Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cách hóa giải phong thủy cửa chính không thuận –

Theo quan niệm trong phong thủy nhà, phong thủy cửa chính là một trong ba yếu tố quan trọng để hợp thành nhà tốt. Nếu cửa chính không thuận phong thủy… Theo quan niệm truyền thống của phong thủy học về phong thủy cửa trong ngôi nhà thì nhà có góc nhọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm trong phong thủy nhà, phong thủy cửa chính là một trong ba yếu tố quan trọng để hợp thành nhà tốt. Nếu cửa chính không thuận phong thủy…

Theo quan niệm truyền thống của phong thủy học về phong thủy cửa trong ngôi nhà thì nhà có góc nhọn chiếu thẳng vào cửa chính (thường là cửa bị góc tường nhọn của nhà hàng xóm hoặc đốc nhà hàng xóm chiếu thẳng cửa chính) sẽ dẫn đến nhiều hậu quả không tốt.
Thực ra nói như vậy có phần thái quá, nhưng nếu lo lắng về hiện tượng có góc nhọn chiếu thẳng vào cửa chính nhà, bạn có thể xử lý bằng cách treo tấm biển đầu thú. Tấm biển đầu thú rất ít thấy.

Đây là một tấm ván rộng 8 thốn (một thốn = 3,333 cm), cao 12 thốn, trên đó vẽ một đầu thú đang mở rộng miệng. Cách làm rất đơn giản, bạn chỉ cần treo tấm biển đầu thú trên dọc cửa, hướng thẳng vào góc nhọn phía trước, làm như vậy hóa giải được tà khí chiếu vào cửa chính của góc nhọn.

171

Ngoài ra, bạn cũng có thể treo gương lõm, còn gọi là “gương lòng chảo”. Do cấu tạo của gương lõm có thể phản chiếu trở lại toàn bộ hình ảnh vật chắn phía trước, vì vậy nó được coi là công cụ tốt nhất hóa giải góc nhọn chiếu thẳng vào cửa chính.

Cách treo gương lõm đơn giản, làm như treo tấm biển đầu thú. Bên cạnh đó, xây tường chắn cũng là một cách hóa giải hay. Việc xây đoạn tường chắn ở ngoài hoặc trong cửa giúp tường sẽ trở thành tấm chắn để chắn góc nhọn đang chiếu thẳng vào cửa chính.

Nếu trước cửa có đường cái đâm thẳng vào, theo phong thủy học đó cũng là điều không tốt. Nó ảnh hưởng rất lớn đến ngôi nhà. Cửa nhà nếu có đường cái chạy thẳng tới gọi là: “Ám tên tường hung” (mũi tên vô hình đâm thẳng vào ngực). Điều này không có lợi cho chủ nhà, còn trong nhà sẽ có người bị tàn tật. “Kinh lỗ ban” nêu ra biện pháp hóa giải bằng cách “Dùng đà cản”.

172

Một số nhà xây dựng ở chân dốc, cửa chính đối diện với dốc, thế này không thuận. Theo phong thủy học, đường cái là “nước” (thủy), tuy nói “thủy” là “tài” nhưng nếu như nước ào ào từ đường dốc chảy vào cửa chính (trừu tượng) hùng thế này tất biến thành họa.
Trong trường hợp này, ở phía bên ngoài cửa, bạn có thể xây bậc vào cửa (một bậc, 2 bậc hoặc 5 bậc), làm như thế để làm giảm thế nước chảy vào cửa. Những dòng nước vô hình sau khi bị các bậc xây trước cửa ngăn cản thế của nước đã giảm đi rất nhiều, vì vậy không thể gây họa được. Số bậc thang xây trước cửa phải là số lẻ.

“Đường cong hình cánh cung ngược” là đoạn đường cong trước cửa mà chiều cong hướng thẳng vào cửa chính, phong thủy học gọi nó là “lưỡi liềm cắt sườn”. Nếu trước cửa có đường cái cong hình cánh cung ngược, hướng cánh cung vào cửa chính thì trong nhà luôn có chuyện dâm loạn, có người bị thương tật, nhà thường xẩy ra hỏa hoạn mắc bệnh về thần kinh…

Trong “Bát quái minh kính” cũng có nói rằng: “Đường cong như cánh cung ngược trước cửa thì dữ” Cách hóa giải có thể dùng một trong 3 giải pháp: Chôn bí “thái sơn thạch cảm đương” trước cửa hoặc treo tấm gỗ ghi “sơn hải trấn” hay treo gương lõm.
Kinh lỗ ban ghi rằng: “Hai nhà không thể đối diện vì như thế sẽ có một chủ bị suy. Hai cửa không thể đối nhau vì như thế sẽ có một nhà gặp dữ”. Để hóa giải, một số người treo gương: Tam xoa, bát quái, bạch hổ nhưng làm như vậy lại gây ra lo lắng cho nhà đối diện và hai bên cùng tìm cách hóa giải.

Nếu như muốn vừa xóa bỏ được sự uy hiếp về tâm lý “hai cửa đối nhau” lại vừa không để hàng xóm có cửa đối cửa với mình bị mặc cảm, cách làm tốt nhất để giải quyết là trên dạ cửa treo 4 chữ “thiên quan tứ phúc” (ông trời ban phúc). Ngoài ra, chủ nhà có thể bàn với nhà hàng xóm cùng treo 4 chữ “thiên quan tứ phúc” trên cửa để 2 bên đều có phúc.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải phong thủy cửa chính không thuận –

Nguồn gốc khoa tử vi

Bài viết tìm hiểu nguồn gốc khoa Tử Vi của tác giả Hoàng Quân rất hay. Mời mọi người cùng tham khảo!
Nguồn gốc khoa tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của G.S Hoàng-Quân

A- Nguồn gốc khoa Tử-Vi

- Tranh luận về khoa Tử -Vi hiện nay, người ta có ba giả-thuyết về nguồn gốc của nó:

- Giả-thuyết thứ nhất: Nói rằng đời người có nhiều sự kiện. Các sự kiện khi giao huy với nhau thành ra sự kiện mới. Trong khoa Tử-Vi, mỗi sao biểu tượng cho một sự kiện đó.

- Giả-thuyết thứ hai: Khoa Tử-Vi là một số sự kiện. Nguyên lý của khoa Tử-Vi không giải-thích được. Các ngôi sao chỉ giao huy với nhau trên một tờ giấy.

- Giả-thuyết thứ ba: lại cho rằng nguyên lý của khoa Tử-Vi là Dịch lý. Hi-Di tiên-sinh đã căn cứ vào Dịch lý mà san định ra Tử-Vi. Như đã trình bày ở trên: Các nhà nghiên cứu Tử-Vi ít để ý đến lịch-sử nguồn gốc của nó. Nên diễn tiến lịch-sử bị bỏ quên. Người đời nay muốn tìm, rất khó khăn, nên mới có những giả-thuyết đặt ra theo trí thông minh sâu sắc mà suy diễn.

Trở lại với nguyên lý khoa Tử-Vi, ta hãy căn cứ vào đoạn đối đáp sau đây của Tống-Thái-Tổ với Hi-Di tiên-sinh:

“.. Quả nhân đã đọc Tử-Vi Tinh-Nghĩa kinh do tiên-sinh ban cho. Tiên-sinh là Thần Tiên khác phàm, trên cảm cùng trời, dưới thông cùng nhân gian. Tiên-sinh đã khải ngộ đặt ra từ bao giờ vậy?

Ðáp:

- Không phải bần đạo đâu. Không phải bần đạo đâu. Khoa Tử-Vi uyên-nguyên từ đời Ðông-Tấn. Qua đời Lục-Triều vẫn chưa có qui-tắc nhất định. Ðời Ðường thịnh trị mấy trăm năm, không ai để tâm đến. Vừa qua thiên-hạ đại loạn, thế sự thăng trầm, chết sống vô định, nên Tử-Vi được san định lại. Bần đạo nhân học 6 khoa Thiên-Văn, Lịch-Phổ, Ngũ-Hành, Ngũ-Sự, Tạp-Chiêm và Hình-Tượng thấy cùng một gốc ở vũ-trụ biến dịch, nên tập lại vậy. Xưa kia các vị Chúc-Quan đã tốn nhiều tâm lực nghiên-cứu ra đây... (Triệu-thi Minh thuyết Tử-vi kinh, chương 1).

Như vậy, nguồn gốc khoa Tử-Vi rất xa, và nguyên-lý của nó ở 6 khoa và gốc ở vũ-trụ.

B– Sáu khoa tạo thành Tử-Vi

Uyên-nguyên khoa Tử-Vi là ở 6 khoa cổ trong thời kỳ văn-hóa sơ khai của Trung-Hoa. Thời đại thượng cổ Trung-Hoa: Hoàng-Ðế, Hạ-Vũ, Tây-Châu, Xuân-Thu, tính ra khoảng 2502 năm ( Từ 2752 đến 250 trước Tây-lịch) nói về tư tưởng rất kính sợ trời. Giữa trời và người có sự liên-hệ quan trọng, được biểu dương bằng câu:

Thiên nhân tượng dữ.
Nghĩa là giữa trời và người có cùng mối liên quan với nhau.

Kinh-Thư nói: Thiên sinh chúng dân.

Kinh-Thư nói: Duy Thiên âm chất hạ dân.

Lễ-Ký nói: Vạn vật bản hồ Thiên - Trời có toàn quyền soi xét khắp nơi, trời có phép tắc trị muôn vật, làm khuôn phép cho mọi ngươì, tức là cái nền tảng đạo đức.

Kinh-Thi nói:

Thuợng đế lâm hạ hữu hách
Giám quan tứ phương.

Lại nói:

Thiên giám tại hạ.
Thiên sinh chúng dân.
Hữu vật hữu tắc.

Kinh-Thư nói:

Thiên tự hữu điển.
Thiên trật hữu lễ.

Ấy bởi cái tư-tưởng đó mới phát sinh ra học thuật. Mà giữ về cái quan hệ học thuật ấy có hai chức quan: Quan Chúc coi việc trời, quan Sử coi việc người. Quan Chúc tức là khởi thủy của khoa Tử-Vi vậy.

a) Quan Chúc coi việc trời

Thời cổ chính trị tôn giáo vẫn chưa phân ra hai đường. Cái chức quan coi việc Thần-quyền rất quan trọng. Như tại Ai-Cập có chức Pháp-Lão, Do-Thái có chức Tế-Tự-Trưởng. Ấn-Ðộ phân ra làm 4 tộc: Bà-la-môn, Sát-lị là giòng Ðế-vương. Bà-la-môn chính là giòng Quan-Chúc. Tây-Tạng có chức Lạt-Ma chuyên giữ đại chính trong nước. Xưa kia Giáo-Hoàng La-mã còn có quyền trên cả vua chúa.

Chúc quan Trung-Hoa có hai loại:

* Một là quan Chúc coi việc cúng tế. Ðại biểu tư-tưởng nhân dân mà tâu lên trời để cầu lấy phúc lành. Sách Châu Quan trong thiên Xuân Quan Ðầu có nói về giòng dõi chi lưu chức quan Chúc ấy. Trong sách Tả truyện có chép, khi Tào-Uế luận chiến sự với Lỗ-Hầu, có bàn về các lễ tế thần để thắng trận.

* Hai là Quan-Chúc coi việc làm lịch. Chuyên giữ việc suy xét việc trời để ứng vào người. Ðời Tam-Hoàng có sai quan Nam-Chính là Trọng coi việc trời để họp các thần. Quan Bắc-Chính là Lê coi việc đất để họp dân. Ðời vua Nghiêu có sai quan Hi-Hòa-Kính thuận việc Trời xét về trình độ Nhật-Nguyệt tinh thần mà làm ra lịch để bảo cho dân biết bốn mùa mà làm ăn. Lại xét máy toàn cơ ngọc hành để so sánh 7 chính, tức mặt trời, mặt trăng, ngũ hành tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Quan Chúc coi việc làm lịch có ba phần:

- Hiệp định ngày, tháng, 4 mùa làm ra lịch.

- Suy tính thủy chung năm đức để định mệnh trời. Như thiên Nghiêu-Ðiển có viết: Lịch số trời đã thuộc về mình vua. Ðời sau nói về các vua Tam Ðại chịu mệnh trời cũng gốc ở Lịch-Học. Thiên-Hồng-Phạm có nói về Ngũ-Hành và những lời sấm vĩ đều phát nguyên từ đó.

- Xem xét tinh tượng, bói toán, định cát hung. Ðến đời Xuân-Thu, bọn Tì-Táo, Tử-Thận đều là giòng Chúc Quan coi việc lịch.

b) Quan-Sử coi việc người

Quan Chúc, quan Sử quyền ngang nhau. Sách Châu Lễ có kể đến quan Ðại-Sử, Tiểu-Sử, Tả-Sử, Hữu-Sử, Nội-Sử, Ngoại-Sử.

- Kinh-Thi, do quan Thái-Sử đi nhặt về mà có các bài thơ Lão-Ðam (Lão Tử) cũng là quan Trụ-Hạ-Sử. Trong Hán-Thư, phần Nghệ-Văn-Chí, sử-gia Ban-Cố cũng cho rằng phái Ðạo-Gia là do Sử-Quan mà ra.

Tóm lại, tư-tưởng học thuật cổ Trung-Hoa, tư-tưởng “Thiên Nhân Tương Dữ” như sau:

Quan Chúc coi việc Trời (nguồn gốc Tử-Vi):

Quan Chúc coi việc tế tự.
Quan Chúc coi việc làm lịch (Lịch tương gia tức Thiên-Văn học. Lịch số học, tức âm Dương. Chiêm-tinh-gia tức Phương-thuật).

Quan-Sử coi việc nguời:

Nhà Sử học về sự thực (Tổ Nho-gia).
Nhà Sử học về suy lý (Tổ Ðạo-gia)

Tất cả Thuật số đều phát xuất từ Chúc-Quan làm lịch.

c) Thuật số cổ Trung-Hoa

Trong bộ Hán-thư của Ban-Cố, phần Nghệ-Văn-Chí có đoạn:

“Thuật số do các sử gia Thần-thoại là Hi-Hòa trong nhà Minh-Ðường đã sưu tầm và duyệt lại. Công việc ấy từ lâu bị hủy đi mà không dùng nữa. Sách vở đến nay không còn đủ. Tuy vậy, có phần sách thì còn, mà nguồn thì quá cố từ lâu. Kinh Dịch có câu: Nếu người chính đáng mà không có thì đạo không thể thi hành được đầy đủ. Ðời Xuân-Thu có Lỗ có Tân-Thuận, Trịnh có Lý Táo, Tần có Bốc Yểm, Tống có Tử-Vi. Thời Chiến-Quốc, Sở có Cam-Công, Vệ có Thạch-Thông-Phủ. Hán có Ðường-Ðô. Ðấy là những nhà thuật số giỏi”.

Các khoa thuật số Trung-Hoa là sáu khoa mà Hi-Di tiên-sinh bảo đó là các khoa có cùng nguyên-lý. Tiên-sinh nhân học, rồi hiệp tinh-hoa thành khoa Tử-Vi. Sách Tả truyện có nói nhiều đến các khoa này.

- Khoa Thiên-văn, trong bộ Sử-Ký 130 quyển của Tư-Mã-Thiên đã dành cả quyển 28 nói về Lịch, quyển 29 nói về Thiên-quan. Trong bộ Hán-Thư, Nghệ-Văn-Chí, Ban-Cố để một chương chép về khoa Thiên-văn. Theo Ban-Cố thì Thiên-Văn dùng để xếp đặt thứ tự, biến dịch của 28 sao 5 hành tinh Nhật, Nguyệt, nhờ đấy mà đoán ra tốt xấu. Khoa Tử-Vi đặt căn bản là vận hành tinh tú ảnh hưởng đến con người, nguồn gốc của nó là Thiên-Văn. Kinh Dịch rút từ nguyên-lý vũ-trụ tuần-hoàn, đồng nguồn gốc với Thiên-Văn, nên có câu:

Quan Thiên-Văn dĩ sát thời biến.
Nghĩa là ngắm tượng trời để xét sự thay đổi thời tiết.
(Chu Dịch, Quẻ Bí)

Nguyên-lý căn bản của Tử-Vi là Thiên-Văn. Thiên-Văn và Dịch đều có nguyên-lý là Vũ-Trụ. Chính vì vậy, có nhiều người lầm cho rằng nguyên-lý của Tử-Vi là Dịch lý cũng không lạ.

-Về Lịch-Phổ dùng vào việc đặt vị trí bốn mùa có thứ tự để tính thời tiết bốn mùa, đêm ngày, Hi-Di không mấy chú ý đến tính chất Ngũ-Hành của các sao tại 12 cung. Mà chỉ để ý đến các cách thường kết hợp lại với nhau thành một cường lực nào đó.

-Ngoài ra, khoa Ngũ-Hành, Ngũ-Sự, Tạp-Chiêm, Hình-Tượng cũng đều có nguyên-lý Vũ-Trụ mà Hi-Di tiên-sinh rút ra để đoán vận hạn, tính tình, sống chết, thành bại của con nguời.

Tóm lại, nguyên-lý khoa Tử-Vi có thể tóm lược như sau:

C- Khoa Tử-Vi và tiểu-thuyết thần thoại

Vì sự thiếu sót của Tử-Vi sử, nên hầu hết những nguời bình dân Việt-Nam đều lầm lẫn những nhân vật tiểu-thuyết Thần-kỳ chí-quái, ma trâu đầu rắn với các sao trong khoa Tử-Vi. Ðể rồi khi lo vận hạn, bầy ra cúng sao, coi như đó là những ông Thần có thể ban phước, ban ơn cho người ta. Thậm chí có nhiều nhà Tử-Vi thành danh mà cũng bị lầm lẫn, nguyên do chính vì không học sử Trung-Hoa và bị tiểu thuyết ảnh huởng đến độ tưởng thật (1)

a) Trần-Ðoàn không phải là Tiên-ông. Trần Hi-Di là một đạo-gia tu ở Hoa-Sơn, đời Tống-sơ. Tất cả sách vở đều chép như vậy. Nhưng đến đời Minh, phong trào chương hồi tiểu-thuyết ra đời. Nhiều tiểu-thuyết gia biến Tiên-sinh thành Trần-Ðoàn lão-tổ, có phép tắc vô cùng huyền bí, hô phong hoán vũ. Có tiểu-thuyết gia cho Tiên-sinh sống từ đời Bàn-Cổ. Ðời Ðông-Chu, Tùy, Ðường đều có xuất hiện đấu phép thu học trò. Tiên-sinh chỉ là Ðạo-gia, và trở thành Tiên trong sự tưởng tượng của người sau ông đến hơn 200 năm.

Các Sao trong Tử-Vi và nhân vật Thần-Thoại: Từ sự lầm lẫn Hi-Di tiên-sinh là một Tiên ông, người ta còn lầm lẫn trầm trọng thêm nữa là lầm các Sao trong Tử-Vi với các vị thần trong Tiểu-thuyết.

Rồi khẳng định rằng Hi-Di tiên-sinh căn cứ vào nhân vật Thần-thoại đời Thương-Chu chiến tranh mà đặt cho các ngôi sao. Sự lầm lẫn tai hại này chứng tỏ không hiểu tí gì về Văn-Học-Sử và Sử Trung-Hoa. Có ba điều chứng minh rằng Hi-Di tiên-sinh không hề căn cứ vào nhân vật đời Thương-Chu đặt tên cho các ngôi sao trong khoa Tử-Vi:

Thứ nhất: Các ngôi sao trong khoa Tử-Vi đều là những hành-tinh có thật trong Thiên-Văn. Ðọc bộ Tinh-Kinh của Cam-Hũu-Vu, hoặc của Lưu-Biểu sẽ thấy rõ tính chất tuần hành của Thiên-Hà. Tiểu-thuyết gia lấy các sao trong Thiên-Văn rồi đặt ra những nhân vật ấy là Thần của ngôi sao.

Ðáng buồn thay, có những nhà Tử-Vi khuyên người ta nên căn cứ vào nhân vật tiểu-thuyết để tìm hiểu tính chất các sao thì tránh sao khỏi sai lạc trầm trọng.

Thứ hai: Khoa Tử-Vi được phổ biến vào năm Càn-Ðức nguyên niên (963), vào đầu đời Tống. Còn nhân vật tiểu-thuyết mãi đời Minh mới xuất hiện. Không thể có việc người sống trước 2000 năm bắt chước người sau. Trong bộ

Trung-Quốc Văn-Học Sử của Dị-Quân-Tả Tự-Do thư xã ấn hành tại Hương-Cảng vào niên hiệu Trung-Hoa Dân-Quốc thứ 48, chương II, Minh Ðại văn-học, trang 397 có viết:
“.. Minh-Sử, Nghệ-Văn-Chí chÉp có tới 127 bộ tiểu-thuyết được viết trong đời này, gồm 3307 cuốn.. Nhưng xứng đáng được gọi là tiểu-thuyết có Trung-Quốc tứ đạo kỳ thư.. Mà Tứ-Ðại kỳ-thư tiểu-thuyết đời Minh truyền đến nay còn thực nhiều. Tiến cử ra đây một bộ đó là bộ Phong-Thần Diễn-Nghĩa hay còn gọi là Phong-Thần Bảng (2).. “

Ðoạn trích dẫn trên đầy đủ chứng minh rằng nhân vật Phong-Thần được bịa đặt ra sau Hi-Di tiên-sinh đến 200 năm.

Thứ ba: Tra cứu các bộ chính sử như Kinh Xuân-Thu, Tả truyện, Chiến-Quốc sách không hề thấy nói đến tên nhân vật thần-thoại trong Phong-Thần. Bộ Sử-Ký của Tư-Mã-Thiên:

- Cuốn 4 nói về Thương Kỷ.
- Cuốn 5 nói về Chu Kỷ.
- Cuốn 33 nói về Lễ, Chu-Công thế-gia.
- Cuốn 32 nói Tề, Thái-Công thế-gia.

Chỉ thấy nói đến các nhân vật lịch-sử như: Trụ-Vương, Võ-Vương, Khương-Thượng...vân. vân... Không hề thấy nói đến Dương-Tiễn, Lý-Tĩnh, Lý-Na-Tra, Long-Kiết công chúa, Nguyên-Soái Trương-Quế-Phương.v.v...

c) Kết luận. Tóm lại:

- Khoa Tử-Vi nguồn gốc ở chức Chúc quan đời cổ. Nguyên-lý của nó là vũ-trụ. Dịch lý cũng có nguyên lý từ vũ-trụ nên nhiều người lầm tưởng khoa Tử-Vi có nguyên lý là Dịch lý.

Tiểu-thuyết gia đời Minh tưởng tượng ra những nhân vật thần-thoại, rồi cho các nhân vật ấy thành thần, trấn mỗi người một tinh tú. Không có sự liên hệ khoa-học nào giữa các nhân vật đó và những sao trong Tử-Vi. Hi-Di tiên-sinh là một đạo-gia, không phải là Tiên ông.

  • Một giáo sư tốt nghiệp đại học, vì mê tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung, bị xe cán gẫy ống chân không đi nhà thương bó bột. Nằm ở nhà tập vận nội công như Trương Vô Kỵ mong xương lành. Rút cuộc chân thối phải cưa.
  • Người Nhật có một bản đề tên Trá trọng Tâm, in đời Minh, 120 hồi.

Tài liệu tham khảo:

SÁCH CHỮ HÁN:

  • Tử vi tinh nghĩa: Trần Đoàn bản của cơ quan nghiên cứu Đông Á Châu.
  • Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh: Triệu Thị bản của cơ quan nghiên cứu Đông Á Châu
  • Trung quốc Văn học sử: Dị quân Tả
  • Ẩm băng Thất văn tập: Lương Khải Siêu
  • Trung quốc Triết học sử: Phùng Hữu Lang
  • Trung quốc cổ đại xã hội nghiên cứu: Quách mạt Nhược

SÁCH TÂY PHƯƠNG:

  • Pensee Chinoise: M. Granet.
  • Naissance de la Chine: H.Glessner Greel.

KHHB số 74L1


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc khoa tử vi

Cách hóa giải khi làm vỡ gương để tránh gặp chuyện chẳng lành

Áp dụng ngay những cách hóa giải khi làm vỡ gương để tránh xui xẻo và có cuộc sống an yên hơn.
Cách hóa giải khi làm vỡ gương để tránh gặp chuyện chẳng lành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Vai trò của gương trong phong thủy
 

Tác dụng của gương trong phong thủy là điều không ai có thể phủ nhận, thậm chí, ở từng quốc gia có quan niệm khác nhau về gương nhưng tất cả đều xem đó là vật mang lại điềm tốt. Cũng có rất nhiều những điềm báo liên quan đến chiếc gương, và hầu như với các dân tộc đều như nhau.   Theo quan niệm người Trung Hoa, gương được xem là vật trừ tà vì họ cho rằng, ma quỷ sẽ vì sợ hãi mà bỏ đi khi soi gương nhìn thấy hình thù kỳ quái của mình trong đó.
 
Gương có vai trò cực kỳ quan trọng theo quan niệm của người Nhật, nó là một trong những báu vật của nhà vua cùng với ngai vàng, thanh bảo kiếm và ba viên ngọc trai.    Được so sánh với nước, chiếc gương đã trở thành phép thần thông và được sử dụng trong việc xem bói toán ở Công-gô, trong các bộ tộc Bambara ở châu Á – đó là bát nước hoặc chiếc gương mà trong đó pháp sư có thể nhìn thấy các vong hồn.
 
 
Cach hoa giai khi lam vo guong de tranh gap chuyen chang lanh hinh anh
 

Cách hóa giải khi làm vỡ gương
 

Khi làm gương vỡ người làm vỡ gương được cho là sẽ bị xui xẻo, ly biệt. Vận xui là điều mà không ai mong muốn, tuy nhiên để tránh gặp phải những điều không may mắn trong cuộc sống do lỡ tay làm vỡ gương bạn nên tìm cách hóa giải.
 

1. Dọn dẹp ngay khi gương vỡ
 

Gương được cho là nơi lưu giữ hình ảnh, một phần linh hồn những người từng soi chúng nên khi gương bị vỡ, không nên vứt các mảnh vỡ vào thùng rác. Sau khi thu dọn kĩ càng để tránh những mảnh vỡ gây bị thương cho người trong gia đình, hóa giải được điềm xấu, hãy dùng một tấm vải đen, nhặt tất cả mảnh vỡ của gương gói trong mảnh vải đen ấy chôn sâu ở sân sau hoặc góc vườn.   Có những nơi còn có cách hóa giải khác như đập vỡ mảnh gương thành những vụn cho thật mịn và thổi hay ném đi. Người ta tin rằng những vụn gương sẽ hàn gắn số mệnh của bạn.
 

2. Sử dụng sức mạnh của ánh sáng


Theo phong thủy, năng lượng trong nhà phải được cân bằng, vì thế, để tìm cách hóa giải khi làm vỡ gương nghĩa là phải tăng năng lượng dương trong nhà bằng cách tăng ánh sáng. Cho ánh sáng vào nhà là một cách hữu hiệu để loại bỏ xui xẻo và xua tan nguồn năng lượng xấu.
 
Hãy thử bật tất cả đèn điện trong nhà và thắp thêm nến sao cho không còn một góc tối nào để tà khí có thể ẩn nấu. Không những thế, ánh sáng còn giúp các phòng trong căn nhà trở nên ấm cúng hơn.
 
Một phương pháp sử dụng ánh sáng để bảo vệ bạn khỏi xui xẻo và thu hút may mắn đó là thắp sáng ba ngọn nến, hai ngọn nến trắng, một để đem lại sự bảo vệ và một để đem lại sự thanh lọc, và ngọn nến còn lại phải có màu cam, để đem lại may mắn.
 

3. Đi du lịch
 

Nếu tâm trạng lo lắng, bất an, bạn nên đi du lịch để thay đổi trạng thái, không gian, hít thở không khí tươi mới ở một nơi khác. Đi du lịch sang thành phố khác được cho rằng có thể xoá tan mọi xui xẻo, vì vận xui bị bỏ lại phía sau và sẽ tan biến khi bạn vắng mặt.

Vì thế, nên đi du lịch càng xa nơi ở của bạn càng tốt, ví dụ như sang nước khác hoặc nơi có múi giờ khác với nơi bạn sống là cách tốt nhất. 
  Đi du lịch cũng sẽ giúp bạn nhận ra rằng vận xui không phải là do bản thân bạn gây ra, nhưng là do vị trí ngôi nhà bạn ở hoặc do công việc.
 
Nếu cứ loay hoay trong những mệt mỏi mà không thể thoát ra thì đi nghỉ dưỡng sẽ giúp bạn hiểu được những thay đổi bạn cần thực hiện khi trở về để có thể xoá tan mọi xui xẻo.   
Cach hoa giai khi lam vo guong de tranh gap chuyen chang lanh hinh anh 2
 

4. Đốt vía (phong long)
 

Theo dân gian, mọi người có quan niệm rằng đốt phong long (đốt vía) để giải phóng các năng lượng tiêu cực, lửa được biểu trưng cho sức mạnh khai phá, bạn vừa đốt vừa di chuyển cho làn khói nóng lan tỏa khắp ngôi nhà của bạn.

Khi đốt vía, không quên mở tất cả các cánh của trong nhà ra để các năng lượng tiêu cực thoát ra ngoài, không loanh quanh trong ngôi nhà của bạn nữa.
 

5. Dùng muối
 

Những tác dụng không ngờ của muối trong phong thủy. Cách hóa giải khi làm vỡ gương có thể dùng muối vì muối được xem là có thể hấp thụ năng lượng tiêu cực mà không cần dùng tới lửa. Nếu gia đình thường xảy ra bất hòa và cãi nhau, dùng bát đựng nước muối trừ tà cho vào góc phòng để hấp thụ ám khí hoặc đơn giản là rắc muối lên sàn nhà, sáng thức dậy đi chân không lên lớp muối ấy.   Muối được xem là thứ sạch sẽ, tinh khiết như bản thể của nó, chính vì thế, nếu dùng muối hòa nước tắm bằng cách hòa khoảng 2 muỗng canh muối vào nước ấm và tắm là được.

Dùng muối để hóa giải xui xẻo do gương vỡ, bạn hãy thả muối ra sau lưng từ vai trái sẽ giúp cho vận xui mau chóng kéo đi. Nhớ rằng, không được ném qua vai phải bởi nó sẽ khiến vận xui tăng gấp đôi.
  Người Việt thường hay rắc muối ở từng phòng và trước cửa nhà để xua tà khí, đón vận may, đổi vận cho gia đình.  
Cach hoa giai khi lam vo guong de tranh gap chuyen chang lanh hinh anh 3
 
 

6. Đốt hương
 

Đốt hương trầm là một cách hóa giải vận xui và gia tăng may mắn hiệu quả. Khi tinh thần đang tồi tệ và vận xui đeo bám, bạn có thể chọn đốt hương có mùi cay nồng như mùi gỗ đàn hương hoặc mùi hoa nhài, và đừng quên cúi lạy, xin ông bà, tổ tiên phù hộ cho con cháu trong nhà.

Cần nhớ rằng, khi thắp hương nhất định phải thắp số nén hương lẻ. 
 

7. Cắm hoa tươi trong nhà


Xui xẻo ập đến do chứa nhiều năng lượng âm. Do vậy, mua hoa tươi để bổ sung năng lượng dương tích cực cho không gian của bạn. Nên nhớ không được để cành lá khô úa trong nhà, vì thế phải luôn cố gắng giữ hoa tươi và nên thay ngay lập tức khi chúng úa tàn. Du trì việc này liên tục trong vòng một tháng, mọi điều đen đủi sẽ từ bỏ bạn.

 
Cach hoa giai khi lam vo guong de tranh gap chuyen chang lanh hinh anh 4
 

8. Sử dụng đá phong thủy

  Dùng đá phong thủy là cách hóa giải vận xui được rất nhiều người sử dụng. Dưới đây là danh sách những loại đá phù hợp để bạn hóa giải vận xui khi đeo lên người:   - Bạn có thể áp dụng ngũ hành tương sinh tương khắc để chọn mua loại đá phong thủy mang lại may mắn và hợp mệnh với mình.   - Có thể làm tăng năng lượng dương bằng cách sử dụng thạch anh phấn hồng để đẩy lùi tà khí.   - Đá xà cừ sẽ bảo vệ bạn khỏi những linh hồn bơ vơ - những người luôn cố gắng hút năng lượng và cảm xúc tích cực của bạn.   - Nếu đi du lịch nên mang theo thạch anh tím để giúp bạn tránh những điều không hay khi đi du lịch.  

9. Làm việc thiện

  Bạn nên cố gắng làm nhiều việc thiện, có ích cho xã hội càng tốt vì việc này mang lại cho bạn một tâm hồn bình yên, cân bằng cuộc sống. Vì thế, đây có thể là cách tốt nhất có thêm vận may, xua đuổi những điều xui xẻo.

Bất kể trước đây bạn đã từng phạm sai lầm như thế nào, từ bây giờ bạn có thể hối cải bằng cách làm việc thiện trong khả năng của mình. Tuy điều này không đủ để hóa giải cho những gì bạn từng gây ra nhưng sẽ tích thêm đức, phúc cho kiếp này và kiếp sau nữa.

Tuy nhiên, mọi hành động đều phải xuất phát từ tâm. Hãy tích thêm công đức của bạn bằng cách làm từ thiện, giúp đỡ người già vô gia cư hoặc trẻ em mồ côi. Công đức càng dày thì may mắn đến với bạn càng nhiều hơn.
 

10. Dọn nhà

  Dọn nhà là cách hóa giải khi làm vỡ gương rất đơn giản vì năng lượng sẽ không thể lưu thông được với căn nhà để đồ đạc luộm thuộm. Chúng có thể chặn năng lượng tích cực chảy vào và tạo ra những cảm xúc tiêu cực và kém may mắn. Vì thế việc dọn có thể mang đến cho bạn nguồn năng lượng mới và đó là cách hóa giải vận xui đơn giản cho bạn.   - Ngay lập tức vứt bỏ tất cả những món đồ cũ không còn sử dụng.   - Sau khi sử dụng đồ phải để đúng vị trí một cách ngăn nắp. 

- Luôn giữ nhà vệ sinh sạch sẽ thông thoáng.
  - Để tạo không khí tươi vui, khi dọn nhà có thể bật chút nhạc và mở cửa sổ để nắng và gió ùa vào.   HaTra
 
Hướng dẫn hóa giải lỗi phong thủy gương đối giường Phong thủy gương soi trong trang trí nhà ở
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải khi làm vỡ gương để tránh gặp chuyện chẳng lành

Tìm may mắn cho người tuổi Giáp Tuất

Tuổi Giáp Tuất (mệnh Hỏa, sinh năm 1994) mệnh số may mắn, công thành, danh toại, tài lộc dồi dào, con cái thành đạt. Tuổi này thuở nhỏ gặp chút vất vả, đến năm
Tìm may mắn cho người tuổi Giáp Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời: 26 tuổi sẽ có cuộc sống sung sướng, vật chất đầy đủ.

 
Những tuổi đại kỵ với tuổi Giáp Tuất không nên hợp tác làm ăn hoặc kết hôn là: Đinh Sửu, Kỷ Mão, Ất Dậu, Kỷ Sửu, Tân Mão, Quý Dậu, Đinh Mão.

Tính cách: Là người hiền lành, nhạy cảm, tính tình bộc trực, thẳng thắn, chân thật, có sức chịu đựng bền bỉ nên rất được mọi người tin tưởng, kính nể.

Tình duyên: Tuổi này số đào hoa, tình cảm yếu đuối nên đường tình bất ổn đặc biệt là  nữ sinh vào các tháng 3, 6, 8, 10; nam sinh vào các tháng: 2, 3, 9.

Tuổi Giáp Tuất không nên kết hôn với các tuổi: Quý Mùi, Tân Mùi để tránh cảnh bần hàn, bất hạnh.

Công danh sự nghiệp: Tuổi Giáp Tuất tuy đường này đến muộn nhưng lại thành đạt, vững chắc, năm 40 tuổi sẽ có sự nghiệp vẻ vang, có địa vị lớn trong xã hội.

Tuổi này nên kết hợp với các tuổi Mậu Thìn, Nhâm Thân, Giáp Tuất công việc làm ăn sẽ thuận lợi, phát đạt.

Tiền bạc: Tuổi Giáp Tuất tiền bạc bất ổn, đến tuổi 38, 39 gặp nhiều may mắn trong làm ăn, tiền của dồi dào, về già giàu có, sung sướng.

(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm may mắn cho người tuổi Giáp Tuất

Mơ thấy cổ là cảm xúc rắc rối

Mơ thấy cổ tượng trưng cho ý chí và nhu cầu muốn kiểm soát cảm xúc bản thân trong cuộc sống hiện tại. Giấc mơ này cũng dự báo trong tương lai gần,
Mơ thấy cổ là cảm xúc rắc rối

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngủ mơ thấy cổ tượng trưng cho ý chí và nhu cầu muốn kiểm soát cảm xúc bản thân trong cuộc sống hiện tại. Giấc mơ này cũng dự báo trong tương lai gần, bạn sẽ gặp rủi ro, bạn nên thận trọng.

 

Mo thay co la cam xuc rac roi hinh anh
Ảnh minh họa

Thấy cổ họng của bạn trong mơ, biểu tượng cho khả năng bộc lộ bản thân và truyền đạt suy nghĩ, ý tưởng của bạn.

 

Mơ thấy bạn đau cổ họng, ám chỉ việc những điều bạn nói ra sẽ không được người khác ủng hộ. Thậm chí, khi bạn thể hiện bản thân mình sẽ có kẻ đe dọa bạn nữa đấy. Hơn thế nữa, điều này cũng cho thấy bạn đang bị người khác đè nén, kìm hãm.

 

Thấy cổ của bạn trong mơ tượng trưng cho mối quan hệ giữa trí não, tinh thần và cơ thể, thể xác. Cổ biểu thị cho sức mạnh ý chí, sự hạn chế bản thân và nhu  cầu kiểm soát cảm giác và giữ chúng trong cổ họng của bạn.

 

Thấy một cái cổ cao, thanh nhã, yêu kiều trong mơ, làn da trắng ngần dự báo sắp tới bạn sẽ được thăng quan tiến chức.

 

Thấy một cái cổ to, da sậm trong mơ là điềm báo tâm trạng bạn đang rối bới, bạn rất dễ cáu gắt và nóng nảy.

 

Chiêm bao thấy cổ bị thương hoặc bị đau, thậm chí là gãy cổ thì bạn đang có một sự mâu thuẫn không hề nhỏ giữa trái tim và lý trí. Cảm xúc và suy nghĩ của bạn đối lập với nhau, bạn không thể điều khiển nổi con tim cũng như cảm xúc của mình.

 

Mơ thấy cổ mình bị sưng lớn biểu thị ở cuộc sống hiện tại tính cách và cảm xúc của bạn thay đổi thất thường và cực kỳ nhanh chóng.

► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Tổng hợp

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy cổ là cảm xúc rắc rối

Ghi chép các bài viết hay về Tử Vi trên các diễn đàn

Một bài viết ghi chép lại các bài viết hay trên các diễn đàn lý số. Mời các bạn đọc cùng tham khảo
Ghi chép các bài viết hay về Tử Vi trên các diễn đàn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số bài và topic hay trên các diễn đàn lý số để nghiên cứu.

Về việc ngũ hành trong Tử Vi

Chép lại bài viết trong thread diễn đàn của tác giả VDTT

Mỗi chúng ta có một loại cơ duyên, cũng có một loại nợ nào đó. Vì vậy người học Tử Vi đã tin một lối xem nào đó thì rất khó bỏ. Nhưng tối thiểu thời nay vấn đề truyền thông đã đạt mức toàn cầu, chúng ta mau chóng cập nhật được những gì xảy ra hoặc đã xảy ra ở nơi khác, nhờ đó dễ tránh được các vết xe đổ của người khác.

Khoa học từng có những bước dzích dzắc, trước đi từ A đến B, sau lai thấy A đúng phải lùi lại A, nên tôi không dám khẳng định thuyết nào đúng thuyết nào sai, nhưng thiết nghĩ chúng ta nên biết đại khái diễn trình hưng suy của ngũ hành trong Tử Vi ở Đài Loan trong thời trăm hoa đua nở. Bởi không có gi đáng tiếc bằng bỏ bao nhiêu công lao mà chỉ đi vào vết xe đổ của ngưòi xưa.

Năm 1985 ông Sở Hoàng (Đài Loan) ra quyển "Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá" bảo rằng ngũ hành đóng vai trò chủ yếu trong Tử Vi. Điểm chính là ông dựa vào lý vượng tướng hưu tù tuyệt mà luận sự cường nhược của chính tinh.

Cùng trong khoảng thời gian từ đầu đến giữa thập niên 80 có ông Phương Vô Kị mở trường dạy Tử Vi,có phổ biến 7 tập giáo tài ra ngoài thị trường, trong đó có 4 tập cực kỳ đồ sộ (nghe đâu mỗi tập đồ sộ này đều dày trên 500, 600 trang). Tiếc là tôi chỉ mua được hai tập bề dày bình thường (dưới 200 trang) nên không rõ toàn thể lý thuyết của ông Phương Vô Kị, tuy nhiên cũng thấy ông áp dụng lý ngũ hành vượng tướng hưu tù tuyệt để luận sự cường nhược của các chính tinh.

Hai vị này là những nhân vật nổi tiếng một thời,nhưng mau chóng chìm vào quên lãng để nhường chỗ cho một trào lưu khác mà đại biểu nổi bật đầu tiên là ông Liễu Vô cư sĩ.

Khiông Sở Hoàng ra sách Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá ông Liễu Vô cư sĩ đã thành danh từ khá lâu trong làng Tử Bình (sách ra từ năm1980). Điểm này quan trọng vì nó cho ta biết là ông Liễu Vô cư sĩ hết sức quen thuộc với lý ngũ hành hỉ kị của khoa Tử Bình.

Xin tự trích một phần tôi đã viết đăng báo ngày xưa về nhân vật độc đáo này:

"Từ cách lập luận trong các bài viết cũng như dựa theo thư mục các sách đã xuất bản đầu thập niên 1990 ta biết ông Liễu Vô Cư Sĩ lập danh là chuyên gia Tử Bình, với hai quyển sách “Hiện đại nhân đích bát tự” (bát tự của người hiện đại) và “Bát tự đích thế giới” (thế giới của khoa bát tự) in năm 1980. Soạn giả chưa được đọc hai quyển này, nhưng nghe nói trong đó ông kịch liệt đả phá cách xem bát tự của người xưa. Thì ra, ngay với hai quyển sách đầu tay, dấu hiệu cách mạng (hay “phá hoại”, tùy người nhận định) của ông đã tỏ lộ ra rồi.

...

Vì một tình cờ của lịch sử, thập niên 1980 chính là lúc mà khoa Tử Vi vào giai đoạn sôi bỏng của phong trào “trăm hoa đua nở” kéo dài hai thập niên ở Đài Loan cũng như Hồng Kông. Có lẽ vì coi Tử Vi là một cuộc cách mạng so với khoa bát tự như ông giải thích sau này trong quyển “Đẩu số nghi nan 100 vấn đáp - hiện đại thiên”, Liễu Vô cư sĩ hăng hái tham gia phong trào này, và trở thành một tên tuổi lớn. Tính đến năm 1993 ông đã cho ra đời 11 tựa sách tử vi, tổng cộng 22 quyển. (Các sách ông ra sau này thì soạn giả không nắm vững, mong được các vị khác bổ túc.)

Dựa trên thành tích mà đoán thì khúc quanh lớn nhất trong sự nghiệp mệnh lý của ông phải kể là năm 1992. Năm ấy, ngoài việc tái bản hai quyển sách bát tự kể trên, ông còn xuất bản quyển “Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú” và hai quyển tiên đoán tình hình chính trị, tuyển cử ở Đài Loan bằng mệnh lý. Nhưng thành công rực rỡ nhất của ông năm này là quyển ‘Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân’ (Luận mệnh bằng tử vi không cần nhờ người khác). Giữa lúc sách Tử Vi mới được in như rừng, sách này của ông bán chạy ngoài sức tưởng tượng, chỉ sau 20 ngày đã tái bản.

Nhờ tính hiện tượng của sách “Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân” mà cách xem Tử Vi khá ngược đời của ông Liễu Vô cư sĩ trở thành kiến thức phổ thông ở Đài Loan cũng như Hồng Kông, lần hồi được vài người khác trong giới trí thức tin theo và viết sách xiển dương, đưa ông lên vị trí của một nhà lập thuyết có chỗ đứng vững chắc trong lịch sử hiện đại của khoa Tử Vi.

Về căn bản Tử Vi, ông xuất phát từ phái Tử Vân. Chủ trương chính của phái này là phải khảo sát mọi ngành huyền học bằng nhãn quan khoa học. Mặc dù sau này chọn một con đường khác, ông Liễu Vô cư sĩ vẫn tiếp tục xiển dương chủ trương trọng khoa học của phái Tử Vân. Thỉnh thoảng ông vẫn nhắc lại những quan điểm của ông Tử Vân (mà ông gọi là “Tử Vân tiên sinh” tức “thầy Tử Vân”) một cách trân trọng, mặc dù trong đó có một số quan điểm mà ông không còn đồng ý nữa.

Với cái nhìn khoa học và thực tế, ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương thực nghiệm là tiêu chuẩn tối hậu. Hiển nhiên quan điểm của ông khác hẳn người xưa. Có lẽ vì thế mà lắm khi ông phê bình người xưa, kể cả đạo sĩ Trần Đoàn tức nhân vật được tin là tổ sư của khoa Tử Vi, rất gay gắt. Đặc điểm này có thể thấy rõ trong “Đẩu số tuyên vi hiện đại bình chú” (2 quyển) và “Đẩu số nghi nan 100 vấn đáp” (2 quyển, có tên “cổ điển thiên” và “hiện đại thiên”).

Cuối cùng, như đã nói ở một bài trước, một điểm độc đáo nữa của ông Liễu Vô cư sĩ là ông rất trọng nhân tài mới, ngay cả khi nhân tài ấy có chủ trương ngược lại ông. Nên không có gì đáng ngạc nhiên rằng, mặc dù luận đề lớn của ông là Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành, một người được ông quý trọng và nâng đỡ lại là ông Sở Hoàng, tác giả quyển “Tử Vi hỉ kị thần đại đột phá” với luận đề cho rằng ngũ hành là nền tảng quan trọng nhất của khoa Tử Vi.

Năm 1984, tức là một năm trước khi sách"Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá" (coi ngũ hành là yếu tố quyết định trong Tử Vi) của ông Sở Hoàng ra đời, ông LIễu Vô đã ra sách Tử Vi rồi và tạo ngay được tiếng vang. Tiếng vang này dẫn đến bộ Hiện Đại Tử Vi gồm 7 tập bắt đầu phát hành trong khoảng thời gian 1985-1986. Tập sách này đã giúp LIễu Vô cư sĩ tiến lên vị trí hàng đầu trong làng Tử Vi, đồng thời tạo ra huyền thoại Tử Vân. Cần nói rõ là lúc ấy ông Tử Vân chưa ra sách nhưng được ông Liễu Vô nhắc tới với những huyền thoại người thật việc thật "xem số như thần", trong đó có chuyện ông Tử Vân xem số cho một số những chuyên gia khoa học toàn cỡ tiến sĩ, thạc sĩ du học Mỹ Anh về, không tin Tử Vi. Theo lời kể của ông LIễu Vô cư sĩ thì ông Tử Vân dùng Tử Vi để xem phong thủy đoán mọi sự đúng vanh vách khiến các chuyên gia này phải buộc lòng khẩu phục (tâm phục hay không thì không biết).

Vài năm sau, vẫn trong thập niên 1980, ông Tử Vân bắt đầu ra sách. Mức độ thành công của ông thì không cần nhắc lại, nhưng có thể thấy rằng làng Tử Vi Đài Loan chỉ trong vòng vài năm đã có biến chuyển to lớn. Lực lượng song đôi của hai ông Liễu Vô cư sĩ - Tử Vân và những người liên hệ đến họ như tiến sĩ Hứa Hưng Trí, ông Tuệ Canh v.v... mạnh như cuồng phong bão tố, khiến tất cả những nhân vật một thời phong quang như Chính Huyền Sơn Nhân, Phan Tử Ngư, Thẩm Bình Sơn, Sở Hoàng, Phương Vô Kị vân vân mau chóng trở thành quá khứ.

Và rồi khi ông Liễu Vô cư sĩ tuyên bố phải loại bỏ ngũ hành ra khỏi Tử Vi thì ông và thầy cũ của ông (Tử Vân) biến thành hai lực lượng chính yếu của Tử Vi Đài Loan. Tình hình cứ kéo dài như thế cho đến hết thời trăm hoa đua nở.

Tại sao hai ông LIễu Vô cư sĩ và Tử Vân lại thành công như vậy? Mỗi người sẽ có ý kiến riêng của họ. Riêng tôi cho rằng họ có ưu điểm to lớn là có thực chứng. Ông Tử Vân dù không nhìn nhận có lẽ đã xem trên 5000 lá số người thật việc thật. Nếu những gì Liễu Vô cư sĩ thuật lại trong Hiện Đại Tử Vi và những gì ông Tử Vân tự thuật trong các sách của ông không phải là bịa đặt thì ông Tử Vân bị các nhân tài trẻ cũng như già, tin cũng như không tin Tử Vi, thách thức rất nhiều lần, và mọi lần ông đều chứng tỏđược khả năng đoán mệnhđúng ngoài mức tưởng tượng của những người thách đố ông, đồng thời vẫn giữ sự khiêm cung với họ.

Ông Liễu Vô cư sĩ thì có hẳn một văn phòng xem số, sách Tử Vi của ông không đoán mài mại hoặc đoán những chuyện không ai kiểm chứng được, mà ông dám đoán trước tương lai của các nhân vật chính trị đương thời. Và trên mặt học thuật thì ông rất thẳng thừng, không ngần ngại đối đầu với những người muốn thách đố ông.

Theo những gì có thể kiểm chứng được trên Hiện Đại Tử Vi và những lời đồn đãi về sau (không kiểm chứng được) thì những thành quả của ông đã khiến đại cao thủ Thiết Bảng Đạo Nhân (được coi là cùng cỡ với cụ Hà Mậu Tùng, thầy của ông Tử Vân) phải chú ý và thiết lập liên hệ. (Cứ theo thư mục xem thấy trên mạngthì về sau ông Liễu Vô cư sĩ có ra sách phối hợp Tử Vi và thiết bảng thần số, phải chăng là đã được chân truyền của Thiết Bảng đạo nhân?)

Đã biết thành tích của ông Liễu Vô cư sĩ như vậy, ta có dám nói rằng ông đòi loại bỏ ngũ hành ra khỏi Tử Vi là vì ông không hiểu ngũ hành, hoặc không hiểu Tử Vi hay không?

Tôi xưa nay (giờ vẫn thế) vốn bất đồng với chủ trương loại ngũ hành ra khỏi khoa Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ, nhưng tôi vẫn sợ cái học của ông như thường. Chẳng bao giờ dám chê bai. Ấy bởi vì sau mấy mươi năm nghiên cứu từ kỹ thuật, khoa học đến huyền học, tôi cuối cùng đã hiểu rằng đời này không chỉ có trắng và đen, đúng và sai, mà còn có những trường hợp trong đúng có sai, trong sai có đúng, tưởng đúng mà sai, tưởng sai mà đúng v.v... Cho nên bất cứ cái gì mà những người có trình độ bỏ nhiều công khó mới tìm ra, dù tôi cho là sai đi nữa tôi cũng không vội vàng bác bỏ ngay. Biết đâu, ngày mai tôi lại thấy cái sai ấy đúng.

Tôi hy vọng những người thuộc các thế hệ sau tôi cũng làm như thế.

Như trở lại chuyện hiện tại, thấy có người bảo phải tận dụng ngũ hành thì xem Tử Vi mới đúng, mình kiểm lại thấy có vẻ như vậy thì đừng quên rằng:

1- Từ xưa đến nay luôn luôn có người chủ trương như vậy, nên đây chẳng phải là một chủ trương mới lạchưa ai biết.

Riêng cách so nạp âm năm sinh với các trụ để luận mệnh thì trên kệ tôi có quyển sách "Trung Hoa nạp âm dự trắc học" của một tác giả Hồng Kông. Thì ra so nạp âm năm sinh với các trụ để luận mệnh là một cách luận bát tự thời xưa. Xem các thí dụ thì thấy thuyết phục lắm, nhưng tự nhiên tôi giật mình hỏi lại: Vậy tại sao cách xem này đã bị người ta đào thải để nhường chỗ cho khoa Tử Bình như chúng ta biết trong hiện tại (hoàn toàn không dùng nạp âm nữa)?

Vì anh HoTuVu trưng ra các lá số tổng thống rồi so sánh nạp âm năm sinh với tháng sinh, tôi nghĩ anh nên suy ngẫm về vấn đề này.

2- Người không chủ trương coi trọng ngũ hành trong Tử Vi chẳng phải là những ngưòi không biết gì về ngũ hành hoặc về Tử Vi. Trái lại, trong những người không chủ trương như vậy chẳng thiếu gì các tay cao thủ, như ông Liễu Vô cư sĩ chỉ là một thí dụ gần đây.

Vậy thì ai đúng ai sai, theo ai bỏ ai đây?

Cuối cùng, tôi nghĩ, đáp án vẫn là mỗi người chúng ta vẫn phải quyết định một con đường cho chính mình. Xem ra chỉ có cách đó mà thôi!

Nhận xét về Lưu Tứ Hóa ở Đại Vận của VDTT

Kính Gởi Anh VDTT:

Trong bài viết giải lá số cho "binhan" sinh ngày 13/5/mậu thân vào giờ ngọ AL, dương nữ, anh có viết:

"Hạn sang Mỹ ứng hợp vì cung Can của đại hạn (14-23 ở cung Hợi) là Quý có lưu Quyền ở cung Thiên di của đại hạn(cung Tỵ)".

Do đó để tìm Can của cung Đại Hạn có phải là làm như sau không:

Người này sinh năm Mậu Thân, như thế khởi từ Cung Dần là Giáp, rồi Ất, Bính....đến cung Hợi là Quý.

Mà Can Quý thì có Hóa Lộc đi với Phá Quân, Hóa Quyền đi với Cự Môn, Hóa khoa đi với Thái Âm, Hóa Kỵ đi với Tham Lang.

Như vậy trong Đại hạn (14-23) này cung Di của Đại hạn an tại Tỵ có Cự Môn thủ đã được hưởng lưu Hóa Quyền.

Thưa Anh VDTT, không biết những điều tôi vừa viết ra có đúng như thế không ạ?

Và nếu đúng như ý của Anh, thì xin cho được đặt vài câu hỏi như sau:

Để tính Đại hạn cho chi tiết thì phải:

1. Tìm Can cho Cung Đại Hạn?

2. Rồi tìm bộ sao Tứ Hóa cho Đại Hạn?

Thưa Anh, Xin Anh có thể giải thích giúp cho tôi về sự quan trọng của Bộ Tứ Hóa này được không ạ, trong cuộc đời, cũng như trong các vận hạn (Đại cũng như Tiểu Hạn.)

Nhắc đến cuộc đời thì mình có nên tìm Bộ Tứ Hóa cho các Cung Mệnh và Cung Thân không ạ theo như nguyên tắc ở trên?

Và cũng xin Anh cho biết về Lưu Triệt trong các đại vận có ảnh hưởng như thế nào trong cách giải lá số?

Xin Chân Thành Cảm Ơn Anh.

...

Kính anh/chị thienhi,

Lưu tứ hóa là một cách xem ít người biết, nhưng chẳng phải là không ai xử dụng trong làng tử vi VN. Bằng cớ là năm 1990 tôi đã gặp một ông thầy VN xem theo cách này.

Ở ĐL, HK thì lưu tứ Hóa là cách xem tiêu chuẩn.

Mười hai cung trên lá số đại biểu một năm, đồng thời ứng với cả đời nguời. Mỗi cung trên lá số đại biểu một tháng, đồng thời ứng với một đại hạn. Do đó muốn tính lưu đại hạn tứ hóa thì tính ra can mỗi cung (coi như một tháng), hạn đến đâu lấy can cung đó mà tính lưu tứ hóa.

Sao lưu bay đầy trời. Tôi nghĩ phải nghiên cứu có hệ thống mới xác định đuợc sao nào quan trọng, sao nào không. Tôi hiện chỉ dám xác quyết lưu tứ Hóa hiển nhiên quan trọng; ấy bởi vì tứ Hóa là cái nền của Tử Vi. (Nếu không có chính tinh và Tứ Hóa thì Tử Vi chẳng có giá trị gì cả so với khoa tứ trụ.)

Lưu Triệt Tuần tôi chưa thấy ứng nghiệm, chẳng dám có ý kiến. Có người còn an lưu Xương, lưu Khúc v.v... nữa.

Về cách xem lưu tứ hóa, có hai trừơng phái chính:

1. Mệnh vận phân ly: Bỏ sao tứ Hóa nguyên thủy không tính. Đến mỗi hạn xem sao lưu Hóa ở đâu rồi tính. Đại khái Lộc tốt, Kỵ xấu; Quyền Khoa tùy trứong hợp. Có một chi phái giản lược bỏ luôn Quyền Khoa khi xem hạn.

2. Mệnh vận tương phùng: Xem cả tứ Hóa nguyên thủy và lưu tứ Hóa (uy lực bằng nhau trong hạn).

Phái thứ nhất khá mạnh ở Đài Loan khi tôi rời nơi này (tháng 12, 2001).

Tôi theo phái thứ hai.

Vài dòng chia sẻ.

...

Kính Anh VDTT,

Xin cám ơn Anh đã mau chóng giải đáp cho tôi. Trong tinh thần nghiên cứu học hỏi, tôi xin được hỏi anh một vấn đề nữa cũng liên quan đến bộ sao Tứ Hóa.

Như thế trong 1 lá số tử vi, ngoài bộ sao Tứ Hóa Nguyên Thuỷ, ta con phải ghi thêm:

1. Bộ TỰ HÓA

2. Bộ Lưu Tứ Hóa theo Đại vận

3. Bộ Lưu Tứ Hóa theo Tiểu vận

Ngoài ra không kể bộ Lưu Tứ Hóa cho Cung An Mệnh, và Bộ lưu Tú Hóa Cho Cung An Thân mà tôi đã hỏi Anh, nhưng không thấy Anh cho ý kiến.

Anh nghĩ sao về Lưu Lộc Tồn cho cung an Đại vận? 1 sao cho biết là ta sẽ được hưởng, hay không được hưởng khi vào đại vận.

Xin cám ơn anh.

...

Anh/chi thienhi than,

Ở ĐL có người xem không những hóa Mệnh, hóa Thân, còn 12 cung hóa (phụ mẫu hóa, nô bộc hóa v.v...).

Nói chung đây là phái "Huyền không tứ hóa" của ông Chính Huyền Sơn Nhân (tác giả bộ "Thiên Địa Nhân Tử Vi đẩu số" gồm 12 quyển phát hành đầu thập niên 1980's).

Có những tác giả ra những tập sách dày cộm (có người vài ba tập), chỉ bàn về tứ Hóa.

Theo tôi, tất cả đều là mò mẫm. Ta không nên vội áp dụng.

Hiện nay tôi chỉ đang cố chứng nghiệm:

- Tự hóa + hóa nguyên thủy trong việc xem số tòan thể cuộc đời.

- Đại hạn hóa + hóa nguyên thủy khi xem đại hạn.

- Tiểu hạn hóa + hóa nguyên thủy khi xem lưu niên/tiểu hạn.

Đã thấy điên đầu lắm rồi. Vẫn chưa dám nói là đã xác định được nền tảng khoa học của các cách này. Chỉ tạm thời xử dụng rồi tính sau.

Vài dòng chia sẻ.

T.B. Lưu Lộc Tồn, Khôi Việt, Kình Đà v.v... cho đại vận cũng là một cách quen thuộc ở Á Châu. Theo lý luận của tôi, cái nền của tử vi là chính tinh và tứ hóa, tất cả các sao còn lại chỉ thêm vào cho bài tóan tử vi dễ tính mà thôi. Bởi vậy chưa biết phút cuối cùng kết quả sẽ ra sao, nhưng tôi chỉ muốn bắt đầu bằng cái đơn giản nhất, tức là tứ hóa.

Quan hệ ngũ hành Mệnh Cục trung Tử Vi

(Bài viết của Atmao75)

Ngũ hành Mệnh: Chính là ngũ hành nạp âm của năm sinh

Ngũ hành Cục: là ngũ hành nạp âm của cung an mệnh.

Ngũ hành nạp âm là một phát kiến lý thú của phương Đông. Nó đã kết hợp ngũ hành thiên can (được coi như khí – biểu trưng cho vật chất, không gian) với địa chi (biểu trưng cho thời gian).

Quay lại quan hệ Mệnh-Cục:

Mệnh là ngũ hành nạp âm của năm sinh nên nếu không xét tính âm dương thì hai năm chung một ngũ hành mệnh.

Ngũ hành cục là ngũ hành nạp âm của cung an mệnh, do vậy nó liên quan chặt chẽ hơn với một cá nhân được sinh ra do liên quan đến thiên can năm sinh, địa chi năm sinh, tháng sinh và giờ sinh.

Bây giờ xét đến quan hệ ngũ hành Mệnh và ngũ hành Cục:

Ta có thể nói rằng Cục đại diện cho tính cá nhân nhiều hơn Mệnh (do được cá biệt hóa bằng năm sinh (thiên can, địa chi), tháng sinh (1-12) và giờ sinh. Vậy trong mối quan hệ Cục Mệnh thì cái gì là môi trường cho cái gì hình thành và phát triển từ đó sẽ dẫn đến quy luật sinh khắc tốt xấu giữa hai thực thể này.

Có nhiều sách nói đến quan hệ ngũ hành Cục – Mệnh, nhưng tóm lại đều dẫn ra hai kết luận trái ngược nhau như sau:

1. Cục sinh Mệnh thì tốt nhất, từ đó suy ra các trường hợp sinh, khắc Cục-Mệnh khác. Cơ sở của kết luận này là cho rằng Cung mệnh là môi trường cho Mệnh phát triển, do đó phải sinh cho Mệnh mới tốt. Còn được Mệnh sinh thì mệnh không được bồi bổ, do đó bị hao tán. Kết luận này dựa trên việc coi trọng năm sinh là yếu tố chính trong số mệnh.

2. Mệnh sinh Cục thì tốt nhất. Cơ sở của kết luận này là cho rằng Cục được xác định bằng những yếu tố mang tính cá biệt cho từng đối tượng được xét số mệnh nên phải được Mệnh là ngũ hành nạp âm sủa năm sinh sinh cho là tốt nhất.

Vậy kết luận nào là hợp lý?????

..

Bây giờ xét quan hệ Mệnh, Cục, Sao thủ mệnh

- Truyền thống thì cho rằng Mệnh đại diện cho đương số nên Mệnh sinh Cục thì tốt, từ đó triển khai ra.

- Sau đó xét đến quan hệ Mệnh và Sao thủ mệnh (cao cấp hơn nữa là sao Bản mệnh, nghĩa là đương số ăn vào sao này, sao này quyết định tính cách, vận hạn, phúc phần của đương số).

- Tuy vậy, điều này cho ta nhiều nghi vấn. Việc xét Mệnh (theo ngũ hành nạp âm năm sinh) thì rất khó để cá biệt hóa giữa người này với người kia, nghĩa là rất nhiều người sinh cùng một năm - có chung Mệnh. Nếu ta xét Cục thì tính cá biệt sẽ cao hơn (5 cục cho một Mệnh).

- Xét quan hệ Mệnh Cục Sao Thủ mệnh, nếu lấy mô hình Thiên-Địa-Nhân của người xưa thì Mệnh ứng với Thiên mang tính bao quát, toàn thể chung cho nhiều người (mọi người đều sống trong vũ trụ và có chung một vũ trụ - Thiên), mô hình tương ứng trong Tử vi chính là Mệnh (nhiều người chung một Mệnh).

- Khi xét đến Cục, là ngũ hành nạp âm của cung an Mệnh. Nếu xét sự tương ứng với vũ trụ thì cung an mệnh chính là Trái đất, nơi mọi người sinh sống. Nếu dùng mô hình Thiên-Địa-Nhân ta có thể coi Cục tương ứng với Địa.

- Phần còn lại là Nhân chính là sao thủ Mệnh.

Khi đã chấp nhận mô hình Thiên-Địa-Nhân ~ Mệnh-Cục-Sao thủ mệnh thì sẽ có một số kết luận sau dựa trên thuyết Âm dương-Ngũ hành:

- Quan hệ tương sinh là tốt. Tốt nhất là Thiên sinh Địa, Địa sinh Nhân. Đúng theo quy luật tự nhiên

- Quan hệ hòa (cùng hành) cũng tốt. Không hỗ trợ cũng không hại nhau. Đây là trường hợp ổn định nhất, dễ đạt trung dung.

- Trường hợp khắc thì Thiên khắc Địa, Địa khắc nhân là tệ nhất.

Nếu mô hình này đúng thì cho thấy rằng nếu mệnh tương sinh với Cục và chính tinh thì cá nhân có thiên thời, địa lợi, do đó thuận lợi cho mọi việc. Ngược lại, bị khắc thì phải Nhân định thắng Thiên (chẳng ai nói nhân định thắng Địa cả. Muốn thắng Địa chắc phải nghiên cứu Phong thủy.) Do vậy những ai có cá tính mạnh mẽ (sao thủ mệnh sát tinh, hãm càng tốt) thường lại hay muốn nhân định thắng thiên.

..

Hoàn toàn đúng! Thuyết tvn cũng có quan điểm tương tự. Đối với cá nhân con người,tức đ/s thì Thiên mệnh (nạp âm ), biểu hiện qua hai vòng Lộc Tồn và Thái Tuế là Tài Thiên. Cục, biểu hiên qua Vòng Tràng sinh là Tài Địa. Chính tinh thủ mệnh,biểu hiện qua vòng Chính tinh là Tài Nhân.

Mô hình tam tài này là tổng quát và đúng đắn nhất!

Vậy mỗi con người về thể xác và tinh thần có thể coi như có tam tài,tam LỚP.

Và tương quan giữa các Tài các Lớp không đơn giản như thế này:

Mỗi cá nhân con người là sự đồng điệu của tam tài,tam lớp!

Khi hoàn cảnh bên ngoài phát sinh sinh hay cùng ngũ hành với Tài Thiên của ta thì ta nói đắc Thiên thời,với Tài Địa của ta thì ta có Địa Lợi,với Tài nhân của ta thì ta có Nhân Hòa.Và ngược lại.

vài dòng chia sẻ.

tvn

Việc hãm của chính tinh là rất cần thiết trong trường hợp Mệnh khắc sao thủ mệnh. Điều này cho thấy cá nhân dám đứng lên chống lại số phận (còn nếu chính tinh đắc địa thì thuận lợi rồi, đâu còn động lực để đấu tranh với ngoại cảnh). Tuy nhiên mấy ai nhân định thắng thiên đây? Người thắng sẽ làm quan to (thành công rực rỡ)

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý

(Bài viết Whitebear, Atmao75, ThienA)

Câu này hiểu rốt ráo như thế nào?

Mệnh đóng vào cường cung là cường theo ngũ hành địa chi cung viên hay cường theo ngũ hành cục?

Nếu mệnh không đóng cường cung thì có cần xem kỹ lẽ chế hóa không?

Quả là nan giải!

..

Câu hỏi rất hay. Cũng vừa hay, tôi cũng có quan tâm và đang thực hiện việc bình chú lại các câu phú quan trọng trong toàn thư.

1-Trước hết, việc đầu tiên chúng ta phải đặt ra, đó là mối quan hệ của Cục, Tinh Đẩu và Mệnh. Các đối tượng này, dựa trên quan hệ Mệnh Cục phân ly hay Mệnh cục kết hợp, mỗi cái đưa tới một trường phái tử vi nam phái khác nhau.

2-Trên quan điểm kết hợp phi hóa bắc phái và phép hội sao nam phái trên nền lưu cục, tôi cho rằng câu phú trên đúng nhưng chưa đầy đủ, theo nghĩa nên bổ sung thành

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa phi tinh chi lý

Tức là, đối với cường cung, phải khảo sát cả tương tác phi tinh lẫn tương tác tinh đẩu một cách cẩn thận.

Lý do, khi một đối tượng tổng quát (bao gồm mệnh) ngụ tại một cường cung đủ mạnh, thì tương tác của nó đối với các đối tượng khác sẽ rất nhạy cảm. Chính vì thế, một sát tinh không được chế hóa, hoặc một phi tinh định hướng cách cục sai hướng, sẽ đưa tới sự sai khác về kết quả rất lớn.

3-Cường nhược của Tứ hóa, theo lý thuyết chính huyền sơn nhân, dựa trên nền tảng của cục.

...

Trên topic Cục, báo HoaAn có nói Tọa là vị trí của Đế tọa, như vậy Mệnh Tọa Cường cung có thể hiểu là phải xét Mệnh, Cung có sao Tử Vi và Các cường cung như Phúc, Tài, Quan...???

..

Hay.

Đúng là tọa, còn có thể được hiểu là đế tọa.

Và thực sự, sử dụng ngôi tử vi định cường nhược cho tài nhân thông qua phi hóa bắc phái cũng hoàn toàn không sai.

..

Tuy nhiên cũng có người hiểu rằng, khi xem vấn đề gì cần định cung trọng điểm (cũng có thể gọi là cường cung) sau đó là dùng vế thứ 2.

Cách hiểu 1: Mệnh, Tọa, Cường cung hoặc Cách hiểu 2: Tìm cung trọng điểm!

Không hiểu thực sự ý tác giả là gì?

..

Tinh Lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.

Vậy thử hỏi "tinh lâm nhàn hãm" thì quan cái gì?

Sinh khắc chi cơ ở đây là sinh khắc ntn? Sinh khắc ngũ hành địa chi cung? Ngũ hành cục cung? Ngũ hành năm sinh theo chi? Ngũ hành cục?

...

- Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.

Đắc hãm tinh đẩu-->ngũ hành

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.

ngũ hành--->Đắc hãm+ tính lý tinh đẩu

Vậy đây là tương tác của lý thuyết cung khí và lý thuyết cách cục.

..

- Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.

Nếu tách hai câu này ra, thì còn có thể hiểu lầm cường cung là cung trọng điểm; Hay tọa là đế tọa. Nhưng khi hai câu đi cạnh nhau, thì ý nghĩa của nó trở nên rất rõ ràng.

...

Khi mệnh là cường cung, thì cung nhị hợp sẽ là nhược cung và ngược lại. Cường hay nhược chẳng phải do Đế tọa hay tinh đẩu.

Sát khí đi cùng cường cung mới thực sát. Sát tinh đi cùng nhược cung như nước động trên mặt, họa đến chóng qua, hư nhiều hơn thực.

Họa lớn là sát khí nằm cường cung. Cải cách kiểu không kiếp đóng cường cung sẽ triệt để và quyết liệt vì đi tận gốc rễ. Không kiếp hay sát khí đi cùng nhược cung, cách mạng từ ngoại vào nội, nhiều khi chỉ động tới da thịt, không tới cốt tủy.

Tương tự với cách dụng hóa khí, hóa khí cường cung như đi tận tủy cốt, hóa khí nhược cung nhiều khi hời hợt, giả cách.

Chính vì mất gốc cường nhược nên tử vi dễ kiểu 50/50 khi cân họa phúc.

...

Có những ghi chú hiện hiện giữa lá số tử vi, chẳng qua hậu học không thèm dùng tới thôi bạn ah, trong đó cường cung/ nhược cung là 1 trong các số đó

Đả thông được mảng này sẽ phân tách rõ địa bàn, nhị hợp ( nhị hợp địa bàn và nhị hợp tinh đẩu), và nguyên lý thăng giáng của khá nhiều tinh đẩu.

..

Cái này dùng xem tiểu hạn 1 năm thấy ngay tinh đẩu tương tác thật giả, nên mỗi lá số có cả trăm sự kiện tinh tế để xem, mỗi sự kiện tách thành 2 lớp nữa.

Còn về lý thuyết thì chứng minh không khó, vì các nguyên lý rời rạc đã có, nhưng không được khái quát hóa cho cả chuỗi hệ thống nên không thể nhận ra. Tôi chỉ nhận ra hệ thống này vài năm trước khi xem tiểu vận, nhị hợp, hóa khí đả thông nhị hợp tinh đẩu khi xem vận.

Ví như Nhờ kỹ thuật đơn giản này, ta biết năm nay Bính Liêm kỵ và Thiên đồng hóa lộc, khi nào cây thối tại ngọn, hay gieo hạt phân tán tận gốc. Cái này quyết định cơ hội thành bại, xu hướng tìm kiếm cơ hội phát triển, hay củng cố hệ thống từ đâu.

Thường chỉ ứng dụng nhiều cho quản trị cá nhân, hay hệ thống do cá nhân quản trị, không thích thú lắm để bói toán

..

Có vẻ như ThienA đang dùng Dịch lâm của Tiêu Diên Thọ đời Hán vào luận tam hợp- tam hội trong xem hạn tử vi.

Tam bàn thiên địa nhân

(Bài viết Brian, tigerstock68)

Xem niên hạn có nhiều trường phái xem lưu cung khác nhau, nhưng thông thường là kết hợp cả ba cung lưu niên và các lưu cung tương ứng

Nhiều tác giả chỉ xét Tiểu hạn, còn tất cả các cung khác cố định, trong khi nhiều tác giả khác sử dụng các phép lưu cung sau:

1-Lưu Niên Đại Vận, được coi là lưu mệnh, và sau đó lưu thêm tất cả các cung còn lại, bởi Tiến Sĩ Vuivui, còn gọi là Nhân Bàn. Theo đó, đây là cung nói về "kết quả của năm đó".

2- An theo Tiểu Hạn được coi là Lưu Mệnh, và qua đó an Lưu Phụ, Lưu Thê.. còn được gọi là Thiên Bàn. Có thể nói, đây là nghiên cứu con người, là diễn tiến cho bản thân. (Tuy nhiên, rất nhiều học giả phản đối cách xem lưu cung theo cách an tiểu hạn, dù rằng chính cung tiểu hạn vẫn được áp dụng.)

3-Cung An Lưu Thái Tuế, được coi là lưu mệnh, sau đó an ra các lưu cung khác. Người ta còn gọi là Địa Bàn vì cung cố định. Điển hình nhất của trường phái này là phái Tử Vân của Đài Loan. Có thể nói, đây là nghiên cứu cách trời đất ưu đãi ta, xem những biến chuyển cực đoan của vận mệnh, vì thái tuế có nghĩa là trời.

Kết hợp các trường phái lưu cung thì:

Thiên bàn - Lưu Niên Đại Vận > kết quả năm

Nhân bàn - Lưu Tiểu Hạn > diễn tiến năm

Địa bàn - Lưu Thái tuế > thời thế ( trời đất ưu đãi )

..

Nếu việc kết hợp ba cách xem niên vận ( vận 1 năm ) ứng với nghiệm lý thực tế:

Địa bàn ( Cung Lưu Thái tuế ): thời thế, hoàn cảnh

Nhân bàn ( Cung Tiểu hạn ): diễn biến vận hạn ( ứng xử bản thân )

Thiên bàn ( Cung Lưu Đại vận): ứng kết quả

Thì ý nghĩa Thiên bàn - Địa bàn - Nhân bàn ( an theo lá số nguyên thủy cũng tương tự)

1. Thiên bàn ( lá số nguyên thủy ): cho biết sơ bộ cuộc đời

2. Địa bàn ( Cung mệnh An tại Thân ): cho biết thời thế, hoàn cảnh

3. Nhân bàn ( Cung mệnh An tại Phúc ): diễn biến, ứng xử của đương số

...

Trang 98 Tử vi đấu số toàn thư- Tập 1 ( Nhà xuất bản Thời đại ) viết

“Thiên Bàn: Là sơ đồ sao Tử vi được sắp xếp căn cứ vào ngũ hành nạp âm của cung an Mệnh, đây chính là loại lá số chủ yếu trong mệnh lý Tử vi Đẩu số, thể hiện các thông tin về tính cách, dung mạo, sự nghiệp, tài vận, hôn nhân, phú quý, họa phúc, yểu thọ trong một đời người cùng các điềm triệu tiên thiên về lục thân như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái.

Nhân bàn: Đây là sơ đồ động thái về sự biến hóa của các vận hạn như đại hạn, tiểu hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật. Nhân bàn phản ánh các thăng trầm trong các giai đoạn của đời người.

Địa bàn: Là sơ đồ bố cục sao căn cứ vào ngũ hành nạp âm của cung Thân. Địa bàn thể hiện các thông tin mang tính tiên thiên, đồng thời phản ánh được về căn khí tính tình ngầm ẩn của con người. Ví dụ một số người có được địa vị xã hội cao, nhưng lại có những hành vi bất lương đê tiện, đó là do họ có cung mệnh thiên bàn tốt nhưng cung mệnh địa bàn lại xấu “

Như vậy:

Thiên bàn: Lá số nguyên thủy

Nhân bàn: Lá số lưu vận

Địa bàn:: Lá số cung mệnh an tại cung thân

...

Ls Thiên bàn của trung châu nó chính là cái lá số của các bạn đang có

Nhưng phái này có thêm địa bàn và nhân bàn. Vậy đầu tiên ta hãy tìm hiểu và bàn luận xem 2 cái lsnày nó nói lên cái gì đã.

Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.

Tử vi của "Thiên bàn" là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số., thì xác định được cung vị của Tử Vi.

Tử Vi của "Địa bàn" cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó "Địa bàn" lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của "Thiên bàn", căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.

Sau khi đã biết "Địa bàn", ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại "Địa bàn" rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở "Thiên bàn" tiên thiên lại không cao quý cho lắm.

Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở "Thiên bàn" phần nhiều là sao xấu, nhưng ở "Địa bàn" lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.

Các sao của "Địa bàn" cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.

Lục tiên sinh chủ trương dùng "địa bàn" để tìm "căn nguyên tiên thiên". Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng "địa bàn" để tính "giao thế thời" thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.

Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành "tam bàn" Thiên - Địa - Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong "giao thế thời".

Liên quan đến phương pháp an sao ở "địa bàn" và "nhân bàn", điều mà xưa nay vẫn được coi là "bí truyền", thực ra rất là đơn giản.

Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là "Thiên bàn", rồi lấy cung Thân của "thiên bàn" đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là "địa bàn".

Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của "thiên bàn" đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là "nhân bàn", nói một cách chính xác thì đay là "nhân bàn của địa bàn".

Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì "thiên bàn" và "địa bàn" hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì "địa bàn" và "nhân bàn của địa bàn" hoàn toàn giống nhau.

Chú ý phân biệt, "Thiên bàn" - "Địa bàn" - "Nhân bàn", chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.

Cục

(Bài viết của anh Whitebear)

Trong cấu trúc của tử vi đẩu số, cục là khái niệm đóng vai trò trung tâm. Trong nền tảng của lãnh vực, nó là cơ sở để nghiên cứu cấu trúc cách an sao và hình thành lá số tử vi, số của cục có thể coi là việc hiện thực hóa khí tiên thiên trong nền tảng hậu thiên. Từ đó, ta có thể đưa đến lý thuyết về vòng trường sinh.

Xét bản chất, thì cục và Mệnh là hai yếu tố chả có liên quan gì đến nhau. Khi ta xét tương tác giữa Cục và Mệnh, thì cái gì sẽ quyết định độ số của cách cục, cái gì sẽ quyết định tính khả dụng của cách cục?

Chính vì vậy, do không hiểu bản chất vấn đề rất nhiều người đã phạm phải sai lầm khi thực hiện lối nghiên cứu xôi thịt và chuồn chuồn điểm nước, châu chấu đá cột tre, đó là mang cục so với mệnh, rồi phân độ số xem cục khắc hay sinh mệnh.... rồi tự hỏi tại sao nó không ứng.

Nền tảng hình thành của Tứ Trụ là Ngũ Hành Đơn, nhưng Nền Tảng của Tử Vi lại rất gần với Ngũ Hành cổ, cụ thể hơn là Ngọc chiếu định chân kinh.

Cùng một cách cục Tử Vi Tý Ngọ, nhưng nó sẽ ứng với các loại cục khác nhau, như Giản Hạ Thủy, Phích Lịch Hỏa, Bích Thượng Thổ, Tang Đố Mộc, Hải Trung Kim. Và đây là các yếu tố rất quan trọng để luận mệnh.

Cùng là một cái vỏ, nhưng ruột sẽ rất rất khác nhau. Cùng thì anh tinh nhập miếu, nhưng người thì hùng dũng hiên ngang, người thì kéo lê mã tấu kiếm cơm nơi bến xe.

Địa chi sẽ quyết định miếu hãm, nhưng tương tác ngũ hành nạp âm mới thực sự là vai chính diễn ra của trò chơi. Tiếc rằng người ta cứ nhìn thấy mặc quần áo vest thì khán là nhà giàu, cứ thấy mặc quần xà lỏn rồi khán là nhà nghèo, rồi băn khoăn không hiểu vì sao vớ phải chàng sở khanh.

...

Một vấn đề thứ hai, sẽ giải quyết ra sao với các lá số có cùng Tử Vi, nhưng khác tứ trụ. Hiển nhiên là, tử vi được xây dựng dựa trên SỐ ngày âm lịch, còn Tứ trụ được dựa trên CAN CHI ngày. Vì vậy, sẽ có 2 lá số tử vi khác nhau 60 năm, nhưng số phận hoàn toàn khác nhau.

Ngoài ra một khía cạnh quan trọng, đó là khi khảo sát lá số tử vi bằng các kỹ thuật của Lý Thuyết Tử Vân, thì các sao ngày được một số người không biết bỏ qua. Ngoài ra, có một số chuyện sinh ra khi các cặp sao Quang Quý Thai Tọa trùng nhau, mặc dù tứ trụ khác xa nhau. Chúng ta dễ thấy, có một nền tảng rất lớn nằm sau những vấn đề này.

Cách giải quyết vấn đề nằm ở một số kĩ thuật bí mật của tử vi, để khán Can Chi Ngày và các tương tác giữa chúng. Các kĩ thuật này được lan truyền trong nhiều hệ phái khác nhau, nhưng không được ghi chép vào các sách vở tử vi lan tràn trước năm 1975.

Các tương tác nạp âm của 4 trụ và cục, sẽ đóng vai trò nền tảng của tử vi.

Ngay trong VDTTL, cũng có thể thấy ông có xét tương tác giữa 4 trụ, cụ thể hơn là trong vòng 2 trang đầu tiên của phần luận giải lá số. Tuy nhiên, mọi thứ bị cắt ngắn đến mức tối thiểu, và bị bỏ qua bởi đai đa số tử vi gia.

Quan sát kĩ trong những gì diễn ra ở tử vi công cộng, theo nghĩa ai cũng có thể truy cập được nếu biết internet, và biết đọc sách bán ngoài chợ, ta có thể nhận thấy dấu vết và hình dáng của các kĩ thuật này phảng phất đâu đây trong các bài luận tử vi của các cao thủ.

1-Bác Indochine với khẳng định, trước 30 tuổi xem mệnh, sau 30 tuổi xem cục. Đây là một hệ quả nhỏ, và một mẩu trực tiếp của một bức tranh lớn.

2-Đã từ vài năm, bác TBGG đã nắm được một phần lớn của kĩ thuật này, áp dụng với tháng sinh.

3-Alex cũng đã có nhận thức về tương tác này, khi nhấn mạnh về độ số khi cùng/khác tính âm dương của mệnh và năm sinh, bản chất là tương tác về tính âm dương của NH mệnh và cục.

4-Trong các kĩ thuật của một số lộ phái, người ta sử dụng CỤC để luận tính cách. Ví dụ, thủy cực vương thì sẽ chủ trí.....

5-Còn nhiều nữa, tôi tạm thời đói quá, đi chơi, uống bia, nghe nhạc và uống sữa.

...

Khi nghiên cứu về việc khán vận hạn ở mức độ hạn ngày, dễ thấy nền tảng đó xuất hiện một cách dễ dàng, khác hoàn toàn với việc nghiên cứu vận tháng và vận năm.

Theo tôi được biết, nhiều người đã tiếp cận đến việc giới thiệu các kỹ thuật của Lục Hào và Lục Nhâm Đại Độn vào trong tử vi đẩu số. Trong đó, mang ra diễn trên diễn đàn thì đã xuất hiện một số người dụng nó trên nền của Tử Vi Bắc Phái Phi Tinh. Một số người khác thì có sử dụng tính thần sát để luận khán. Có một số người cũng đã biết dụng đến tương tác ngũ hành đơn để luận đoán. Nhưng tất cả đều dấu chiêu, có điều tôi nhận thấy rất rõ nét.

Ở mức độ tiên thiên, cụ thể hơn là bổ sung cho kỹ thuật của Tiên Thiên tứ hóa phi tinh kỳ phổ, thì Tiên Tông Phái cũng sử dụng chúng để định độ số cho tứ hóa. Nên các cách cục kiểu nghịch thủy kị, tuyệt mệnh kị... sẽ hoàn toàn khác xa nhau về kết quả, dù là cùng một hình phú cũng như tương tác phi cung.

Một tháng có ba mươi ngày. Không mất tính tổng quát, giả sử ngày 1 là ngày giáp Tý, nên ngày 11 là Giáp Tuất, ngày 1 tháng sau, nếu tháng có 30 ngày thì sẽ là Giáp Ngọ. Vậy sau 2 tháng, vị chi tuần giáp sẽ quay trở lại.

Đối với các tháng thiếu, gồm 29 ngày chẳng hạn, thì các sai số sẽ được add up lại, và hình thành nên sự vận hành của tuần giáp trên 12 cung. Vì vậy, một yếu tố khác sẽ cần phải đặt ra để correct các sai số này, bổ sung vào Lưu mùng một.

Cũng sẽ là một thiếu sót rất rất nếu quên không đề cập tới các kỹ thuật của Bảo Lộc Phái. Thay vì việc nghiên cứu lý thuyết khí của tinh đẩu và lý thuyết cung khí, họ sử dụng trực tiếp vị trí Thiên Lộc của Can của ngày sinh để luận đoán, đồng thời Nạp lục thân vào trong lá số.

Nhìn bề ngoài, nó hoàn toàn tương tự với việc Nạp lục thân vào lá số dựa trên nền tảng ngũ hành nạp âm Mệnh mà bác Indochine đã từng tương tự. Tuy nhiên, vì đây là một phái bí truyền không dạy ra ngoài, nên tôi không có một chút kiến văn nào sâu hơn về kĩ thuật của họ.

Nói chém gió vậy thôi, nhưng tôi đã quên hết tử vi, không có bất cứ khả năng gì trong việc luận lá số, và không có khả năng để trả lời mọi thắc mắc. Lâu lắm rồi, tôi không xem lá số nào.

Nên có gì sai sót, mong các bạn chỉ giáo cho tôi, tôi xin được lắng nghe ý kiến. Mọi người trao đổi học thuật, còn tôi xin được ngồi yên xem xét

...

Thái tuế nhập quái phái, nói rằng, khi ta khảo sát sự tương tác giữa hai lá số, ta có thể nhập địa chi của một người A vào lá số của người B kia để coi như cung mệnh ẩn, và dụng thiên can của A để an tứ hóa lên lá số của B để hiểu tương tác giữa hai lá số.

Tùy vào ngộ tính và mức độ lãnh hội, mà ta có các biến cách khác nhau. Người ta có thể dễ dàng kết hợp lý thuyết phi yến quỳnh lâm vào thái tuế nhập quái, đồng thời sử dụng trong phi vận tử vi đẩu số

Một trong những analog của nó, là lý thuyết lưu cung, khi ta biến thời gian trở thành không gian thông qua biến đổi poincare'. Những cái này là tầm thường, mọi người có thể đọc qua các bài viết về lý thuyết Tử Vân do bác VDTT đề cập, và tùy duyên mà nắm.

Hình ảnh

Tuy nhiên, một trong những biến cách thú vị nhất của kỹ thuật này, đó là sử dụng CỤC để khán hôn nhân có tốt hay không. Đây là một kĩ thuật đã biết tới từ lâu trong sách vở.

Cục vì là cơ sở để an 14 chính tinh, nên là cơ sở chung cho cả Bắc Phái lẫn Nam Phái Tử Vi Đẩu Số. Tuy nhiên, vì cơ sở luận đoán của hai phái khác nhau, nên cách sử dụng CỤC cũng khác xa nhau.

Đối với Tử Vi Nam Phái, bỏ đi những thành phần râu ria không kiểm chứng được, thì quay đi quay lại chỉ có xoay quanh các thứ:

  • 1- Lý thuyết về Thập Nhị Huyền Đồ, tức là 144 cách cục, và các suy rộng của chúng, ví dụ như Tử Vi Tinh Quyết của Mr Chi. Đây có thể coi là nền tảng cơ bản của Nam Phái, nhưng chỉ là nghiên cứu về vỏ ngoài của bộ chính tinh, tức là Hình Phú của chính tinh.
  • 2-Lý thuyết về tính Nam và Bắc đẩu của tinh đẩu, và các chế hóa ngũ hành. Đây là cơ sở cơ bản của phép Hội sao của Nam phái.
  • 3-Lý Thuyết về Cung Khí, nói về khí của cách cục. Theo tôi, đây là đỉnh cao của Nam Phái, là cái dấu nghề của các môn phái và là chủ đề xuyên suốt topic này.
  • 4-Lý thuyết về cách cục, đây là cái toàn tạp thư, được lan truyền trong dân gian, gồm hàng ngàn hàng vạn câu phú, được viết bởi đủ mọi thành phần xã hội, giang hồ thuật sĩ. Đại đa số nó không hề có cơ sở khoa học, chỉ có cơ sở nghiệm lý (trên vài trường hợp rồi chém) nên được coi là cục gân gà ai ai cũng phải nhá và ai ai cũng ghét. Bỏ không đọc thì chả biết khán cách nào, còn cả đời mà học thì chỉ tốn thời gian, mà thành tựu không chắc đã có bao nhiêu. Có thể coi nó là vỏ của cách cục

Nhiều người dành vài chục năm cuộc đời chỉ có luyện đi luyện lại đống phú, mà kĩ thuật thu được chả được bao nhiêu, xem tính cách chung chung hoặc tương lai 30 năm sau thì rất giỏi, nhưng cứ hỏi hạn quá khứ sắc nét hoặc hạn có kiểm chứng được thì lại ú ớ rồi lảng sạch.

Tử Vi Nam Phái, dù đi kiểu gì đi nữa, vẫn cứ quay về nền tảng là phép hội sao để ứng dụng bốn luận điểm trên. Nguyên lý cơ bản của phép hội sao thì chắc là ai ai cũng biết, nằm ngay trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, gọi là Tứ Yếu Thập Dụ Bát Pháp. Ta có thể thấy, dựa vào việc cục của cung mà đưa tới các kết quả khác nhau về phép hội sao.

Tuy nhiên, vì mức độ lãnh ngộ có hạn, nên nhiều người tự sáng tác, sinh ra các học thuyết quái dị, xa rời nguyên lý kiểu như mệnh VCD thì xem cung thiên di, cung di là đối thủ..... Những trường hợp đó, tôi xin miễn bàn ở đây, vì chắc chắn sẽ có nhiều người ở đây phật ý.

Ngược trở lại, cơ sở của Tử Vi Bắc Phái Phi Tinh lại hoàn toàn không dựa trên phép hội sao. Kỹ thuật của nó dựa trên ba khái niệm.

  • Điểm: "Tử vi đấu sổ 12 cung vị: các cung, ngũ hành, tinh diệu ở cung tọa mệnh gọi là "Điểm",
  • Tuyến: lưỡng nghi (Âm Dương) tức là "Tuyến",
  • Diện: tam phương, tứ chính, tứ hóa tức là "Diện".

Theo "Điểm Tuyến Diện" mà xét biến hóa sẽ hé mở mệnh bàn diễn biến vô cùng vô tận,.. chính là "Vô tự thiên thư" (sách trời không chữ)! "

Nói thì nhiều, nhưng đây là cách tôi hiểu về lãnh vực này, trong đó phép lưu cung, phi vận... có thể coi là các phép quay trong không gian ba chiều.

Câu hỏi: Cục sẽ nắm vai trò gì trong vấn đề này. Có phải nó sẽ quy định hình dáng của các đối tượng hình học hay không, chắc mọi người đều đã đoán ra.

...

Như đã đề cập, bản chất của lý thuyết phi vận tử vi đẩu số, đó là phép quay trên không gian 12 chiều và tương tác tứ hóa giữa các vùng không gian khác nhau. Tùy vào cách các bạn tiếp cận mà có các kiến giải khác nhau, ví dụ như tôi, tôi hiểu lý thuyết giống hệt lý thuyết M và lý thuyết dây.

Cùng một kĩ thuật, cụ thể hơn là phép quay, khi áp dụng vào các trường hợp khác nhau, sẽ sinh ra:

  1. -áp dụng cho phạm trù Địa, người ta gọi là Thái Tuế Nhập Quái.
  2. -áp dụng cho phạm trù Nhân, tức là cung chức, người ta gọi là kỹ thuật mượn cung.
  3. -Áp dụng cho phạm trù Thiên, người ta gọi là phi vận tử vi đẩu số.

Vậy cục sẽ đóng vai trò gì ở đây? Tôi hiểu, tương tác tứ hóa giống như là các graviton được trao đổi trên các M-brane, và cục-hiểu theo nghĩa nào đó chính là đo độ cường nhược của chúng.

Hình ảnh

Ví dụ, lấy vợ, dùng thái tuế nhập quái biết là vợ hại mình. Nhưng, hại tới mức nào, cãi cọ hay chửi, hay túm tóc lên gối tát tới tấp, ấy lại là chuyện khác.

Tất nhiên, các chuyên gia cao thủ tử vi nghiên cứu theo trường phái chuồn chuồn điểm nước, ném đá ao bèo sẽ không quan tâm tới chuyện này. Bỏ cục và vòng trường sinh đi cho nhẹ lá số, xe máy bỏ hết phanh, thắng, đèn pha, cốp, bảo hiểm xe, túi khí... đi chạy cho nó nhanh, bán bớt áo cứu hộ, phao đi để có tiền uống rượu cho sướng, còn ai chết đuối là có số.

Lý thuyết Cung Trọng Điểm

Cung vị trọng điểm tức là cung vị quan trọng nhất. Điều này nghĩa là, khi suy đoán một sự kiện nào đó, chúng ta sẽ phát hiện trong số một vài cung vị liên quan đến nhau, sau khi nhập vào một số điều kiện/dữ kiện đã biết, luôn có một cung có ảnh hưởng mạnh nhất. Trong trường hợp này, chúng ta không cần thiết phải chú ý đều tới tất cả các cung vị (bản mệnh, đại hạn, lưu niên) mà chỉ cần chú ý tới “cung trọng điểm” là được. Sau khi tìm được cung trọng điểm, chúng ta chỉ cần chú ý tới các đặc tính của nhóm sao trong cung đó, kết hợp với việc xem xét tác động của vận hạn, tứ hóa đối với cung vị này là có thể suy luận chiều hướng phát triển của nó về sau. Nhưng dự kiện cần thiết phải nhập vào, bao gồm:

  1. năm tháng xảy ra sự kiện hoặc năm tháng xảy ra biến động, năm tháng kết thúc sự kiện.
  2. năm sinh của người liên quan (cung vị nhập quái).
  3. ngày tháng xảy ra những sự kiện đặc biệt.

Dưới đây chúng tôi xin nêu 3 ví dụ để tiện suy ngẫm.

Ví dụ 1: Giả sử người A, ở đại hạn Canh Tý (năm Giáp Tuất) được tuyển vào công ty hiện đang làm việc, nay thấy không hài lòng lắm với công việc, muốn tìm một công việc khác và muốn biết: có cơ hội đổi việc không? con duyên phận với công ty cũ hay không?

Từ các dữ liệu người A đã cung cấp ở trên:

  1. đại hạn Canh Tý năm Giáp Tuất vào công ty
  2. lưu niên Bính Tý công việc không thuận lợi,

Sau khi vận dụng vào lá số, chúng ta có thể thấy, cung trọng điểm của sự việc này là cung Thìn. Lý do như sau:

1. Đại hạn Canh Tý, bước vào cung sự nghiệp tiên thiên, cung đại hạn sự nghiệp tại Thìn, có can Canh Vũ khúc hóa quyền để cát hóa.

2. Lưu niên Giáp Tuất vào làm công ty hiện thời, can Giáp tạo thành Liêm Trinh Hóa Lộc, Vũ Khúc Hóa Khoa, cùng nhập cung Thìn.

Giải thích: Ngoài 4 hóa tinh (lộc, quyền, khoa, kị) trên lá số tiên thiên, thiên can của đại hạn và lưu niên cũng tạo ra tứ hóa của riêng nó. Vào năm Giáp Tuất, lưu niên tứ hóa của can Giáp chính là Liêm trinh hóa lộc, Phá quân hóa quyền, Vũ khúc hóa khoa, Thái Dương hóa kị).

3. Năm vào công ty cũng vừa vặn là cung đối (đối xứng?) với cung đại hạn về sự nghiệp, Thìn.

Giải thích: Năm vào công ty là năm Giáp Tuất, lưu niên ở cung Tuất (lấy các cung địa chi để xem), Tuất và Thìn là hai cung có quan hệ đối xứng, sức ảnh hưởng sẽ lớn hơn).

4. Lưu niên Bính Tý bước vào cung vị đại hạn, sự nghiệp lưu niên cũng ở cung Thìn.

5. Công việc không thuận lợi, về lý phải do ảnh hưởng của hóa kị, lưu niên Bính Tý chính là lúc có Liêm Trinh hóa kị thủ tọa cung Thìn.

Sau khi nhập các dữ kiện như trên, chúng ta có thể thấy rõ ràng, cung Thìn là cung trọng điểm đối với công việc hiện tại của người A. Nếu chúng ta xem xét tính chất của các sao chính tinh phụ tinh (nguyên văn: tam phương tứ chính) tại cung Thìn cũng như những biến đổi theo lưu niên trong tuơng lai tại cung này thì có thể luận ra người A có duyên phận như thế nào đối với công việc hiện nay. Khi tim ra được cung trọng điểm, chúng ta sẽ không còn phải phân vân: rốt cuộc nên suy đoán dựa trên cung sự nghiệp tiên thiên (quan lộc?), cung đại hạn sự nghiệp tiên thiên, hay cung sự nghiệp lưu niên. Ba cung này ngộ nhỡ không thống nhất thì có phải sẽ khiến chùng ta hao tổn tâm trí vô ích?

Ví dụ 2: Người B muốn hỏi về chuyện tình cảm trong tương lai với bạn gái hiện thời. B cho biết, hai người quen nhau năm kia (Ất Hợi), bạn gái sinh năm 57 (>1968, tức Mậu Thân). Từ các dữ liệu B cung cấp:

  1. Hai người quen nhau năm Ất Hợi.
  2. Bạn gái sinh năm Mậu Thân, nhập vào lá số của B, chúng ta sẽ tìm ra được cung trọng điểm đối với chuyện tình cảm này là cung Thân.

Lý do như sau:

  1. Hiện nay là đại hạn Canh Tuất, can Canh Thái Dương hóa lộc do Tý hội nhập đại hạn phu thê cung Thân, khiến nó được cát hóa (trở nên tốt lành).
  2. Năm kia (Ất Hợi) quen nhau, can Ất Thiên cơ hóa lộc cũng do cung Dần hội nhập cung Thân.
  3. Bạn gái sinh năm Mậu Thân, đem nhập vào lá số, thủ tọa cung Thân của lá số.
  4. Vào đại hạn khi quen nhau cũng như năm quen nhau, thiên can hóa lộc ảnh hưởng mạnh nhất là cung phu thê của đại hạn còn cung phu thê tiên thiên cũng như lưu niên đều không có biểu hiện rõ ràng. Thêm vào đó, cung vị nhập quái của bạn gái cũng là cung Thân. Vì thế, chúng ta nên chọn cung Thân là cung trọng điểm để đi sâu phân tích.

Chọn được cung trọng điểm là cung Thân rồi mà trong quá trình luận giải về tình cảm giữa hai người, chúng ta không lấy cung Thân làm chỗ dựa để phán đoán, lại dựa vào cung phu thê tiên thiên của lá số, hoặc cung phu thê lưu niên thì kết quả e rằng kết quả sẽ sai lệch ngàn dặm. (Bởi vì, năm Ất Hợi, cung phu thê lưu niên tại Dậu, đại hạn Thiên đồng hóa kị cũng như lưu niên Thái âm hóa kị song kị giáp (giáp nhau?), cung phu thê tiên thiên tại Tuất, có đại hạn Thiên đồng hóa kị thủ tọa cũng như tiên thiên Cự môn hóa kị hội ngộ, lưu niên Thái âm hóa kị ảnh hưởng liên tục.. Trong cảnh cung phu thê tiên thiên và lưu niên đều bị ảnh hưởng của Kị, rất khó xảy ra chuyện người B có thể kết được bạn gái.)

Ví dụ 3: Người C vào năm 83 Dân quốc, tức là năm giáp tuất, đặt mua một căn phòng trả góp. Căn phòng này năm đó khởi công năm Bính Tý thì hoàn thành. Người C muốn biết căn phòng này tương lai có tăng giá hay không. Theo những tư liệu người C đã cung cấp ở trên:

  1. Năm 1983, giáp tuất mua nhà.
  2. Căn nhà này năm đó khởi công,
  3. Bính Tý Lưu Niên hoàn thiện.

Từ các dữ kiện này có thể thấy, cung trọng điểm đối với căn phòng này có thể định tại cung mùi với lý do như sau:

  1. Lưu niên giáp tuất cũng như đại hạn giáp thìn, với giáp can thì phá quân hóa quyền, và Tiên Thiên Tử Vi hóa quyền, hình thành hiện tượng song quyền giáp với Vận Hạn điền trạch thì sẽ tự phát sinh tham vọng mua bán bất động sản.
  2. Lưu niên giáp tuất, Can giáp làm thái dương hóa kị, cũng do cung Mão tam hợp với cung Mùi. Sự dẫn động của hóa Kị cũng có thể giải thích cho hiện tượng khởi công. Năm này cũng gặp Lưu Kình Dương.
  3. Lưu niên bính tí, can Bính làm thiên đồng hóa lộc làm đại hạn điền trạch cung Mùi hóa cát (hoàn thành công trình).
  4. Đại Hạn điền trạch cung Mùi vào năm mua nhà trả góp và năm hoàn thành công trình nói chung đều gặp lộc quyền làm cát hóa. Năm bắt đầu khởi công thì cũng có sát tinh hóa kị dẫn động. Vì thế chúng ta nên lấy cung mùi làm cung trọng điểm cho sự việc mua bán nhà cửa này.

Từ suy luận trên có thể thấy, nếu mà sự kiện này không phải là do cung trọng điểm, BỞI VÌ CUNG ĐIỀN TRẠCH TIÊN THIÊN Ở TẠI MÃO, ĐẠI HẠN ĐIỀN TRẠCH Ở TẠI CUNG MÙI, NHỮNG CUNG NÀY TẠI CÁC NĂM TIẾP THEO ĐỀU SẼ PHÁT SINH NHỮNG BIẾN ĐỔI CÓ TÍNH CHẤT KHÁC NHAU.

Từ ba ví dụ trên đây có thể thấy rất rõ giả sử... kỳ thực cung trọng điểm là một phhương pháp suy luận rỏ ràng và đơn giản nhất. Ngoài cái việc chúng ta tránh được việc giải đoán một cách rối rắm

(chú thích, năm n dân quốc tương ứng với năm n+12 theo lịch thông thường)

Từ 3 ví dụ trên đây, có thể thấy rõ, biết vận dụng “cung trọng điểm” là phương pháp suy luận đơn giản và sáng sủa nhất. Nếu không có cung trọng điểm, ngoài việc làm nhiễu mạch tư duy, cũng sẽ thường xuyên gặp cảnh “húc đầu vào đá”. Chỉ cần tìm được cung trọng điểm ở đâu, kết quả ta cần suy đoán, nếu không trúng cũng không quá sai lệch! Trong những phần suy đoán dưới đây, chúng tôi sẽ thử phân tích cách tìm cung trọng điểm.

MUỐN BỎ KHÔNG ĐƯỢC: CHUYỆN TÌNH CẢM CỦA CÔ KHA.

Mấy ngày trước, đồng nghiệp bảo tôi, cô ấy có một người bạn là cô Kha. Cô Kha từng nhờ tôi coi số tuy nhiên khi đó tôi mới chỉ viết một số nét cơ bản về vận hạn sắp tới của cô ấy, giảng cũng sơ lược, nên cô ấy muốn hẹn tôi một dịp nào đó gặp mặt trực tiếp. Cô Kha đang gặp một số khó khăn trong công việc và tình cảm nên mong tôi giúp đỡ, thảo gỡ một số nghi vấn, giải tỏa tâm lý.

Dưới sự sắp xếp của bạn đồng nghiệp, ba người chúng tôi hẹn gặp nhau tại một nhà hàng cà phê sau giờ làm việc ngày thứ bảy. Trong hương thơm của cà phê và tiếng nhạc êm ái, chúng tôi nói chuyện gần ba giờ đồng hồ. Những vấn đề có thể hỏi, cô Kha đều đã hỏi hết. Ngay cả những vấn đề bình thường rất khó mở miệng, cô Kha – con người vốn có tác phong “hào phóng”- hầu như cũng không bỏ qua. Trong quá trình đoán số, cô Kha cũng để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc về tác phong hành xử và cuộc đời của mình.

Khi luận lá số này, chúng tôi thấy cung trọng điểm- cung mệnh chiếm vai trò quan trọng, tổ hợp cách cục của nó cũng rất đặc biệt nên nêu ra để cùng bàn luận.

Ngay sau khi lập xong lá số của cô Kha, tâm lý của chúng tôi đều có phần chùng xuống, cuộc sống của cô ấy dường như rất nhiều màu sắc: tổ hợp cung mệnh có tính “biến hóa”, nếu chúng ta xét thêm cả sự biến hóa của vận hạn thì càng thấy rõ.

Nghe đồng nghiệp nói, cô Kha hiện nay quan tâm hai vấn đề là tình cảm và sự nghiệp nên tôi bắt đầu xem từ vấn đề tình cảm. Sau khi xem một lát, tôi nói với cô Kha: “chuyện tình cảm của cô hẳn là rất phong phú, phức tạp!”

“Cách cục trong lá số tiên thiên là cách cục “đào hoa phạm chủ” Tử Tham hội Thiên hỷ điển hình. Hiện nay, đại hạn ở Kỉ Sửu, can Kỷ Vũ khúc hóa lộc tại đại hạn cung phu thê, Tham lang hóa quyền tại cung mệnh tiên thiên, vận hạn cung phu thê và cung mệnh tiên thiên tại phương tam hợp, lại chịu sự ảnh hưởng của quyền lộc thì chuyện tình cảm rất khó suôn sẻ, đơn thuần.”

“Đúng thế! Mấy năm nay chuyện tình cảm của tôi đúng thực là như vậy. Tôi yêu hết anh này đến anh khác, thấy hợp thì đến, không hợp lại đi. Tuy đã yêu rất nhiều người, cuộc sống sống động muôn màu nhưng tôi không hề có cảm giác an toàn, nghĩa là vẫn chưa tìm được ai thật sự tri kỷ”, cô Kha trả lời tôi.

“Những người cô yêu đại đa số sinh năm bao nhiêu?”

“Trước đây tôi từng đi lại với mấy anh sinh năm 56, 58 dân quốc. Gần đây, tôi yêu một anh sinh năm 52, một anh sinh năm 54 dân quốc.”

Khi nhập các dữ kiện này vào lá số, tôi hỏi cô Kha, có phải cô ấy đã chia tay với người sinh năm 52 rồi không? Dường như cô ấy có duyên hơn đối với người sinh năm 54?

Người sinh năm 52, nếu nhập vào cung mệnh tiên thiên trên lá số của cô, cung vị nhập quái này sẽ cùng với cung phu thê theo vận hạn của cô tạo thành phương tam hợp. Như vậy, ngoài việc xuất hiện hiện tượng tác động lẫn nhau/kéo theo? của quyền lộc tạo ra cách cục hay người gặp gỡ, quen biết như đã nói trên đây, vận hạn hóa kị cũng khiến cho cung Tỵ và cung Hợi rơi vào cách cục xấu Xương Tham Khúc Tham. Người sinh năm 52, can Quý, Tham lang hóa kị cũng vừa khéo tọa thủ cung Mão đồng thời hội nhập cung Hợi, năm Bính Tý lại chịu ảnh hưởng của Liêm trinh hóa kị, e rằng dữ nhiều lành ít, tình cảm dễ đi vào hồi kết.

Người sinh năm 54, cung bát quái tại Tỵ. Cung vị này cùng với cung mệnh và cung phu thê trên lá số của cô Kha tạo thành phương tam hợp. Tương tự, cũng có lộc tinh Vũ Khúc cát hóa. Điểm khác biệt so với người sinh năm 52 là, cung Tỵ có Thiên tướng tọa thủ, tam phương không hình thành cách cục xấu. Do đó, cô Kha và người này chắc là có duyên với nhau hơn.

“Đúng thế, tình hiện hiện nay đúng là như vậy. Tôi với người sinh năm 52 chắc là khó có cơ hội gặp lại. Còn người sinh năm 54 hiện đang sống chung với tôi.” “Ngoài người hiện tôi đang sống chung, sắp tới có thể quen thêm bạn trai nào khác không? Tại sao ngoài người sinh năm 54, chuyện tình cảm với những người khác đều không đi đến đâu? Rốt cuộc tôi có cơ hội gặp được người tôi thực sự yêu thương không?” cô Kha hỏi.

“Như tôi vừa nói, đại hạn Kỷ Sửu cũng tức là trước 34 tuổi, cuộc sống tình cảm của cô không thể nào dứt (có kết quả?). Do vậy với những người đã gặp trước đây, đều đổ vỡ. Có thể thấy, cung vị nhập quái của những người này đều trùng hợp rơi vào phương tam hợp với cung mệnh tiên thiên, chịu ảnh hưởng của cách cục Xương Tham Khúc Tham nên không thể bền lâu. Giả sử hôm nay cô gặp một người sinh năm 53 hoặc 57, tôi tin rằng người đó sẽ đối với cô rất tốt, quan hệ của hai người cũng sẽ không tệ. Tình cảm mà! Có thể nâng niu thì hãy nâng niu, duyên phận vốn là đến không dễ, nếu không nắm lấy, sau này hối hận cũng không kịp. Người bạn hiện nay đối với cô cũng không tệ, tại sao phải nghĩ ngợi nhiều như vậy? Hơn nữa, phân tâm hai lòng đối với cô cũng không tốt đâu”.

“Nhiều khi tôi cũng cảm thấy mình trăng hoa quá! Có phải do tôi có số đào hoa nên mới như vậy hay không?”. Tôi sống với bạn trai hiện nay, kỳ thực không phải là có tình cảm gì cả, chỉ đơn thuận là như cầu sinh lý! Từ lá số, có thể luận ra vần đề “dục vọng” không?”, cô Kha nói với tôi quan điểm của cô ấy về tình cảm một cách rất thoải mái. (Cung Mệnh Thân có Kình dương, thông thường đều có tính hỏi gì thì hỏi đến cùng.)

CUNG VỊ TRỌNG ĐIỂM

Đào hoa có thể sinh ra hay không, điều này có thể phân tích từ cung Mệnh tiên thiên.

Trong cung Mệnh tiên thiên, có mấy tổ hợp, mấy tổ hợp này gặp nhau sẽ làm phát sinh một số hiện tượng dưới đây, tạo ra những biểu hiện trong tác phong làm việc của đương số:

1. Tử vi tọa mệnh nhưng không hội tả phù hữu bật, làm việc gì cũng khó tránh khỏi cảnh cô độc một mình. Thêm vào đó có Dương Đà đến quấy nhiễu, vậy ai tác động thế nào, đương số cũng vẫn theo ý mình mà làm.

2. Cách cục Sát Phá Lang hội sát tinh làm gia tăng tính hay thay đổi ở đương số, cuộc sống càng khả giả(?), càng phù hợp với lý tưởng của cô ấy. Điều này cũng giải thích tại sao đương số không hài lòng với hiện trạng.

3. Tử Tham gia thêm Thiên Hỷ là cách cục Đào hoa phạm chủ, cách cục này sau khi chịu ảnh hưởng bởi lộc, quyền của vận hạn, ngay cả khi đại hạn cung Sửu không phải là cách cục của Đào hoa, vẫn sinh ra hiện tượng đào hoa. Nếu lại thêm có Kình Đà hội hợp, cảnh “dã đào hoa (đào hoa dại)” là không thể tránh khỏi. Do vậy, trong chuyện tình cảm, đương số cũng cần biết tiết chế, nếu không sẽ không tốt.

4. Do cách cục Xương Tham Khúc Tham, cuộc sống tình cảm hiện tại của đương số sẽ có nhiều biến động. Nói một cách trực tiếp là việc kì quái đến mấy, cô ấy cũng có thể làm. Trong đại hạn hiện nay, can Kỷ Văn khúc hóa kỵ ảnh hưởng tới cách cục này, khiến cho tính biến động càng rõ nét.

5. Tham lang hóa quyền trong vận hạn và Vũ khúc hóa quyền tiên thiên càng ảnh hưởng mạnh tới cung mệnh có Đào hoa, đồng thời hội với (?) cung phu thê của đại hạn, ít nhiều cũng làm tăng mong muốn chiếm hữu đối với người khác giới của đương số. Nếu mang tổ hợp quyền tinh và kị tinh kết hợp với tính cường vượng của chủ tinh để suy xét, càng thấy rõ tình hình này.

Nếu kết hợp 5 điểm nêu trên để luận giải sẽ thấy khá phù hợp với tình hình thực tế hiện nay của đương số. Thực ra, những cách cục này không phải hoàn toàn xấu, không có điểm nào tốt, do đó tốt hay xấu cần phải xem đương số hành động như thế nào. Nếu đương số biết lợi dụng những tính chất này vào công việc, ví dụ làm một số việc liên quan đến mỹ thuật, nghệ thuật, phục trang v.v. rất có thể sẽ đạt được thành tựu hơn công việc hiện tại, có cơ hội thăng tiến. Đương số là nữ giới, cuộc sống tình cảm quá “phong phú” cũng không tốt: trên lá số đã tiềm ẩn một số tính chất như vậy, nếu bất cẩn không lưu ý, người phải chịu thiệt hại sẽ chính là cô ấy.

Còn về vấn đề “dục vọng” mà cô Kha hỏi, tôi chưa từng nghiên cứu qua nên không thể luận ra điều gì từ lá số của cô ấy. Huống hồ, tìm hiểu điều này, thực ra cũng không có ý nghĩa gì nên..

Còn về vấn đề “dục vọng” mà cô hỏi, tôi chưa từng nghiên cứu qua nên không thể luận ra điều gì từ lá số của cô. Huống hồ, tìm hiểu điều này, thực ra cũng không có ý nghĩa gì nên câu hỏi này tôi tạm không trả lời. Điều đáng quan tâm, theo tôi là làm thế nào để “xu cát tị hung” (thêm cái tốt, bớt cái xấu), làm thế nào để lợi dụng những điểm trên lá số để phát triển tiềm năng của mình”.

“Nói thế mà được! Trước đây không phải anh đã bảo, từ lá số có thể nhìn được những điều này? Sao giờ anh lại không nghiên cứu nữa? Anh cứ nói đi mà! Nói ra thì có làm sao? Người ta đã hỏi, anh còn ngại gì chứ?”, đồng nghiệp của tôi ngồi bên cạnh, thúc bách tôi phải nói.

“Cung tử tức là cung đại diện cho ham muốn tình dục, cung tật ách là cung đại diện cho khả năng tình dục. Cung tử tức tiên thiên của cô là Thái dương hóa lộc tọa thủ tại cung Tý. Thái dương của người sinh giờ Mão chính là hiện tượng “ánh nắng sớm đợi mọc”, cung Tý tam phương lại có hai sao Hỏa, Linh làm tăng thêm sức mạnh của Thái dương. Cho nên.....”

“Đại hạn, cung tử tức tại Tuất. Cung Tuất có Vũ khúc hóa quyền tiên thiên và Tham lang hóa quyền của đại hạn (nhập cung Dậu), tức là giáp song quyền. Điều này có thể giải thích cho sự hưng vượng về ham muốn tình dục của đương số.”

“Nếu tiếp tục xem xét đại hạn tiếp theo, đại hạn đi vào vị trí cung tử tức tiên thiên, sẽ xuất hiện hiện tượng giống như trên. Cung tử tức của đại hạn tại Dậu, có Tham lang hóa lộc của vận hạn làm cát hóa, như vậy tôi nghĩ rằng tuổi đương số càng cao, hứng thú tình dục e rằng càng mãnh liệt”.

Cô Kha và đồng nghiệp nghe xong những lời giải đoán “thoải mái” của tôi đều không nhịn được, cười lớn nói: thế thì biến thành “hoa si” (kẻ ham mê sắc dục) hay sao?

Sau khi đã hỏi rất nhiều câu nên hỏi và không nên hỏi, cô Kha hỏi một câu có liên quan tới công việc của cô ấy. Cô nói, năm kia (Ất Hợi), cô vào làm việc cho công ty hiện tại, không rõ có nên tiếp tục công việc này hay không? Nếu đổi việc khác, trong tương lai nên làm việc trong ngành nghề gì thì tốt nhất?

Nếu xét dựa trên dữ kiện là năm vào công ty, cung Mão và cung Hợi là hai cung có ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghiệp. Hai cung vị này, ngoài việc có tiên thiên Vũ khúc hóa quyền, đại hạn Vũ khúc hóa lộc, Tham lang hóa quyền và lưu niên Lộc tồn dẫn động, còn là cung mệnh của lưu niên và cung sự nghiệp (quan lộc?) của lưu niên.

Hai cung vị này vào năm Bính Tý, sau khi có Liêm trinh hóa kị dẫn động (sau khi có ảnh hưởng của Liêm trinh hóa kị?), sợ rằng đã ngầm ẩn hung cơ (việc xấu/ cơ hội xấu), muộn nhất chắc đến năm Đinh Sửu.

Về tính chất công việc, đương số có tử vi tọa mệnh, tuy không có tả phù hữu bật hội chiếu nhưng tính chất công việc vẫn thuộc loại “đa nguyên”: có thể làm việc trong nhiều ngành nghề, không chê ngành nào. Nếu lại phối hợp với cách “Xương Tham, Khúc Tham” thì càng rõ ràng. Nhưng tôi vẫn khuyên giống như đã nói ở trên: đối với đương số, nếu có thể chuyển tính chất “đào hoa” trong cung mệnh vào nghề nghiệp, chú trọng đến những sở trường này (Kình Dương, Đà La hội nhập), chắc rằng sẽ có nhiều thành tựu.

Chúng tôi kết thúc 3 giờ đồng hồ đoán mệnh. Tuy tôi vẫn chưa đưa được đáp án nào cụ thể, rõ ràng cho cuộc sống tình cảm thăng trầm của cô Kha nhưng dựa vào thiên tính lạc quan của cô ấy, tôi tin cô ấy sẽ nhanh chóng tìm được một người bạn đời lý tưởng. Một lần nữa, tôi muốn gửi lời chúc phúc tới cô.

HÀNH TRÌNH CÔ ĐỘC: CUỘC HÀNH TRÌNH SANG ĐẠI LỤC CỦA HỌC TRƯỞNG (SƯ HUYNH).

Chủ nhân của lá số này là sư huynh, đồng thời là đồng nghiệp của tôi. Khi tôi mới vào công ty, anh ấy đã giúp tôi rất nhiều. Trong công việc, chúng tôi luôn cùng vai sát cánh, trong đời tư, chúng tôi là bạn bè tốt, chia sẻ mọi việc.

Còn nhớ, năm tôi mới vào công ty (Dân quốc thứ 82), tôi đã từng xem giúp lá số của sư huynh, đoán rằng vào năm Dân quốc 83, anh ấy sẽ có bước phát triển tốt.

Còn nhớ, năm tôi mới vào công ty (Dân quốc thứ 82), tôi đã từng xem giúp lá số của sư huynh, đoán rằng vào năm Dân quốc 83, anh ấy sẽ có bước phát triển tốt, cần chuẩn bị thực lực để đến khi gặp thời cơ có thể phát huy. Đầu năm sau, sư huynh quả nhiên được thăng chức, được điều đến một xí nghiệp có liên quan, giữ chức trưởng phòng tài vụ (tài vụ trưởng). Chế độ đãi ngộ tuy không tốt hơn rõ rệt nhưng là bàn đạp để thăng tiến. Làm công việc này chưa đầy một năm, sư huynh được cử đi công tác ở đại lục. Công ty ở đại lục mới bắt đầu gây dựng, mọi chế độ đều đang trong quá trình xây dựng, tất nhiên công việc rất vất vả nhưng lương bổng nhiều hơn gấp đôi so với công việc cũ.

(Hết trang 53/118)

Những công nhân viên chức được cử sang đại lục, càng có cơ hội nắm nhiều quyền lợi cho mình, tích lũy càng nhiều kinh nghiệm. Chỉ cần công tác đủ hai năm ở đại lục, khi quay lại công ty mẹ, đều có thể được thăng chức. Đây là lợi thế mà những nhân viên ở lại Đài Loan không thể có được.

Do có nhiều lợi ích như vậy nên các nhân viên ở công ty đều muốn giành lấy cơ hội đi đại lục. Nhân viên trong công ty quá đông, trong cảnh “người nhiều cháo ít” như vậy, sư huynh của tôi có thể được cấp trên đề bạt, khởi hành đi đại lục một cách thuận lợi, tôi nghĩ không hẳn chỉ vì biểu hiện trong công việc của anh ấy tốt mà còn vì anh hơn người ta một chút cơ duyên.

Vào khoảng mấy ngày giáp Tết âm lịch năm 85, tôi nhận được điện thoại của sư huynh, ngoài việc hàn huyên tâm sự, sư huynh cũng tiết lộ, lần này về nghỉ tết, anh ấy muốn tranh thủ lại thăm tôi, nhờ tôi xem giúp cho anh ấy vận hạn lưu niên Bính Tý. Cũng bởi vì gần đây công việc của anh ấy không thuận lợi lắm, anh cảm thấy không đáng phải vất vả như vậy nên muốn xem thử vận thế sắp tới thế nào. Khi đó đúng dịp quyết toán cuối năm, công việc của chúng tôi đều rất bận nên chúng tôi không nói nhiều qua điện thoại, chỉ hẹn cuối năm gặp nhau sẽ đàm đạo.

Tôi nhớ rằng, trong lần thứ hai luận giải lá số cho sư huynh, tôi có nói với anh ấy, anh ấy đang gặp một số khúc mắc trong quan hệ, mặc dù cụ thể là gì tôi chưa biết rõ. Qua sự kiểm chứng của sư huynh, quả thật anh ấy đang gặp khó khăn trong quan hệ với cấp trên ở đại lục. Đây cũng là vấn đề khiến anh ấy lo phiền nhất hiện nay. Nhiều lúc, anh ấy cũng đã định từ chức nhưng nghĩ đến việc đã đổ sức làm việc 5, 6 năm, anh ấy lại không cam tâm từ bỏ. Nghe xong những lời bất bình của sư huynh, tôi hỏi thêm anh ấy một số thông tin liên quan và từ đó có một số suy luận như sau:

Sư huynh vào công ty năm Canh Ngọ, năm đó 27 tuổi, đại hạn tại Bính Tý.

Đại hạn Bính Tý là cách cục Sát Phá Lang chủ, cách cục này nếu có kị sát tinh dẫn động (ảnh hưởng?) mới xuất hiện khuynh hướng “động”, ngược lại nếu gặp cát tinh thì sẽ chuyển hướng phát triển bình ổn, không có biến động lớn (Tuy có Liêm Trinh hóa kị ở đại hạn nhưng may mắn là không hình thành hung cách (cách cục xấu), nên không có khả năng phát sinh điều dữ. Tuy nhiên, do sự tác động của Liêm Trinh hóa kị, vận thế bình ổn, thuận lợi trước đây sẽ này sinh một chút dao động khiến đương số có ý muốn thay đổi).

Đại hạn tọa quyền hội lộc và đại hạn hóa kỵ tự nhiên (tự nhiên nhi nhiên) sẽ khiến đương số kiên trì hơn người khác trong công việc (?).

Lưu niên Canh Ngọ, chuyển sang cung Thiên Di của đại hạn, can Canh khiến Thái dương hóa lộc và Thiên đồng hóa lộc ở đại hạn, song lộc giáp cung sự nghiệp của lưu niên. Khi lưu niên đến cung vị cường vượng đồng thời cung sự nghiệp lưu niên hình thành cát hóa, tìm được một công việc tốt là chuyện không khó khăn gì (tuy nhiên, năm đầu tiên vào công ty, cũng sẽ vất vả một chút, lưu niên chuyển đến vị trí đại hạn Liêm trinh hóa kị, cung sự nghiệp lưu niên cũng ở cách “ủy khuất” của song kị giáp (gặp hai hóa kị?). Bởi vậy, đương số có thể bình an qua một năm là do ảnh hưởng của cách cục cường vượng tạo ra bởi tam phương chính tứ ở cung Ngọ).

Giáp Tuất lưu niên, khi xưa tôi đoán giải là năm này sẽ có bước tiến tốt trong công việc, lí do như sau:

1. Giáp Tuất lưu niên, chính là rơi vào cung sự nghiệp (Canh Ngọ niên) của năm vào công ty, lực tác động tương hỗ tự nhiên sẽ mạnh.

2. Lưu niên bước vào cung vị cường vượng, năng lực tự nhiên và vận thế đều tốt.

3. Lưu niên thiên can Giáp khiến lưu niên tam phương hình thành cách cục “tam kì gia hội” (三奇加會) 。

4. Thiên can của lưu niên và tiên thiên tương đồng, vì vậy năm này sẽ có tứ lộc cát hội, đồng thời tạo ra những cách cục tốt như Tử Phủ tương hội Tả Hữu, Hỏa Tham...

Đại khái chính vào thời điểm giữa năm Giáp Tuất, sư huynh được cất nhắc và cử sang công ty có liên quan phụ trách tài vụ. Công việc này tuy chức cao nhưng trách nhiệm cũng lớn. Dù sao cũng là một bàn đạp để thăng tiến.

Lưu niên Ất Hợi, sư huynh được công ty cử đi công tác tại Quảng Châu, đại lục, đảm nhiệm chức giám đốc phụ trách tài chính, cả chức vị và lương bổng đều thăng tiến vượt bậc.

(hết trang 55/118).

Lưu niên Ất Hợi, Lộc tồn và Thiên cơ hóa lộc giáp cung sự nghiệp tiên thiên, Thiên cơ hóa lộc và Thái dương hóa lộc can Canh trong năm vào công ty giáp đại hạn cung mệnh. Do sự cường vượng của bản mệnh và đại hạn, đương số sẽ có cơ hội thăng chức.

Nhưng năm này không phải là năm chỉ cát mà không có hung. Lưu niên khi đó rơi vào cung vị yếu thế bị kị sát xung (xung chiếu?) đồng thời hội hung cách (cách cục xấu). Do vậy tôi cho rằng, năm này là năm đương số phải làm việc vất vả, hao tâm tổn trí hơn nhiều so với mấy năm trước đó.

Năm tiếp theo (Bính Tý), sư huynh từ đại lục quay lại Đài Loan nghỉ phép, vừa về đến Đài Loan, liền gọi điện thoại tìm tôi, nói rằng lại muốn tìm tôi xem số giúp. Những vấn đề cần hỏi, anh ấy cũng không nói rõ, chỉ nói là sẽ tìm thời gian đến tìm tôi tại công ty, khi nào gặp mặt sẽ nói cụ thể.

Trong ngăn bàn của tôi tình cờ lại có lá số của sư huynh nên tranh thủ khi anh ấy chưa tới, tôi xem qua lá số của anh. Xưa nay tôi vẫn luôn như vậy, trước khi gặp đương số, thường tranh thủ xem qua lá số của họ, ghi lại những điểm quan trọng, một là để tiết kiệm thời gian khi gặp mặt, hai là tôi nghĩ khi đó tư duy thường rành mạch, chưa bị nhiễu loạn bởi các thông tin. Những điểm tôi ghi lại khi đó là:

(1) công việc: năm Bính Tý cần chú ý, nếu kết giao với người sinh năm 41, dễ có vấn đề trong quan hệ giữa hai người. Nếu qua năm sau thì lại không có vấn đề gì nữa.

(2) hôn nhân: năm 87 dân quốc, dễ có duyên phận quen biết người sinh năm năm 53, 57 dân quốc.

Một ngày sau hôm nói điện thoại, sư huynh của tôi đến công ty giải quyết công việc rồi qua tìm tôi. Sau khi tôi vừa cầm lá số đã lập ra, anh ấy liền hỏi ngay: “Anh cảm thấy tôi tìm việc thì thế nào? Có vấn đề gì không?”.

Sau khi xem xét lại lá số lần nữa, tôi bảo anh, năm nay anh cần chú ý vấn đề quan hệ, cần cẩn thận trong quan hệ với cấp trên và đồng nghiệp. Bởi vì cung Thiên di có hóa kị đồng thời hình thành hung cách mà cung Thiên di chính là đại diện cho những việc này. Còn công việc thì chắc là không có vấn đề gì lớn.

Sư huynh nghe xong lời luận giải của tôi, lập tức trả lời: “Chuẩn! Không sai, hiện nay anh đang bất hòa với cấp trên đây. Hắn ta việc gì cũng soi mói, làm khó dễ, anh chịu hết nổi rồi”.

Nghe xong những lời sư huynh phàn nàn về cấp trên, tôi lại chú mục vào lá số, xem một lúc rồi bảo anh: “nếu mà cấp trên của anh là người sinh năm 41, thì anh cần cẩn thận đấy”.Sư huynh lập tức đáp lời tôi bằng một giọng vừa ngạc nhiên và kinh hoàng: “đúng đấy, cấp trên của tôi đúng là sinh năm 41. Sao mà trùng hợp thế nhỉ?”. Tôi bảo: “Vậy sau khi anh quay lại đại lục, anh cần phải chú ý xử lý mâu thuẫn giữa hai người nhé. Nếu không, làm việc mà không vui vẻ với nhau, đến mức phải bỏ việc thì lợi bất cập hại. Có nhiều việc trùng hợp như vậy đấy, gặp rồi thì chịu vậy thôi, biết sớm như thế thì anh có thể chuẩn bị tâm thái cho mình. Qua năm nay thì mọi việc sẽ ổn cả, làm thế nào là do anh.” Cuối cùng, tôi khuyên sư huynh như vậy.

Tiếp theo, chúng tôi cùng nhau xem xét, tại sao năm Bính Tý, sư huynh lại gặp khó khăn trong quan hệ.

1. Lưu niên Bính Tý rơi vào cung đối với cung Ngọ. Cung Ngọ này là năm đương số vào công ty (Canh Ngọ). Nói một cách khác, cung vị năm nay là “cung Thiên di” của năm vào công ty. Khi lưu niên chạy đến một cung vị có ít nhiều liên quan đến cung Thiên di của việc vào công ty (nguyên văn: 當流年走到這個與公司遷移不無關係 宮位時), nếu năm nay phát sinh vấn đề trong quan hệ với cấp trên, lực tác động tương hỗ giữa các cung vị này đương nhiên sẽ không phải là nhỏ.

2. Lưu niên Bính Tý chạy đến cung Mệnh của đại hạn, tứ hóa và đại hạn giống nhau, Bính Tý Liêm trinh hóa kị vừa khéo ở vận hạn này, cùng với cung Thiên di của lưu niên và lưu niên Kinh dương tọa thủ cung Ngọ, khiến cho vận hạn thiên di hình thành hung cách “hình nhân giáp ấn” (刑囚夾印 )

3. Cung Thiên di của đại hạn và lưu niên này tuy là cách cục lớn (Tử Tướng triêu đàn, đồng thời hội Tả Hữu, thêm Lộc Quyền Khoa), về lý, quan hệ giao tế, thậm chí là quan hệ với cấp trên sẽ phát triển theo hướng tốt, chính diện nhưng do bị Liêm trinh hóa kị phá nên những hung cách “hình nhân giáp ấn”, “Linh Xương Đà Vũ’, “Vũ khúc, Hỏa tinh” đều ẩn chứa nhiều mối họa.

4. Cung Thiên di của lưu niên và đại hạn đã hình thành hung cách. Nếu hung cách này bị dẫn động bởi việc tiếp xúc với cấp trên hoặc cấp dưới, hoặc tọa nhập vào cung vị không thực sự tốt thì trong quan hệ của đương số ở đời thực tất nhiên sẽ nảy sinh những điều không như ý.

Chú thích:

(1) Khi cung Thiên di tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan cũng tốt: do quan hệ tương hỗ tốt, quan hệ của đương số và những người đó cũng sẽ là quan hệ tương trợ, giúp đỡ nhau.

(2) Khi cung Thiên di tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan không tốt: đương số sẽ cảm thấy làm việc với người này vất vả, nhiều ý kiến này nọ, nhưng nhìn chung cũng sẽ không có hiện tượng xấu.

(3) Khi cung Thiên di không tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan tốt: trong môi trường khó khăn, đương số vẫn sẽ tìm được bạn tốt.

(4) Khi cung Thiên di không tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan cũng không tốt: đương số không chỉ gặp khó khăn trong việc tìm bạn, tìm người phù trợ mà càng tiếp xúc lâu xung đột giữa đôi bên sẽ càng lớn.

Dựa vào lý do gì tôi cho rằng cấp trên của sư huynh có lẽ là người sinh năm 41, khiến hai người nảy sinh xung đột trong công việc? Nguyên nhân kì thực rất đơn giản, như sau:

1. Tất cả những hiện tượng bất hòa với cấp trên trong lưu niên và đại hạn Bính Tý, chưa vội để ý tới năm sinh của “nhập quái”, thì theo như đã nói ở trên, chúng ta có thể xác định cung Ngọ là một vị trí hung (xấu) để cho những hiện tượng như vậy xảy ra. (?)

(Hết trang 57/118)

2. Nếu chúng ta nhập vào lá số dữ kiện năm sinh của cấp trên, thiên can hóa kị của ông ấy chắc sẽ cùng cung đối với cung Ngọ tạo ra hiện tượng xấu. Chỉ có như vậy, giữa hai người mới có thể có hiện tượng xung khắc, bất hòa, phù hợp với tình hình thực thế của đương số.

3. Năm sinh có thể tạo ra quan hệ tương tác mạnh nhất nên xuất hiện tại cung vị tam hợp phương của lưu niên hoặc vận hạn. Nếu như vậy thì những năm sinh có khả năng cao nhất phải là những năm nhập quái tại cung Tý (năm 49 dân quốc), cung Thân (năm 45), cung Ngọ (năm 43) và cung Thìn (năm 41).

4. Tổng hợp 3 điểm nêu trên, tôi thấy năm sinh 41 dân quốc (năm Nhâm Thìn) là có khả năng cao nhất vì:

(1) Can Nhâm trong năm sinh 41 dân quốc có Vũ khúc hóa kị xung với cung Ngọ.

(2) Người sinh năm Nhâm Thìn nhập cung Thìn trên lá số (của đương số?). Cung này vừa là cung Thiên di của lá số tiên thiên, vừa là cung quan lộc của vận hạn. Như thế tác động của nó tới quan hệ của đương số và cấp trên trọng vận hạn này cũng sẽ khá mạnh.

(3) Người sinh năm Nhâm Thìn nhập cung Thìn, đối xứng với cung mệnh tiên thiên của đương số. Can Nhâm Vũ khúc hóa kị tại Tuất. Nếu thêm yếu tố Đà La trong lưu niên của người sinh năm Nhâm vào lá số thì sẽ khiến cung Mệnh tiên thiên của đương số tạo thành hung cách Linh Xương La Vũ. Hung tính này sẽ khiến đương số và người sinh năm Nhâm khó duy trì quan hệ hòa hợp.

(4) Cung Thìn có cách cục Xương Tham Khúc Tham, một khi lại gặp sao Hóa kị thì vị cấp trên này sẽ thường có những hành vi, mệnh lệnh và chính sách mà cấp dưới không ngờ tới được.

(5) Giả thiết vị cấp trên này nhập quái ở cung Thìn. Như thế, Tham lang trong cung mệnh (Thìn) của ông ta sẽ vừa khéo kết hợp với Văn xương trong cung mệnh tiên thiên của đương số (Tuất) tạo thành cách cục Xương Tham. Ý nghĩa của cách cục này cũng là: nếu hai người kết hợp trong công việc sẽ dễ phát sinh mâu thuẫn.

(6) Cung thiên di của vận hạn là hung cách, cung nhập quái của chủ quản cũng tạo ra cách xấu “Linh Xương La Vũ”. Hai cung có ý nghĩa quan trọng nhất trong mối quan hệ giữa đương số và cấp trên đều rơi vào thế xấu, tất nhiên mối quan hệ này sẽ nảy sinh vấn đề.

Sang đại lục để phát triển sự nghiệp, hi vọng có thể tích lũy nhiều kinh nghiệm, phát huy sở trường, không ngờ lại gặp phải một vị chủ quản khắc tinh, khiến cho mình bị bó buộc chân tay, không có đất dụng võ... Cần làm gì để đối phó với những việc sẽ phát sinh trong tương lai, có thể qua năm Bính Tý một cách yên ổn hay không là những vấn đề hiện nay sư huynh đang mong mỏi được biết. Lá số có nói lên điều gì? Nên luận giải chúng như thế nào? Dưới đây người viết xin nêu ra một số thiển ý như sau:

(Hết trang 58)

CUNG VỊ TRỌNG ĐIỂM

Xét cả quá trình từ khi sư huynh vào công ty đến lúc phát sinh mẫu thuận với cấp trên như hiện nay, sau khi nhập thêm dữ liệu là các năm sinh có liên quan, có thể thấy, hai cung vị có sức dẫn động mạnh nhất là cung Ngọ và cung Tuất. Do vậy, để phán đoán các bước phát triển tiếp theo trong công việc hiện nay của đương số, tôi cho rằng, cung Ngọ và cung Tuất chính là hai cung vị trọng điểm để suy ngẫm.

1. Cung Ngọ:

(1) Cung Ngọ là cung đương số vào công ty (Canh Ngọ).

(2) Cung Ngọ là cung thiên di của đại hạn Bính Tý. Cung thiên di đại diện cho duyên phận của đương số với công ty. Nếu cung thiên di cường vượng, đồng thời cùng với mệnh cung của vận hạn hình thành những cách tốt, chính diện thì tất nhiên đương số sẽ tận tâm tận lực với công ty. Nhưng nếu cung thiên di yếu hiểm đồng thời cùng với cung mệnh tạo thành hung cách, e rằng phải thắp hương niệm Phật mới có thể có được một kết cục tốt đẹp!

(3) Lưu niên Giáp Tuất, đương số được điều đến xí nghiệp có liên quan, Can Giáp của năm này khiến cho cung Ngọ, vốn có nhiều cách tốt lại một lần nữa tạo thành cách tốt “Tam kì gia hội”. Trong năm mà cung Ngọ - đại diện cho công ty- ở vào thế tốt như vậy, tất nhiên sẽ có những bước tiến tốt.

(4) Lưu niên Bính Tý, can Bính lại khiến cung Ngọ hình thành hung cách. Do đó phát sinh việc bất hòa với cấp trên.

(5) Ngọ cung là tam hợp phương với cung Mệnh của lưu niên, đại vận và tiên thiên, sức ảnh hưởng của nó đương nhiên không nên bỏ qua.

2- Cung Tuất:

(1) Cung Tuất là cung mệnh, thân tiên thiên.

(2) Cung Tuất là cung sự nghiệp lưu niên của năm vào công ty.

(3) Trong năm vào công ty (Canh Ngọ), cung Tuất được Thiên đồng hóa lộc của can Bính đại hạn và Thái Dương hóa lộc của can Canh lưu niên đến giáp, phù.

(4) Lưu niên giáp Tuất, đương số được điều đến xí nghiệp khác, cũng khiến cho cung Tuất hình thành đại cách cục “Quân thần khánh hội” do tam lộc hội kết hợp với tam kỳ gia hội. (?)

(5) Lưu niên Bính Tý, đương số và cấp trên nảy sinh bất hòa, lúc này cung Tuất cũng hình thành các hung cách như “Linh Xương La Vũ’, “Hình nhân giáp ấn”...

(Hết trang 59/118).

(6) Vị cấp trên sinh năm Nhâm Thìn cũng ứng với cung đối với cung Tuất. Thiên can Vũ khúc hóa kị và lưu niên Đà la của vị cấp trên cũng khiến cung Tuất sinh hiện tượng xấu (hung tượng).

Dưới đây, chúng ta cùng xem xét sự biến hóa của tứ hóa trong những lưu niên tiếp theo của cung Ngọ và cung Tuất, dựa vào cách cục của nó và sự dẫn động của tứ hóa để suy luận ra kết quả.

1. Tam phương tứ chính của cung Ngọ và cung Tuất có rất nhiều cách cục. Về các cách tốt, có các cách sau: tam phương có đại cách cục “Quân thần khánh hội” Tử Phủ Tướng hội Tả Hữu Xương Khúc, “Song Lộc giao trì”, Hỏa Tham, Linh Tham, Lộc Quyền Khoa- “Tam kỳ gia hội”. Về hung cách, tuy tàng ẩn có các cách cục Linh Xương La Vũ, “Hình nhân giáp ấn”, Xương Tham, Khúc Tham v.v. nhưng cân chú ý, nếu như không có các sát tinh và hóa kị đặc thù dẫn động, những “hung cách có tính tàng ẩn” này trái lại sẽ có tính chất kiên trì, bền gan (百折不撓), càng lay chuyển càng mạnh (愈挫愈勇)。Cũng chính vì ảnh hưởng của những hung cách này, sư huynh mới dám một mình đi đến nơi đất khách quê người để lập làm việc (những chi nhánh mới xây dựng ở đại lục, ngoài mấy vị lãnh đạo là người Đài, công nhân viên đều là người bản địa.)

2. Năm Ất Hợi, được cử sang đại lục, năm này tuy lưu niên Kình dương và Đà la có ảnh hưởng không tốt tới cung Ngọ và cung Tuất. May thay, tam phương của Ngọ và Tuất lại có các cách cục cường vượng. Thêm vào đó, lưu niên cũng không chạy đến cung vị tam hợp phương, Ất Ngọ Thái âm hóa kị cũng không gây sóng gây gió nên không tạo ra những ảnh hưởng quá bất lợi.

3. Năm Bính Tý, can Bính lưu niên Kinh dương và Đà la khó có khả năng liên tục tạo ra yếu tố xấu nhưng Liêm trinh hóa kị lại dẫn động hung cách, rơi vào các cung vị tam hợp phương (??) nên đương số sẽ từ bỏ công việc này hay không, năm nay sẽ có quyết định. Nhưng theo tôi, có lẽ đương số nên tiếp tục làm công việc này, bởi vì:

(1) Nếu xét những lưu niên tiếp theo- Đinh Sửu, Mậu Dần, Mão, Canh Thìn- hóa kị trong những thiên can này sẽ không dẫn động (ảnh hưởng xấu?) đến hai cung Ngọ, Tuất. Điều này cung có nghĩa là, hung tính cũng chỉ ở hai năm Ất Hợi và Bính Tý mà thôi. Khả năng xảy ra sự dẫn động liên tục của các yếu tố xấu (hung tượng) thấp.

(2) Cung Ngọ và Tuất bản chất vẫn là những cung vị có các tổ hợp mạnh (cường vượng), tự nhiên nhi nhiên sẽ có thể chịu được sự tác động của một số yếu tố xấu.

(3) Nếu xét thêm dữ kiện: can Canh của năm vào công ty (Canh Ngọ) có Thái Dương hóa lộc, sẽ thấy lưu niên Bính Tý, cung vị xấu nhất vẫn có song lộc Thái Dương và Thiên Đồng đến phù trợ.

(4) Nếu xét thêm các dự kiện: bất hòa với cấp trên, năm sinh của cấp trên, sẽ thấy người sinh năm 41 dân quốc vào can Nhâm có Vũ khúc hóa kị tạo ra yếu tố xấu ở hai cung Ngọ, Tuất nhưng bù lại, lại có Thiên lương hóa lộc và Lộc tồn của lưu niên Bính Tý cùng phù trợ cung Ngọ.

(5) Tuy vào can Bính, Liêm trinh hóa kị ảnh hưởng xấu tới cung mệnh của đại hạn và cung phúc đức tiên thiên, khiến đương số tổn hao tâm lực nhưng nếu chúng ta nhập vào lá số hai sao Thiên Khôi và Thiên Việt của vị thủ trưởng sinh năm 41, sẽ thấy Khôi Việt giáp với cung sự nghiệp của vận hạn và cung thiên di tiên thiên. Do đó không thể phủ nhận, vị thủ trưởng hiện nay cũng không phải là người cạn tàu ráo máng, hành xử vô tình.

(Hết trang 60/118).

(6) Thiên di Hóa kị của lưu niên và đại hạn Bính Tý, cung sự nghiệp không có Hóa lộc, đương số cũng không dễ dàng tìm được công việc bên ngoài mà công việc hiện nay đã làm gần 7 năm trời. Vậy tôi tin rằng đương số, người vốn suy nghĩ cặn kẽ do Xương Khúc tọa mệnh và có năng lực phán đoán của Hỏa Tham, Linh Tham chắc sẽ biết kìm nén bản thân.

Các nhân viên làm việc ở lục địa vốn luôn vất vả và cô đơn, mức sống ở lục địa lại thấp hơn ở Đài Loan... những gì sư huynh phải chịu đựng, đám người ngồi tại văn phòng công ty ở Đài Bắc như chúng tôi đúng là khó lòng thấu hiểu hết. Tuy nhiên được cắt cử sang đại lục tức là năng lực của mình đã được nhìn nhận, dù trước mắt công việc có chút áp lực nhưng cũng không nên từ bỏ, nếu sẽ bị thiệt hại, không chỉ là về tiền bạc. Cuối cùng, tôi muốn dùng khẩu hiệu của công ty để nói với sư huynh: “có vất vả mới có thể cầu tiến”.

VẤN ĐỀ CỦA THẦY: MỘT BỨC THƯ CỦA ĐỘC GIẢ TỪ HONGKONG

Xuất bản sách tử vi, ngoài việc có thêm nguồn nhuận bút ít ỏi, việc khiến tôi vui nhất chính là có thể kết giao với nhiều người ham thích tử vi từ khắp nơi.

THỜI VẬN KHÔNG ĐỦ: THIÊN LÝ MÃ NAN QUÁ BÁ LẠC

TÌNH THÂM DUYÊN CẠN: MỐI TÌNH ĐẦU CỦA ÔNG THÁI

Quyển 2: Phép nhập quái

1. Người

2. Vật

ĐOÁN SỐ MẠN ĐÀM: CÁCH VẬN DỤNG PHÉP NHẬP QUÁI

KẺ VÔ ƠN: ÔNG TRƯƠNG BỎ NHÀ BỎ CON

PHONG THỦY NƠI Ở: TỪ LÁ SỐ XEM MÔI TRƯỜNG CHỖ Ở

Tử vi đẩu số hỉ kỵ thần đại đột phá Sở Hoàng

CHƯƠNG 3 MỆNH CHỦ TINH LUẬN

Như thế nào gọi là mệnh chủ? Mệnh chủ là căn cứ mệnh cung đóng tại địa bàn nào mà suy ra.

Địa chi:

Địa bàn===...tý....../ Sửu –hợi/Dần-tuất/Mão-dậu./Thìn-thân/Tỵ -mùi/Ngọ

Sao MC===Tham lang/Cự môn./Lộc tồn./Văn khúc/Liêm trinh/Vũ khúc/Phá quân

Mệnh chủ là nội dung đặc thù của đẩu số học, nó xét nhân mệnh,hướng âm trạch, dương trạch,bất kể thư tịch cổ hay mới gần đây đều lược bỏ, không đề cập, chỉ có bảng trên.

Theo phép hỷ kỵ gia truyền của bút giả, mệnh chủ là cánh cửa, căn cứ tính chất mênh chủ,rất dễ dàng suy ra ngũ hành hỷ kỵ thần của mệnh.

Thật đáng tiếc, đáng tiếc. Ngàn năm sau sự ứng dung mệnh chủ do ko ai công khai mà phép đoán mệnh như trên, thường cần phối hợp với bát tự

Bút giả gần đây được đồng đạo khích lệ công khai bí pháp với độc giả.

Dưới đây,bút giả cùng độc giả đàm luận ý nghĩa và ứng dụng mệnh chủ:

1. Tham lang: ở đây là tham lang, mệnh chủ tham lang và mệnh lý cũng là tham lang,ý nghĩa đại kỳ dị, khác xa, ko đồng nhất.

Tham lang là mệnh chủ có ý nghĩa biểu thị cục số mệnh cung đại cát đai lợi, vậy ý nghĩa của đại biểu ngũ hành tham lang là sinh khí.

Ở hỷ kỵ pháp trên thời sinh khí tham lang, lấy bỏ ngũ hành cường nhược ứng với ngũ hành cục số làm trọng.

Ví dụ: nữ sỹ 24 năm tháng 2 ngày 10 giờ mão

mệnh cung tại mậu tý đắc thiên đồng thủy,thái âm hóa kỵ, linh hỏa tinh tại nhâm ngọ cung vcd

Ngũ hành cục của bản mệnh là hỏa lục cục, mệnh cung địa bàn tại Tý đắc tham lang sinh khí, cho nên mệnh này ứng với hỏa là trọng, lại giả thử mệnh là tháng 2 sinh, bởi vì có thể nói người hỏa tháng 2 tọa tý cung, tức thủy cung có thủy tinh, bởi vậy mệnh này ứng với thổ là hỷ, thổ chế thủy, do đó kết luận thổ là hỷ thần, lại còn nếu mệnh chủ với hỏa lục cục, thì hỏa là dụng thần, kỵ thần là thủy và mộc.

Đấy là vận dụng giản lược hỷ kỵ đẩu số pháp.

Ý nghĩa mệnh chủ trên đẩu số, đó là nguyên nhân sâu từ phong thủy học.

Trong phong thủy học, hướng cát hung hoàn toàn theo cửu tinh mà định

Thế nào gọi là cửu tinh? cửu tinh đó là căn cứ hà đồ lạc thư như sau:khảm 1, khôn 2, chấn 3, tốn 4, trung cung 5,càn 6,đoài 7, cấn 8, ly 9.

4 9 2

3 5 7

8 1 6

Đấy là đồ hình cơ bản của cửu tinh,sau đó độn số tinh của mỗi năm vào trung cung, vận chuyền thứ tự theo đồ hình.

Do phong thủy học trên định nghĩa tham lang như sau:nếu bản mệnh năm là quái tốn,tham lang sinh khí biểu thị hào thượng bất đồng, hào trung, hạ bất biến, như vậy tất thành quái khảm. Khảm thuộc bắc,hướng bắc tất được tham lang sinh khí.

Cả ba hào biến tất được chấn quái, tức vũ khúc diên niên thượng cát.

Hai hào trung hạ bất đồng, hào thượng ko biến tất được ly quái, tức cự môn thiên y trung cát.

Lại cả 3 hào ko biến tất được tốn quái, tức phụ bật, phục vị tiểu cát.

Ngược lại thượng trung hào bất đồng, hạ hào ko biến thời được quái khôn, tức liêm trinh ngũ quỷ đại hung.

Hào dưới bất đồng, hào thượng trung ko biến tất được càn quái lộc tồn họa hại

Nếu như hai hào trên dưới bất đồng, hào giữa ko biên, tất được đoài quái, văn khúc lục sát cũng hung

Phong thủy học hoàn toàn căn cứ vào can chi năm để định hướng cát hung, mục đích cần vượng, tức khả năng tìm hỷ kỵ thần, định hướng cát hung,mà không phối hợp tháng ngày giờ tổng luận bát tự ngũ hành cường nhược.

Rất ảo diệu do số cửu tinh định hướng cát hung, thường tổng luận bát tự cũng định hướng cát hung tương đồng, với lỷ lệ trên 80%.

Bởi vì độc giả ứng dụng phép hỷ kỵ trước đây, tất trước hết có lời giải đối với cửu tinh hay hướng cát hung, sau đó tài năng tự vận dụng như đối với hỷ kỵ pháp.

Đồng thời cũng nên căn cứ phép này kiểm tra ngũ hành hỷ kỵ thần có chính xác hay không theo hỷ kỵ pháp.

Cho nên, tổng luận phong thủy học, ý nghĩa tham lang,vũ khúc liêm trinh …..là ứng dụng mệnh chủ tham lang, vũ khúc, liêm trinh ….

1.mệnh chủ đắc tham lang, ko quản ngũ hành cục số, đắc thủy nhị cục hay mộc tam cục hay hỏa lục cục,bởi hỷ kỵ pháp trên ứng với ngũ hành cục số làm trọng.

2.mệnh chủ đắc vũ khúc là thượng cát, cùng với tham lang tương đồng

3.mệnh chủ đắc cự môn là cát, cùng với tham lang tương đồng.

4.mệnh chủ đắc lộc tồn, ko ứng với ngũ hành cục số.

5.mệnh chủ đắc văn khúc, cũng ko ứng với ngũ hành cục, giống như lộc tồn

6.mệnh chủ đắc liêm trinh, giống như lộc tồn 1 dạng ko ứng với ngũ hành cục làm trọng

cuối cùng, bút giả chủ yếu thuyết minh ngũ hành cục số, mệnh chủ đắc hung như liêm trinh,lộc tồn,văn khúc, vì sao ko lấy ngũ hành cục là trọng, mà lấy sao chính tinh trong cung làm trọng?

Trước bút giả đã nói ý nghĩa mệnh chủ, cách thiết lập mệnh chủ, nếu mệnh chủ đắc hung, thì đương nhiên ngũ hành cục số ko là ngũ hành hỷ thần.

(tvn lược dịch)

...

Đệ tứ chương: tử bình suy mệnh thuật ngũ hành thủ xả đích nguyên tắc

A. Hành Mộc:

1. Hành Mộc của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, mùa Xuân mới bắt đầu nên khí hàn lạnh vẫn còn, phải dùng Hỏa (lửa) để sưởi ấm khí Thủy (nước), để dưỡng căn cơ của Mộc non; có thể dùng Thổ nhưng không được quá nhiều, Kỵ nhất bị Kim làm tổn thường mầm non của Mộc.

2. Mộc của tháng Hai: Khí của tháng Hai, khí lạnh bắt đầu diệu bớt nên có Hỏa là quý, thứ đến là Thủy, hoặc có thể dùng Thổ để điều tiết, Kỵ Kim khắc mầm non của Mộc.

3. Mộc của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Dương khí bắt đầu nóng nên cần phải có Thủy, nhưng Thủy, Hỏa cần phải dung hòa thích nghi. Nếu Mệnh trong lá số thiếu khí Hỏa, thì Hỉ Kim (mừng gặp được Kim); trên nguyên tắc Kỵ gặp Kim quá mạnh.

4. Mộc của tháng Tư: Khí của tháng Tư, khí Hỏa bắt đầu vượng mà khí Mộc bắt đầu suy, nên Hỉ Thủy nhuận căn (mừng gặp Thủy để tưới nhuần gốc mộc), kỵ gặp nhiều Hỏa, nhưng bất hỉ táo Thổ (gặp đất khô không hay), nếu Thổ ướt thì vô hại. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước (vì Kim sinh Thủy).

5. Mộc của tháng Năm: Khí của tháng Năm, khí Hỏa cực thịnh gốc khô lá già, rất cần nhiều Thủy để dưỡng gốc (Mộc). Kỵ Hỏa vượng ví như tự thiêu mình, Thổ ít thì được, Thổ nhiều biến thành tai họa. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước, nên Mộc của tháng Năm phải nghiêng về điều Hậu (điều tiết khí hậu).

6. Mộc của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí tuy suy nhưng khí nóng còn vượng, song Kim khí bắt đầu thịnh. Tiết (Tiểu Thử) của tháng Sáu Hoả (nhiệt), Thổ (khô) vẫn còn táo, nhiệt, Hỉ gặp Kim, Thủy (mừng gặp Kim, Thủy) để tưới nhuần đất (Thổ).

7. Mộc của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí còn rất ít, Kim thì đang vượng nhưng Mộc đã trưởng thành, phải dùng Dương Kim để gọt đẽo thành khí dụng. Tuy nhiên, Kỵ Kim quá mạnh, trường hợp nầy Hỉ gặp Hỏa (mừng gặp Hỏa để chế bớt Kim), nhưng tốt nhất gặp được Mộc để phụ Hỏa, Kỵ Thủy diệt Hỏa.

8. Mộc của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Âm Kim cực vượng, Hỏa khí đã chết, Kim vượng thì Mộc đã Suy, Hỉ Hỏa lại gặp Mộc, vì khí hậu bắt đầu hàn (lạnh) tối qúy có Hỏa điều thân (Mộc); nếu Mộc mà gặp Thủy sinh thì thành cường vượng (vì Kim sinh Thủy để Thủy sinh Mộc), Thủy, Mộc nhiều thì Hỉ Kim (mừng gặp Kim để chế bớt Mộc).

9. Mộc của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Hỏa khí đã nhập Mộ, Kim khí đến hồi suy, hàn (lạnh) nhiệt thì điều hòa thích nghi. Mộc của tháng chín đã tiêu tàn, khí Mộc lại yếu nên thích Hỉ Thủy sinh trợ, mà gặp thêm Mộc. Nếu Thủy sinh trợ đúng lúc, thì khả dĩ lấy Hỏa. Tối Kỵ Thổ Tinh khắc Thủy, lại Kỵ Kim quá mạnh.

10. Mộc của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Hỏa khí đã Tuyệt, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí Tràng Sinh, nên Mộc cần nhất gặp Hỏa, và lấy Thổ ngăn Thủy là thượng sách.

11. Mộc của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí nhập Thai, Thủy khí thì Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Mộc khí thì Mộc Dục, nên Hỉ gặp Hỏa, thứ đến là Kim, Thủy vượng thì Mộc bị úng, Hỉ gặp Thổ để ngăn Thủy.

12. Mộc của tháng Mười Hai (ở cung Sửu): Khí của tháng Mười Hai, khí hậu rất hàn (lạnh), Mộc khí nhập Quan Đới, Kim khí nhập Mộ, Thủy và Thổ cực vượng, nên nhất định phải có Hỏa để giải tỏa hàn băng, thứ đến là Hỉ Kim, hoặc gặp Mộc cũng nên.

B. Hành Hỏa:

1. Hỏa của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Thủy khí đã Bệnh, Hỏa rất mừng (HỈ) gặp Thủy, Mộc rất mừng (HỈ) gặp Kim để tiết khí. Hỉ (mừng) Mộc gặp Thủy trợ giúp nhưng không được qúa vượng.

2. Hỏa của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Thủy khí đã Tử, Hỉ Thủy (mừng gặp được Thủy), lại thích (Hỉ) Kim sinh Thủy để. Nhưng không thích Thủy quá mạnh, khắc Hỏa.

3. Hỏa của tháng Ba: Khí của tháng, Ba Mộc khí đã Suy, Hỏa khí Quan Đới, Thủy khí nhập Mộ, nên lấy Thủy để dùng (dụng Thần), nếu Thổ nhiều thì Hỉ Mộc để chế bớt hay tiết giảm, Hỏa mạnh thì Hỉ (mừng gặp) Kim, Thủy.

4. Hỏa của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Bệnh, nên Hỉ Thủy để tránh tự thiêu đốt lấy mình, nếu gặp Mộc tương trợ thì sinh nguy (vì Hỏa sẽ trở nên quá vượng), nếu không có Thủy mà gặp Thổ thì Thổ sẽ trở thành quá khô nên vô ích, nếu lại gặp thêm Mộc tương trợ thì càng nguy.

5. Hỏa của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Mộc khí đã Tử, Kim khí thì Mộc Dục, Hỏa của tháng Năm cực vượng, tối Hỉ gặp Kim, Thủy, nếu gặp Thổ ngăn Thủy, thì Kỵ Mộc tương trợ Hỏa.

6. Hỏa tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy, Mộc khí vào Mộ, Kim khí thì Quan Đới, Thủy khí ở Dưỡng, tháng Sáu vẫn còn nóng nên cũng Hỉ (mừng gặp) Thủy để đắc dụng, thứ đến là Kim (vì Kim sinh Thủy), Kỵ gặp Thổ mà không có Thủy, tệ nhất là gặp Hỏa và Thổ vì Hỏa và Thổ quá nóng quá khô.

7. Hỏa tháng Bảy: khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí Bệnh, Thủy khí Tràng Sinh, Mộc khí đã Tuyệt, nên Hỏa khí của tháng Bảy đã thối dần, Hỉ (mừng gặp) Mộc trợ giúp, Kỵ gặp Thủy khắc sẽ thành tai họa, nếu Thổ quá nhiều sẽ thoát khí Hỏa, còn Kim quá nhiều sẽ mất thế của Hỏa (vì Kim sinh Thủy khắc Hỏa), nếu gặp được Hỏa thì có lợi.

8. Hỏa tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Hỏa khí đã Tử, Thủy khí thì Mộc Dục, Mộc khí vào Thai, nên Hỏa khí của tháng Tám đã gần tàn, được Mộc sinh Hỏa là cực sáng, Kỵ Thổ nhiều và Thủy khắc thì thế (khí thế) của Hỏa sẽ lâm nguy!

9. Hỏa của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ, Kim khí đã Suy, Mộc khí vào Dưỡng, Hỏa khí của tháng Chín đã tàn, tối Kỵ gặp Thổ, Hỉ Mộc khắc Thổ trợ Hỏa, Hỉ gặp lại Hỏa.

10. Hỏa của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Hỏa khí đã Tuyệt, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí đã Tràng Sinh, Hỏa khí của tháng Mười đã tuyệt tích, Hỉ Mộc Sinh vì được cứu, Kỵ gặp Thủy khắc là tai ương, gặp Hỏa thì lợi, hoặc gặp Thổ chế Thủy thì vinh.

11. Hỏa của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí vào Thai, Thủy khí Đế Vượng, Mộc khí Mộc Dục, nên Hỏa của tháng Mười Một cũng tuyệt tích, Hỉ gặp Mộc, Hỏa, Kỵ gặp Kim, Thủy.

12. Hỏa của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, Hỏa khí vào Dưỡng, Thủy khí đã Suy, Thổ là hàn Thổ hay Thổ ướt, Mộc khí thì Quan Đới, nên Hỏa của tháng Mười Hai Thiên hàn Địa lạnh, Hỏa thế cực yếu, Hỉ Mộc, Hỏa trợ, Thổ nhiều thì bất Hỉ, Kỵ Kim, Thủy.

C. HÀNH THỔ:

1. Thổ của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Hỏa khí Tràng Sinh, Mộc khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, nên Thổ của tháng Giêng Thổ hàn (khí lạnh) đang giảm, khí thế cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, Kỵ Mộc khắc chế thái quá, Kỵ Thủy tràn lan, Hỉ Thổ phù trợ. Được Kim chế Mộc là cát tường, nếu Kim đa (nhiều) thì khí Thổ bị Bệnh.

2. Thổ của tháng Hai: Khí Thổ của tháng Hai, Hỏa khí Mộc Dục, Mộc khí Đế Vượng, Kim khí vào Tử, nên Thổ của tháng Hai khí thế vẫn cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, gặp Thổ tỷ trợ là tốt, gặp Mộc nhiều thì Hỉ Kim chế Mộc.

3. Thổ của tháng Ba: Khí Thổ của tháng Ba, quý Thổ đương Lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí vào Suy, Thủy khí thì nhập, Hỉ Hỏa sinh phù, nếu quý Thổ quá vượng lại Kỵ gặp Mộc chế Thổ, vì Thổ Trọng thì Mộc bị gãy, nên Thổ vượng thì cần Kim để hoá, Hỏa thái Vượng thì Hỉ Thủy chế Hỏa.

4. Thổ của tháng Tư: Khí Thổ của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Kim khí Tràng Sinh, nên Thổ của Nhật, Nguyệt, tối Kỵ Thổ táo (khô), được Thủy nhuận tưới là tốt (Hỉ Thủy), Mộc trợ Hỏa thì viêm (quá nóng) dù Thủy khắc cũng vô hiệu, nên lấy Kim để sinh Thủy chế Mộc là tốt.

5. Thổ của tháng Năm: Khí Thổ của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Thủy khí vào Thai, nên Thổ của tháng Năm Hỏa, Thổ qúa nóng quá khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ, Kỵ Mộc trợ Hỏa thương thân (Mộc khắc Thổ, và Mộc sinh Hỏa thì Thổ trở thành táo khô), lại Kỵ Hỏa, Thổ khô táo.

6. Thổ của tháng Sáu: Khí Thổ của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy nhưng vẫn còn nóng, Thủy khí vào Dưỡng, Kim khí Quan Đới, nên Thổ của tháng Sáu khí thế vẫn còn táo khô, vẫn Kỵ Hỏa trợ thành táo khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ.

7. Thổ của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí vào Bệnh, Thủy khí thì Tràng Sinh, nên Thổ của tháng Bảy, Thổ suy Kim vượng, Kỵ nhiều Kim sẽ cướp mất khí của Thổ (vì Thổ bị tiết khí), Hỉ Hỏa phù Thổ và chế Kim, được Thổ tỷ trợ là cực tốt, nếu Mộc nhiều vẫn Hỉ Kim chế Mộc.

8. Thổ của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, vẫn là Thổ Suy, Kim vượng, nếu hàn (lạnh) khí trở thịnh lại càng Hỉ Hóa chế Kim và sinh Thổ, Hỉ Thổ tỷ trợ. (hỷ thủy nhuận thổ,kỵ hỏa táo nhiệt)

9. Thổ của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ nhưng Thổ vượng đắc Lệnh, Kỵ gặp Hỏa để sinh Thổ, phải lấy Giáp Mộc để tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tưới nhuận Thổ.

10. Thổ của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy Khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, Hỏa khí đã Tuyệt, nên Thổ của tháng Mười ngoài thì lạnh ở trong thì ấm, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, Mộc nhiều trợ Hỏa thì vô hại, gặp Thổ tỷ trợ là tốt.

11. Thổ của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một rất lạnh, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, nếu Thủy thái quá thì lấy Thổ khắc Thủy, Thổ quá vượng thì lấy Mộc tiết Thổ và trợ Hỏa, lại kỵ Kim sinh Thủy.

12. Thổ của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, trời lạnh đất cống, tối Hỉ Hỏa làm ấm thổ, Thổ nhiều thì Hỉ Mộc tiết khí Thổ và gặp Hỏa. Kỵ Thổ tỷ trợ, tuy nhiên, nếu chỉ gặp Thủy mà không có Hỏa và không có Mộc thì Hỉ Thổ chế Thủy.

D. HÀNH KIM:

1. Hành Kim của tháng Giêng: Khí Kim của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Kim khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Giêng tánh nhu mà thể nhược (yếu), khí hàn (lạnh) chưa hết, nên lấy Hỏa sưởi ấm Kim là thượng sách, nhưng sợ Thổ nhiều sẽ vùi lấp Kim, Thủy thịnh tất tăng hàn (lạnh) và lại đoạt mất khí Kim, còn Mộc vượng thì Kim bị tổn khí, Kim bị mẽ, gãy. Nếu được Kim tỷ trợ phụ giúp là tốt.

2. Hành Kim của tháng Hai: Khí Kim của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Kim khí vào Thai, Thủy khí đã Bệnh, nên Kim của tháng Hai vẫn suy nhược, Kỵ Thổ lấp Kim không thể sinh Kim, vẫn Hỉ Hỏa để cướp khí của Mộc và được Kim phù trợ. 3. Hành Kim của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Quý Thổ đang nắm lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí đã Bệnh, Kim khí vào Dưỡng, nên Kim khí của tháng Ba cũng Kỵ Thổ qúa trọng vì có thể lấp mất Kim, nên Hỉ dùng Mộc để chế Thổ, và Hỏa để sưởi ấm Kim.

4. Hành Kim của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Suy, Kim khí Tràng Sinh, nên Kim của tháng Tư hình, chất chưa hoàn bị, khí thể vẫn còn nhu nhược, vì Kim mới Tràng Sinh nên không sợ Hỏa, và Hỉ Thủy tưới nhuận, nhưng Kỵ Mộc trợ Hỏa tổn thương Kim, gặp Kim phù trợ thì lại mạnh thêm, gặp Thổ mỏng thì tốt, nếu Thổ hậu (dày, sâu) thì lấp mất ánh sáng của Kim.

5. Hành Kim của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Mộc khí đã Tử, nên Kim của tháng Năm tính chất vẫn còn mềm, Kỵ Hỏa qúa mạnh, Hỉ Thủy chế Hỏa để bảo tồn thân (Kim), tối Kỵ Thổ chế Thủy, Hỉ Kim tỷ trợ.

6. Hành Kim của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí vào Suy, Kim khí Quan Đới, Mộc khí nhập Mộ, Qúy Thổ đang nắm lệnh, nên Kim của tháng Sáu Kỵ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy nhuận Thổ để sinh Kim, bất Hỉ Thổ táo sinh Kim vì Thổ trọng sẽ lấp mất Kim, cũng Hỉ Kim tỷ trợ để sinh Thủy.

7. Hành Kim của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí đã Bệnh, Kim khí Lâm Quan, Mộc khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Bảy khí vượng mà lại cứng, bén, cần Hỏa trui rèn để thành khí cụ, nếu không Hỏa mà có Thủy thì Kim thanh Thủy tú (tối Hỉ), còn được nhiều Thổ tu bôi thì Kim bị vẩn đục, không tốt, nếu gặp Kim trợ thì trở thành quá cương sẽ gãy.

8. Hành Kim của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa Khí đã Tử, nên Kim của tháng Tám đương lệnh cực vượng, Kỵ Kim tỷ trợ, Hỉ Thủy tiết khí Kim, Hỏa lại luyện Kim, Mộc lại trợ Hỏa cũng nên.

9. Hành Kim của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí nhập Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Kim của tháng Chín Kỵ gặp Thổ vì có thể Thổ nhiều quá sẽ lấp mất Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tiết khí Kim, tối Kỵ gặp Thổ, và Kỵ Hỏa sinh Thổ.

10. Hành Kim của tháng Mười: Khí của tháng Mười, khí hậu biến hàn (lạnh), Kim khí vào Bệnh, Thủy khí Lâm Quan, nên Kim của tháng Mười nếu Thủy thịnh thì Kim sẽ bị chìm, Hỉ Thổ chế Thủy, Hỏa lại sưởi ấm Kim và trợ Thổ, cũng Hỉ Kim tỷ trợ.

11. Hành Kim của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, nên Kim của tháng Mười Một ở vào mùa Đông hàn, bất Hỉ Thủy hàn, Hỉ Hỏa sưởi ấm Kim, nên dùng Mộc tiết khí Thủy và trợ Hỏa để sưởi ấm Kim, nếu Thủy quá vượng thì cần Thổ để ngăn Thủy.

12. Hành Kim của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thổ lệnh lại đương quyền, Thổ ướt nhiều và dày, Thủy khí nhập Suy, Kim khí vào Mộ, nên Kim của tháng Mười Hai có thể bị Thổ ượt nhận chìm, Hỉ Hỏa giải lạnh và sưởi ấm Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ và trợ Hỏa, Kỵ Kim hàn thủy lạnh.

E. HÀNH THỦY

1. Hành Thủy của tháng giêng: Khí Thủy của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Thủy khí đã Bệnh, khí hàn lạnh vẫn còn, chưa hết, nên Thủy của tháng Giêng Hỉ Kim sinh phù, nhưng không thích Kim nhiều quá, nếu Thủy vượng thì cần Mộc mới huy nạp được thế, và cũng cần Hỏa để sưởi ấm Thủy, Hỉ Thổ chế Thủy vượng.

2. Hành Thủy của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Thủy khí đã Tử, nên Thủy của tháng Hai, rất Hỉ gặp Kim để sinh Thủy và khắc chế Mộc, nếu Thủy vượng nên có Thổ để ngăn Thủy.

3. Hành Thủy của tháng Ba: Khí Thủy của tháng Ba, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí đã Suy, Thủy khí nhập Mộ, nên Thủy của tháng Ba hình thể khô dần, Hỉ Mộc tiết Thổ, và Kim là nguồn sinh, khí hậu vẫn còn hơi lạnh, Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, lấy Mộc làm dụng thần, nếu Thủy ít thì cũng Hỉ Thủy đến tỷ trợ, Kim trợ sinh Thủy.

4. Hành Thủy của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Thủy khí đã Tuyệt, Kim khí Tràng Sinh, nên Thủy của tháng Tư đã gần Tuyệt, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim lại trợ Thủy.

5. Hành Thủy của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Thủy khí vào Thai, Kim khí Mộc Dục, nên Thủy của tháng Năm Kỵ nhập táo, nhiệt chi hương, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim là nguồn sinh.

6. Hành Thủy của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Thổ lệnh đương quyền, Hỏa khí đã Suy, Kim khí Quan Đới, Thủy khí nhập Thai, nên Thủy của tháng Sáu Kỵ Thổ trọng ngăn Thủy, và Hỏa trợ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy tỷ trợ và Kim là nguồn sinh, Mộc đến tiết Thổ.

7. Hành Thủy của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Thủy khí Tràng Sinh, Hỏa khí nhập Bệnh, nên Thủy của tháng Bảy Kim vượng Thủy tướng, trong ngoài thông suốt, được Kim trợ Thủy thì thanh khiết, nếu gặp Thổ vượng thì Thủy bị vẩn đục, nếu Thủy đa Hỉ Mộc để tiết khí, cũng Hỉ Thổ để ngăn nước, và gặp được Hỏa.

8. Hành Thủy của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, nên Thủy của tháng Tám thế của Thủy bắt đầu vượng, Hỉ Mộc tiết thế của Thủy, Hỉ Hỏa khắc Kim hộ Mộc, đồng thời sưởi ấm Kim và Thủy.

9. Hành Thủy của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Chín tuy Quan Dới nhưng, Qúy Thu Thổ vượng ngăn Thủy, nên Hỉ Mộc tiết Thổ, Kim lại sinh Thủy.

10. Hành Thủy của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, khí hậu biến hàn (lạnh), nên Thủy của tháng Mười thế Thủy cực thịnh, Hỉ Hỏa để sưởi ấm, Mộc tiết kỳ thế, nếu Thủy vượng thì nhờ Thổ để ngăn Thủy.

11. Hành Thủy của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, khí hậu cực hàn, nên Thủy của tháng Mười Một Thủy khí cường hàn (lạnh), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, Mộc tiết kỳ thế.

12. Hành Thủy của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thủy khí đã Tuyệt, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Mười Hai vì Thổ trọng và lạnh (cống), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thổ, Mộc lại tiết Thổ, nếu lấy Kim thì cũng cần Hỏa sưởi ấm Kim để sinh Thủy.

chú ý: trên đây là nguyên tắc chung của phép hỷ kỵ TB, được tác giả căn cứ để tính hỷ kỵ đối với Cục, Chính Tinh theo lệnh Tháng trong phép Hỷ kỵ của mình.

Bản dịch của TKQ, xin trân trọng cám ơn.

...

Dưới đây là các ví dụ trong các chương 5,6,7,8,9. Qua các ví dụ này ta hiểu phép hỷ kỵ đại đột phá của tác giả.

Ví dụ 1, nam mệnh ngày 3 tháng 11 năm 1953,giờ sửu.

Hỷ kỵ pháp yếu như sau:

1/ Mệnh cung,thân cung là hợi và sửu,đều thuộc Bắc phương cung,thủy khí

2/ Mệnh chủ đắc cự môn, cho nên lấy cục thủy làm trọng.Vì vậy giả thiết Can Ngày là Thủy.

3/ Mệnh cung chính tinh thái dương thuộc hỏa, đà la thuộc kim,linh tinh thuộc hỏa,hai hung tinh.

4/ Vì giả thiết Can ngày là thủy,lại sinh tháng 11,tức thủy của tháng 11.Vậy mệnh bàn đắc kim thủy âm hàn,nên Hỷ hỏa sưởi ấm, Hỷ mộc tiết thủy (độc giả tham khảo chương 4,thủy của tháng 11)

5/ Hỷ thần là mộc hỏa, đương nhiên kỵ thần là kim thủy

Sự thực:

22 tuổi, giáp dần niên kết hôn, 23 tuổi ất mão niên sinh con gái

24-27 tuổi hành mộc hỏa hỷ thần niên, công việc kiến trúc phát tài.

29 tuổi tân dậu niên, bị bạn bè nợ 100 vạn đồng, không đòi được. ( dịch giả chú: ứng câu: kim thủy niên là kỵ thần niên!)

p/s số thứ tự các ví dụ là do tvn ghi

Ví dụ 2, nam mệnh, ngày 18 tháng 1 năm 1945 al, giờ thân.

Sự thực: 22 tuổi học viện tốt nghiệp, 27 tuổi tân hợi niên kết hôn.

Giáp dần, ất mão lưỡng niên đại phát tài lợi.

Hỷ kỵ pháp yếu:

1. mệnh cung tọa ngọ, thân cung tọa tuất, tam hợp dần ngọ tuất hỏa cục, hỏa khí vượng.

2.mệnh chủ đắc phá quân tuyệt mệnh, nên lấy chính tinh thủ mệnh làm trọng. Chính tinh thủ mệnh thiên cơ mộc tinh, cho nên giả thiết Can ngày là Mộc, mộc của tháng 1. Khí tháng 1,mộc khí lâm quan, thủy khí nhập bệnh, hỏa vượng, cho nên hỷ thủy sinh mộc, hỷ mộc tỷ trợ.

Ví dụ 3, nữ mệnh, ngày 10, tháng 1, năm 1951 al, giờ tý

Sự thực:tình cảm tỏa chiết, 24 tuổi, giáp dần niên,tháng 5 al,uống thuốc độc tự sát, ko chồng, con

Hỷ kỵ pháp yếu:

1.Mệnh, thân cung đều tọa dần cung,mộc hỏa cường.

2.mệnh chủ đắc lộc tồn,cho nên ko lấy cục mộc làm trọng.

3.Chính tinh thủ mệnh thiên đồng thuộc thủy. Giả thiết can ngày là thủy,thủy của tháng 1,mệnh bàn mộc hỏa cường vượng, cung nội vô kim tinh, mệnh bàn ko có kim khí, cho nên hỷ Kim, hỷ thủy trợ.( đương nhiên kỵ Mộc!)

Ví dụ 4, nam mệnh,ngày 3,tháng 3 al,năm canh thìn, giờ hợi.

Sự thực: tốt nghiệp đại học, nhà 5 ace, công việc chuyên máy tính điện tử,thê hiền,con cái 1 trai, 2 gái.

42 tuổi, tân dậu niên, tháng 7,8 liên tiếp phát sinh họa: điện giật, khởi động xe gây nổ, cháy dẫn đến tố tụng.

Hỷ kỵ pháp yếu

1,mệnh tọa tỵ cung, thân tọa mão cung, mộc hỏa lưỡng khí.

2.mệnh chủ đắc vũ khúc, kim tứ cục là trọng. Gỉa thiết can ngày là Kim, kim của tháng. Tuy nhiên cung nội ko có kim tinh, mà có tham liêm mộc hỏa tinh. Vậy toàn thể cung mệnh là mộc hỏa khí,cho nên luận theo mộc hỏa, hỷ mộc hỏa kỵ kim thủy.

Ví dụ 5: Nữ mệnh,ngày 1 tháng 11 al, canh dần, giờ mùi.

Sự thực: trước 22 tuổi gia đình nghèo khổ.Cao thương tốt nghiệp, 9 ace.

29 tuổi, mậu ngọ niên bị bạn trốn nợ mất 17 vạn đồng.Cùng năm hôn nhân bất thành, bạn trai bỏ đi.

Hỷ kỵ pháp yếu

1 mệnh tọa tỵ cung, thân tọa mùi cung, nam phương hội thuộc hỏa, cục nội hỏa vượng.

2.mệnh chủ đắc vũ khúc, nên giả thiết can ngày là kim, kim của tháng 11. Cung mệnh kiến thiên phủ thổ tinh, hỷ thủy tẩy kim.Cung nội ko có kim tinh, hỷ kim tới tỷ trợ. Cho nên bản mệnh ứng kim thủy là hỷ, kỵ thổ cùng hỏa nhiều gây táo nhiệt.

Ví dụ 6: Nam mệnh, ngày 21 tháng 9 al,năm nhâm thân 1932, giờ hợi

Sự thực: đại học tốt nghiệp, 23 tuổi giáp ngọ niên kết hôn,sinh 3 trai.

43-45 tuổi làm về kiến trúc, kỷ mùi niên doanh lợi Ngàn vạn đồng.

49 tuổi, canh thân niên nghề kiến trúc bất lợi, thất thoát 900 vạn đồng.

50 tuổi,tân dậu niên, tuyên bố phá sản.

Hỷ kỵ pháp yếu:

1.mệnh tọa hợi cung, thân tọa dậu cung, kim thủy lưỡng vượng.

2. mệnh chủ đắc cự môn, cho nên lấy kim làm trọng.Cung nội kiến thiên đồng thủy,lộc tồn thổ. Vì có thổ tinh, đối cung đại cát tinh hóa lộc khả khắc thủy,cho nên ko theo kim thủy cách, mà ứng cách hỷ hỏa đến sinh thổ,hỷ mộc đến tiết thủy thế. (đương nhiên kỵ Kim )

Ví dụ 7 Nữ mệnh, ngày 4 tháng 10 al, năm 1940, giờ hợi.

Sự thực: 32 tuổi, tân hợi niên, bệnh tử cung phải mổ,có sinh ko có con.

Hỷ kỵ pháp yếu:

1,mệnh cung tọa tý, thân cung tọa tuất, mệnh bàn thủy thổ khí lưỡng vượng.

2,mệnh chủ đắc tham lang sinh khí,nên lấy hỏa cục làm trọng. Giả thiết can ngày là hỏa, hỏa của tháng 10.

3.mệnh cung đắc vũ khúc kim tinh cùng hóa quyền mộc tinh,lại đắc thiên phủ thổ tinh đều tọa thủy cung, hai khí thủy thổ lưỡng vượng, cho nên hỷ hỏa, hỷ mộc tới sinh trợ, kỵ kim thủy

Tôi xin tạm dừng ở đây,thiết nghĩ các bạn đã rõ nội dung của phép Hỷ kỵ này qua các ví dụ trên.

Các bạn dựa theo phép hỷ kỵ này thử nghiệm lý trên ls của mình xem sao. Tôi cho rằng, độ chính xác của phép này khá cao.

Nghe gì về "manh phái" (phái thầy mù)?

Nguyên tác (bạch thoại): Đoàn Kiến Nghiệp

Dịch: VDTT

“Hệ thống manh phái không dùng một số công cụ của mệnh lý truyền thống, lại phế bỏ nhật chủ vượng suy và dụng thần, cách cục bản lai cũng không dùng. Đương nhiên, nói phế bỏ thì không chính xác lắm, vì trong hệ thống manh phái, không có những quan niệm nhật chủ vượng suy và dụng thần, đó là đặc điểm lớn nhất của phái này.

“Vậy manh phái làm sao xem mệnh? Đầu tiên phải khẳng định rằng manh phái có khẩu quyết; nhưng những khẩu quyết này không phải là chìa khóa vạn năng, bởi vì thầy Hác có rất nhiều sư huynh đệ, cùng học những thứ giống nhau, nhưng các sư huynh đệ ấy không đoán chuẩn bằng thầy Hác. Học với thầy Hác một thời gian tôi mới biết, rất nhiều thứ trong mệnh lý là do thầy tự phân tích ra, còn khẩu quyết chỉ là một số khái niệm cơ bản; phần hơn là dựa vào “ngộ tính” của thầy. Cái mà hệ thống này giảng là “ngộ tính”. Ở đây (dgc: Ý nói trong sách “Manh phái mệnh lý: Tu đính bản”) chỉ giảng một số lý luận căn bản và phương pháp, những gì thâm sâu hơn ở tầng sau đòi hỏi “ngộ tính” của chúng ta, mỗi người tự mình lần hồi hiểu ra thôi.

“Nhưng tại sao không tìm dụng thần, không xét nhật chủ suy vượng mà có thể đoán được mệnh? Điểm này liên hệ đến vấn đề cơ bản của mệnh lý. Bản chất của mệnh lý là gì? Bản chất của mệnh lý là biểu thuật đời sống. Cái lý đằng sau mệnh lý và đời sống của chúng ta như nhau, là cái bóng thu nhỏ rồi lại hiện ra của đời sống chúng ta. Nhật chủ vượng suy chẳng thuyết minh được gì, cũng chẳng đại biểu năng lực của mệnh chủ lớn nhỏ hoặc thân thể tốt xấu, càng không thể giải thích quỹ tích mệnh vận của mệnh chủ, chẳng có ý nghĩa thực tế nào cả. Đơn thuần tìm kiếm dụng thần và kị thần khiến sự lý giải của chúng ta đối với mệnh lý trở thành phiến diện và cứng ngắc. Mất đi khả năng nắm bắt cái mặt phong phú nhiều sắc thái của mệnh vận. Bởi vì đời sống vốn phức tạp và biến hóa, không có bạn bè vĩnh viễn, không có kẻ địch vĩnh viễn; sao lại có thể tưởng tượng một hai dụng thần bầu bạn chúng ta đến hết cả đời?”

(dgc: Đến đây là hết phần so sánh manh phái với cách xem Tử Bình truyền thống. Kế tiếp là phần giới thiệu các kỹ thuật xem số của manh phái).

“Hệ thống manh phái cho rằng mệnh lý diễn tả đời sống. Thế mệnh lý diễn tả đời sống bằng gì? Lại nữa, nó diễn tả đời sống như thế nào? Chúng ta cần hiểu một số công cụ mà các vị thầy mù (dgc: dịch nghĩa từ “manh sư”) xử dụng để diễn tả đời sống. Vì thầy mù đa số dạy theo lối khẩu thụ tâm truyền (dgc: Người trước nói, người sau nghe mà lĩnh ý), không để lại văn tự thành hệ thống, thành ra chúng ta phải sáng tạo ra một số khái niệm trước đây chưa có để tìm hiểu hệ thống này.

“Một: Khái niệm ‘chủ khách’

(dgc: Có lẽ trong ý hướng cải cách ông Nghiệp muốn tránh hai từ cũ “chủ khách”, nên trong nguyên tác Hán tự ông viết “tân chủ” cho mới mẻ. Dịch đúng thứ tự mà khỏi sợ hiểu lầm thì chỉ có “khách chủ”, nhưng vì người Việt quen “chủ khách” hơn nên mạn phép dịch như thế để khỏi vô tình tạo ra những lấn cấn ngôn từ không cần thiết. Xin lỗi ông Nghiệp vậy.)

“Khái niệm này trong manh phái có ý nghĩa đặc biệt. Chủ khách cho chúng ta biết cái gì là ta, cái gì là người khác. Rất nhiều thuật đoán mệnh của Trung quốc có luận ‘chủ khách’. Trong lục hào thì hào thế là chủ, hào ứng là khách. Hào trong quẻ là chủ, ngày tháng và hào biến là khách. Phong thủy, kỳ môn, lục nhâm, mai hoa dịch số v.v… thảy đều luận ‘chủ khách’, khác nhau chẳng qua là họ có thể gọi khái niệm là ‘chủ khách’, ‘thể dụng’, ‘thiên địa nhân’ v.v… nhưng đều cốt diễn tả cái quan hệ ‘chủ thể tự ta’ và ‘khách thể ngoại vật’. Kỳ thật đời sống chúng ta cũng như thế, những quan hệ phát sinh giữa chúng ta và thế giới bên ngoài cấu tạo thành mệnh vận của chúng ta.

“Chủ khách là một khái niệm có tính tầng thứ. Mọi người đều biết nhật chủ là ta, những can chi khác là người khác, là những thực thể mà ta đối diện, là ‘khách’. Nhưng mỗi một can chi cũng có ý nghĩa riêng. Dưới nhật chủ đại biểu người hôn phối, tháng đại biểu cha mẹ, anh chị em, năm đại biểu ông bà, giờ đại biểu con cháu, đều là những thực thể mà ta đối diện. Hiểu bấy nhiêu rồi, thì có thể phân tầng thứ: Trụ ngày là ta và vợ hoặc chồng ta, đại biểu gia đình của ta. Gia đình của ta cũng đối diện những gì ở ngoài, có gia đình của cha mẹ, có gia đình của con cháu, có gia đình của anh, của chị, của em v.v… Như vậy trụ ngày là chủ, các trụ khác là khách. Rồi ta và con cháu ta là gia đình ta, đối diện với những gì ở ngoài; như vậy trụ ngày và trụ giờ là chủ, trụ năm và trụ tháng là khách. Rồi toàn thể bát tự là đại gia tộc của ta, đại vận và lưu niên là ngoại lai, từ bên ngoài đến tác dụng vào bát tự, sinh ra ảnh hưởng trên bát tự. Như vậy, bát tự là chủ, đại vận lưu niên là khách.

“Đó là khái niệm chủ khách.

“Tỷ như nói quý vị muốn làm quan hay là muốn có tiền thì xem tài, quan ở vị trí nào trong bát tự. Như quả tài, quan ở vị chủ thì là tài, quan của ta. Còn như tài, quan ở vị khách thì là tài, quan của người khác. Định vị như vậy xong rồi lại xem chủ và khách quan hệ thế nào, thông qua những tác dụng quan hệ mà luận xem tài, quan có quan liên đến ta không, có thể trở thành của ta không. Như thế quý vị thấy rõ, việc luận bát tự và nhật chủ vượng hoặc suy kỳ thật chẳng có liên hệ trọng đại nào cả. Chỉ có trong quan hệ chủ và khách, tức là sự giao vãng của cá nhân trong xã hội, mới thể hiện cái năng lực lớn hoặc nhỏ cũng như phú quý bần tiện.

“Chủ ----------------Khách

“Nhật chủ---------Các can chi khác

“Trụ ngày---------Trụ năm, tháng, giờ

“Trụ ngày,giờ----Trụ năm, tháng

“Tứ trụ-------------Đại vận và lưu niên

Mộ khố phải mở

(Đoàn Kiến Nghiệp)

Tài Quan lâm mộ, hỷ hình xung. Có 3 cách xung mộ, thứ nhất là trực tiếp xung mộ, cách thứ hai là xung thần của mộ, cách thứ ba là xung mở thiên mộ.

1) Càn tạo: Bính Ngọ-Tân Sửu-Kỷ Mão-Tân Mùi

Đại vận: Nhâm Dần/Quí Mão/Giáp Thìn/Ất Tị/Bính Ngọ/Đinh Mùi/Mậu Thân

Mệnh này là của một ông quan to mà Hác tiên sinh lúc còn sống có xem qua. Sinh năm 1906. Đoán ông ta vận Giáp Thìn đi tù 10 năm, vận Bính Ngọ, Đinh Mùi làm quan rất to, Mậu Thân bị nạn.

Nguyên cục Sửu Mùi xung mở kho Sát, Sát tinh có kho nên có công, do đó có thể làm quan to. Đại vận Giáp Thìn phản cục, cho nên đi làm Cách mạng mà bị Quốc dân Đảng bắt bỏ tù 10 năm. Sau giải phóng nhậm nhiều chức lớn trong đó có chức Thị trưởng thành phố Thiên Tân, đến vận Mậu Thìn lại thành phản cục, trải qua 10 năm Cách mạng Văn hóa.

2) Khôn tạo: Mậu Thân-Giáp Dần-Kỷ Mùi-Tân Mùi

Ngày Kỷ Mùi thì mộ không mở, may nhờ có Dần Thân xung, xung thần của mộ (Mộc), cái này gọi là "ở bên cạnh mà mở kho". Mộ khố hữu dụng cho nên có thể phát nhờ kinh thương, tài sản mấy chục triệu Tệ.

Hỏi: Thương Quan gặp Quan sao không có họa?

Đáp: Thương Quan gặp Quan tại tân (khách) vị, tức là người khác có tai họa, do người khác bị họa mà làm cho cô ta dễ phát tài.

Trên thực tế quả đúng như thế.

3) Càn tạo: Tân Hợi-Ất Mùi-Kỷ Mùi-Quí Dậu

Đại vận: Giáp Ngọ/Quí Tị/Nhâm Thìn/Tân Mão/Canh Dần

Địa chi mộ khố không mở, thấu Tân Ất tương xung là thiên can mở kho. Người này vận Nhâm thì phát, vô tiền hơn trăm triệu Tệ. Nhưng vận Thìn vừa hợp Dậu, lại mộ Mùi (Durobi chú: Ý của ĐKN là Mùi nhập mộ vào Thìn, vì Thìn là khố của Thủy và Thổ), kho Mùi không mở, bắt đầu mất tiền. Trong 5 năm mà tài sản cả trăm triệu bay biến mất. Hiện chuyển sang đại vận Tân Mão, bắt đầu khởi sắc trở lại.

Người này làm bất động sản, trong vận Thìn của anh ta lại chính là lúc ngành bất động sản ở TQ đang ngon ăn ấy thế mà bị thua lỗ! Đúng là mệnh trời khó cưỡng.

* Mộ khố đã mở rồi thì sợ bị mộ lần nữa, ví dụ 1 và 3 đã đề cập. Mộ khố chưa mở mà lại bị mộ thì có một ví dụ sau:

Càn tạo: Quí Mão-Kỷ Mùi-Tân Mùi-Quí Tị

Mùi là kho Tài, nguyên cục không mở, vào vận Thìn của đại vận Bính Thìn, làm Công vụ viên nhà nước rất oách! Vừa qua vận Thìn một cái thì chìm luôn, phải đợi đến vận Sửu mới lên lại được.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ghi chép các bài viết hay về Tử Vi trên các diễn đàn

Đền Thờ Vua Hùng - Thành Phố Hồ Chí Minh

Đền thờ vua Hùng còn được gọi với tên khác là Đền Hùng vương hay Đền Hùng, trước đây còn có tên Đền Quốc tổ Hùng Vương, đây là ngôi đền vua hùng lâu đời
Đền Thờ Vua Hùng - Thành Phố Hồ Chí Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tưởng nhớ công lao to lớn của các Vua Hùng đã có công dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã đã lập ra đền thờ Vua Hùng không chỉ ở miền Bắc mà cả trong nam. Nếu như ngoài bắc nổi tiếng với Đền Hùng – Phú Thọ thì trong Nam Đền thờ Vua Hùng hiện tọa lạc tại số 2, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Bến Nghé, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một những ngôi đền thờ Vua Hùng lâu đời nhất của nước ta.

Đền thờ vua Hùng còn được gọi với tên khác là Đền Hùng vương hay Đền Hùng, trước đây còn có tên Đền Quốc tổ Hùng Vương. Đây là một trong những nơi thờ vua Hùng Vương lâu đời tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Lịch Sử: Năm 1926, nhà cầm quyền Pháp cho xây dựng cạnh cổng chính trong khu vực Thảo Cầm Viên Sài Gòn, đối diện với Viện Bảo tàng Blanchard de la Bross (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh), một ngôi đền mang tên Đền Kỷ niệm (Temple de Souvenir), để tưởng niệm những người Việt tử trận vì đi lính cho Pháp trong Thế chiến thứ nhất.

Sau năm 1954, đền được đổi tên là Đền Quốc Tổ Hùng Vương, và thờ thêm một số nhân vật lịch sử khác, như: Lê Văn Duyệt, Trần Hưng Đạo… Năm 1975, đền đổi tên là Đền Hùng Vương, và giao cho Bảo tàng lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh quản lý cho đến nay.

Kiến Trúc: Đền Thờ Vua Hùng (Thành phố Hồ Chí Minh) có lối kiến trúc gần giống như các đền ở Huế, với bộ mái chồng diêm, thêm một hàng hiên phía trước, tại thành ba tầng mái cong. Các họa tiết trang trí có hình rồng và phượng theo thể cung đình. Các bậc đá lên xuống các cửa, hai bên đều có đôi rồng chầu.

Trong đền, trên các bao lơn xung quanh, có chạm khắc các hình: hạc, lân, qui, phượng, tô đắp tinh xảo và sơn màu đỏ như son. Các lỗ thông gió xung quanh cũng được chạm khắc. Đền được chống đỡ bằng 12 cây gỗ mật màu đen bóng, đường kính khoảng 50 phân, tượng trưng cho thập nhị chi: tý, sửu, dần, mẹo… Tất cả đều theo phong cách nghệ thuật thời nhà Nguyễn, tổng thể tòa nhà phảng phất Minh lâu ở Hiếu lăng.

Ở trung tâm chánh điện đặt ngai thờ vua Hùng. Ngoài ra, nơi đây còn có bài vị thờ tổ tiên, bách tính, lương thần và danh tướng. Trước bàn thờ có bộ vũ khí bát bửu, chiêng trống. Xung quanh đền có các hộp hình, tranh ảnh giới thiệu khái quát thời đại nguyên thủy và thời đại các vua Hùng về nhiều mặt, như: trồng trọt, săn bắn, đánh cá và các nghề như: đúc đồng, dệt vải, sản xuất gốm, chế tạo các loại vũ khí…

Mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, nơi đây đều có tổ chức lễ giỗ trọng thể, để ghi nhớ công ơn dựng nước Việt của các vua Hùng. Lễ gồm 2 phần: lễ dâng hương và lễ hội. Ðền chỉ đóng cửa ngày thứ hai, các ngày còn lại trong tuần đều mở cửa.

tượng voi
Tượng voi đồng lớn nhất Việt Nam bên phải đền Hùng (TP. Hồ Chí Minh)

Bên phải Đền Thờ Vua Hùng (Thành phố Hồ Chí Minh), có đặt một tượng voi đồng lớn nhất Việt Nam. Voi nặng hơn ba tấn, cách tạo hình và nét chạm khắc rất mỹ thuật, tiêu biểu cho nền thủ công tinh xảo của vương quốc Thái Lan. Voi được đặt trên bệ làm bằng xi măng hình khối chữ nhật. Bốn mặt bệ, có gắn bốn biển đồng lớn cũng hình chữ nhật. Cả bốn biển đều có khắc dòng chữ lưu niệm giống như nhau, bằng bốn thứ tiếng: Việt, Thái, Anh, Pháp.

Hàng ngày, vẫn có hàng trăm lượt người dân và du khách đến đây thành kính thắp hương tưởng nhớ, tri ân công đức các bậc tiền nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Thờ Vua Hùng - Thành Phố Hồ Chí Minh

Xem xét kỹ lưỡng khi mua nhà –

(1) Cửa của các phòng có đóng mở dễ dàng không? Một số nhà làm ẩu thường không đóng được cửa. (2) Có. khe hở giữa cửa vói tường xi măng hay không? Khung cửa sổ là nơi dễ va đập, chỗ ghép giữa cửa sổ với tường phải khít, không được có khe hở (3) Đóng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thuy-sy

(1) Cửa của các phòng có đóng mở dễ dàng không? Một số nhà làm ẩu thường không đóng được cửa.

(2) Có. khe hở giữa cửa vói tường xi măng hay không? Khung cửa sổ là nơi dễ va đập, chỗ ghép giữa cửa sổ với tường phải khít, không được có khe hở

(3) Đóng mở cửa sổ ở các phòng có bị dít quá không? Mở và đóng có dễ dàng không?

(4) Nền nhà vững chắc không, có nứt vỡ, lõm xuống, khi đi có phát ra tiếng kêu hay không?

(5) Trên trần nhà có phải bị nứt hay không? Thường thì đưòng rạn nứt song song với dầm ngang ngôi nhà là chuyện thường gặp, tuy có vấn đề về chất lượng nhưng về cơ bản thì vẫn sử dụng được. Nếu đường rạn nứt tạo góc nghiêng 45 độ với góc tưòng, thậm chí vuông góc với dầm ngang thì chứng tỏ nhà bị lún khá nghiêm trọng, có vấn đề đáng quan tâm về chất lượng của kết cấu.

(6) Trên trần nhà có phải có điểm lỗ rỗ? Những điểm rỗ này được tạo ra do nước vôi chưa được tôi kỹ. Nếu trần bị rỗ sẽ ảnh hưởng không tốt đến việc trang trí của căn phòng.

(7) Tường, trần nhà có chỗ nào bị lồi lên không? Dùng gậy gỗ gõ vào xem có tiếng kêu cộp cộp hay không

(8) Khi xả nước bồn cầu thoát có nhanh không? Tiếng nước chảy có bình thường không? Cái két nước có bị rò rỉ không?

(9) Chỗ tiếp nổi giữa bồn tắm, chậu rửa mặt với tường hay tủ chống thấm có hợp lý không?

(10)  Phòng vệ sinh, phòng bếp có lỗ thoát nước không, độ nghiêng có bình thường không, tuyệt đối không được nghiêng về phía cửa ra vào, nếu không nước sẽ chảy vào trong nhà.

(11) Thử xem tất cả các công tắc, ổ cắm, cầu dao tổng của các phòng có vấn đề gì không? Vị trí các mạch điện, truyền hình cáp, ổ cắm điện thoại cũng nên kiểm tra kỹ. 30% hỏa hoạn bắt nguồn từ sự cố về điện, điều này có mối quan hệ tướng quan với việc lắp đặt đưòng điện. Tăng số mạch điện kín có thể đảm bảo về tuổi thọ sử dụng dây điện, giảm bớt việc phát sinh sự cố đoản mạch.

(12) Trần nhà có bị thấm nưốc, rạn nứt hay không? Nếu bị thấm nước chứng tỏ có sự rò rỉ. Nếu bạn thuê căn hộ trên cùng thì việc quan sát xem trần nhà có bị rò rỉ nước hay không là việc bắt buộc phải làm.

(13) Nguyên liệu ông dẫn nưóc là gì? Hiện nay đa số ống dẫn nước được làm bằng đồng. Loại ống này có thể sử dụng an toàn trong 50 năm. Đồng có thể ngăn chặn vi trùng sinh sôi, tăng cường lượng đồng trong nước, có lợi cho sức khỏe.

(14) Thử xem công tắc bình nóng lạnh có hoạt động bình thường hay không?

(15) Các đường ống các phòng, phòng khách có phải lộ ra ngoài không? Có phải có đưòng ống xuyên qua? Vì có nhiều đưòng ống xuyên qua phòng sẽ khó cho việc trang trí, làm mất mỹ quan và ảnh hưởng đến tổng thể.

(16) Chất lượng nước máy như thế nào? Chú ý nước của do thành phố cung cấp và nguồn nước của riêng khu dân cư.

(17) Mặt tường, trần nhà có chỗ nào quá nghiêng, cong, tạo sóng, nhô lên, lõm xuống hay không? Cách đơn giản nhất là dùng đèn pin chiếu lên tường và trần nhà, khi đó chỉ cần nhìn qua là biết ngay có chỗ nào lồi lõm hay không.

(18) Kiểm tra xem trong nhà có sạch sẽ hay không? Có còn sót lại rác thải xây dựng hay không? Kiểm tra tất cả những nơi có thể và giỡ ra xem có rác hay không?

(19) Yêu cầu nhà khai thác đưa ra bản để án hoàn thành công trình và bản kê chi tiết diện tích đo đạc thực tế.

(20) Yêu cầu sách hướng dẫn sử dụng các sản phẩm lắp đặt trong nhà bêp, nhà vệ sinh, đồng thời hỏi rõ vấn đề bảo hành của các sản phẩm đó.

(21) Kiểm tra xem độ nghiêng của lỗ thoát nước trong phòng tắm, phòng bếp có đủ để nước đọng chảy ra ngoài hay không. Cách kiểm tra: đổ nước trực tiếp.

(22) Khi xem nhà nên mang theo một dụng cụ điện ba chạc loại dẹt (như sạc điện), cắm vào tất cả các ổ cắm để kiểm tra xem toàn bộ nguồn điện đã được lưu thông khắp căn nhà hay chưa.

(23) Khi đi xem nhà nên đem theo một cái thước đo, để đo tường, nền nhà có bằng phang hay không.

(24) Kiểm tra bồn tắm xem có bị thấm nước hay không. Cách kiểm tra: những vết nứt nhỏ khó có thể phát hiện bằng mắt. Đổ một chậu nước vào bồn tắm, đồng thời đánh dấu ở gần mặt nước, đến hôm sau lại đi kiểm tra vị trí nước, vì bị bốc hơi nên vạch nước có thể hạ đi một chút xíu nhưng nếu hạ một cách rõ rệt thì có thể bồn tắm bị rò nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem xét kỹ lưỡng khi mua nhà –

Ngôi nhà lồi ra thì cải tạo như thế nào? –

Ngược lại hoàn toàn với “góc thiếu”, “lồi ra” thường đem lại hiệu quả tích cực. Song không phải góc lồi nào cũng là cát lợi. Cải tạo góc lồi bằng cách: cắt bỏ phần lồi ra hoặc xây thêm vào phần lồi ra. Nếu nhà lồi ra ở hướng Đông Bắc thì xây thêm một

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngược lại hoàn toàn với “góc thiếu”, “lồi ra” thường đem lại hiệu quả tích cực. Song không phải góc lồi nào cũng là cát lợi. Cải tạo góc lồi bằng cách: cắt bỏ phần lồi ra hoặc xây thêm vào phần lồi ra.

av

Nếu nhà lồi ra ở hướng Đông Bắc thì xây thêm một gian nhà từ Đông sang Đông Nam. Nếu nhà lồi ra ở hướng Tây Nam thì có thể xây thêm một gian nhà từ Tây sang Tây Bắc, sử dụng cả hai cách trên có thể chuyển thành hướng cát. Nhưng sau khi xây thêm, không được cắt cử phạm vi sử dụng. Nếu như không đủ khả năng để cải tạo xây dựng thì đành phải trồng cây xanh ở hướng chếch ngoài của phần lồi ra Quỉ Môn, nhưng cách này chỉ có thể giảm nhẹ tai hoạ thôi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngôi nhà lồi ra thì cải tạo như thế nào? –

Chọn thùng rác chuẩn phong thủy cho gia đình

Thùng rác là đồ vật được xuất hiện thường xuyên trong các ngôi nhà Việt. Theo phong thủy, thùng rác mang nhiều uế khí, điều này không tốt cho gia vận.
Chọn thùng rác chuẩn phong thủy cho gia đình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thùng rác là đồ vật được xuất hiện thường xuyên trong các ngôi nhà Việt. Theo phong thủy, thùng rác mang nhiều uế khí, điều này không tốt cho gia vận. Hãy cùng ## tìm hiểu thêm về phong thủy thùng rác.


Chon thung rac chuan phong thuy cho gia dinh hinh anh
 
1. Vị trí thùng rác
Phương vị là nhân tố vô cùng quan trọng trong phong thủy, vậy nên gia chủ cần chú ý vị trí của thùng rác. Thông thường, thùng rác nên đặt tại hướng Đông Nam lệch Đông, Tây Bắc lệch Bắc, Đông Bắc lệch Bắc, đây đều là vị trí được cho là "lá rụng về cội". Khi thùng rác nằm tại vị trí trên thì gia vận sẽ không gặp vận xui, vận hạn
Tổng thống Obama: người đàn ông hội đủ thiên thời - địa lợi - nhân hòa
Nhân dịp chuyến thăm để thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt-Mỹ, hãy cùng điểm qua những nét nổi bật về mệnh cách của vị tổng thống này. 

2. Số lượng thùng rác

 
Bởi vì thùng rác là đồ vật tượng trưng cho sự ô uế nặng, vậy nên số lượng thùng rác trong nhà nên càng ít càng tốt, ví dụ như trong phòng ngủ, phòng bếp tốt nhất không nên đặt thùng, nếu không thì đem đến uế khí cho cả căn phòng, điều này không tốt đối với gia vận.
Chon thung rac chuan phong thuy cho gia dinh hinh anh 2
 
3. Kích cỡ thùng rác
 
Kích cỡ và thể tích thùng rác cần phải nhỏ, như vậy uế khí tồn tại trong phòng càng ít. Hơn nữa, khi kích thước thùng rác trong nhà càng nhỏ, thì tần suất đổ rác càng lớn, điều này giảm thiểu lượng uế khí tích trữ.
► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương
7 loại trà dưỡng sinh tuyệt vời trong tiết Tiểu Mãn Chi Nguyễn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn thùng rác chuẩn phong thủy cho gia đình

Tình yêu của người tuổi Tuất nhóm máu AB

Do tính cách sống hướng nội sâu sắc nên vẻ ngoài của những người tuổi Tuất thuộc nhóm máu AB khá lạnh lùng. Chỉ khi tiếp xúc, quen biết lâu ngày thì mọi người
Tình yêu của người tuổi Tuất nhóm máu AB

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Do tính cách sống hướng nội sâu sắc nên vẻ ngoài của những người tuổi Tuất thuộc nhóm máu AB khá lạnh lùng. Chỉ khi tiếp xúc, quen biết lâu ngày thì mọi người mới thấy được những ưu điểm của họ.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Trong tình yêu cũng vậy, những người này thường che giấu tình cảm của mình. Con tim họ chất chứa tình yêu nhưng lại không thể diễn đạt thành lời hay bằng hành động cụ thể. Bở vậy, đối phương phải là những người thực sự hiểu họ thì mới cảm nhận được tấm chân tình để cùng nhau xây dựng tổ ấm.

Họ được đánh giá là người bao dung, cao thượng. Nếu "nửa kia" của họ đem lòng yêu một người khác, họ sẵn sàng rút lui và lặng lẽ chúc phúc cho hai người đó mà không hề có ý tranh giành tình yêu.

Khi kết hôn, họ nên chọn bạn đời của mình là người hoạt bát, hài hước và nhiệt tình. Có vậy mới dung hòa những khiếm khuyết của nhau, cùng xây dựng cuộc sống hạnh phúc.

Phụ nữ tuổi Tuất sau khi kết hôn luôn nỗ lực hết mình để xây đắp, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Chính vì vậy mà đôi khi họ cũng cảm thấy mệt mỏi nên họ cần được sự quan tâm và động viên của chồng và con để hoàn thành tốt hơn thiên chức của người vợ, người mẹ trong gia đình.

(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình yêu của người tuổi Tuất nhóm máu AB

Mơ thấy có thai là điềm lành hay dữ?

Ngủ mơ thấy mình có thai là điềm lành hay dữ, với những người bình thường thì khi ngủ mơ thấy mình có thai mang điềm báo gì, có giải mã được không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngủ mơ là một hành động vô thứ mà ai cũng từng gặp phải, nhiều người thường không nhớ mình mơ gì những đối với nhiều người, giấc mơ đó có thể là ác mộng, in hằn trong tâm trí họ. Để giải mã được giấc mơ của mình thì họ phải cố gắng ghi lại chính xác những gì đã trải qua, mới hiểu được ý nghĩa sâu xa trong giấc mơ của họ.

Mơ thấy có thai là điềm lành hay dữ?

Xem thêm: Giải mã giấc mơ khi ngủ mơ thấy cá, thú

Để giải mã được giấc mơ có thai, bơi trong giấc mơ của bạn có nhiều hoạt động khác nhau nên được Phong thủy số phân chia ra như sau:

Nếu bạn kết hôn chưa lâu, luôn mong ngóng có một đứa con thì cũng có thể do áp lực cuộc sống và gia đình lên bản thân bạn quá nhiều khiến bạn bị mộng mị trong giấc mơ.

Thông thường những giấc mơ mình mang thai khá tốt đẹp, điềm báo này báo hiệu cho bạn sắp gặp may mắn và hạnh phúc.

Giải mã điềm báo ngủ mơ thấy mình mang bầu với người khác điều này có nghĩa rằng: Những dự định của bạn đã bị rẽ sang hướng khác so với mục tiêu ban đầu bạn đề ra.

Giải mã điềm báo ngủ mơ thấy giới tính thai nhi:

Nếu bạn ngủ mơ thấy mình mang thai và biết rõ đó là con trai hay con gái thì điều này thể hiện bạn đang quan tâm nhiều tới giới tính của đứa con của mình.

Nếu như con trai ngủ mơ thấy mình đang mang bầu thì rõ ràng họ đang mất tự tin và năng lực của bản thân có thể là do ảnh hưởng từ công việc, từ địa vị của họ.

Nếu ngủ mơ thấy mình mang thai nhưng em bé đã chết trong bụng thì điềm báo rằng kế hoạch của bạn đang có nguy cơ bị thất bại, hoặc không đạt được kết quả mà bạn mong muốn.

Nếu bạn ngủ mơ thấy một người nào đó có thai thì cho thấy bạn đang có một mối quan hệ khá tốt đẹp và thân mật với người này.

Nếu ngủ mơ thấy mình mang thai, nhưng bạn lại lo lắng hoang mang vì chưa thực sự đón nhận điều này. Điềm báo này có ý nghĩa rằng bạn đang lo sơ về việc làm của mình, không dám chịu trách nhiệm với sai lầm mà mình đã gây ra.

Ngủ mơ thấy người yêu của bạn đang mang bầu, điều này cho thấy tình cảm của hai bạn đã chín muồi, có thể tiến tới hôn nhân. Tuy nhiên, cũng có thể do hai người đã nếm trái cấm và chưa muốn kết hôn thì có thể điều bạn lo sợ hàng ngày ảnh hướng tới tâm lí của bạn khi ngủ dẫn đến giấc mơ này.

Xem thêm: Gieo quẻ bói Kiều


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy có thai là điềm lành hay dữ?

Tử vi thứ Hai 20/3

Kim Ngưu nhận được lời mời hẹn hò hoặc đi chơi. Nhân Mã nên suy nghĩ cẩn thận trước khi đưa ra kết luận. Bò Cạp có một ngày yên bình và rảnh rang để giải quyết chuyện cá nhân.
Tử vi thứ Hai 20/3

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

khi-12-chom-sao-rua-xe

cau-noi-nao-don-do-trai-tim-12-chom-sao-nam-1
cau-noi-nao-don-do-trai-tim-12-chom-sao-nam-2
cau-noi-nao-don-do-trai-tim-12-chom-sao-nam-3
Bạch Dương (21/3 - 20/4) Kim Ngưu (21/4 - 20/5) Song Tử (21/5 - 21/6) Cự Giải (22/6 - 22/7)
cau-noi-nao-don-do-trai-tim-12-chom-sao-nam-4
cau-noi-nao-don-do-trai-tim-12-chom-sao-nam-5
cau-noi-nao-don-do-trai-tim-12-chom-sao-nam-6
cau-noi-nao-don-do-trai-tim-12-chom-sao-nam-7
Sư Tử (23/7 - 22/8) Xử Nữ (23/8 - 22/9) Thiên Bình (23/9 - 22/10) Bò Cạp (23/10 - 21/11)
cau-noi-nao-don-do-trai-tim-12-chom-sao-nam-8
cau-noi-nao-don-do-trai-tim-12-chom-sao-nam-9
cau-noi-nao-don-do-trai-tim-12-chom-sao-nam-10
cau-noi-nao-don-do-trai-tim-12-chom-sao-nam-11
Nhân Mã (22/11 - 21/12) Ma Kết (22/12 - 19/1) Bảo Bình (20/1 - 18/2) Song Ngư (19/2 - 20/3)

Alexandra V (theo asiaone)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi thứ Hai 20/3

Cô dâu trước khi về nhà chồng cần có những thủ tục gì?

Trước khi cô dâu về nhà chồng luôn có những thủ tục cơ bản theo đúng phong tục cưới hỏi Việt Nam. Xem những thủ tục trước khi cô dâu về nhà chồng.
Cô dâu trước khi về nhà chồng cần có những thủ tục gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trước khi cô dâu về nhà chồng luôn có những thủ tục cơ bản theo đúng phong tục cưới hỏi Việt Nam. Xem những thủ tục trước khi cô dâu về nhà chồng.

Khi nhà trai bắt đầu đến đón dâu thì cô dâu cùng với chú rể đến trước bàn thờ gia tiên, khấu đầu làm lễ, tự khấn lạy xin tổ tiên chấp nhận kể từ nay nên vợ nên chồng, phù hộ cho trăm năm duyên ưa phận đẹp, cầm sắt giao hoà.

Cũng có thể nhờ gia trưởng khấn hộ cho có bài bản. Lễ xong, hai người đưa hộp trầu, bao thuốc, đi mời chào thân nhân, khách, bạn khắp một lượt, người nhà sau, những đám cưới có tổ chức thường đã có sự sắp xếp vị trí sẵn. Trong khi chào mời, cô dâu phải giới thiệu cho chú rể biết mối quan hệ để biết cách xưng hô.

Sau cùng, trước khi bước ra cửa để về nhà chồng là lễ tạ cha mẹ: Cha mẹ ngồi sẵn một phía ở cửa chính, nếu ông bà nội ngoại còn thượng tại có đến dự thì ông bà cũng ngồi chung một phía, nhưng ở ghế cao hơn.

  • Thời xưa cả đôi tân hôn phải lạy hai lạy, ngày nay châm chước, cúi đầu cung kính “Xin phép ông bà, cha mẹ con về nhà chồng”, “Xin phép ông bà, cha mẹ con xin đón em X về”.
  • Lúc đó, cha mẹ ban phát cho con gái, con rể một vật gì đó làm kỉ niệm, có thể là nột cái bút, một gương soi nho nhỏ, một cuốn sách hoặc một chiếc khăn, chiếc quạt
  • Nhà giầu còn cho thêm hoa tai, nhẫn cưới hoặc quan tiền… (Chú ý, những thứ này nhà trai đã đưa đến hôm lễ nạp tài.
  • Trong gói quà của bà mẹ cho con gái có cái châm cài tóc, hoặc bảy chiếc kim đính tóc hoặc kim khâu gói trong khăn vuông).

Đối với ông bà cũng có những động tác tương tự.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cô dâu trước khi về nhà chồng cần có những thủ tục gì?

Chân lý cuộc đời trong lời Phật dạy về sự tiến bộ

Chân lý cuộc đời không thuộc về sự đúng sai, được mất, hơn thua, khen ngợi hay chỉ trích. Lời Phật dạy về sự tiến bộ muôn đời vẫn còn nguyên giá trị.
Chân lý cuộc đời trong lời Phật dạy về sự tiến bộ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chân lý cuộc đời không thuộc về sự đúng sai, được mất, hơn thua, khen ngợi hay chỉ trích, mà thuộc về những người có hiểu biết chân chính, thấy và biết đúng như thật, sống vì mọi người với tinh thần trách nhiệm cao. Lời Phật dạy về sự tiến bộ muôn đời vẫn còn nguyên giá trị.


Chan ly cuoc doi trong loi Phat day ve su tien bo hinh anh
 
Con người sống trên đời thường hay so sánh, bì tị với người khác, dòm ngó những lỗi sai của thiên hạ, vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết, cố chỉ ra những điều chưa hay, chưa tốt để chế nhạo. Đó không phải lẽ sống chân chính, không phải là lý tưởng để phát triển. Phật dạy về sự tiến bộ tức là thay vì tốn thời gian chỉ trích người khác, hãy tự nhìn nhận lại bản thân mình.
 
Thái độ phê bình chỉ trích chê bai kẻ khác, đó là thái độ tối kỵ nhất của người Phật tử chân chính. Nếu chúng ta thật sự là người tu hành, thì ta chỉ nên nhìn ngó lại lỗi mình, để lo sửa đổi cho tốt. Cốt lõi của sự tiến bộ không phải là ở hơn người mà ở tự hoàn thiện bản thân mình. Trong Kinh Pháp Cú Phật dạy:
 
                  Không nên nhìn lỗi người,                    Người làm hay không làm.                Nên nhìn lại chính mình,              Có làm hay không làm.
 
Người Phật tử chân chính là không nên nhìn lỗi của người khác, vì khi nhìn thấy lỗi của người, thì lỗi của mình đã hiện ra, bởi tâm ganh ghét tật đố kị. Một khi chúng ta đã phát hiện ra sự khiếm khuyết của người khác, thì ngay chỗ khởi tâm động niệm đó, đã dấy lên phiền não rồi.
 
Người Phật tử chân chính sống biết buông xả, không cố chấp chỉ quay bên trong quán xét tâm mình, nhìn thấy lỗi mình mà cố gắng sửa sai để cho tâm được thanh tịnh, nếu có ai chỉ lỗi cho mình thì mình nên chân thành cám ơn họ, vì họ là thiện hữu tri thức giúp ta sống tốt hơn.
 
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh Lục Tổ nói: “người thật sự tu đạo thì không thấy lỗi thế gian”, thật là lời dạy quý báu, chúng ta nhất định phải ghi nhớ lời này, để làm bài học tiến tu. Vậy nên người thật sự tu học là biết cách tu sửa bản thân mình, không chỉ trích phê phán người khác.
► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm

Theo Phật giáo Việt Nam

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chân lý cuộc đời trong lời Phật dạy về sự tiến bộ

Luận sơ lược Tử vi Tuổi Dần

MẬU-DẦN 16 TUỔI (Sinh từ 28/1/1998 đến 15/2/1999). Mệnh: Thành Đầu Thổ (Đất trên đầuthành)
Luận sơ lược Tử vi Tuổi Dần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NAM: Cung khôn sao Kế-Đô, hạn Địa-Võng: Mẫu người thông minh đa tài, nhiều tham vọng. Đôi khi thiếu khiêm tốn và không chấp nhận hiện tại nên chức phận không bền. Tiền vận gian nan, trung vận lao đao, nhưng ly hương tự lập lại phú qúi giàu sang về hậu vận. Cuối đời có khuynh hướng tu hành, thích triết, thích đạo lý và tâm hồn hướng thượng. Nếu bạn là con út trong gia đình, dễ bị mồ côi. Sau này xây nhà cửa hay mở cơ sở làm ăn, nên chọn hướng chánh Tây hay Tây Bắc. Làm người có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh tài giỏi tới đâu mà không nắm lấy cơ hội học hành cho đúng lúc, chỉ ân hận suốt đời mà thôi. Ngay cả thiên tài cũng do những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Vậy tương lai được xây dựng bởi những gì ta đang cố gắng xây dựng hôm nay:

Năm nay tốt nghiệp lớp 9, nên bắt đầu luyện thi SAT. Hạn chế tối đa việc đi xa.

“Tuổi nhỏ hôm nay ráng học hành

Mai sau rạng rỡ bước công danh

Siêng năng chăm chỉ lo đèn sách

Đỗ đạt rạng danh, sự nghiệp thành.”

 

NỮ: Cung Tốn sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Mẫu người luôn phấn đấu, nhiều tham vọng, đôi khi háo danh, nóng nảy cố chấp và hơi lý tài. Tuy nhiên rất quán xuyến đảm đang, trở thành rường cột của gia đình. Tình duyên trắc trở buổi ban đầu, về sau lấy chồng hạp tuổi mới yên. Về già thích triết, thích đạo lý và có tâm hồn hướng thượng tu hành. Nếu bạn là con út trong  gia đình, dễ bị mồ côi. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam và Đông Nam. Làm người có ba điều đáng trách: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại đời này không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh tài giỏi tới đâu mà không nắm lấy cơ hội học hành cho đúng lúc, chỉ ân hận suốt đời mà thôi. Ngay cả thiên tài cũng là những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Vậy giờ nào việc ấy. Năm nay nên bắt đầu luyện thi SAT và hạn chế tối đa việc đi xa, xuất ngoại.

“ Cơm cha áo mẹ công thầy

Tuổi xuân học tập tháng ngày chăm lo

Tương lai vinh hiển ấm no

Yêu cuồng sống vội, hẹn hò không nên”

BÍNH-DẦN 28 TUỔI (Sinh từ 9/2/1986 đến 28/1/1987)

Mệnh: Lộ Trung-Hỏa ( Lửa trong lò)

NAM: Cung Khôn, sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Mẫu người can đảm, tự tin. Lúc nhỏ hay bệnh, hơi khó nuôi. Mặc dù có óc lãnh đạo, có tài chỉ huy, dám nói dám làm nhưng không gặp thời nên tiền vận gian nan. Nếu bạn là con út trong gia đình thì đời sống tình cảm của song thân không mấy vui; nhiều khi gần cha xa mẹ, gần mẹ xa cha, đó là nghịch cảnh. Tuy nhiên, đôi khi nhờ nghịch cảnh trui rèn mà mai sau ứng phó được với khó khăn ngoài xã hội. Mua nhà đất hay làm ăn nên chọn hướng Tây và Tây Bắc. Tối kỵ màu đen, đi xe đen. Bản tánh hào hoa phong nhã, khi yêu thương thì rất đam mê, nồng nàn. Cưới vợ hợp với tuổi Kỷ-Tỵ (1989), Tân-Mùi (1991) và Ất-Hợi (1995).

“Mẫu người can đảm tự tin

Có tài lãnh đạo nhưng tình trái ngang

Tiền vận thật lắm gian nan

Hậu vận tốt đẹp đàng hoàng an vui”

Năm nay hạn chế đi xa, xuất ngoại bất lợi, công vụ trắc trở. Phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng tránh nằm đường. Uống rượu lái xe sẽ gây tai nạn nguy hiễm. Mọi việc ráng giữ nguyên tình trạng cũ mới có thể tránh bớt những xui xẻo rủi ro. Không nên đầu tư chứng khoán. Xấu nhứt là tháng 1, tháng 7 trong gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hoặc tang chế bà con.

NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người tự tin, nóng nảy nên dễ bị đụng chạm. Tuy nhiên rất nhiệt tình, thích giúp đỡ người khác. Nhờ đó có sự hồi báo mà thành tựu về hậu vận. Nếu bạn không phải là con út trong gia đình thì đang ở trong thuận cảnh. Nếu là con út trong gia đình thì có khi gần mẹ xa cha, hay gần cha xa mẹ. Làm ăn hợp với hướng Đông Nam và chánh Bắc. Lấy chồng hạp với những tuổi Đinh-Mão (1987), Đinh-Tỵ (1977), Quý-Sửu (1973), Quý-Hợi (1983), Tân-Dậu (1981) và Mậu-Ngọ (1978). Tối kỵ tuổi Giáp-Tí (1984). Cưới hỏi nên chọn ngày giờ tốt trong tháng 2 và 8 âm lịch, bất luận năm nào. Hạp màu đỏ, tối kỵ màu đen, đi xe đen.

“Trẻ lo nỗ lực học hành

Mai sau đỗ đạt xứng danh gái tài

Gia đình xây đắp tương lai

Ngôn từ dè dặt tháng ngày thảnh thơi”

Năm nay tối kỵ đi xa xuất ngoại, công vụ gặp nhiều trắc trở. Không nên thay đổi chỗ ở chỗ làm. Mọi việc ráng giữ nguyên tình trạng cũ. Trước khi lái xe đi xa phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, tránh nằm đường. Rất dễ bị phạt hay tai nạn xe cộ dễ xảy ra trong tháng 3, tháng 9. Cũng trong 2 tháng nói trên, trong gia đình có người bệnh hoạn, hay tang chế bà con. Nếu muốn sinh con, thì nên có thai sau tháng 6, để sinh con tuổi Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ 20 năm.

 

GIÁP-DẦN 40 TUỔI: (Sinh từ 23/1/1974 đến 10/2/1975)

Mệnh: Đại-Khê-Thủy ( Nước của khe lớn)

NAM: Cung Cấn, sao Thái-Bạch hạn Thiên-Tinh: Mẫu người thông minh hào hiệp, tự tin, tự lập, có óc lãnh đạo, có tài chỉ huy. Cuộc đời gặp nhiều may mắn, khá giả về tiền bạc. Thấy chuyện bất bình ra tay tương trợ. Thiếu niên tiền vô tay trái ra tay phải. Tuy nhiên tha hương lập nghiệp lại gặp nhiều cơ hội tốt để tiến thân. Tình duyên lận đận. Bạn trăm năm nên chọn các tuổi Giáp-Tí (1984), Canh-Tuất (1970), Tân-Hợi (1971), Nhâm-Tí (1972), Tân-Dậu (1981), Nhâm-Tuất (1982) và Qúi-Hợi(1983). Tuy nhiên tối kỵ tuổi Đinh-Tị (1977), Bính-Dần (1986) và Đinh-Mão (1987). Hạp màu trắng. Hướng nhà cửa và kinh doanh tốt nhất là Tây Bắc, và chánh Tây.

“Có tài lãnh đạo chỉ huy

Cuộc đời may mắn ước gì có ngay

Tình duyên đôi lúc lá lay

Chọn người thích hợp tương lai sáng ngời”

 Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn Tài” rất tốt cho việc xây cất nhà cửa, hay chỉnh trang cơ sở thương mãi làm cho tài lộc hưng thịnh hơn lên. Nếu có sự thay đổi chỗ ở, chỗ làm, hay đi xa xuất ngoại đều tốt. Bạn nào làm việc hãng xưởng sẽ được thăng quan tấn chức. Bạn nào kinh doanh thương mãi cũng thành công trên thương trường. Gia đình hỉ sự trùng phùng, như sanh qúi tử…

NỮ: Cung Đoài, sao Thái-Am, hạn Tam-Kheo: Mẫu người thông minh tự lập, dám nói dám làm. Rất cao số nên thường gặp trở ngại về hôn nhân. Tuy nhiên biết chiều chồng, lo cho con, hiếu thuận cha mẹ đôi bên. Nếu ly hương lập nghiệp lại gặp nhiều may mắn, nhất là kinh doanh thương mãi dễ làm giàu. Rất hạp với màu trắng. Tuổi chồng lý tưởng nhất là Quý-Sửu (1973), Quý-Mão (1963),  Ất-Mão (1975), Tân-Hợi ( 1971). Hướng làm ăn tốt nhất là Tây Nam, Đông Bắc, và chánh Tây.

“Hôn nhân trở ngại ban đầu

Tuổi người cao số về sau mới bền

Tài ba tự lập tiến lên

Ly hương sự nghiệp vững bền mai sau”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn Tài” rất tốt cho công cuộc xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi có thể giúp hưng thịnh thêm lên. Nếu có sự thay đổi chỗ ở chỗ làm hay đi xa xuất ngoại đều được thành công như ý. Bạn nào kinh doanh thương mãi, tài lộc thịnh vượng. Bạn nào làm công chức sẽ được thăng quan tấn chức. Năm nay sinh con cũng tốt. Tuy nhiên bạn nào làm việc nhiều bằng computer sẽ dễ bị đau mắt. Nếu muốn sinh con út, thì nên có thai sau tháng 6, để sinh con Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ 20 năm.

NHÂM-DẦN 52 TUỔI (sinh từ 5/2/1962 đến 24/1/1963

Mệnh: Kim bạc Kim ( Vàng pha kim khí trắng).

NAM: Cung Khôn, sao Vân-Hớn hạn Thiên-La: Mẫu người ngay thẳng, dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh. Nhờ tài lãnh đạo không nề gian khổ nên sau cùng đã chiến thắng được gian nan. Số phú quí giàu sang khi xa quê hương. Tình duyên trở ngại buổi đầu, nhưng về sau lại hạnh phúc vững bền. Chọn vợ lý tưởng trong các tuổi Giáp-Dần (1974), Quý-Sửu (1973), Nhâm-Tí (1972), Tân-Hợi (1971), Canh-Tuất (1970), Tân-Sửu (1961), Canh-Tí (1960), và Nhâm-Dần (1962). Tối kỵ tuổi Giáp-Thìn (1964) và Mậu-Ngọ (1978). Hạp màu vàng, kỵ màu  đỏ. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây, và Tây Bắc.

Tình duyên trở ngại ban đầu

Kiên tâm xây dựng về sau vững bền

Vợ chồng phúc đức tạo nên

Giàu sang phú quí chớ quên ơn Trời

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm“Nhứt Kiết” nếu muốn xây cất, chỉnh trang nhà cửa, cơ sở thương mãi, có thể  tiến hiện  được. Nếu dự tính có con năm này cũng không kỵ. Đầu năm không nên  đầu tư chứng khoán. Cuối năm dễ bị ngộ nhận gây miệng tiếng thị phi. Công vụ dễ gặp trắc trở. Phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, tránh bị nằm đường.

NỮ: Cung Tốn, sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Mẫu người ngay thẳng, cứng rắn với nguyên tắc nên nữ nhân mà nam tính, khó bị chi phối thuyết phục. Lòng đầy tự tin nhưng hơi cao số, dễ bị chậm trễ về chồng con. Tuy nhiên nhờ thông minh, luôn được tín nhiệm, được giao phó quyền cao chức trọng. Xa xứ ly hương sẽ giàu sang về hậu vận. Tuổi chồng thích hợp  là Ất-Tị (1965), Quý-Mão (1963), Nhâm-Dần (1962), Đinh-Dậu (1957), và Ất-Mùi (1955). Kỵ tuổi Giáp-Thìn (1964), Kỷ-Hợi (1959), Canh-Dần (1950). Nếu gặp 3 tuổi này, rất hiếm muộn con cái! Hạp màu vàng, kỵ màu đỏ. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam, và Đông Nam.

“Thông minh đầy đủ niềm tin

Nhân duyên chậm trễ do mình mà thôi

Hy sinh thương khó cho đời

Giàu sang hậu vận gặp thời thăng hoa.”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết” nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi có thể thực hiện được. Lái xe đi xa phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng tránh bị nằm đường. Việc làm ăn có chiều hướng thành công, nhất là trong những tháng 6, 10. Tuy nhiên tránh thưa kiện đáo tụng đình sẽ hoàn toàn bất lợi, hoặc thất bại.

CANH-DẦN 64 TUỔI: (Sinh từ 17/2/1950 đến 5/2/1951)

Mệnh: Tùng Bách Mộc (Gỗ cây tùng bách).

NAM: Cung Khôn sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Mẫu người tự tin, khôn ngoan, ứng phó được nghịch cảnh. Tuy nhiên  nóng nảy, hành sự độc đoán, cho nên phải âm thầm lo liệu trong cô đơn. Nhờ sáng trí thông minh, có tài lãnh đạo nên rồi tiền hung hậu kiết. Tiền vận trước 30, tình duyên trắc trở, hạnh phúc gia đạo cũng như công danh đều bất như  ý. Ly hương lập nghiệp lại sung túc thành tựu trong thập niên 40. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.

“Người thường nóng nảy độc tài

Tự mình lo liệu đêm ngày cô đơn

Thông minh sáng suốt ai hơn

Tình duyên trắc trở chớ hờn, số thôi”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn Tài” rất tốt khi xây cất, chỉnh trang nhà cửa. Không nên bỏ qua cơ hội tốt này, vì kết qủa có thể giúp việc làm ăn thăng tiến, phát đạt hơn. Tuy nhiên không nên đầu tư chứng khoán sẽ gặp khó khăn về tài chánh. Say rượu lái xe sẽ gây thảm họa. Xấu nhứt là tháng 1 và 7. Cũng trong 2 tháng này, những việc bất như  ý dễ xảy ra như bệnh hoạn hay tang chế bà con.

NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh: Rất cao số, dễ tin người, tình duyên trắc trở, nên hay chậm trễ về chồng con. Thiếu niên tân khổ, tự lực cánh sinh. Tiền vận vất vả nhưng ly hương thì sau 30 tuổi được phú quí an nhàn.  Qúy bà là người an phận thủ thường trong hạnh phúc của một người tìm được sự yên ổn của tâm hồn khi đã chu toàn bổn phận. Có số nhờ chồng nếu phu quân nhằm vào tuổi Ất-Dậu (1945) hay Tân-Mão (1951). Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam, và chánh Bắc.

“ Tánh người an phận thủ thường

Chu toàn bổn phận nhịn nhường chồng con

Tâm trung một tấm lòng son

Giữ gìn hạnh phúc vuông tròn thủy chung

Đạo đời hậu vận thung dung

Như Lai Bản Mục vui cùng hư không”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn tài” : không nên bỏ qua cơ hội rất tốt để xây cất nhà cửa, chỉnh trang cơ sở thương mãi; có thể giúp việc làm ăn thành công, thịnh vượng hơn lên. Tình trạng tài chánh được cải thiện tốt hơn. Muốn đi xa, xuất ngoại, sẽ có cơ hội thực hiện. Tuy nhiên, tháng 3, tháng 9  trong gia đình có người bệnh hoạn, hay tang chế bà con.

Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận sơ lược Tử vi Tuổi Dần

Những lưu ý phong thủy khi trang trí đèn chùm

Bên cạnh tác dụng trang trí, mang lại vẻ đẹp sang trọng cho ngôi nhà, đèn chùm còn là loại vật phẩm có thể mang lại năng lượng có ảnh hưởng tốt tới vận may và các mối quan hệ của gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong bất kỳ căn biệt thự hoặc tòa nhà sang trọng nào cũng có trang trí những chiếc đèn chùm to đẹp. Không chỉ có chức năng chiếu sáng và làm đẹp, đèn chùm còn có ý nghĩa phong thủy không nhỏ. Chúng được cho là có thể mang đến nguồn năng lượng dương mạnh mẽ giúp kích thích vượng tài. Dưới đây là 8 lưu ý phong thủy khi sử dụng đèn chùm và lý do giải thích tại sao bạn nên trang trí nó trong nhà.

1. Mối quan hệ và tiền tài

Trong các nhà hàng, thực khách thường có xu hướng tụ tập xung quanh các bàn sáng nhất. Chính đèn chùm đóng vai trò mang lại vận may tài lộc cho nhà hàng cũng như kích thích mối quan hệ của thực khách. Thực tế, đi ăn và xã giao bao giờ cũng đi đôi với nhau ở các thương vụ kinh doanh, nhất là với các nước châu Á. Chính năng lượng thổ của các tinh thể pha lê trên đèn chùm và năng lượng hỏa của ánh sáng giúp kích thích và hỗ trợ xuất sắc cho cả hai khía cạnh này.

2. Giúp gia tăng vận khí

Trong phong thủy, ánh sáng là một trong những chất kích hoạt năng lượng tốt lành nhất. Nó còn được tăng gấp đôi và gấp ba nếui ánh sáng được khúc xạ bằng đèn chùm pha lê lấp lánh. Bởi lẽ, lăng kính của các tinh thể đèn chùm sẽ tạo nên những tia nhiều màu rất tốt cho chi năng lượng. Tinh thể cũng chính là đại diện tinh khiết nhất và cao nhất của năng lượng Thổ.

3. Giúp hóa giải vận hạn

Các tinh thể bản chất thuộc Thổ sẽ giúp hóa giải nhiều vấn đề trong phong thủy như bếp và bồn rửa cạnh nhau. Nếu căn bếp bố trí như thế này, trong gia đình thường xảy ra xung đột giữa người đàn ông và người phụ nữ, tương ứng với cuộc đối đầu giữa nước và lửa. Nếu có đèn chùm, năng lượng của nó có thể hoạt động trung gian, giúp đánh tan những cuộc va chạm giữa hai nguồn năng lượng đối nghịch.

4. Mang lại năng lượng tích cực

Lắp đèn chùm ở khu vực tiền sảnh hoặc gần cửa trước chính là một cách rất tuyệt vời giúp thu hút chi năng lượng vào nhà. Năng lượng thanh khiết của tinh thể sáng sẽ giúp gia tăng chi năng lượng nạp vào ngôi nhà của bạn.

phong thủy đèn chùm
Đèn chùm mang lại năng lượng tốt cho không gian sống

5. Mang lại may mắn cho người phụ nữ

Trong gia đình, người phụ nữ tượng trưng cho đất và đèn chùm sẽ giúp "thắp sáng trái đất", mang lại những điều may mắn cho người phụ nữ cũng như mối quan hệ hôn nhân. Nó cũng giúp củng cố các mối quan hệ và tình yêu của mọi thành viên trong gia đình.

6. Mang lại năng lượng cho phòng ngủ

Nếu căn phòng ở trong trạng thái tối tăm, đèn chùm sẽ dễ dàng kích hoạt nó sáng lên. Tuy nhiên, cần lưu ý tránh để đèn chùm ở vị trí thẳng giường. Vì treo đèn ngay phía trên giường ngủ sẽ tạo ra cảm giác không an toàn, gây ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ.

đèn phòng ngủ
Đèn chùm kích hoạt ánh sáng và năng lượng dương cho phòng ngủ


7. Hạn chế đi lại dưới đèn chùm lớn

Đèn chùm mang lại nguồn năng lượng rất mạnh vì thế nó cũng tạo ra áp lực không nhỏ. Do đó, bạn hãy chọn loại đèn chùm cỡ nhỏ và vừa ở nhưng vị trí mọi người hay phải đi qua.

8. Giúp kích hoạt các góc quan trọng trong nhà

Ở bất kỳ vị trí nào trong nhà, đèn chùm cũng có thể kích thích vận khí, tuy nhiên chúng đặc biệt hữu ích nếu biết đặt hợp lý trong từng góc cụ thể. Chẳng hạn, dùng đèn chùm ở phía Tây và Tây Bắc, đây là nơi ánh sáng và năng lượng thổ có tác động tốt cho trẻ em và người đàn ông của ngôi nhà. Còn đèn ở phía Đông Bắc và Tây Nam sẽ giúp gia tăng mối quan hệ cũng như tạo ra không khí hài hòa trong gia đìn. Đèn chùm đặt ở góc phía Nam sẽ mang lại sự tài lộc và thành công.

(Theo Giadinh.net.vn)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý phong thủy khi trang trí đèn chùm

Giải mã giấc mơ: Bị đuổi đánh, bị truy đuổi, cảnh sát bắt –

Bạn đang nằm mơ ai đó truy đuổi? Bạn bị một toán người đuổi đánh hay bạn mơ thấy bị các con vật săn đuổi,...? Bạn sợ hãi và chạy thục mạng không dám quay đầu, chút nữa bạn bị đánh hay ai đó chém bạn?...rồi bạn tỉnh giấc và mang theo nỗi sợ hãi? Đừng
Giải mã giấc mơ: Bị đuổi đánh, bị truy đuổi, cảnh sát bắt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ: Bị đuổi đánh, bị truy đuổi, cảnh sát bắt –

Vận trình tình cảm của 12 chòm sao trong ngày Thất Tịch

Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá vận trình tình cảm của 12 chòm sao trong ngày Thất Tịch, xem ai là người đào hoa bậc nhất, ai chẳng được thần Cupid đoái thương
Vận trình tình cảm của 12 chòm sao trong ngày Thất Tịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mùng 7 tháng 7 ngày Thất Tịch, ngày lễ Tình nhân phương Đông đâu ai nỡ hững hờ. Người có đôi thì tình yêu nồng thắm, kẻ cô đơn sớm hạnh phúc chung đôi, có lẽ đó là điều mà ai ai cũng đều mong muốn. nhé.  

Bạch Dương


van trinh tinh cam cua 12 chom sao trong ngay that tich
 
Có thể nói vận đào hoa của chòm sao này trong ngày Thất Tịch vô cùng rực rỡ, tình yêu đến chẳng gì ngăn cản được. Tình yêu đi lên từ tình bạn, mối quan hệ đã thân nay lại càng thắm thiết hơn. Thực ra người ta để mắt đến bạn đã lâu rồi, chỉ là bạn vẫn vô tư xem người ta là bạn bè nên mới vậy thôi. Thất Tịch có lẽ chính là thời điểm mà người ấy sẽ chẳng thể nén nổi lòng mình mà bày tỏ tình cảm với bạn đó.  

Kim Ngưu

  Xem vận trình tình cảm của 12 chòm sao trong ngày Thất Tịch thì Kim Ngưu vẫn khá may mắn khi có thể gặp được người như ý trong ngày hôm nay. Có điều, hữu duyên tương ngộ là một chuyện, có thể phát triển thành tình yêu hay không lại là chuyện khác. Ngưu Nhi vốn là người hay lo lắng, lại cẩn trọng quá mức, trong chuyện tình cảm cũng chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện “tốc chiến tốc thắng” nên có thể sẽ để tuột mất cơ duyên cũng không chừng.  

Song Tử


chom sao bay to tinh cam ngay that tich
 
Về cơ bản thì vận tình duyên của Song Tử khá tốt, nhưng chuyện đó không liên quan mấy đến việc có thoát khỏi kiếp độc thân đâu nhé. Hoa rơi hữu ý mà nước chảy vô tình, đào hoa vượng mà không gặp được người thích hợp thì cũng khó mà nên cơm cháo gì.  

Cự Giải

  Khám phá bí mật 12 cung hoàng đạo, Cự Giải ấy à, tình duyên hôm nay cũng tàm tạm đấy. Nếu trong ngày Thất Tịch mà được bạn bè người thân giới thiệu đối tượng cho, gặp gỡ làm quen mà cảm giác không tồi thì chớ ngại ngần gì mà tiến tới ngay nhé. Thời buổi người khôn của khó, “hàng hiếm” như vậy mà không nhanh tay, bạn còn chờ người khác đến “nẫng tay trên” ư?  

Sư Tử


chom sao to tinh thanh cong ngay that tich
 
Tuy không đến mức đào hoa phơi phới nhưng trong ngày Thất Tịch, vận tình duyên của Sư Tử cũng không đến nỗi nào. Có thể bạn sẽ gặp được người trong mộng của mình, song nếu không chủ động thì cả hai sẽ để lỡ mất cơ duyên, vô tình đi lướt qua nhau mà thôi.  

Xử Nữ

  Thất Tịch có lẽ không phải là ngày may mắn về đường tình cảm của Xử Nữ, nhất là với những bạn mới chia tay người cũ. Chòm sao này vẫn còn đau buồn vì cuộc tình đã qua, lại mang thành kiến với nửa kia của thế giới nên dù đào hoa có tới cũng bị bạn đánh cho tan tác mất. Tuy nhiên, bạn vẫn là 1 trong Top 3 chòm sao vượng đào hoa nhất trong cuối năm 2017 nên cũng đừng lo lắng quá nhé.  

Thiên Bình


tinh yeu ngay that tich cua 12 chom sao
 
Theo dõi vận trình tình cảm của 12 chòm sao trong ngày Thất Tịch, không chỉ riêng trong ngày mùng 7 tháng 7 này mà thời gian tới, vận đào hoa của Thiên Bình cũng vô cùng rực rỡ. Đây là cơ hội hiếm có để chòm sao này thoát kiếp ế bền vững của mình đó. Nếu gặp được người vừa ý xứng đôi thì nên tích cực một chút, chủ động theo đuổi hạnh phúc của mình đâu có gì phải ngại.  

Hổ Cáp

  Tuy rằng không có nhiều vận may tình cảm nhưng có lẽ Hổ Cáp sẽ gặp chuyện “gương vỡ lại lành”, người đã quay lưng bỏ đi nay tìm cớ gặp lại. “Tình cũ không rủ cũng đến”, chòm sao này lại là người hoài niệm nên rất có khả năng chuyện tình cảm đã đứt trước kia nay lại được nối dây tơ. Nếu cảm thấy tình cảm thực sự không thể chia cắt được thì hãy suy tính đến chuyện tương lai, Hổ Cáp là chòm sao đào hoa nhất trong tháng 9 dương lịch này, ngại gì không yêu, sợ gì không cưới.  

Nhân Mã


cung hoang dao dao hoa ngay that tich
 
Vận đào hoa không đến nỗi nào, song Nhân Mã vẫn đang theo đuổi những thứ xa rời thực tế, mơ mộng quá nhiều nên khả năng thành đôi lứa không cao. Yêu xa, yêu qua mạng… cần rất nhiều nghị lực và tình cảm để có thể tu thành chính quả, người hữu duyên chưa chắc đã được ở bên nhau.  

Ma Kết

  Chia buồn cùng với Ma Kết nhé, có lẽ Thất Tịch không phải là ngày lễ tình yêu của chòm sao này. Có điều, cái gì cũng có nguyên nhân của nó. Đi học thì chỉ biết đến học, đi làm cũng chẳng quen thêm ai ngoài công việc, tình yêu ở đâu mà có được đây?  

Bảo Bình


cung hoang dao that tich dao hoa phoi phoi
 
Trong ngày Thất Tịch, Bảo Bình nào mà đang thầm thương trộm nhớ ai thì tỏ tình ngay đi nhé. Xem vận trình tình cảm của 12 chòm sao trong ngày Thất Tịch, hôm nay là thời điểm thích hợp để bạn chấm dứt quãng thời gian tình đơn phương của mình rồi đó. Còn nếu chưa có ai ư, chịu khó ra ngoài làm quen với mọi người đi bạn, trước sau gì cũng có thôi.  

Song Ngư

  Đây là chòm sao đào hoa khởi sắc rực rỡ trong ngày Thất Tịch. Tình yêu ở khắp mọi nơi, người ấy của Song Ngư có thể là bạn bè xung quanh, cũng có thể là một người trước kia chưa hề quen biết, cũng có thể là tình cũ đã lâu chẳng còn liên lạc.
Tanny

4 chòm sao yêu đương thực tế nhất vòng tròn hoàng đạo Bí quyết trở thành người khiến 12 chòm sao yêu thích Xếp hạng độ thẳng trong tình yêu của 12 chòm sao

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tình cảm của 12 chòm sao trong ngày Thất Tịch

Mẹo phong thủy lắp điều hòa tăng cường sức khỏe

Theo phong thủy phòng ngủ, việc lắp đặt điều hòa không đúng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ, từ đó làm giảm năng suất làm việc cũng như gián đoạn các sinh
Mẹo phong thủy lắp điều hòa tăng cường sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hoạt hàng ngày.

  Đa số mọi người chỉ quan tâm tới việc lựa chọn các loại điều hòa sao cho tiết kiệm điện năng và an toàn với môi trường, chứ ít ai quan tâm vị trí lắp đặt của điều hòa trong phòng ngủ. Theo quan điểm phong thủy, điều hòa được đặt đúng vị trí không những mang lại nguồn khí mát lành mà còn giúp cả nhà khỏe mạnh, tránh một số nguy cơ bệnh tật.

Meo phong thuy lap dieu hoa tang cuong suc khoe hinh anh
Ảnh minh họa
 
Một số lưu ý trong lắp đặt điều hòa theo đúng phong thủy

 
- Trong phong thủy phòng ngủ, điều hòa hay tủ lạnh đều thuộc hành Kim. Cách tìm vị trí lắp điều hòa vô cùng đơn giản, xem trong nhà có người nào thiếu tính Kim thì đặt ở vị trí may mắn của người đó.   Người thiếu Kim tức là chỉ người này sinh vào khoảng thời gian từ 19 tháng 2 đến 4 tháng 5 dương lịch, sinh vào mùa xuân. Trong thời điểm này, Bát tự có nhiều Mộc làm suy Kim. Ý chỉ người này yếu hoặc thiếu yếu tố Kim.   Theo đó, nếu mệnh người cha thiếu Kim, nên đặt điều hòa ở vị trí phía Tây Bắc trong phòng. Ngược lại, nếu mệnh người mẹ thiếu Kim, nên lắp đặt điều hòa ở hướng Tây Nam trong phòng.   - Ngoài ra, theo quan điểm phong thủy, điều hòa nên lắp trong phòng hướng về phía Bắc hoặc phía Đông. Vì bức xạ mặt trời chiếu vào căn phòng có hướng này khá ít. Bên cạnh đó, nếu trường hợp chỉ có tường ở phía Nam thì cần phải lắp thêm tấm chống nóng cho căn phòng.   - Nên lắp điều hòa ở độ cao từ trên 1m đến dưới 2m. Bởi không khí lạnh thổi ra từ điều hòa sẽ hướng xuống dưới. Gió mà điều hòa tỏa ra sẽ tạo ra từ trường phong thủy. Theo đó, nên đặt lỗ gió của điều hòa hướng lên trên trần sẽ có lợi cho phong thủy. Luồng gió hướng lên trên đại diện cho nguồn khí chảy từ trên trần nhà lan xuống phía dưới, luồng khí lưu thông là dấu hiệu tốt trong phong thủy.    Không nên lắp điều hòa chiếu thẳng vào người ngủ
 
Khi ngủ, mọi chức năng của các cơ quan trên cơ thể đều trong trạng thái nghỉ ngơi, không có sự phòng vệ. Theo quan điểm phong thủy, nếu lúc này, điều hòa chiếu trực tiếp vào cơ thể sẽ mang lại tà khí cho căn phòng, tất nhiên, sinh bệnh là điều khó tránh khỏi, nhẹ thì cảm lạnh, đau vai gáy, nặng thì đột quỵ khiến mắt lác hoặc khó khăn trong việc sử dụng lời nói… 
 
Tâm Nhân (Theo MGSP)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo phong thủy lắp điều hòa tăng cường sức khỏe

Huyền vi luận

Di tiên sinh viết: 1- Đẩu số chi liệt chúng tinh, do đại dịch chi phân bát quái, bát quái phi thoán hệ bất minh, ngũ tinh phi giảng minh hà thố, thị dĩ quan đấu sổ giả, tái tam thẩm động tĩnh chi cơ,
Huyền vi luận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


2- Đệ nhất biện tân chủ chi phân,
động tĩnh tuần hoàn bất dĩ,
chủ tân canh điệp vô câu,
chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu,
tân bất năng đối, hà túc thủ tai!

3- Quý bỉ dương đà, duy thị lộc tồn chi hảo ác, tiếu ngô nhật nguyệt dã.
4- Tư không kiếp chi hưng vong, sát hữu sát nhi vô hình, tuy sát hữu cứu;
hình hữu hình nhi dị đan, chung thân bất khắc.

5- Hỏa tinh vượng cung vi phú luận,
dương đà đắc lệnh khởi hung thần?
6- Lưỡng lân gia vũ thượng khả xanh trì,
đồng thất dữ mưu tối nan phòng bị.

7- Cân hỏa phần thiên mã,
trọng dương trục lộc tồn.
8- Kiếp không thân thích vô thường,
quyền lộc hành tàng mỹ định.
9- Quân tử tai khôi việt,
tiểu nhân dã dương linh.

10- Hung bất giai hung, cát vô thuần cát.
11- Chủ cường tân nhược, khả bảo vô ngu.
12- Chủ nhược tân cường, hung nguy lập kiến.
13- Chủ tân đắc thất lưỡng tương nghi,
hạn vận mệnh thân đương hỗ kiến.

14- Thân mệnh tối hiềm dương đà thất sát, ngộ chi vị miễn vi hung.
15- Nhị hạn thậm kỵ tham phá cự trinh, phùng chi định nhiên tác họa.
16- Mệnh ngộ khôi xương đương đắc quý, hạn phùng tử phủ định tài đa.

17- Phàm quan nữ nhân chi mệnh, tiên quan phu tử nhị cung,
nhược trị sát tinh, định tam giá nhi tâm bất túc,
hoặc phùng dương đà, tu đề khốc nhi lệ bất càn.

18- Nhược quan nam mệnh, thủy dĩ phúc tài vi chủ,
tái thẩm thiên di như hà, nhị hạn tương nhân, cát hung đồng đoạn.

19- Hạn phùng cát diệu, bình sinh vận dụng hòa hài;
mệnh tác hung hương, nhất thị cầu mưu trở ngữ.

20- Liêm lộc lâm mệnh, nữ đức thuần âm trinh khiết chi đức;
đồng lương thủ mệnh, nam đắc thuần dương trung chính chi tâm.

21- Quân tử mệnh trung diệc hữu dương đà tứ sát,
tiểu nhân mệnh trung khởi vô khoa lộc quyền tinh,
yếu khán đắc viên thất viên,
chuyên luận nhập miếu thất hãm.

22- Nhược luận tiểu nhi, tường thôi đồng hạn,
tiểu nhi mệnh sinh hung hương, tam ngũ tuế tất nhiên yểu chiết,
cánh hữu hạn phùng ác sát, ngũ thất tuế tất chí yểu vong.

23- Văn xương văn khúc thiên khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân.
24- Đa học thiểu thành, chỉ vi kình dương phùng kiếp sát.
25- Vi nhân hảo tụng, cái nhân thái tuế ngộ quan phù.

26- Mệnh chi lý vi, thục sát tinh thần chi biến hóa;
số chi lý viễn, tế tường cách cục chi hưng suy.
27- Bắc cực gia hung sát, vi đạo vi tăng;
mệnh ngộ hung tinh, vi nô vi bộc.

28- Như vũ phá liêm tham, cố thâm mưu nhi quý hiển,
gia dương đà không kiếp, phản tiểu chí dĩ cô hàn.
29- Hạn phụ vượng tinh, tuy nhược nhi bất nhược;
mệnh lâm cát địa, tuy hung nhi bất hung.

30- Đoạn kiều tiệt lộ, đại tiểu nan hành;
mão dậu nhị không, thông minh phát phúc.
31- Mệnh thân ngộ tử phủ, điệp tích kim ngân;
nhị chủ phùng kiếp không, y thực bất túc, mưu nhi bất toại.

32- Mệnh hạn ngộ nhập kình dương, đông tác tây thành.
33- Hạn thân tao phùng phủ tướng khoa quyền lộc củng, định vi phàn quế chi cao nhân.
34- Không kiếp dương linh, quyết tác cửu lưu thuật sĩ.

35- Tình hoài thư sướng, xương khúc mệnh thân;
quỷ trá hư phù, dương đà hãm địa.
36- Thiên ki thiên lương kình dương hội, tảo kiến hình khắc vãn kiến cô.
37- Tham lang vũ khúc liêm trinh phùng, thiểu thụ bần nhi hậu thụ phúc.

Thử giai đẩu số chi áo quyết, học giả thục chi.

Dịch nghĩa:

Luận về huyền vi
Hi Di tiên sinh viết:

1- Đẩu Số bày ra chúng tinh,
Do đại Dịch phân chia thành Bát Quái,
Bát Quái mà thiếu Thoán từ (lời luận đoán) thì cũng chẳng rõ nghĩa,
Ngũ Tinh mà không được giảng giải kỹ thì dùng làm sao được,
Môn xem Đẩu Số này đây, luôn xét đến động tĩnh của cơ trời.

2- Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét,
Động-Tĩnh, tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!

3- Tự thẹn thay Kình Đà, chỉ trông coi tốt xấu của Lộc Tồn, mà (lại dám) cười Nhật Nguyệt ta vậy.
4- Ngẫm về hưng vong của Không Kiếp, sát thì có sát (nhưng) mà không Hình (khắc) cứng nhắc, tuy sát mà lại có thể cứu chữa;
Hình thì có Hình nhưng đơn giản dễ thay đổi, (về lâu dài) cả đời sẽ không khắc.

5- Hỏa tinh ở vượng cung thì luận là phú,
Kình Đà (ở chỗ) đắc lệnh há có còn là hung thần nữa sao?
6- Kẻ hung bạo ở ngay sát vách đôi bên nhà mình thì cũng còn có thể miễn cưỡng chống đỡ lại,
chứ người cùng nhà mà có mưu hiểm đen tối thì thực là khó phòng bị.

7- Cân đo sức nóng (hỏa phần), nghị lực của Thiên Mã,
coi trọng trục (của) Kình Dương Lộc Tồn.
8- Kiếp Không thì (coi) thân thích (là) vô thường,
Quyền Lộc thì định là tác phong cử chỉ tươi đẹp.
9- Quân tử (xét ở) tại nơi Khôi Việt,
tiểu nhân thì (xét ở) Dương Linh (Kình Đà, Linh Hỏa, viết tắt???).

10- Hung thì không có cái gì hoàn toàn hung, Cát thì cũng chẳng có cái gì thuần là cát.
11- Chủ cường Khách nhược, thì có thể đảm bảo là chẳng có gì phải lo ngại.
12- Chủ nhược Khách cường, thì thấy ngay được là hung hiểm nguy hiểm.
13- (Phải xem) Chủ-Khách, chỗ hay chỗ dở, đôi đàng tương ứng đối đãi lẫn nhau,
vận hạn Mệnh-Thân cũng đối đãi tương hỗ lẫn nhau.

14- Thân-Mệnh rất sợ gặp Dương Đà Thất Sát, gặp thì khó tránh được hung hiểm.
15- Nhị hạn tối kị Tham Lang Phá Quân Cự Môn Liêm Trinh, gặp thì nhất định sẽ tác họa.
16- Mệnh gặp Khôi Xương được nhận (quan) Quý, Hạn phùng Tử Phủ xác định đó là lúc đa tài (đến lúc gặp thời để mà được thi thố với đời).

17- Phàm xem mệnh Nữ nhân, trước tiên xem ở hai cung Phu & Tử,
nếu gặp sát tinh, định là nhiều lần xuất giá mà lòng không yên,
hoặc phùng Dương Đà thì đó là khóc con cạn nước mắt.

18- Khi xem Nam mệnh, khởi đầu lấy Phúc & Tài làm chủ,
sau đó xét Thiên Di xem thế nào, nhị hạn (có) nguyên nhân hỗ trợ ra sao, (từ đó mới) cùng đoán ra cát hung như thế nào.

19- Hạn phùng cát diệu thì lúc bình sinh được mọi sự hoạt động hài hòa;
Mệnh lạc đến chỗ hung thì đúng là một thân mưu cầu mà toàn gặp gập ghềnh trở ngại.

20- Liêm Lộc lâm Nữ mệnh thuần âm thì đức hạnh trinh trắng, thanh khiết;
Đồng Lương thủ Nam mệnh thuần dương thì một lòng trung thành, chính trực.

21- Người quân tử thì ở trong cung Mệnh cũng có Dương Đà tứ sát,
Kẻ tiểu nhân thì ai dám bảo là không có Khoa Quyền Lộc ở trong cung mệnh nào,
(Cho nên) trọng yếu phải xem cung viên tốt xấu thế nào,
chuyên sâu luận vào các sao nhập miếu hay lạc hãm.

22- Nếu luận số tiểu nhi, phải suy xét thật tường tận về hạn của trẻ con,
Tiểu nhi mà Mệnh ở chỗ hung, thì dăm ba năm tất nhiên sẽ yểu chiết,
Lại thêm hạn phùng ác sát thì dăm bảy năm nhất định yểu vong.

23- (Có các sao) Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi, chẳng đọc thi thư gì cũng là kẻ có tài.
24- Đa học mà thiểu thành, chỉ vì Kình Dương phùng Kiếp Sát.
25- Làm người giỏi lý lẽ, giỏi tranh cãi, khéo nói, đó là do Thái Tuế ngộ Quan Phù.

26- Cái Lý tinh vi của Mệnh, phải bám sát lấy sự biến hóa của các sao;
Cái Lý sâu xa của Số, phải xem cho tường tận sự hưng suy của cách cục.
27- Sao Tử Vi mà bị gia thêm hung sát tinh thì dễ theo đường tăng đạo;
Mệnh (kém) mà gặp phải hung tinh thì dễ thành thân phận kẻ hầu người hạ.

28- Như Vũ Phá Liêm Tham, có mưu sâu mà quý hiển,
Thêm (vào đó) Dương Đà Không Kiếp thì phản chuyển thành chí nhỏ mà cô đơn, nghèo hèn.
29- Hạn mà hai bên có vượng tinh thì dù hạn có nhược (kém) cũng được cứu giải,
Mệnh lâm vào nơi cát lợi thì dẫu gặp hung cũng chẳng có gì nguy hiểm.

30- Đại tiểu (hạn) khó khăn, gian khổ, khó đi,... là bởi vì "đoạn kiều tiệt lộ" (đây là 1 thành ngữ "đoạn kiều tiệt lộ" có nghĩa đen là "cầu bị chặt gãy, đường bị chặn", nhưng có thể nghĩa bóng muốn ám chỉ việc hành hạn mà gặp phải Tiệt/Triệt lộ thì đó là coi như bị chặn phá, bị ngáng trở, bị gặp khó khăn,...);
Ở cung Mão Dậu mà gặp nhị Không thì lại là thông minh, phát phúc.
31- Mệnh Thân mà gặp Tử Phủ thì giàu có dồi dào vàng bạc (điệp tích kim ngân);
Nhị chủ (thường chỉ về Mệnh chủ & Thân chủ, nhưng trong trường hợp này thì nên hiểu Nhị Chủ = Tử & Phủ) phùng Kiếp Không thì mưu sự bất toại ý, thiếu ăn thiếu mặc (y thực bất túc).

32- Mệnh hạn mà gặp phải Kình Dương thì làm giả ăn thật, đánh ở đông mà được ở tây ("đông tác tây thành" đây cũng là 1 thành ngữ. Bạn đọc lưu ý chỗ này nên hiểu liền mạch với Mệnh Thân Tử Phủ ở trên thì mới đúng).
33- Hạn Thân mà phùng Phủ Tướng có Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì định là người đó sẽ đỗ cao, thăng quan lớn, phát tài lộc,... được vin cành nguyệt quế.
34- (Nếu mà gặp) Không Kiếp Dương Linh, thì quyết đoán là đi theo giới cửu lưu thuật sĩ.

35- Tâm tình dào dạt, thư thả sung sướng, ấy là do Xương Khúc ở Mệnh Thân;
Quỷ quyệt xảo trá, hão huyền chẳng thực, đó là bởi Dương Đà hãm địa.
36- Thiên Cơ Thiên Lương Kình Dương cùng hội, thì lúc nhỏ thời hình khắc (với người thân) về già thời cô độc.
37- Như gặp Tham Lang Vũ Khúc Liêm Trinh, lúc nhỏ thời nghèo khó nhưng về già được hưởng phúc.


Ngọc Thiềm phát vi luận

Bạch ngọc thiềm tiên sinh nhật:

Quan thiên đẩu số dữ Ngũ Tinh bất đồng,
án thử tinh thần dữ chư thuật đại dị.

Tứ chính cát tinh định vi quý,
tam phương sát củng thiểu vi kỳ;
đối chiếu hề tường hung tường cát,
hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.

Cát tinh nhập viên tắc vi cát,
hung tinh thất địa tắc vi hung.

Mệnh phùng tử vi, phi đặc thọ nhi thả vinh;
thân ngộ sát tinh, bất đãn bần nhi thả tiện.

Tả hữu hội ư tử phủ, cực phẩm chi tôn;
khoa quyền hãm ư hung hương, công danh thặng đặng.

Hành hạn phùng hồ nhược địa, vị tất vi tai;
lập mệnh hội tại cường cung, tất năng hàng ngoan.

Dương đà thất sát, hạn vận mạc phùng,
phùng chi định hữu hình thương;
thiên khốc tang môn, lưu niên mạc ngộ,
ngộ chi thực phòng phá hại.

Nam đẩu chủ hạn tất sinh nam,
bắc đẩu gia lâm tiên đắc nữ.

Khoa tinh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần;
xương khúc tại nhược hương, lâm tuyền lãnh đạm.

Gian mưu tần thiết, tử vi quý ngộ phá quân;
dâm bôn đại hành, hồng loan sai phùng tham tú.

Mệnh thân tương khắc, tắc tâm loạn nhi bất nhàn;
huyền ảo tam cung, tắc tà dâm nhi đam tửu.

Sát lâm tam vị, định nhiên thê tử bất hòa;
cự đáo nhị cung, tất thị huynh đệ vô nghĩa.

Hình sát thủ tử cung, tử nan phụng lão;
chư hung chiếu tài bạch, tụ tán vô thường.

Dương đà thủ tật ách, nhãn mục hôn manh;
hỏa linh đáo thiên di, trường đồ tịch mạc.

Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao;
ác tinh ứng mệnh cung, nô bộc hữu trợ.

Quan lộc ngộ tử phủ, phú nhi thả quý;
điền trạch ngộ phá quân, tiên phá hậu thành.

Phúc đức ngộ không vong kiếp, bôn tẩu vô phương;
tương mạo gia hình sát, hình khắc nan miễn.

Hậu học giả chấp thử suy tường, vạn vô nhất thất.



Dịch nghĩa:

Sự khai mở về cách luận của Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh.

Xem thấy Đẩu Số với môn Ngũ Tinh có điểm không giống nhau,
từ đây ta thấy về tinh thần cơ bản nó khác nhiều với các thuật khác.

Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý,
Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp;
Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát,
cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh.

Cát tinh nhập mệnh viên (miếu đắc) thì sẽ được cát lợi,
hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung.

Mệnh gặp Tử Vi thì vừa thọ vừa vinh hoa;
Thân gặp sát tinh thì không những bần mà còn tiện.

Tả Hữu hội cùng Tử Phủ thì tôn quý đến cực phẩm,
Khoa Quyền hãm ở chỗ hung thì công danh lận đận.

Hành hạn nếu gặp nơi nhược địa thì chưa hẳn đã gặp tai họa,
lập mệnh ở chỗ cường cung, nhất định sẽ bớt tham lam, ương bướng, ngu dốt.

Vận hạn chớ có gặp Kình Đà Thất Sát, gặp thì tất sẽ bị hình thương,
Lưu niên chớ có gặp Thiên Khốc Tang Môn, gặp thì phải đề phòng vật chất trong nhà bị phá tán.

Nam Đẩu chủ hạn tất sẽ sinh con trai,
Bắc Đẩu lâm hạn thì sẽ sinh con gái.

Khoa tinh cư hãm địa, thì vất vả chăm chỉ đèn sách sớm khuya,
Xương Khúc ở chỗ nhược thì ẩn mình lãnh đạm nơi rừng núi.

Tử Vi gặp Phá Quân thì suốt ngày bày kế hiểm mưu gian,
Hồng Loan gặp (lầm) phải Tham Lang thì hành vi dâm dật.

Mệnh với Thân mà tương khắc thì tâm loạn nên chẳng được nhàn,
Tam cung mà huyền ảo thì tất sẽ tà dâm cùng ham rượu.

Sát tinh lâm vào tam vị, chắc chắc bất hòa với vợ con,
Cự Môn đến nhị cung, thì anh em vô tình vô nghĩa.

Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già;
Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường.

Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ,
Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường (đời) phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ.

Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,
ác tinh ứng vào Mệnh cung thì nô bộc có sự tương trợ.

Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý,
Điền Trạch gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được.

Phúc Đức gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang vô định,
Tướng Mạo mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được.

Học giả đời sau theo đây mà suy cho rõ, đảm bảo không sai.
Đẩu số tổng quyết

Hi Di ngưỡng quan thiên thượng tinh
Tác vi đẩu số thôi nhân mệnh
Bất y ngũ tinh yếu quá tiết
Chỉ luận niên nguyệt nhật thời sinh.

Tiên an thân mệnh thứ định cục
Tử Vi, Thiên Phủ bố chư tinh
Kiếp, Không, Thương, Sứ, Thiên Khôi Việt
Thiên Mã, Thiên Lộc đái sát thần.

Tiền Dương hậu Đà tính tứ hóa
Hồng Loan, Thiên Hỉ, Hỏa, Linh, Hình
Nhị chủ đại hạn tính tiểu hạn
Lưu niên hậu phương an Đẩu Quân

Thập nhị cung phần tường miếu hãm
Lưu niên họa phúc thử trung phần
Lộc, Quyền, Khoa, Kị vi tứ hóa
Duy hữu Kị tinh tối khả tăng.

Đại tiểu nhị hạn nhược phùng Kị
Vị miễn kỳ nhân hữu tai truân
Khoa danh khoa giáp khán Khôi Việt
Văn Xương, Văn Khúc chủ công danh.

Tử Phủ Nhật Nguyệt chư tinh tụ
Phú quý giai tòng thiên thượng sanh
Dương Đà Hỏa Linh vi tứ sát
Xung mệnh xung hạn bất vi vinh.

Sát Phá Tham Lang câu tác ố
Miếu nhi bất hãm chưởng tam quân
Khôi Việt Xương gia vô cát ứng
Nhược hoàn mệnh hạn hãm vưu sân.

Thượng hữu lưu Dương Đà đẳng túc
Thử dữ Thái Tuế tòng lưu hành
Cánh gia Tang Điếu Bạch Hổ thấu
Thương Sứ khả dĩ đoán sinh tử.

Nhược hữu đồng niên đồng Nhật Nguyệt
Họa phúc hà hữu bất chuẩn hồ?
Bất chuẩn câu dụng tam thời đoán
Thời hữu sai trì bất khả bằng.

Thử thị Hi Di chân khẩu quyết
Học giả như đương tử tế tinh
Hậu cụ tinh đồ tính luận đoán
Kỳ trung bộ quyết tối phân minh.

Nhược năng y thử thôi nhân mệnh
Hà dụng cầm đường giảng ngũ tinh?


Dịch nghĩa:

Đẩu số tổng quyết

Ngài Hi Di ngẩng đầu ngắm sao trên trời,
Tạo ra môn Đẩu Số để suy đoán mệnh người,
Không giống với (môn) Ngũ Tinh, quá chú trọng đến Tiết khí,
(Mà) Chỉ luận về năm, tháng, ngày, giờ sinh.

Trước tiên an Thân Mệnh, thứ đến là xác định Cục (số),
Bài bố (vị trí của)Tử Vi, Thiên Phủ cùng các sao,
Kiếp, Không, Thương, Sứ, Thiên Khôi, Thiên Việt,
Thiên Mã, Thiên Lộc, (cùng với) dải các thần sát.

Trước an Kình dương, sau an Đà La, cùng với cả Tứ Hóa,
Hồng Loan, Thiên Hỉ, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình,
Nhị chủ (có lẽ là "mệnh chủ" và "thân chủ"), đại hạn cùng tiểu hạn,
Lưu niên, sau đó thì an Đẩu Quân (có lẽ nhấn mạnh L. Thái Tuế).

Ở mười hai cung phận, phải tỏ tường miếu hãm (của sao),
Lưu niên họa phúc ở trong cung phận nào,
Lộc Quyền Khoa Kị là Tứ Hóa,
Chỉ có Hóa Kị là rất đáng ghét.

Đại hạn, tiểu hạn nếu gặp Hóa Kị,
Người ta khó mà tránh việc phải gặp tai ách, gian truân,
Khoa danh, khoa bảng (chuyện học hành) thì xem ở Khôi Việt,
Văn Xương, Văn Khúc (vì chúng) chủ về công danh,

Tử Phủ Nhật Nguyệt cùng các (cát) tinh tụ hội,
(Được) phú lẫn quý thì cũng là theo sự sắp đặt của trời,
Kình, Đà, Linh, Hỏa là tứ sát,
Xung vào mệnh, xung hạn, thì không được vinh hoa.

Sát Phá Tham chuyên làm chuyện (ác) đáng ghét,
Khi miếu thì (làm tướng) đứng đầu chấp chưởng ba quân,
Thêm Khôi Việt, Văn Xương mà không có cát tinh ứng trợ,
Nếu gặp tại Mệnh, tại hạn hãm thì mắc sai lầm, giận dữ, không xứng ý toại lòng.

Còn Lưu Kình Đà mà có hoặc đón chờ (tại hạn ấy),
Cùng với Thái Tuế lưu hành (L. Thái Tuế),
Thêm Tang, Điếu, Bạch Hổ, tụ tập lại,
(Có) Thương, Sứ, thì có thể đoán được chuyện sống chết.

Nếu như cùng cùng năm cùng tháng ngày (sinh),
(Thì) Họa phúc không có chuẩn (đúng) hay sao?
Không chuẩn đều dùng ba giờ (mà) đoán
Giờ (mà) có sai, chậm thì không thể (coi là) bằng chứng được.
(QNB chú: có lẽ muốn rằng lấy thêm 2 giờ xung quanh giờ sinh mà xem cho kỹ)

Đó chính là khẩu quyết của Hi Di,
Người học cần phải nhận biết, kỹ lưỡng, thật tinh.
Sau bày đủ tinh đồ (bản đồ các sao) mà luận đoán,
Trong đó (có) yếu quyết từng bộ phận rất rõ ràng hiển nhiên.

Nếu như sử dụng môn này mà đoán nhân mệnh,
Thì còn cần dùng phòng nhạc ("cầm đường") để giảng về môn Ngũ Tinh nữa chăng?


Tử Vi Đẩu Sổ đoán quyết

Tử Phủ nhị chủ tuy phú quí
Bất phùng Lộc tinh chung nan hiển
Cơ Âm văn tinh vong ân nhân
Bác sĩ phùng văn chủ thông minh
Lộc Tồn nhập quan phòng bài tễ
Song Lộc giáp mệnh tài bất khuyết
Nhân từ chi tinh kị phùng sát
Đương phòng biến tiết tịnh hữu trá
Đế lạc Nô vị chủ bôn ba
Cự phùng Dương Đà chủ tà dâm
Việt Phá Toái kiêm Đà La
Quí nhân vô lực sự bất thành
Thiên Phủ gia sát phi quân tử
Đế phùng Dương Đà chủ tà
Phủ Tuất phùng Lộc lũy thiên kim
Tọa Lộc hướng Mã danh lợi thu
Thiên Cơ Tị Hợi nhược gia sát
Nhân tửu ngộ sự mạc tham bôi
Phá Quân văn diệu mạc cận thủy
Thiên Đồng Kình Dương dị tao thương


Dịch:

Tử vi đẩu số quyết đoán

Tuy phú quý Tử Vi Thiên Phủ
Chưa hiển linh nếu thiếu Lộc tinh.
Cơ Âm, văn diệu, bạc tình.
Bác Sĩ, văn diệu thông minh tuyệt vời.

Quan Lộc Tồn phải phòng bãi miễn.
Song Lộc giáp Mệnh thị phú ông.
Nhân từ tinh sợ Sát phùng
Chuyển thành dối trá, hành tung gian tà.

Cự Nhận Đà tà dâm mê muội.
Đế lạc Nô tất chủ bôn ba.
Việt phùng Phá Toái, Đà La
Quý nhân vô lực, khó mà thành công.

Phủ hội sát khó thành quân tử.
Đế Nhận Đà tất đúng tà nhân.
Phủ Lộc Tuất vị phú ông.
Tọa Lộc hướng Mã thành công danh, tài.

Cơ tị hợi, sát tinh, ham rượu.
Phá, văn tinh, rất dễ thủy tai.
Thiên Đồng, Dương Nhận bi ai
Vì hay thương tích, nạn tai trong đời.

(Sưu tầm)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Huyền vi luận

Dân Phượt và những câu nói hay bất hủ

Dân Phượt và những câu nói hay bất hủ. Sau những chuyến phượt là những trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống. Hãy tham khảo bài viết sau đây nhé
Dân Phượt và những câu nói hay bất hủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dân Phượt và những câu nói hay bất hủ. Sau những chuyến phượt là những trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống. Mời các bạn cùng xemboituong.com tham khảo những câu nói hay bất hủ của dân phượt.

Những câu nói hay bất hủ được viết từ những trải nghiệm sau các chuyến đi của dân phượt. Phượt là gì?

Phượt hay du lịch bụi là một cách gọi quen thuộc cho chủ nghĩa xê dịch của nhiều người hiện đại. Mỗi vùng đất đến, một vùng đất đi qua để lại những trải nghiệm thú vị và những câu nói hay dành cho những con người của tự do.

Dân Phượt và những câu nói hay bất hủ

1. Đi là kẻ thù chết người của định kiến, mù quáng và thiển cận. – Mark Twain

2. Một cuộc hành trình thực sự được tính không phải bằng dặm, mà bằng những người bạn. – Tim Cahill

3. Không có mảnh đất nào là xa lạ. Chỉ có kẻ lữ hành là người lạ. –Robert Louis Stevenson

4. Ích lợi của việc đi là để điều chỉnh trí tưởng tượng với thực tế, và thay vì ngồi hình dung ra mọi chuyện, cứ đi để xem nó thực sự thế nào. – Samuel Johnson

5. Những chiếc va li tồi tàn của chúng tôi lại một lần nữa chất đống ngoài vỉa hè; con đường phía trước thậm chí còn dài hơn nữa. Nhưng có hề chi, con đường đi chính là cuộc sống. – Jack Kerouac

6. Ai không đi thì sẽ không hiểu được giá trị con người. – Ngạn ngữ Moorish

7. Con người đi đến những mảnh đất xa xôi để nhìn ngắm một cách say mê những kẻ mà họ thường bỏ qua khi ở nhà. – Dagobert D. Runes

8. Hành trình giống như hôn nhân vậy. Cách chắc chắn nhất để phạm sai lầm là tin rằng mình điều khiển nó. – John Steinbeck

9. Không ai nhận ra rằng đi đẹp đến nhường nào cho đến khi họ về đến nhà và ngả đầu lên chiếc gối cũ kỹ, thân quen. – Lin Yutang

10. Đi luôn luôn có ích. Nếu bạn đến một đất nước tốt đẹp hơn, bạn sẽ học hỏi để cải thiện đất nước mình. Nếu chẳng may bạn đến một đất nước tệ hơn, bạn sẽ học để yêu đất nước của chính mình. – Samuel Johnson

11. Còn tôi, tôi đi không phải để đến một nơi nào cụ thể, mà chỉ để đi thôi. Điều tuyệt vời chính là sự dịch chuyển. – Rober Louis Stevenson

12. Kẻ lữ hành nhìn thấy những gì họ thấy. Khách du lịch nhìn thấy những gì họ đến để thấy. – G. K. Chesterton

13. Đích đến của chúng ta không phải là một vùng đất, mà là một cách nhìn mới. – Henry Miller

14. Kẻ lữ hành mà không quan sát thì chẳng khác nào một con chim mà không có cánh. – Moslih Eddin Saadi

15. Tỉnh dậy hoàn toàn đơn độc trong một thị trấn xa lạ là một trong những cảm xúc tuyệt vời nhất trên thế giới. – Freya Stark

16. Hai mươi năm về sau bạn sẽ hối hận về những gì bạn không làm hơn là những gì bạn làm. Vậy nên hãy tháo dây, nhổ neo ra khỏi bến đỗ an toàn. Hãy để cánh buồn của bạn đón trọn lấy gió. Thám hiểm. Mơ mộng. Khám phá. – Mark Twain

17. Đi không chỉ là việc nhìn thấy bằng mắt; nó là một sự thay đổi luôn tiếp diễn, sâu đậm và vĩnh cửu, cách nhìn nhận cuộc sống. – Miriam Beard

18. Mọi hành trình đều có những điểm đến bí mật mà ngay cả kẻ lữ hành cũng không thể ngờ tới. – Martin Buber

19. Chúng ta sống trong một thế giới tuyệt vời đầy rẫy những vẻ đẹp, quyến rũ và phiêu lưu. Những chuyến phiêu lưu sẽ là bất tận, chỉ cần chúng ta tìm nó với đôi mắt luôn rộng mở. – Jawaharial Nehru

20. Khách du lịch không biết nơi nào họ từng đến, kẻ lữ hành không biết nơi nào họ sắp đến. – Paul Theroux

21. Trong tâm trí tôi, phần thưởng và hạnh phúc lớn nhất của việc đi là ngày nào ta cũng có thể trải nghiệm những thứ như thể là lần đầu, để không có gì là thân thuộc đến mức ta nhìn nhận nó như điều hiển nhiên. – Bill Bryson

22. Đừng đi theo nơi mà đường mòn có thể dẫn đến. Hãy đi vào nơi không có lối mòn và để lại dấu vết. – Ralph Waldo Emerson

23. Hai con đường tách nhau đi vào trong rừng và tôi – tôi chọn con đường ít người đã đi. – Robert Frost

24. Cuộc hành trình ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân nhỏ bé. – Lão Tử

25. Nếu bạn từ chối đồ ăn, bỏ qua phong tục, sợ hãi tôn giáo và lảng tránh người lạ, tốt hơn là bạn nên ở nhà. – James Michener

26. Điều quan trọng không phải là sự đến, mà là sự đi. – T. S. Eilot

27. Thế giới là một cuốn sách, và ai không đi chỉ đọc được một trang. – St. Augustine

28. Kẻ lữ hành giỏi không có lịch trình cố định, và cũng chẳng có ý định cập bến. – Lão Tử

29. Tôi nhận ra rằng để biết rằng mình yêu hay ghét một người, không có cách nào tốt hơn là đi với người đó. – Mark Twain

30. Một khi bạn đã đi, cuộc hành trình sẽ không bao giờ kết thúc. Nó sẽ tái hiện liên tục trong những góc yên tĩnh nhất của tâm trí bạn. Tâm hồn bạn sẽ không bao giờ dứt ra khỏi cuộc hành trình. – Pat Conroy

31. Không phải ai lang thang cũng là đi lạc. – J. R. R. Tolkien

32. Như tất cả những kẻ lữ hành vĩ đại, tôi đã thấy nhiều hơn tôi có thể nhớ, và nhớ nhiều hơn tôi có thể thấy. – Benjamin Disraeli

33. “Đi” tái tạo lại sự hài hoà nguyên thuỷ đã từng tồn tại giữa con người và vũ trụ. – Anatole France

34. “Đi” là để phát hiện ra rằng tất cả mọi người đều hiểu sai về những đất nước khác. – Aldous Huxley

35. Toàn bộ mục đích của việc đi không phải là để đặt chân lên những mảnh đất xa lạ, mà là để cuối cùng đặt chân lên đất nước của chinh mình như thể một mảnh đất xa lạ. – G. K. Chesteron

36. Khi bạn đi, hãy nhờ rằng một đất nước xa lạ không được thiết kế để cho bạn cảm thấy thoải mái. Nó được thiết kế để người dân của đất nước đó cảm thấy thoải mái. – Clifton Fadiman

37. Một kẻ lữ hành khôn ngoan không bao giờ chê bai đất nước của chính mình. – Carlo Gordoni

38. Quá thường xuyên … Tôi nghe người ta khoe khoang về số dặm người ta đi, hơn là những gì người ta thấy. – Louis L’Amour

39. Hãy thôi lo lắng về những ổ gà trên đường và tận hưởng cuộc hành trình. – Fitzhugh Mullan

40. Chỉ đi với những ai tương đương với bạn hay tốt hơn bạn; nếu không tìm được, hãy đi một mình. – The Dhammapada

41. Thỉnh thoảng, người ta giật mình khi nhận ra rằng họ không bị buộc phải trải nghiệm thế giới theo cách họ vẫn được bảo. – Alan Keightley

42. Một nửa cái thú của việc đi là nghệ thuật đi lạc. – Ray Bradbury

43. Tôi muốn dành cả đời mình để đi đến những nơi xa lạ, nếu như tôi có thể mượn một đời khác ở đâu đó để sau đó sống ở nhà. – William Hazlitt

44. Tôi thích đi, nhưng tôi ghét phải đến. – Albert Einstein

45. Đừng nói với tôi bạn học hành thế nào, hãy nói với tôi bạn đi bao nhiêu. – Mohammed

46. Chúng ta bắt đầu tha thứ một vùng đất ngay khi chúng ta rời bỏ nó. – Charles Dickens

47. Khi ai đó nhận ra rằng cuộc đời của mình là vô giá trị, họ hoặc là tự tử, hoặc là xách ba lô lên và đi. – Edward Dehlberg

48. Tôi hoàn toàn thay đổi sau khi đã nhìn thấy ánh trăng chiếu soi ở nửa bên kia thế giới. – Mary Anne Radmacher Hershey

49. Chỉ khi nào đi một mình trong im lặng, không hành lý, ta mới có thể đi vào trái tim của sự hoang dã. – John Muir

50. Mỗi ngày là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình bản thân nó chính là nhà. – Matsuo Basho
Lão Còi st


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dân Phượt và những câu nói hay bất hủ

7 ngày vắng Táo quân, gia chủ nên làm gì?

Từ 23 tháng Chạp, Táo quân lên chầu trời, tới đêm 30 mới trở về tiếp tục việc coi sóc được việc bếp núc trong gia đình. Trong 7 ngày còn lại cuối năm, gia chủ nên làm gì?
7 ngày vắng Táo quân, gia chủ nên làm gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đêm 30 mở cửa, bật đèn cho ngập tràn dương khí

Theo tục lệ cổ truyền, người Việt tin rằng, trong mỗi nhà đều có 3 vị thần Táo quân, gồm 2 Táo ông và một Táo bà trông nom, giữ lửa cuộc sống của họ. Táo quân biết hết mọi sinh hoạt trong nhà và ngày 23 tháng Chạp âm lịch, 3 vị Táo quân sẽ cưỡi cá chép bay về trời để trình báo với Ngọc Hoàng mọi việc lớn nhỏ xảy ra trong các gia đình ở hạ giới một năm qua. Các Táo lên thiên đình vào 23 tháng Chạp hàng năm, tới đêm Giao thừa các Táo mới trở về hạ giới tiếp tục nhiệm vụ trông coi bếp lửa của các gia đình.

Theo ông Nguyễn Mạnh Cường, nhà nghiên cứu Phật học, trước kia trong 7 ngày người dân dựng cây nêu ngày Tết, trang hoàng nhà cửa. Nhưng ngày nay đô thị chật hẹp không còn chỗ dựng cây nêu, nhiều vùng nông thôn cũng bỏ lệ dựng cây nêu đón Tết. Vì vậy, lễ Táo quân xong, để vẫn có sự hiện diện của Táo quân trong nhà, bạn có thể dán tờ giấy đỏ có viết tên các Táo, hoặc vẽ hình Táo quân rồi dán trên nóc bếp, có ý nghĩa là đón chào Táo quân từ thiên đình trở về. Cuối năm sau khi Táo quân về chầu trời thì hóa mảnh giấy cũ xuống và dán mảnh giấy đỏ mới lên để lại đón Táo quân trở về.

Tiếp đó là dọn dẹp nhà cửa, tẩy rửa hết năng lượng cũ bằng cách lau chùi, dọn dẹp đồ đạc, thải bỏ đồ vật không cần thiết và nạp năng lượng mới cho những vật dụng phong thủy trong nhà, nhất là 3 vị Phúc, Lộc, Thọ (nếu đã rước về). Nạp năng lượng cho các đồ phong thủy bằng cách 11 giờ trưa ngày tất niên nên đốt 3 ngọn nến trước ba vị thần Phúc, Lộc, Thọ. Việc này có ý nghĩa mang lại năng lượng cho các vị thần khi năm mới tới.

Bữa ăn đoàn tụ (tất niên) lúc mời gia tiên về dự tiệc đoàn tụ nên có đầy đủ tất cả các thành viên trong gia đình. Dự tiệc tất niên nên ăn mặc chỉnh tề, đặc biệt phụ nữ phải đeo trang sức… tươi cười rạng ngời để sự may mắn sẽ tiếp diễn. May mắn tới càng nhiều vào thời điểm Giao thời giữa năm cũ và năm mới nên tất cả những người con phải có những lời chúc tốt đẹp cho bố mẹ.

Đêm 30 Tết cửa chính và tất cả các cửa nhà, phải được mở trước Giao thừa, đèn nến bật hết để cả nhà tràn ngập ánh sáng, dương khí tràn ngập căn nhà đón may mắn.

Cúng cá chép thật hay cá giấy?

Theo chị Lê Thị Hiền, chuyên bán hàng mã ở chợ Tam Đa (Thụy Khuê, Hà Nội), cúng Táo quân, các gia chủ thường chuẩn bị 3 bộ mũ áo, cá chép để 3 vị Táo lên thiên đình. Một bộ Táo quân đúng có 3 chiếc áo dài, 3 mũ áo Táo quân (2 mũ đàn ông, một mũ đàn bà) đính giấy trang kim lóng lánh. Mũ Táo ông có 2 cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn (một số nơi bây giờ chỉ dùng tượng trưng 1 chiếc mũ có hai cánh chuồn, 1 chiếc áo và đôi hia giấy). Đặc biệt là các Táo chỉ "đội mũ đi hia, không mặc quần" nên bộ mã Táo quân thường không có quần. Theo một số nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, các tranh ảnh, hình vẽ Táo quân đều không có quần, mà chỉ mặc áo dài đen là theo quan niệm xưa coi thần Táo thuộc dòng lửa nước, con người cổ sơ còn hồn nhiên là phải ở trần. Giá bán mã Táo quân thường giao động từ 20.000 - 120.000 đồng/bộ. Khi bán áo mã Táo quân thường có thêm một bộ mã quan thần linh, dùng để hóa vào đêm 30 Tết.

Theo họa sĩ, nhà nghiên cứu văn hóa Trịnh Yên, Giám đốc Trung tâm UNESCO văn hóa – dòng họ và gia đình Việt Nam, mã cúng Táo quân ở miền Bắc và Nam giống nhau, đều có cá chép giấy trong mã nhưng miền Trung có phong tục cúng ngựa giấy với yên cương đầy đủ cho Táo quân.

Theo dân gian, cá chép là loài cá tiên do phạm lỗi nên bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian, nếu tu hành chánh quả thì sẽ hóa thân thành rồng và bay trở về Trời. Người Việt thường cúng Táo 3 con cá chép nhỏ (nay là 3 con cá chép đỏ) thả trong chậu nước, bày dưới ban thờ. Sau khi cúng Táo, 3 con cá chép này sẽ được thả ra sông, suối hoặc ao hồ. Có nhiều lý luận về việc thả cá chép thật hay chép giấy. Nhưng đốt cá chép giấy là tục đốt mã rất tốn kém có từ thời nhà Minh, tới thời Càn Long không đốt nữa. Còn ở Việt Nam từ xưa đốt mã cá chép chứ không thả cá chép bởi không ai bầy cá sống vào mâm cúng cả. Mãi tới thời nhà Nguyễn mới có việc thả cá chép sống và thành lệ tới ngày nay. Thả cá chép thật được 2 việc (theo nhà Phật), một là phát tâm từ bi phóng sinh cho cá chép, mở rộng ra muôn loài, muôn vật.

Còn các nhà tâm linh thì cho rằng, nên dùng cá chép mã không nhất thiết phải là cá chép thật, bởi việc cúng lễ là ở tâm thành của mỗi người. Dùng cá chép mã để giảm bớt các hệ lụy như phải chen nhau ra ao hồ, sông suối thả cá.

Bữa ăn tất niên lúc mời gia tiên về dự tiệc đoàn tụ nên có đầy đủ tất cả các thành viên trong gia đình. Dự tiệc tất niên nên ăn mặc chỉnh tề, đặc biệt phụ nữ phải đeo trang sức… tươi cười rạng ngời để sự may mắn sẽ tiếp diễn. May mắn tới càng nhiều vào thời điểm Giao thời giữa năm cũ và năm mới nên tất cả những người con phải có những lời chúc tốt đẹp cho bố mẹ.
Đêm 30 Tết cửa chính và tất cả các cửa nhà, phải được mở trước Giao thừa, đèn nến bật hết để cả nhà tràn ngập ánh sáng, dương khí tràn ngập căn nhà đón may mắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 ngày vắng Táo quân, gia chủ nên làm gì?

Vận mệnh người tuổi Quý Mùi theo Lục Thập Hoa Giáp

Lục Thập Hoa Giáp của Quý Mùi là dê vùng ngoại ô, cá tính thẳng thắn, ngoài cương trong nhu, linh hoạt nhanh nhẹn.
Vận mệnh người tuổi Quý Mùi theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Giai ma van menh nguoi tuoi Quy Mui theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Dương liễu Mộc thướt tha dịu dàng ở sườn đê, mềm mại ở trong vườn, lá liễu mảnh mai, cành liễu buông rủ. Quý Mùi Mộc là Chính ấn. Người bẩm thụ được nó có tài kinh bang tế thế, có phúc hưởng vinh hoa phú quý. Vào mùa hạ, dương liễu tốt tươi, ngưòi sinh vào mùa hạ chủ về phú quý. Nếu sinh không đúng mùa chủ về bần cùng, yểu thọ.
 
Mộc tự khố, sinh vượng thì đẹp, kỵ Canh Tuất Thoa xuyến Kim, Ất Mùi Sa trung Kim. 
 
Lục Thập Hoa Giáp của Quý Mùi ưa Bính Thìn, Đinh Ty Sa trung Thổ, gặp Cấn sơn thì nương tựa. Gặp Dần, Mão, phương Đông đắc địa. Tân Sửu có sơn, cát lợi. Ưa nhất Kỷ Mão Thành đầu Thổ, không ưa Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ.
 
Thủy gặp Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy, Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy, đều cát lợi.
 
Mộc này tự có Hỏa, nếu lại gặp Hỏa khác e rằng thương hại đến tuổi thọ. Ất Tỵ Phúc đăng Hỏa có gió, gió thổi gãy cành, chủ về hung tai. Nhưng gặp Bính Dần, Đinh Mão Lư trung Hỏa, chủ về cát lợi. Gặp Mậu Tý Tích lịch Hỏa cần thêm Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ, chủ về quý.
 
Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc, gió càng lớn, phạm phải chủ về yểu thọ. Gặp Canh Dần, Tân Mão Tùng bách Mộc chủ về phú quý.
 
Các trụ khác trong Lục Thập Hoa Giáp của Quý Mùi nếu như có Canh Thân, Tân Dậu Thạch lựu Mộc, người này ắt nghèo hèn. Nhưng nếu như sinh vào mùa xuân và mùa hạ thì ngược lại, không nghèo hèn mà gọi là Hoa hồng liễu lục cách.
 
Nếu như Mộc này sinh vào 3 tháng mùa xuân, mà thời trụ được 1 Kim Giáp Tý, Tân Tỵ, Tân Hợi, Quý Mão là cát lợi nhất, gọi là Dương liễu đà Kim cách.
 
Quý lộc tại Tý, Quý quý tại Tỵ, Địa chi của các trụ khác gặp nó đều cát lợi.
 
Mùi mã tại Tỵ, Địa chi của các trụ khác có Tỵ, phạm Mã thần, cuối đời phá bại.
 
Địa chi của các trụ khác không ưa lại có Sửu, Tuất, phạm phải chủ về bảo thủ cố chấp, tự đề cao bản thân thái quá, mệnh nữ khắc chồng.
 
Địa chi của các trụ khác gặp Mùi, vợ chồng duyên bạc. Nếu như tọa thời chi, nên theo tôn giáo. Địa chi của các trụ khác gặp Sửu, con cái duyên bạc.
 
Nhật chi gặp Mùi, khắc chết vợ hoặc chồng.
 
Gặp năm Mùi, năm Sửu, trong nhà không yên. Nếu bản thân không bị thương hại cũng chủ về người nhà muôn sự nguy khó.
 
Người sinh năm Quý Mùi bạn đời không nên lấy người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh.
Theo Tử vi toàn tập
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh người tuổi Quý Mùi theo Lục Thập Hoa Giáp

Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 3)

Phương pháp luận mệnh dựa vào Lục Thập Hoa Giáp khá dễ hiểu và rõ ràng nên hầu như ai cũng có thể tiếp cận. Xem tử vi cho bản thân chính xác nhất theo năm
Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 3)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phương pháp luận mệnh dựa vào Lục Thập Hoa Giáp khá dễ hiểu và rõ ràng nên hầu như ai cũng có thể tiếp cận. Xem tử vi cho bản thân chính xác nhất theo năm tuổi.


Luan menh tung tuoi dua vao Luc Thap Hoa Giap phan 3 hinh anh 2
 
Lục Thập Hoa Giáp kết hợp thiên can địa chi tạo nên âm dương hòa hợp, từ đó mà luận tử vi của từng tuổi cụ thể một cách sát thực nhất. Luận mệnh theo cách này thì dù cùng một địa chi chưa chắc số mệnh đã giống nhau vì còn phải xét tới thiên can.
  21. Nhâm Tuất: tọa Tài sinh Sát, Sát sinh Ấn, Sát Ấn tương sinh, chủ đại quý, hoặc võ quý, nhưng Đinh Nhâm hóa Mộc gặp Thổ, thường biến thành tiểu nhân hoặc người xấu.   22. Ất Sửu: chủ nhân thanh tú xinh đẹp, thân tọa Kim khố, tọa Thất Sát không chế ngự được, tự tin quá mức, thường khư khư cố chấp. Nữ mệnh Ất Sửu phong cách giống phái nam.   23. Bính Dần: Bính là Thái Dương, thân tọa trường sinh, sáng rọi, chủ nhân thông minh, nhưng tọa kiêu thần đoạt thực, không cát. Sinh vào sau Đông Chí trước Hạ Chí thì Mậu Thổ trường sinh tại Dần, Thực Thần vượng, chủ nhân thông minh, rất cát; sinh sau Hạ Chí trước Đông Chí thì Mậu Thổ trường sinh ở Thân, Thực Thần nhược, kém một chút.   24. Đinh Mão: tọa Ấn, chủ nhân thông minh, có học vấn. Nếu tứ trụ xuất hiện Hợi Mão Mùi tam hợp cục hoặc Dần Mão Thìn tam hội cục, là đại quý nhân, nhưng thân tọa Thiên Ấn, chỉ có thể làm đến phó, phụ tá người khác.   25. Kỷ Tị: Kim thần, chủ nhân cương nghị, thông minh, có Hỏa tất quý, không Hỏa thì không cát. Tọa Chính Ấn, Kiếp Tài, Thương Quan, Thương Quan bội Ấn, quý không thể nói, nhưng Thương Quan gặp tai kiếp, dễ bị tiểu nhân hãm hại.   26. Tân Mùi: thân vượng, tọa Thiên Tài, Thiên Ấn, Thất Sát, thuận sinh, chủ tiểu quý, khá cát. Nữ mệnh Tân Mùi tình yêu chuyên nhất, lấn quyền chồng, độc tài.
Luan menh tung tuoi dua vao Luc Thap Hoa Giap phan 3 hinh anh 2
 
27. Giáp Tuất: thân vượng, tọa Thiên Tài, Chính Quan, Thương Quan, chủ nhân kiên cường chính trực, quang minh chính đại, làm quan thanh liêm, nhưng tính cách quá mức ngay thẳng nên đắc tội với người khác, khó tránh khỏi bị đả kích, xa lánh.
  28. Ất Hợi: mặc dù lâm tử địa, nhưng tọa Chính Ấn, Kiếp Tài giúp thân, như cây khô gặp mưa xuân mát lành. Nam mệnh Ất Hợi lấy được hiền thê; nữ mệnh Ất Hợi lấy được quý phu.   29. Đinh Sửu: Đinh Hỏa tọa Sửu, thân nhược, nhưng Đinh là tinh quang, không phương. Tọa Thiên Tài, Thất Sát, Thực Thần, Thực Thần sinh Thiên Tài, Thiên Tài sinh Sát, thuận sinh, may mắn.   30. Mậu Dần: tọa trường sinh, thân vượng. Sinh vào mùa xuân, tọa Thất Sát quá nặng, cả đời lao khổ, đa số là người tạo phúc.
► Mời các bạn: Xem tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh chuẩn xác

Giải mã vận mệnh người tuổi Quý Dậu theo Lục Thập Hoa Giáp Giải mã vận mệnh người tuổi Quý Mùi theo Lục Thập Hoa Giáp Giải mã vận mệnh người tuổi Mậu Dần theo Lục Thập Hoa Giáp
Trình Trình    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 3)

Tìm hiểu phú Tử Vi: người đẹp dâm: thiên lương ngộ mã; thiên đồng ngộ kị tại tuất

Một bài viết tiếp theo của tác giả Phong Nguyên giải thích một số câu phú tử vi. Mời bạn đọc tham khảo!
Tìm hiểu phú Tử Vi: người đẹp dâm: thiên lương ngộ mã; thiên đồng ngộ kị tại tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Phong Nguyên

Trong bài hôm nay, tôi xin tiếp tục mổ xẻ thêm một số câu phú tử vi để bổ túc trong một thời gian ngắn loạt bài về phú đã đăng trên KHHB. Tôi cần lưu ý quý bạn là tôi chỉ nêu ra những câu thật ứng nghiệm hoặc những câu tuy thông dụng nhưng dễ áp dụng sai hay không hợp lý, cho nên quý bạn sẽ không bao giờ thấy những câu phú quá thông thường và dễ áp dụng trong loạt bài phú của tôi.

1) Thiên - Lương Ngộ Mã Nữ mệnh tiện nhi khả dâm

Giải nghĩa: Nếu phụ nữ có Thiên -Lương tọa thủ tại Mệnh ( đương nhiên ở cung Tỵ hoặc Hợi theo cách bố cục chính tinh) mà gặp Mã ( đồng cung hay xung chiếu ) thì là người dâm đảng.

Nhận xét: trước hết ta tự hỏi tại sao Thiên - Lương là không có đặc tính gì dâm đãng mà khi gặp Thiên - Mã (chỉ là sao di động ) lại đem cái tính xấu đó tới người phụ nữ. Trường hợp này quí bạn cần xét tới chính tinh khác gây ảnh hưởng và cần phải suy luận ra mới thấy ý nghĩa hợp lí chứa trong câu phú.

Nếu quí bạn đã thông thuộc cách an sao trên bàn tay thì hẳn quí bạn thấy rằng khi Thiên -Lương tọa thủ tại Tỵ hoặc Hợi thì bao giờ cũng có Thiên-Đồng xung chiếu và chính sao Thiên-Đồng là đầu mối của ý nghĩa trong câu phú. Thực tế, tuy Thiên-Đồng không phải là sao chủ về đa tình, dâm đãng thực sự nhưng lại là sao chủ về sự di chuyển liên tục, nhất là đóng tại cung Thiên-Di và lại gặp Thiên-Mã (dù không đồng cung) thì làm sao đương số ru rú ở xó nhà được, và khi người đàn bà hay "chạy rông" ngoài xã hội rất dễ trở thành người ăn chơi, trụy lạc, nhất là theo quan niệm thời phong kiến, cổ xưa ở bên tàu cũng như ở bên ta. Do đó mới có vấn đề dâm đãng trong câu phú mà ta phải suy luận ra sao mới hiểu được.Tuy nhiên vì thời văn minh này đã thay đổi hẳn cách sống của người phụ nữ, ta phải áp dụng thận trọng câu phú trên

Vậy muốn giải đoán cho chính xác và khách quan ta cần phải lưu ý đến khía cạnh, yếu tố nào? Trước hết quí bạn xét đến cung Mệnh và Thiên- Di xem có thêm nhiều sao chủ về đa tình, lãng mạng hay không. Nếu có Hồng Riêu, Tả Hữu, Xương Khúc ( không bao giờ gặp đào hoa ở Tỵ hay Hợi ) chẳng hạn lại thêm Mộc- Dục, Hoa- Cái và Đào- Hoa nữa tại Giải- ách thì câu phú hẳn phải ứng nghiệm một trăm phần trăm, nhưng nếu không gặp những sao trên, mà mệnh lại có Hóa Quyền, Thiên Hình hoặc Thiên Khôi hoặc Thiên Việt (nếu Mệnh tại hợi thì chỉ gặp Thiên Khôi, ở Tỵ chỉ gặp Thiên Việt ) thì khó lòng ta dám quyết đoán là đương số có tâm hồn dâm đãng, chứ chưa nói đến cách sống dâm đãng.Vì các sao Hóa Quyền và Thiên Hình là những sao tự chủ được mạnh mẽ mà chỉ những người khắc kỷ mới hay có, còn các sao Khôi Việt chủ về sự tư cách, trọng hậu, thanh cao thì làm sao đương số có tính xấu như vậy được.Trong trường hợp này, dù cho cung Nô Bộc có Đào Hồng, riêu cũng chưa chắc đã lung lạc nổi tâm hồn của đương số. Và như vậy chỉ còn cách quyết đoán là đương số hay bôn ba, hay thay đổi nơi ăn chốn ở hoặc nơi làm việc, hoặc hay được xuất dương, xuất xứ ( nhất là khi có Thân cư Thiên Di) chứ tuyệt nhiên ta không nên kết tội theo câu phú mà thành ra " quê một cục ". Dù muốn dù không câu phú này cũng được đặt ra ở thời phong kiến bên Tàu là thời phụ nữ kín cổng cao tường hễ cứ lộ diện là bị chê bai là…hư đốn rồi, cho nên khó ứng nghiệm vào thời dại văn minh này.

2) Thiên -Đồng Tuất Cung Hóa-Kị, Đinh Nhân Mệnh Ngộ Phản Vi Giai

Giải nghĩa: Mệnh an tại Tuất mà có Thiên Đồng tọa thủ lại gặp Hóa Kỵ đồng cung thì rất xấu nhưng lại gặp người tuổi Đinh thì rất tốt đẹp.

Nhận xét: Câu phú này trong nhiều sách tử vi đều có nêu ra, nhưng ta thấy ngay là vô lí, nếu lưu ý đến bố cục bố trí của các sao.Tôi không giám bác bỏ hẳn câu này. Tôi chỉ xin nêu ra điểm sao Hóa- Kỵ khi đã đồng cung với thiên đồng (bất cứ ở cung nào) cũng không ứng vào tuổi Đinh vì tuổi này áp dụng câu "Đinh Nguyệt Đồng Cơ Cự với Cự Môn, còn Hóa Quyền lại đồng cung với thiên- đồng. Có thể câu phú có ý nói là Thiên Đồng ở Tuất ngộ Hóa Kỵ ở cung xung chiếu, tức là cung có Cự -Môn tọa thủ ( ở Thìn ), nhưng dù sao có vẻ cũng gượng ép nếu ta đọc kĩ câu (Thiên Đồng Tuất cung Hóa Kỵ ) trong câu phú.

Theo tôi, quý bạn nên dựa theo câu phú tương tự "Thiên -Đồng Tuất cung vi phản bội, Đinh nhân hóa cát chủ đại quý (có sách chép là "mệnh ngộ phản vi giai" thay vì "hóa cát chủ đại -quý” ) thì có lẽ hợp lí hơn vì không đề cập đến Hóa-Kỵ đồng cung tại Tuất.Vậy bây giờ ta cần tìm hiểu xem tại sao tuổi Đinh lại “ lật ngược thế cờ “như thế?.

Thiên-Đồng ở Tuất tuy bị hãm địa thật, nhưng với tuổi Đinh lại hội đủ bộ Lộc, Quyền Khoa vì Hóa-Lộc đồng cung với Thái âm (ở Dần) Hó -Quyền đồng cung với Thiên-Đồng, Hóa -Khoa đồng cung với Thiên Cơ (cũng ở dần).Ngoài ra, còn có Lộc-Tồn cư cung Ngọ (đồng cung với Thiên- Lương ) tức là cung Tài - Bạch và khi Lộc-Tồn cư Tài -Bạch thì lại có Tướng-Quântại cung Quan-Lộc ( vì là âm nam, dương nữ ) và thêm cả Quốc - Ấn cư Quan-Lộc (Dần ) nữa mới xét sơ qua như thế chúng ta đã thấy nhiều yếu tố tốt đẹp rồi mà chỉ có tuổi Đinh mới hội đủ ; khi đó Thiên-Đồng chỉ đóng vai trò phụ hoặc bỏ qua cũng được, quý bạn cứ kiểm tra qua tuổi khác một tí thì thấy không có tuổi nào được một góc của tuổi Đinh. Ngay như tuổi Kỷ cũng có Lộc-Tồn cư Ngọ như tuổi Đinh nhưng bộ Tam Hóa không hội đủ, chỉ có Hóa - Khoa đồng cung với Thiên -Lương tại Ngọ mà thôi. Đây là chưa kể đến trường hợp được thêm một số yếu tố tốt khác tùy theo ngày, giờ sinh. Tuy nhiên quí bạn cần ghi nhớ một điều là tuổi Đinh chỉ tốt về phương diện công danh, tiền tài chứ vẫn có thể bị kẹt về tai ách vì có Cự -Kỵ đồng cung tại Thiên -Di (nếu xui xẻo có "Thân " cư ở đó nữa thì khó thoát được), nhưng có điều may là luôn luôn có Thanh-Long ở cung Thìn (an theo Lộc-Tồn đi nghịch là vì âm Nam hoặc Dương-Nữ) thì vấn đề nạn nước coi như đã hóa giải được gần hết, trừ phi có thêm nhiều cách gì khá trở ngại mà thôi (tỷ dụ như có Không Kiếp, Linh, Xương, v.v)…Có lẽ vì thế câu phú không hề đề cập đến điểm bất lợi kể trên mà chỉ khẳng định là tốt đẹp.

3)”Thân” tại Quan cung gia sát diệu Triệt,Tuần, nữ mệnh nan bảo thân danh: gia kiến Bạch Tang cô thân trích ảnh nghi gia vãn tuế tất thành

Giải nghĩa: ”Thân” cư cung Quan Lộc gặp sát tinh và Tuần, Triệt án ngữ (xung chiếu không kể) nếu đàn bà con gái mà gặp thì khó bảo tòan được danh tiết; trường hợp thêm cả Tang Hổ hợp chiếu về (nếu tọa thủ lại hại nữa) thì bị cô đơn nếu lập gia đình sớm, về già thì may ra yên ổn về phương diện này.

Nhận xét: Tôi thấy câu phú này ngoài khía cạnh ứng nghiệm còn phải nói là dộc đáo nữa, vì thường đoán về phương diện hôn phối ta hay nhắm vào cung Mệnh, Phu Quân và sau nữa là Phúc Đức chứ ít khi ai chú ý tới cung Quan Lộc dù cho có “Thân” đóng ở đó. Hơn nữa, về danh tiết cũng vậy, ta thường xét đến Hồng, Đào Binh, Tướng.Không Kiếp chiếu Mệnh, Thân chứ có khi nào lại để ý đến Tuần Triệt án ngữ tại cung Quan chỉ chủ về công danh trắc trở, gián đoạn. Dù cho có thêm Sát –Tinh hội chiếu cũng khó ảnh hưởng về danh tiết.Vậy không có lẽ câu phú này đã ứng nghiệm một cách vô lý? Nhưng nếu chịu suy luận một chút, quý bạn sẽ thấy hợp lý vì người xưa quan niệm đàn bà con gái phải sống nhờ chồng, lo việc nội trợ phải xuất thân ra đời đi làm (vì “Thân” cư Quan-Lộc dễ phải đi làm ) đã là một điều không hay cho phụ nữ mà lại còn bị làm khó dễ đủ thứ (vì Sát Tinh và Tuần Triệt án ngữ) thì thử hỏi tư cách của người đàn bà bị tổn thương hay không? Hơn nữa, phụ nữ khi bị làm khó dễ thường thường (nhất là thời bây giờ ) hay liên quan đến tình cảm, sắc đẹp, vì nếu tỏ ra đứng đắn nghiêm trang thì hay bị cấp trên làm khó dể lung lạc tâm hồn, còn nếu chịu chiều lụy thì có ngày mất danh tiết như chơi. Vì vậy khi áp dụng câu phú này ta phải hết sức chú trọng đến cung Mệnh, nếu có nhiều sao tự chủ và đứng đắn là chỉ đoán công danh gián đoạn, thăng trầm, còn nếu thấy có quá nhiều sao “lã lướt” (như Riêu, Mộc, Cái, Đào Hồng..) thì có thể quyết đoán là mất danh tiết dể dàng, nếu không muốn nói là bị” hội đồng “(tôi xin lổi phải dùng chử này để nói lên được trung thực phần nào ngụ ý của tôi).Trường hợp sau này, có điều lạ là dù cho cung Phu Quân tốt đẹp mà vẫn không thoát được, có lẽ là sau khi bị thất tiết nhiều lần rồi sẽ lấy được chồng đàng hoàng, được yên duyên phận.Còn gặp trường hợp cung Phu Quân quá xấu mà cung Phúc Đức cũng tệ luôn thì dù không có Tang Hổ cũng vẫn cô đơn và ngay cả về già cũng vậy, khó lòng lập gia đình được.

Tuy câu phú này áp dụng rất linh động nhưng theo kinh nghiệm riêng, tôi khuyên quý bạn nên e dè ngay đối với trường hợp phụ nữ có Thân cư Quan Lộc bị Tuần, Triệt án ngữ vì không cần sát tinh hội chiếu nếu Mệnh hơi “yếu” một chút là có thể bị thất tiết được rồi và nếu cung Phu Quân hơi xấu nữa thì chẳng cần yếu tố Tang Hổ hợp chiếu về cung Quan cũng vẫn bị cô đơn (nhất là khi Mệnh có Cô Quả, Hình Đào)…

Cũng như bài trước về phú Tử vi, bài hôm nay cũng chỉ cho phép tôi bàn được có ba câu, như vậy quý bạn hơi sốt ruột về số lượng câu phú. Nhưng tôi nghĩ rằng biết được câu nào thì cần phải thật chắc ăn, thật thông suốt thì mới có lợi chứ nếu biết thật nhiều câu phú mà áp dụng bừa bãi, sai lầm thì thực không có gì tai hại và thất vọng cho bằng. Vậy mong quý bạn thông hiểu đường lối của tôi khi viết loạt bài về phú Tử vi. Tuy nhiên, nhân dịp này tôi xin thưa trước quý bạn là nếu thì giờ cho phép, tôi sẽ trình bầy thêm một số câu phú khác trong Lịch sách văn nghệ Tiền phong 1975 để số lượng phú được dồi dào vì Tòa soạn VNTP có nhã ý nhờ tôi viết thêm cho cuốn lịch sách nêu trên.

KHHB số 74H2


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu phú Tử Vi: người đẹp dâm: thiên lương ngộ mã; thiên đồng ngộ kị tại tuất

Lỗi phong thủy phòng học khiến con cái học hành kém cỏi

Phòng học của trẻ ồn ào, thiếu ánh sáng...việc học hành của trẻ sẽ ngày càng sa sút. Đó là một trong những lỗi phong thủy phòng học cơ bản mà cha mẹ cần tránh.
Lỗi phong thủy phòng học khiến con cái học hành kém cỏi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Muốn con mình học hành ngày một giỏi giang, cha mẹ nên chú ý bài trí góc học tập của con theo đúng phong thủy. Lưu ý, cần tránh những lỗi cơ bản dưới đây.

1. Phòng học ồn ào
 
Trong phong thủy phòng học cho con cái, yên tĩnh là yếu tố quan trọng hàng đầu. Do đó, khi bố trí phòng học cho con, cha mẹ nên chọn các loại vật liệu cách âm tốt, tránh làm gián đoạn việc học hành của con trẻ bởi những tạp âm bên ngoài. Điều đó giúp trẻ dễ tập trung vào việc học và học hiệu quả hơn.
 
2. Hướng bàn học bị ánh sáng chiếu trực tiếp

Phòng học của trẻ phải đảm bảo đầy đủ ánh sáng và tận dụng tối đa ánh sáng từ thiên nhiên. Tuy nhiên, nếu nguồn sáng này chiếu thẳng vào bàn học sẽ khiến mắt trẻ bị kích thích và khó tập trung học bài. 
 
Vị trí đặt bàn học tốt nhất là ở hướng Bắc của căn phòng, nơi ánh sáng chiếu vào phía sau lưng trẻ ngồi học. Điều này không ảnh hưởng đến việc học hành của trẻ đồng thời vẫn đảm bảo đầy đủ ánh sáng, tạo cảm giác thoáng mát cho căn phòng. 
 
Không nên bố trí bàn học giữa cửa ra vào hay cửa sổ hoặc quay lưng ra hai vị trí này, bởi điều đó gây tâm lí bất an cho trẻ. Tránh kê bàn học ngay dưới xà ngang hoặc đèn chùm vì nó dễ khiến trẻ mất tập trung khi học bài.

Loi phong thuy phong hoc khien con cai hoc hanh kem coi hinh anh
Phong thủy phòng học cho trẻ học hành giỏi giang

3. Phòng học thiếu sự lưu thông không khí, thiếu hoặc thừa ánh sáng

 
Phong thủy phòng học tốt là luôn có không khí trong lành được lưu thông. Do đó, nên bố trí góc học tập của trẻ ở nơi thoáng đãng. Cha mẹ có thể dùng một số tinh dầu có mùi hương nhẹ nhàng, tạo sự thư giãn và thông thoáng hơn.
 
Ánh sáng cũng góp phần giúp trẻ có thể tập trung học hành. Nếu phòng học thiếu hoặc quá thừa ánh sáng đều không tốt cho thị lực và tinh thần học tập của trẻ. Phụ huynh nên tận dụng tốt nguồn ánh sáng tự nhiên. Bên cạnh đó chọn các loại đèn chiếu sáng phù hợp với thị lực của trẻ.
 
4. Màu sắc trong phòng học quá đơn điệu hoặc quá sặc sỡ
 
Đây là lỗi phong thủy thường gặp khi bố trí phòng học cho con cái. Không ít gia đình chọn cho con từ màu sơn đến đồ nội thất đều là những tông màu rực rỡ. Trái lại, nhiều người lại quá đơn giản hóa màu sắc trong phòng học của trẻ. Cả hai điều này đều không phù hợp với bài trí phong thủy phòng học.
 
Bạn nên căn cứ vào mệnh của trẻ cũng như ý đồ muốn con cái phát triển theo hướng nào để bài trí phòng học cho trẻ. Tuy nhiên, tất cả cần tuân thủ nguyên tắc sử dụng màu sắc tươi tắn, ấm và sáng thể hiện được sự vui nhộn, kích thích các giác quan tư duy và nâng cao hiệu quả học tập của trẻ.
 
Theo XZW  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lỗi phong thủy phòng học khiến con cái học hành kém cỏi
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd