Giải nghĩa nốt ruồi dưới cằm của nam và nữ –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Một bài viết hay không liên quan gì tới Tử Vi, tuy nhiên cũng là một bài viết hay mà mình đăng lên đây để tham khảo
1. Hãy nhớ kỹ: Ngủ là yếu tố quan trọng nhất của dưỡng sinh. Thời gian ngủ nên từ 21h đến 3h sáng. Vì thời gian này là mùa đông trong ngày, mùa đông chủ yếu là ẩn náu, mùa đông mà không ẩn náu thì mùa xuân, hạ sẽ không thể sinh trưởng, sang ngày hôm sau sẽ không có tinh thần.
2. Hết thảy các vị thuốc dùng để trị bệnh cho dù là Trung y hay là Tây y đều chỉ là trị phần ngọn, không trị tận gốc. Tại vì hết thảy bệnh tật đều bắt nguồn từ những nguyên nhân sai lầm mà sản sinh ra hậu quả sai lầm. Nguyên nhân sai lầm mà không trừ dứt, thì hậu quả sẽ không thể bỏ tận gốc. Nguồn gốc căn bản của sức khỏe là tại tâm. Hết thảy pháp từ tâm sinh ra. Tâm tịnh thân sẽ tịnh. Vì thế khi bị bệnh rồi, không được hướng ngoại cầu, phải dựa vào hệ thống phục hồi của bản thân để chữa trị bệnh của chính mình. Kỳ thực con người và động vật là giống nhau, bệnh của động vật đều là tự dựa vào bản thân mà tự hồi phục, và con người cũng có khả năng đó.
3. Quan niệm đúng đắn có tác dụng giúp người bệnh tiêu trừ bệnh tật tốt hơn nhiều so với sử dụng biệt dược đắt đỏ và phẫu thuật. Có được quan niệm đúng đắn, bạn sẽ có quyết định đúng đắn, bạn sẽ có hành vi đúng đắn, và bạn sẽ có thể phòng ngừa rất nhiều bệnh tật phát sinh.
4. Con người vốn hội tụ hết thảy trí huệ, tuyệt đối không phải là học từ trong sách vở, mà là từ tâm chân thành, tâm thanh tịnh của bản thân, từ trong [thiền] định mà sinh ra.
5. Trong giới sinh vật con người là linh thể có cấu tạo hoàn mỹ nhất, khi con người được sinh ra là đã có một cơ thể khỏe mạnh; sự điều chỉnh trạng thái khỏe mạnh của con người là dựa vào chính hệ thống điều tiết phục hồi của bản thân để hoàn thành, chứ không phải dựa vào nhân tố bên ngoài, các nhân tố bên ngoài chỉ có tác dụng phụ trợ.
6. Đại đa số hiện tượng bệnh tật của con người là hiện tượng biểu hiện khi cơ thể đang điều tiết, thanh lọc những thứ không tốt trong thân thể, là trạng thái biểu hiện ra khi cơ thể tự động điều tiết trở lại trạng thái cân bằng, vì thế chúng ta nên coi đó là hiện tượng sinh lý bình thường, chứ không nên coi đó là căn bệnh để tiêu diệt. Vì vậy khi con người bị bệnh, nhất định không nên có tâm thái oán trách và giận giữ, tâm lý phải ổn định, tâm định thì khí sẽ thuận, khí thuận thì máu sẽ thông, khi thuận huyết thông thì trăm bệnh đều sẽ tiêu tán.
7. Sức khỏe của con người không thể xa rời hai nhân tố: 1) Khí huyết đầy đủ; 2) Kinh mạch thông suốt ( bao gồm huyết quản và đường thông bài tiết những thứ cặn bã).
8. Khí huyết đầy đủ dựa vào: sự đầy đủ về thức ăn + dịch mật + bắt buộc trong khoảng thời gian (sau khi trời tối đến 1h40 sáng) có thể ngủ ngon giấc (thời gian này đại não hoàn toàn không làm việc, đều do thần kinh thực vật làm chủ đạo) + có thói quen sinh hoạt lành mạnh.
9. Kinh mạch thông suốt cần: Tâm thanh tịnh. Hết thảy thất tình lục dục đều có thể phá hoại tâm thanh tịnh, từ đó phá hoại sự lưu thông bình thường của kinh mạch.
10. Duy trì một cơ thể khỏe mạnh khỏe mạnh không chỉ cần “tăng thu” (gia tăng khí huyết), mà còn cần “tiết chi” (giảm thiểu sự hao tổn khí huyết).
11. Ăn uống quá độ không những không thể gia tăng khí huyết, mà còn trở thành những thứ cặn bã mang gánh nặng cho cơ thể, hơn nữa còn bị tiêu hao khí huyết để thanh lọc chúng đi. Lục phủ ngũ tạng là một xưởng gia công khí huyết, thức ăn là nguyên vật liệu, năng lực gia công là hữu hạn, còn thức ăn là vô hạn, cho nên số lượng thức ăn nhất thiết phải được khống chế.
12. Vận động thích hợp có thể giúp cho khí huyết lưu thông, nhưng đồng thời cũng tiêu hao đi khí huyết. Sự tuần hoàn của cơ thể tại vi mô chủ yếu dựa vào trạng thái lỏng và tĩnh mà đạt được, đây cũng là điều không thể thiếu cho một cơ thể khỏe mạnh.
13. Chất cặn bã trong cơ thể càng nhiều sẽ cần càng nhiều khí huyết để thanh lọc chúng, nhưng khi chất cặn bã nhiều lên và làm tắc huyết mạch sẽ làm giảm thiểu khí huyết, cái đó sẽ dẫn đến sự tuần hoàn ác tính, cũng chính là cơ lý khiến con người già yếu đi. Vì vậy nếu con người muốn khỏe mạnh không già yếu thì phải: 1) Giảm thiểu chất cặn bã trong cơ thể; 2) Tăng cường sự thông suốt của các đường kinh mạch; 3) Tăng cường khí huyết trong cơ thể.
14. Tin tưởng vào thuốc, tin tưởng vào số liệu kiểm tra, không bằng tin tưởng vào cảm giác của bản thân, tin tưởng rằng chính mình có đầy đủ năng lực để điều tiết. Nhưng trước hết bạn cần phải là người đắc đạo (trí huệ đã khai mở), mới có thể phân biệt được hết thảy những điều này.
15. Sự khỏe mạnh, khởi đầu từ việc điều hòa tâm tính. Vì sức khỏe của bạn, bạn hãy tu Phật. Tu Phật đạt được sự vui vẻ đó là sự hưởng thụ tối cao của đời người.
16. Đối với người có bệnh cũ mà nói, chỉ khi có khí huyết đầy đủ (một là thông qua phương pháp bổ sung khí huyết như đã giới thiệu ở đây, hai là thông qua việc đi tản bộ để đánh thông khí cơ), bệnh tình mới có thể hiển hiện ra. Vì thế người luyện công sau khi công phu đã đạt đến một trình độ nhất định đều xuất hiện một vài hiện tượng “bệnh”. Đến lúc đó phải vững vàng kiên định, tâm thần phải tĩnh lại và luyện nhiều tĩnh công hơn để gia tăng khí huyết của bản thân, để mau chóng vượt qua giai đoạn này.
17. Con người làm trái với quy luật dưỡng sinh, mặc dù không nhất định sẽ bị bệnh ngay lập tức, nhưng một khi đã hình thành thói quen, liền gia tăng nguy cơ mắc bệnh. Điều này giống với luật lệ giao thông, bạn vi phạm luật lệ giao thông, không nhất định sẽ xảy ra sự cố, nhưng tình trạng nguy hiểm là có thể thấy rất rõ ràng.
18. Tại sao con người nhất thiết phải duy trì trạng thái đói khát nhất định thì mới có lợi cho dưỡng sinh? Kỳ thực đây chính là sự vận dụng tuyệt diệu của chữ “Hư”. Đạo gia giảng, hư thì linh. Chính cái đó cùng với sự khiêm tốn khiến cho con người tiến bộ, giống như tự mãn khiến con người lạc hậu, vì thế con người nhất thiết phải thường xuyên duy trì trạng thái “hư linh”, mới có thể luôn luôn duy trì sự thanh tỉnh, duy trì sự khỏe mạnh.
19. Con người muốn khỏe mạnh, thì nhất thiết phải làm cho bên trong cơ thể có đầy đủ “khí” để “khí hóa” những thức ăn đi vào. Chỉ có như thế, thì bên trong thân thể bạn mới không tích tụ chất cặn bã, sẽ không có thức ăn thừa bị phóng thích và phân tán “hư hỏa” gây tổn hại các cơ quan nội tạng trong cơ thể bạn. Cái “hư hỏa” còn làm tổn hại “khí” của bạn. Vì thế, từ trên ý nghĩa đó có thể thấy, con người hiện đại bị bệnh, đại đa số là do ăn uống không điều độ mà thành.
20. “Nằm lâu hại khí”, “Ngồi lâu hại thịt”, “Nhàn hạ ắt khí ứ đọng”, lại dưỡng tĩnh quá độ, sẽ khiến công năng tiêu hóa của tì vị bị hạ thấp, chức năng của tạng phủ ì trệ, khí huyết lưu chuyển ứ tắc không thông thuận, lực đề kháng giảm, khả năng miễn dịch bị tổn hại, lượng đường, mỡ, axit uric, huyết áp tăng cao, dần dần lâu ngày, con người sẽ sinh bệnh, hơn nữa đa phần đều là thân thể yếu nhiều bệnh, ví dụ như cảm mạo thường xuyên, không muốn ăn, thần trí mỏi mệt, sốt ruột căng thẳng v.v…
21, Tục ngữ có câu “Linh cơ nhất động, kế thượng tâm lai” (nhạy bén hễ động, nảy ra sáng kiến). Chữ “cơ” nếu như có thể thực sự hiểu được thấu, thế thì ngộ tính của bạn được tính là đã khai mở rồi. Thầy giáo dạy người, bác sỹ trị bệnh, kỳ thực chính là đang chỉ ra cái “cơ” này của bạn, khiến cái “cơ” này của bạn khai mở. cái “cơ” này có lúc cũng gọi là “then chốt”. Đương nhiên cái “cơ” này khởi tác dụng là có điều kiện, cũng giống như khinh khí chỉ khi đạt đến nồng độ nhất định, thì gặp lửa mới có thể bùng cháy. Hãy nhớ kỹ, tác dụng của người khác đều là nhân tố bên ngoài, bản thân bạn mới thực sự là nguyên nhân bên trong.
22. Kỳ thực, rất nhiều sự phát hiện và phát minh chân chính, điều cần thiết [để sáng tạo ra chúng] không phải là cái gọi là hệ thống kiến thức trên sách vở; mà hoàn toàn ngược lại, một người chưa từng thông qua bất kể sự giáo dục nào một cách hệ thống, nhưng ngộ tính rất cao, là người có tư duy cởi mở, họ thường thực sự ngộ ra được chân tướng.
23. Con người tối kỵ nhất là loạn chữ, loạn tâm, khi đối ngoại có thể làm hỏng việc, đối nội có thể ảnh hưởng đến khí huyết, làm mất đi sự hoạt động thông thường. Phàm là khi vui buồn, tức giận, hoài nghi, lo lắng, đều là loạn, là căn nguyên của bệnh tật và đoản thọ, không chỉ khi dưỡng bệnh mới không nên loạn, mà khi bình thường cũng rất kỵ tâm loạn.
24. Giận nhiều hại gan, dâm nhiều hại thận, ăn nhiều hại ruột, ưu tư hại lá lách, phẫn nộ hại gan, sầu muộn hại tinh thần.
25, Khi đổ bệnh, đều do tâm suy yếu, ngoại tà thừa cơ xâm nhập. Mà khi tâm yếu khí nhược, mỗi khi do tâm tình hỗn loạn, thân thể không sung mãn, xuất hiện đủ loại bất an, Tham ăn, tham thắng, tham đạt, tham vui an dật, đều đủ để dẫn đến bị bệnh. Khi tham mà không được, thì dễ dẫn đến giận dữ. Hay giận dữ khiến tâm khí hỗn loạn, gan mật rối loạn, sáu mạch chấn động, ngũ tạng sôi trào, ngoài tà cùng lúc đó mà thừa cơ xâm nhập, đó là nguyên nhân của bệnh tật.
26, Người thường mong cầu trường thọ, trước tiên phải trừ bệnh. Mong cầu trừ bệnh, phải biết dụng khí. Muốn biết dụng khí, trước hết phải dưỡng sinh. Phương pháp dưỡng sinh, trước hết phải điều tâm (điều hòa tâm thái).
27, Con người do khí trong ngũ hành mà sinh, nhục thân lấy khí làm chủ. Khí bị hao tổn ắt sinh bệnh, khí ứ động không thông cũng sinh bệnh. Muốn trị bệnh này, ắt phải trị khí trước tiên.
28. Khí để thông huyết, huyết để bổ khí, tuy hai mà như một vậy. Phàm là người nhìn nhiều (sử dụng mắt nhiều) ắt tổn thương huyết, nằm nhiều tổn thương khí, ngồi nhiều tổn thương thịt, đứng nhiều tổn thương xương, đi nhiều tổn thương gân, thất tình lục dục quá độ ắt tổn thương nguyên khí, hại tới tâm thận. Như ngọn lửa cháy mạnh mẽ, bị hao tổn dương khí.
29. Trị bệnh về ngũ tạng, đầu tiên cần bổ khí. Thận là cấp bách nhất. Bổ khí nghiêm cấm động tâm, động tâm ắt nóng gan, các mạch bị chấn động, chân thủy sẽ hao tổn. Tâm bị động, sẽ dẫn khởi phong. Phong động ắt hỏa vượng, hỏa vượng ắt thủy can, thủy can ắt địa tổn.
30. Tâm định thần nhất, người được chữa bệnh cần tín tâm kiên định chuyên nhất, lưỡng tâm tương hợp, có thể trị khỏi bách bệnh, không cần dùng thần dược.
31. Bệnh của con người có thể chia thành 2 loại: một là kinh lạc cơ bản thông suốt nhưng khí không đủ. Biểu hiện là thường xuyên đau chỗ này chỗ kia, đó là vì khí của anh ta không đủ để khí hóa thức ăn, từ đó sản sinh ra tương hỏa (cũng gọi là hư hỏa), thuận theo kinh lạc di chuyển hỗn loạn trong thân thể, chỗ nào thông thì chạy qua chỗ đó, gặp phải chỗ bị tắc nghẽn, chỗ đó ắt sẽ bị đau. Những người như vậy uống một chút thuốc liền lập tức thấy công hiệu. Hai là kinh lạc không thông, khí không có chỗ nào để lưu lại trong thân thể. Biểu hiện bề ngoài không có chút dấu hiệu nào của bệnh tật, nhưng một khi đã phát bệnh thì rất nặng, hơn nữa loại người này dù uống thuốc gì thì hiệu quả cũng rất chậm, hoặc căn bản không có tác dụng gì.
Chủ phát gọi là cơ. Mũi tên muốn bay ra từ cánh cung, bắt buộc phải có cái cơ này để phát động. Bất kỳ sự tình nào cũng đều như thế, đều có một cái cơ, chỉ khi nào kích động cái cơ này, thì sự tình mới phát sinh, nếu chẳng kích động được cái cơ này, các điều kiện khác dẫu có nhiều đến mấy, cũng không có cách nào dẫn khởi sự việc. Vậy rốt cuộc cơ nó là cái thứ gì, nó chính là nhân tố then chốt để phát sinh mọi sự việc. Nó là điểm, không phải là diện. Thế nhưng nếu kích động được điểm này, thì có thể kéo theo cả một diện. Cho nên bệnh cơ là nhân tố then chốt nhất trong sự phát sinh, phát triển và biến hóa của bệnh, (cũng có thể nói, bệnh cơ một khi khai mở, bệnh trạng của người đó sẽ hiển hiện ra, người đó sẽ tiến nhập vào trạng thái tuần hoàn ác tính của bệnh, đối lập với bệnh cơ là “sinh cơ”. Khi sinh cơ mở ra, người đó sẽ tiến nhập vào trạng thái thuần tốt đẹp của quá trình hồi phục. Thực tế bệnh cơ và sinh cơ là hai phương diện của cùng một thứ, là một cặp âm dương. Khi bệnh cơ mở ra, sinh cơ sẽ đóng lại; khi sinh cơ mở ra, bệnh cơ tự nhiên cũng sẽ đóng. Đây gọi là pháp biện chứng).
