng lượng từ cơ thể ta toả ra. Vì vậy, kích thước của nhà ở phái tương xứng với số lượng người ở trong đó. Cũng có nghĩa nhà càng rộng thì người ở cũng phải càng nhiều, chính là vấn đề nhân khí yếu vượng chúng ta thường nhắc đến.
Trong phong thuỷ thường nói đến vân đề nhà có thể hút nhân khí. Điều này họ căn toàn chính xác. Năng lượng cơ thể người toả ra chính là nhân khí. Khi một người phải dùng nhiều năng lượng như vậy để bù đắp vào không gian nhà rộng lớn thì tổn hại đến cơ thể. Năng lượng cơ thể tiêu hao nhiều, thể chất tự nhiên yếu đi, trong công việc khó tránh khỏi bê trễ và sai sót, khả năng phán đoán kém đi, gặp chuyện không hay là điều khó tránh.
Vậy một gian phòng diện tích nên rộng bao nhiêu là đủ? Có người nói khoảng 15m2, nhiều lắm thì cũng không nên vượt quá 20m2. Thậm chí có người còn nói ở trong phòng rộng trên 20m2 thì rất khó có con. Có lẽ đây không phải là chân lý tuyệt đối, tuy nhiên ở một mức độ nào đó cũng có độ chính xác nhất định. Thực tế khi năng lượng cơ thể con người bị tiêu hao quá nhiều, tố chất cơ thể giảm sút sẽ ảnh hướng đến vấn đề sinh sản là điều đương nhiên. Đất đai không màu mỡ, cây cối tất không thể tốt tươi.
con và giúp con cái mình có những bước tiến vững chắc đầu đời.
Chọn năm sinh con hợp tuổi bố mẹ dựa theo Ngũ Hành
Ngũ Hành của bản mệnh là yếu tố đầu tiên được xem xét đến khi chọn năm sinh con. Quy luật tương sinh tương khắc của Ngũ Hành rất đơn giản và dễ nhớ:
Kim sinh Thủy – Thủy sinh Mộc – Mộc sinh Hỏa – Hỏa sinh Thổ – Thổ sinh Kim
Kim khắc Mộc – Mộc khắc Thổ – Thổ khắc Thủy – Thủy khắc Hỏa – Hỏa khắc Kim
Như vậy, khi sinh con cần lựa chọn năm sinh để con không khắc với bố mẹ và ngược lại. Ví dụ: Bố mệnh Kim, mẹ mệnh Hỏa thì có thể chọn con sinh năm có bản mệnh Thổ là hợp tương sinh nhất.
Thông thường con khắc bố mẹ gọi là Tiểu Hung, bố mẹ khắc con là Đại Hung, nếu không tránh được Hung thì nên chọn Tiểu Hung sẽ đỡ xấu rất nhiều.

Thiên Can (hay còn gọi là Can) là cách đánh số theo chu kỳ 10 năm (Thập Can) của người Trung Hoa cổ. Can cũng phối hợp được với Ngũ Hành và Âm Dương:
| Can | Năm | Hành | Âm – Dương |
| Giáp | Cuối cùng là 4 (94,04,14…) | Mộc | Dương |
| Ất | Cuối cùng là 5 (95,05,15…) | Mộc | Âm |
| Bính | Cuối cùng là 6 (96,06,16…) | Hỏa | Dương |
| Đinh | Cuối cùng là 7 (97,07,17…) | Hỏa | Âm |
| Mậu | Cuối cùng là 8 (98,08,18…) | Thổ | Dương |
| Kỷ | Cuối cùng là 9 (99,09,19…) | Thổ | Âm |
| Canh | Cuối cùng là 0 (00,10,20…) | Kim | Dương |
| Tân | Cuối cùng là 1 (01,11,21…) | Kim | Âm |
| Nhâm | Cuối cùng là 2 (02,12,22…) | Thủy | Dương |
| Quý | Cuối cùng là 3 (03,13,23…) | Thủy | Âm |
Trong Thiên Can có 4 cặp tương xung (xấu) và 5 cặp tương hóa (tốt), làm cơ sở để lựa chọn năm sinh phù hợp:
| 4 cặp tương xung (xấu) | 5 cặp tương hóa (tốt) |
|
|
Như vậy, chọn năm sinh của con sẽ có thể dùng Thiên Can để so với bố mẹ dựa vào các cặp tương xung và tương hóa. Nếu Thiên Can của con và bố mẹ có tương hóa mà không có tương xung là tốt, ngược lại là không tốt. Ví dụ: Bố sinh năm 1979 (Kỷ Mùi), mẹ sinh 1981 (Tân Dậu), con sinh 2010 (Canh Dần) thì bố mẹ và con không có tương xung cũng như tương hóa và ở mức bình thường.
Địa Chi (hay còn gọi là Chi) là cách đánh số theo chu kỳ 12 năm (Thập Nhị Chi) và nói đơn giản là 12 con giáp cho các năm. Chi từng được dùng để chỉ phương hướng, bốn mùa, ngày, tháng, năm, giờ ngày xưa và Chi gắn liền với văn hóa phương Đông.
| Tương hình | Lục xung | Tương hại |
|
|
|
Thông thường để đơn giản trong Tương Hình, Lục Xung, người ta thường ghép thành 3 bộ xung nhau gọi là Tứ Hành Xung:
Tuy nhiên cũng không hoàn toàn chính xác. Ví dụ: Dần và Hợi không xung, Mão và Ngọ không xung, Ngọ và Dậu không xung, Tí và Dậu không xung, Thìn và Mùi không xung, Thìn và Sửu không xung.
| Lục hợp | Tam hợp |
|
|
Như vậy, nếu dựa theo Địa Chi, việc chọn năm sinh, tuổi sinh cần chọn Lục Hợp, Tam Hợp và tránh Hình, Xung, Hại. Ví dụ: Bố tuổi Dần thì tránh con tuổi Thân, Tỵ, Hợi sẽ tránh được Xung của Địa Chi.
Nói tóm lại, lựa chọn năm sinh con để hợp tuổi bố mẹ có thể dựa vào Ngũ Hành, Thiên Can hoặc Địa Chi, cũng có thể dựa vào cả 3 yếu tố trên và lựa chọn phương án tốt nhất. Tuy nhiên, các yếu tố này cũng chỉ là một phần trong cuộc đời con người, cũng có nhiều trường hợp bố mẹ khó chọn được 1 dải năm để sinh con hợp tuổi do vậy không nên nhất thiết phải chọn năm để sinh, còn rất nhiều yếu tố khác như môi trường, xã hội, gia đình… hay kể cả về lý số cũng còn yếu tố Tử Vi để xem hung cát.
| ► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
Con giáp thiện lương nhận đại phúc đại quý![]() |
![]() |
| => Xem bói theo khoa học tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
“Gái ham tài, trai ham sắc”, kì thực thì trên đời này bất kể là nam hay nữ, chắc hẳn ai cũng đều yêu cái đẹp cả. Chúng ta dễ dàng có cảm tình, sinh lòng yêu thích với những thứ gì xinh đẹp, đó như là một dạng bản năng vậy. Nhưng cũng có những người đa tình, đứng núi này trông núi nọ, mà một trong những nguyên nhân gây ra sự tình đó chính là vì họ có phần háo sắc, thường đi theo tiếng gọi của bản năng mà không hỏi ý kiến của lý trí, tạo cho người khác cảm giác họ không được nghiêm túc trong chuyện tình cảm. Vậy bạn có biết xem bói tử vi thì trong số 12 con giáp, ai là người háo sắc không? Hãy cùng theo dõi với Lịch ngày tốt nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
1. Mơ thấy bị chó cắn
Giấc mơ này ám chỉ có một người rất thân thiết đang muốn "chơi xấu" bạn, người này có thể là bạn thân hoặc một người có mối quan hệ rất tốt mà bạn chẳng bao giờ ngờ đến.
2. Mơ thấy bị mèo cắn
Mơ thấy bị mèo cắn hoặc bị mèo dọa cho giật mình, điều này ám chỉ sắp có người cố ý làm điều không tốt với bạn.
![]() |
3. Mơ thấy chân tay bị thương
Điều này có nghĩa chuyện học hành và công việc của bạn có người gây rối, tài vận bị ảnh hưởng. Đầu ngón tay, đầu ngón chân còn cảnh báo về vấn đề sức khỏe.
4. Mơ thấy vết tường bị nứt
Giấc mơ này ám chỉ có người muốn gây sự với người thân trong gia đình bạn.
5. Mơ thấy bị đuổi giết
Giấc mơ này ám chỉ bạn đang gặp áp lực về mặt tâm lý hoặc có người muốn "chơi xấu" bạn.
Chocopie (theo Sina)
Nhiều gia đình Việt trên bàn thờ tổ tiên thường cắm trụ sắt ở chính giữa bát hương (tượng trưng cho tinh tú) và để đốt hương vòng. Để cắm trụ sắt mà không "động" bát hương, ngày 23 tháng chạp là thời điểm tốt nhất được chọn bao sái bát hương (tỉa chân hương), rồi cắm trụ sắt thật thẳng, vững vào chính giữa bát hương. Sau khi hoàn tất việc dọn dẹp ban thờ, khấn vái xong gia chủ sẽ thắp hương vòng lên trụ sắt. Nhưng nhiều nhà tâm linh cho rằng, bát hương cần tĩnh và nghiêm cẩn, không nên tùy tiện cắm bất cứ thứ gì vào bát hương, bởi như thế sẽ “động” bát hương, gây xui xẻo cho gia chủ.. Ông Nguyễn Mạnh Cường (nhà nghiên cứu Phật học, Viện Nghiên cứu Ứng dụng Tiềm năng con người) chia sẻ, nhiều nhà tâm linh đã chứng thực chuyện bát hương có liên quan tới cái đầu của gia chủ. Khi bốc bát hương mà lèn chặt, hoặc bát hương bốc tơi nhưng sau một thời gian tro hương sẽ chắc lại. Chỉ thế thôi, nhưng gia chủ không biết mà khơi tro tơi lên, sẽ có thể dẫn tới đau đầu cho gia chủ.
Để tránh động bát hương, nên thắp hương vòng trong đĩa, không tùy tiện cắm que sắt vào trong bát hương để đốt hương vòng. Vì vậy việc cắm trụ sắt vào bát hương để đặt hương vòng lên đó đốt, về mặt tâm linh sẽ có thể khiến gia chủ thỉnh thoảng sẽ bị đau đầu bất chợt mà không xác định được nguyên nhân. Nhưng khi bỏ trụ sắt cắm hương vòng ra, đầu gia chủ sẽ nhẹ hẳn. Theo các nhà tâm linh, một ban thờ nếu có đủ ngũ hành là tốt (đại ý Kim là đồ kim loại. Mộc là hương. Thủy là nước. Hỏa là đèn nến. Thổ là bát hương, tro). Nhưng các đồ kim loại như đỉnh đồng, lư đồng, bát hương đồng, hạc đồng, đỉnh đồng, chân nến… hiện có ý kiến không nên đặt quá nhiều trên ban thờ, và đã có nhiều nhà không dùng nữa, bởi nếu đặt đồ kim loại nặng và lớn gia chủ sẽ rất dễ bị bệnh. Gia đình và xã hội
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
Lại còn có một số Thần người nước ngoài xâm lăng nước ta, khi chết tạo sự bất an cho dân, như Nguyễn Bá Linh theo nhà Nguyên đánh Đại Việt, Trương phụ là tướng nhà Minh…cũng được thờ ở Ninh Bình, Quảng Ninh cho bớt sự quấy đảo… Nhưng các Thần người nước ngoài có công với chúng ta, thể hiện đạo đức phù hợp với bản chất dân tộc Việt được nhân dân tôn thờ, sùng kính. Ví như đền thờ Mỵ Ê ở Lý Nhân, Hà Nam, là vợ vua Chiêm có khí tiết đáng kính. Triệu Trung là tướng nhà Tống theo Đại Việt đánh giặc Nguyên được thờ ở Cao Đài - Mỹ Thành – Nam Định và đặc biệt Tứ Vị Thánh Nương, triều đình Nam Tống kháng chiến đế quốc Mông – Nguyên không thành, cơ đồ nhà Tống tan nát, hận mất nước mang nặng, tình nguyện âm phù cho Đại Việt đánh giặc cũng như nhân dân Việt làm ăn, phát triển sĩ, nông, công, thương… được dân gian chiêm ngưỡng rộng rãi khắp Trung, Bắc, Nam và lịch đại phong tặng danh hiệu Thượng đẳng thần.
Việc sùng bái này tuy có thời sóng gió, nhưng một vài thập kỷ gần đây được phục hồi, Nhà nước quan tâm tu bổ di tích như đền Cờn - Nghệ An, đền Mẫu – Hưng Yên, đền Lộ - Hà Nội, đền Ninh Cường, đền thờ Mẫu ở Thái Bình, đền các xã Quần Anh cũ, đền xã Trực Khang – Nam định… Phải chăng đạo nghĩa dân tộc, tầm nhìn tổ tiên đã vượt qua biên giới, nói cách khác là đã có quan điểm toàn cầu. Quý hoá thay, đáng kính thay! Riêng với Nam Định nay (vì Nam Định xưa, đầu thế kỷ 19 quản lãnh cả Thái Bình và một phần Hưng Yên) tục thờ Tứ Vị Thánh Nương còn được khôi phục ở khá nhiều nơi, đặc biệt vùng biển, nay thuộc huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh. Xin dẫn chứng lịch sử tôn thờ Tứ vị, với công trình khẩn hoang mở đất phía Nam sông Cường Giang (nay là sông Ninh Cơ) để có được phần lớn đất đai huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh ngày nay. Theo di tích, truyền thuyết địa phương thì các cụ tổ sáng lập đất Quần Anh là Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập (địa chí ghi là Tứ tính) cùng chín họ Lại, Nguyễn, Lê, Bùi… (địa chí ghi là Cửu tộc) vượt sông Cường Giang, từ vùng Tương Đông - Trực Ninh sang khai hoang lấn biển vào cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, khi điền địa hình thành, lập xóm trại, họ đã lập đền thờ. Phần này trong sách chép tay Quần Anh tiểu sử của Tiêu Viên Hoàng Diễn (1872-1914), do Phương Châu Đoàn Ngọc Phan dịch và chú thích năm Ất Sửu 1985, mục xây dựng đền, miếu, đàn, chùa và bi ký có ghi: “Nguyên trước đền thờ Tống Thái hậu (người họ Dương là vợ vua Tống Độ Tông, mẹ Tống Đế Bính cùng hoàng hậu và hai công chúa bị nạn giặc Mông - Nguyên chết đuối ở bể năm Kỷ Mão 1279). Đền Bóng trước tại xứ Cồn Khuôn bị xã Cát Chử chiếm mất, bèn lập lại đền Bóng tại phía Bắc sông Trệ (nay thuộc cầu Xẻ, xã Thượng). Tương truyền khi Tú Tổ khai trương, phía đông có đền xã Quần Mông, phía tây có đền thờ Tống hậu còn gọi là Tứ Vị Thánh Nương (do ai xây, xây từ bao giờ?... Các tổ nhân sẵn đền cũ tu bổ lại, đúc tượng đồng phụng sự… Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ 13 mới đúc tượng đồng ở đền Bóng sông Trệ lại trang hoàng từ vũ. Diện tích khu đền rộng hơn một mẫu, nước hồ trong vắt, cây cối um tùm, nhân dân kỳ đảo linh ứng, trải qua nhiều triều đại có sắc phong… Sau khi Quần Anh phân làm ba xã (1804) đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), xã Hạ lập đền Bóng tại phía bắc chợ Đông Cường, xã Trung, xã Thượng vẫn thờ tại đền Bóng phía bắc sông Trệ. Năm Thành Thái thứ 10 (1890), xã Trung mới lập đền Bóng ở phía nam sông Trà, phía đông Cầu Đông. Từ đó các xã đều có đền Bóng riêng, tục gọi là đền Chánh. Còn đền tại Vĩ Châu do Ninh Cường phụng sự, nhưng hai xã Thượng và Trung thay phiên nhau hàng năm lên kinh tế”… Như vậy, trong vòng 5-7 km, các xã giáp nhau đều có đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương. Theo truyền thuyết đây là đời sống tinh thần của dân khai hoang mở đất Quần Anh. Sách Quần Anh dấu xưa mở đất của Trần Xuân Mậu (Hội Văn học nghệ thuật Nam Định - 2002) còn ca ngợi đền Chánh xã Trung là công trình kiến trúc tuyệt đẹp. Thợ nề Quần Anh có tài nặn, đắp, tạo hình…Đôi nghê chầu do hai phó nề quây cót đắp thi khá thành công, đã có thơ ca ngợi… Gần 4 ngôi đền phía nam sông Cường Giang, phía bắc sông có đền Lạc Chính nay thuộc xã Trực Khang, huyện Trực Ninh. Lịch sử lập đền vào cuối thế kỷ 19, xin chân nhang ở đền Ninh Cường (cửa biển Lác) về thờ và ngày càng tu bổ đẹp đẽ, lại là cơ sở cách mạng, kháng chiến của địa phương. Đơn cử một số điểm thờ Đại Càn Thánh Mẫu, hoặc Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định để chúng ta tìm hiểu về nguyên nhân cũng như ảnh hưởng của Tứ Vị Thánh Nương đối với cộng đồng dân tộc Việt. Có thể có sự đồng cảm bởi Vương hậu, Vương phi nhà Tống vì kháng chiến chống kể thù chung Mông – Nguyên. Có thể bởi đức độ giữ chư tiết nghĩa mà ngọc phả dẫn, phù hợp với chất đạo lý dân tộc, hoặc do sự âm phù vua Trần Anh Tông cho nên biển lặng, sóng yên giúp quân Trần nhanh chóng chinh phạt kẻ thù phương Nam thành công, hay có sự anh linh, một niềm tin nào đó cho sĩ, công, nông, thương Đại Việt trước kia, rồi Đại Nam, Việt Nam chúng ta ngày nay cầu được ước thấy, mưa thuận gió hoà, thuận buồm xuôi gió…dẫn đến đời sống ấm no, hạnh phúc mà dân gian hết lòng tôn kính, lập đền thờ tự.
Hoặc do dân quê thuần phác, đời sống khó khăn, trong công cuộc khai hoang lấn biển, nhiều lần nước mặn phá vỡ đê biển, nhiều lần tràn ngập cướp đi hàng ngàn, hàng vạn ngày công… dân quê không còn cách nào hơn là lập đền ở Vĩ Châu, rồi sau là đền Chánh, đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương mong sự cứu độ và đây là liều thuốc an thần, giúp dân khai phá thành công, thiết lập làng xã với một nếp sống nông thôn nghĩa tình, có từ đường thờ tổ, văn đàn, võ đàn, đền, miếu, chùa cảnh, thờ Thần, Phật, Tổ lập lăng. Còn chấn hưng việc học, xây cầu, lập quán tạo cuộc sống đầy đủ vật chất, chu đáo về tâm linh cho dân. Đây là văn hoá bản địa, văn minh bản địa khá tiêu biểu ít nơi có. Và để minh chứng xin trích dịch “Tân đình bi ký” (1815) tại xã Trung, nay là Hải Trung, Hải Hậu, Nam Định. … “Đất ta cổ truyền là đất chua mặn, cát chữa nên ruộng, bằng phẳng bốn bề, chỗ cao có thể dựng nhà cửa, chỗ thấp có thể cấy dâu gai, ngàn mẫu tạo nên mà trăm nhà dựng, xanh tươi sầm uất thành vũ trụ trời Nam… từ niên hiệu Hồng Thuận chung nhau một xã, đình làng cùng chung, chợ cùng nhau họp, cầu cùng nhau leo, đều cùng nhau cúng. Năm Giáp Tý (1804) mới cắm mốc chia làm ba làng”… Văn bí chùa Phúc Sơn (Quần Phương Trung, Phúc Sơn tự ký) lập năm 1932 còn ghi: … “Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) lập thành tên xã Quần Anh, dựng đền Quốc Mẫu tối linh Thần ở thôn An Cường, nguyên trước là thôn Tây Cường, nay là xã Ninh Cường, cửa bể sông Lác bãi Vĩ Châu, dựng thêm đền Bóng ở cửa sông Trệ, dựng chùa thờ Phật gọi là chùa Phúc Lâm”. Những dòng chữ Hán của người xưa, muốn cho cộng đồng cư dân Nam Định ghi nhớ dấu tích đời sống tinh thần trong đó có tục thờ Tứ vị, cũng như đức tin của người Nam Định đối với các vị Thần Tổ lập biển lập làng, tạo an sinh xã hội”
Nhìn chung các di tích thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định khá lớn, khá nhiều, thường có hai hoặc ba toà chính, có hệ thống tường hoa, cột trụ vây quanh tạo khuôn viên nội chữ đinh, hoặc nội chữ công, ngoại chữ quốc, quy mô hoành tráng. Phần thư tịch, câu đối đều có nhắc tới nạn xâm lăng của nhà Mông – Nguyên, triều đình Nam Tống bị diệt vong, thái hậu cùn ba con bị nạn trôi đến Càn Môn - Quỳnh Lưu - Nghệ An, nêbn dân gian coi đền Cờn - Nghệ An là nơi phát tích, hàng năm vẫn có người vào đền Cờn dâng lễ tỏ rõ lòng thành, không 1uên gốc. Đơn cử câu đối đền Lạc Chính nay là xã Trực Khang ghi: Nam Hải thần phong thiên hữu sắc Cần môn ba tố địa giai binh Tạm dịch: Nam Hải thần do trời ban sắc, Cầu môn nổi sóng đất anh linh. Lễ hội ở đây, ngoài việc tế lễ, ngày 7 tháng giêng có lệ thi trâu béo, khoẻ. Để làm việc này, ngay từ ngày 6 tháng giêng các giải pháp tắm rửa cho trâu, cho trâu ăn no, lại trang trí trên đầu, trên sừng trâu. Các nhà trong giáp góp gạo thổi xôi làm lễ, tối mồng 6 thắp đuốc rước trâu. Người cưỡi trên lưng trâu giơ cao ngọn đuốc và đoàn người trống chiêng hối hả theo sau. Đoàn rước có tới hàng chục con trâu béo, trâu đẹp được tập trung để dự thi, con nào đạt thì được giải. Lệ này được duy trì cho mãi đến ngày nay, vừa khích lệ tinh thần chăn nuôi tạo sức kéo, vừa nhớ lại chuyện xưa trẻ trâu thấy đền Cửa Lác thờ, bắt chước đắp đất làm đèn, vì thế các cụ mới sang Ninh Cường xin chân nhang về thờ… Theo sách Thần tích Việt Nam của Lê Xuân Quang – Nxb Thanh Niên, 2003, thì thôn Thiện Đăng, xã Thời Mại, huyện Tây Châu, Nam Định có 2 tướng Đinh Thuyên và Nguyễn Phụng dưới trướng Trần Quốc Điền, theo lệnh của Hưng Đạo Đại vương đem 500 quân vào Châu Hoan do thám tình hình địch, trong cuộc kháng chiến lần thứ II – 1285. Nhưng kế hoạch bại lộ, bị địch truy đuổi, các ông cho quân sĩ lên bờ rút lui, bỗng trông thấy đền thờ Tứ vị, liền vào đền khẩn cầu kêu xin âm phù. Ít phút sau trời đất tối sầm, sấm chớp nổi lên, gió bão ập đến làm cho thuyền giặc gãy cột buồm trôi dạt trở lại. Quân ta thừa cơ tấn công, địch rút chạy, thu được hon chục thuyền chiến… Biết chuyện đánh thắng quân Toa Đô có nhờ sự âm phù của Thần ở Càn Hải. Vua Trần ban phong “Càn Hải Tứ vị linh thần”. Lại cho vàng bạc tu sửa đền thờ… Đáng tiếc một thời, các đền thờ Tứ vị nhiều nơi bị cấm đoán, thậm chí phá công trình, tẩu tán đồ thờ. Nhưng do ý thức tôn trọng Tứ vị trong dân gian, họ vẫn ngấm ngầm tìm đi các nơi cầu đảo Thánh Nương phù hộ. Các tư liệu, câu đối còn lưu, ca ngợi sự âm phù của Tứ vị cho triều đình chống ngoại xâm thắng lợi, âm phù cho các thuyền buôn, thuyền đi trên biển, trên sông an toàn. Tài liệu của ông Lê Xuân Quang còn ghi lại đạo sắc ngày 4/12 Quang Trung thứ 5 (1793) trong văn có câu: “Phi tự Đại Tống ngật kim tích tại Tiên tảo, danh tại sử, tướng duy ngã Việt lập quốc, công ư đế thế, trạch ư dân”. Tạm dịch: - Trải từ thời Đại Tống đến nay, dấu tích ghi trong sổ người Tiên, tiếng tâm ghi tự điển. - Âm phù nước Việt ta lập quốc, công giúp nhà vua, ơn sâu với dân cũng thấm nhuần khắp mọi nơi. Đạo sắc trên đây ở đền Hương Nại, xã Yên Nhân, Yên Mô, Ninh Bình phong Tứ vị là người Tiên. Liệu đây có là nguyên nhân để trong điện Thần tứ phủ có văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu. Ảnh hưởng của Tứ vị được nhân lên, được dân gian hàon toàn đưa vào nội đạo của dân gian Việt Nam. Xin giới thiệu lại văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu, sưu tầm trong những người hát văn ở Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng. Gương tứ đức sáng cùng nhật nguyệt, Nghĩa tam tòng tỏ hết Bắc Nam, Ngàn thu thơm nức hương lan, Đời càng ca tụng, tích càng hiển dương… Đức lồng lộng muôn dân khôn lượng, So bể, trời hình tượng cao sâu Sáng soi khắp chốn đâu đâu, Thơm danh Dương Thị hồi đầu Tống gia Trăm họ nức âu ca cổ vũ, Bốn bộ đều áo mũ đai xiêm. Khắp hoà Thuấn nhật, Nghiêu thiên, Đã vui cõi thọ lại lên xuân đài, Đang vui lúc lòng trời yên thuận, Quốc gia đều hoà khí xuân phong. Sau vì nhất quốc tam công, Người Nguyên ác độc đặt bày mưu mô. Nhà Tống phải thiên đô châu Quảng, Bóng tà dương soi rạng bể Nam. Thợ trời khôn tỏ cơ hoàn, Chúa tôi một dạ những toan phục hồi. Giang sơn Tống dẫu mười còn một, Có lẽ đâu chịu mất ngay đi. Ngoài thì tướng sĩ phù trì, Trong thì Thánh Mẫu khuê nghi luận bàn. Người son phán mà gan vàng đá Việc binh nhung vững dạ kiên tâm. Thần dân báo đáp quân ân, Nặng tình sơn hải mấy thân liễu bồ. Quyết giữ lại cơ đồ nhà Tống, Hẳn không dung những giống bất nhân. Lại khuyên võ tướng mưu thần, Gắng công vì nước đền ơn sinh thành… Nghe dụ chỉ quân dân quyết đánh, Nhưng khôn đua sức mạnh quân Nguyên Mới hay thành bại do thiên, Cơ huyền vẫn giữ, cơ huyền vẫn xoay. Cuộc thế sự hết bày trò rối, Trận Nhai Sơn hết đỗi gian nan… Lênh đênh trên biển liều thân, Quyết lòng thu thập quan quân phục thù, Nhược chẳng được mặc cho thuyền lắng, giãi gan cùng trời trắng bề trong. Ôi thôi thả lá giữa dòng, Qua ba bực sóng đều cùng thảnh thơi. Ấy mấy biết người trời khác giá, Trải gian nguy vẫn dạ trung trinh. Chí thành Phật cũng chứng minh. Bè từ đã đón thênh thênh lên ngồi Phép Phật độ tỉnh rồi mới biết, Chùa La Sơn Nam Việt là đây. Ung dung ở chốn am mây Khấu đầu lễ Phật giãi bày vân vi… Độ bốn vị đều nên Thần phúc, Hoá chân thân bốn khúc trầm hương. Gió đưa thoảng ngát một phương, Hào quang trước mắt ngư phường khô hay. Thuyền qua lại mấy ngày mới hiển, Rước lên thờ kính tiến khói hương. Nhờ ơn từ đấy mấy làng Lưới chài phong vận bạc vàng đầy chen. Đua cầu phúc lập đền tế lễ Độ cho người sông bể biết bao Kể chi giông tố ba đào Kêu cầu khắc ứng chuyện nào cũng yên… Công hộ quốc thơm ghi Nam sử, Lễ suy tôn khởi sự Đông – A Mẫu về chắc giáng điện toà Khuông phù đệ tử vinh hoa thọ trường. Như trên đã nói về ý thức người Quần Anh trong việc tôn thờ Đại Càn Thánh Mẫu. Ý thức trân trọng này được ghi vào tục lệ của làng. xin trích dẫn đôi điều cần thiết. Ngay trang đầu “tục lệ vào đám” có ghi: “Khoảng thế kỷ thứ 15, tiên tổ Quần Anh từ Tương Đông xuống khẩn điền lập ấp. Lúc đó đắp đê bể rất gian khổ nên đã lập đền thờ Tống hậu ở ngay cửa bể Lác Môn (đền Ninh Cường ngày nay) để cầu Thần ủng hộ”… “Khi xã Trung chưa làm đền Chánh, mỗi lần vào đám phải xuống xã Thượng rước kiệu Thần về đình… phải hưng công lập dịch bồi trúc con đường rước Thánh cho thật cao ráo, bằng phẳng. Ngoài ra các con đường khác cũng phải sửa chữa cho tiện đi lại và đón khách gần xa”. Theo lệ tục, những người rước Thánh phải là đàn ông, con trai đi rước, hoặc đi xem hội trên đường, còn các cụ già, đàn bà, em nhỏ thì đi thuyền dưới sông, nên sông Giữa, sông Múc nằm cạnh đường rước phải sửa, vét lại. Phàn đường, phần sông xã phân giao cho các giáp, các xóm, các tư nhân đảm nhận dưới sự kiểm soát của ban đốc công. … Đền Chánh là nơi khởi đầu cuộc rước phải tu sửa cho thật uy nghi, xứng đáng như cung điện Tống triều. Còn các đền khác cũng sửa sang cho tốt để quan khách trông vào. Xã lo phí tổn tu sửa đền Chánh, còn các đền khác các giáp tự lo… Khoản đồ rước như cờ, áo, kiệu, võng, tàn quạt, chiêng trống, gươm, roi… phải bắt tay từ năm, bảy tháng trước. Thợ thêu, thợ mộc, thợ sơn… mỗi hiệp hàng chục người phải làm liên tục…”. Tục vào đám còn ghi tỉ mỉ các khoản đóng góp, phân công cử người vào đám, đề chương trình tế lễ, đề nhật ký tiến cúng cho các giáp, quy định bầy đám, bầy điểm để phô trương văn vật địa phương. Đám do xã lo, thường bày giữa đình là gian thờ kiệu Thần nên phía trên và 4 mặt căng phủ màn thêu, hai gian bên thì đơn giản hơn, ngoài rạp cũng căng phủ màn, treo câu đối, cửa võng…Đồ thờ Thần có sập ngữ, võng ngự theo nghi thức hoàng hậu, hai bên tả hữu thiết đồ thờ theo nghi thức vương công. Điếm hát do các giáp lo nhưng cũng phải tươm tất, xứng với danh vị chủ nhân của giáp. Lại phân chia điếm văn, điếm võ,điếm thể sát để giải quyết mọi pháp lý, điếm đoàn áp (trị an, tuần phòng), điếm tổng cờ (chỉ huy thi đấu cờ), điếm tướng cờ nam, nữ… Phần rước Thần được ghi chép tỉ mỉ, nào phân công cầm “lộ bộ” (đi rước kiệu Thánh), nào người cầm mã đao, cầm cờ “thanh đạo” (dẹp đường), cầm tán, biển có chữ “tĩnh túc” (nghiêm tĩnh), “hồi tỵ” (tránh lại), cờ nhật nguyệt, bộ trống ngũ lôi (10 người), cầm thập kỳ (cờ đỏ viền xanh trắng, hoả xanh) rồi cầm tán, cờ ngũ hành “kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ”, cờ bát quái, tán, tàn… Ngay các hiệu lệnh, trống, chiêng cũng ghi chép tỉ mỉ, các phường hội sư tử, múa rồng, phường động, phường chèo, các trò đi kheo, đô vật… cũng được phân công, trước sau rất cụ thể. Nêu vấn đề trên để thấy việc tế lễ trịnh trọng như thế nào, nghiêm chỉnh như thế nào nhất là vai trò Thàn đền Chánh – Tứ Vị Thánh Nương là chủ chốt, oai linh nhất đối với dân Quần Anh – Nam Định nh thế nào. Phần cỗ rất linh đình. Có cỗ mặn, cỗ chay. Xin đề cập lễ rước cỗ chay tại xã Trung, nay là xã Hải Trung. Ngày 7 tháng giêng lễ khai hạ, lại là dịp kỷ niệm Đại Càn Thánh Mẫu cùng Tam vị, nên ngoài việc tế lễ, sang đêm ngày 8 tháng giêng tổ chức rước cỗ chay. Rước cỗ chay thường làm hai lễ, một lễ sang đền Chánh thờ Tứ vị, một lễ rước sang đền Khải xã, thờ liệt tổ khai sáng Quần Anh. Cỗ đặt trên “mân dàn” (mâm có nhiều tầng). Giữa bày hòn non bộ, bốn góc bầy tứ linh. Đi rước kiệu có đinh nam bưng mâm bồng có trầu rượu cùng cờ, quạt, chiêng trống… Cỗ chay thường có các loại bánh như bánh xu xê, nhựa mận, bánh dứa, bánh quế, bánh nhãn… Những cỗ chay cũng là nét riêng của từng địa phương, dùng sản phẩm riêng của địa phương. Ví như dùng quả đu đủ trổ thành các hoạ tiết, nấu thành mứt trong như kính rồi cắm vào tấm bánh, bày lên đĩa xung quanh có các thứ bánh chay. Mâm cỗ chính có 120 đĩa, các mâm bồng phụ, khoảng 12 đĩa làm toàn bằng ngũ cốc, nông sản, hoa quả. Điều đặc biệt là khi rước Thánh qua thôn xóm nào đèu có sự nghênh tiếp trịnh trọng. Việc này còn có câu đối lưu lại. Tạm dịch: Đền Thần mới sửa bên sông Trệ Kiệu Thánh mừng qua trạm xã Trung Hoặc câu: Âu ca một hội Xuân sau trước, Lễ nhạc trăm năm nghĩa láng giềng. Câu đối trên còn chứng tỏ đất Quần Anh sau khi tách làm ba, vẫn giữ được tình nghĩa làng cũ, nhất là ý thức đối với Tứ vị. Thần linh, coi như Thành hoàng che chở cho dân khẩn điền, lấp biển thành công. Riêng xã Hạ (nay là xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu) lễ hội trong khu di tích thờ Phật, thờ Đại Càn Thánh Mẫu, thờ Liệt tổ, thờ Mẫu Liễu Hạnh, thờ Trần Hưng Đạo, xưa vẫn lấy ngày 6, ngày 7 tháng giêng là trọng tâm. Truyền thuyết cho ngày này là kỷ niệm Liệt tổ và Tứ Vị Thánh Nương. Ngoài việc tế lễ, rước kiệu Thánh du xuânb còn có các trò vui như tổ tôm điếm, đấu cờ tướng, cờ người, hát chèo, hát Ả Đào. Hát chèo, hát Ả Đào ở đây có truyền thống. Bởi xưa đây là xóm chuyên nghề này, sau xóm chuyển thành phố với tên phố Cô đầu, nhân dân sống nhờ nghề này và đã lập miếu thờ “Cầm ca nhĩ tổ” (Tổ nghề đàn, ca). Hiện miếu thờ không còn, nghề cũ cũng mai một, nhưng trong ký ức về rạp hát Thanh Kỳ do nghệ sĩ Quách Thị Hồ mở hàng chục năm, rồi nghệ sĩ Linh Nhâm, người con quê hương cũng ít nhiều gợi lại về một địa phương có nghề cầm ca. Xa xưa nghề cầm ca phục vụ các đám hát trong ngày hội Thánh, hầu Dương hậu, vương phi có các chức sắc, quan lại về dự, sau nghề cũ không phù hợp, nhưng truyền thống nghề nghiệp còn bảo lưu, giúp cho phong trào ca hát, đội văn nghệ địa phương trưởng thành. Và ngày hội hiện tại có các chiếu chèo, hoặc các nghệ sĩ hát ca trù dưới con thuyền trôi lững lờ trên sông nước trước đền chùa, gợi cảnh lệ vào đám xưa kia của tiên tổ Quàn Anh. Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định nhen nhóm từ thế kỷ 15-16, thịnh hành vào các thế kỷ 17, 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Đặc biệt nhân dân ở các cửa lạch, cửa sông và người làm nghề trên sông biển. Dân gian tin Tứ Vị Thánh Nương lúc nào cũng từ bi cứu độ muôn dân, như xưa đa âm phù giúp vua Trần, tướng Trần, cùng vua Lê đánh giặc, lại âm phù cho ngư dân vào lộng ra khơi đánh bắt cá, thương thuyền buôn bán sóng lặng, bể yên. Phù hộ cho việc khẩn hoang lấn biển, ngự trị được nước cường, sóng lớn cho đê biển vững bền… Sự hiển linh tạo thành đức tin và để đền đáp, kính cẩn thần linh, dân gian lập miếu tôn thờ, theo cách nhìn: Ai có công giúp nước, giúp dân thì thờ. Việc thờ tự có lễ, lễ dâng hương tưởng niệm và hàng năm hoặc 3 năm một lần vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu làng vào đám. Vào đám để biểu hiện lòng thành cao độ. Nhưng vào đám cũng bày vẽ quá đáng, khiến dân thôn phải phục vụ hao tổn sức người, sức của. Ấy vậy mà không ai bảo ai cứ cố gắng hoàn thành tục lệ tế lễ, hội hè do làng xã quy định. Bởi tâm linh mọi người; đây là giờ phút thể hiện sự thành tâm của con dân đối với liệt tổ mở đất, đối với Tứ vị thần linh âm phù cho nước bình yên, cho dân hạnh phúc theo đạo lý dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Phải chăng đây là bản chất ưu việt của cộng đồng cư dân Nam Định và như câu nói cổ nhân: “Thực kỳ tự giả, bất huỷ kỳ khí, ấm kỳ thụ giả, bất chiết kỳ chi”. (Ăn cơm không đập vỡ mâm bát, đứng dưới bóng cây không bẻ gẫy cành).
Hồ Đức Thọ - Chi hội trưởng Chi hội VHDG tỉnh Nam Định
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
1. Cách xin xâm nơi đền miếu
Hàng năm cứ vào dịp tết, đón năm mới, nhiều người già trẻ, trai gái đều đế chùa, đền miếu lễ Phật, lễ Thánh cầu bình an cho bản thân và gia đình, người thân… Khi lễ Phật, lễ Thánh xong nhiều người muốn xem quẻ đầu năm để biết sự tốt xấu của vận mạng trong năm. Có hàng vạn người xin xâm nhưng rất ít có người biết cách xin như thế nào để được kết quả chính xác nhất cho bản thân. Chúng tôi xin trình bày các bước tiến hành xin keo như sau:
Người muốn xin keo trước tiên cầm hai cái keo lên vái tên, tuổi, địa chỉ chỗ ở hiện tại của mình và khấn vái nói những điều mình cầu xin trước Thánh Thần. Lời cầu xin này sau khi xin keo sẽ được hiển thị qua lá xâm. Sau khi cầu xong lại để hai lá keo xuống đất. Người xin đi một vòng trong chùa hay đền đến vái các tượng Phật, Thánh độ hai ba phút sau đó trở lại nơi có hai lá keo lúc đầu. Cầm hai lá keo vái lại lần nữa những lời cầu xin của mình. Sau khi cầu xong, hai tay chụm lại giữ hai lá keo trong lòng hai bàn tay, đưa lên cao ngang mặt rồi buông xuống. Nếu một lá keo sấp, một lá ngửa thì coi như xin được keo. Khi đã được quẻ rồi thì bước kế tiếp là hai tay cầm ống đựng những lá xâm và lắc ống xâm. Nếu thấy lá xâm nào nhảy ra thì cầm lấy lá xâm đó, tìm số ghi trên lá xâm là số nào thì đi tìm tờ giấy ghi lời giải của số đó. Những câu thơ hay lời giải trên tờ giấy là vận tốt, xấu của mình trong năm.

2. Giải thích quy trình xin keo
2.1 Tại sao khi vái xong độ vài phút mới xin keo?
Lúc người xin keo vái tên tuổi, địa chỉ nơi cư ngụ và lời cầu xin thì Thánh, Phật sẽ cho người âm đến địa chỉ của người xin để điều tra và xem vận của người đó năm nay tốt xấu thế nào? Phải mất vài phút mới xong. Sau khi người xin cầm hai lá keo lên khấn lần thứ hai lúc này mọi chi tiết về người đó Thánh đã biết nên khi tung hai lá keo thì Ngài sẽ cho hai lá này rơi xuống một sấp, một ngửa (một âm một dương) là Ngài đồng ý báo cho người xin biết số phận trong năm mới. Khi người xin cầm ống thẻ xâm lắc thì Thánh sẽ đưa ra thẻ xâm ứng với vận mạng của người xin trong năm đó. Lá xâm rơi ra là số nào thì có lời giải trên giấy đã in sẵn chỉ cần đọc là hiểu. Những người nào vừa cầu Thánh xong mà tung hai lá keo ngay thì quẻ không linh nghiệm vì Thánh, Thần chưa cho người âm đi điều tra nên không thể nói chính xác về họ được. Do đó, có thể hỏng quẻ keo theo giải thích ở phần 1 trên và phần 2.2 dưới.
2.2 Trường hợp không xin được keo
Có hai trường hợp xảy ra là: cùng sấp hay cùng ngửa.
* Nếu hai lá keo cùng ngửa (cùng Âm) thì đó là lời cầu xin của người cầu không rõ, không cụ thể nên Thánh chưa trả lời được. Người xin xâm có thể cầu lại rõ ràng theo trình tự như trên rồi xin lại quẻ khác.
* Nếu thấy hai lá xâm cùng sấp (cùng dương) thì không nên xin lại quẻ khác vì Thánh không cho biết kết quả có thể lúc mình cầu không nghiêm túc, không thành tâm.
3. Những điều cần biết khi thắp hương, khấn và lạy tượng
3.1 Cách thắp hương đúng
a. Thắp một nén hương
Khi lên chùa, vào Đình miếu hay đến những nơi thờ cúng ta chỉ cần thắp một nén hương là đủ vì khi thắp hương là có linh hồn hiển hiện. Thắp một nén hương ở đâu là cầu người nơi đó. Hàng ngày, mỗi buổi sáng ta thắp một nén hương ở bàn Thần Tài là cầu Thần Tài phù hộ. Buổi tối thắp một nén hương ở bàn thờ tổ tiên là cầu tổ tiên phù hộ.
b. Thắp ba nén hương
Ngày giỗ, ngày tết ta chỉ cần thắp ba nén hương ở mỗi bát nhang là đủ vì ba nén hương cầu Trời - Đất - Người, đại diện cho Thiên - Địa - Nhân phù hộ độ trì cho toàn gia.
c. Thắp năm nén hương
Thắp năm nén hương khi làm lễ lớn bố cáo thiên hạ như khai trương công trình, động thổ, lễ lớn của tổ tiên, của Quốc gia hay các lễ hội kỷ niệm các vị danh nhân. Năm nén hương cắm theo hình chữ thập đại diên cho Ngũ hành. Những người không hiểu điều này nên họ đốt hàng bó nhang, cắm hàng bó nhang vào bát nhang nhưng nào biết điều này vô tình tạo cho lũ cô hồn vào tranh cướp gây lôn xộn ở nơi tôn nghiêm. Không phải cứ đốt nhiều hương là được thần thánh phù trợ nhiều. Việc làm này thể hiện mình là người thiếu hiểu biết về văn hóa tâm linh. Vì sao đó có người đi vơ những số nhang đó đi hủy? Đó là vì việc làm này vừa gây ô nhiễm môi trường vừa lãng phí lại không đúng về mặt tâm linh.
d. Lưu ý: Hàng ngày trong gia đình, nếu thắp hương thì mỗi bát hương chỉ thắp một nén nhang, không thắp nhiều thẻ hương trên cùng một bát nhang vì thắp nhiều ma, quỷ âm hồn theo vào hưởng khói làm cho vong linh tổ tiên và vong ma quỷ tranh nhau gây lộn xộn. Gia đình vì đó mà sinh bất hòa.

3.2 Cách khấn nơi thờ phụng như thế nào?
Trước hết chúng ta hiểu linh hồn là cõi vô hình tụ tán bất thường, giống như những làn sóng điện không có hình dạng nhất định. Có thể như một làn gió thoảng qua, cũng có thể hiện hình giống như một người bằng xương bằng thịt. Nếu có duyên thì có thể nhìn thấy như người sống trước mặt. Linh hồn có thể biến đổi muôn hình. Trong cõi âm các giác quan của linh hồn không phải cấu tạo bằng vật chất nên mọi ý nghĩ của con người sống ra sao thì người cõi âm đều cảm nhận được ngay, dù cho không cùng ngôn ngữ họ vẫn cảm nhận được những suy nghĩ của nhau. Khi lên chùa vào đình miếu không cần cầu khấn to, chỉ cần tập trung cao độ những suy nghĩ của mình thì Thánh thần sẽ cảm nhận được lời thỉnh cầu. Nếu có tâm thì có sự linh ứng ngay.
3.3 Cách lạy các tượng như thế nào là đúng
Thông thường ở các đình, chùa miếu mỗi khi tạc hay đắp xong một pho tương, người ta làm lễ khai quang điểm nhãn rồi hô thần nhập tượng sau đó đặt bát hương. Sau đó thắp hương hàng ngày hay những ngày rằm ngày sóc vọng. Khi đến những nơi thờ cúng có tượng ta muốn đi lạy các tượng trước tiên phải nhìn xem dưới chân tượng có bát hương hay không? Nếu dưới chân các tượng có bát hương là là tượng đó đã có thần rồi, ta có thể lạy và vái được. Trường hợp dưới chân tượng không có bát hương nghĩa là tượng đó vô chủ giống nhu ngôi nhà hoang ai ở cũng được. Bức tượng này có thể là nơi trú ngụ của ma quỷ nên ta không nên vái hay cầu xin. Nếu cầu xin có thể ma quỷ sẽ theo mình về nhà gieo tai họa cho gia đình người thân.
| ► Xem bói tình duyên theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Rung đùi, chóp chép miệng, cắn môi dưới… là những thói quen tuy nhỏ nhưng ảnh hưởng rất lớn đến vận khí của chủ nhân.
1/. Rung đùi : Thói quen xấu này xuất hiện ở cả nữ giới và nam giới – nó mang ý nghĩa không tốt. Thậm chí thói quen rung đùi còn gây cảm giác khó chịu cho người đối diện. Nếu nam giới có thói quen rung đùi, anh ta khó có thể trở nên giàu có, thành đạt. Phái nữ hay rung đùi thường gặp khó khăn trong vấn đề tình cảm.
2/. Khạc nhổ bừa bãi : Người xưa quan niệm rằng, miệng có nhiều nước bọt là vận khí tốt. Nhổ nước bọt tức là nhổ đi “tài chính”, tiền bạc và may mắn. Vì thế chúng ta đừng nên khạc nhổ bừa bãi nhé, không chỉ mất đi tài vận mà còn gây mất thiện cảm nữa.
3/. Thường xuyên chớp mắt ; Cuộc sống của người này không khá giả. Người xưa quan niệm rằng, những người hay chớp mắt gặp gỡ và làm thân với người khác đa phần vì vật chất hơn tình cảm.
4/. Thói quen cắn môi dưới : Điều này đại diện cho sự thiếu chân thành. Đôi khi, người hay cắn môi thường bị quy chụp là kẻ nói dối, không thật lòng. Người ta thường cắn môi dưới khi cảm thấy không tự tin hay dấu diếm 1 điều gì đó.
5/. Không ngừng khụt khịt mũi : Người này không tự tin. Họ khó có thể diễn đạt hết những gì bản thân muốn nói hoặc là cảm thấy ngượng ngùng khi không biết phải làm gì khi đối diên với người khác. Vì vậy, họ hay bị nghi là không trung thực mặc dù thực tế, có thể họ không phải người như vậy.
6/. Thường nhón chân khi đi bộ : Khi đi bộ, bạn nên để cả bàn chân chạm đất. Theo nghiên cứu, người thích nhón chân khi đi bộ thường khó tính và sức khỏe không được tốt. Hay cáu gắt và để ý những chuyện nhỏ nhặt chính vì thế họ khó thành công và gặp nhiều rắc rối trong công việc. Tuổi thọ của những người này thường không cao.
7/. Chóp chép miệng : Khá nhiều người có thói quen chóp chép như đang nhai gì đó trong miệng. Họ làm điều này khi cảm thấy lo lắng, bất an hoặc nghi ngờ về suy nghĩ của người khác. Đây cũng là một thói quen gây ảnh hưởng đến may mắn của bạn, vì thế nếu có thói quen này bạn cần nên nhanh chóng sửa đổi nhé.
8/. Hay vuốt tóc : Những người có thói quen này thường rất là đào hoa, họ có khả năng cuốn hút người khác phái rất tốt. Nhưng thường thì chuyện tình cảm của họ không được tốt lắm.
9/ Ngoáy mũi : “Rõ ràng, đó là dấu hiệu của sự mất vệ sinh và thiếu nghi thức xã hội”. Một người vô tư ngoáy mũi trước mặt người khác sẽ không suy nghĩ đến tác động của hành vi này với những người xung quanh. Điều này có nghĩa đây là người rất nông cạn và ích kỉ. Đây là thói quen cực kì xấu, hãy bỏ ngay nhé!
>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!
>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!
![]() |
![]() |
![]() |
Tướng mặt của những kiểu sếp “khó chiều”
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Màu đen thường gợi sự tối tăm, thiếu sinh khí và gây cảm giác ngột ngạt. Tuy nhiên trong phong thủy, màu đen tượng trưng cho nước (hành Thủy) và là màu ẩn chứa nguồn năng lượng được xem là có thể đem lại tài lộc cho người sử dụng. Muốn phát huy tối đa nguồn năng lượng này, tốt nhất nên sử dụng màu đen ở hướng Bắc, Đông và Đông Bắc.
|
| Mảng trần oval nền đen họa tiết trắng như nét chấm phá độc đáo |
Trong thiết kế nội thất, nếu biết kết hợp khéo léo, màu đen sẽ tôn thêm vẻ đẹp của các màu khác. Ngày nay, màu đen được sử dụng để tạo phong cách hiện đại cho không gian sống. Những bộ bàn ghế, tủ kệ hay những mảng tường màu đen sẽ tạo nên nét chấm phá sang trọng và trang nhã cho căn phòng. Nên sử dụng màu đen cho sảnh đón, phòng khách, phòng làm việc để thu hút những năng lượng chủ về tiền tài và danh vọng.
Hạn chế sử dụng màu đen trong trang trí phòng trẻ em và phòng ngủ. Không nên dùng nhiều màu đen trong việc trang trí những không gian nhỏ hẹp hoặc tường, trần cao… Nếu căn nhà đã được trang trí nhiều mảng màu đen, bạn có thể trổ thêm cửa sổ hoặc bố trí thêm nhiều đèn để tăng ánh sáng và sức sống cho căn phòng.
Hiệu ứng tương phản màu sắc sẽ tạo ra nhiều yếu tố bất ngờ khi kết hợp màu đen với những gam màu khác. Tuy nhiên, không nên kết hợp quá nhiều màu đen với màu đỏ hoặc màu vàng vì chúng là những màu xung khắc. Ngoài ra, tránh dùng màu đen ở hướng Nam (hành Hỏa) vì điều này sẽ gây bất lợi cho gia chủ.
(Theo Afamily)
Chuyển đến một ngôi nhà mới không phải lúc nào cũng là một trải nghiệm thú vị, mới mẻ mà ngược lại nó có thể mang lại những điều vô cùng khó chịu, và mệt mỏi nếu như bạn không biết cách xử lý.
Trước khi chuyển đến một ngôi nhà mới, bạn cần tập trung vào việc xử lý, sắp xếp nó sao cho có thể khai thác được tối đa những ưu điểm và khắc phục những điểm xấu,đặc biệt là về mặt phong thuỷ. Để thực hiện được điều đó, bạn nên nghiên cứu và ứng dụng một số mẹo phong thủy sau.

– Một không gian trống hoàn toàn sẽ là một nền tảng phong thuỷ tốt nhất. Từ đó bạn có thể nghiên cứu để sắp xếp đồ đạc , bố trí để dẫn các nguồn năng lượng tốt theo đường mình muốn. Hãy cố gắng dọn dẹp, vất bỏ hết những thứ đồ cũ còn lại trong ngôi nhà, chỉ giữ lại những gì mà bạn cảm thấy thật sự cần thiết và có thể tận dụng được. Tuy nhiên, ngay cả những đồ dùng này cũng nên hạn chế một cách tối đa có thể.
– Đừng mang theo những rắc rối từ ngôi nhà cũ của bạn đến ngôi nhà mới. Cân nhắc việc loại bỏ những đồ dùng mà bạn không, hoặc ít khi dùng đến. Như thế vừa tiết kiệm được công sức khi bạn chuyển đồ sang nhà mới, đồng thời tránh được nguy cơ mắc phải những rắc rối không đáng có.
– Việc bạn lựa chọn những đồ vật sử dụng, trang trí càng kỹ lưỡng và sự gắn kết giữa bạn với chúng càng cao thì nguồn năng lượng mà bạn đạt được càng dồi dào và tinh khiết. Nếu bạn tích trữ quá nhiều những đồ không cần thiết, trang trí quá rườm rà cho ngôi nhà mới thì chính chúng sẽ trở thành những trở ngại, phiền phức, và gây ra những ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống của bạn và gia đình.
– Dù ở ngôi nhà cũ hay nhà mới thì phòng ngủ cũng luôn là căn phòng quan trọng nhất, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và việc hồi phục năng lượng của bạn. Hãy nghiên cứu thật kỹ các bài trí phòng ngủ sao cho phù hợp nhất với nguồn năng lượng của chủ nhân căn phòng.
– Cũng giống như con người, mỗi ngôi nhà đều có những kỉ niệm. Nguồn năng lượng của tất cả các sự kiện xảy ra trong không gian đó đều sẽ vẫn lưu lại trong một thời gian nhất định. Đa phần những nguồn năng lượng đó đều không tốt vì nó có tính ảm ảnh và tù đọng, vì vậy bạn nên loại bỏ một cách triệt để. Cách tốt nhất để thực hiện công việc này là cần phải làm sạch, dọn dẹp ngôi nhà mới đó trước khi bạn chuyển đến. Để ngôi nhà trống hoàn toàn trong một khoảng thời gian ngắn, có thể là một ngày hoặc vài tiếng đồng hồ để các nguồn năng lượng mới có thể tràn vào nhà, thanh lọc và thay thế cho các nguồn khí tích tụ lâu ngày.
Ta có thể quan sát bảng sau:
CÁC SAO TRÊN 12 CUNG HOÀNG ÐẠO
Cách đặt tên của vòng Zodiac và của âm lịch theo mười hai con giáp không liên quan gì đến nhau. Sự so sánh này để cung cấp cho các bạn cách nhìn tổng quan của quan niệm thiên văn Ðông Tây và cách gọi của Việt Nam để cho dễ gọi khi chiêm nghiệm bầu trời sao.
Các sao trong vòng Zodiac dùng để chỉ 12 cung Hoàng Ðạo chứ không phải để gọi tên tháng. Tạp chí Horoscope (chiêm tinh học) của Pháp xuất bản hàng tháng đều thấy sự tương ứng của tháng hiện tại với 12 cung Hoàng Ðạo này để đưa ra lời dự đoán và lời khuyên cần thiết. Cách gọi 12 cung Hoàng Ðạo được gọi theo danh từ của Pháp nhưng nghĩa của chúng thì không đổi. Ðó là Bélier, Taureau, Gémaeux, Cancer, Lion, Vieges, Balance, Scorpion, Sagitaire, Capicornes, Versau vàPoissons.
Cách gọi tên hàng tháng có nguồn gốc từ lịch sử Roma.
Ban đầu, lịch này quy định một năm có 10 tháng, thứ tự như sau:
1. Martius : Vũ thần
2. Aprilius : nảy mầm
3. Maius: phồn vinh
4. Junius : mẫu thuần
5. Quintilis :
6. Sextilis :
7. September :
8. October:
9. November :
10. December :
Về sau người ta thêm vào hai tháng nữa là:

Hai tháng này được thêm vào đầu năm, thành 2 + 10, từ đó Martius thành tháng 3.
Cách mạng Pháp 1789 cũng đưa ra lịch Cộng Hoà của mình vào ngày 22/9/1973. Nguyên tắc xác định tên tháng của lịch này dựa trên đặc điểm thời tiết hay mùa màng:

Như vậy, ở đây không có con vật nào được dùng để đặt tên cho tháng. Cách đặt tên tháng theo nông lịch như trên cũng đã có trong thời cổ Trung Quốc. Ðã có một thời kỳ dài người Trung Quốc gọi tên tháng bằng tên các loài cây, loài hoa thường gặp trong tháng trong mùa đó:
Tháng giêng là nguyên nguyệt
Tháng hai là hạnh nguyệt
Tháng ba là đào nguyệt
Tháng tư là hoè nguyệt
Tháng năm là lưu nguyệt
Tháng sáu là hà (sen) nguyệt
Tháng bảy là đồng nguyệt
Tháng tám là quế nguyệt
Tháng chín là cúc nguyệt
Tháng mười là mai nguyệt
Tháng mười một là giá (lau) nguyệt
Tháng mười hai là lạp (tế lễ) nguyệt
Như vậy sự lên ngôi của các con vật để trở thành mười hai con giáp chẳng phải dễ dàng. Người Phương Tây vẫn giữ nguyên vòng Hoàng Ðạo Zodiac và bảo tồn tên gọi của các tháng mà họ đã kế thừa từ người La Mã.
Lược trích từ sách "12 con giáp"
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Sáng nay, tranh thủ lướt qua mạng. Thấy ông bạn bắt được một con rùa. Ông ta lo lắng việc bắt được nó liệu có bị xui xẻo gì không? Muốn tôi xem bói cho một quẻ, tôi buộc phải vận dụng tất cả những kiến thức về loài vật này, để suy ngẫm và lý giải một phần nào thắc mắc của ông ta.
Trong giới sinh vật rùa là loài vật có tuổi thọ rất cao. Loài sinh vật chậm chạp này gần gũi với dân gian đến mức được đi vào thành ngữ: “Chậm như rùa”. Việc cậu ta nhìn thấy một chú rùa và bắt được nó không có gì là lạ. Bởi vì khu vực vùng núi có nhiều loài rùa sinh sống. Rất có thể chú rùa đó đi ngang qua đó để tìm thức ăn, nước uống… Hoặc có thể hài hước hơn là người nào đó bắt được con rùa đó từ trước nhưng làm nó sổng ra, và nó bỏ đi mất. Việc mê tín quá mức thật là không nên.
Về đặc tính của rùa, tuy là loài vật vô cùng chậm chạp, nhưng rùa có một đức tính kiên trì, bền bỉ, không ngại gian khó. Trong bài học đạo đức của trẻ nhỏ nói về chú rùa và chú thỏ cùng nhau đi học, nhưng rồi chú rùa đã đi học đúng giờ, còn chú thỏ thì trễ giờ, hay trong thơ ngụ ngôn La Phông ten đã nói về sự chiến thắng của rùa trong một lần chạy thi với thỏ. Đức tính kiên trì, bền bỉ, nhẫn nại và quyết tâm là một đức tính quan trọng và quý báu mà con người cần phải rèn luyện trong học tập và sự nghiệp. Không những thế, đức tính của rùa hiền lành và tuổi thọ rất cao.
Theo những truyền thuyết cổ và tín ngưỡng tâm linh trong dân gian thì rùa là loài vật linh thiêng nằm trong Tứ linh, Long (rồng), Ly (Kỳ lân), Quy (rùa), Phụng (phượng hoàng). Trong các ngôi đền chùa, hay trong Văn Miếu, rùa được đục chạm với hình tượng đội bia, bia này ghi chép tên tuổi và tiểu sử của những người đỗ đạt khoa bảng (Văn Miếu), hay những người có công với đất nước trong đền chùa, hoặc những lời di huấn thiêng liêng cần được truyền tụng đến nhiều đời sau.
Trong Thiên văn học và phong thủy học, nhị thập bát tú có bốn chòm tinh diệu Thanh Long, Bạch hổ, Chu tước và Huyền vũ . Huyền Vũ là tượng một con rùa lớn, cai quản tại phương Bắc, mang hành Thủy, có màu đen. Được hợp thành bởi các sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.
Theo dòng văn học dân gian Trung Hoa, xưa Cửu Thiên Huyền Nữ nương nương (Bà Nữ Oa), sau luyện đá ngũ sắc để vá lại bầu trời thì nương nương dùng một con rùa khổng lồ để chống đỡ bầu trời, bốn chân của nó thành bốn trụ, từ đó phân ra bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.
Vua Hạ Vũ bên Trung Hoa ngày xưa trị thủy, cứu vạn dân thoát khỏi cơn đại hồng thủy kinh hoàng trong lịch sử cổ đại, sau khi thành công đến sông Lạc, gặp một con rùa lớn trên mai có hình vẽ đặc biệt, ông chép lại, và đó cũng chính là nguồn gốc sơ khai của đạo lý, luân thường, và Kinh dịch. Khổng Tử nói rằng: Hà Đồ xuất, Lạc Thư xuất, thánh nhân chi tắc. Nghĩa là: Khi bức họa đồ xuất hiện trên sông Hoàng Hà (Bức vẽ trên mình con Long mã mà vua Phục Hy nhìn thấy) xuất hiện, bức họa đồ trên sông Lạc (trên mai một con rùa) xuất hiện, thì Thánh nhân dựa vào đó để làm nên Kinh Dịch…
Ở nước ta, sau khi chiến thắng 50 vạn quân Tần xâm lược, An Dương Vương xây thành Cổ Loa được thần Kim Quy giúp đỡ mới có thể hoàn thành công trình đó.
Vua Thái Tổ nhà Lê, khi khởi binh chống lại ách đô hộ của triều Minh, ngẫu nhiên có được thanh gươm, sức mạnh như thần thánh. Sau khi giành được độc lập và lên ngôi vua vào năm 1428, một ngày đi chơi trên hồ Hoàn Kiếm, gặp một con rùa, xin vua trả lại thanh gươm báu cho trời đất, dứt việc can qua, binh lửa, xây dựng thời đại thái bình, thịnh trị, ấm no tươi sáng. Sau sự việc này, hồ đó mới có tên là Hồ Gươm, hay Hồ Hoàn Kiếm.

Sự tích hoàn gươm
Ngày nay, hồ đó vẫn còn rất nhiều những cụ rùa lớn, nghe người ta truyền khẩu nhau rằng, mỗi khi cụ rùa nổi lên mặt hồ thì đất nước thường có niềm vui, hay một sự kiện trọng đại.
Trên cơ sở, phân tích, trích dẫn những điều trên, tôi khẳng định, việc gặp rùa của ông bạn kia là ngẫu nhiên, và nó là điềm lành được báo trước. Không phải điềm xấu.
![]() |
![]() |
![]() |
Lễ Thất Tịch là ngày gì?
Mỗi cách bố trí bàn làm việc đều được chi phối bởi những yếu tố phong thuỷ, vì vậy khi sắp xếp bàn làm việc, người tuổi Ất hợi cần phải lưu ý đến những nguyên tắc cơ bản dưới đây.:
Cách lựa chọn Vị trí , màu sắc và hướng kê bàn làm việc cho người tuổi Ất hợi
– Năm sinh dương lịch: 1995
– Năm sinh âm lịch: Ất Hợi
– Quẻ mệnh: Khôn (Thổ)
– Ngũ hành: Sơn đầu hỏa (Lửa trên núi)
Giới tính: Nam
– Phương vị đặt bàn là Thần Tài của người sinh tuổi Ất hợi là ở phía Đông Nam của văn phòng làm việc. Vì nam giới tuổi Ất hợi thuộc Tây tứ mệnh, do đó bàn làm việc nên quay về một trong các hướng Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc(Sinh Khí);Tây (Thiên Y); Tây Nam (Phục Vị)
– Bạn sinh năm Ất hợi có niên mệnh thuộc Hỏa, nên sử dụng bàn làm việc dạng hình thuôn dài với các màu xanh lục hoặc màu đỏ vì màu đỏ là màu bản mệnh của bạn, còn màu xanh lục là màu tượng trưng cho hành Mộc, Theo quy luật tương sinh thì Mộc sinh Hỏa rất tốt cho người tuổi Ất hợi.

– Cần lưu ý kích thước bàn làm việc nên cân xứng với các vật dụng trên bàn, không nên quá chật làm giảm hưng phấn làm việc, cũng không nên quá rộng tạo cảm giác bất ổn.
Giới tính: Nữ
– Phương vị đặt bàn là Thần Tài của người sinh tuổi Ất hợi là ở phía Đông Nam của văn phòng làm việc. Vì nữ giới tuổi Ất hợi thuộc Đông tứ mệnh, do đó bàn làm việc nên quay về một trong các hướng Nam (Diên Niên); Đông Nam(Sinh Khí);Đông (Thiên Y); Bắc (Phục Vị)
– Bạn sinh năm Ất hợi có niên mệnh thuộc Hỏa, nên sử dụng bàn làm việc dạng hình thuôn dài với các màu xanh lục hoặc màu đỏ vì màu đỏ là màu bản mệnh của bạn, còn màu xanh lục là màu tượng trưng cho hành Mộc, Theo quy luật tương sinh thì Mộc sinh Hỏa rất tốt cho người tuổi Ất hợi.
– Cần lưu ý kích thước bàn làm việc nên cân xứng với các vật dụng trên bàn, không nên quá chật làm giảm hưng phấn làm việc, cũng không nên quá rộng tạo cảm giác bất ổn.
*Giải nghĩa một số từ ngữ phong thủy
– Sinh khí: Thu hút tài lộc, danh tiếng, thăng quan phát tài.
– Thiên y: Cải thiện sức khỏe, trường thọ
– Diên niên: Củng cố các mối quan hệ trong gia đình, tình yêu.
– Phục vị: Củng cố sức mạnh tinh thần, mang lại tiến bộ của bản thân, may mắn trong thi cử.
– Họa hại: Không may mắn, thị phi, thất bại.
– Ngũ quỷ: Mất nguồn thu nhập, mất việc làm, cãi lộn.
– Lục sát: Xáo trộn trong quan hệ tình cảm, thù hận, kiện tụng, tai nạn.
– Tuyệt mệnh: Phá sản, bệnh tật chết người
2: Một số chú ý khi đặt bàn làm việc
– Bàn làm việc phải hướng ra cửa: người xưa khi chọn phòng làm việc đã xem xét kỹ phương vị hợp với tuổi của mình trước đó. Do vậy khi đặt bàn làm việc luôn hướng ra cửa, nhưng không đối diện với cửa ra vào. Cách làm này theo kinh nghiệm của người xưa, làm cho người làm việc luôn tỉnh táo, thông minh, làm việc được hiệu quả cao. Cách bố trí này chỉ phù hợp khi một người một phòng và phía sau bàn không có cửa sổ.
– Phía sau lưng người ngồi nên có điểm tựa: phong thuỷ cho rằng, sau lưng người ngồi phải lấy tường làm “sơn” (núi) tựa, nên gọi là “tựa sơn”. Cách bày đặt này làm cho người ngồi có nhiều “quý nhân” phù trợ; đồng nghiệp, nhân viên thân thiện, sự nghiệp thăng tiến. Như vậy, trong bất kỳ truờng hợp nào, rất kỵ kê bàn làm việc khi ngồi quay mặt vào tường!
– Không nên để bàn đối diện với của ra vào. Trường hợp này, phong thuỷ gọi là “phạm môn xung sát”, tư tưởng người làm việc luôn bị phân tán, trì trệ, hiệu quả công việc thấp, hay mắc sai lầm, có nhiều người đối địch. Không nên quay lưng ra cửa: theo phong thuỷ học, cách ngồi này thiếu “sơn”, tức chỗ dựa. Cách ngồi này đi quan hệ thì không được người nhiệt thành, làm việc thì không được cấp trên chú trọng, cấp dưới nể phục, công sức bỏ ra chỉ thu về một nửa.
– Không nên đặt bàn giữa phòng (Trung Cung). Phong thuỷ học cho rằng cả bốn bên đều thiếu “sơn”, người làm việc luôn ở thế cô lập, không được nâng đỡ về tinh thần và sự nghiệp, luôn thiếu tỉnh táo trong mọi việc tại nhiệm sở, dễ mắc sai lầm có tính chiến lược.ảnh hưởng đến sự thăng tiến.
– Không đặt bạn làm việc dưới xà ngang, vì người làm việc luôn có cảm giác như bị đè nén.
– Không nên đặt bàn hướng ra và cầu thang vì cầu thang là một chỗ chênh vênh sẽ tạo cảm giác bất an cho người ngồi làm việc.
– Nên đặt trên bàn làm việc một cột thủy tinh, hoặc quả cầu thạch anh có tác dụng ngưng tụ năng lượng trong không gian về một điểm, tăng khả năng tư duy. Logic
– Nên đặt ở bốn góc bàn làm việc tháp Văn Xương (hình chiếc tháp) theo phong thủy cho rằng nó sẽ có lợi cho học hành giúp minh mẫn và sáng suốt hơn.
– Đối với những người hay phải đi công tác xa thì nên đặt đôi ngựa đồng nhỏ trên bàn làm việc theo phong thủy làm như vậy sẽ giúp mọi chuyến đi được thuận buồm xuôi gió.
– Nên đặt đôi sư tử nhỏ bằng đá trên bàn làm việc vì theo phong thủy sẽ gây dựng được thanh thế, giúp sinh tài lộc.
– Chồng hồ sơ bên trái nên đặt cao hơn bên phải (Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ)
– Điều quan trọng hơn hết là bàn làm việc phải sạch sẽ, gọn gàng, thông thoáng, để sinh khí luân chuyển, tránh các dòng khí bị ngưng trệ, Bản thân điều đó thôi cũng đã tạo cho người sử dụng cảm giác dễ chịu, một tinh thần sảng khoái, tâm lý thoải mái thì mới có thể làm việc tốt hơn, đó là ý nghĩa cao quý nhất của thuật