Mơ thấy quần áo –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Những lời chúc mừng ngày bé đầy tháng, thôi nôi. Thôi nôi là một phong tục tập quán lâu đời của người việt, thôi nôi tức là trẻ khi đủ 12 tháng tuổi sẽ không nằm nôi nữa và lễ thôi nôi cũng nhằm cảm ơn các bà mụn đã nặn ra đứa trẻ.
Trong ngày này hãy dành cho bé những lời chúc mừng thôi nôi hay nhất. Phải nói những lời gì vào dịp thôi nôi của con, cháu mình? Mời các bạn cùng tham khảo những mẫu câu/lời chúc dưới đây.
Chúc mừng con gái yêu tròn 1 tuổi xinh xắn, khoẻ mạnh và ngoan ngoãn nhé. Yêu con!
———
Chúc mừng sinh nhật bé, chúc thôi nôi con vui vẻ, hay ăn chóng lớn. Chúc gia đình chị hạnh phúc
———
Chúc mừng con gái Yêu tròn 1 năm tuổi. Chúc con luôn xinh đẹp và có đôi chân dài, để mẹ con đi đâu cũng hãnh diện. Và quan trọng nhất, chúc con luôn vui vẻ, mạnh khoẻ và hạnh phúc.
———-
Mừng sinh nhật con. Chúc con gái luôn xinh tươi, mạnh khỏe, liên tục phát triển hihihi. Chúc gia đình chị Hai luôn hạnh phúc và tràn ngập nụ cười tít mắt.
Chúc mừng con gái yêu. Các mẹ yêu con bằng tình yêu thương bao la của những người mẹ trên trái đất này, mong con mau lớn khôn, khoẻ mạnh, xinh đẹp và luôn làm vui lòng cha mẹ nhé!
Chúc mừng thôi nôi Sóc nâu mắt bồ câu! Chúc con gái trở thành cô gái xinh đẹp, ngoan ngoãn và luôn hạnh phúc. Yêu thương gửi tới con 1000 nụ hôn!
Chúc mừng bé tròn 1 tuổi ! Chúc bé hay ăn chóng lớn nhé…
Chúc con gái của bố nhiều nhiều sức khoẻ, hay ăn chóng lớn và mọi điều tốt đẹp nhất luôn đến với con trong cuộc sống.
Chúc Em sinh nhật thật là vui vẻ, chúc Em hay ăn chóng lớn và ngoan ngoãn nghe lời Ba Mẹ nhé.
Chúc Em sinh nhật nhận được thật là nhiều quà và nhận được nhiều lời chúc đẹp nhé.
Mừng SN con! Cô chúc con SN đầu đời nhận được thật nhiều lời chúc tốt đẹp và nhiều quà nhé!
Thêm 1 tuổi nữa Cô chú , anh … và em … chúc … hay ăn, chóng lớn, mạnh khoẻ và luôn ngoan ngoãn để Ba Me vui ha.
Chúc hoàng tử của mẹ … lớn lên sẽ là một thanh niên khôi ngô tuấn tú và luôn “tỏa sáng” như cái tên của mình nhé!
Chúc bé sinh nhật lần đầu vui vẻ, nhận được nhiều quà và nhiều lời chúc dễ thương.
Chúc mừng con gái yêu tròn 1 năm tuổi. Chúc con luôn xinh đẹp và có đôi chân dài, để mẹ con đi đâu cũng hãnh diện. Và quan trọng nhất, chúc con luôn vui vẻ, mạnh khoẻ và hạnh phúc.
Da hồng như quả trứng gà. Mắt đen hạt nhãn như là búp bê. Môi đỏ chúm chím miễn chê. Tóc mềm xoăn tít thật là dễ thương. Chúc mừng con lễ thôi nôi. Tiếng cười khanh khách con vui tít mù. Mong con khỏe mạnh, ăn no. Ham chơi, mau lớn xinh như thiên thần!
Mẹ con nói đã sinh con ở một bệnh viện nào đó, nhưng ta đồ rằng con chính là thiên thần được Chúa ban xuống cho ba mẹ con. Chúc con lễ thôi nôi vui vẻ, tuổi mới mạnh khỏe, xinh xắn và hạnh phúc trong gia đình nhỏ của mình con nhé. Yêu thương con!
Nhìn con yêu quá đi, thích thật ấy, chúc con luôn khỏe, thông minh và ngoan nhé
Yêu quá cơ, thiên thần bé nhỏ! Bác thích nhất cặp mắt long lanh của cháu đấy…
Yêu con quá. Chúc con hay ăn chóng lớn nhé.
Trộm vía, trông đáng yêu quá, chúc con hay ăn chóng lớn
Con đã mang đến cho ba mẹ rất nhiều niềm vui, hạnh phúc. Con gái (trai) nhỏ của ba mẹ, chúc con sinh nhật vui vẻ và có một ngày sinh nhật thật ấm áp nhé!
Chúc mừng sinh nhật con yêu
15 tháng 12 thật nhiều yêu thương
Chúc con vui, khoẻ thật nhiều
Chăm ngoan, học giỏi là điều Mẹ mong
Bước đường tương lai sáng trong
Chúc con toại nguyện, vui lòng Mẹ Cha
Con là tất cả của Mẹ mà
Chúc con tuổi mới thật là “sắc hương”!!!
Con chính là thiên thần được Chúa ban xuống cho ba mẹ con. Chúc con lễ thôi nôi vui vẻ, tuổi mới xinh xắn, mạnh khỏe và hạnh phúc trong gia đình nhỏ của mình con nhé. Yêu và thương con nhiều !
Con biết không, có rất nhiều người mong mỏi ngày con cất tiếng khóc chào đời, trong đó có ta. Thấm thoát cũng đã tròn 1 năm rồi con ạ. Ta mong cho con tuổi mới luôn khỏe mạnh, bụ bẫm, thông minh, đáng yêu, hiếu động và mãi là niềm tự hào của ba mẹ con và của tất cả mọi người yêu thương con con nhé. HAPPY BIRTHDAY TO BABY!
Mặt trời bé con yêu quá. Thấm thoát đã tròn 1 năm ngày con cất tiếng khóc chào đời rồi đấy con nhỉ? Chúc con sinh nhật đầu đời nhận được nhiều quà, nhiều hoa, nhiều tình yêu thương, nhiều niềm vui hạnh phúc và hay ăn chóng lớn con yêu nhé. LOVE BABY!
Da trắng hồng hào giống y như quả trứng gà bóc. Mắt đen láy hạt nhãn giống y như là búp bê. Môi đỏ chúm chím nhìn miễn chê. Tóc mềm xoăn tít thật là dễ thương. Chúc mừng bé yêu lễ thôi nôi. Tiếng cười khanh khách bé là niềm vui của cả nhà. Mong bé luôn khỏe mạnh, ăn no, chơi vui, mau lớn và xinh như thiên thần!
Bé con tròn trịa một năm Trông con da trắng má hồng thật xinh Thần thái như một minh tinh Chân dài cái chắc không cần đắn đo Chúc mừng con khỏe mạnh, ăn no Thông minh, chóng lớn, pha trò thật vui Trộm vía được phán con tôi Sau này sẽ được xướng ngôi nữ hoàng CHÚC MỪNG THÔI NÔI CON GÁI XINH YÊU CỦA TA!
Bạn thật sự may mắn vì đã sinh hạ được một thiên thần bụ bẫm đáng yêu như vậy. Ngày lễ thôi nôi của con, chúc gia đình con ngập tràn niềm hạnh phúc. Chúc riêng con tuổi mới khỏe mạnh, chóng lớn, vui tươi và sẽ đẹp xinh như ba mẹ con vậy! Yêu con nhiều!
Ai bảo rằng chỉ lên thiên đường mới có thể gặp được thiên thần. Khi ta gặp con lần đầu tiên, con đã nở nụ cười thiên thần chào đón ta. Thiên thần nhỏ bé, chúc con lễ thôi nôi nhiều quà, nhiều hoa, nhiều niềm vui, hạnh phúc, tiếng cười và cả tình yêu thương nữa con nhé. Happy!
Bên cạnh đó còn những lời chúc sinh nhật hay bằng tiếng anh:
It is the birthday of the cutest child in the world. May all your birthday wishes come true!
You are the sweetest child in this whole world. Happy Birthday! Enjoy your lucky day.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Trong thuật xem bói, cho rằng độ dài và hình dạng của ngón tay có thể phản ánh được khí chất và tính cách của một người. Nói cách khác, từ hình dạng và hình thái của ngón tay cũng có thể biết được tâm lý và tình trạng sức khỏe cùa mỗi người.
Đối với việc phán đoán độ dài ngắn của ngón tay một điều cơ bản trên bàn tay mà nói, đại đa số bàn tay con người có tỷ lệ tương tự như nhau. Khi khảo sát độ dài của ngón tay cũng phải tiến hành đo thực tế mới có thể đưa ra kết luận cụ thể.