32. Cảnh giới cao nhất của Trung y là dưỡng sinh, cảnh giới cao nhất của dưỡng sinh là dưỡng tâm. Cho nên, đối với dưỡng sinh mà nói, hạ sỹ dưỡng thân, trung sỹ dưỡng khí, thượng sỹ dưỡng tâm. Nhìn một cá nhân cũng giống như thế, nhìn tướng không bằng nhìn khí, nhìn khí không bằng nhìn tâm.
33. Tâm thần bất an, tâm tình nóng vội, là căn nguyên dẫn đến bị bệnh và tử vong. Phương pháp giữ tâm bình an, là bí quyết số một trong việc bảo vệ sinh mệnh. Tâm có thể chủ động tất cả. Tâm định ắt khí hòa, khí hòa ắt huyết thuận, huyết thuận ắt tinh lực đủ mà thần vượng, người có tinh lực đủ thần vượng, lực đề kháng nội bộ sẽ khỏe, bệnh tật sẽ tự tiêu tan. Cho nên để trị bệnh đương nhiên cần lấy dưỡng tâm làm chủ [yếu].
34. Phong hàn âm dương mùa hạ nóng ẩm, đều có thể khiến cho con người mắc bệnh. Ngộ nhỡ lực đề kháng yếu, [bệnh tật] sẽ thừa cơ xâm nhập. Người có thân thể yếu nhược thường nhiều bệnh, chính là cái lý này. Người giàu có điều kiện bảo hộ tốt, như ăn-mặc-ở v.v… Người nghèo có lực đề kháng, nếu như khí đủ thần vượng, lỗ chân lông dày khít, không dễ bị [bệnh tật] xâm nhập v.v… Người giàu ăn nhiều đồ béo ngọt, hại dạ dày hại răng. Người nghèo hay phải chịu đói, thức ăn không phức tạp, nhờ đó mà không bị bệnh ở ruột. Người giàu thường nhàn hạ, vì thế mà nhiều phiền muộn. Người nghèo lao động nhiều, nhờ đó mà bệnh tật ít. Người giàu không tạo phúc mà chỉ hưởng phúc, chỉ toàn tiêu phúc, tiêu cạn ắt nghèo. Người nghèo có thể cần kiệm, đó chính là tạo phúc, khi quả chín sẽ giàu có. Phàm là điều kiện bảo hộ ăn-mặc-ở đầy đủ thì lực đề kháng về tinh khí thần sẽ yếu. Điều kiện bảo hộ kém, lực đề kháng ắt sẽ mạnh.
35. Mới khỏi bệnh nặng, cần tránh cắt tóc, rửa chân, tắm gội
36. Con người đều muốn cầu trường thọ vô bệnh, thân thể luôn khỏe mạnh. Muốn thân thể khỏe mạnh, đương nhiên cần điều tiết tinh khí thần. Muốn điều tiết tinh khí thần, đương nhiên cần cự tuyệt sự can nhiễu của những thứ tà. Muốn chặn đứng tà, đầu tiên cần phải dưỡng tâm. Muốn dưỡng tâm, cần phải hóa giải tam độc tham-sân-si. Muốn hóa giải tam độc này, bắt buộc phải học tâm giới. Nhưng muốn giữ được giới về ngôn từ lời nói, không nói không làm những việc vô ích, cần phải khai [trí] huệ, vứt bỏ đi những điều ngu muội, và bắt buộc phải đạt được định trước tiên. Muốn đạt được định, tất phải học tản bộ.
37. Có thể tĩnh ắt phải là người nhân [nghĩa], có nhân [nghĩa] ắt sẽ thọ, có thọ chính là hạnh phúc thực sự.
38. Tất cả những pháp môn tu thân tu tâm, chỉ có bí quyết gồm 2 từ: một là phóng hạ, hai là quay đầu. Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật; Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ. Chỉ cần phóng hạ, quay đầu, người bệnh lập tức khỏi, người mê lập tức giác ngộ. Đây mới thực sự là người có vô lượng thọ.
39. Người mà tâm quá lao lực, tâm trí mệt mỏi thì gan sẽ vượng, tâm quá lao lực chính là tâm quá đầy, không rỗng. Tâm đầy, ắt không thể dung nạp can (mộc) sinh chi hỏa, tâm không dung nạp can sinh chi hỏa, khí trong gan ắt sẽ tích tụ lại nhiều. Gan là mộc khắc thổ, nên tì vị sẽ mắc bệnh, tiêu hóa sẽ không tốt, dinh dưỡng không đủ, tối ngủ sẽ không yên. Mộc lại khắc thủy, từ đó mà thận thủy bị thiếu, thủy không đủ ắt hỏa càng vượng, tâm thận có liên hệ tương hỗ, nên tâm khí càng yếu, bệnh phổi sẽ hình thành. Nội bộ có mối liên quan tương hỗ, một thứ động sẽ kéo theo toàn bộ đều động, một chỗ bị bệnh sẽ khiến toàn cơ thể bị bệnh. Người có cái tâm nhiễu loạn, chính là do cái tâm ngông cuồng đầy tham vọng, cho nên muốn trị bệnh cần làm an cái tâm này lại, an cái tâm này lại chính là chấm dứt vọng tưởng, để chấm dứt vọng tưởng cần có tâm sáng, tâm sáng chính là tự giác ngộ, mà để đạt được khỏe mạnh thì công hiệu nhất lại là ở tản bộ.
40. Tản bộ là phương pháp điều hòa tâm, tâm điều hòa ắt thần an (tinh thần an lạc), thần an ắt khí đủ, khí đủ ắt huyết vượng, khí huyết lưu thông, nếu có bệnh có thể trừ bệnh, nếu không đủ có thể bồi bổ, đã đủ rồi có thể gia tăng. Bệnh hiện tại có thể trừ, bệnh tương lai có thể phòng tránh. Điều tâm còn khiến cho thần minh (tinh thần minh mẫn sáng suốt), thần minh ắt cơ linh, người có tâm thanh tĩnh thật tuyệt diệu biết bao, họ có cái nhìn biện chứng, tác phong bề ngoài linh hoạt, thấu hiểu các nguyên lý một cách chính xác, liệu sự nhìn xa trông rộng, gặp loạn bất kinh, thấy cảnh đẹp không bị mê hoặc, có thể thông đạt mọi thứ, bản thân không có những ý kiến chủ quan sai lệch, đại cơ đại dụng, chính là từ đó mà ra.
41. Con người khi bị bệnh kỵ nhất là khởi tâm oán giận. Lúc này nhất định phải giữ sự bình an hòa ái, khiến cho tâm an định. Sau đó dần dần điều chỉnh, sức khỏe sẽ rất nhanh hồi phục. Tâm an thì khí mới thuận, khí thuận mới có thể trừ bệnh. Nếu không ắt tâm sẽ gấp hỏa sẽ thăng, can khí sẽ phải chịu hao tổn, làm bệnh tình càng thêm nặng. Tâm thân yên nhất, khí huyết toàn thân ấy, sẽ tự phát huy tác dụng khôi phục sức khỏe.
42. Giờ Tý (từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng) mất ngủ, thủy thận tất thiếu, tâm thận có liên hệ tương hỗ, thủy thiếu ắt hỏa vượng, rất dễ tổn hại tới [tinh] thần.
43. Trong khi ngủ nếu có tư tưởng, tâm không thể an, không được vừa nằm vừa suy nghĩ trăn trở, rất dễ hao tổn [tinh] thần.
44. Giờ Ngọ (từ 11 giờ đến 13 giờ) thuộc về tâm, giờ này có thể tản bộ 15 phút, nhắm mắt dưỡng thần, tâm khí ắt khỏe mạnh.
45. Dậy sớm trong khoảng giờ Dần từ 3 giờ đến 5 giờ, giờ này kỵ nhất buồn giận, nếu không ắt hại phổi tổn thương gan, hy vọng mọi người hết sức chú ý.
46. Tất cả sự nghiệp trong cuộc đời, đều lấy tinh thần làm căn bản, sự suy vượng cường thịnh của tinh thần, đều dựa vào sự tĩnh định bất loạn của tâm và thần, một chữ loạn, cũng đủ để làm trở ngại tới công việc.
47. Nhân sinh lấy khí huyết lưu thông làm chủ, khí ứ đọng có thể ngăn trở huyết, máu huyết bị ngăn trở có thể tích độc thành nhọt thành bệnh, thành u thành ung thư, tất cả đều là do huyết khí không thông tạo thành. Khí lấy thuận làm chủ, huyết lấy thông làm suôn sẻ. Căn nguyên bách bệnh đầu tiên đều do khí tắc, khí bị tắc bên trong, gan sẽ bị thương tổn trước tiên. Cách cứu chữa, chính là ở bí quyết hóa giải. Mà bí quyết hóa giải lại gồm có 2 loại: Một là tìm căn nguyên của nó, căn nguyên này chính là ở tâm, tâm không ắt tất cả tự động được hóa giải. Hai là dùng thuốc và châm cứu, trợ giúp hóa giải thêm bằng mát xa, sẽ giúp cho khí huyết lưu thông.
48. Dưỡng bệnh trị bệnh không thể đòi hỏi nhanh. Bởi vì nóng vội sẽ trợ giúp hỏa, hỏa vượng sẽ tổn khí, gây tác dụng ngược lại. Ngoài ra không thể tham nhiều, tham lam ắt tâm không kiên định mà nóng vội, huống hồ bách bệnh đều do tham mà ra, nên không thể lại tham mà làm cho bệnh tình càng thêm nặng là vậy.
49. Tâm thuộc tính Hỏa, Thận thuộc tính Thủy, Tâm Thận liên hệ tương hỗ. Hỏa cần giáng hạ, Thủy cần thăng lên, Thủy Hỏa tương tề, ắt khí trong thân thể sẽ bộc phát. Các bộ phận cơ thể vận động, có thể được mạnh khỏe. Điều này qua việc quan sát lưỡi có thể biết được. Lưỡi không có nước ắt không linh hoạt, vì chữ hoạt (活) là do bộ Thủy và chữ lưỡi (舌) ghép thành. Lưỡi có thể báo cáo tình trạng nặng nhẹ của các loại bệnh bên trong thân thể, từ đó mà phán đoán việc sinh tử.
50. Phương pháp tự cứu khi lâm đại bệnh: Một là không được sợ chết, tin tưởng rằng bệnh của mình, không những có thể khỏi, mà thân thể có thể trở nên đặc biệt khỏe mạnh, sống lâu trường thọ. Bởi vì bản thân cơ thể bản chất đã có năng lực này, không phải chỉ là suy nghĩ để tự an ủi. Hai là tin tưởng không cần dùng thuốc hoặc dựa vào bất kỳ thực phẩm dưỡng sinh nào, nhất định bản thân tự có khả năng trừ bệnh kéo dài tuổi thọ. Ba là bắt đầu từ hôm nay, phải quyết định không được lại động tới thân bệnh của bản thân, không được nghĩ tới bệnh của bản thân là bệnh gì, tốt hay xấu đều không được suy tính về nó, chỉ làm một người vô tư. Bốn là trong khoảng thời gian chữa trị, không được nghĩ tới công việc, cũng không được hối hận về công việc và thời gian đã mất, chuyên tâm nhất trí, nếu không sẽ lại chậm trễ có khi hỏng việc.
51. Phương pháp dưỡng tĩnh: an tọa (nằm) trên giường, đặt thân tâm nhất tề hạ xuống, toàn thân như hòa tan, không được phép dùng một chút khí lực nào, như thể không có cái thân thể này vậy, hô hấp tùy theo tự nhiên, tâm cũng không được phép dùng lực, một niệm khởi lên cũng là đang dùng lực. Để tâm đặt xuống tận dưới bàn chân, như thế có thể dẫn hỏa đi xuống, dẫn thủy đi lên, tự nhiên toàn thân khí huyết sẽ thông thuận.
52. Yếu quyết tu luyện: tĩnh lặng theo dõi, tránh dùng lực
Yêu cầu cụ thể: Không cho phép bất cứ bộ phận nào dùng khí lực dù chỉ một chút, bao gồm ý niệm, hô hấp, tứ chi, cần làm được: mắt không nhìn, tai không nghe, mũi không ngửi, lưỡi không nếm, miệng không nạp (ăn), tâm không nghĩ. Đó là điều kiện duy nhất. Nếu có bất cứ hành vi tư tưởng, nghe, cảm giác nào đều là đang dùng khí lực, thậm chí cử động ngón tay cũng là dùng khí lực. Thở mạnh cũng lại là dùng khí lực. Không bao lâu hơi thở sẽ tự nhiên trở nên an hòa, như thể không phải ra vào từ lỗ mũi, mà như thể 8 vạn 4 ngàn lỗ chân lông trên toàn cơ thể đều có động tác, hoặc nở ra hoặc khép lại, lúc này sẽ là trạng thái vô ngã vô thân vô khí vô tâm, tự nhiên tâm sẽ quy hồi vị trí bản nguyên. Cái gọi là dẫn hỏa quy nguyên, hay còn gọi là thủy hỏa ký tế, chính là bí quyết chung để điều trị bách bệnh.
53. Trường hợp chăm chút dưỡng sinh nhưng lại chết sớm, chiếm đến ba phần mười, vậy rốt cuộc là thế nào? Đó là vì quá yêu quý thân thể của mình. Vì cái thân xác này, sợ phải chịu xấu hổ, sợ bị nuông chiều, sợ chịu thiệt, sợ bị mắc lừa, lo trước lo sau, nhìn ngang nhìn dọc, lo lắng hốt hoảng, tính toán thiệt hơn … như thế, trái tim đó của anh ta cả ngày giống như quả hạch đào bị chó gặm đi gặm lại, làm sao mà có thể không chết chứ. Càng sợ chết, càng chết nhanh. Nếu bạn muốn dưỡng sinh, thì phải không sợ chết. Chỉ có không sợ chết, mới có thể cách xa cái chết.
Người thực sự không sợ chết, đi đường sẽ không gặp phải hổ, nếu có gặp phải, hổ cũng không ăn thịt anh ta. Đánh nhau không gặp phải đao súng, nếu có gặp, đao súng cũng sẽ không làm anh ta bị thương. Tại sao? Bởi vì anh ta không coi cái chết là gì, không sợ chết, cái chết cũng không có cách nào. Dưỡng sinh, mặc dù không phải là mục đích của việc tu đạo, nhưng người tu đạo đã nhìn thấu được sinh tử, cho nên sẽ không sợ chết nữa, vì đã không sợ chết nữa, nên cái chết cũng không còn là vấn đề. Quan sinh tử đã qua rồi, còn gì mà không thể vượt qua nữa? Vì thế, người tu đạo có thể trường sinh. Không nghĩ đến trường sinh, trái lại lại có thể trường sinh. Tâm luôn nghĩ muốn trường sinh, trái lại càng nhanh chết. Trường sinh không phải là mục đích của tu đạo, nó chỉ là hiện tượng đi kèm của tu đạo.
54. Người có bệnh, lại không cho rằng mình có bệnh, đây chính là bệnh lớn nhất của con người. Người mà biết bản thân mình có bệnh liệu có được bao nhiêu?
55. Người mà ngày nào nửa đêm canh ba cũng vẫn còn ở trên mạng, bản thân đó chính là điều đại kỵ của dưỡng sinh. Bao gồm cả một số người gọi là danh y cũng thế. Ngoài ra, tâm của họ còn luôn tính toán so đo, thử hỏi người như vậy thì đến bản thân còn không giữ nổi, thì làm sao chữa bệnh cho người khác đây?
56. Đừng tham những cái lợi nhỏ nhặt, cái lợi lớn cũng đừng tham. Một từ tham nhưng bao hàm cả họa. Tham lam, suy tính thiệt hơn sẽ khiến cho người ta mắc các bệnh về tim. Tham lam, suy hơn tính thiệt là biểu hiện của việc không hiểu Đạo Pháp về cái lý tự nhiên.
57. Đừng có ngày nào cũng nghĩ xem ăn cái gì để bổ âm, ăn cái gì để tráng dương. Hãy nhớ kỹ, vận động là có thể sinh dương; tản bộ thì có thể sinh âm. Âm là mẹ của dương, dương là được vận dụng bởi âm.
58. Người ta khi khí không đầy đủ, không được mù quáng mà bổ khí, nếu không ắt sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Nếu như vì huyết không đủ, thì cần phải bổ huyết trước, bởi vì huyết là mẹ của khí, nếu không ắt sẽ thành dụng cụ thiêu đốt, làm cho nội tạng bị đốt cháy; nếu là vì kinh lạc không thông, thì có thể gia tăng khí huyết, đồng thời bồi bổ khí huyết. Như vậy mới có thể đạt được tác dụng của bổ khí.
59. Hoàn cảnh đối với người dưỡng sinh có tính trọng yếu là điều vô cùng rõ ràng. Đây chính là đạo lý mà vì sao người ở những vùng không khí trong lành nơi rừng sâu núi thẳm, có thể dưỡng khỏi những bệnh tật khó chữa. Bởi vì những vật chất tinh vi nơi rừng sâu núi thẳm (ion điện âm) sẽ thông qua trạng thái thả lỏng của con người trong khi hít thở sâu mà hấp thụ vào trong nội bộ nhân thể, từ đó mà tưới đều lục phủ ngũ tạng, khiến cho người ta có được sức sống mới. Ngoài ra còn có một điểm mà người thường không hề biết, đó chính là con người không chỉ hô hấp thông qua lỗ mũi, mà mỗi một lỗ chân lông trên thân thể con người đều có thể hô hấp, hơn nữa những gì chúng hấp thụ chính là tinh hoa của trời đất.
60. Con người trong trạng thái thả lỏng và tĩnh, hít thở sâu và chậm có thể cảm nhận được sự giao hoán những tinh khí của con người với trời đất: Trong khi hấp thụ khí, thực tế ngoại trừ lúc phổi đang hít khí vào, toàn bộ thân thể đều đang bài trừ khí bên trong thân thể ra ngoài, và đem khí của người phóng thích ra ngoài trời đất; còn khi phổi đang thải khí ra, thực tế con người đang hấp thụ tinh khí của đất trời thông qua các lỗ chân lông. Điều này đại khái chính là điều mà Lão Tử đã nói “Thiên địa chi gian, kỳ do thác dược hồ”.
61. Khi vận động có hai điểm cấm kỵ: một là không được vận động khi khí huyết không đủ; hai là không được vận động trong môi trường bị ô nhiễm.
62. Vận động có hai tác dụng: một là gia tăng tốc độ vận hành của khí huyết, thúc tiến quá trình bài xuất chất cặn bã trong thân thể ra ngoài; hai là khai mở lỗ chân lông trên da, để hấp thụ tinh khí của trời đất.
63. Ngộ tính là gì? Trí huệ là gì? Ngộ tính và trí huệ chính là sử dụng những phương pháp đơn giản nhất để xử lý, xem xét tất cả các sự vật. Nhưng có một số người thường hay gây nhiễu loạn luôn nhìn những sự việc đơn gian thành phức tạp, làm thành phức tạp. Phức tạp và đơn giản kỳ thực là một thứ, là hai mặt của một thứ. Điều người thông minh nhìn thấy là mặt đơn giản, điều người ngu xuẩn nhìn thấy là mặt phức tạp.
64. Con người không trị được bệnh, thì cần phải nhờ Thần trị; Thần trị không khỏi bệnh thì phải nhờ Phật trị. Phật giảng điều gì? Điều Phật giảng là tâm.
65. Bệnh viện và tòa án ngày nay đều như nhau, có động tới hay không cũng đều đưa cho bệnh nhân giấy thông báo phán quyết tử hình. Mà trong nhiều tình huống, phán tử hình cho nhiều người đáng lẽ không bị tử hình. Tại sao lại nói như thế? Lấy “ung thư” làm ví dụ, trong tâm con người ngày nay ung thư đồng nghĩa với tử hình. Kỳ thực nếu như chúng ta không gọi nó là ung thư, thế thì đối với bệnh nhân mà nói, chính là mang cho bệnh nhân một tia hi vọng, bằng như lưu lại cho họ một cơ hội sống. Cho nên tôi mới nói, bệnh nhân ung thư ngày nay có đến hơn một nửa là bị dọa chết, là bị áp lực tinh thần dày vò đến chết. Đồng thời cũng chính là bị bệnh viện hành hạ đến chết.
Bởi vì một khi bạn bị chẩn đoán thành bệnh ung thư, họ sẽ có thể không kiêng nể gì cả mà tùy ý xử lý bạn, điều trị mà không chết coi như mệnh của bạn lớn, điều trị mà chết, thì là do bệnh của bạn là ung thư. Sự thực mà nói, không có bệnh gì là trị không khỏi, chỉ là xem cái tâm của bạn có thể buông xuống được không, tất cả bệnh tật đều từ tâm sinh, tất cả bệnh tật cũng đều từ tâm mà trị. Chỉ cần bạn vẫn còn sống, bạn vẫn còn cơ hội. Tìm thấy được cơ hội này, áp dụng nó đối với việc trị bệnh ung thư, bạn sẽ khỏe mạnh trở lại.
66. Hiện nay ngoài xã hội đều nói về cạnh tranh, việc này đã khiến cho mọi trật tự bị đảo loạn, khiến cho con người bị dẫn dụ vào ma đạo. Cạnh tranh là gì? Cạnh tranh chính là khiến người ta bị cuốn vào cảnh giới tham dục vô hạn. Một mặt bạn đề xướng cạnh tranh, một mặt bạn nói về những gì là xây dựng và ổn định xã hội, đây chẳng phải là điển hình của việc tự lừa mình dối người sao.
67. Căn cứ vào nguyên lý âm dương tương hỗ mà xét, thanh khiết và vẩn đục là hấp dẫn lẫn nhau. Cho nên con người ăn vào những thứ tươi mới tất sẽ có tác dụng tương hợp với những vật chất bẩn trong cơ thể, từ đó mà bài trừ những thứ ấy ra ngoài.
68. Những vật chất vẩn đục sinh ra là do ăn vào những thực phẩm không sạch, nhưng chủ yếu là do ăn quá nhiều, cơ thể không thể tiêu hóa được khiến đống thức ăn thừa đó biến thành cặn bã.
69. Tùy kỳ tự nhiên là cảnh giới cao nhất của dưỡng sinh. Một người khi sinh ra, vận mệnh của anh ta căn bản là đã có định số rồi. Anh ta nên làm gì, không nên làm gì, nên ăn gì, không nên ăn gì, nếu như có thể thuận theo vận số của bản thân mà làm, thì sẽ có thể được bình an vô sự. Người có ngộ tính sẽ phát hiện ra được, sẽ biết được vận mệnh của bản thân, biết được họ nên làm cái gì, không nên làm cái gì. Cho nên dưỡng sinh tuyệt đối không đơn giản là bắt trước, bảo sao làm vậy.
Không cần hâm mộ người khác, cần tìm ra ngộ tính của bản thân từ trong tâm của chính mình. Vậy con người làm thế nào mới có thể phát hiện bản thân đã đạt được tùy kỳ tự nhiên hay chưa? Kỳ thực điều này quá dễ, khi bạn có bệnh, bạn cảm thấy không thoải mái, bạn thấy không được tự tại, chứng tỏ bạn đã đi ngược lại tự nhiên rồi. Cần làm được thuận theo tự nhiên của đại tự nhiên bên ngoài, ngoài ra còn phải thuận theo lẽ tự nhiên của vận mệnh bên trong bản thân, hai điều này đều không thể thiếu được.
70. Rất nhiều người khi nghe thấy bác sỹ tuyên bố bản thân bị mắc trọng bệnh, thường đều sẽ biểu hiện ra dáng vẻ không vui, hi vọng có thể dùng phương pháp cắt, gọt, độc, giết v.v… để loại bỏ căn bệnh đó, tuy nhiên, bệnh tật thực sự không phải sản sinh từ đó? Trên thế gian tuyệt đối không có hiện tượng “đang khỏe mạnh đột nhiên sinh bệnh”. Lấy cảm mạo làm ví dụ, nếu thực sự yêu cầu bệnh nhân tự làm kiểm điểm, thông thường bệnh nhân sẽ cho biết, bản thân trước khi cảm mạo, đã trải qua vài lần thức thâu đêm; có người sẽ nói rằng bản thân bị trúng gió lạnh, bị dính mưa ướt; có một số người lại nói do áp lực công việc quá lớn, thường xuyên đau đầu, mất ngủ. Kỳ thực, những hiện tượng như thế, đều có thể là nhân tố dẫn tới cảm mạo, nói thêm nữa, nếu như độ mẫn cảm và tính cảnh giác của con người đầy đủ, tự nhiên sẽ có thể đạt được mục đích “đề phòng tai họa”.
71. Khoa học chân chính là gì? Chính là nhân duyên quả báo. Không tin nhân quả, thì không phải là khoa học chân chính.
72. Cái tâm không sợ chịu thiệt, không sợ bị người khác chiếm lấy lợi ích. Hay nói một cách khác là bạn có thể chịu thiệt, người khác muốn lấy mạng của bạn mà bạn vẫn có thể buông xả, bạn đều có thể cho họ hết, hơn nữa tự bản thân trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều không ham lợi ích, khi đó cái tâm của bạn có thể sẽ không định (tĩnh lặng) sao? Con người trên thế gian có ai làm được? Nhưng Phật là có thể làm được.
73. Sau khi con người nắm vững được phương pháp về sức khỏe, họ sẽ thực sự hưởng thụ được một trạng thái tự tin khi không còn lo sợ mắc bệnh. Cái loại cảm giác này thật tuyệt, hy vọng rằng bạn và chúng tôi đều có thể có được trạng thái tự tin đó.
74. Khi học vấn thâm sâu ý chí sẽ bình lặng, tâm định ắt khí sẽ yên. Cho nên đối với một người đắc Đạo mà nói, quan sát một người, không phải là một việc quá khó khăn, đây cũng là kết quả của tướng tùy tâm chuyển.
75. Danh là điều khó phá vỡ nhất trong ngũ dục, sắc đứng thứ hai, tiếp theo là tài, sau đó là ăn và ngủ. Tâm về danh không bỏ, thì không có cách nào nhập Đạo.
76. Khởi nguồn của bách bệnh, đều bắt nguồn từ việc bị gió độc thừa cơ xâm nhập. Nếu như thân thể khí suy nhược, khả năng phòng vệ kém, hoặc ưu tư sợ hãi, đắm chìm trong tửu sắc, làm việc quá lao lực, chân khí sẽ bị hao tổn từ đó tà ngoại thừa cơ tấn công.
77. Trị bệnh về ngũ tạng, đầu tiên cần phải bổ khí. Khi bổ khí cấm động tâm, tâm động ắt gan vượng, gây chấn động mạch, chân thủy sẽ hao tổn. Tâm là quạt, sẽ dẫn khởi gió. gió động ắt hỏa vượng, hoặc vượng ắt thủy can, thủy can ắt địa tổn.
78. Đối với bác sỹ mà nói, tâm định thần nhất, người được chữa bệnh có tín tâm kiên định, lưỡng tâm tương hợp, có thể trị được bách bệnh.
79. Qua trường hợp Hitler đi vòng qua phòng tuyến kiên cố Maginot của quân đội liên minh, tôi ngộ ra rằng: để đối phó với một số bệnh cứng đầu, không thể tấn công cứng nhắc từ chính diện, cần đột phá từ những phương diện khác có liên quan. Chẳng hạn như việc điều trị các bệnh cứng đầu như bệnh thận, bệnh gan, có thể đạt được hiệu quả thông qua việc điều chỉnh phổi và lá lách v.v…
80. Trung Dung, là nguyên tắc căn bản của dưỡng sinh. Khí huyết trong cơ thể người cũng là một cặp âm dương, huyết là âm là thể, khí là dương là dụng. huyết là mẹ của khí, khí là chủ tướng của huyết. Khí không đủ, dễ mắc các bệnh do ứ trệ tạo nên như mọc u, tắc động mạch; khí quá độ; dễ mắc các bệnh về xuất huyết não. Cho nên, chỉ khi khí huyết cân bằng, con người mới có thể khỏe mạnh.
81. Con người chỉ khi ngộ ra được cái gì là “tự nhiên”, mới được coi là đắc đạo. Biết được tự nhiên, sau đó mới có thể tùy kỳ tự nhiên. người này chính là Thần nhân. Hiểu được âm dương, hiểu được tùy kỳ tự nhiên, bạn nhất định sẽ trở thành lương y đại đức.
82. Cái gì là tự nhiên, tự nhiên chính là bất kỳ sự vật gì đều có hai mặt âm dương, bất kỳ sự vật nào đều cần trải qua quá trình Sinh (sinh sản), Trưởng (tăng trưởng), Thu (thu hoạch), Tàng (tàng trữ). Bạn thuận theo quá trình này, sử dụng nguyên lý tương sinh tương khắc của ngũ hành để điều tiết sự cân bằng của bệnh nhân, làm sao mà không trị được khỏi bệnh chứ.
83. Đơn giản và phức tạp là một cặp âm dương, sự tình càng phức tạp, thường thường sử dụng biện pháp đơn giản nhất lại có thể giải quyết. Cũng đồng dạng như thế, một vấn đề nhìn tưởng chừng đơn giản, để giải quyết nó bạn sẽ thấy thật không dễ dàng, bạn phải phó xuất nỗ lực rất lớn cũng không nhất định giải quyết được. Điều này giống cương nhu vậy, cực nhu có thể khắc chế cương, cực cương thì nhu cũng không thể chống. Cho nên, chúng ta khi giải quyết vấn đề cần có lối suy nghĩ rằng, gặp phải vấn đề phức tạp nên tìm biện pháp đơn giản để giải quyết, gặp phải vấn đề đơn giản đừng vội coi thường nó, cần phải chú trọng đủ mức tới nó.
84. Chúng ta hãy thử xem trong thế giới này có phải là có tồn tại đạo lý đó hay không. Liệu có được mấy người có thể tùy kỳ tự nhiên trong việc ăn ngủ, có được mấy người có thể tuân thủ tự nhiên. Bạn tuân thủ không được, vì sao? Bởi vì nó quá đơn giản, chính vì quá đơn giản, cho nên bạn không dễ mà có thể tuân thủ. Đây gọi là phép biện chứng.
85. Cái gì là cân bằng? Cân bằng chính là sự tồn tại dựa vào nhau và khắc chế nhau của âm dương, phương diện nào quá độ hoặc quá kém cũng sẽ khiến mất đi sự cân bằng. Tổn thương nguyên khí là gì, mất đi sự cân bằng chính là tổn thương nguyên khí. Thường xuyên ở trong trạng thái cân bằng, nguyên khí ắt sẽ được bảo trì tốt, con người sẽ lão hóa chậm.
86. Đạo về âm dương chính là sự tương hỗ dựa vào nhau và chuyển hóa lẫn nhau của hai phương diện mâu thuẫn đối lập. Bất kỳ một cặp mâu thuẫn nào, nếu một bên thoát ly khỏi bên kia, không còn chịu sự ức chế của đối phương nữa, thì thời điểm mà nó bị diệt vong cũng không còn xa. Bạn thử nhìn xem, xã hội ngày nay, các lãnh đạo đều không thích bị khống chế, thích được độc lập tự do, thích làm theo ý mình, tham ô hối lộ, thế thì kết quả là gì đều có thể tưởng tượng ra được. Âm và dương chính là như thế. Trong đại tự nhiên, khi một sự vật xuất hiện, đều có mang theo nhân tố do nó sinh ra, nhưng đồng thời cũng sẽ xuất hiện một nhân tố để khắc chế nó. Đó chính là đạo lý ngũ hành tương sinh tương khắc, cũng là đạo lý dựa vào nhau, ức chế lẫn nhau của âm dương. Cho nên đạo lý dưỡng sinh cũng vậy, khi bạn bị bệnh, luôn tồn tại một nhân tố khiến bạn sinh bệnh, đồng thời cũng sẽ có một nhân tố ức chế nó, có thể giúp bạn tiêu trừ nhân tố gây bệnh. Tương tự như thế trong thế giới tự nhiên, tại chỗ có tồn tại rắn độc, chắc chắn khu vực xung quanh sẽ có tồn tại loại thảo dược có thể giải độc.
87. Cái gì gọi là đắc ý vong hình (vì đắc ý mà quên đi dáng vẻ vốn có của mình)? Anh ta đã mất đi sự khống chế, mất đi sự ức chế của mặt âm, cho nên kết quả nhất định là …. cũng như thế con người không nên để tinh thần sa sút, vì như thế sẽ mất đi sự ức chế của mặt dương đối với họ.
88. Làm thế nào để có đại trí huệ? Nếu không có tấm lòng quảng đại, ở đâu mà có đại trí huệ chứ.
89. Tục ngữ có nói, sống đến già, học đến già. Học tập cũng cần phải hợp thời, đến tuổi nào thì học những điều mà ta nên học vào giai đoạn ấy, nếu không ắt sẽ không hợp thời, không tùy kỳ tự nhiên. Nhưng hãy xem sự giáo dục của chúng ta ngày nay, từ nhà trẻ đến đại học, có bao nhiêu điều là đáng để học. Lúc còn nhỏ nên học cái gì. nên học đạo đức, học hiếu đạo, tiếp theo là học nhận biết chữ, dấu chấm câu, tiếp theo là học cách làm việc. Đến tuổi thanh niên thì học cách làm sao để sống tốt giáo dục con cái tốt, làm cho gia đình hạnh phúc. Đến tuổi trung niên, học tập đạo dưỡng sinh. Đến những năm tuổi già, học cách buông bỏ tâm thái, an hưởng tuổi già. Ngành giáo dục cần học gì, chính là học những thứ này.
90. Tình chí (7 loại tình cảm của con người) đối với bệnh tật có mối tương quan mật thiết với nhau, có một số bệnh tật là do tình chí gây ra, bạn dùng thuốc trị liệu, trị mãi mà vẫn không khỏi, đối với loại bệnh tật này, muốn cởi chuông thì phải tìm người buộc chuông. Ngũ chí có thể gây bệnh, ngũ chí cũng có thể giải trừ bệnh.
91. Dưỡng sinh có một điều rất trọng yếu, đó là không được sợ chết. Người sợ chết dương khí không đủ, dương khí không đủ, tử thần sẽ tìm ra được bạn. Đây chính là điều mà đạo gia giảng, người tu luyện cần có một khí chất anh hùng. Nhân, trí, dũng không thể thiếu một trong ba.
92. Khi nào bạn lấy học vấn lý giải được nó là vô cùng đơn giản và bình dị, lúc này bạn mới là chân chính đạt được một trong tam muội. Nếu như bạn vẫn còn cảm thấy nó là bác đại tinh thâm, thâm sâu không thể đo lường, chứng tỏ bạn vẫn chưa nắm được tinh túy của nó, mới chỉ nhìn thấy phần tươi tốt của lá cây, mà vẫn chưa nhìn thấy được căn bản của nó, lúc này bạn mới chỉ ở giai đoạn “có”, vẫn chưa đặt được cảnh giới của “vô”. Tất cả đều không thoát được âm dương, vạn sự vạn vật đều không thoát khỏi được âm dương. Căn bản của điều này chính là âm dương. Biết được một điều này, mọi sự đều có thể hoàn thành.
93. Tập trung tinh thần định khí, quên đi cả bản thân và mọi sự vật. Đó là cốt lõi của dưỡng sinh
94. Chủ minh ắt hạ an, theo đó để dưỡng sinh ắt sẽ thọ, tình thế sống chết cũng không nguy hiểm, thiên hạ ắt sẽ hưng thịnh. Chủ bất minh ắt thập nhị quan gặp nguy, khiến cho đạo tắc nghẽn không thông, thực thể liền bị thương tổn, theo đó để dưỡng sinh ắt sẽ mang họa, người trong thiên hạ, và gia tộc này sẽ gặp đại nguy, nghiêm cấm nghiêm cấm!
95. Ứng dụng của ngũ hành tương sinh tương khắc: Phàm là do ngũ tạng hoạt động thái quá sẽ gây ra bệnh tật, đều có thể dùng phương pháp ngũ hành tương sinh tương khắc để trị. Giống như thế, phàm là vì ngũ hành không đủ dẫn khởi bệnh tật thì đều có thể dùng phương pháp ngũ hành tương sinh tương khắc để giải quyết. Đây là nguyên tắc căn bản của phép vận dụng ngũ hành.
96. Người hiện đại thường chú trọng vào phương diện truy cầu đề cao chất lượng cuộc sống, hậu quả của loại truy cầu này rất đáng sợ. Cần biết, dục vọng của con người đối với vật chất là không có giới hạn. Khi mà loại dục vọng này không được khống chế, cũng tương đương sự thống khổ không có giới hạn của chúng ta. Kỳ thực, vật chất có thể đem lại sự hưởng thụ, thì tinh thần cũng có thể; thuốc có thể trị bệnh, thì phương pháp trị liệu tâm lý cũng có thể làm được. Cho nên, chúng ta dùng cả cuộc đời để truy cầu tài phú, thì chi bằng hãy dùng quãng thời gian ấy để bồi dưỡng một loại tâm thái tốt, khiến cho tinh thần của chúng ta đạt tới một loại cảnh giới siêu phàm.
97. Sau khi con người nắm vững được phương pháp về sức khỏe, họ sẽ thực sự hưởng thụ được một trạng thái tự tin khi không còn lo sợ mắc bệnh. Cái loại cảm giác này thật tuyệt, hy vọng rằng bạn và chúng tôi đều có thể có được trạng thái tự tin đó.
98. Thân thể của chúng ta là một cơ thể có đầy đủ trí tuệ và chức năng, thân thể của chúng ta có rất nhiều “lính gác” như: răng, ruột thừa, a-mi-đan v.v… Khi thân thể chúng ta có hiện tượng dị thường (thông thường là “thăng hỏa”), những lính canh này sẽ lập tức phản ứng thông báo tới đại não. Người thông minh lúc này nên điều tiết lại tâm thái, kiểm điểm bản thân, để thân thể cân bằng hài hòa trở lại. Vậy mà hiện nay Tây y đều làm những việc gì? Bạn bị đau đúng không, tôi sẽ cắt bỏ bộ phận bị đau của bạn. Hiện nay thậm chí còn có người, phát minh ra một loại máy, bạn bị viêm mũi dị ứng sẽ phải hắt xì hơi đúng không? Vậy tôi sẽ đốt cháy khu vực thần kinh mẫn cảm trong mũi của bạn, như thế sau này mũi bạn có bị kích thích gì đi nữa cũng sẽ không bị hắt hơi. Hậu quả của những việc làm như thế của Tây y chính là sau này nếu chúng ta lại tiếp tục bị bệnh, thì bộ phận bị cắt bỏ chính là lục phủ ngũ tạng của chúng ta.
99. Hãy nhớ kỹ, khi chúng ta ngẫu nhiên bị đau bụng, hắt hơi, ho, phát sốt v.v… đều là hệ thống phục hồi thân thể của chúng ta đang hoạt động, đừng có quá lạm dụng thuốc khi vừa mới xuất hiện bệnh trạng, nếu không chính thuốc ấy sẽ phá hoại chức năng phục hồi thân thể của bạn, khi mà chức năng phục hồi của bạn bị suy yếu hoặc mất đi, thế thì bạn đã giao vận mệnh của mình cho thuốc rồi. Nên nhớ rằng, nếu bệnh trạng không nghiêm trọng, biện pháp tốt nhất là dưỡng tĩnh, an tâm tĩnh khí có thể khiến hệ thống sữa chữa của bản thân hoàn thành được công tác phục hồi. Cho nên, mỗi một người trong chúng ta cần thận trọng khi dùng thuốc, để cho hệ thống hồi phục chức năng của cơ thể được khôi phục, đây mới chính là đạo chân chính trong việc giữ gìn sức khỏe.
100. Rất nhiều trọng bệnh hoặc bệnh hiểm nghèo, đều chỉ bắt nguồn từ một lý do: Hận. Khi mà cái hận này biết mất, bệnh ắt cũng theo đó mà tiêu trừ. Trong thế gian này điều khó giải quyết nhất chính là hận thù kéo dài, chính vì không hóa giải được cái hận đó, mới có những bệnh không thể trị khỏi được.
Nguồn: NTDTV
Chùa Đại Tuệ là ngôi chùa cổ tọa lạc trên đỉnh cao nhất của dãy núi Đại Huệ, thuộc xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Chùa được Thượng Tọa Thích Thọ Lạc trụ trì.
Chùa cổ Đại Tuệ thờ Phật Bà Đại Tuệ tức là đại diện cho trí tuệ của Đức Phật (Tuệ Giác, Tuệ Kiếm, Tuệ Lực, Tuệ Tâm, Tuệ Mục, Tuệ Nhãn). Đây là nơi duy nhất trên đất nước ta có ngôi chùa thờ Phật bà Đại Tuệ.
Chùa Đại Tuệ ghi dấu Phật giáo lâu đời trên vùng đất Nghệ An, non nước điệp trùng, trời mây tụ khí lành, cây cỏ xanh tươi bốn mùa. Qua thời gian, chùa Đại Tuệ chỉ còn phế tích. Song nhân dân địa phương và du khách vẫn hằng ngày trèo đèo, lội suối, rẽ lau lách, cỏ dại, tìm đường lên nền chùa thắp hương cầu Phật và phụng thờ những người có công với nước.
Sử sách ghi chép lại, chùa có cách đây trên 600 năm do Vua Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương xây để thờ Phật bà Đại Tuệ – người đã có công phù hộ cho nhà Hồ xây thành đắp luỹ trên núi Đại Huệ để chống giặc Minh xâm lược nước ta. Khi Vua Quang Trung hành quân ra Bắc đại phá 29 vạn quân Thanh vào mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789 có nghỉ tại đây, đêm đến được sư bà ở chùa mách bảo đi theo đường thượng đạo (truông Băng) để hành quân ra thành Thăng Long vừa nhanh mà tránh được phục kích. Khi chiến thắng trở về, Hoàng đế Quang Trung xuống chiếu cắt 20 mẫu đất làm chùa.
Chùa tọa lạc trên khuôn viên khoảng 600m2, ở độ cao hơn 450m so với mực nước biển trong một không gian tĩnh lặng,cảnh vật thơ mộng, hữu tình. Đứng từ đây, có thể chiêm ngưỡng cả một vùng di tích danh thắng bao quanh. Nơi đây trời đất linh thiêng.
Sau lưng chùa là đỉnh động Thăng Thiên có bàn cờ Tiên bằng đá. Cách chùa một trăm mét về phía Tây có tảng đá lớn khoảng năm khối, dùng đá gõ vào phát âm thanh như tiếng mõ (nhân dân gọi là Đá Mõ). Trước chùa có một tảng đá lớn giống như ngai vàng (Thạch Ngai) không ai dám ngồi vì tương truyền Thạch Ngai là nơi xưa Hồ Quí Ly và Quang Trung Nguyễn Huệ từng ngồi. Trước chùa khoảng bốn trăm mét có hai trụ đá lớn dựng đứng như cổng chùa thiên tạo. Cạnh chùa có giếng nước cổ sâu hơn hai mét, không bao giờ cạn. Sườn núi hai bên có khe Trúc, khe Mai, lại có ao sen cổ…
Thiên nhiên ban tặng cho huyện Nam Đàn một quần thể danh thắng thiên nhiên vô cùng hấp dẫn , khí hậu trong lành, phong cảnh nên thơ như núi Đại Huệ. Chùa Đại Tuệ là danh thắng kỳ thú nằm trên dãy Đại Huệ, ôm ấp lấy một vùng đất được gọi là “địa linh nhân kiệt”. Đây là không gian tâm linh thiêng liêng, hướng tới sẽ là một khu Di tích Lịch sử Văn hoá có tầm vóc tương xứng với giá trị lịch sử của chùa – Một khu du lịch tâm linh, sinh thái hấp dẫn làm thoả lòng phật tử và du khách thập phương.
Cấm kị 1: Dao kéo đặt tùy tiện trong phòng ngủ
Dao kéo đặt tùy tiện trong phòng ngủ không có lợi cho tình cảm vợ chồng và việc sinh con đẻ cái, khiến vợ chồng xa cách, thường xuyên bất hòa. Dao kéo có khả năng cắt đứt tình duyên, do vậy nhiều người còn có thói quen đặt kéo dưới đầu giường để cắt đứt những tình cảm muộn phiền trong cuộc sống. Tuy nhiên, cách làm này hoàn toàn sai lầm, không những nguy hiểm, mà còn ảnh hưởng tới việc an thai của phụ nữ. Dao kéo tốt nhất nên cất gọn gàng trong ngăn kéo.
Cấm kị 2: Dao kéo vứt lộn xộn trong phòng bếp
Dao kéo vứt lộn xộn trong phòng bếp không có lợi cho sức khỏe và tài vận của người trong nhà. Phòng bếp là nơi dùng bữa của cả nhà, nếu nó không sạch sẽ, sẽ gây hại cho sức khỏe của các thành viên trong gia đình. Dao kéo lại mang Sát, do vậy cần thận trọng khi cất giữa. Tốt nhất sau khi dùng, nên cất gọn chúng vào trong ngăn kéo hoặc tủ đồ. Nên chú ý không nên treo dao kéo trên kệ hoặc ngoài ban công, do các đồ này nếu để lộ thiên sẽ hao tài tốn của.
Thay vì treo dao kéo trên kệ, hãy cất gọn gàng vào trong ngăn kéo.
Cấm kị 3: Dao kéo vứt lộn xộn trong phòng khách
Dao kéo vứt lộn xộn trong phòng khách không có lợi cho sự nghiệp, khiến bạn luôn gặp rủi ro. Dao đặt trong phòng khách thông thường là dao gọt hoa quả hoặc các loại dao kiếm trang trí. Phòng khách là nơi tiếp đón khách, nếu không đặt cẩn thận sẽ ảnh hưởng tới các mối quan hệ xã hội và sự nghiệp của bạn. Do vậy, khi dùng xong, không nên trực tiếp đặt trong tủ, mà nên mặc cho chúng một lớp áo rồi đặt gọn gàng trong tủ, như vậy vừa tiện vừa gọn gàng.
Cấm kị 4: Dao kéo vứt tùy tiện trong túi xách
Dao kéo đặt trong túi xách đem đi chơi sẽ ảnh hưởng tới vận thế của bạn. Nhiều cô gái thích đựng bấm móng tay, lưỡi dao tỉa lông mày... trong túi xách đem theo mình để có thể làm đẹp bất cứ lúc nào, nhưng nên chú ý không nên vứt tùy tiện trong túi xách, mà nên đựng trong một chiếc hộp chuyên dụng, vừa gọn gàng, vừa an toàn.
Cấm kị 5: Dao kéo đặt ở phía Bắc, phía tây và phía Đông ngôi nhà
Nếu dao kéo đặt ở những vị trí này trong nhà, bạn đã phạm phải sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc và Tứ Phi, không có lợi cho vận thế và sức khỏe. Đặc biệt là các bạn phạm sao Thái Tuế, vận khí vốn đã không tốt, nay sức khỏe vô cùng bất lợi, các mối quan hệ xã hội trở nên căng thẳng hơn.
Cấm kị 6: Dao kéo chĩa vào nơi có người
Dao kéo không nên đặt chĩa vào người khác, điều này là một phép lịch sự tối thiểu. Khi đưa dao cho người khác, đầu nhọn hướng về phía mình, đưa cho người khác đầu chuôi. Những cử chỉ nhỏ này rất quan trọng, nếu bình thường không chú trọng, mối quan hệ xã hội của bạn sẽ bị ảnh hưởng.
Khi đưa dao cho người khác, đầu nhọn hướng về phía mình, đưa cho người khác đầu chuôi
Giờ Tuất là canh giờ thứ 11 trong 12 canh giờ, khoảng từ 19h đến 21h. Người sinh giờ Tuất tướng mạo không tồi, thông minh lanh lợi nhưng cuộc đời có điều trắc trở.
► ## cung cấp thông tin Tử vi trọn đời chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Có 2 dòng tranh phong thủy hiện nay: tranh phong thủy truyền thống và tranh phong thủy mạng xu hướng hiện đại.
Dòng tranh phong thủy truyền thống có yếu tố, quy chuẩn của thời cổ, mang tính chất truyền thống. Ví dụ như: Tranh tứ bình, tùng cúc trúc mai hoặc tranh ngựa...
Dòng tranh phong thủy hiện đại phù hợp với nội thất và xu hướng hiện đại.
Tranh phong thủy phải mang lại hiệu ứng tâm lý tốt đẹp cho gia chủ.
Dê là một loài vật nuôi phổ biến, là một trong lục súc (trâu, ngựa, Dê, lợn, gà, chó). Tron “Kinh Thi” có nhiều ghi chép liên quan đến Dê: “Nhật chi tịch hĩ, dương ngưu hạ lai” (vào thời khắc hoàng hôn, râu và Dê về chuồng). Dê có rất nhiều loại, như Dê núi, cừu, linh dương… Từ xưa tới nay thịt Dê luôn là loại thực phẩm hảo hạng, trong tiến Hán, chữ “mỹ” (đẹp 美) được hình thành dựa trên chữ “dương” (Dê 羊) và chữ “đại” (lớn 大). Thời xưa Dê còn được dùng làm vật cúng tế, trong thái lao (gồm trâu, Dê, lợn), thiếu lao (gồm Dê, lợn) đều có Dê.
Xét tử góc độ văn tự, thời xưa chữ “dương” (Dê) được dùng thông với chữ “tường” (may mắn), nhiều khi “cát tường” được viết thành “cát dương”, có thể dễ dàng tìm thấy những chữ “đại cát dương” trên đồ đồng, nói và những dụng cụ khác thời cổ đại, cũng có nghĩa là “đại cát tường”.
Hôn nhân bền vững hay không, theo nhân tướng học thì có một cách rất đơn giản để biết. Chỉ cần xem bạn có nốt ruồi trên mặt ở vị trí này không là biết liệu có phải trải qua đổ vỡ hôn nhân. Chúng ta ai cũng mong mình có một tình yêu đẹp, có một cuộc hôn nhân hạnh phúc mĩ mãn đến đầu bạc răng long. Nhưng không may là thực tế chẳng phải lúc nào cũng như chúng ta mong ước, không phải ai cũng may mắn tìm được cho mình một nửa lý tưởng, có một cuộc hôn nhân bền vững, chung hưởng cuộc sống hạnh phúc dài lâu. Có người không thể chung sống với nhau bởi nhiều lý do, cuối cùng chẳng còn cách nào khác ngoài từ bỏ người mình yêu, ly hôn. Hạnh phúc vẫn luôn ở phía trước, nhiều người sau lần đổ vỡ hôn nhân đầu tiên đã dũng cảm đứng dậy, tìm được người mở lòng đón nhận mình và cảm nhận được hương vị hạnh phúc thực sự sau cuộc hôn nhân thứ hai. Thực ra, số kiếp con người có thể biết trước được nhờ nhân tướng học. Mọi thứ đều có quy luật riêng của nó. Muốn biết trước mình có số phải trải qua “hai lần đò” hay không, bạn có thể xem bói nốt ruồi trên khuôn mặt. Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ chỉ ra cho các bạn 4 vị trí nốt ruồi trên mặt báo hiệu cuộc đời lận đận tình duyên, phải qua nhiều trắc trở mới tìm được hạnh phúc cho mình.
Hiện tượng: Trong phòng bếp vòi nước của bồn nước hướng thẳng vế phía bếp ga. về phong thủy học đây là thuộc bố cục thủy hỏa tương khắc. hại nhiều hơn lợi.
Phương pháp hóa giải: Chỉ cần sửa hướng của vòi nước sang hướng khác là có thể hóa giải được.
• Điều nên biết:Trong nhà đặt bút Văn Xương có các công hiệu sau: 1. Trợ giúp cho người trong nhà trên con đường học hành, thỉ cừ, thuận lợi đường công danh; 2. Có lợi cho sự thăng tiến của người sống trong nhà; 3. Có ích cho sự phát triển của sự nghiệp cá nhân hoặc sự tăng tiến công việc kinh doanh của công ty.
Hiện nay, các bé chào đời ngoài tên trong giấy khai sinh thường được bố mẹ chọn cho con một cái tên ở nhà – phần lớn mang nghĩa gần gũi, dễ thương, hoặc theo quan niệm xưa, đặt tên xấu cho dễ nuôi. Và tên ở nhà cho bé thường được cha mẹ suy nghĨ trong lúc mang thai.
Danh sách tên ở nhà hay thường đặt cho bé
Tên ở nhà theo trái cây và củ quả: Bé Mít, Ổi, Sơ ri, đào, Nhãn ,Mận, Bí, Su hào, Khoai, Na, Bắp cải, Cà chua, Hồng
Tên ở nhà theo động vật dễ thương: Thỏ, Nhím, Sóc, Cò, Vẹt,
Tên ở nhà theo tiếng Anh: Bin, Bo, Bond, Tom, Sue, Bee, Shin, Bim, Bon, Ken, Bi,
Tên ở nhà các ông bà xưa thường đặt để dễ nuôi: Mén, Tí, Ty, Bông, Tít, Tót, Cún, Bống, Tủn,
Tên ở nhà theo các hãng nước ngoài: Vaio, Sony, Apple, Coca, Pepsi,
Tên ở nhà theo nhân vật truyện tranh: Suka, Doremon, nobita, tép pi,
Tên ở nhà của dân nhậu: Cu Lít, Cu Can, Xị,
Tên ở nhà theo tên Tổng Thống: Putin,
Tên ở nhà theo nốt nhạc: Đô, Rê , Mi , Fa, Sol, La, Si
Ngoài những xu hướng đặt tên, nhiều chị em còn rỉ tai nhau khai trừ ngay 2 cái tên là Gấu với Ngỗng vì theo họ, những đứa trẻ mang cái tên này thường bướng bỉnhvà “đầu gấu”, suốt ngày cáu kỉnh, ghê gớm. Không nên quá coi trọng việc đặt tên đặt tên cho con kể cả tên ở nhà với nhiều bậc phụ huynh là cả một công việc trọng đại, họ cho rằng cái tên sẽ gắn liền với tuổi thơ và tương lai của con, cái tên sẽ quyết định phần lớn đến cuộc sống sau này của con.
Ngoài ra, họ cũng cho rằng dù là tên ở nhà song nó phản ánh niềm vui, sự hãnh diện của cha mẹ gửi gắm vào con mình. Tuy nhiên, có khá nhiều phụ huynh lại quá coi trọng vấn đề tên ở nhà cho con, trả lời về vấn đề này, chuyên gia tâm lý Hồng Hà cho rằng: Tâm lý chung của bậc phụ huynh đó là thông qua cái tên, họ mong muốn con họ gặp được nhiều điều may mắn, mang ý nghĩa tốt đẹp, phản ánh nguyện vọng của mình về con. Chuyên gia cho rằng, cha mẹ cũng không nên quá coi trọng chuyện đặt tên cho con bởi tên gọi không thể quyết định được vận mệnh tương lai hay giúp con trẻ ăn ngoan ngủ kỹ như nhiều chị em chia sẻ.
Nếu muốn con thành đạt, khỏe mạnh thì ngay từ nhỏ, bậc phụ huynh nên đầu tư phát triển thể chất, chăm sóc con thật khoa học bài bản để tạo nền tảng giúp con phát triển toàn diện. Những cái tên cho bé ở nhà thật thú vị và ngộ nghĩnh. Các bạn hãy tìm thêm cho con mình một cái tên ở nhà hay và ý nghĩa nhé.
Trong la bàn có “tam kim tam bàn” tức là chỉ chính kim của địa bàn, phong kim của thiên bàn và trung kim của nhân bàn. Tam bàn chia thành 24 khấc, mỗi khấc chiếm mười lăm độ gọi là “nhị thập tứ sơn”.
Hai mươi bốn phương vị là dùng mười hai chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) kết hợp với tám can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý) và tứ duy (quẻ Càn, quẻ Khôn, quẻ Tốn, quẻ Cấn).
Kim nam châm chỉ chính trung của tý ngọ gọi là chính kim, phùng của nhâm tý, bính ngọ gọi là phùng kim, phần giữa của tý quý, ngọ đinh gọi là trung kim.
Ngưỡng cửa là bộ phận phía dưới hoành ngang, ngăn chặn ngoại lực từ bên ngoài, có tác dụng tránh gió, tránh bụi và chặn các loại côn trùng từ ngoài bò vào trong. Theo phong thuỷ thì nó còn có khả năng phòng trừ tài khí của ngôi nhà lọt ra ngoài.
Khi làm ngưỡng cửa cần phải chú ý:
– Màu sắc ngưỡng cửa cần phải có sự đồng bộ hài hoà với màu sắc cửa.
– Tránh làm ngưỡng cửa bị đứt đoạn, chắp nối, vì như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng dưỡng trạch khí.
Trong phong thuỷ, màu sắc của thảm sàn cũng có một ảnh hưởng nhất định đến phong thuỷ ngôi nhà. Do vậy, tuỳ theo hướng cửa ta có thể chọn màu sắc của thảm như sau:
– Cửa hướng Đông, Đông Bắc nên trải thảm màu đen.
– Cửa hướng Nam, Đông Nam nên trải thảm màu lục.
– Cửa hướng Tây, Tây Nam nên trải thảm màu vàng.
– Cửa phía Bắc, Tây Bắc nên trải thảm màu trắng. Ngưỡng cửa có vai trò rõ rệt trong việc phân cách ngôi nhà với thế giới bên ngoài. Đồng thời ngưỡng cửa còn có tác dụng chắn gió, chắn bụi và ngăn các loài côn trùng, bò sát ở bên ngoài cổng. Bởi thế ngưỡng cửa có giá trị thực tế rất lớn, có tác dụng ngăn cản không cho những vật không có lợi vào nhà và ngăn không cho tài lộc chảy ra bên ngoài, theo phong thuỷ học thì có vai trò bảo vệ.
Ngưỡng cửa không nên bị đứt gãy, nếu bị đứt gãy sẽ giống như cột chống nhà bị rạn nứt, bị coi là rủi ro. Ngưỡng cửa hoàn chỉnh thì không khí trong nhà sẽ lưu thông thuận lợi, nếu đứt gãy thì không khí sẽ ngưng đọng. Do đó, nếu ngưỡng cửa bị đứt gãy phải tiến hành thay thế. Ngoài ra cần phải chú ý khi đặt ngưỡng cửa: màu sắc của ngưỡng cửa phải phù hợp với màu sắc của cổng nhà.
Người tuổi Tuất hợp với nghề kế tóan |
Là người chăm chỉ, ưa tìm tòi và khám phá nên các công việc liên quan đến khoa học, kỹ thuật, triết học, bác sĩ hoàn toàn phù hợp với khả năng của họ.
Bên cạnh đó, một số người tuổi Tuất lại thích các công việc mang tính ổn định, nhàn nhã. Nếu ở vị trí nhân viên văn phòng, nhân viên công vụ, nhà giáo họ cũng sẽ có được sự thoải mái.
Ngoài ra, óc suy luận, tài phán đoán và khả năng thuyết phục tài tình cũng có thể giúp họ thử sức mình ở các nghề như quan tòa, luật sư.
Tuy không phải là những người lãng mạn nhưng người tuổi Tuất lại có trí tưởng tượng phong phú, sự tinh tế, nhạy cảm và khả năng biểu đạt tốt. Chính vì vậy mà họ cũng nên thử sức ở lĩnh vực sáng tác văn học, nghệ thuật.
Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời
Độ chính xác của các dự báo này phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ phân tích của người làm dự báo.
Người xưa lại có cách dự đoán của mình dựa theo tương quan âm dương ngũ hành của can chi. Tạm gọi là dự đoán cổ. Độ chính xác của dự đoán cổ cũng chuẩn xác nhiều khi đến phải ngạc nhiên. Nó gần như là quy luật của trời đất mà con người đang tiếp cận.
Dự đoán cổ có nhiều loại khác nhau, mỗi loại có công năng riêng của nó, như đã từ lâu loài người thừa nhận dự đoán theo quẻ dịch là có cơ sở và độ chính xác khá cao. Vì vậy Lập quẻ dịch được giới thuật sĩ và các cao nhân cúng như các thầy phong thủy hay dùng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Phương Vị: Nam Đẩu Tinh
Tính: Dương
Hành: Thủy
Loại: Phúc Tinh
Đặc Tính: Phúc thọ
Tên gọi tắt thường gặp: Đồng
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 5 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.
Miếu địa ở các cung Dần, Thân.
Vượng địa ở các cung Tý.
Đắc địa ở các cung Mão, Tỵ, Hợi.
Hãm Địa ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Ngọ, Dậu.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Thiên Đồng đắc địa thì thân hình nở nang, hơi thấp, chân tay ngắn, da trắng, mặt vuông vắn và đầy đặn. Còn Thiên Đồng hãm địa thì mập và đen.
Tính Tình
Sao Thiên Đồng ở cung miếu địa và vượng địa: thông minh, ôn hòa, đức hạnh, từ thiện, không có tánh quả quyết, hay thay đổi ý kiến, công việc, hoặc hay gặp cảnh bị bỏ dở nửa chừng, được hưởng sự phong lưu, khá giả, sống lâu. Người nữ thì đảm đang, ăn ở có đức, có niềm tin về thần linh, tôn giáo, làm lợi cho chồng con.
Sao Thiên Đồng cung đắc địa: thích phiêu lưu, nay đây mai đó, hay thay đổi chỗ ở, công việc lưu động, phong lưu, có niềm tin về thần linh, tôn giáo, làm phước, hay thay đổi chí hướng, không có lập trường dứt khoát, xử lý nặng về tình cảm, ân tình nghĩa lụy hơn là dùng lý trí, nguyên tắc, số ly hương, khó cầm giữ tiền của vững chắc.
Sao Thiên Đồng cung hãm địa: hay thay đổi thất thường, hay gặp sự trắc trở, dễ gặp thị phi, hiểu lầm, không cẩn trọng về ngôn ngữ, làm gì cũng phải nương vào người khác mới làm được, không có định kiến, phiêu bạt, ly hương. Riêng sao Thiên Đồng ở Ngọ là người có óc kinh doanh, thích mua bán.
Tài Lộc Phúc Thọ
Sao Thiên Đồng đắc địa thì chỉ sự giàu sang.
Sao Thiên Đồng hãm địa thì phải lo lắng về tiền bạc, tài sản khi có, khi tán, có lúc phải túng thiếu vất vả.
Sao Thiên Đồng ở Ngọ thì chỉ năng khiếu kinh doanh. Nhưng về mặt phúc thọ, vì Thiên Đồng là phúc tinh nên dù hãm địa cũng thọ.
Thiên Đồng, Kình ở Ngọ: Có uy vũ lớn, được giao phó trấn ngự ở biên cương.
Thiên Đồng, Thiên Lương ở Dần, Thân: Làm nên, danh giá. Ngoài ra có khiếu về y khoa, dược khoa, sư phạm rất sắc bén.
Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương cách: Phúc thọ, làm công chức.
Thiên Đồng, Thiếu Âm đồng cung ở Tý: Phúc hậu và thọ; đẹp đẽ.
Thiên Đồng, Không, Kiếp, Hỏa Linh: U mê, nghèo khổ, sống qua ngày, ăn mày.
Thiên Đồng, Thái Âm ở Tý, Hổ, Khốc, Riêu: Đàn bà đẹp nhưng bạc phận, khóc chồng.
Thiên Đồng, Hóa Kỵ ở Tuất: Rất xấu trừ phi tuổi Đinh thì phú quý.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Phụ Mẫu
Sao Thiên Đồng tại Mão, Tỵ, Hợi: Cha mẹ khá giả.
Sao Thiên Đồng tại Dậu: cha mẹ bình thường, mẹ thường hay đau yếu (vì có Thái Âm hãm xung chiếu).
Sao Thiên Đồng tại Thìn, Tuất: cha mẹ và con cái xung khắc.
Thiên Lương tại Dần, Thân: cha mẹ giàu sang và thọ (ở Dần tốt hơn ở Thân).
Thái Âm tại Tý: Cha mẹ giàu sng và thọ.
Thái Âm tại Ngọ: cha mẹ vất vả, sớm xa cách nhau.
Cự Môn ở Sửu, Mùi: sớm xa cách hai thân. Trong nhà thiếu hòa khí.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Phúc Đức
Thiên Đồng ở Mão, Tỵ, Hợi: Được hưởng phúc, sống lâu, họ hàng đi xa làm ăn.
Thiên Đồng ở Dậu, Thìn, Tuất: Phúc đức không được tốt. Cuộc đời lúc vui lúc buồn, ra ngoài hay vướng vào chuyện thị phi, đàm tiếu, cãi cọ lôi thôi. Họ hàng ly tán, thường có sự tranh chấp lẫn nhau.
Thái Âm đồng cung tại Tý: Được hưởng phúc, sống lâu. Nên lập nghiệp xa quê hương, bản quán. Trong họ có nhiều người quý hiển, giàu sang.
Thái Âm đồng cung tại Ngọ: Phúc đức không được tốt, phải ly hương, họ hàng ly tán, phiêu bạt.
Thiên Lương đồng cung: Suốt đời thanh nhàn, được hưởng phúc, sống lâu. Trong họ có nhiều người quý hiển, giàu sang.
Cự Môn đồng cung: Phúc đức không được tốt, thường phải ly hương, bôn ba, thời trẻ tuổi thì nghèo khó, vất vả, dễ xa cách người thân, cô độc, tình cảm lận đận, cần phải có nhiều sao tốt mới đỡ xấu ở hậu vận về già.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Điền Trạch
Thiên Đồng ở Mão, Nguyệt đồng cung tại Tý: Giàu có lớn. Tay trắng lập nghiệp, càng ngày càng thịnh vượng.
Thiên Đồng ở Dậu, Nguyệt đồng cung tại Ngọ: Thành bại thất thường, nhưng về già cũng có chốn nương thân.
Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: Có nhà đất nhưng rất ít, hay phải thay đổi mua vào bán ra luôn luôn.
Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: Tạo dựng nhà đất khó khăn, dù có tạo dựng được cũng phải gặp rủi ro, hoàn cảnh thời cuộc làm cho mất mát. Dễ gặp cảnh tranh chấp về điền sản.
Thiên Lương đồng cung: Tạo dựng nhà đất trước ít sau nhiều.
Cự Môn đồng cung: Về già mới có nhà đất.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Quan Lộc
Thiên Đồng ở Mão: có công danh, nhưng phải nay đây mai đó.
Thiên Đồng ở Dậu: công danh muộn màng, Chức vị nhỏ, hay thay đổi. Nên chuyên về kỹ nghệ hay buôn bán.
Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: có công danh lúc có lúc không, hay di chuyển, lưu động, chóng chán, hay thay đổi.
Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: có công danh, nhưng phải nay đây mai đó, có tài ăn nói lý luận. Công danh trước nhỏ sau lớn.
Thái Âm đồng cung tại Tý: công danh hiển hách, có tài can gián người trên.
Thái Âm đồng cung tại Ngọ: hạp ngành nghề công kỹ nghệ hoặc kinh doanh.
Thiên Lương đồng cung: có công danh tốt đẹp. Rất nổi tiếng nếu chuyên về y khoa hay sư phạm.
Cự Môn đồng cung: thường gặp sự chật vật trong công danh, phải cần có cấp trên nâng đỡ mới tốt, hay bị lôi thôi kiện tụng, thị phi, bị dòm ngó.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Thiên Di
Thiên Đồng ở Mão: Ra ngoài mới tốt, không nên ở lâu một chỗ. Hay gặp quý nhân phù trợ.
Thiên Đồng ở Dậu: Thường hay đi xa, xa nhà. Ra ngoài vất vả, thường hay gặp chuyện phiền lòng. Sau này chết ở xứ người.
Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: Đi xa, nay đây mai đó, dù có nhà cũng không ở nhà, hay thay đổi nơi ăn chốn ở.
Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: Ra ngoài nên cẩn trọng, làm gì cũng nên có sự suy tính kỹ lưỡng, dễ gặp chuyện thị phi, tranh cãi.
Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Tý, Thiên Lương đồng cung: Luôn gặp quý nhân phù trợ. Được nhiều người kính trọng, nếu đi buôn, làm kinh doanh cũng phát tài.
Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Ngọ: Ra ngoài rất bất lợi, hay gặp sự cạnh tranh và ghen ghét.
Thiên Đồng, Cự Môn đồng cung: Ra ngoài hay được vào nơi chốn sang trọng quyền quý, hoặc gặp người có chức quyền, lời nói của mình được tin phục, sau này chết ở xa nhà, dễ ly hương. Nhưng cũng nên cẩn thận về ngôn ngữ, lời nói, không nên nói sai sự thật, hoặc đùa giỡn quá đáng dễ bị hiểu lầm, và làm việc gì cũng phải lo nghĩ luôn luôn.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Tật Ách
Sao Thiên Đồng chỉ toàn thể bộ máy tiêu hóa, không đích danh chỉ bộ phận nào rõ rệt trong bộ máy này. Tùy theo đắc hay hãm địa, bộ máy này sẽ bị ảnh hưởng tốt hay xấu. Ngoài ra, đi với sát tinh, bộ máy tiêu hóa bị tổn thương.
Thiên Đồng, Thiên Khốc, Thiên Hư hay nhị Hao: Hay đau bụng, có khuynh hướng tiêu chảy, sình bụng, khó tiêu, trúng thực.
Thiên Đồng, Kỵ: Hay đau bụng, có khuynh hướng tiêu chảy, sình bụng, khó tiêu dễ bị trúng thực, trúng độc.
Thiên Đồng, Không Kiếp, Hình: Lở bao tử, có thể mổ xẻ ở bộ máy tiêu hóa, cắt ruột, vá ruột. Ngoài ra, Thiên Đồng thường thiên về nghĩa thích ăn uống rượu chè, trà dư tửu lậu, do đó bộ máy tiêu hóa bị liên lụy.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Tài Bạch
Thiên Đồng tại Mão hay Thái Âm đồng cung tại Tý: Tay trắng làm giàu, càng về già càng nhiều của.
Thiên Đồng tại Dậu: Tiền bạc tụ tán thất thường.
Thiên Đồng tại Tỵ, Hợi: Phải lang thang nay đây mai đó, làm nghề lưu động mới có tiền, nhưng cũng dễ bị hao tán.
Thiên Đồng tại Thìn, Tuất: Tiền vào tay này lại ra tay khác, hay túng thiếu.
Thái Âm đồng cung tại Ngọ: kiếm tiền khó khăn, chậm chạp, vất vả, thường phải bôn ba, nay đây, mai đó mới có tiền, làm đủ mọi nghề. Ở tuổi trung niên tiền bạc mới yên ổn.
Cự Môn đồng cung: Tiền bạc vào ra thất thường, dễ gặp cảnh túng thiếu, dễ có sự tranh chấp tiền bạc, hoặc thưa kiện. Phải xa xứ làm ăn mới tốt.
Thiên Lương đồng cung: Khá giả. Rất thích hợp với ngành nghề kinh doanh, mua bán.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Tử Tức
Rất tốt nếu Thiên Đồng ở Mão: đông con, đồng cung với Lương, Nguyệt ở Tý: đông con, con quý hiển.
Kém tốt nếu ở Dậu: ít con, thay đổi chỗ ở luôn mới có nhiều con, ở Tỵ, Hợi: hai con, nếu có nhiều con thì mất một số, con cái ly tán, chơi bời.
Xấu nếu Thiên Đồng ở Thìn Tuất, hiếm con và nhất là đồng cung với Cự Môn thì ít con, con khó nuôi, bất hòa, ly tán, có thể có con riêng.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Phu Thê
Thiên Đồng ở Mão: nên muộn đường hôn nhân mới tốt, hoặc việc hôn sự hay gặp trắc trở, xa cách ở buổi ban đầu, về sau thì hạnh phúc lâu dài. Nam nên là con trưởng, đoạt trưởng, nữ là con thứ.
Thiên Đồng ở Dậu: hay có sự bất hòa trong gia đình, hoặc thường phải xa cách nhau.
Thiên Đồng ở Tỵ: dễ có duyên nợ, cũng dễ xa nhau, hoặc hay có chuyện buồn phiền, hoặc vì làm ăn mà thường xa cách, duyên nợ ở xa.
Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: khắc khẩu, nếu không thì hạnh phúc không trọn vẹn, lâu dài.
Thiên Đồng, Thiên Lương đồng cung: Sớm lập gia đình. Hai người thường có họ hàng với nhau, hoặc người cùng xứ, hoặc có quen biết trước với anh chị em, người thân trong nhà mà thành duyên nợ. Vợ chồng đẹp đôi và giàu sang.
Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Tý: Sớm lập gia đình. Hai người thường quen biết nhau trước, hoặc hai họ đã có quen nhau. Vợ chồng khá giả, đẹp đôi.
Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Ngọ: Phải muộn lập gia đình mới tốt.
Thiên Đồng, Cự Môn đồng cung tại Tý: Duyên nợ dễ chia ly, hoặc phải xa cách một thời gian mới đoàn tụ. Hoặc lập gia đình gặp sự trắc trở rồi mới thành.
Thiên Đồng Khi Vào Các Hạn
Nếu sáng sủa thì hưng thịnh về tài, danh, may mắn. Nếu xấu xa thì hậu hạn xấu (hao của, bị kiện, tụng, bị đổi chỗ...).
Cây đồng tiền
Cây đồng tiền có nguồn gốc từ thần thoại xưa. Theo sách phong thủy, người ta treo những xâu tiền vàng và những thỏi vàng trên cây đồng tiền.
Loại cây này có một số biến thể, trong số đó được ưa chuộng nhất vẫn là cây ngọc ước làm bằng đá quý và trưng bày để được may mắn. Ngày nay thì cây đồng tiền được chế tác đa dạng hơn, người ta đính đá quý trực tiếp lên cây, gọi là cây tài lộc.
Bạn có thể bài trí cây tài lộc tại cửa hàng kinh doanh, ngay cạnh quầy thu ngân, đem lại tài lộc sung túc, thu hút vận may cho nơi kinh doanh của bạn.
Thỏi vàng
Thỏi vàng thu hút tài lộc liên tục vào nhà. Trưng bày thỏi vàng luôn mang đến may mắn bởi nó tượng trưng cho tài lộc, của cải vật chất, tiết kiệm và giá trị. Cho càng nhiều thỏi vàng vào thuyền, bình tài lộc rồi để trong nhà hoặc văn phòng càng tốt.
Thỏi vàng còn gọi là kim nguyên bảo. Kim Nguyên bảo chính là các thỏi vàng mà người ta thường bày trong trang thờ Thần Tài Thổ Địa, có tác dụng chính là Sinh tài, Vượng tài.
Tuy nhiên, nó còn được dùng để Hóa giải chỗ ngồi, chỗ nằm vì lý do không thể xoay trở khác được, mà phải hướng lưng, đầu ra cửa sổ.
Năm 219, Lưu Bị đánh chiếm được Đông Xuyên từ tay Tào Tháo, lại đánh lui được đại quân Tào, tự xưng là Hán Trung vương.
Trên đà thắng lợi, Lưu Bị sai Quan Vũ đang trấn thủ Kinh châu đem quân bắc tiến. Tháng 7/219, Quan Vũ khởi đại quân bắc phạt đánh Tào Tháo.
Ông vây hãm thành Tương Dương, sau đó lại vây đánh Phàn Thành do Tào Nhân trấn thủ, giành được thế thắng áp đảo trước Tào Ngụy.
Tào Tháo vừa chống trả với Quan Vũ, vừa sai người "hứa cắt đất Giang Nam phong cho Tôn Quyền", đề nghị Đông Ngô tập kích hậu phương Kinh Châu của Quan Vũ, giúp Ngụy giảm bớt gánh nặng.
Lời đề nghị của Tào Tháo vừa đúng với ý định chiếm lại Kinh Châu từ tay Lưu Bị, điều mà Tôn Quyền mưu tính đã lâu.
Chiến dịch "chấn động thiên hạ" của Lữ Mông
Đại đô đốc Đông Ngô Lữ Mông khi tới Lục Khẩu thì phát hiện Quan Vân Trường mặc dù đem quân chinh phạt Phàn Thành, nhưng vẫn để lại lực lượng phòng thủ hùng hậu, khiến quân Ngô khó đạt được bước đột phá đáng kể.
Lữ Mông bèn "tương kế tựu kế", bàn với Tôn Quyền đưa một nhân vật "không có tiếng tăm" lên thay mình, nhằm làm Quan Vũ lơi lỏng giới bị.
Người được Lữ Mông giới thiệu là Lục Tốn "tài cán hơn người, mà danh tiếng chưa vang xa, không khiến (Quan) Vũ cố kỵ".
Khi Lục Tốn vừa tới Lục Khẩu (Hồ Bắc) liền gửi thư "ca ngợi" Quan Công - "Trận Phàn Thành khiến Vu Cấm đầu hàng, mọi người gần xa đều bái phục Quan tướng quân, có thể nói là lưu danh muôn đời.
Dù là Tấn Văn Công hay Hàn Tín năm xưa cũng khó lòng so sánh với tướng quân.
Nhưng Tào Tháo mười phần lợi hại, nhất định không cam chịu thất bại mà sẽ tăng binh ứng chiến. Mong tướng quân không nên khinh địch.
Tốn chỉ là kẻ thư sinh, không có bản lĩnh nắm giữ trọng trách (ở Kinh Châu), cũng may gặp được 'láng giềng tốt' như Quan tướng quân, chỉ có vài ý kiến nhỏ, xin tướng quân chỉ giáo".
Trúng phải "công tâm kế" của Lục Tốn, Quan Vũ bắt đầu rút dần quân đội từ miền Đông để điều lên chiến trường Phàn Thành.
Lữ Mông sau khi nhận được tin tức thì lập tức tới Tầm Dương. Nhằm che mắt quân đội Kinh Châu mà Quan Vũ bố trí bên sông, ông cho hóa trang thuyền chiến thành thuyền buôn, bộ đội tinh nhuệ đều mặc áo trắng đóng giả làm thương nhân.
Toàn bộ quân đội của Lữ Mông đã vượt qua phòng tuyến tuần tra của Quan Vũ mà không gây ra bất kỳ sự chú ý nào.
Đây chính là chiến dịch "bạch y độ giang" kinh điển đã ghi danh Lữ Mông vào sử sách.
"Bạch y độ giang" là chiến thắng chấn động Trung Nguyên của Lữ Mông.
Trong khi đó, Quan Công ở tiền tuyến miền Bắc không hề hay biết về động thái quân sự cực lớn này. Quân Lữ Mông Tây tiến theo sông Trường Giang đến tận thành Kinh Châu.
Lực lượng Thục Hán tại Kinh Châu lúc này do Mi Phương thủ Giang Lăng, Phó Sĩ Nhân thủ thành Công An. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Quan Vân Trường và 2 tướng này đều rất tệ hại; ông từng phê bình và đe dọa sẽ trừng phạt Mi, Phó khi trở về.
Sự rạn nứt trong nội bộ quân Kinh Châu nghiêm trọng đến mức ngay khi quân Lữ Mông áp thành, Mi Phương và Phó Sĩ Nhân đều không đánh mà lập tức treo cờ trắng đầu hàng.
Lữ Mông và Lục Tốn thừa thắng tấn công chiếm nhiều cứ điểm quan trọng như Nghi Đô, Tỷ Quy... sau đó đưa quân về thủ tại Di Lăng, đề phòng Lưu Bị phát binh cứu Quan Vũ.
Khi Quan Vũ còn chưa kịp trở tay, hai đại tướng Đông Ngô đã gần như quét sạch thế lực Thục Hán ra khỏi miền Nam Kinh Châu, "cờ hiệu trên các thành trì đã đổi màu trong chớp mắt".
Ngay từ thời kỳ trù bị của chiến dịch này, Lữ Mông đã quán triệt mục đích "triệt tiêu quân đội của Quan Vũ".
Khi tới Kinh Châu, ông không tơ hào chút báu vật nào trong phủ Quan Vũ, mà đem xung công tất cả. Ông cũng thực thi hàng loạt chiến thuật tâm lý: úy lạo người dân, phát tiền cho người nghèo, cho phép gửi thư cho người thân ở tiền tuyến...
Chỉ một thời gian ngắn sau khi đoạt được Kinh Châu, Lữ Mông đã tạo được tín nhiệm lớn tại Kinh Châu, khiến Quan Vũ không chỉ bị mất hậu phương, mà ngay cả tiền tuyến cũng dao động nghiêm trọng.
Cái chết của Quan Vân Trường
Để đảm bảo chiến dịch "hất cẳng Lưu Bị" thành công tuyệt đối, Tôn Quyền đích thân tới Công An chỉ huy cuộc "đi săn" Quan Vân Trường, đồng thời gửi thư "hy vọng Tào Công bảo mật, tránh Quan Vũ kịp có phòng bị".
Lúc này, Tào Tháo đã phái Từ Hoảng tiếp viện Phàn Thành. Đứng trước "điều kiện bảo mật" của Tôn Quyền, đa phần thuộc hạ của Tào chủ trương giữ bí mật, giúp Quyền tập kích thành công.
Nhưng quan Tư không Đổng Chiêu hiến kế - "Chúng ta vờ đáp ứng Tôn Quyền, mặt khác lộ tin cho Quan Vũ và Tào Nhân.
Như vậy, Quan Vũ sẽ bỏ vây về tính sổ với Tôn Quyền, chúng ta thì ngư ông đắc lợi. Nếu giúp Tôn Quyền bảo mật, ngộ nhỡ thành không giữ được, quân ta thiệt lớn".
Tào Tháo nghe theo Chiêu, bèn lệnh Từ Hoảng phóng tiễn đem theo "tin mật" vào Phàn Thành và doanh trại của Quan Vũ, đủ thấy Tào - Tôn dù mới bước đầu "bắt tay", song 2 bên không hề ngần ngại tìm cách lợi dụng đối phương.
Vụ "lộ mật" của Tào Tháo khiến "gió đổi chiều" ở Phàn Thành. Tinh thần quân đội Tào Nhân lên cao, trong khi nước lũ rút đi giúp thành trì kiên cố trở lại.
Trong khi Quan Công còn bất ngờ trước diễn biến mới, thì hung tin Kinh Châu thất thủ ập đến, buộc quân đội của ông phải triệt thoái khỏi chiến trường miền Bắc.
Quan Vũ và Từ Hoảng đều là người quận Hà Đông, từ nhỏ đã quen biết nhau và quan hệ khá tốt. Tuy nhiên, trong chiến dịch Phàn Thành, Từ Hoảng quyết thắng Quan Vũ.
Hoảng dương đông kích tây, phao tin đánh đồn Vi Trủng nhưng kỳ thực đánh đồn Tứ Trủng. Quan Vũ mắc mưu nên bị thua nặng.
Ông phải hạ lệnh giải vây Phàn Thành rút lui, quân Thục Hán bị rơi xuống sông Hán Thủy, tổn thất vô số.
Quan Vũ chạy về nửa đường mới biết Giang Lăng và Công An đã mất nên đành chạy về Mạch Thành.
"Gió đổi chiều" tại Phàn Thành - Tương Dương và Kinh Châu khi Tào Tháo - Tôn Quyền bắt tay đánh bại Quan Vũ, buộc ông chạy về Mạch Thành những ngày cuối đời.
Ông gửi thư cầu cứu Lưu Phong, Mạnh Đạt ở Thượng Dung, song 2 tướng này "quan hệ bình thường" với Quan Vũ nên không phát binh cứu ông.
Đến Mạch Thành, Quan Vân Trường lại biết tin Lục Tốn đã đánh chiếm được Nghi Đô.
Tháng 12/219, Tôn Quyền sai người dụ hàng ông.
Quan Vũ biết không thể dùng lực lượng ít ỏi còn lại để kháng cự, nên sai một số quân ở lại giương cờ trắng trên thành, còn mình dẫn hơn 10 quân kỵ theo đường nhỏ đổi hướng chạy lên phía bắc, hy vọng theo đường núi để phá vây để về Ích châu hoặc Hán Trung.
Khi Quan Vũ chạy tới Lâm Thư thì bị tướng Ngô là Chu Nhiên và Phan Chương chặn đường. Ông bị bộ tướng của Phan Chương là Mã Trung bắt được mang về.
Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền đều từng trải qua thất bại, nhưng lực lượng của họ không sụp đổ hoàn toàn mà vẫn có khả năng vãn hồi, điều quan trọng nhất chính là nhờ thế lực ủng hộ họ đủ lớn.
Nhưng đối với Quan Công, thời điểm ông chiến bại, những mâu thuẫn trong nội bộ thế lực của ông cũng bùng phát và quật ngã ông hoàn toàn, khiến Quan Vân Trường không còn cơ hội "trở mình".
Cùng tháng 12/219, Tôn Quyền chém đầu cha con Quan Vũ.
Triệt hạ Quan Vũ và đoạt lại Kinh Châu là dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp của Tôn Quyền.
Lữ Mông qua đời
"Bạch y độ giang" là một trong những chiến dịch quân sự kinh điển thời Tam Quốc, đồng thời cũng là chiến công huy hoàng nhất của Lữ Mông.
Sau đại thắng này, Đông Ngô hoàn toàn đoạt lại Kinh Châu mà Lưu Bị đã "mượn" 10 năm trời, lãnh thổ mở rộng về phía Đông Tam Hiệp, phía Nam Trường Giang.
Thế nhưng, trong khi Lữ Mông còn chưa kịp nhận phong thưởng thì ông đã bệnh mất. Đại quyền quân sự vùng thượng lưu Trường Giang được trao về tay Lục Tốn.
Theo đuổi con gái là một loại nghệ thuật, một bộ môn mà bất cứ chàng trai nào cũng cần phải học tập, tích lũy kinh nghiệm. Từ hai người xa lạ, để trở nên thân quen là rất nhiều nỗ lực, rất nhiều thời gian, còn phải có một chút kĩ xảo nữa. Cùng xem cách tán gái của 12 chòm sao có điểm gì nổi bật, đáng để khen ngợi không nào.
Bạch Dương nam là điển hình của chàng trai cá tính mạnh, tùy hứng và cố chấp, dễ rơi vào tình yêu mù quáng. Tuy bên ngoài thành thục nhưng bên trong rất ngây thơ, không hiểu làm thế nào để cô gái vui vẻ, cũng không tính là cao thủ tình trường gì. Phương thức theo đuổi bạn gái của chòm sao nam này rất trực tiếp, rất đơn giản, có bao nhiêu ưu thế bày hết ra bấy nhiêu.
Chàng trai như ánh mặt trời ấm áp sẽ hàng ngày đón cô bạn mà mình thích đi học, mua đồ ăn sáng cho cô ấy, mời cô ấy đi xem trận bóng rổ mà mình thi đấu, có đôi lúc làm cô ấy giận, cô ấy tổn thương thì vụng về dỗ dành. Chân thành và rất nồng nhiệt, những cậu trai Bạch Dương yêu rất dễ thương.
Xem thêm bài viết Đo độ trăng hoa của 12 chòm sao nam
Cách tán gái của 12 chòm sao không ai giống ai, Kim Ngưu là điển hình của tuýp người trầm tĩnh, không thích ồn ào mà theo đuổi người ta. Thích một người là nói lời dịu dàng, quan tâm từng chút một, chăm sóc thật tốt, hàng ngày âm thầm bên cạnh chứ chẳng cần đao to búa lớn hay hô hào, tỏ tình hoành tráng.
Đối với Kim Ngưu, tấm chân tình là quan trọng nhất, nếu đối xử tốt với cô ấy sẽ có ngày lòng mình được đền đáp, hai người tự dưng sẽ ở bên nhau. Nhưng cậu trai ngốc nghếch ơi, ngộ nhỡ cô ấy cũng thẹn thùng như cậu thì ai sẽ là người mở lời trước đây, để lỡ nhau có phải là quá đáng tiếc rồi không.
Chàng trai này thích nhất là rong chơi, có nhiều ý tưởng hay ho nên cô gái nào ở bên cạnh họ sẽ đều cảm nhận được sự mới mẻ, thú vị, cuộc sống không bao giờ nhàm chán, không bao giờ lặp lại. Hết xem phim, xem ca nhạc lại đến đi du lịch, thích đi đâu là đi đó, nhưng lại không trực tiếp xác nhận mối quan hệ.
Giữa hai người tồn tại cảm giác “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”, tưởng yêu mà chưa phải yêu, rung động ngọt ngào, không nói thẳng cũng chẳng buông tay. Kiểu quan hệ này khiến con gái mê muội nhưng cũng rất dễ làm chết lòng, cô ấy bỏ đi, chàng trai đào hoa Song Tử đành ngậm ngùi.
Nếu chàng trai Cự Giải yêu một cô gái thì cách thức tiến công của họ cũng khá ôn hòa, thường là tìm người đó tán gẫu, cùng làm bạn bè, chia sẻ những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống, dần dần sẽ chiếm cứ một góc nhỏ trong trái tim, trong tâm hồn người mà mình để ý.
Đến thời điểm Cự Giải thực sự chắc chắn rằng cô ấy sẽ không cự tuyệt, không từ chối thì tỏ tình, đương nhiên trở thành tình nhân. Cảm tình tốt, hài hòa, có những chuyện thuận theo tự nhiên như nước chảy thành sông, không cần phô trương nhưng hết sức ngọt ngào.
Mặc dù nói trong 12 cung hoàng đạo, Sư Tử nổi tiếng kiêu ngạo nhưng một khi đã thích cô gái nào đó thì họ sẽ cực kì nghiêm túc, dốc sức theo đuổi, trở thành siêu nhân của cô ấy. Công to việc lớn, bất kể khi nào cô ấy cần đều có bạn ở bên, che chở bảo vệ để cô ấy sống thật thoải mái, thật vui vẻ.
Ở bên ngoài hống hách bao nhiêu ở trước mặt người con gái mình yêu Sư Tử chỉ giống như chàng trai si tình, chiều chuộng bạn gái. Cô gái nào mà không xiêu lòng trước tấm chân tình của chàng, muốn trở thành công chúa trong lòng chàng mãi mãi cơ chứ.
Xem thêm bài viết Bật mí bí quyết trói chặt trái tim chàng trai Sư Tử
Cách tán gái của 12 chòm sao chung quy lại đều xuất phát từ tấm lòng, chàng trai Xử Nữ cũng không ngoại lệ. Chàng quan tâm, theo dõi tới cô ấy một cách tỉ mỉm, phỏng đoán tâm lý, lâu lâu gửi tin nhắn, gửi thư tình, thậm chí gửi cả ảnh của mình cho cô nàng cảm giác được sự tồn tại của chàng.
Mà lòng kiên trì của Xử Nữ thì đúng là thiên hạ vô địch, không ai sánh bằng. Buổi tối về muộn có chàng đi sau bảo vệ, ngày mưa có chàng che ô khỏi ướt, ngày nắng có chàng mang nước mang khăn. Chân thành như vậy, chu đáo như vậy làm sao mà ai nỡ từ chối chàng trai Xử Nữ cơ chứ.
Thiên Bình khá hiền lành và thuận theo tự nhiên, phong cách chính trực,bình dị gần gũi, theo đuổi con gái cũng rất đơn giản, không màu mè, không khoa trương. Sức hấp dẫn của chàng ấy vốn đã rất mạnh rồi nên chỉ cần nở nụ cười dịu dàng ấm áp thì nắm chắc phần thắng trong tay.
Thiên Bình biết lắng nghe, thường là chỗ dựa vững chắc về tình cảm mà cô gái có thể tìm đến bất cứ lúc nào. Có khó khăn khúc mắc gì cứ tìm đến chàng ấy mà nghe lời khuyên. Một ưu điểm nữa của chòm sao nam này là rất tận tình, mong muốn mỗi cuộc hẹn hò đều thập toàn thập mĩ để bạn gái được vui.
Chòm sao Hổ Cáp trước sau như một, nổi bật trong cách tán gái của 12 chòm sao. Người ta muốn lấy lòng nữ sinh thì dịu dàng ân cần, chàng này lạnh lùng kiêu ngạo, thần thần bí bí, nhưng như thế lại làm cô gái tò mò, càng muốn tiếp cận, càng muốn tìm hiểu sâu hơn.
Anh chàng này chọn cách lắng nghe mọi tâm tư tình cảm, mọi khó khăn sóng gió và an ủi người ấy bằng sự chính xác, tỉ mỉ, giải quyết tình huống chuẩn xác. Vì thế, tình cảm lớn dần lên, không lời hoa mĩ nhưng lại vô cùng chắc chắn, cảm thấy cần có nhau ở cạnh bên.
Chòm sao là cao thủ tình trường như Nhân Mã thì phương thức tán gái nhiều không đếm hết. Với mỗi đối tượng khác nhau họ lại chọn cách thức phù hợp, có lúc tỉ mỉ như Xử Nữ, khi thì nhiệt tình giống Bạch Dương, lúc lại ân cần như Cự Giải, cũng có cả sự tinh tế của Thiên Bình.
Biết dùng lời ngon tiếng ngọt, biết dùng quà tặng lấy lòng lại có chí khí nam nhi, thế thì tán ai chẳng đổ, vô tình ngang qua cũng có nữ sinh chết mê chết mệt ấy chứ. Chính vì vậy mà Mã Mã chẳng bao giờ thiếu bạn gái, càng chẳng bao giờ mất thời gian si mê ai quá lâu.
Ma Kết là chòm sao cao cao tại thượng như kẻ thống trị, muốn người ấy theo đuổi cầu xin người khác thật không dễ. Họ thường quy hoạch mọi chuyện rất rõ ràng, mọi chuyện đều được sắp xếp cụ thể, bao gồm cả chuyện có người yêu, theo đuổi bạn gái, tỏ tình, tán tỉnh.
Tất nhiên Kết Kết cũng có thuer đoạn riêng, cũng chẳng phải quang minh chính đại lắm nhưng lại rất hiệu quả. Ví dụ như, thuê người giả làm côn đồ trêu ghẹo nữ sinh còn mình thì xông ra làm anh hùng xứu mỹ nhân chẳng hạn, đúng là tài năng có hạn nhưng thủ đoạn thì vô biên.
Chòm sao Bảo Bình nếu như thích một người, sẽ cùng cô ấy tán gẫu, sau đó chậm rãi đi vào thế giới nội tâm, chăm lo từng chút từng chút một. Chủ cần cô ấy có chuyện gì bạn cũng có thể gánh vác, làm cô ấy bớt lo lắng, thoải mái và hạnh phúc hơn. Lúc tán tỉnh Bảo bảo đặc biệt lãng mạn, đặc biệt si tình.
Người ta chỉ cần liếc nhìn một cái thôi cũng đủ làm chàng ấy vui vẻ suốt cả ngày, trong lòng chỉ có một người, lẳng lặng trả giá, yên tĩnh hưởng thụ cảm giác tương tư. Nhất định cô gái nào thông minh cũng đều nhận ra tâm ý của Bảo Bình và hồi đáp lại.
Xem thêm bài viết Mặt tối trong tính cách của Bảo Bình dần lộ nguyên hình
Chòm sao Song Ngư có điểm thần bí, thay đổi thất thường, cá tính ôn nhu yên tĩnh, không thích nói chuyện, tình cảm phong phú. Họ trông có dáng vẻ ngây thơ nhưng lại rất biết cách nắm bắt tâm lý của con gái, tinh tế và săn sóc. Trời lạnh đưa khăn quàng cổ, tới bữa mang đồ ăn đến, từng chi tiết nhỏ đều không bỏ sót.
Vừa lãng mạn vừa thực tế, Song Ngư khiến đối phương quen thuộc với sự xuất hiện của mình, lặng lẽ bao phủ sự ấm áp, tinh tế lên cuộc sống của cô ấy để người đó không cách nào thoát ra được, tự nguyện đắm chìm trong tình yêu dịu dàng của chàng.
Thái Vân
Dù cho đã cố gắng chọn hướng tốt, xem đất tốt nhưng không ai có thể đảm bảo phong thủy nhà ở không có vấn đề gì. Vì thế, để đề phòng trường hợp xấu, nhà phạm lỗi cấm kị, có sát khí thì nên tham khảo 10 bảo vật cải thiện phong thủy nhà ở, tăng may tránh họa. Có rất nhiều vật phẩm phong thủy cát tường có tác dụng hóa sát, trấn trạch, bảo hộ bình an cho ngôi nhà. Trong đó 10 bảo vật cải thiện phong thủy nhà ở dưới đây được coi là có năng lực mạnh nhất, phổ biến nhất và cách dụng đơn giản nhất, có thể áp dụng tại nhà một cách dễ dàng.
=> Xem nốt ruồi biết số mệnh, vận hạn chuẩn xác |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên Riêu là âm thủy, hóa khí là phá bại, chủ về đào hoa phong lưu.
Sao Thiên Riêu tọa mệnh, chủ về đa nghi, xinh đẹp, sự cô đơn, tư tưởng sớm trưởng thành, tình cảm phong phú, đa tài đa nghệ, rất chú trọng hình thức bên ngoài, có phong cách độc đáo, thông mình lanh lợi, có khiếu hài hước, quan hệ giao tế rộng, thích giao tiếp, có sức hấp dẫn đối với người khác giới, có năng khiếu nghệ thuật. Sao Thiên Riêu nhập miếu chủ về lịch sự, phong nhã có diễm phúc, có tài nghệ được người khác yêu thích, giàu sang. Nếu đóng tại cung hợi thì học thức. Nếu rơi vào cung hãm thì chủ về đa tình, đa nghi thái quá, dễ lầm đường lạc lối, đam mê tửu sắc. Gặp phải sao ác sẽ khuynh gia bại sản, dễ vì sắc tình mà phạm tội. Đại hạn, tiểu hạn, hoặc lưu niên mà gặp nó, thì kết hôn mà không cần nghi lễ, cần đề phòng tai họa sông nước, tái hôn. Sao Thiên Riêu ở bốn cung Mão, Dậu, Tuất, Hợi là nhập miếu; ở sáu cung Thân, Tý, Thìn, Dần, Tỵ, Ngọ là bình hòa; ở hai cung Sửu, Mùi là hãm. Sao Thiên Riêu nhập miếu lại gặp cát tinh, chủ về siêu phàm thoát tục, có lợi theo các lãnh vực nghệ thuật, tạo hình, thiết kế.
Sao Thiên Riêu là sao đào hoa, dễ thay lòng đổi dạ, khó nắm bắt, nhanh nhạy thông minh, nhiều toan tính, kết bạn tình một cách nhanh chóng, phóng khoáng dạn dĩ, yêu hết mình, dám làm dám chịu, giàu sức sáng tạo, thích hợp với những ngành nghề cần phong thái; nhưng thiếu ổn định, dễ nản chí, thường không theo đuổi việc gì lâu dài.
Sao Thiên Riêu có phong cách độc đáo, rất có sức hấp dẫn đối với người khác giới, đồng thời sao Thiên Riêu cũng rất yêu bản thân mình, khao khát được người khác giới khẳng định, nhưng có lẽ cũng chỉ là tình cảm thoáng qua mà thôi.
Sao Thiên Riêu đóng tại cung thân, cung mệnh, có thể hiện tài năng trong công việc một cách dễ dàng, nghề nghiệp thường có liên quan tới người khác giới, như đóng phim, biểu diễn, quần áo, trang sức.
Nếu sao Thiên Riêu đồng cung với sao Tử Vi tại bốn cung bại Tý, Ngọ, Mão, Dậu, là cách cục "Đào hoa phạm chủ", chủ về phong lưu, cần đề phòng bệnh tật về máu. Sao Thiên Riêu đồng cung với sao Hữu Bật thì về tình yêu sẽ gặp nhiều rắc rối, không rõ ràng. Sao Thiên Riêu mà gặp các sao đào hoa như Hồng Loan, Thiên Hỷ, Hàm Trì, Mộc Dục thì cần phải hết sức thận trọng chuyện sắc tình, nếu không ắt sẽ trước vui vẻ sau đau buồn.
Cung vị tam hợp của sao Thiên Riêu nếu gặp Tham Lang, Liêm Trinh, Mộc Dục, chủ về chết yểu. Sao Thiên Riêu đồng cung với sao Kình Dương cũng cần đề phòng chết sớm.
Sao Thiên Riêu đồng cung với tứ sát tinh, sao Hóa Kị thì dễ tán gia bại sản vì cờ bạc, rượu chè, hoặc gặp rắc rối vì người khác giới.
Sao Thiên Riêu hợp với cung thiên di, chủ ra ngoài được quý nhân phù trợ. Sao Thiên Riêu không hợp với cung phúc đức, chủ về thân tâm vất vả bận rộn, gặp rắc rối về mặt tình cảm.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật |
Ảnh minh họa |
No.1 Tuổi Thìn
Những chàng trai, cô gái tuổi Thìn đang FA sẽ không phải lo lắng quá nhiều về việc tìm kiếm “gấu” vì sẽ sớm bén duyên vào cuối tháng 11 - khoảng thời gian vận đào hoa của họ bung nở. Chủ yếu nhờ vào tài năng ăn nói khéo léo mà người tuổi Thìn thu hút nhiều “vệ tinh”.
Người cầm tinh con giáp này không cần cố thể hiện bản thân, mà cứ để nét duyên dáng của mình được bộc lộ tự nhiên. Bạn nên cởi mở hơn trong các mối quan hệ, như vậy đối tượng thầm yêu trộm nhớ bạn càng nhiều.
No.2 Tuổi Dậu
Cho dù người tuổi Dậu đã hạ quyết tâm sẽ “hoãn yêu” để tập trung cho công việc, học hành. Tuy nhiên, vận đào hoa khiến họ không thể cưỡng lại được niềm vui khi có người đồng hành và sự lãng mạn. Cuối tháng này, nhiều khả năng họ sẽ vấp phải mối tình sét đánh.
Sau lần gặp gỡ định mệnh ấy, đối phương lại “tung chiêu” bằng những cử chỉ quan tâm ân cần, nên chắc chắn cả hai sẽ có cái kết hạnh phúc. Mặt khác, con giáp này nên kìm chế số đào hoa của mình ở đó, để tránh gây xích mích với người ấy.
No.3 Tuổi Hợi
Tính tình ôn hòa, thích cái đẹp và luôn lãng mạn, thủy chung của người tuổi Hợi sẽ trở thành tâm điểm thu hút nhiều “vệ tinh” trong khoảng thời gian cuối tháng 11. Con giáp này đi tới đâu, đều gieo rắc thương nhớ tới đó. Sắp tới, chuyện tình yêu của họ sẽ đơm hoa kết trái.
Bạn sẽ có nhiều lựa chọn, nên cần đưa ra quyết định sáng suốt. Người tuổi Hợi sống thiên về tình cảm, nên nếu vội vàng thì họ sẽ mất một thời gian dài để chữa lành vết thương lòng.
No.4 Tuổi Tý
Thời điểm cuối tháng 11, người tuổi Tý sẽ phải đưa ra nhiều quyết định quan trọng vì họ vừa phải trải qua những biến cố về tình cảm. Vận có đào hoa hay không phụ thuộc vào thái độ của con giáp này. Nếu bạn vui vẻ đón nhận cuộc sống, bỏ qua mọi kỷ niệm buồn trước đó, thì niềm vui và tình yêu sẽ đến.
Ngược lại, nếu tiếp tục gò ép bản thân sống trong thế giới nội tâm u ám, bạn sẽ không thể nắm bắt được cơ hội. Trên thực tế, người tuổi Tý đủ thông minh để biết mình phải biến hóa bản thân sao cho có lợi nhất.
Mr.Bull (theo DZYX)
Xem bói, bàn tay bôn ba vất vả, việc nhỏ cũng khó thành
Trên thế gian này luôn luôn có rất nhiếu người có số phận trớ trêu, mặc dù bôn ba đến cuối đời nhưng khi nhìn lại bản thần họ vẫn chẳng có gi. Rất nhiều đường chỉ tay đều có liên quan đến vận thế sự nghiệp của đởi người, xemboituong sẽ cùng bạn tìm hiểu..
Bói chỉ tay: Đường cổ tay giống như hình xoắn xích
Đường cố tay giống như dây xích, có nghĩa chỉ 3 đường vân trên cố tay giông như dây xích, biểu thị là người quá xem trọng cuộc sông vật chất, theo đuổi hưởng lạc, thích hư vinh, mặc dù biết tính toán cẩn thận nhưng luôn luôn rơi vào cảnh thu không đủ chi. Vì vậy phải bôn ba bốn phương, cô” gắng kiếm tiền, lao động miệt mài để bù vào lỗ hổng kinh tế của chính mình.
Bói chỉ tay: Đường chỉ tay hình lưới sâu đậm trẽn gò Kim tỉnh
Đường chỉ tay hình lưới sâu đậm trên gò Kim tinh, chỉ trong khu vực đường Sinh mệnh có nhiều đường vân đan xen thành hình mạng lưới, biểu thị bất luận sự việc lớn nhỏ người này đều tự tay mình làm, bởi vì họ không dễ dàng có lòng tin đối với người khác, cho nên không muốn để người khác giúp, luôn tự mình xử lý mọi việc, hơn nữa do thiếu tính quy hoạch tổng thể sẽ khiến cho sự việc dường như không được tiến triển tốt, giống như đầu voi đuôi chuột, hiệu suất công việc thấp.
Bói chỉ tay: Đường Vận mệnh gián đoạn, không thẳng
Đường Vận mệnh gián đoạn, không thẳng, tức là chỉ đường Vận mệnh đứt nôi liên tiếp, hình dạng không theo quy tắc, cho thấy người này làm việc gì cũng đại khái qua loa, không có cách nào làm việc tới nơi tới chốn, luôn xảy ra tình trạng bỏ cuộc giữa chừng, vận thế cuộc đời cũng do đó mà bị những ảnh hưỏng nhất định.
Bói chỉ tay: Đẩu ngón tay có rất nhiều đường vân thẳng
Đầu ngón tay có nhiều đường vân thẳng, là chỉ ngoài ngón tay cái ra, những ngón tay khác đều có rất nhiều đường vân thẳng, biểu thị là người lao tâm khổ tứ nhưng thu lại được rất ít thành quả, bản thân họ nhìn nhận sự việc bằng con mắt rất nông cạn. Chỉ có thể nhìn thây lợi ích trước mắt, cả đòi liều mạng theo đuổi, cuối đòi cuộc sông khá vất vả.
Bói chỉ tay: Đường Cống danh nhiều mà còn có dường phân nhánh
Đường Công danh nhiều mà còn có đường phân nhánh, nghĩa là trên đường Công danh có rất nhiều đường phân nhánh nhỏ kéo dài ra (như hình vẽ), biểu thị là người rất rộng rãi, ham học hỏi, chịu tiếp thu tri thức ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng họ thiếu tính nhẫn nại, hầu như là không kiên trì được đến cuối cùng, do đó họ khó mà đạt được kết quả thực sự.
- Dù ngồi trên chiếu hay trên ghế, nửa thân trên của bạn không cách nào giữ được sự ổn định, cho thấy bạn thiếu chủ kiến, buồn nhiều hơn vui.
- Tư thế ngồi giống như bị người ta đẩy, cho thấy bạn có tinh thần rất mơ hồ, kinh doanh thường hay thay đổi, cuộc sống gia đình luôn cảm thấy bất an.
- Thích ngồi dựa vào đồ vật, cho thấy bạn có tính cách tùy hứng, thích phụ tình người ta, thiếu tự tin.
- Khi ngồi xuống, nửa trên cơ thể dao động ra trước sau, trái phải, cho thấy bạn thiếu kiên nhẫn, hay thay đổi. Nửa trên cơ thể ngả về phía trước, cho thấy bạn dịu dàng, thiếu tự tin, dễ bị người khác thao túng. Nếu nửa trên cơ thể ngả về phía sau, cho thấy bạn rất kiêu căng, cố chấp, thiếu sự khiêm tốn.
- Tư thế ngồi không thẳng và thường dùng hai tay để chống đỡ cơ thể, cho thấy bạn thiếu kiên nhẫn, tâm tình không ổn định.
- Khi ngồi xuống thích cầm nắm đồ vật trong tay, cho thấy bạn rất tham vọng, không dễ bộc lộ bản thân.
- Khi ngồi xuống rất thờ ơ, ánh mắt không ngừng chuyển động, cho thấy bạn có suy nghĩ hỗn loạn, không dễ nói cho người khác biết bí mật của mình.
- Khi ngồi vững thì hai chân dang ra, dáng ngồi lười biếng, cho thấy bạn nói nhiều hơn làm, có khả năng hùng biện, thường suy nghĩ phóng đại mọi chuyện.
- Ngồi trong xe, tay thích gác lên cửa sổ, cơ thể hơi nghiêng về một bên, chân phải gác trên chân trái, tư thế ngồi như vậy cho thấy bạn rất lạnh nhạt, suy nghĩ không ổn định, không có chủ kiến.
Chocopie (theo Sina)