Ngón tay dài: Thông thường mà nói thì ngón tay đại diện cho tư tưởng, bàn tay đại diện cho hành động. Người có độ dài ngón tay vượt quá bàn tay là người thích suy nghĩ cẩn trọng mới hành động, thích hợp với những công việc phải suy nghĩ nhiều mà không cần đưa ra quvết sách.
Ngón tay thô và nhỏ: Ngón tay thô có lực cho thấy tố chất cơ thể rất tốt, có thể lực dồi dào, tư duy linh động, phản ứng nhạy cảm, tính tình vui vẻ. Ngược lại, ngón tay khá mềm yếu là người cảm tính, cho thấy thể lực yếu, tư duy chậm chạp, đàn ông có kiểu ngón tay này thì cả đời khó mà phú quý được, phụ nữ có kiểu ngón tay này gia đình và sự nghiệp đều tốt.
Ngón tay ngắn: Ngón tay ngắn hơn bàn tay cho thấy tính tình vội vàng, hấp tấp, hành động trước, suy nghĩ sau, cho nên không thích hợp làm những việc mang tính chất phải suy nghĩ.
Độ dài của ngón tay và bàn tay bằng nhau
Tỷ lệ của ngón tay và bàn tay tương đương nhau cho thấy tư tưởng và hành động có thể giữ được sự thống nhất, là kiểu tay lý tưởng vô cùng. Đương nhiên cuối cùng có đạt được thành công hay không củng còn phải xem màu sắc bàn tay và độ dài ngắn của các ngón tay nữa.
Trong giới xem tướng thuật, ngón tay được gọi là long, bàn tay được gọi là hổ, có câu chỉ có rồng nuốt hổ, không thế có chuyện hổ nuốt rồng, có nghĩa là ngón tay dài hơn bàn tay là tốt nhất, ngược lại là điềm báo hung.
Độ dài của ngón tay được tính từ điểm đầu tiên của ngón tay ở trên mu bàn tay cho tới đầu ngón tay. Độ dài của bàn tay được tính từ đường ngang cuối cùng ở gốc ngón giữa cho đến đường ngang cao nhất ở cố tay. Ngoài ra mỗi ngón tay đều có tiêu chuẩn tính độ dài riêng, nhưng chiều dài cụ thể không phải là tuyệt đối, có thể lấy ngón giữa làm tiêu chuẩn để tính độ dài tương đối.
Ngón tay khác nhau, vận mệnh khác nhau
Nếu ngón tay vượt quá tiêu chuẩn thông thường hoặc ngắn hơn thì đó là ngón tay đặc biệt, có thể từ đó mà suy đoán được một số đặc trưng của người này. Thường thì, ngón tay càng ngắn người đó càng tùy tiện, ngón tay càng dài người đó càng có khuynh hướng đố kỵ.
Ngón cái: Nếu độ dài ngón cái vượt quá tiêu chuẩn cho thấy người này có phản ứng, suy nghĩ rất nhanh, nếu làm lãnh đạo họ có thể phát huy được vai trò của mình, khả năng thích ứng xã hội của họ cũng rất cao. Ngược lại, nếu người có chiều dài của ngón cái ngắn hơn tiêu chuẩn là người thiếu tài trí, không biết cách thể hiện tình cảm của mình.
Ngón trỏ: Người có độ dài ngón trỏ vượt quá tiêu chuẩn có khả năng lãnh đạo nhất định và sớm gặt hái được thành công trong sự nghiệp. Tuy nhiên, nếu ngón trỏ và ngón giữa dài bằng nhau cho thấy họ có tính ngạo mạn. Người có ngón trỏ ngắn hơn tiêu chuẩn là người có tính cách khá mềm yếu, nhưng họ cũng có thể làm được một số việc khiến người khác phải kinh ngạc.
Ngón giữa: Người có ngón giữa quá dài là người không thích kết giao với người khác, thích trầm ngâm trong thế giới nhỏ bé của mình, tầm nhìn của họ quá hạn hẹp. Người có ngón giữa ngắn là người suy xét sự tình không sâu sắc, khá hời hợt, hồ đồ, hơn nữa họ còn khá phóng túng trong chuyện tình cảm.
Ngón vô danh: Người có ngón vô danh dài bằng ngón giữa là người có lòng hư vinh rất cao, thích đương đầu với mọi chuyện, hơn nữa họ còn có dã tâm xấu. Người có ngón vô danh không tới giữa đốt thứ nhất ngón giữa thường là người làm việc thiếu tính nhẫn nại, không có tinh thần trách nhiệm là khuyết điểm nổi bật của người này.
Ngón út: Người có ngón út dài vượt qua đốt thứ nhất của ngón vô danh là người có tài ăn nói, có thể nói chuyện đạo đức, thậm chí còn có thể dùng lời nói của mình để thuyết phục người khác. Người có ngón út rất ngắn là người không thích giao tiếp, là người xử lý công việc yếu kém, tài vận cũng không tốt.
► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh |
Ảnh minh họa |
Bính Tý nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1936, 1996 và 2056
Cung CHẤN
Mạng GIÁNG HẠ THỦY (nước mù sương)
Xương CON CHUỘT. Tướng tinh CON RẮN
Bà Chúa Ngọc độ mạng
Bính Tý Cung Càn sinh ra,
Mạng Thủy là nước mà ta nhờ nguồn.
Đàn bà sanh thuận Thu Đông,
Kẻ đưa người rước người mong chuyện tình.
Tuổi này lúc nhỏ khó nuôi,
Hai lần chết hụt nổi trôi nhiều lần.
Cũng nhờ âm đức cha ông,
Nghi đâu có đó khó mong ai lường.
Bính Tý người nữ thì sang,
Nhưng mà lở dở chẳng an một đời.
Đầu tiên trắc trở lôi thôi,
Duyên sau mới họp, mới thôi lỡ làng.
Số này cách trở mẹ cha,
Ly hương tổ quán cửa nhà làm nên.
Cuộc sống có nhiều may mắn, khôn lanh, nhưng năm 31 tuổi lại gặp nạn hay trở ngại về cá nhân và thân thể. Năm này tức là năm 31 tuổi, không được hay đẹp lắm. Cuộc đời gặp nhiều may, nhưng ít rủi, có thể tạo được công danh một thời gian, đời sống có phần sung túc, việc gia đình êm ấm và thuận hòa.
Tóm lại: Cuộc đời nhiều sung sướng về cá nhân và thể xác. Bao giờ cũng có thể hưởng được những ân huệ của bạn bè. Tình thương yêu bạn bè cũng như tình thương yêu gia tộc. Số tốt gặp nhiều may mắn trong cuộc đời sắp tới.
Tuổi Bính Tý có nhiều cơ hội phát triển về sự nghiệp. Số hưởng thọ trung bình từ khoảng 54 đến 64 tuổi, nhưng ăn ở hiền lành thì gia tăng niên kỷ, gian ác thì giảm kỷ, đó là luật định của tạo hóa vậy.
Về vấn đề tình duyên, tuổi Bính Tý có qua một giai đoạn khổ lòng hồi tuổi nhỏ. Nhưng qua giai đoạn đó, tuổi Bính Tý cũng gặp nhiều trường hợp may mắn về vấn đề nầy. Tuy nhiên theo sự nghiên cứu về khoa học chiết tự và huyền bí thì tuổi Bính Tý có ba trường hợp như sau:
Nếu sanh vào những tháng nầy thì tình duyên và hạnh phúc phải có ba lần thay đổi, đó là bạn sanh vào những tháng: 4 và 9 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời sẽ phải hai lần thay đổi về tình duyên, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 5,8 và 10 Âm lịch. Và nếu bạn sanh vào những tháng sau đây bạn sẽ được hưởng trọn hạnh phúc, cuộc đời không có thay đổi về vấn đề tình duyên, đó là bạn sanh vào những tháng: 3, 6, 7 và 11 Âm lịch.
Phần gia đạo, lại gặp nhiều trớ trêu, nhưng có thể giải quyết được tất cả, cuộc sống về phần gia đạo không đến đỗi phải đau buồn, tuy nhiên được hưởng nhiều thú vui của tình hạnh phúc, gia đạo được yên hòa phải ở vào năm mà tuổi bạn ở vào tuổi 36 trở đi. Công danh nếu có cũng chỉ ở trong mức độ bình thường, nếu không có công danh, thì việc tâm tư không có gì mới lạ.
Sự nghiệp phải do một người khác phụ giúp mới làm nên, cá nhân khó mà hoàn thành sự nghiệp. Tiền bạc vẫn trong mức bình thường của cuộc sống, có khi thâu nhiều kết quả về vấn đề này. Nhưng sau đó lại hao tài tốn của. Tuổi nhỏ khó cầm tiền. Phải ở vào 34 tuổi sắp lên mới có thể nắm chắc về vấn đề tiền bạc được.
Trong việc làm ăn hay bất cứ việc gì có liên quan đến, nhất là sự làm ăn, nên lựa được những tuổi hạp với tuổi mình thì tốt. Những tuổi nầy rất hạp với tuổi Bính Tý bất kỳ trong công việc làm ăn hay những việc liên quan đến cuộc đời, đó là những tuổi: Bính Tý đồng tuổi, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ. Những tuổi này là những tuổi rất hạp với tuổi Bính Tý trong bất cứ công việc gì có liên quan đến cuộc đời mà không bao giờ sợ thất bại.
Trong cuộc hôn nhơn nếu gặp những tuổi nầy, thì sự làm ăn được phát đạt, cuộc đời có nhiều sung sướng, kết quả và thành công trong mọi công việc. Theo sự nghiện cứu về chiêm tinh học, thì tuổi Bính Tý hợp với những tuổi nầy, chẳng những hợp về lương duyên mà còn hợp về đường tài lộc, đó là các tuổi: Bính Tý đồng tuổi, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Ất Dậu, Ất Hợi, Quý Dậu. Những tuổi nầy rất hợp với tuổi Bính Tý, nếu kết hôn sẽ có nhiều dịp may trong cuộc sống, cũng như đẩy mạnh cuộc sống của hai tuổi lên đến mức độ tột cùng của danh vọng và tiền bạc.
Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy, cuộc sống bạn chỉ có thể sống một đời tầm thường. Nghĩa là chỉ đủ sống mà thôi, vì tuổi này chỉ hợp về lương duyên mà không hợp về đường tài lộc, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Mậu Dần, Giáp Thân. Kết hôn với những tuổi trên bạn chỉ có thể tạo lấy được một cuộc sống trung bình mà thôi.
Nếu kết hôn với những tuổi nầy, cuộc sống của bạn khó tạo ra nhiều hy vọng mà chỉ sống trong sự nghèo khổ triền miên, làm ăn không bao giờ tạo được cơ hội, đó là các tuổi: Canh Thìn, Bính Tuất, Giáp Tuất.
Trên đây là các tuổi nếu bạn kết duyên sẽ xảy ra hoàn cảnh thiếu thốn và cuộc đời khó mà có thể thảnh thơi được.
Có những năm rất xung khắc tuổi, nếu tính việc hôn nhơn sẽ không thành tựu, hay thành thì về sau phải chịu cách xa, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 15, 21, 26, 27, 33, 38 và 39 tuổi. Nếu những năm này kết hôn sẽ có thể xảy ra những trường hợp trên.
Sanh vào những tháng nầy, có số đa phu hay ít ra cũng phải qua đau khổ về chồng con, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 4 và 5 Âm lịch.
Bản nhận xét tuổi Bính Tý qua những năm khó khăn, gặp nhiều trở ngại trong cuộc đời, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 21, 24, 28 và 32 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng bịnh hoạn và tai nạn.
Sau đây là các tuổi đại kỵ với tuổi bạn, nếu kết hôn hay hợp tác làm ăn sẽ gặp nhiều cay đắng, cuộc đời ở vào vì sao tuyệt mạng hay gặp cảnh biệt ly ở giữa cuộc đời, đó là các tuổi rất đỗi xung khắc trong việc kết hôn và trong mọi công việc khác có liên quan đến cuộc đời, đó là những tuổi: Đinh Sửu, Kỷ Mão, Quý Mùi, Tân Mão và Tân Mùi. Nên tránh những tuổi này thì tốt hơn.
Gặp tuổi kỵ trong vấn đề tình duyên nên tránh việc làm lễ hôn nhân hay ra mắt gia đình thân tộc. Gặp tuổi kỵ trong việc làm ăn nên tránh việc giao dịch về tiền bạc. Trong gia đình nên cúng sao giải hạn thì sẽ được giải hạn ngay.
T uổi Bính Tý xuất hành vào những ngày chẵn, giờ chẵn thì tốt, làm ăn hay giao dịch đều được có nhiều kết quả, không sợ bị thất bại. Và ngày, giờ và tháng như trên được áp dụng trong suốt cuộc đời sẽ luôn luôn được toại nguyện như ý.
Từ 21 đến 25 tuổi: Năm 21 tuổi, có tài lộc đôi chút, toàn năm đều tốt cho mạng số, năm này không có thay đổi nhà cửa, việc làm. Nhưng sẽ có bịnh hoạn vào tháng tám trở đi. 22 tuổi, năm này gặp nhiều xung khắc trong những tháng 4, 7 và 10 Âm lịch, ngoài ra, những tháng khác bình thường. Ba tháng nói trên kỵ đi xa, có hao tài tốn của, 23 và 24 tuổi, năm 23 nên đề phòng cẩn thận sẽ hao tài, hay tốn hao nhiều cách khó hiểu. Không thì gặp tai nạn, hay cũng bịnh hoạn, nhứt là những tháng giêng, 4 và 7 Âm lịch. 24 tuổi mới được yên vui và mới có cơ hội phát triển nghề nghiệp. 25 tuổi, toàn năm đều tốt, trừ những trường hợp nhỏ nhen trong gia đình, không quan trọng.
Từ 26 đến 30 tuổi: Năm 26 tuổi, có nhiều lợi to vào những tháng 8 và 11 Âm lịch. Năm 27 tuổi bình thường, việc làm ăn được điều hòa, không có gì quan trọng trong cuộc đời. Năm 28 tuổi, hy vọng thành công về sự nghiệp gia đình. Năm nầy nếu lập gia đình có sanh quý tử thì phát tài mau. Năm 29 và 30 tuổi, không lo ngại gì nữa, cuộc sống cứ như thế mà tiến lên mức độ cao của sự nghiệp, tiền tài.
Từ 21 đến 35 tuổi: Năm 31 tuổi xấu, có hao tài và bịnh nặng. Năm 32 tuổi được khá, năm này nên đi xa hay làm ăn thì kết quả tốt. Năm 33 và 34, không nên làm việc lớn có liên quan đến tiền bạc, hai năm này nên kỹ lưỡng để mang tai tiếng không tốt. Năm 35 tuổi, được việc, cứ tiếp tục phát triển thì làm ăn tốt.
Từ 36 đến 40 tuổi: Năm 36 tuổi, năm này có 6 tháng đầu năm tốt, sáu tháng sau xấu, nên làm ăn những việc tầm thường mà thôi. Năm 37 và 38 tuổi, hai năm này không có những biến chuyển mạnh mẽ trong cuộc đời. Năm 39 và 40 tuổi, không được tốt về bổn mạng, nên cẩn thận thì hơn, tài lộc hơi sút kém.
Từ 41 đến 45 tuổi: Khoảng thời gian năm năm nầy có phần phát triển về tài lộc tình cảm, cần mẫn và nên đề phòng con cái trong gia đình. Cá nhân có bịnh liên miên. Coi chừng bị thiệt hại về tài lộc trong những năm nầy.
Từ 46 đến 50 tuổi: Khoảng thời gian nầy không có gì đáng nói, về phần tình cảm, gia đình thì nhiều hơn, nên nhẫn nại và nhịn nhục tránh những điều tiếng thị phi để cho gia đình thân tộc được vui vẻ hơn.
Xem thêm:
Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết
Xem bói tử vi tuổi Tý
Xem tử vi năm mới
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
1. Tuổi Hợi Bước sang tháng 6, vận may của người tuổi Hợi tăng đột biến, làm gì cũng cảm thấy thuận lợi vô cùng vì gặp được bạn hiền, quý nhân phù trợ. Không những có nhiều cơ hội tăng lương mà lĩnh vực đầu tư cũng sinh lời lớn, được một tháng “bội thu”. Vận may của con giáp này lớn tới mức mua vé số cũng có thể trúng thưởng, tham gia bốc thăm trúng thưởng khi đi mua sắm kiểu gì cũng có giải mang về. Về phương diện tình cảm, những chú Heo xinh xắn, đáng yêu, tính tình lại lạc quan, hòa đồng nên chẳng khó khăn trong việc thu hút đối tượng khác giới, vận đào hoa vì thế cũng tăng. Tình yêu như được chắp thêm đôi cánh, rất có thể đám cưới linh đình sẽ được diễn ra trong tháng.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Giường ngủ gần cửa sổ
Nếu giường ngủ gần cửa sổ thì khí bên ngoài sẽ xung thẳng vào giường ảnh hưởng đến sức khỏe và công việc. Khí đến giường ngủ cần yên tĩnh, kín đáo. Vì thế, gặp truờng hợp trên nên treo rèm trước cửa sổ hoặc đóng lại không sử dụng. Dùng thêm các vật khí lợi cho công danh thi cử như quả cầu, cây tre, trúc, đôi ống sáo…
Giường ngủ hoặc bếp gần nhà vệ sinh
Trong bài trí phong thủy tối kỵ phòng bếp hoặc giường ngủ sát ngay nhà vệ sinh. Uế khí của nhà vệ sinh sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và nguồn tài lộc của gia đình. Gặp trường hợp trên nhất thiết phải di chuyển giường và bếp, hoặc phá nhà vệ sinh đi không dùng nữa. Để khắc phục phải sử dụng các vật khí hỗ trợ sức khỏe như hồ lô, khánh rồng…
Đầu giường không nên để xà ngang ép đình
Đầu giường có xà ngang ép đỉnh gọi là “Huyền trâm sát” sẽ không có lợi cho sức khỏe của gia chủ.
Có ba biện pháp hóa giải như sau:
– Tránh: Đây là biện pháp tốt nhất bằng cách xê dịch đầu giường để tránh xà ngang, làm như vậy đã hóa giải được vị trí không gian ở đầu giường. Ngoài ra, ở đầu giường có thể đặt tủ, giá sách hay giá để dụng cụ, như vậy tránh cho đầu giường không trống trải, hơn nữa có thể tiết kiệm được không gian.
– Che: Nếu diện tích căn phòng nhỏ hẹp hoặc vì nguyên nhân nào khác mà không “tránh” được thì có thể dùng phương pháp che bằng cách dùng tấm trần giả để che xà ngang. Làm như vậy sẽ bớt được áp lực về tâm lý.
– Ngăn: Nếu sử dụng biện pháp che mà gia chủ vẫn không an tâm thì có thể đổi giường thành giường hai tầng, tầng trên để chăn đệm còn tầng dưới để ngủ. Làm như vậy, chăn đệm ở tầng trên sẽ thay thế cho người chịu đựng những thiệt hại do xà ngang ép xuống.
Đầu giường không nên để đối diện với cửa phòng
Xét về phong thủy học, đầu giường đối diện với cửa phòng là không tốt lành, bởi vì hiện tượng này sẽ dẫn tới sự suy sụp về sức khỏe và công danh của gia chủ.
Tuy nhiên, cần phải xem xét thêm là diện tích nhà bạn và bố cục phòng ngủ có thể xoay xở được nhiều không. Vì nếu phòng chỉ rộng khoảng 3m thì giường chắc chắn sẽ “dính” một phần cửa khi mở vào. Còn nếu kê bàn hoặc giường khuất hẳn về một góc phòng thì người bên trong xoay lưng lại cửa dễ bị giật mình khi có người ra vào phòng.
Xét về cân bằng âm dương thì phần đầu giường ngủ mang tính âm (cần yên tĩnh, tối hơn so với cuối chân giường) nên cần đặt trong vùng âm (ít gió và ánh sáng chiếu trực tiếp). Còn phần bên hông và chân giường là vùng đi lại thuộc dương nên có thể gần lối đi, cửa sổ hoặc cửa ra vào. Vì vậy, nếu phòng chật thì chỉ cần cửa mở vào không thẳng ngay đầu giường là ổn.
Trong trường hợp này gia chủ nên xê dịch giường ngủ, không đổ giường ngủ và cửa phòng thành một đường thẳng. Nếu giường ngủ không thể xê dịch được thì hãy xoay lại để ngủ củng là một cách hóa giải.
Đầu giường không nên kê quá sát vào cửa sổ
Luồng khí từ cửa đi mở vào gặp giường gọi là trực xung (có thể kiểm nghiệm điều này bằng cách đóng kín cửa sổ, rồi đóng và mở cửa đi vào phòng, bạn sẽ nghe thấy ngay tiếng kính cửa sổ rung lên rõ rệt do luồng khí chuyển động).
Nếu đầu giường kê quá sát vào cửa sổ thì sẽ không tốt. Không xét về phong thủy học chỉ nói về môi trường sống, đầu giường kê sát vào cửa sổ khi ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào đầu giường, khi trời mưa thì nước mưa thẩm thấu qua cửa sổ sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ của gia chủ. Để đảm bảo sức khỏe và gia cư an toàn, không nên kê đầu giường vào sát cửa sổ.
Đầu giường không nên chiếu thẳng vào gương
Trong phong thủy, gương dùng để ngăn sát, tác dụng phản xạ trở lại sát khí xông thẳng vào cho nên (dù không phải là gương Bát quái hay gương cửa) cũng không nên để chiếu trực tiếp vào giường ngủ.
Nếu để gương chiếu trực tiếp vào đầu giường thường sẽ bị giật mình, ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ, gây đau tim, tinh thần phân tán. Tốt nhất, nên treo gương ở phía trong cánh tủ quần áo để không làm ảnh hưởng đến sức khỏe.
Đầu giường không nên chiếu thẳng vào bếp đun
Trước phòng ngủ có bếp đun rất không có lọi cho sức khỏe vì lửa bếp cháy rừng rực, khói mỡ khi xào nấu xông vào rất không tốt với sức khỏe của con người, có thể sẽ sinh ra các chứng bệnh đau tim…
Không nên để “lộ không” nơi đầu giường
Đầu giường không nên “lộ không” điều đó có nghĩa là đầu giường không kê sát vào tường, không có chỗ dựa, không có chỗ che chở, vì thế hung nhiều cát ít. Nếu đầu giường không kê sát vào tường được thì cuối giường nên kê sát vào tường, còn nếu không có thể đặt kệ tủ sát đầu giường cạnh vách tường cũng là một cách hóa giải.
Giường ngủ kiêng cầu thang ép đinh
Giường ngủ đặt ở dưới chân cầu thang mặc dù là cầu thang ở bên ngoài phòng cũng không nên. Không xét về phong thủy học, chỉ riêng tiếng bước chân đi lên xuống cầu thang cũng làm cho mất ngủ gây bất an.
Giường ngủ không nên đặt ở trên bếp
Trong phong thủy, xưa nay có câu “nhất vị nhị hướng” nghĩa là vị trí để đặt một không gian cư trú quan trọng hơn cả hướng. Khi đã đúng vị trí thì sẽ xoay xở được về hướng tùy theo khí hậu, mệnh trạch và giao tiếp.
Sở dĩ người xưa truyền lại rằng, phải kiêng kị nằm ngủ trên bếp đơn giản là vì nhà cửa ở nông thôn thuở trước không có tầng lầu kết cấu chủ yếu bằng vật liệu nhẹ như tranh tre nứa lá, nhà xây gạch thì nếu có gác cũng làm bằng gác gỗ, nằm ngủ trên bếp khác gì bếp đun nấu ngay dưới lưng? Mà bếp thuở trước lại dùng bếp lò than củi rất dễ cháy nên ngôi nhà xưa thường phải tách bếp ra khỏi nhà chính là vì vậy, đó cũng là một cách giảm ô nhiễm và phân khu chức năng khá rạch ròi.
Ngày nay, nhà cửa bằng vật liệu kiên cố diện tích đất xây dựng củng eo hẹp hơn ngày xưa nên bếp ở ngay trong ngôi nhà chính, trang thiết bị bếp cũng hiện đại, gọn nhẹ và không còn khói bụi nhiều nữa. Mặt khác, với việc đúc sàn lầu bằng bê tông đã tách biệt hẳn hai không gian trên dưới thì hoàn toàn không thể có chuyện nằm ngủ trên lầu mà tầng dưới là bếp thì sẽ bị hun khói như những đồn đại thuở trước.
Trường hợp nêu trên về phong thủy, cần xét theo hai bước.
Bước thứ nhất: kiểm tra xem bếp đã đặt đúng phương vị chưa, bao gồm xét vị trí của bếp so với toàn nhà, so với không gian của căn phòng chứa bếp, so với bồn rửa chén, tủ lạnh. Rồi xem miệng bếp đó (Tá khẩu, hướng lưng của người nấu) có hướng vào cửa phòng vệ sinh hay đối diện bồn rửa không? Bên dưới cái bếp ấy có hồ nước ngầm hay hầm phân tự hoại không? Có đường nước thoát hoặc nước cấm chạy ngay dưới bếp không? Những vấn đề trên đều liên quan đến Thủy khắc Hỏa để tránh ảnh hưởng ô nhiễm trong quá trình sử dụng bếp.
Tiếp theo bước thứ hai, giả sử bếp đó đã đặt đúng vị trí, không thể xê xích được nữa, ta mới xét tiếp đến phòng ngủ trên lầu. Khi bếp được đặt đúng vị trí, tức là chỗ đặt bếp thuộc về vùng hung của nhà theo phương Bát trạch. Vậy thì chỗ đó không đặt giường ngủ được, vì giường ngủ cần nằm trong vùng cát của nhà.
Như vậy, ta cần xem xét lại cơ cấu phân bố không gian toàn nhà, trong đó có bếp và phòng ngủ.Vì nhà ống chiều ngang hẹp diện tích không nhiều nên khu vực có bếp dưới tầng trệt thường làm phòng ngủ trên lầu là điều dĩ nhiên. Ta có thể linh hoạt bố trí trong phòng ngủ trên lầu này sao cho vị trí giường ngủ không trùng với vị trí bếp nấu bên dưới là được. Ngay chỗ mà bên dưới là bếp thì có thể đặt tủ hay lối đi, các phía khác thuộc về vùng tốt sẽ đặt giường ngủ.
Dĩ nhiên gia chủ cần lưu ý rằng, tất cả những sắp đặt kể trên phải căn cứ theo mối quan hệ tổng thể, cơ cấu bố trí cầu thang, mở cửa ra vào phòng, vị trí phòng vệ sinh (cả trên và dưới) thì mới có thể sắp xếp hợp lý về phong thủy lẫn kiến trúc, tránh tình trạng “giật gấu vá vai”, chỉ xê dịch một cách cục bộ sẽ không có kết quả trọn vẹn.
Giường ngủ không nên đối diện với kệ tủ
Kệ tủ hoặc những cấu trúc có góc cạnh được đặt trong phòng ngủ sẽ sinh ra sát khí. Nếu đặt kệ đối diện trực tiếp với giường ngủ thì mức độ ảnh hưởng càng xấu hơn.
Theo phong thủy, kệ mở, tủ đặt trong phòng ngủ bị xem là một trong những nguyên nhân gây bất hòa và xung đột trong các mối quan hệ tình cảm giữa thành viên sống trong nhà. Nghiêm trọng hon, kệ tủ có thể gây ra những hiểu lầm giữa hai vợ chồng, ảnh hưởng đến việc gìn giữ hạnh phúc lứa đôi.
Giải pháp cho các kệ mở đặt trong phòng ngủ là gắn thêm cửa cho chúng để trở thành tủ có nhiều ngăn. Song gia chủ không được dùng gương hoặc kính làm cửa tủ, bởi nó sẽ tạo thành bề mặt phản chiếu và gây ra những vấn đề nghiêm trọng khác. Nếu không thể làm cửa cho các kệ mở, bạn hãy khắc phục bằng cách dùng màn che (loại màn dày hoặc mỏng đều được).
Cửa tủ có quá nhiều đường nét chạm khắc cũng không tốt. Vì những đường chéo, chữ thập và các góc cạnh dễ sinh ra các tia sát khí hướng về phía người nằm trên giường. Tốt nhất là bạn nên dùng cửa phẳng, có kiểu thiết kế đơn giản và nhớ nội thất có đường nét trang trí hình vòng cung sẽ đem lại hiệu quả tốt về mặt phong thủy.
Theo phong thuỷ học phái Bát trạch, 8 phương vị trong nhà ở được chia thành hai nhóm tốt và xấu, tuỳ thuộc vào mệnh quái của người cư ngụ. Đối với những người Đông tứ mệnh (mệnh Khảm, Ly, Chấn, Tốn), nên kê sofa ở các hướng: Bắc, Nam, Đông và Đông Nam. Còn đối với những người Tây tứ mệnh (mệnh Càn, Khôn, Cấn, Đoài), nên kê sofa ở các hướng Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc và Tây. Bởi lẽ, đó là những hướng tốt, kê sofa tại đó sẽ mang lại sức khoẻ và may mắn cho người sử dụng.
Vấn đề là trong gia đình có cả người mệnh Đông tứ và người mệnh Tây tứ, vậy chọn hướng kê sofa theo thành viên nào? Có quan điểm cho rằng, nên kê sofa theo vị trí tốt của nhiều thành viên hoặc vị trí tốt của người sử dụng nhiều nhất. Tuy nhiên, vị trí thường được khuyến nghị là kê sofa theo hướng tốt của chủ nhà, người trụ cột trong gia đình, cụ thể là người cha, người chồng.
Đó là nguyên tắc cơ bản trong việc chọn vị trí để kê sofa, nhưng đối với những ngôi nhà có phòng khách được thiết kế ở phương vị tốt thì kê sofa ở vị trí nào trong phòng cũng ít nhiều được hưởng “khí” tốt. Khi đó, nên ưu tiên chọn những vị trí thuận tiện cho sinh hoạt, có tính thẩm mỹ cao để kê sofa, chỉ cần tránh vị trí khiến sofa đối diện với cửa chính, vì “khí” từ ngoài cửa sẽ xung thẳng vào chỗ ngồi. Theo các nhà phong thuỷ, điều này có thể dẫn đến tình trạng người nhà bị phân tán, tài khí phát tán. Trường hợp sofa đối diện với cửa phòng thì không đáng ngại, nhưng nếu đối lưng với cửa phòng thì nên tìm vị trí khác, vì vị trí đó không thuận tiện, không có điểm tựa, tán khí, dễ gặp phải họa tiểu nhân.
Phong thuỷ học cho rằng, phía sau sofa nên có chỗ dựa, tức phía sau sofa nên có tường chắc chắn để dựa vào, giống với nguyên tắc “toạ sơn, hướng thuỷ” (tựa núi, hướng sông) khi xây dựng nhà. Có chỗ dựa là biểu tượng của sự nghiệp ổn định, có tích tụ tiền tài, gia đình yên ổn và có quý nhân giúp đỡ. Mặt khác, xét từ góc độ tâm lý, phía sau sofa trống rỗng có thể khiến con người cảm thấy thiếu an toàn, bị động, do không quan sát được phía sau. Lưu ý, nếu chỗ dựa đó là bức tường nhà vệ sinh, nhà bếp hoặc phía sau sofa là cửa sổ thì cũng nên tránh.
Ngoài ra, có quan điểm cho rằng, không nên đặt sofa ở vị trí sinh tài (tài vị). Nếu cửa mở ở phía bên trái thì tài vị ở góc đối diện bên phải, nếu cửa mở ở phía bên phải thì tài vị ở góc đối diện bên trái, còn cửa mở ở giữa thì hai góc đó là tài vị. Tài vị cần thông thoáng, sạch sẽ, sáng sủa, thích hợp đặt thần tài hay các vật phẩm phong thuỷ như ngọc như ý, thiềm thừ, tỳ hưu, hoặc cây cảnh xanh tươi. Tài vị đặt sofa là không thích hợp, vì sofa là vật dụng to lớn, nặng nề, sẽ khiến tài vị bị áp chế, “sinh khí” khó ngưng tụ.
Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng, đặt sofa ở vị trí sinh tài thì tài vận sẽ gia tăng, nhất là khi sofa được làm bằng chất liệu có tính dương như gỗ, vải sợi thiên nhiên, đem lại cảm giác thoải mái, dễ chịu cho con người khi tiếp xúc; đồng thời, sofa có màu sắc tươi sáng như vàng tươi, xanh lá, màu bạc, màu mận chín. Đặc biệt, đặt sofa tại đây sẽ khiến cho người thường xuyên ngồi ở đó hấp thụ được tài khí, đạt được hiệu quả chiêu tài, nạp phúc.
Một vị trí khác nên tránh khi kê sofa đó là bên trên có xà ngang hay đèn chiếu thẳng xuống, nếu không thì phải tìm cách hoá giải như đặt trúc khai vận hai bên sofa (hoá giải xà ngang), chuyển hướng chiếu của ánh đèn vào tường.
Khi đã chọn được vị trí thích hợp để kê sofa, trong đó người ngồi quan sát được người ra vào, thì không nên treo gương hoặc đặt các vật có chứa nước phía sau sofa. Gương có ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ khi chiếu vào người ngồi, còn vật có chứa nước (như bể cá) sẽ khiến cho chỗ dựa thiếu tính ổn định, vì tính nước là vô thường.
Cách xác định mệnh quái Mệnh quái được xác định bởi năm sinh và giới tính. Đối với nam, nếu sinh trước năm 2000 thì mệnh quái được tính bằng cách lấy 100 trừ đi hai số cuối năm sinh, sau đó chia 9, dư 1 là quái Khảm, dư 2 là quái Khôn, dư 3 là quái Chấn, dư 4 là quái Tốn, dư 5 là quái Khôn, dư 6 là quái Càn, dư 7 là quái Đoài, dư 8 là quái Cấn, dư 9 là quái Ly. Nếu sinh từ năm 2000 trở đi, thì số 100 trong công thức nêu trên được thay thế bằng số 99. Đối với nữ, nếu sinh trước năm 2000, thì mệnh quái được tính bằng cách lấy hai số cuối năm sinh cộng 5, sau đó chia 9, số dư là mệnh quái tương ứng như đối với nam, riêng dư 5 là quái Cấn. Trường hợp sinh từ năm 2000 trở đi, thì mệnh quái được tính bằng cách lấy hai số cuối năm sinh cộng 6, sau đó chia 9, số dư là mệnh quái tương ứng. |
(Theo ĐTCK)
Phương Vị: Cả Nam lẫn Bắc Đẩu Tinh Tính: Dương Hành: Thổ Loại: Đế Tinh Đặc Tính: Quyền Uy, Phúc Đức, Tài Lộc
Tử Vi là sao chủ của chòm sao Tử Vi gồm có sáu sao: Tử Vi, Liêm Trinh, Thiên Đồng, Vũ Khúc, Thái Dương, Thiên Cơ. Sao Tử Vi là một trong 14 chính tinh và còn là sao chính trong khoa tử vi nên còn gọi là đế tinh (sao vua) và được an đầu tiên trong lá số tử vi.
Hai chòm sao Tử Vi và Thiên Phủ hợp lại để tạo thành 14 chính tinh (sao chính) trong lá số tử vi. Trường hợp một cung trên lá số không có chính tinh thì được gọi là cung Vô Chính Diệu tức là cung này không có sao chính tọa thủ.
Sao Tử Vi được an theo cục và ngày sinh.
Vị Trí Ở Các Cung
- Miếu địa (tốt nhất) ở các cung: Tỵ, Ngọ, Dần, Thân. - Vượng địa (tốt) ở các cung Thìn, Tuất. - Đắc địa (tốt vừa) ở các cung Sửu, Mùi. - Bình hòa (bình thường) ở các cung Hợi, Tý, Mão, Dậu.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Cung Mệnh có Tử Vi miếu, vượng hay đắc địa thì thân hình cao lớn, hồng hào. Còn Tử Vi bình hòa thì thân hình vừa phải.
Tính Tình
- Miếu địa: Thông minh, trung hậu, nghiêm cẩn, uy nghi, sáng tạo, lãnh đạo. - Vượng địa: Thông minh, đa mưu túc trí, bất nghĩa, có oai phong. - Đắc địa: Thông minh, thao lược, can đảm, liều lĩnh. - Bình hòa: Kém thông minh, nhân hậu.
Công Danh Tài Lộc
Nếu Tử Vi ở các vị trí miếu, vượng hay đắc địa thì không cần các phụ tinh tốt khác đi kém theo cũng vẫn có sự phú quý và quyền uy. Tuy nhiên nếu được các sao sau đây đi kèm thì sự phú quý càng chắc chắn hơn.
- Có Thất Sát đồng cung: Thất Sát như lưỡi gươm báu, đi chung với Tử Vi càng làm cho Tử Vi có thêm uy lực hơn.
- Thiên Phủ đồng cung hay hội chiếu: Thiên Phủ là kho trời nên càng có ý nghĩa dồi dào về tài lộc khi đi kèm với Tử Vi.
- Thiên Tướng đồng cung: Thiên Tướng có nghĩa là tướng Trời, cho nên Tử Vi có Thiên Tướng đi kèm như vị vua có tướng tài bên cạnh phò tá nên càng thêm vững chắc trên đường lãnh đạo chỉ huy.
- Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt: Đây là các sao phụ như quần thần theo hộ giá cho vị Vua. Các sao này sẽ khiến cho Tử Vi bảo đảm thêm phần tài lộc, công danh. Sự hội tụ của các sao này chung quanh Tử Vi làm nổi bật khả năng lãnh đạo, chỉ huy của sao vua.
Ở vị trí bình hòa, Tử Vi cần phải có các sao tốt đi kèm mới bảo đảm được sự phú quý hưng vượng.
Tử Vi gặp các sao xấu như Tuần, Triệt, Kình, Đà, Không, Kiếp thì diễn tả một tính nết xấu xa và thường gặp tai nạn trong cuộc đời. Nếu là nữ mệnh thì tính tình đê tiện, dâm đãng, khắc hại chồng con tuy là có tiền bạc khá giả.
Phúc Thọ Tai Họa
Tử Vi là một phúc tinh nên còn đem đến phúc đức cho cung tọa thủ. Đặc biệt Tử Vi chế giảm được hung tính của hai sao Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy nhiên năng lực cứu giải tai nạn của Tử Vi sẽ bị kém đi rất nhiều khi đóng tại các cung Hợi, Tý, Mão, Dậu. Thêm nữa nếu Tử Vi bị hai sao Tuần hoặc Triệt án ngữ hay sát tinh xâm phạm thì càng bất lợi hơn. Trường hợp này đương số sẽ gặp phải những nghịch cảnh trong cuộc đời như:
- Sớm mồ côi cha mẹ, hoặc phải chịu cảnh góa bụa, cô độc. - Khắc anh chị em hay khắc chồng con, hay vợ con. - Thường bệnh hoạn hay yểu tử. - Phải tha phương lập nghiệp. - Gặp nhiều cảnh hiểm nguy trong cuộc đời. - Nghèo khổ, xui xẻo. - Công danh trắc trở, khổ nhọc cả đời. - Nữ mệnh thì phải chịu cảnh muộn chồng hay vợ lẻ.
Riêng trường hợp Tử Vi ở cung Mão hoặc Dậu và đồng cung với Tham Lang thì Tử Vi tượng trưng cho sự bi quan, yếm thế, thường gặp nghịch cảnh và luôn có chí xuất trần. Nếu đương số đi tu thì sẽ đạt được sự thanh nhàn và phúc đức.
Những Bộ Sao Tốt
- Tử Vi, Thiên Phủ tọa thủ (ở ngay cung Mệnh) hay giáp Mệnh (ở hai bên cung Mệnh). - Tử Vi, Thiên Tướng. - Tử Vi, Thất Sát. - Tử Vi, Vũ Khúc - Tử, Phủ, Vũ, Tướng - Tử Vi và các sao tốt Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Khoa, Quyền, Lộc, Long, Phượng, Quang, Quý, Đào, Hồng v.v... - Tử, Phủ, Kỵ, Quyền hay Tử, Sát, Quyền ở Tỵ hoặc Hợi.
Nhất là cách Tử Phủ Vũ Tướng có kèm các sao tốt kể trên. Đây là cách đế vương, báo hiệu một sự nghiệp lãnh đạo to lớn của một vị nguyên thủ quốc gia. Nếu không gặp sát tinh thì ngôi vị vững vàng, dễ tạo quyền bính trong thời bình. Ngược lại, nếu bị Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh đắc địa đi kèm thì sẽ đắc vị trong thời ly loạn, chiến tranh hoặc đất nước gặp cảnh gay go thử thách cần phải có sự tranh đấu với nhiều khó khăn, trở ngại.
Những Bộ Sao Xấu
- Tử Vi gặp Tuần hay Triệt thì trong đời thường gặp tai nạn, dù có chí lớn cũng không thể mưu thành đại sự được.
- Tử Vi, Thất Sát gặp Tuần hay Triệt thì mưu sự bất thành, chỉ có hư danh và hay gặp tai nạn trong cuộc đời.
- Tử Vi ở các cung Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) diễn tả một con người bất trung, bất nghĩa, bất hiếu vì khi Tử Vi đóng ở các vị trí này sẽ gặp Thiên La, Địa Võng (Thìn, Tuất) và có Phá Quân đi kèm. Nếu có được cát tinh đi kèm thì mới có uy quyền và danh tiếng. Tại các vị trí này, nếu Tử Vi gặp cả sao tốt lẫn sao xấu thì sẽ là người rất đặc biệt có nhiều mưu lược, và thủ đoạn, dám làm những việc bất nhân, bất nghĩa nhưng vẫn sử dụng được cả người tốt lẫn người xấu.
- Nếu Tử Phá thiếu các sao tốt thì con người bất nhân, bất nghĩa, độc ác, khát máu, tham nhũng và thường bị thất bại nặng hoặc phải phá sản một lần trong đời.
- Tử Vi có Tham Lang đồng cung biểu diễn một cuộc đời của một vị tu hành, xuất thế. Nhất là khi có hai sao Địa Không và Địa Kiếp thì điều này càng chắc chắn hơn nữa.
- Tử Vi gặp Không, Kiếp, Đào, Hồng là sổ yểu tử, chết sớm.
- Tử Vi gặp Kình, Đà, Quyền, Lộc là người có quyền lực danh vọng nhưng lòng dạ hung hiểm, độc ác, vô đạo, bất nhân.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phụ Mẫu
Tử Vi ở các cung Ngọ, Tý, hay có thêm Thiên Phủ, hoặc Thất Sát đồng cung thì cha mẹ giàu sang, sống lâu, giúp đỡ được con cháu, và có di sản để lại cho con cái.
Riêng trường hợp Tử Sát hay Tử Tham tại cung Phụ Mẫu thì cha mẹ bất hòa với nhau hay cha mẹ bất hòa với con cái. Trường hợp cung Phụ Mẫu có Tử Vi và Phá Quân đồng cung thì người con khắc cha mẹ, hoặc phải chịu cảnh mồ côi, hoặc phải sống xa cha mẹ, hạnh phúc gia đình bị kém. Gặp trường hợp này cần phải xét thêm hai sao Thái Dương (cha) và Thái Âm (mẹ) để biết rõ thêm sự tốt xấu nghiêng về cha hay mẹ.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phúc Đức
Những trường hợp tốt của sao Tử Vi với cung Phúc Đức là: - Ở Ngọ hay Tý. Tốt nhất là ở Ngọ. - Thiên Phủ hay Thiên Tướng đồng cung. -Thất Sát đồng cung. Nhưng trường hợp này vì gặp sát tinh nên phải xa họ hàng hay sống cuộc đời lưu lạc tha phương mới tốt.
Những trường hợp xấu cho cung Phúc Đức có sao Tử Vi là: - Tử Vi, Phá Quân đồng cung. - Tử Vi, Tham Lang đồng cung. - Tử Vi gặp các sao xấu, nhất là Không, Kiếp, Kình, Đà, Linh, Hỏa. Đây là trường hợp bất lợi nhất.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Điền Trạch
Tương tự như cung Phúc Đức, nếu cung Điền Trạch có sao Tử Vi và ở vào các trường hợp đã ghi cho cung Phúc Đức thì đương số sẽ có nhà cửa rộng lớn, tài sản phát triển dồi dào, có thể do thừa hưởng gia tài hoặc tự tay tạo dựng sự nghiệp vẻ vang.
Nếu cung Điền Trạch có Tử Vi mà gặp phải các sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang thì không giữ được của dù có gia sản lớn lao, hoặc phải chịu cảnh sa sút dần và có thể đi đến phá sản khi có Phá Quân đồng cung. Đặc biệt nếu có thêm các hung tinh khác thì có thể đi đến khánh tận và chịu cảnh vô sản, nghèo khổ.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Quan Lộc
Những bộ sao tốt và xấu cho sao Tử Vi ở cung Mệnh đều có thể áp dụng cho cung Quan Lộc. Tốt nhất là Tử Vi ở Ngọ hoặc đồng cung với ba chính tinh Thiên Phủ, Thiên Tướng và Thất Sát. Nếu cung Quan Lộc có Tử Vi đi với Thiên Tướng thì con người độc tài, hay tranh giành quyền lực. Tử Vi đi với Thất Sát thì có năng khiếu về võ nghiệp. Nếu đồng cung với Phá Quân và Tham Lang thì sẽ gặp sự thăng trầm, tai họa trong đường công danh, quan lộc, để cuối cùng phải chuyển qua doanh nghiệp, thương mại.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Thiên Di
Các cách Tử Vi ở Ngọ, Tý hay Tử Phủ, Tử Tướng, Tử Sát đều tốt. Có nghĩa là đương số sẽ gặp hoàn cảnh xã hội thuận lợi tốt đẹp, cuộc sống luôn gặp môi trường thuận tiện. Đây là một con người sinh ra đã gặp mọi thời cơ thuận lợi, tốt đẹp, nhiều người giúp đỡ, thường giao tiếp với bậc quyền quý, cao sang, càng ra ngoài xã hội nhiều thì cuộc đời càng may mắn, luôn được nhiều người tín nhiệm giúp đỡ.
Trái lại nếu Tử Vi ở cung Thiên Di mà gặp các sao Phá, Tham hay các sát tinh khác thì thường gặp nhiều nghịch cảnh xã hội, thường bị người ngoài dèm pha, hãm hại, có thể chết tha phương hoặc bị ám sát.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tật Ách
Tử Vi là sao vua và là phúc tinh nên đóng ở cung Tật Ách có năng lực giải trừ mọi tai nạn, bệnh tật, hiểm họa trong đời. Đây là sao cứu giải hoạn nạn mạnh nhất trong các sao và có hiệu lực cứu giải như Thiên Phủ, Thiên Lương. Trong trường hợp cung Tật Ách có sao Tử Vi và đồng cung với sao Phá Quân thì năng lực giải cứu của sao Tử Vi cũng không bị suy giảm.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tài Bạch
Tử Vi cũng là một sao chủ về tài bạch cho nên Tử Vi đóng ở cung Tài Bạch mà được miếu địa hay vượng địa và không gặp Tuần hay Triệt án ngữ thì sẽ bảo đảm được một gia sản tiền bạc đồi dào.
Thêm nữa, nếu sao Tử Vi đi kèm với các sao chủ về tiền bạc, của cải như Thiên Phủ, Vũ Khúc thì càng thịnh vượng hơn nữa. Gặp những trường hợp này, đương số sẽ có trách nhiệm giữ về tiền bạc, kho lẫm như ngân hàng hay tài chánh. Nếu đồng cung với Thất Sát cũng sẽ làm giàu dễ dàng nhanh chóng. Nhưng nếu cung Tài Bạch ở Tý thì sẽ kém hơn các trường hợp trên. Nếu Tử Vi đồng cung với Phá Quân thì trong đời sẽ trước nghèo sau giàu nhưng cũng có lần phá sản. Đồng cung với Tham Lang thì tài sản sư nghiệp tầm thường, dù có của cải gia sản thì cũng sẽ bị sa sút dần. Cuối cùng nếu Tử Vi ở cung Tài Bạch mà gặp các sát tinh nặng khác thì trong đời ít nhất cũng có một lần bị phá sản.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tử Tức
Tử Vi ở cung Tử Tức thì đương số sẽ có cả con trai lẫn gái. Nếu miếu địa, vượng địa hay đắc địa hoặc đồng cung với Thiên Phủ hay Thiên Tướng thì nhiều con cái và con cái đều khá giả. Nếu Tử Vi đi với Thất Sát thì khó nuôi con, nhất là gặp thêm các sao xấu thì có thể ít con hoặc phải chịu cảnh hiếm muộn. Nếu cùng với Phá Quân hay Tham Lang thì ít con cái và con sẽ xung khắc với cha mẹ.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phu Thê
Tốt nhất là cung Phu Thê ở Ngọ và có Tử Vi đồng cung với Thiên Phủ. Trường hợp này diễn tả một gia đình vợ chồng tương đắc tâm đầu ý hợp, luôn có hòa khí và chung thủy trong đời sống vợ chồng.
Cung Phu Thê có Tử Vi và Thiên Tướng thì cả hai vợ chồng đều rất can trường cứng cỏi. Vì vậy vợ chồng có thể gặp cảnh xích mích, bất hòa nhưng cuộc sống gia đình vẫn tốt đẹp. Thông thường thì vợ hay chồng sẽ là người con trưởng trong gia đình, nếu không là con trưởng thì cũng sẽ đoạt trưởng, nghĩa là có quyền quyết định trong gia đình và được các anh chị em nể phục, kính trọng.
Nếu Tử Vi gặp Sát hay Tham thì muộn lập gia đình mới tốt. Nếu gặp Phá thì vợ chồng thường bị hình khắc chia ly. Nếu gặp Tham thì chỉ sự bất hòa vì Tham Lang là sao chỉ về sự ghen tuông, chiếm hữu.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Huynh Đệ
Cung Huynh Đệ có sao Tử Vi thì đương số có anh cả hoặc chị cả vì sao Tử Vi chỉ về người đứng đầu trong anh chị em. Trường hợp cung Huynh Đệ có sao Tử Vi ở Ngọ hoặc đồng cung với Thiên Phủ hay Thất Sát thì gia đình có đông anh em, khá giả và hòa thuận. Nếu có Thiên Tướng đi kèm thì anh em tuy khá giả nhưng hay có sự bất hòa vì Thiên Tướng là sao chủ về sự cạnh tranh, cứng cõi, ương ngạnh. Trường hợp Tử Vi đồng cung với Phá Quân thì sẽ có anh em dị bào, cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha và anh em ruột thường hay bất hòa. Nếu Tử Vi đi với Tham Lang thì anh em ly tán, nghèo khổ, vất vả và nếu gặp các sát tinh khác thì anh em có thể có người bị tử nạn, hao hụt lần lần hay trong anh chị em có người là phần tử xấu trong xã hội.
Tử Vi Khi Vào Các Hạn
Sao Tử Vi là đế tinh, không có vị trí hãm địa nên khi vào các đại hạn, hay tiểu hạn tại các cung miếu, vượng hay đắc địa hoặc đồng cung với các sao Thiên Phủ, Thiên Tướng, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc thì rất tốt mọi việc đều may mắn, thuận lợi. Nếu gặp Khôi, Việt thì càng vẻ vang hơn. Riêng các vị trí bình hòa như Tý, Hợi, Mão, dậu thì năng lực sẽ kém tốt hơn, nhưng nếu gặp bất lợi thì khó tránh khỏi.
Sao Tử Vi gặp các sát tinh Không, Kiếp, Kỵ, Hình thì bị đau ốm, bệnh hoạn hoặc mất của hay bị kiện tụng. Gặp Kình, Đà, Kỵ thị bị đau ốm hay bị lừa gạt. Đặc biệt khi Tử Vi gặp Tuần và Triệt ở cả đại hạn lẫn tiểu hạn lại thêm Kình, Đà, Không, Kiếp (chưa kể các nguyệt hạn, nhật hạn và thời hạn) như một vị vua mà bị nhiều quân phiến loạn vây hãm thì tính mạnh có thể bị lâm nguy.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Trong tử vi sao Thiên cơ có tính chất là động, chủ về người giỏi vận động, phản ứng linh hoạt, hiếu học. Tuy nhiên thưòng học nhiều mà không hiểu sâu, tham vọng quá lớn dẫn đến thường không được như lý tưởng mà lo lắng bất an.
Thiên cơ tọa Mệnh (hoặc Thiên cơ và tổ hợp của nó), hoặc đại hạn đến Thiên cơ, xử sự có lý.
Thiên cơ tọa Mệnh trong Lá số Tử vi không nên đơn độc hành động, nên giúp ngưòi khác lập kế hoạch (như Trương Lương là mưu sĩ cũng là văn thần có công giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng Vũ trong chiến tranh Hán sở).
Thiên cơ kỵ nhất có sát tinh đồng cung, gặp đại, tiểu hạn dễ phát sinh hiện tượng không tốt.
Mệnh có Thiên cơ thêm sát tinh đồng cung không nên kinh doanh, chỉ nên làm công chức văn phòng hoặc nhân viên hành chính.
Thiên cơ tọa thủ cung Mệnh, Tham lang tọa thủ cung Thân, chủ về không có việc cũng bận rộn.
Thiên cơ tọa Mệnh là người mơ ước cao xa. Thiên cơ và tổ hợp tinh hệ của nó nếu tọa cung Điền trạch phải chú ý nhà cửa hoặc phong thủy văn phòng, lại chủ về không được kế thừa gia nghiệp tổ tiên. Nếu được kế thừa thì gia nghiệp cũng nhiều biến động.
Trong xem tử vi Đại, tiểu hạn gặp Thiên cơ chủ về có sự thay đổi, như: Môi trưòng biến động, điều chức, chuyển nhà, vị trí giường thay đổi… Thêm cát tinh chủ về thêm phúc thêm tài.
Thiên cơ hóa kỵ chủ về dễ bị ngã dẫn đến bị thương, thêm sát tinh chủ về mọi chuyện không thuận, phải cai rượu, dễ vì rượu mà hỏng chuyện. Lại chủ về trong nhà không yên, phiền não, chán nản, không được yên ổn.
Thiên cơ ưa nhất đồng cung với Thiên lương, sách có nói “giỏi bàn luận chuyện binh”. Nên làm tham mưu quân sự hoặc làm về máy tính, y học, xem mệnh…
Theo tử vi số mệnh Thiên cơ và Thái âm đồng cung chủ về mệnh coi trọng tình cảm, nên sớm rời xa quê ra ngoài lập nghiệp. Ngưòi có Thiên cơ tọa Mệnh có ưu điểm là linh hoạt, khuyết điểm là hay thay đổi mà không ổn định.
Thiên cơ không ưa đồng cung với Cự môn, sách có nói “gia đạo suy vong”. Bản thân có sự nghiệp và tình yêu đều gặp nhiều trắc trở, lận đận. Dù là nam hay nữ đều dễ phạm đào hoa.
Thiên cơ tại Tý, Ngọ chủ về mệnh nữ cát lợi, biết quản lý việc gia đình.
Người xưa không ưa mệnh nữ có Thiên cơ tọa cung Mệnh trong lá số tử vi vì tình cảm có trắc trở hoặc nói tình cảm dễ có sự thay đổi, đa sầu đa cảm hoặc có bệnh thần kinh.
Thiên cơ tọa cung Tử nữ chủ về con cái không nhiều, chỉ có 1 đến 2 con hoặc sinh con muộn. Thiên cơ tọa cung Phúc đức chủ về mệnh coi trọng cuộc sống tinh thần hơn cuộc sống vật chất.
(Ảnh chỉ mang tính minh họa) |
Khi đã thích một ai đó, họ sẽ lặng lẽ quan sát, suy xét đối phương từ nhiều phương diện: trình độ học vấn, đối xử với mọi người xung quanh, hoàn cảnh gia đình,... Khi đã thật sự hài lòng về người này, họ sẽ lên phương án "tấn công" ngay lập tức.
Sau khi kết hôn, người tuổi Mão thuộc nhóm máu A thường rất tôn trọng ý kiến của người bạn đời. Trong gia đình, hai vợ chồng có quan hệ bình đẳng luôn lắng nghe và tiếp thu ý kiến của nhau. Ít khi hai vợ chồng xảy ra tranh cãi, chỉ đạo sai khiến nhau mà cùng nhau xây dựng tổ ấm hạnh phúc.
Nam giới tuổi Mão thuộc nhóm máu A nên chọn bạn đời là những phụ nữ năng động và hoạt bát. Nữ giới nên chọn "một nửa" của mình là người đàn ông hài hước, phóng khoáng, có nhiều thành tích trong sự nghiệp. Những người cùng tuổi Mão không nên kết hôn với nhau vì có nhiều nét tương đồng mà hai người sẽ không thể chịu đựng được nhau trong thời gian dài.
(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Mỗi khi tai qua nạn khỏi, thoát khỏi lưỡi hái tử thần, người ta lại nói rằng may mắn “phước 70 đời” hay “phước do ông bà để lại”… Dưới góc nhìn Phật giáo, điều này có nghĩa gì?
Ảnh minh họa |
► Mời các bạn: Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người |
Một số gợi ý về phong thủy khi chọn địa điểm mở cửa hàng.
1. Trước khi bạn xem ngày tốt để xây dựng cửa hàng thì bạn phải chọn địa điểm tốt, nơi có nhân khí vượng nhất, điều đầu tiên là phải xem “tam lưu”, tức xa lưu (luồng xe), nhân lưu (luồng người) và thủy lưu (luồng tài lộc). Những chỗ nhân khí vượng, nhiều người, xa lưu nhiều mà tốc độ không cao, nhân lưu nhiều mà không đến nỗi tắc nghẽn thì chỗ đó chính là nơi phát tài.
2. Hình dáng cửa hàng phải phù hợp với phong thủy. Hình dáng vuông vắn là tốt nhất, kị hình dáng có hình tam giác và không đều.
3. Cửa của cửa hàng phải mở ra hướng cát khí. Cửa là nơi nạp sinh khí và cát khí, mặt tiền và cửa mà mở to được thì mới thu hút được nhiều khách hàng. Phải xem xét độ dài ngắn của con đường trước cửa và hướng đi lại của mọi người.
Lộ (đường) là thủy, thủy là tài (lộc). Cửa hàng nhìn chung phải mở thành thế “nghịch thủy”, tức mở cửa đón “thủy” vào. Nếu dòng người đến từ bên trái thì mở cửa bên phải, người đến từ bên phải thì mở cửa bên trái.
Trước cửa của cửa hàng tối kị có đường hình cắt kéo, đường vòng cung ngược, vì không những không tụ khí mà còn phá tài hữu tai (phá tài lộc có tai ương). Cửa của cửa hàng kị các kiểu xung xạ, khiến cho tài khí bị tổn thương.
4. Cửa hàng kị đối diện hoặc sát cạnh ngân hàng. Theo quan niệm phong thủy thì những địa điểm như vậy đã bị tài khí của ngân hàng chiếm hết, người khác không thể phát được đại tài.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Cách nhìn là “thường biến” nó thay đổi cho ta nhận định tức thời để có các thông tin bổ ích trong xử thế.
1. Nhìn soi mói: Người hiếu kỳ tò mò, lắm chuyện.
2. Nhìn thẳng: Người trung thực, đàng hoàng.
3. Nhìn trộm: Người mưu mô, thủ đoạn, không đoan chính.
4. Nhìn lấm lét: Người không đàng hoàng, nhỏ nhen, gian sảo.
5. Nhìn lơ đễnh: Tính phớt đời, trí tuệ yếu.
6. Nhìn xa xăm: Người giầu ý tưởng, trí tuệ phong phú.
7. Nhìn trợn ngược lên: Cục cằn, yểu tướng.
8. Nhìn xuống: Dối trá, không dũng khí, thâm độc.
9. Mắt hay nhìn ngước lên: Tham vọng lớn lao, tâm đức tốt.
No1. Nữ tuổi Mùi
Những người tuổi Mùi luôn xem hôn nhân là chuyện đại sự và gắn liền suốt cuộc đời, cho nên họ không thể chấp nhận được việc người yêu không chung thủy. Nếu chẳng may phát hiện ra người yêu của mình lăng nhăng, cô nàng tuổi Mùi dịu dàng sẽ lật ngược thế cờ - họ trở nên tức tối và sẵn sàng phục thù bằng mọi cách, tuyệt đối khiến bạn ăn không nổi. Chúa ghen chính là quý cô tuổi Mùi đấy bạn.
No2. Nữ tuổi Tý
Những người tuổi Tý vốn vô cùng tinh tế, nhạy cảm trong tình yêu. Hai người đang đi trên đường, nếu bạn nhìn vu vơ cô gái nào đó, cô nàng tuổi Tý sẽ hiểu rằng trong mắt bạn không còn cô ấy nữa, bạn đã để trái tim về nơi khác... Nếu nghiêm trọng hơn, cô ấy sẽ khiến cuộc sống của bạn bỗng chốc rơi vào vực thẳm chỉ vì tính ghen tuông thái quá.
No3. Nữ tuổi Dậu
Những cô nàng tuổi Dậu có tiêu chuẩn vô cùng khắt khe trong việc "tuyển chọn" người yêu. Họ vốn theo đuổi sự hoàn mỹ. Mặt khác, dục vọng chiếm đoạt của họ vô cùng mạnh. Khi đã quyết định yêu bạn, họ sẽ không cho phép bạn có bất cứ bí mật nào liên quan tới đối tượng khác giới. Cũng vì vậy, tỷ lệ con giáp tuổi dậu ly hôn là khá cao - họ không chấp nhận sự thiếu chung thủy, dù thế nào chăng nữa.
No4. Nữ tuổi Ngọ
Nữ tuổi Ngọ cá tính mạnh, thích gì làm đấy, cuộc sống của họ đầy màu sắc nhưng lại rất nghiêm khắc với người yêu. Giả sử nhìn thấy người yêu mình đi với người con gái khác và nói cười không ngớt, họ sẽ lập tức nổi đóa lên. Nữ tuổi Ngọ sẽ không lập tức tấn công, nhưng họ sẽ không ngừng hoài nghi bạn, khi không vui sẽ lập tức phát tác khiến bạn phải khiếp sợ.
Anh Anh (theo D1xz)
► Mời các bạn xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị |