Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tính cách, vận mệnh người tuổi Mão mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Ngũ hành và con giáp có mối liên hệ mật thiết với nhau. Cùng xem vận mệnh người tuổi Mão theo ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ có sự khác biệt như thế nào nhé.
Tính cách, vận mệnh người tuổi Mão mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngũ hành và con giáp có mối liên hệ mật thiết với nhau. Hãy cùng xem vận mệnh của người tuổi Mão theo ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ có sự khác biệt như thế nào nhé!  
Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Dần mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ


Người tuổi Mão tính tình hiền dịu, chu đáo, luôn quan tâm chăm sóc cho mọi người. Họ rất giỏi giao tiếp xã hội, có nhân duyên tốt đẹp, biết hưởng thụ và thưởng thức cái đẹp, biết lắng nghe và giữ bí mật cho người khác.

 

Vậy ngũ hành có ảnh hưởng gì tới con giáp này không? Theo tử vi thì vận mệnh người tuổi Mão mệnh Kim, Mộc, Thủy Hỏa, Thổ như thế nào? Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu bí mật này nhé.

 

Ngũ hành theo năm sinh tương ứng của người tuổi Mão được chia ra như sau:

 

Người sinh năm Quý Mão ngũ hành thuộc Kim: 1963, 2023

Người sinh năm Tân Mão ngũ hành thuộc Mộc: 1951, 2011

Người sinh năm Ất Mão ngũ hành thuộc Thủy: 1915, 1975

Người sinh năm Đinh Mão ngũ hành thuộc Hỏa: 1927, 1987

Người sinh năm Kỷ Mão ngũ hành thuộc Thổ: 1939, 1999  

 

Bảng tra mệnh theo năm sinh cho tất cả các tuổi trên ## cũng sẽ giúp bạn tra cứu mệnh ngũ hành của mình một cách nhanh chóng.

 

Để tìm nội dung cần xem nhanh hơn, mời bạn click vào Mục lục dưới đây.

 

MỤC LỤC

 

Tuổi Mão mệnh Kim

Tuổi Mão mệnh Mộc

Tuổi Mão mệnh Thủy

Tuổi Mão mệnh Hỏa

Tuổi Mão mệnh Thổ

 

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Mao menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

Tuổi Mão mệnh Kim

 

Người sinh năm Mão ngũ hành thuộc Kim tính cách hoạt bát, sôi nổi, vì thế mà cuộc sống của họ thường rất bận rộn và phong phú đủ sắc màu. Họ có nhiều niềm đam mê và sẵn sàng theo đuổi nó tới cùng, người này thường mải mê làm việc tới quên ăn quên ngủ.

 

Nhân duyên của người này rất tốt, họ có khiếu ăn nói, khiến cho người đối diện cảm thấy thoải mái như được uống một ngụm nước mát lành giữa trưa hè nóng bức. Nếu ngăn cách họ với xã hội, người tuổi Mão mệnh Kim sẽ cảm thấy cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, đó cũng chính là lý do thôi thúc họ tạo dựng mối quan hệ xã giao thật tốt.

 

Tính cách người này lương thiện và có phần bảo thủ, không thích cạnh tranh không lành mạnh. Họ thích thử thách, cạnh trang công bằng, thường hay kết bạn với những người có tham vọng và dã tâm lớn, dễ thành tri kỉ với người có chí tiến thủ, ham học hỏi.

 

Trong công việc, người tuổi Mão mệnh Kim khá lặng lẽ, họ toàn tâm toàn ý làm công việc của mình, không đòi hỏi mà rất có trách nhiệm với những việc được giao. Tuy nhiên, họ không thích hợp triển khai những kế hoạch lớn, có thời gian lâu dài.

 

Nếu bạn có ý định thôi việc hoặc nhảy việc, hãy kiên nhẫn, cho bản thân thêm thời gian suy nghĩ kĩ càng và lên kế hoạch thực tế cho mình. Trong khoảng thời gian này, áp lực và mệt mỏi khiến bạn muốn buông xuôi, vậy thì hãy dùng một phần số tiền tích lũy được cho bản thân, đi chơi một chuyến cho thư thái tinh thần, trở về bắt tay gây dựng cuộc sống mới.

 

Có trí tưởng tượng phong phú, người tuổi Mão mệnh Kim luôn khao khát trở thành người tài giỏi xuất chúng. Họ ghét sự tầm thường, nhàn chán của cuộc sống. Trong tình yêu, họ cũng tỏ rõ cá tính của mình.

 

Đây là người hết lòng vì tình yêu. Không yêu thì thôi, đã yêu thì họ nguyện chết đi sống lại với tình cảm của mình. Nhiệt tình như lửa, không cần biết đến cảm xúc của đối phương nên đôi khi họ trở nên mù quáng trong tình yêu.

 

Tuy nhiên, cũng chính nhờ sự nhiệt tình và chủ động mà đã nhắm tới ai thì đa phần họ đều theo đuổi được. Nam hay nữ đều như vậy, đây cũng được coi là điểm cuốn hút, hấp dẫn của họ đối với người khác giới.

Bạn có biết Tuổi Mão hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân không?

 

Vận mệnh người tuổi Mão theo ngũ hành Kim khá có duyên với tài lộc, thường hay có được vận may tài lộc đầy nhà. Song người này nên cực kì cẩn trọng, bởi tiền bạc có nhiều trong tay nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể có chuyện bất trắc xảy ra khiến phá tài hao của.

 

Nên hạn chế tiếp xúc với lĩnh vực đầu tư, tuyệt đối tránh xa cờ bạc, vay nặng lãi. Nên thắt chặt chi tiêu, tránh những cuộc vui chơi sa đọa không cần thiết.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Mao menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

Tuổi Mão mệnh Mộc

 

Người tuổi Mão mệnh Mộc thông minh lanh lợi, có nhiều ý tưởng độc đáo. Người khác thường có ấn tượng vì sự vui vẻ lạc quan của họ, song kì thực đây lại là người có nội tâm thâm trầm, thậm chí có phần thâm hiểm khi họ nhớ kĩ và ghi thù từng chuyện nhỏ.

 

Về đường tình duyên, tình cảm của người tuổi Mão mệnh này không mấy ổn định, trải qua khá nhiều sóng gió thăng trầm. Họ là người kiên định trong tình yêu, nếu lỡ duyên không thành thì phải mất một khoảng thời gian rất lâu mới vượt qua được bóng đen tâm lý.

 

Người này có khuynh hướng dễ trở nên ích kỉ, chỉ nghĩ cái lợi cho mình. Chính vì thế, trong mọi chuyện nên chú ý giữ công bằng. Nếu có thể chân thành đối xử, chu đáo lo nghĩ cho người khác thì chắc chắc gia đình và sự nghiệp sẽ càng thêm viên mãn.

 

Mão Mộc là người không thích nói thẳng ra suy nghĩ của mình, vì thế mà mọi người khó có thể biết được điều thực sự mà họ nghĩ là gì. Những người xung quanh chỉ có thể nhìn thấy bề ngoài hiền hòa của họ, hiếm có ai có thể thực sự lại gần và biết rõ con người Mão Mộc.

 

Vận mệnh của người tuổi Mão mệnh Mộc khá tốt. Họ có chuẩn bị cho tuổi già từ rất sớm. Họ luôn muốn làm rất nhiều việc, cũng may mắn khi hễ gặp khó khăn lại có quý nhân nâng đỡ, giúp họ giải quyết vấn đề hoặc chỉ cho con đường phát tài phát lộc, bù đắp lại những tổn thất trước đó.

 

Trong quan hệ xã hội, nên chú ý giữ gìn hòa khí với đồng nghiệp và cấp dưới, tốt nhất không nên gây tranh cãi, mâu thuẫn với người khác.

 

Với những bạn còn đang ngồi trên ghế nhà trường, trong khoảng thời gian này hãy tập trung vào chuyện học hành, đừng để những suy nghĩ về tiền bạc trong xã hội làm ảnh hưởng. Người tuổi Mão mệnh Mộc thích náo nhiệt nên có phần ham chơi, nên kiểm soát bản thân.

 

Người này cũng chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi cảm xúc. Họ dễ cảm thấy cô đơn, cảm xúc lên xuống thất thường, buồn vui bất chợt. Những lúc đó, hãy nói chuyện, tâm sự cùng bạn bè, người thân, người yêu để giải tỏa tâm trạng.

 

Bình thường Mão Mộc là người chi tiêu khá phóng tay, thường xuyên xuất hiện những khoản mua sắm giá trị lớn, mà thường thì là cho chuyện ăn uống là chủ yếu. Nên tiết kiệm hơn về tiền bạc. Bạn có thể thử bắt đầu từ những khoản đầu tư nho nhỏ hay mua cổ phiếu của công ty, cơ hội thành công khá cao.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Mao menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

Tuổi Mão mệnh Thủy

 

Người tuổi Mão mệnh Thủy tính cách ôn hòa, song cũng rất nhạy bén, linh hoạt, có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh khác nhau, có khả năng phát huy bản thân ở mức cao nhất. Khuyết điểm của người này là thiếu nguyên tắc, dễ chịu ảnh hưởng bởi người khác.

 

Người này tâm niệm mọi chuyện “tùy duyên”, cũng chính vì lý do này mà họ thường có cái nhìn khá bi quan và thụ động, thích ổn định an nhàn, theo đuổi sự sung sướng hạnh phúc. Họ làm việc không cố gắng hết mình, hiếm khi tạo áp lực cho bản thân, hết trách nhiệm là không để ý đến nữa.

 

Tuy nhiên, nếu có người bên cạnh quan sát, đốc thúc, không ngừng cổ vũ, tạo niềm tin thì người này sẽ có thêm động lực và thu được thành quả khá tốt đẹp. Mão Thủy là người dễ dựa dẫm vào người mà họ tin tưởng, nhưng hễ mất đi chỗ dựa này thì tinh thần họ sẽ rất dễ bị suy sụp. Đây là khuyết điểm cần khắc phục, bởi con người luôn phải học cách độc lập, không ai nắm tay nhau được cả ngày.

 

Tính cách có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp của người tuổi Mão. Khi tinh thần sa sút thì họ khó tập trung vào công việc, đặc biệt là những công việc đòi hỏi sự chuyên nghiệp và chính xác thì càng có khả năng mắc sai lầm. Nên điều chỉnh cảm xúc của bản thân, khống chế mình, không để cảm xúc ảnh hưởng đến công việc quá nhiều.

 

Khả năng giải quyết việc riêng tư của Mão Thủy không được tốt lắm. Họ dễ để cảm xúc dẫn dắt, vì những chuyện không đâu mà trút giận lên người khác, cũng rất dễ nảy sinh tranh cãi với cấp trên, cản trở tiền đồ phía trước. Nếu muốn sự nghiệp hanh thông, vạn sự như ý thì trước tiên phải học cách kiểm soát bản thân.

 

Vận thế tình cảm của người tuổi Mão mệnh Thủy không có nhiều sóng gió, mọi chuyện diễn ra bình bình, đôi lúc xuất hiện niềm vui bất ngờ nhưng thường rực rỡ quá mức chịu đựng. Họ khó tìm được người tâm đầu ý hợp, cũng khắt khe trong việc lựa chọn bạn đời. Nên thay đổi thái độ và tích cực hơn trong chuyện tình duyên.

 

Những người đã có đôi hay đã kết hôn gặp khá nhiều vấn đề rắc rối trong cuộc sống, chi phối tình cảm người này, do đó dễ nảy sinh tranh cãi với nửa kia. Nên học cách nhẫn nhịn, yêu thương người bên cạnh mình.

 

Sự dịu dàng cũng có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của người tuổi Mão mệnh Thủy. Họ dễ bị kẻ xấu lợi dụng, dễ bị lừa gạt, nên rèn luyện cho mình khả năng quan sát và phán đoán sự việc, nhất là trong chuyện tình cảm. Nếu gặp vấn đề về sức khỏe, nên lập tức đến bệnh viện kiểm tra, đừng sợ tốn tiền mà ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân.

 

Người này khá may mắn, cho dù gặp khó khăn về tiền bạc nhưng cũng nhờ sự trợ giúp của người khác mà vượt ải. Họ cũng khá khéo léo khi sử dụng nguồn vốn của người khác để đầu tư sinh lời cho bản thân.

 

Mão Thủy có bản lĩnh, có đủ tự tin để đối phó với trở ngại, đặc biệt là những chuyện xui rủi xảy tới bất ngờ. Họ nhanh chóng trấn tĩnh bản thân và tập trung vào hóa giải nguy cơ. Bạn bè, đồng nghiệp, người cùng hợp tác là những trợ thủ đắc lực cho người này. Nên cố gắng giữ mối quan hệ tốt đẹp, đừng vì chuyện vặt mà gây mất tình đoàn kết.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Mao menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

Tuổi Mão mệnh Hỏa

 

Người tuổi Mão mệnh Hỏa sống phóng khoáng, độ lượng, khoan dung hiền hậu với người. Họ thông minh linh hoạt, làm việc nghiêm túc, có tố chất lãnh đạo. Người này có tư duy sáng tạo, cái nhìn độc đáo, biết dùng người tài, còn biết bồi dưỡng lớp người kế cận, là những người giáo viên bẩm sinh.

 

Tuy nhiên, do mang trong mình lý tưởng cao xa, tham vọng to lớn, lại luôn thích làm người chỉ huy nên Mão Hỏa khiến người khác có ấn tượng khá kiêu căng, tự đại. Ngoài ra, họ còn thích sử dụng sức ảnh hưởng của mình đối với số đông, dùng cách khơi gợi sự cổ vũ để giúp bản thân đạt được mục tiêu nên có thể khiến cho những người xung quanh cảm thấy áp lực nặng nề.

 
Mời bạn đọc thêm: Phong thủy tăng vận may tình cảm cho người tuổi Mão.
 

Khi làm việc, họ tỏ rõ mình là một người lý trí và bình tĩnh, tự rèn luyện cho mình khả năng học hỏi và ghi nhớ từ kinh nghiệm của người đi trước, rất nhanh nhạy nắm bắt thời cơ, không có suy nghĩ lười biếng hay đi đường tắt.

 

Tính xấu đổ lỗi, trút giận lên người khác mỗi khi không rất có thể khiến cho các mối quan hệ xã giao của người này mất đi sự hài hòa. Nên giữ lời ăn tiếng nói, suy nghĩ kĩ trước khi hành động để tránh hối hận về sau.

 

Trong chuyện tình cảm, khi gặp chuyện không vui, họ thường xả ngay với người yêu, thậm chí có khi không khống chế được bản thân mà có những lời nói gây tổn thương, đau khổ cho đối phương. Vì thế, khi thấy buồn bã, Mão Hỏa hãy cố gắng suy nghĩ lý trí, đừng để người yêu trở thành “sọt rác” chứa mọi nỗi niềm của mình, nhất là những khi đi xa, đi du lịch cùng nhau.

 

Người này có thể gặp phải những vấn đề xấu về tiền bạc bất ngờ xảy đến. Nhất định phải nhớ kĩ, không được hoảng loạn, tốt nhất nên đầu tư vào bất động sản hoặc các vật dụng có giá trị cao.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Mao menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
mão ngũ hành

 

Tuổi Mão mệnh Thổ

 

Người tuổi Mão mệnh Thổ có khát vọng khá lớn, chí tại bốn phương. Họ mơ ước tự tay gây dựng cho mình một đế chế, tay trắng làm nên sự nghiệp. Cũng chính vì chí hướng như vậy nên người này thường xa gia đình từ rất sớm, tự mình lập nghiệp, phát triển ở bên ngoài, sau này thành đạt mới trở về vinh quy bái tổ.

 

Tính cách họ có phần cao ngạo, lại có tham vọng lớn, thấy cái lợi không biết điểm dừng, thậm chí có phần hơi tham lam. Nếu biết nghe lời khuyên bảo, góp ý của người khác, biết tìm cho mình điểm dừng thì số tài sản tích lũy được thời trẻ có thể bảo toàn.

 

Tính cách thẳng thắn, thoải mái vô tư, song lời nói và hành động của họ đôi khi hơi thái quá, đem lại cảm giác lỗ mãng, không hiểu lãng mạn là gì. Họ luôn yêu cầu rất cao trong công việc, cũng có khả năng biến hóa linh hoạt, năng lực xuất chúng hơn người.

 

Họ chú ý đến tiểu tiết, rất hợp làm những nghề đòi hỏi sự tỉ mỉ kĩ càng. Tuy nhiên, họ rất nhanh chán nản, cần luôn tự tạo động lực làm việc cho bản thân thì mới có thể theo đuổi mục tiêu hết mình.

 

Sức khỏe của Mão Thổ không được tốt lắm. Với nam giới, ra ngoài họ là người hoạt bát, nhưng về tới nhà thường trở nên trầm lặng, suy tư. Nữ giới là người có sức hút rất lớn với người khác phái. Họ dịu dàng hiền thục, thân thiện dễ gần, không chê trách ai bao giờ, được rất nhiều người yêu mến, song cũng có không ít kẻ ganh đua ghen tị.

 

Vận mệnh người tuổi Mão mệnh Thổ về cơ bản khá tốt, nhưng người này không có tài quản lý tài chính, tiền vào nhiều mà không cẩn thận thì ra cũng nhiều. Đừng nên tùy tiện cho người khác vay tiền, cũng hạn chế vay tiền người khác, càng không được lại gần chốn cờ bạc kẻo dễ sa chân lỡ bước.


An An 

Tính cách người tuổi Mão nhóm máu O: Phóng khoáng, quảng giao Tổng quan tử vi 12 tháng năm Đinh Dậu 2017 cho người tuổi Mão

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách, vận mệnh người tuổi Mão mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Chùa Phúc Thắng - Thái Bình

Chùa Phúc Thắng tọa lạc tại Huyện Vũ Thư, Tỉnh Thái Bình nay còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị rất lớn về mặt lịch sử cũng như nghệ thuật
Chùa Phúc Thắng - Thái Bình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Phúc Thắng còn có tên gọi khác là Chùa Hội Tương truyền, vào thế kỉ IX sau công nguyên, một nhà phong thủy nổi tiếng kiêm trinh sát lành nghề về địa lí, kinh tế, quân sự đã đến làm kinh lược sứ An Nam đó là Cao Biền.

Suốt thời gian nhậm chức ông ta đi khắp các châu, quận xem xét ghi vẽ các thế đất, các kiểu đất. Sau đó, ông ra tay yểm triệt với hy vọng để đất An Nam không phát đế vương và không sinh ra được những con người kiệt xuất… Trong danh sách đó của Cao Biền có vùng đất Chiểu Lãng – Ba Đậu với dòng chữ nhấn mạnh bên cạnh: Địa phát khôi khoa (Đất phát khôi khoa).

Trung tâm chính của vùng đất Chiểu Lãng – Ba Đậu ấy chính là làng Lạng (xã Song Lãng, thuộc huyện Thư Trì cũ và Vũ Thư nay) và Cao Biền có dùng hết phép yểm triệt hay không mà đất đây vẫn phát nhiều người hiền tài đến thế. Đó là Trần Củng Uyên – đỗ tiến sĩ khoa Bính Thìn 1496 triều Lê Thánh Tông, Đỗ Lí Khiêm – đỗ Trạng nguyên khoa Kỉ Mùi 1499…Và đặc biệt đã xuất hiện một danh nhân văn hoá với tư cách là một nhà Thiền học có nhiều ảnh hưởng đến giáo phái Hoàng Giang ở Việt Nam đó là Đỗ Đô – đó là vị thiền sư được tôn thờ trong Chùa Phúc Thắng, làng Lạng, xã Song Lãng, huyện Vũ Thư , tỉnh Thái Bình.

Căn cứ vào những những dấu tích và hiện vật còn lưu lại trong chùa, những gia phả của những dòng họ lớn trong xã…có thể khẳng định chùa Phúc Thắng có từ thời Lí nơi thờ Đỗ Đô.

Theo ngọc phả Từ Thượng và truyền thuyết dân gian Đỗ Đô tức Đỗ Sinh Công sinh ngày 9 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (1042) tức là năm Minh Đạo thứ nhất triều Lý Thái Tông. Thuở nhỏ, mặc dù con nhà nghèo nhưng Ngài rất chăm học, học rất giỏi. Ông nằm trong số rất ít người đã đi du học và thi đỗ khoa Bạch Liên ở Trung Quốc.

Đỗ Đô bình sinh luôn có ý thức mở mang việc học cho quê hương. Có thể xem ông là người thầy có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp học hành thi cử của làng Lạng. Đỗ Đô là bạn đồng đạo của Không Lộ và Đạo Hạnh. Ông được các phái đạo thuật thời bấy giờ suy tôn là Giáo chủ phái Hoàng Giang. Vừa có tài lại có đức nên Đỗ Đô được vua Lý Thánh Tông rất tin yêu, trọng dụng, phái thảo đường mà vua Lý Thánh Tông sáng lập ra đã truyền được 5 đời (với 17 vị thiền sư), Đỗ Đô thuộc đời thứ 3 tổ thứ 11 đứng sau Không Lộ thiền sư và Lí Anh Tông.

Với tài cao, đức rộng nên Đỗ Đô được vua Lý Thánh Tông rất tin yêu, kính trọng ban cho chức tăng quan đứng đầu hàng tăng sư, ban đạo hiệu Đạt mạn thiền sư không gọi tên để tỏ lòng kính trọng.

Ông có nhiều công lao đóng góp cho dân chúng trong làng, xã, huyện, tỉnh. Thương dân tình đói khổ khó khăn ông đã xin miễn thuế khoá tạp dịch cho dân, ngày ngày khuyên dân chăm việc nông tang, sửa bỏ thói hư tật xấu, sửa sang đường sá, góp công sức đắp đê sông Hoàng (khúc sông chảy qua địa phận Thư Trì cũ). Chính vì vậy mà Thái Bình – Song Lãng luôn được mùa no đủ.

Ông là người rất giỏi về y thuật tận tình chăm sóc cứu chữa chúng sinh. Ngay cả vua Lý Thánh Tông cũng đã được ông cứu chữa. Ngài còn tính được số mệnh nhà vua để vua sớm liệu việc triều chính.

Tháng Giêng năm Canh Tí (1071) vua Lí băng hà có di chiếu vời Thượng sư về triều giúp việc chính sự vì thái tử Càn Đức nối ngôi còn nhỏ quá. Sau khi thiền sư qua đời với những công lao đóng góp của Ngài, nên vua Lí đã cho dân làng lập đền thờ thiền sư trên nền hành cung hiện nay để dân Ngoại Lãng và du khách bốn mùa hương khói.

Chùa Phúc Thắng
Song Lãng – Chùa Phúc Thắng

Hiện nay, Chùa Phúc Thắng còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị rất lớn về mặt lịch sử cũng như nghệ thuật như Cồng – được đúc vào năm Quí Dậu (1693) tức năm Chính Hoà thứ 14 đời vua Lê Hy Tông do cụ Nguyễn Chí Công vị thượng tổ họ Nguyễn cúng, được sử dụng vào đêm giao thừa (người trông nom đền được quyền đánh 3 hồi cồng – với ý niệm dùng để truyền tải, truyền đạt lòng dân trăm họ đến với thần linh mong được thần linh che chở và cũng là để báo cho nhân dân lên đền lễ thánh lấy lộc rồi về xông nhà, tiếng cồng còn là hiệu lệnh báo lễ rước kiệu bắt đầu), “cột tịnh truỳ” làm bằng gỗ trầm hương (là một cái chày thanh tịnh đường kính 15cm, dài 0m80 đầu chày ở phía dưới hơi thắt, trổ hoa sen đặt trên một giá đỡ) được dùng làm linh khí cầu chúc cho quốc thái dân an. Ngoài ra trong chùa còn lưu giữ nhiều binh khí thời Lí.

Trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc chống thực dân Pháp chùa Phúc Thắng là căn cứ nuôi dấu, che chở cho cán bộ, du kích…Toàn bộ cụm di tích gồm trang miếu Thái Bảo Đỗ Vinh Công (tức Đỗ Đô), đền Thượng nơi thờ cúng thượng sư khi Ngài hoá thạch Tượng Tháp nơi thờ bà Đỗ Thị Doanh người góp nhiều công của xây dựng chùa, nhà thờ Tổ. Tất cả được thiết kế theo kiểu chữ Vương. Để tưởng nhớ tới công lao của vị thiền sư này cứ 2 năm hội được tổ chức một lần, Lễ hội được mở từ ngày mồng 6 đến 11 tháng giêng âm lịch. Trong lễ hội có rước kiệu thánh, lễ phật, cúng khoa, khai bát trí thực và thông hành tịnh truỳ và nhiều trò chơi dân gian khác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Phúc Thắng - Thái Bình

3 con giáp muốn thành công dựa vào chính mình

Có những người thành công phải dựa vào chính mình. 3 con giáp muốn thành công dựa vào chính mình là những ai, tham khảo nội dung dưới đây, bạn sẽ tìm thấy câu
3 con giáp muốn thành công dựa vào chính mình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Là con giáp thành công dựa vào chính mình, ưu điểm nổi bật của người tuổi Dậu chính là sức bền, sự kiên trì, nhẫn nại. Họ lại còn ham học hỏi, có chí tiến thủ và nhất là có thể định hướng đường đi nước bước cho tương lai từ khi còn khá trẻ. Thêm nữa, tuổi Dậu có cá tính mạnh, tinh thần tự chủ cao, luôn thích làm việc độc lập, dám làm dám chịu, chẳng mấy khi để người khác phàn nàn về mình.

  4 con giáp cố lắm vẫn không thoát nghèo trước tuổi 30 Hậu Trung Thu, 12 con giáp chú ý điều gì?


1. Tuổi Ngọ

 

Tính cách năng động, hoạt bát của người tuổi Ngọ không còn ai lạ lẫm nữa. Họ lúc nào cũng tràn đầy sức sống, không ngừng vận động, khám phá điều mới lạ cũng như dồn tâm huyết vào đam mê, sở thích.    Vốn sở hữu con mắt nhìn đời tinh tường nhưng sự thành bại trong công việc, sự nghiệp của họ lại không quyết định bởi điều đó. Then chốt vấn đề nằm ở chỗ họ có thể kiểm soát cảm xúc, cá tính của mình tốt hay không. Bởi ai cũng thừa hiểu rằng, một khi nóng vội, nổi cơn tức giận, tuổi Ngọ cũng như bao người khác, không thể bình tĩnh mà đưa ra quyết định chuẩn xác được, thậm chí rất dễ dẫn tới sai lầm.   Đa phần những thành công của con giáp này đều dựa vào bản lĩnh và sự nỗ lực của chính họ. Quý nhân giúp đỡ ư? Có, nhưng không nhiều, họ thành công dựa vào chính mình là chính.  
3 con giap muon thanh cong dua vao chinh minh hinh anh
 

2. Tuổi Dậu

 

Ưu điểm nổi bật của người tuổi Dậu chính là sức bền, sự kiên trì, nhẫn nại. Họ lại còn ham học hỏi, có chí tiến thủ và nhất là có thể định hướng đường đi nước bước cho tương lai từ khi còn khá trẻ. Thêm nữa, con giáp này sở hữu cá tính mạnh, tinh thần tự chủ cao, luôn thích làm việc độc lập, dám làm dám chịu, chẳng mấy khi để người khác phàn nàn về mình.   Chính vì cá tính ấy mà hầu như những thành công họ gặt hái được trên con đường công danh, sự nghiệp đều là tự lực cánh sinh, tự thân vận động là chủ yếu. Nếu có sự hỗ trợ nào đó, có lẽ chỉ về phương diện tinh thần mà thôi. Đây là tấm gương tiêu biểu cho việc thành công dựa vào chính mình đấy.

Tổng quan tình hình tài chính của 12 con giáp dịp Trung Thu Tết Trung Thu: 12 con giáp mặc đồ màu gì để khai vận phong thủy Tết Trung Thu: 12 con giáp chọn hướng xuất hành, du lịch cát lành
 
3 con giap muon thanh cong dua vao chinh minh hinh anh
 

3. Tuổi Tý

  Giữa công việc và đời sống thường nhật, có vẻ như tồn tại hai người tuổi Tý khác nhau. Một người nghiêm túc và khá lạnh lùng trong công việc lại sở hữu trái tim ấm áp, cách ứng biến khéo léo trong giao tiếp, nên không khó chiếm được cảm tình của người khác.   Điều quan trọng, trong suy nghĩ của tuổi Tý, nhờ ai đó giúp sức chẳng khác gì làm phiền họ. Bởi thế, họ hạn chế tối đa điều này. Việc gì tự mình làm được sẽ nỗ lực hết mình, thậm chí, trong lúc nước sôi lửa bỏng, tình huống cấp bách, họ vẫn tự mình đương đầu, chưa muốn nhờ cậy người khác. Thành công dựa vào chính mình nên thành công của họ thường vô cùng bền vững.
► Mời các bạn xem tử vi 2017 theo cung, mệnh bản thân đã được câp nhật tại Lichngaytot.com

Hoàng Lam
  Màu sắc giúp 12 con giáp phát tài trong dịp Trung thu
Sử dụng màu sắc hợp với tuổi và mệnh sẽ giúp gia chủ vượng đường tài lộc, đặc biệt là trong dịp Tết trung thu.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp muốn thành công dựa vào chính mình

Chuyện tình Ngưu Lang Chức Nữ

Tháng bảy âm lịch, nói chuyện về truyền thuyết Ngưu Lang - Chức Nữ, ngắm sao ngưu lang, sao chức nữ để mong được chứng kiến buổi gặp mặt của họ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngưu Lang - Chức Nữ hay Ông Ngâu - Bà Ngâu là một câu truyện cổ tích. Truyện có liên quan đến các sao Chức Nữ (Vega) và sao Ngưu Lang (Altair), dải Ngân Hà và hiện tượng mưa ngâu diễn ra vào đầu tháng Bảy Âm lịch ở Việt Nam.

nguu-lang-chuc-nu

Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng Thượng đế, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bễ việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông.

Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên ra ơn cho hai người mỗi năm được gặp nhau vào ngày 7 tháng Bảy Âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu. Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Vì mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai, họ cãi nhau chí chóe nên đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong.

Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh. Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông.

Tuy nhiên sau một thời gian vì cảm thương cho sự chia lìa của cặp vợ chồng, Ngọc Hoàng đã trả lại hình hài cho những người thợ mộc và ra lệnh họ phải làm một cây cầu thật vững chắc để Ngưu Lang và Chức Nữ có thể gặp nhau.Từ đó, Ngưu Lang và Chức Nữ được sống bên nhau Có lẽ do tích này mà vùng Bình Định (miền Trung Việt Nam) có từ "quạ làm xâu" nói về những con quạ vắng đi đâu một thời gian rồi trở về với cái đầu trọc lóc trong rất khôi hài Có dị bản khác cho rằng tên gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước (chim Khách) kết cánh tạo ra…

Truyện cổ tích Việt Nam lại kể rằng: Ngày xưa, ở làng Ngưu Gia nằm ở phía Tây Nam Dương có một chàng trai thông minh, trung hậu, tên là Ngưu Lang, vì cha mẹ qua đời sớm, Ngưu Lang đành phải sống cùng với anh trai và chị dâu. Chị dâu họ Mã, là người rất độc ác, thường hành hạ Ngưu Lang, bắt Ngưu Lang làm việc cật lực.

Một năm vào mùa thu, chị dâu bắt Ngưu Lang phải đi chăn bò, chị dâu chỉ cho Ngưu Lang mang theo 9 con bò, nhưng lại yêu cầu Ngưu Lang lúc về phải có 10 con mới được về nhà, Ngưu Lang không còn cách khác, buộc phải cùng với đàn bò, rời khỏi làng.

Ngưu Lang một mình chăn bò trên núi. Ở núi có cây cỏ tươi tốt um tùm, Ngưu Lang ngồi dưới gốc cây, rất buồn rầu lo lắng, không biết đến lúc nào mới có được 10 con bò, để có thể được về nhà. Bỗng nhiên, một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt Ngưu Lang, hỏi Ngưu Lang vì sao đau lòng. Sau khi biết câu chuyện của Ngưu Lang, cụ già vừa cười vừa nói với Ngưu Lang rằng: “Cháu đừng buồn nữa nhé, ở núi Phục Ngưu có một con bò già ốm nặng, cháu hãy cố chăm sóc và nuôi nấng nó. Khi con bò khỏi bệnh, cháu có thể dẫn nó về nhà.”

Ngưu Lang trèo đèo vượt núi, đi rất xa, cuối cùng đã tìm thấy con bò già ốm nặng. Ngưu Lang thấy bệnh tình của con bò già rất nặng, bèn vội vàng đi cắt cỏ cho bò ăn, suốt 3 ngày liền, con bò già được ăn no, từ từ ngẩng đầu lên nói với Ngưu Lang rằng: Ta vốn là bò tiên xám, vì vi phạm vào luật cấm trên thiên đình, bị đày xuống trần gian. Vì bị ngã gãy chân, không động đậy được, muốn dậy được phải dùng giọt sương trên hoa rửa vết thương 1 tháng mới khỏi được.

Ngưu Lang nghe vậy, không ngại vất vả, chăm sóc cẩn thận bò già một tháng, buổi sáng đi hái hoa, thu tập giọt sương, rửa vết thương cho bò già, buổi tối thì ngả vào bò già ngủ. Sau khi bò già khỏi bệnh, Ngưu Lang rất vui mừng, dẫn 10 con bò về nhà.

Sau khi về tới nhà, chị dâu vẫn đối xử thậm tệ với Ngưu Lang, nhiều lần muốn làm hại Ngưu Lang, may mà lần nào cũng được bò già tìm cách cứu giúp, cuối cùng chị dâu tức quá hoá giận, đuổi Ngưu Lang ra khỏi nhà, Ngưu Lang chỉ yêu cầu mang theo bò già ra đi.

Một hôm, Chức Nữ và các nàng tiên trên trời xuống trần gian chơi, đi tắm ở sông. Dưới sự giúp đỡ của bò già, Ngưu Lang đã làm quen với Chức Nữ, sau đó hai người đã có tình cảm với nhau. Rồi Chức Nữ lén xuống trần gian, trở thành vợ của Ngưu Lang. Chức Nữ còn mang tằm từ thiên đình xuống cho dân làng, và dạy dân làng biện pháp nuôi tằm, rút tơ, dệt vải lụa mịn màng và bóng đẹp.

Sau khi lấy nhau, Ngưu Lang ngày ngày làm ruộng, Chức Nữ dệt vải, tình cảm rất sâu đậm, hai người sinh được một trai một gái, cuộc sống gia đình rất hạnh phúc. Nhưng cuộc sống hạnh phúc không thể kéo dài, chuyện này bị Ngọc Hoàng Đại Đế biết được, Vương Mẫu Nương Nương đích thân xuống trần gian, ép Chức Nữ về thiên đình, hai vợ chồng đằm thắm với nhau bị cách xa.

Ngưu Lang không lên thiên đình được, bò già cho Ngưu Lang biết, sau khi nó chết, Ngưu Lang hãy dùng da của nó làm giầy, đi giầy da này thì có thể lên thiên đình. Ngưu Lang nghe theo lời bò, đi giầy làm bằng da bò, mang theo hai đứa con, cưỡi mây lướt gió lên thiên đình đi tìm Chức Nữ. Khi Ngưu Lang sắp đuổi kịp Chức Nữ, Vương Mẫu Nương Nương lấy trâm vàng cài trên tóc vạch một đường, bèn xuất hiện dòng sông Thiên Hà có sóng cuồn cuộn, Ngưu Lang và Chức Nữ bị ngăn cách ở hai bờ sông, hai người chỉ có thể nhìn nhau, rơi nước mắt.

Tình yêu chung thủy của họ đã làm chim khách cảm động, hàng nghìn hàng vạn chim khách bay đến và bắc cầu Thước Kiều, để Ngưu Lang và Chức Nữ gặp mặt tại Thước Kiều. Vương Mẫu Nương Nương đành chịu, cho phép hai người gặp mặt tại Thước Kiều vào mồng 7 tháng 7 hàng năm.

Sau đó, cứ đến mồng 7 tháng 7 Âm lịch, ngày Chức Nữ và Ngưu Lang gặp mặt tại Thước Kiều, các cô gái lại rủ nhau nhìn trời ngắm sao, tìm sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ ở hai bờ dải Ngân Hà, mong được chứng kiến buổi gặp mặt một năm một lần của họ, cầu mong ông trời cho mình tài năng sáng dạ và khéo tay như Chức Nữ, cũng cầu mong mình có được mối lương duyên tốt đẹp. Do vậy, Tết Thất Tịch 07-7 đã hình thành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện tình Ngưu Lang Chức Nữ

Đặt tên theo chí hướng

Lấy tên của mình nói lên chí hướng, lý tưởng là cách đặt tên của phần đông thanh niên xưa và nay.
Đặt tên theo chí hướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Minh chứng điển hình là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Hồi nhỏ, tên thật của Bác là Nguyễn Sinh Cung (Côn), sau, Người đổi tên là Nguyễn Tất Thành (mọi việc sẽ  thành công), trong thời gian hoạt động cách mạng, người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc (mang tư tưởng yêu nước, luôn hướng về dân tộc) và một vài tên khác như anh Ba, anh Nguyễn... (là những tên gọi thân thiện).

Dat ten theo chi huong hinh anh
Nhà yêu nước, vị lãnh tụ vĩ đại - Nguyễn Ái Quốc

Bên cạnh đó, còn có trí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, tên thật là Phan Văn San, khi hoạt động cách mạng đổi tên thành Phan Bội Châu... Hay nhà thơ, nhà cách mạng Tố Hữu cũng chọn tên gọi theo chí hướng, nguyện vọng. Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành. Vì lòng cảm mến, một cụ đồ đã tặng ông 2 chữ "Tố Hữu" (ngô nhi tố hữu đại chí - trẻ ta sẵn có chí lớn). Nguyễn Kim Thành trân trọng bút danh mà cụ đồ tặng cho, song, ông chỉ dám nhận tên "Tố Hữu" với nghĩa "người bạn trong trắng" ("Hữu" là bạn, "Tố" là trong trắng).

Hiện nay, nhiều người đã chọn tên theo nguyện vọng về chí hướng ngay từ hồi nhỏ để đặt tên cho con. Một số tên gọi hay như: Chí Cường, Chí Trung, Chí Nhân,Chí Thiện, Thành Công, Tất Đạt, Thái Bảo, Trung Hiếu, Lập Quốc, Lập Thiên, Phan Nhân, Chí Tôn, Hùng Cường, Quốc Cường, Thái An, Thái Anh, Thái Xuân, Gia Đại, Xuân Công, Chí Công, Minh Công, Anh Minh, Tri Anh, Thái Học...

Tuy nhiên, giữa tên gọi và hiện thực của thành công còn có khoảng cách khác nhau. Tên gọi hàm ý về chí hướng, sự thành công nhưng không có sự nỗ lực phấn đấu thì mọi thứ cũng chỉ là "hão huyền". Để đạt được những hàm nghĩa trong tên, bạn nên cố gắng hết sức mình trong mọi hoàn cảnh, phải bỏ ra mồ hôi, công sức... thì mới có thể đạt được ước nguyện của bản thân, cũng như nguyện vọng mà cha mẹ đã gửi gắm.

Theo Khoa học và nghệ thuật đặt tên...

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên theo chí hướng

Các sao tốt – Cát tinh –

1. Sao Giác (Mộc giác giao) - hành Mộc - sao tốt Ngày có sao Giác thì tốt, đi thi gặp may, gặp quý nhân giúp đỡ. Cưới xin thì hôn nhân mỹ mãn, sinh con quý. “Giác tinh được việc chủ vinh thân”. Song ngày có sao này lại kiêng mai táng, tu sửa mộ phần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

45170979

1. Sao Giác (Mộc giác giao) – hành Mộc – sao tốt

Ngày có sao Giác thì tốt, đi thi gặp may, gặp quý nhân giúp đỡ. Cưới xin thì hôn nhân mỹ mãn, sinh con quý. “Giác tinh được việc chủ vinh thân”.
Song ngày có sao này lại kiêng mai táng, tu sửa mộ phần.

2. Sao Phòng (Phòng nhật thổ) – hành Thổ – sao tốt

Ngày có sao Phòng thì gặp lộc, tốt cho cưới hỏi, xây dựng nhà cửa, công trình, tốt cho mọi người, mọi việc.

Thơ rằng:

“Phòng tinh tốt đẹp: vượng chức, tài

Hạnh phúc, giàu sang, xây cất: may

Vận đến mọi người đều được hưởng

Lưu tâm, ghi nhớ để chọn ngày”

3. Sao Vĩ (Vĩ hỏa hổ) – hành Hỏa – sao tốt

Ngày có sao này tốt cho cưới hỏi, làm nhà, xuất ngoại, kinh doanh, nhậm chức, việc quan có lợi.

Thơ rằng:

“Vĩ tinh chiếu rọi tốt vô cùng

Làm nhiều việc lớn đều thành công”

4. Sao Cơ (Cơ thủy báo) – hành Thủy – sao tốt

Ngày có sao Cơ thuận cho các việc nhậm chức, cầu xin, động thổ, chôn cất, xây – tu sửa mộ phần cho người quá cố.

Thơ rằng:

“Cơ tinh sáng chiếu giúp mọi người

Sự nghiệp quan trường viễn cảnh tươi

Cửa nhà cao rộng, tiền bạc lắm

Xây mộ ông bà để phúc đời”

* Trên đây là 4 ngôi sao tốt nhất trong 7 ngôi sao thuộc cụm sao Thanh long ở hướng Đông.

5. Sao Đẩu (Đẩu mộc giải) – hành Mộc – sao tốt

Ngày có sao Đẩu rất tốt cho các việc cưới hỏi, chăn nuôi, làm các công việc nông nghiệp, ngư nghiệp, làm nhà.

6. Sao Thất (Thất hỏa chứ) – hành Hỏa – sao tốt

Ngày có Thất tinh rất thuận cho công danh, sự nghiệp, cưới hỏi, khai trương cửa hàng, cửa hiệu, công ty.

Thơ rằng:
“Thất tinh chiếu tới, việc hanh thông

Nhậm chức, khai trương lẫn hôn nhân

Xây nhà, tu tạo công trình đẹp

Mọi việc thuận ngay nhẹ như không”.

7. Sao Bích (Bích thủy du) – hành Thủy – sao tốt

Ngày có sao Bích chiếu thì thuận cho các việc kinh doanh thương mại, làm nhà, đổ mái.

* Trên đây là 3 ngôi sao tốt nhất trong 7 ngôi sao thuộc cụm sao Huyền vũ ở hướng Bắc.

8. Sao Lâu (Lâu kim cẩu) – hành Kim – sao tốt

Ngày có sao Lâu chiếu tốt cho việc quan; nhận việc; cưới hỏi; đổ trần, đặt nóc nhà, gác thương lượng (đặt cây đòn nóc cho nhà gỗ luồng).

9. Sao Vị (Vị thổ chì) – hành Thổ – sao tốt

Ngày có sao Vị chiếu thuận cho mọi việc lớn như hôn nhân, mua bán nhà đất, động thổ xây dựng công trình. Đó là ngày giúp vinh hoa, phú quý.

10. Sao Tất (Tất nguyệt ô) – hành Kim – sao tốt

Ngày có sao Tất chiếu rất tốt cho các công việc nông nghiệp như trồng cấy, chăn nuôi gia súc, tằm tơ, làm nhà, sinh đẻ.

11. Sao Sâm (Sâm thuỷ viên) – hành Thủy – vừa tốt vừa xấu

Ngày có sao Sâm rất tốt cho khai trương, làm nhà nhưng hôn thú thì không tốt, sau sẽ ly hôn.

12. Sao Khuê (Khuê mộc lang) – hành Mộc – vừa tốt vừa xấu

Ngày có sao Khuê tốt cho hôn nhân song cần tránh khai trương, động thổ, dựng nhà, đưa tang, sửa mồ mả.

Thơ rằng:
“Sao Khuê chiếu rọi có phần lành

Hôn nhãn hòa thuận, phúc lộc sinh

Cần tránh mở hàng và động thổ

Đưa ma, sửa mộ cũng nên rành” (biết)

* Đó là 3 sao tốt (Lâu – Vị – Tất) và 2 sao vừa tốt cho một số việc, vừa không hay cho một số việc khác (Khuê – Sâm) thuộc cụm sao Bạch hổ ở hướng Tây.

13. Sao Tỉnh (Tỉnh mộc hãm) – hành Mộc – sao tốt

Ngày có sao Tỉnh chiếu tốt cho thi cử, trồng trọt, chăn nuôi, dựng nhà, cưới hỏi.

14. Sao Chương (Chương nguyệt lộc) – hành Kim – sao tốt

Ngày có sao Chương tốt cho khai trương buôn bán, nhập học, cưới hỏi, chôn cất người qua đời.

15. Sao Chẩn (Chẩn thủy dẫn) – hành Thủy – sao tốt

Ngày có sao Chẩn nên nhậm chức; nhận việc; xuất hành; hôn nhân; kinh doanh buôn bán; chôn cất; cúng lễ; tang điếu.

16. Sao Tính (Tính nhật mã) – hành Hỏa – vừa tốt vừa xấu

Ngày có sao Tính thuận cho việc dựng nhà; nhậm chức, nhận việc, đệ trình yêu cầu.

– Tránh ăn hỏi, cưới xin.

* Đó là 3 sao tốt (Tính – Chẩn – Trương) và 1 sao vừa lành vừa dữ (Tính) trong cụm sao Chu tước ở hướng Nam.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các sao tốt – Cát tinh –

Mơ thấy nốt ruồi: Vận may đến gần –

Với những giấc mơ có liên quan đến nốt ruồi, hàm ý của nó sẽ được quyết định bởi kích cỡ và hình dạng của nốt ruồi. Mơ thấy nốt ruồi tròn, tượng trưng cho sự an lành, dự báo vạn sự như ý; mơ thấy nốt ruồi hình chữ nhật, báo hiệu vận may đang đến gần;
Mơ thấy nốt ruồi: Vận may đến gần –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy nốt ruồi: Vận may đến gần –

Tướng người giàu sang –

Khí trong, tiếng nói vang, trán cao, mắt sáng, mày thưa, tai dày, môi hồng, mũi thẳng, mặt vuông, lưng đầy đặn, thẳng. + Da trơn, bụng to, răng trâu, đi nhu ngỗng, mày thanh tú, mắt nhãn ướt át. + Ngồi vững như tảng đá, đi nhẹ như trên mây. + Người n
Tướng người giàu sang –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người giàu sang –

Mơ thấy nước hoa: Có tin vui –

Hương vị của nước hoa khiến lòng người phơi phởi lâng lâng, đó còn là biểu hiện của tin vui. Mơ thấy ngửi được mùi nước hoa, bạn sẽ khỏe mạnh tráng kiện. Phụ nữ ngửi thấy mùi nước hoa từ thân thể chồng, dự báo cuộc sống sẽ hạnh phúc. Mơ thấy mình xị
Mơ thấy nước hoa: Có tin vui –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy nước hoa: Có tin vui –

Xem tướng đàn ông thành đạt và hạnh phúc –

Rất nhiều người đều mong muốn có được sự thành công trọn vẹn trong cả sự nghiệp và tình yêu, nhưng kết quả thường không như mong đợi, nếu như không phải là sự nghiệp không thăng tiến thì là tình yêu không được như ý, hai phương diện này không thể đượ
Xem tướng đàn ông thành đạt và hạnh phúc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn ông thành đạt và hạnh phúc –

Xem hướng nhà theo tuổi cho nam giới tuổi Thìn

Xem hướng nhà theo tuổi giúp hạn chế nguy cơ chọn phải hướng nhà không hợp với bản mệnh. Cùng xem gợi ý hướng tốt xấu cho nam giới tuổi Thìn.
Xem hướng nhà theo tuổi cho nam giới tuổi Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Làm nhà, mua nhà là việc lớn trong đời, ngôi nhà không chỉ là tài sản có giá trị mà còn là nơi an cư lập nghiệp, quyết định phồn vinh hưng thịnh của một gia đình.

Xem huong nha theo tuoi cho nam gioi tuoi Thin
 
Xem hướng nhà theo tuổi căn cứ vào quẻ mệnh của từng người để định hướng cát hung. Những hướng tốt thường là Sinh khí, Diên niên, Phục vị, Thiên y; những hướng xấu là Họa hại, Lục sát, Ngũ quỷ, Tuyệt mệnh. Dưới đây là hướng dẫn xem hướng tốt xấu cho nam giới tuổi Thìn.  

1. Tuổi Canh Thìn 2000 – mệnh Ly

  - Hướng tốt:   Hướng Đông – Sinh khí: Nhà này phú quý, thịnh vượng, người trong nhà đỗ đạt cao, có tài có danh, con cháu khỏe mạnh và thông minh, gia đình hòa thuận.   Hướng Bắc – Diên niên: Nhà này giàu sang. Sức khỏe người trong gia đình tốt. Con cái thông minh, thành đạt trong cuộc sống. Tuy nhiên cần hóa giải Thủy - Hỏa xung.   - Hướng xấu:    Hướng Đông Nam – Thiên y: Nhà này lúc đầu thịnh vượng, có tài có danh, giàu có, phụ nữ thông minh và nhân hậu. Nhưng về sau nam giới hay bị bệnh, không thọ. Phụ nữ dễ thành cô quả.   Hướng Nam – Phục vị: Nhà này lúc đầu cũng có tài lộc, nhưng không giàu có. Do nhà thuần âm, dương khí kém nên nam giới dễ mắc bệnh, giảm về nhân đinh.   Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Xem hướng làm nhà, nhà này khó giàu, làm ăn sa sút, tai họa nhiều. Bậc cha ông không thọ, phụ nữ trong nhà phải sống cô đơn.   Hướng Tây Nam – Lục sát: Nhà nay âm thịnh dương suy, nên nữ giới nắm quyền, nam giới kém, tổn thọ.   Hướng Đông Bắc – Họa hại: Nhà này kinh làm ăn khó khăn, kinh tế suy kém. Nhiều chuyện thị phi, tai ương.   Hướng Tây – Ngũ quỷ: Nhà này âm thịnh dương suy, nam giới đoản thọ; phụ nữ nhất là con gái thứ cũng gặp nguy hại. Kinh tế sa sút.
Xem thêm bài viết 12 con giáp mua nhà năm nào được tuổi, hướng nhà nào phát tài phát lộc?
 

2. Tuổi Mậu Thìn 1988 – mệnh Chấn

  - Hướng tốt:   Hướng Nam – Sinh khí: Nhà này phát phúc nhanh chóng, phụ nữ lương thiện, sống hiếu thảo. Con trai và con gái đều thông minh, giỏi giang. Giàu có và phú quý.   Hướng Đông Nam – Diên niên: Xem hướng nhà cho nam giới tuổi Thìn, nhà này công danh rất phát, phúc lộc thọ đều tốt. Người trong nhà đều có chí lớn, biết rèn luyện thành tài, công danh hiển hách nhà này sẽ sinh ra hiền tài làm công thần cho đất nước.   Hướng Bắc – Thiên y: Nhà này giàu có, phú quý, mọi người sống nhân hậu. Nhưng vì thuần dương nên phụ nữ trong nhà suy yếu, bệnh tật.   - Hướng xấu:    Hướng Đông – Phục vị: Nhà này lúc đầu khá giàu có. Nhưng do thuần dương nên vợ con tương khắc, dễ bất hòa trong gia đình, phụ nữ dễ sinh bệnh, nhân khẩu không tăng.   Hướng Tây – Tuyệt mệnh: Nhà này không giàu có, gia sản suy bại, nhiều chuyện, kinh doanh khó khăn; Cung Chấn (đại diện cho trưởng nam) bị khắc nên người con trai cả trong gia đình dễ đoản thọ.   Hướng Đông Bắc – Lục sát: Nhà này làm ăn khó khăn, tài lộc không có. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.   Hướng Tây Nam – Họa hại: Nhà này nhân đinh ít, làm ăn khó khăn; người bà người mẹ (đại diện của cung Khôn bị khắc) là người dễ bị tổn thương.   Hướng Tây Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này làm ăn sa sút, hay gặp chuyện kiện cáo, thị phi. Con trai trưởng sẽ hay gặp rắc rối về bệnh tật và sức khỏe.  

3. Tuổi Bính Thìn 1976 – mệnh Càn


Xem huong nha tot xau cho nam gioi tuoi Thin
 
- Hướng tốt:    Hướng Tây Nam – Diên niên: Nhà này được giàu sang phú quý, tăng nhân đinh, nhiều tài lộc, gia đình hòa thuận, trường thọ, con cháu thông minh hiển đạt, thịnh vượng lâu bền.   Hướng Đông Bắc – Thiên y: Kinh tế khá hưng vượng, gia đình hạnh phúc. Con người nhân hậu. Nhưng do nhà thuần dương nên bất lợi cho người con gái trong nhà về mặt sức khỏe.   Hướng Tây Bắc – Phụ vị: Nhà này con cháu nhiều người thành đạt, con trưởng tài hoa, gia tài được hưng vượng nhưng dương thịnh, âm suy, phụ nữ hay ốm yếu, khó nuôi con.   - Hướng xấu:   Hướng Tây – Sinh khí: Mặc dù đây là hướng tạo sinh khí nhưng do Tham Lang Mộc tinh bị cung Đoài Kim khắc nên nhà này ban đầu giàu sang, thịnh vượng, đông nhân đinh nhưng về sau dễ suy kém.   Hướng Nam – Tuyệt mệnh: Sao Phá Quân Kim tinh nhập cung Hỏa, bị hướng nhà Ly Hỏa khắc, cho nên sự hung có phần giảm bớt song vẫn rất xấu.   Hướng Bắc – Lục sát: Nhà này lúc đầu kinh tế tương đối tốt nhưng dần bị dần bị hao tổn khỏe; phụ nữ trong nhà dễ bị tổn thương; con cái không tu chí, dễ hư hỏng.   Hướng Đông Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu làm ăn khá phát đạt. Tuy nhiên do có tương khắc nên về sau người trong nhà sẽ phát sinh bệnh tật, khó sinh con và khó nuôi con, người con gái lớn trong nhà cũng gặp nhiều bất lợi. Tuy nhiên hướng nhà là Tốn Mộc khắc sao Thổ, cho nên sự hung ác của Lộc Tồn có phần giảm bớt.   Hướng Đông – Ngũ quỷ: Gia sự có thể phát sinh điều dữ, thường hao tổn về tài sản, hỏa hoạn dễ xảy ra; người nhà hay gặp nhiều chuyện thị phi, kiện cáo, không yên ổn, hay bị bệnh tật. Do Chấn đại diện cho trưởng nam nên người con trai trong nhà dễ bị tổn thương.
Xem thêm bài viết Chọn hướng làm nhà tránh Không Vong

4. Tuổi Giáp Thìn 1964 – mệnh Ly

  - Hướng tốt:   Hướng Đông – Sinh khí: Nhà này phú quý, thịnh vượng, người trong nhà đỗ đạt cao, có tài có danh, con cháu khỏe mạnh và thông minh, gia đình hòa thuận.   Hướng Bắc – Diên niên: Nhà này giàu sang. Sức khỏe người trong gia đình tốt. Con cái thông minh, thành đạt trong cuộc sống. Tuy nhiên cần hóa giải Thủy - Hỏa xung.   - Hướng xấu:    Hướng Đông Nam – Thiên y: Nhà này lúc đầu thịnh vượng, có tài có danh, giàu có, phụ nữ thông minh và nhân hậu. Nhưng về sau nam giới hay bị bệnh, không thọ. Phụ nữ dễ thành cô quả.   Hướng Nam – Phục vị: Nhà này lúc đầu cũng có tài lộc, nhưng không giàu có. Do nhà thuần âm, dương khí kém nên nam giới dễ mắc bệnh, giảm về nhân đinh.   Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Xem hướng nhà theo tuổi, nhà này khó giàu, làm ăn sa sút, tai họa nhiều. Bậc cha ông không thọ, phụ nữ trong nhà phải sống cô đơn.   Hướng Tây Nam – Lục sát: Nhà nay âm thịnh dương suy, nên nữ giới nắm quyền, nam giới kém, tổn thọ.   Hướng Đông Bắc – Họa hại: Nhà này kinh làm ăn khó khăn, kinh tế suy kém. Nhiều chuyện thị phi, tai ương.   Hướng Tây – Ngũ quỷ: Nhà này âm thịnh dương suy, nam giới đoản thọ; phụ nữ nhất là con gái thứ cũng gặp nguy hại. Kinh tế sa sút.  

5. Tuổi Nhâm Thìn 1952 – mệnh Chấn


xem huong lam nha
 
- Hướng tốt:   Hướng Nam – Sinh khí: Nhà này phát phúc nhanh chóng, phụ nữ lương thiện, sống hiếu thảo. Con trai và con gái đều thông minh, giỏi giang. Giàu có và phú quý.   Hướng Đông Nam – Diên niên: Nhà này công danh rất phát, phúc lộc thọ đều tốt. Người trong nhà đều có chí lớn, biết rèn luyện thành tài, công danh hiển hách nhà này sẽ sinh ra hiền tài làm công thần cho đất nước.   Hướng Bắc – Thiên y: Nhà này giàu có, phú quý, mọi người sống nhân hậu. Nhưng vì thuần dương nên phụ nữ trong nhà suy yếu, bệnh tật.   - Hướng xấu:    Hướng Đông – Phục vị: Nhà này lúc đầu khá giàu có. Nhưng do thuần dương nên vợ con tương khắc, dễ bất hòa trong gia đình, phụ nữ dễ sinh bệnh, nhân khẩu không tăng.   Hướng Tây – Tuyệt mệnh: Nhà này không giàu có, gia sản suy bại, nhiều chuyện, kinh doanh khó khăn; Cung Chấn (đại diện cho trưởng nam) bị khắc nên người con trai cả trong gia đình dễ đoản thọ.   Hướng Đông Bắc – Lục sát: Nhà này làm ăn khó khăn, tài lộc không có. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.   Hướng Tây Nam – Họa hại: Nhà này nhân đinh ít, làm ăn khó khăn; người bà người mẹ (đại diện của cung Khôn bị khắc) là người dễ bị tổn thương.   Hướng Tây Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này làm ăn sa sút, hay gặp chuyện kiện cáo, thị phi. Con trai trưởng sẽ hay gặp rắc rối về bệnh tật và sức khỏe.
Xem thêm bài viết Cách hóa giải hướng nhà xấu theo phong thủy không hợp tuổi gia chủ
 

6. Tuổi Canh Thìn 1940 – mệnh Càn

  - Hướng tốt:    Hướng Tây Nam – Diên niên: Nhà này được giàu sang phú quý, tăng nhân đinh, nhiều tài lộc, gia đình hòa thuận, trường thọ, con cháu thông minh hiển đạt, thịnh vượng lâu bền.   Hướng Đông Bắc – Thiên y: Kinh tế khá hưng vượng, gia đình hạnh phúc. Con người nhân hậu. Nhưng do nhà thuần dương nên bất lợi cho người con gái trong nhà về mặt sức khỏe.   Hướng Tây Bắc – Phụ vị: Nhà này con cháu nhiều người thành đạt, con trưởng tài hoa, gia tài được hưng vượng nhưng dương thịnh, âm suy, phụ nữ hay ốm yếu, khó nuôi con.   - Hướng xấu:   Hướng Tây – Sinh khí: Mặc dù đây là hướng tạo sinh khí nhưng do Tham Lang Mộc tinh bị cung Đoài Kim khắc nên nhà này ban đầu giàu sang, thịnh vượng, đông nhân đinh nhưng về sau dễ suy kém.   Hướng Nam – Tuyệt mệnh: Sao Phá Quân Kim tinh nhập cung Hỏa, bị hướng nhà Ly Hỏa khắc, cho nên sự hung có phần giảm bớt song vẫn rất xấu.   Hướng Bắc – Lục sát: Xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Thìn, nhà này lúc đầu kinh tế tương đối tốt nhưng dần bị dần bị hao tổn khỏe; phụ nữ trong nhà dễ bị tổn thương; con cái không tu chí, dễ hư hỏng.   Hướng Đông Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu làm ăn khá phát đạt. Tuy nhiên do có tương khắc nên về sau người trong nhà sẽ phát sinh bệnh tật, khó sinh con và khó nuôi con, người con gái lớn trong nhà cũng gặp nhiều bất lợi. Tuy nhiên hướng nhà là Tốn Mộc khắc sao Thổ, cho nên sự hung ác của Lộc Tồn có phần giảm bớt.   Hướng Đông – Ngũ quỷ: Gia sự có thể phát sinh điều dữ, thường hao tổn về tài sản, hỏa hoạn dễ xảy ra; người nhà hay gặp nhiều chuyện thị phi, kiện cáo, không yên ổn, hay bị bệnh tật. Do Chấn đại diện cho trưởng nam nên người con trai trong nhà dễ bị tổn thương.
Xem hướng nhà theo tuổi: Nữ tuổi Dần nên và không nên làm nhà theo hướng nào? Xem hướng nhà theo tuổi: Nữ tuổi Sửu nên và không nên làm nhà theo hướng nào? Những điều không thể không biết để chọn hướng nhà hợp phong thủy
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem hướng nhà theo tuổi cho nam giới tuổi Thìn

lễ hội trong ngày 19 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Thái Đào

Vào ngày 19 tháng 5 âm lịch có diễn ra lễ hội Hội Đình Thái Đào được tổ chức tại xã Thái Đào, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

lễ hội trong ngày 19 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Thái Đào

lễ hội trong ngày 19 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Thái Đào

Hội Đình Thái Đào

Thời gian: tổ chức vào ngày 19 tháng 5 âm lịch.

Địa điểm: xã Thái Đào, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn tướng Quân Vũ Thành.

Nội dung: lễ tế dâng hương và tưởng nhớ đến tướng quân Vũ Thành. Phần hội có thi đấu vật, đu, cờ người, cờ tướng, cướp cầu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: lễ hội trong ngày 19 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Thái Đào

Xem tướng gò má phụ nữ thông minh –

Cùng tìm hiểu tính cách, khả năng làm việc của phụ nữ qua chính đôi gò má của họ. 1. Gò má cao Nhiều người Á Đông ủng hộ với quan điểm gò má cao sát chồng nhưng cũng chưa có bất kỳ một bằng chứng khoa học nào chứng minh cho điều ấy. Ngược lại, ở các

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng tìm hiểu tính cách, khả năng làm việc của phụ nữ qua chính đôi gò má của họ.

1. Gò má cao
Nhiều người Á Đông ủng hộ với quan điểm gò má cao sát chồng nhưng cũng chưa có bất kỳ một bằng chứng khoa học nào chứng minh cho điều ấy. Ngược lại, ở các nước phương Tây những người phụ nữ gò má cao luôn được đánh giá là người có cá tính mạnh mẽ và cuộc sống hôn nhân của họ không hề bị ảnh hưởng bởi quan điểm trên.
Trong công việc, cá tính mạnh mẽ ấy chính là ý trí kiên cường vượt qua mọi khó khăn, có khả năng gánh vác được nhiều việc quan trọng. Hơn nữa, tính cách cởi mở với mọi người giúp họ chiếm được cảm tình của gia đình và bạn bè của mình. Đối với những người gò má cao và chóp mũi to, đây quả là sự kết hợp tuyệt vời. Chủ nhân vốn hiền lành và lương thiện này sẽ gặp nhiều may mắn và thành công hơn trên mọi lĩnh vực.

2. Gò má nở to

gomacao1

Việc sở hữu đôi gò má nở to được xem là một hình mẫu lý tưởng, bởi chủ nhân của đôi gò má này là người có trí tuệ sắc sảo, có tinh thần cảnh giác cao và đặc biệt là khả năng nhìn xa trông rộng. Hầu hết ở họ điểm chung nổi bật nhất là có tố chất làm lãnh đạo. Nhờ vào ưu điểm đặc biệt này, bạn có thể thành công ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế với tư cách là đầu tàu.

3. Gò má vừa rộng vừa cao
Trong cuộc sống, bạn tự tin làm việc độc lập mà không cần nhận sự giúp đỡ của một ai khác khiến mọi người tưởng rằng bạn theo chủ nghĩa cá nhân. Đôi khi bạn lại hơi quá tập trung vào giai đoạn ăn mừng chiến thắng làm bạn bè và người thân hiểu lầm rằng bạn tự đắc. Nhưng nhờ sự chân thành, nỗ lực không ngừng khắc phục những nhược điểm của mình, mọi người không chỉ hiểu bạn hơn mà còn ủng hộ bạn thực hiện tiếp những hoài bão của mình. Độ tuổi trung niên là khoảng thời gian bạn gặt hái được nhiểu thành công nhất

4. Gò má thấp

1331531271-dep1

Bạn đang nung nấu trong mình nhiều ước mơ và hoài bão cháy bỏng. Tuy nhiên, điểu đó chưa đủ để biến chúng thành sự thật nếu kế hoạch và chiến lược thực hiện không được triển khai. Lý do lớn nhất là bạn vẫn chưa đủ lòng tin để xúc tiến một mình và bạn lo sợ về khả năng thất bại cao. Đôi lúc tính cách rụt rè, nhút nhát, hướng nội đã làm cản trở bạn thực hiện niềm đam mê. Điều quan trọng nhất bây giờ chính là củng cố lòng tin vào chính mình.

5. Gò má tròn đầy đặn
Không thích sự gò bó, thích phiêu lưu, chan hòa, hướng ngoại, khao khát sự chú ý của mọi người và có khả năng ứng phó với tình huống là những tính cách điển hình của bạn. Trên con đường sự nghiệp, nơi bạn tỏa sáng và được sống thực với con người mình nhất chính là những công việc liên quan tới nhóm ngành giải trí như diễn viên điện ảnh, người mẫu, hoặc nhà báo,…
Mặc dù áp lực công việc luôn đè nặng đôi vai nhưng sự thông minh và khéo léo của mình đã giúp bạn cân bằng được mọi việc. Trong cuộc sống gia đình, bạn không chỉ là một người vợ, người mẹ chăm sóc chồng con chu đáo mà còn là nguồn động viên kịp thời cho những người thân yêu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng gò má phụ nữ thông minh –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1978 Mậu Ngọ –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1978: - Năm sinh dương lịch: 1978 - Năm sinh âm lịch: Mậu Ngọ - Quẻ mệnh: Tốn Mộc - Ngũ hành: Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời) - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Sinh Khí); Đông (Di

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1978:

tu-bep-va-ung-dung-thuoc-lo-ban-trong-phong-thuy-gia-dinh1_EBEL

– Năm sinh dương lịch: 1978

– Năm sinh âm lịch: Mậu Ngọ

– Quẻ mệnh: Tốn Mộc

– Ngũ hành: Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời)

– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Bắc (Sinh Khí); Đông (Diên Niên); Đông Nam (Phục Vị); Nam (Thiên Y);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Hoạ Hại); Đông Bắc (Tuyệt Mệnh); Tây Nam (Ngũ Quỷ); Tây (Lục Sát);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1978 Mậu Ngọ –

Trường Giang Nhã Phương: Kim Ngưu đụng độ Kim Ngưu?

Chẳng cần phải mở lời, chỉ cần nhìn ánh mắt nhau thôi thì Trường Giang Nhã Phương cũng đã có thể hiểu cả thế giới của đối phương rồi.
Trường Giang Nhã Phương: Kim Ngưu đụng độ Kim Ngưu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chẳng cần phải mở lời, chỉ cần nhìn ánh mắt nhau thôi thì các cặp đôi Kim Ngưu Trường Giang Nhã Phương cũng đã có thể hiểu cả thế giới của đối phương rồi.


Truong Giang Nha Phuong Kim Nguu dung do Kim Nguu hinh anh 2
 
Câu chuyện tình yêu của cặp đôi Trường Giang Nhã Phương cùng cung, đặc biệt là cung Đất như Kim Ngưu, thường sẽ diễn ra vô cùng lặng lẽ, nhẹ nhàng và ngấm dần vào nhau từ lúc nào không hay. Mọi thứ chỉ bắt đầu từ cái nắm tay vô tình đỡ Nhã Phương cho khỏi ngã, rồi vô tình giữ thật chặt người đẹp trong tay suốt buổi ra mắt. Tình yêu cũng từ đó mà dần phát triển. Một khi hai miếng đất được nặn nhuyễn lại cùng nhau, việc tách họ ra khỏi thế giới tình yêu của hai người, có lẽ là điều bất khả.
 
Điều này cũng lý giải vì sao, dù Trường Giang, với sao Kim ở cung Song Tử, luôn tỏ ra đào hoa, hay tán tỉnh và buông lời ngọt ngào với các cô gái đẹp trên sóng truyền hình, nhưng Nhã Phương chưa từng lên tiếng ghen tuông hay tỏ ra nghi ngờ tình cảm của anh.

Truong Giang Nha Phuong Kim Nguu dung do Kim Nguu hinh anh 2
 
Về phía Nhã Phương, sự tái hợp với "người tình" Kang Tea Oh dù rất ngọt ngào, tràn đầy xúc cảm của Mặt Trăng Song Ngư, nhưng Trường Giang vẫn tin tưởng cô ở mọi mặt, và rất thông cảm cho người thương của mình.   Với Mặt Trời và sao Thủy trùng nhau cùng ở cung Kim Ngưu, Trường Giang và Nhã Phương vốn rất hợp nhau về tính cách, suy nghĩ và có thể chia sẻ được nhiều điều với nhau trong cuộc sống. Mặt Trăng của hai người tạo góc hòa hợp với nhau, càng khiến cặp đôi dễ thấu hiểu và đồng cảm về mặt cảm xúc trong tình yêu cũng như trong các lĩnh vực khác.
 
Sự hòa hợp đến khó tin này của cặp đôi Kim Ngưu là lí do vì sao tình cảm của hai người xuất hiện rất tự nhiên và nhanh chóng gắn bó, tạo cảm giác bền vững trong mắt công chúng cũng như giới truyền thông. Điều này cũng là minh chứng cho tình cảm thật lòng chứ không đơn giản là tạo "scandal" để PR phim như lời đồn.
Truong Giang Nha Phuong Kim Nguu dung do Kim Nguu hinh anh 2
 
Chuyện nhắc đến việc kết hôn sau một khoảng thời gian chưa dài yêu nhau với cặp đôi này cũng là điều dễ hiểu. Cả nét Kim Ngưu, Cự Giải, cũng như Song Ngư trong Trường Giang Nhã Phương đều thuộc những cung hoàng đạo luôn ưu tiên gia đình, sự ổn định và lâu dài trong chuyện tình cảm, cuộc sống. Chắc hẳn, chuyện cặp đôi này đến với nhau sẽ là sự kết hợp hoàn hảo trong "showbiz" nơi vốn nổi tiếng với nhiều chuyện tình cảm không bền vững.
 
Cặp đôi Trường Giang Nhã Phương ngọt ngào này có thể sẽ không mang lại nhiều tin tức nóng bỏng cho giới truyền thông cũng như các fan hâm mộ, nhưng chắc chắn sẽ mang đến cho các fan những hình ảnh giản dị, nhẹ nhàng của hạnh phúc bình dị, đáng trân quý.

ST.

Những chòm sao được quý nhân phù trợ trong 2 tháng cuối năm Ngỡ ngàng 4 chòm sao nam nặng tình trong lòng mà thờ ơ ngoài mặt Hoài Lâm - Chàng trai Cự Giải đa tài lại may mắn trong tình yêu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trường Giang Nhã Phương: Kim Ngưu đụng độ Kim Ngưu?

Gói bánh chưng trong khung cảnh đậm chất dân gian Việt

Cảnh gói, luộc bánh chưng trên sân nhà chùa đẹp nên thơ khi màu xanh của lá dong, màu vàng của đỗ xanh nổi bật cùng sắc đỏ hồng của hoa đào, cam cảnh cùng mái ngói cổ kính.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là một buổi gói bánh chưng nhân chay tại chùa Đại Phúc, Đại Mỗ, Từ Liêm (Hà Nội). 
Goi banh chung trong khung canh dam chat dan gian Viet hinh anh 2
Các Phật tử giúp nhà sư trụ trì đầy đủ các công đoạn từ đãi đỗ, vo gạo cho đến luộc bánh.
Goi banh chung trong khung canh dam chat dan gian Viet hinh anh 3
Nhà chùa gói khoảng 300 chiếc, dự kiến chủ yếu để vào ngày mùng 1 Tết sẽ phát cho những người đến lễ được mang lộc về nhân dịp đầu xuân. 
Goi banh chung trong khung canh dam chat dan gian Viet hinh anh 4
Cảnh gói bánh chưng diễn ra trong một khung cảnh đẹp, đậm nét văn hóa truyền thống người Việt.
Goi banh chung trong khung canh dam chat dan gian Viet hinh anh 5
Bộ phận rửa và tước lá dong làm việc phía sau sân chùa.
Goi banh chung trong khung canh dam chat dan gian Viet hinh anh 6
Các Phật tử chủ yếu là người trong làng Ngọc Trục, nay thuộc phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm.
Goi banh chung trong khung canh dam chat dan gian Viet hinh anh 7
Hàng năm nhà chùa đều làm công việc này mỗi khi Tết đến.
Goi banh chung trong khung canh dam chat dan gian Viet hinh anh 8
Goi banh chung trong khung canh dam chat dan gian Viet hinh anh 9
Bánh chỉ có gạo và đỗ xanh, không có thịt bên trong.
Goi banh chung trong khung canh dam chat dan gian Viet hinh anh 10
Gói đến đâu luộc trước đến đấy, mỗi nồi hơn trăm chiếc.
Goi banh chung trong khung canh dam chat dan gian Viet hinh anh 11
Ngay trong buổi chiều đã vớt được mẻ bánh đầu tiên. Toàn bộ bánh sẽ được đưa lên thắp hương để tán lộc cho khách vãn cảnh chùa ngày mùng 1 Tết.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gói bánh chưng trong khung cảnh đậm chất dân gian Việt

Thực hư về "trùng tang"

Trùng tang liên táng là một hiện tượng huyền bí chưa được giải thích một cách rõ ràng nhưng vẫn có nhiều câu chuyện chứng thực hiện tượng trùng tang này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trùng tang là một hiện tượng mà từ trước tới nay vẫn luôn được thêu dệt một cách huyền bí, mang màu sắc tâm linh rõ rệt và thể hiện “quyền lực” siêu nhiên không giới hạn của con người ngay cả khi đã… chết. Vậy “trùng tang” có thật hay không và nên hiểu nó như thế nào trên cả hai phương diện khoa học duy tâm và duy vật

Những cái chết “liên trận kỳ hồi”

Cách đây hơn một năm, nhiều tờ báo đưa tin về trường hợp trùng tang ở quận Tây Hồ, Hà Nội rất đáng sợ. Đó là một gia đình trong một ngày xảy ra 2 cái chết của bố chồng và nàng dâu cách nhau chưa đến 5 tiếng đồng hồ. Điều đáng nói là người con dâu đang khỏe mạnh bình thường, vẫn còn đang tất bật chuẩn bị “hậu sự” cho bố chồng thì bỗng nhiên đột tử vì cảm. Để tránh không chôn cất cùng một giờ, hơn nữa, chưa được “giờ đẹp” nên người bố “hạ huyệt” trước, sau đó người con dâu mới được khâm liệm và hạ huyệt sau.

Khỏi phải nói gia tộc đó hoảng sợ đến mức nào, nhất là người con trai cả đồng thời cũng là chồng của người vợ quá cố. Anh rất lo lắng cho đứa con trai độc nhất 15 tuổi và cả bản thân mình. Vì người ta bảo nhà anh bị “trùng tang”. Từ trước tới nay anh có biết “trùng tang” là gì đâu, hơn nữa, những chuyện như vậy chẳng khi nào anh quan tâm do không biết thực hư thế nào. Nhưng khi trong gia đình mình cùng lúc 2 cái chết của bố và vợ thì anh hoảng hồn thực sự, đến nỗi ai bảo gì anh làm nấy để gọi là tránh chuyện tương tự xảy ra.

Như gia đình trên đây, thì một gia đình ở ngay phố Ngọc Hà, quận Ba Đình cũng xảy ra những cái chết tương tự. Chỉ khác là gia đình này, trong vòng 3 năm, 2 người con trai duy nhất trong gia đình đều “đi” theo bố và “đi” một cách “bất đắc kỳ tử”. Người bố sau một thời gian bị bệnh nan y thì qua đời khi ở tuổi “thất thập cổ lai hy”. Nỗi đau của những người trong gia đình chưa qua thì chỉ sau cái lễ 100 ngày của ông ít hôm, lại đến con trai trưởng của ông mất. Cái chết của anh ở tuổi “vẫn còn đang xoan” không chỉ khiến cho người ta thương tiếc mà còn làm cho câu chuyện về “trùng tang” được tin nhiều hơn và thêu dệt nhiều hơn.

Đêm hôm trước, anh vẫn còn ngồi quán nước và nói chuyện oang oang về thế sự, không một chút biểu hiện của người đau ốm, bệnh tật. Thế mà sớm hôm sau, khi vợ gọi anh dậy để đỡ chị dọn hàng bán đồ ăn sáng như mọi khi, anh đã mãi ngủ không bao giờ dậy. Liên tiếp 2 cái chết xảy ra trong vòng hơn 3 tháng, tưởng như gia đình anh không thể gắng gượng được.

Vậy mà chưa hết, 2 năm sau, người con trai út đang phơi phới tuổi xuân bỗng dưng một chiều đi làm về kêu mệt, vào giường nằm rồi mất lúc nào cũng không ai biết. Cả gia đình nhộn nhạo, hoảng loạn. Không ai có thể giải thích được nguyên nhân vì sao chỉ trong thời gian ngắn mà cả 3 người đàn ông trong nhà đều ra đi ngoài lý do duy nhất: “Trùng tang”. Và trùng tang như thế được gọi là “trùng tang liên táng”.

Vậy trùng tang là gì?

Thực ra, từ trước tới nay, chưa bao giờ có một định nghĩa chính thống về “trùng tang” mà chỉ dựa trên hiện tượng rồi đúc kết thành quan niệm. Ngay cả, Phật pháp cũng không định nghĩa về hiện tượng này, mặc dù đây là “hồn cốt” của thế giới tâm linh. Theo cách hiểu dân gian “trùng tang” là trường hợp người chết “phạm” phải năm hoặc tháng hoặc giờ xấu do đó linh hồn không siêu thoát nên cứ quanh quẩn trong nhà trở thành “trùng” (có khái niệm cho rằng là “âm binh”) rồi lần lượt “bắt” theo từng người thân trong dòng tộc.

Nhưng phải trong 3 năm liền xảy ra liên tiếp những cái chết của những người trong cùng dòng tộc mới coi là “trùng tang”. Còn nếu không thì không phải. Có rất nhiều người nhầm lẫn điều này nên thấy trong gia tộc có nhiều người mất nhưng không phải trong 3 năm liên tiếp vẫn nhận là bị “trùng tang”.

Cách tính “trùng tang” theo “Phật pháp bách vấn” thì như thế này: Đối với những người tuổi thân, tý, thìn nếu mất vào một trong bất kể ngày hoặc tháng, năm, giờ tỵ thì coi là bị mất vào ngày trùng tang, còn được gọi là ngày “kiếp sát”. Tức là những tuổi đó “kỵ tỵ”. Mà đã ‘kỵ tỵ” thì những người tuổi thân, tý, thìn càng không được an táng vào ngày tỵ. Tương tự cách tính ấy, tuổi dần, tuất, ngọ kỵ hợi; tuổi tỵ, dậu, sửu kỵ dần; Hợi, mão, mùi kỵ thân. Tiện ích tính tự động trùng tang liên táng tại đây

Còn cách tính ngày trùng là chẳng hạn, ngày dần, tháng dần, năm dần, hay ngày thân, tháng thân, năm thân… cũng được gọi là ngày “trùng”. Ngày “trùng” này không tính riêng cho một tuổi nào mà bất kỳ người tuổi nào mất vào ngày “trùng” cũng “kỵ”.

Sách “Tam giáo chính hội” còn nói đến cách tính “trùng tang” cổ xưa là phải tính theo niên, nguyệt, nhật, thời (năm, tháng, ngày, giờ) thì mới biết người quá cố có “trùng tang” hay không. Theo cách tính đó thì những người mất ở tuổi (âm lịch): 10, 13, 16, 19, 22, (cứ cộng thêm 3) thì sẽ bị “trùng tang”. Hoặc những người tuổi tý, ngọ, mão, dậu nếu mất vào một trong các năm tuổi ấy, cũng coi là “trùng tang”…

“Lực siêu nhiên” hay tình cờ?

Tuy nhiên, việc “trùng tang” có thật hay không hay chỉ là sự ngẫu nhiên tình cờ?

Mặc dù là thế giới tâm linh đầy huyền bí và cũng có hẳn cách tính ngày “trùng tang” nhưng Phật giáo lại quan niệm về “trùng tang” như thế này: Sống chết là chuyện thường niên, do nghiệp lực của tự thân mỗi người chi phối. Sống và chết chỉ là hai hiện tượng trong tiến trình luân hồi bất tận. Nghiệp tuy có chung và riêng song nghiệp riêng vẫn giữ vai trò chủ động, quyết định, có tính cách độc lập, không ai có thể thay thế cho ai. Vì thế Phật giáo không có quan niệm về ngày trùng tang, trùng nhật và hoàn toàn phủ nhận việc ngày giờ mất cũng như chôn cất của một người mà có thể ảnh hưởng đến sự sống chết của người khác…”.

Trên cơ sở khoa học, GS.VS Đào Vọng Đức, PGS.TS Hà Vĩnh Tân, những nhà vật lý thuộc Hội Vật lý Việt Nam cũng đã bỏ nhiều thời gian nghiên cứu về vấn đề này đã lý giải theo cách của mình.

Mà cách lý giải ấy rất giống với những kiến giải của cố GS Nguyễn Hoàng Phương - nhà vật lý học nổi tiếng - từng giải thích hiện tượng “trùng tang” theo lý thuyết sóng điện từ và trường năng lượng: “Trong mối quan hệ giữa người chết bị “trùng tang” và người bị “trùng bắt” không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số khác nhau nhiều nên theo lý thuyết về nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (tần số này là bội số của tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống”. 

Còn TS Đỗ Kiên Cường, một người rất am hiểu về những khả năng tiềm ẩn của con người, về những cái gọi là “thế lực siêu nhiên”… đồng thời là tác giả của rất nhiều bài viết lý giải về vấn đề này dưới góc độ khoa học cho rằng: “Trùng tang” đơn giản chỉ là sự trùng hợp mang tính ngẫu nhiên. Trong đó, bản chất của sự trùng hợp là luật số lớn trong lý thuyết xác suất và thống kê. Định luật này đơn giản có thể hiểu là: “Với một mẫu xét đủ lớn, bất kỳ hiện tượng kỳ lạ nào cũng có thể xảy ra”.

Như vậy, với những cách giải thích trên đây, mặc dù chưa có cách giải thích nào có thể chứng minh theo kiểu “tai nghe mắt thấy” nhưng rõ ràng “trùng tang” chỉ là một quan niệm “siêu thực”, xuất phát và tồn tại trong tín ngưỡng, thế giới tâm linh của con người. Và khi đã tồn tại trong tín ngưỡng dân gian, thế giới tâm linh của con người thì nhận định như nhà văn hóa Trần Lâm Biền “cần gì phải biết đúng - sai; thực - hư mà cứ để nó như vậy. Duy chỉ có điều không được khoác lên nó, thêu dệt xung quanh nó màu sắc mê tín dị đoan”.

Còn cách “hóa giải” trùng tang như Phật giáo khuyên: “Vì là tập tục đã ăn sâu vào tâm thức mọi người nên trong tinh thần phương tiên, nhà chùa vẫn khuyên các Phật tử không an táng thân quyến vào những ngày trùng, nhằm giúp họ an tâm để chu toàn tang lễ đồng thời nỗ lực cầu nguyện, khai thị, làm phúc hồi hướng cho hương linh. Đây mới là những điều cần làm để “âm dương lưỡng lợi” theo quan điểm của Phật giáo”.

Còn để “trấn an” tinh thần của những người còn sống, dân gian có cách “giải” trùng tang là: dùng các vị thần sa, chu sa, sương luật, địa liền… cho vào một cái túi rồi đặt trong quan tài người chết. Hoặc có thể dùng bộ linh phù để gối đầu người đã khuất, dán lên ngực, hoặc lót dưới quan tài… Bộ linh phù này được biết ở chùa Hàm Long, Bắc Ninh có bộ ván in khắc phù giải đã có mấy trăm năm nay. Người dân có thể đến đây nhờ các sư thầy tư vấn mà không nên lập đàn tế lễ tốn kém, gây hoang mang cho người còn sống…

Theo Tùng An


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thực hư về "trùng tang"

5 con giáp nữ càng già càng giàu có, may mắn

Đứng đầu bảng là cô nàng tuổi Mão với tính cách nhiệt tình, hiếu thuận lại thông minh, nhạy bén trong kinh doanh. Tiếp theo là cô nàng tuổi Thìn với năng lực kiếm tiền nổi trội.
5 con giáp nữ càng già càng giàu có, may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No5. Tuổi Tỵ

Những cô nàng tuổi Tỵ càng già càng thấy mình may mắn. Theo thời gian, họ dần hiểu ra những giá trị cuộc sống đáng quý mà trước đây họ không biết, không hiểu. Nói cách khác, thời gian giúp họ dần hiểu ra điều gì là quan trọng nhất trong cuộc sống của mình. Khi biết trân trọng những thứ mình có, khi tâm tâm trạng trở nên bình an, họ mới thực sự thấy cuộc sống của mình may mắn, hạnh phúc.

No4. Tuổi Tý

Khi trẻ, những cô nàng tuổi Tý khá cẩn thận, chi tiêu tiết kiệm nhằm quản lý tốt gia đình. Điều này không có nghĩa họ không biết hưởng thụ hay không muốn hưởng thụ, mà vì muốn cuộc sống gia đình an yên, muốn con cái có cuộc sống cân bằng ổn định. Khi những đứa trẻ trưởng thành, sự nghiệp ổn định, trách nhiệm với người cao tuổi trong nhà giảm bớt, họ mới nghĩ đến việc tận hưởng cuộc sống của riêng mình.

5-con-giap-nu-cang-gia-cang-giau-co-may-man

No3. Tuổi Sửu

Những cô nàng tuổi Sửu có khả năng kiếm tiền rất tốt, khả năng giữ tiền cũng không tệ, nên kho tài chính của họ theo thời gian sẽ ngày càng đồ sộ. Do không ngừng tích lũy tiền, tính toán giỏi, chỉ cần không có gì đột xuất, càng về già, cuộc sống của họ sẽ càng sung túc, không gặp áp lực trong công việc.

No2. Tuổi Thìn

Năng lực của những cô nàng tuổi Thìn rất tốt, nên cho sự nghiệp của họ luôn thuận buồm xuôi gió. Sự nghiệp thăng tiến, sẽ mang tới cuộc sống giàu có, vương giả. Cộng với tính cách của họ rất lôi cuốn, hấp dẫn, lại linh động trong giao tiếp với người trên kẻ dưới, nên rất được mọi người tôn trọng. Địa vị xã hội cao, cuộc sống của họ nhìn chung ngày càng dễ chịu.

No 1. Tuổi Mão

Những cô gái tuổi Mèo trời sinh tính cách nhiệt tình lại nhạy cảm. Khi trẻ, họ biết tích lũy tiền bạc, đầu tư vào phòng ốc, nhà cửa để không phải lo lắng tuổi già. Cộng với tính cách tốt bụng, mối quan hệ xã hội tốt, hiếu thuận với cha mẹ, chồng con. Với những lời nói, hành động như vậy, con cái họ lớn lên cũng rất hiếu thuận với họ - cuộc sống về già của họ sẽ luôn ngập tràn trong niềm vui, hạnh phúc, và an nhàn.

Maruko (theo Pclady)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 con giáp nữ càng già càng giàu có, may mắn

Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Tết Nguyên Đán lễ hội tết cổ truyền Việt Nam, 23 tháng chạp cúng ông Táo, đêm giao thừa cúng giao thừa ngoài trời, cúng giao thừa trong nhà, xông đất
Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết nguyên đán hay còn gọi là Tết Cả, là lễ hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất, từ Nam Quan đến Cà Mau và cả vùng hải đảo, tưng bừng và nhộn nhịp nhất của dân tộc. Từ những thế kỷ xa xưa thời Lý, Trần, Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng.

Tết nguyên đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội tết cổ truyền Việt Nam, mà phần “lễ” cũng như phần “hội” đều rất phong phú cả nội dung cũng như hình thức, mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà.

Việc ông cha ta xác định Tết Cả đúng vào thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một năm mới theo âm lịch, là một chu kỳ vận hành vũ trụ, đã phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người với thiên nhiên (Đất-Trời-Sinh vật), chữ NGUYÊN có nghĩa là bắt đầu, chữ ĐÁN có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới.

Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ, thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ tri ơn ông bà, tổ tiên.

Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết – do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – có một ý nghĩa đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính. Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì”, người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… người nông dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.

Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trước hết đó là Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả những người xa xứ cách hàng ngàn kilômét, vẫn mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà, nơi mà gót chân một thời bé dại đã tung tăng và được sống lại với bao kỷ niệm đầy ắp yêu thương ở nơi mình cất tiếng chào đời. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn, mảnh đất chôn nhau cắt rốn.

Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình gia đình, tình thấy trò, con bệnh với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri, con nợ và chủ nợ…

Tết cũng là dịp “tính sổ” mọi hoạt động của một năm qua, liên hoan vui mừng chào đón một năm với hy vọng tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng. Nhưng rõ nét nhất là không khí chuẩn bị Tết của từng gia đình. Bước vào bất cứ nhà nào trong thời điểm này, cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp và khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về… Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quan hệ xã hội rộng, đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng phức tạp hơn.

Theo tập tục, đến ngày 23 tháng chạp là ngày cúng ông Táo để đưa tiễn ông Táo về trời để tâu việc trần gian, thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày xưa dưới thời phong kiến, từ triều đình đến quan chức hàng tỉnh, hàng huyện đều nghĩ việc sau lễ “Phất thức” (tức lễ rửa ấn, rửa triện). Ở cấp triều đình, trong lễ nầy có sự hiện diện của nhà vua, các quan đều mặc phẩm phục uy nghiêm. Xem thế đủ biết rằng ngày tết được coi trọng như thế nào.

Sau đó, các quan cất vào tủ, niêm phong cẩn thận. Không một văn bản nào được kiềm ấn, mọi pháp đình đều đóng cửa. Con nợ không thể bị sai áp, các tội tiểu hình không bị trừng phạt, tội nặng thì giam chờ đến ngày mồng 7 tháng giêng (lễ khai hạ) mới tiến hành giải quyết. Như vậy, Tết Cả kéo dài từ ngày 23 tháng chạp (một tuần trước giao thừa) đến mồng 7 tháng giêng (một tuần sau giao thừa).

pháo hoa đêm giao thừa tết nguyên đán việt nam
pháo hoa đêm giao thừa tết nguyên đán việt nam

Không biết Tết cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ bao giờ, nhưng đã trở nên thiêng liêng, gắn bó trong tâm hồn, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam. Những tục lệ trò vui trong dịp Tết, chiếc bánh chưng xanh, mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên, cành đào, chậu quất khoe sắc trong mỗi gia đình đã trở thành một phần hình ảnh của quê hương để mỗi người Việt Nam dù sống ở nơi đâu mỗi độ xuân về lại bồi hồi nhớ về đất nước với bao tình cảm nhớ nhung tha thiết. Làm sao quên được thuở ấu thơ cùng đám trẻ con ngồi vây quanh nồi bánh chưng sôi sùng sục chờ giờ vớt bánh! Làm sao có thể quên được những phiên chợ Tết rợp trời hoa!

Ngày Tết chính thức bắt đầu từ giao thừa. Đây là thời điểm thiêng liêng nhất trong năm, thời điểm giao tiếp giữa năm cũ và năm mới, thời điểm con người giao hòa với thiên nhiên, Tổ tiên trở về sum họp với con cháu. Cúng giao thừa xong cả nhà quây quần quanh mâm cỗ đã chuẩn bị sẵn, uống chén rượu đầu tiên của năm mới, con cái chúc thọ ông bà cha mẹ, người lớn cho trẻ em tiền quà mừng tuổi đựng trong những bao giấy đỏ.

Sau lễ đêm giao thừa còn có tục đi đến đền chùa làm lễ sau đó hái về một nhánh cây đem về gọi là hái Lộc, hoặc đốt một nén hương rồi đem về cắm trên bàn thờ gia tiên gọi là Hương Lộc. Họ tin rằng xin được Lộc của trời đất thần Phật ban cho thì sẽ làm ăn phát đạt quanh năm. Sau giao thừa người nào từ ngoài đường bước vào nhà đầu tiên là người “xông nhà”, là người “tốt vía” thì cả nhà sẽ ăn nên làm ra, gặp nhiều may mắn, vì vậy người xông nhà thường được chọn trong số những người bạn thân.

Tết là dịp để con người trở về cội nguồn. Ai dù có đi đâu xa vào ngày này, cũng cố trở về quê hương để được sum họp với người thân dưới mái ấm gia đình, thăm phần mộ tổ tiên, gặp lại họ hàng, làng xóm. Ngày Tết cũng làm cho con người trở nên vui vẻ hơn, độ lượng hơn. Nếu ai có gì đó không vừa lòng nhau thì dịp này cũng bỏ qua hết để mong năm mới sẽ ăn ở với nhau tốt đẹp hơn, hoà thuận hơn. Có lẽ đó là ý nghĩa nhân bản của Tết Việt Nam.

Tục Lệ Trong Ðêm Giao Thừa

Trong Ðêm Giao Thừa, sau khi làm lễ giao thừa xong, có những tục lễ riêng mà cho tới ngày nay từ thôn quê đến thành thị vẫn còn nhiều người theo giữ.

Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầy phúc cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và cho gia đình. Và nhân dịp người ta thường xin quẻ đầu năm.

Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và kén hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp sự may mắn quanh năm. Ngày nay, người ta đi lễ nhưng ít người kén giờ và kén hướng.

Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong, lúc trở về người ta có tục hái một cành cây mang về ngụ ý là lấy lộc của Trời đất Phật Thần ban cho. Trước cửa đình cửa đền, thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá xùm xòa, khách đi lễ mỗi người bẻ một nhánh, gọi là cành lộc. Cành lộc này mang về người ta cắm trước bàn thờ cho đến Với tin tưởng lộc hái về trong Ðêm giao thừa sẽ đem lại may mắn quanh năm, người Việt Nam trong buổi xuất hành đầu tiên bao giờ cũng hái lộc. Cành lộc tượng trưng cho tốt lành may mắn. Về tục xuất hành cũng như tục hái lộc có nhiều người không đi trong Ðêm giao thừa, mà họ kén ngày tốt giờ tố trong mấy ngày đầu năm và Ði đúng theo hướng chỉ dẫn trong các cuốn lịch đầu năm để có thể có được một năm hoàn toàn may mắn.

Hương lộc: Có nhiều người trong lúc xuất hành đi lễ, thay vì hái lộc cành cây, lại xin lộc tại các đình đền chùa miếu bằng các đốt một nắm hương hoặc một cây hương lớn, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó cắm tại bình hương bàn thờ Tổ tiên hoặc bàn thờ Thổ Công ở nhà. Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt. Lấy lửa tự các nơi thờ tự mang về, tức là xin Phật Thánh phù hộ cho được phát đạt tốt lộc quanh năm. Trong lúc mang nấm hương từ nơi thờ tự trở về, nhiều khi gặp gió, nấm hương bốc cháy, người ta tin đó là một điềm tốt báo trước sự may mắn quanh năm. Thường những người làm ăn buôn bán hay xin hương lộc tại các nơi thờ tự.

Xông nhà: Thường cúng giao thừa ở nhà xong, người gia chủ mới đi lễ đền chùa. Gia đình có nhiều người, thường người ta kén một người dễ vía ra đi từ lúc chưa đúng giờ trừ tịch, rồi khi lễ trừ tịch tới thì dự lễ tại đình chùa hoặc ở thôn xóm, sau đó xin hương lộc hoặc hái cành lộc về. Lúc trở về đã sang năm mới, người này đã tự xông nhà cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Ði xông nhà như vậy tránh được sự phải nhờ một người tốt, vía khác đến xông nhà cho mình. Nếu không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày mồng một Tết đến xông nhà, trước khi có khách tới chúc Tết, để người này đem lại sự dễ dãi may mắn lại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Hướng bếp hợp người sinh năm 1946 Bính Tuất –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1946: - Năm sinh dương lịch: 1946 - Năm sinh âm lịch: Bính Tuất - Quẻ mệnh: Ly Hoả - Ngũ hành: Ốc Thượng Thổ (Đất nóc nhà) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh K

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1946:

tin-tuc-20140808014303432

– Năm sinh dương lịch: 1946

– Năm sinh âm lịch: Bính Tuất

– Quẻ mệnh: Ly Hoả

– Ngũ hành: Ốc Thượng Thổ (Đất nóc nhà)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);

Lời khuyên cho việc bài trí nội thất trong nhà:

Trong trường hợp này, có thể đặt bếp tọa các hướng Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ); , nhìn về các hướng tốt Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị);

Ngoài ra, bếp nên tránh đặt gần chậu rửa, tủ lạnh, tránh có cửa sổ phía sau, tránh giáp các diện tường hướng Tây.

Chậu rửa, cũng như khu phụ, được hiểu là nơi xả trôi nước, tức là xả trôi những điều không may mắn, nên đặt tại các hướng xấu như hướng Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);

Cửa của bếp nấu không được để thẳng với cửa chính của nhà, hoặc nhìn thẳng vào cửa phòng ngủ, người nằm ngủ sẽ gặp tai ương tật ách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1946 Bính Tuất –

Con giáp nào rất sợ nỗi cô đơn ám ảnh

Cô đơn thực sự là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với người tuổi Mùi, Sửu, Tỵ.
Con giáp nào rất sợ nỗi cô đơn ám ảnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Sửu

Con giáp này hay quan tâm, giúp đỡ bạn bè nên mọi người thường nghĩ họ luôn mạnh mẽ, kiên cường. Đôi khi bạn thấy họ tự hài lòng và vui vẻ với cuộc sống độc thân nhưng thực tế lại trái ngược. Những cô nàng tuổi Sửu, thậm chí là anh chàng, đều yếu đuối về tình cảm và không thể chịu nổi nỗi cô đơn gặm nhấm từng ngày.

suu-7843-1412778706.jpg

Với người tuổi Sửu, cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có tình bạn, dù cho họ được sống trong nhung lụa giàu sang. Chính lý do này khiến họ luôn nhiệt tình giúp đỡ ai gặp khó khăn, với mong muốn có được sự hòa đồng và niềm vui không cần báo đáp.

No2: Tuổi Tỵ

Ẩn sâu trong tâm hồn luôn lạc quan của người tuổi Tỵ là tính tình bất ổn, hay lo lắng thái quá về mọi thứ xung quanh. Thậm chí, họ còn hoài nghi, thiếu niềm tin vào tình yêu của mình và đối phương. Lúc nào con giáp này cũng có cảm giác không an toàn, sợ bị phản bội. 

ti-8943-1412778706.jpg

Chính những suy nghĩ quẩn quanh đó khiến người tuổi Tỵ cảm thấy cô đơn, lạc lõng, không có được sự đồng điệu về tâm hồn với nửa kia. Chẳng khác nào họ tự "mua dây buộc mình", khiến tinh thần thêm áp lực và muộn phiền.

No3: Tuổi Mùi

Người tuổi Mùi không thể chịu đựng được cuộc sống cô đơn, tẻ nhạt. Do đó, họ chủ động kết thân nhiều bạn bè và dù có làm việc ở xa, họ vẫn cố gắng dành thời gian về thăm nhà. Với con giáp này, gia đình luôn là nơi mang lại cảm giác an tâm và hạnh phúc nhất.

mui-6768-1412778706.jpg

Họ cực ghét việc phải ăn cơm một mình. Bởi lẽ cảm giác lạnh lẽo khiến họ có thể bật khóc bất cứ lúc nào. Cô đơn thực sự là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với người tuổi Mùi.

Mr.Bull (Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào rất sợ nỗi cô đơn ám ảnh

Dáng đi theo tướng pháp Trung Hoa –

Tướng pháp Trung Hoa cũng rất coi trọng động tướng để xem và dùng người. Tướng pháp Trung Hoa thường so sánh dáng đi của người với dáng đi của loài vật, từ đó mà áp vào tính cách của người, ví dụ: 1. Dáng đi của Rồng, Hổ, Sư tử thì quý, uy quyền. 2.
Dáng đi theo tướng pháp Trung Hoa  –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dáng đi theo tướng pháp Trung Hoa –

Chữ cái đầu của tên và tính cách –

Chữ cái đầu tiên trong tên gọi một con người biểu hiện nhiều nét tính cách của người ấy. Ngay bản thân hình thù của từng mẫu tự đã chứa đựng điều đó. Mời bạn tham khảo công trình nghiên cứu vui dưới đây để khám phá tính cách của bạn. A - Chữ A chứa đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chữ cái đầu tiên trong tên gọi một con người biểu hiện nhiều nét tính cách của người ấy. Ngay bản thân hình thù của từng mẫu tự đã chứa đựng điều đó. Mời bạn tham khảo công trình nghiên cứu vui dưới đây để khám phá tính cách của bạn.

images632265_bangchucai

A – Chữ A chứa đựng năng lực chỉ huy. Người có tên bắt đầu với nguyên âm này có khả năng đứng vững trên đôi chân của mình. Họ có nhiều tham vọng, thường rơi vào tình thế phải đưa ra những quyết định nhanh. Mặt tiêu cực: hơi bảo thủ và ích kỷ. Đặc biệt: dễ mắc bệnh về hô hấp.

B – Bạn có tính cách rụt rè, kín đáo, luôn khao khát tình cảm yêu thương. Bạn rất hay dồn nén những buồn vui cho riêng mình chịu đựng. Chớ nên quá cầu toàn đi tìm điều tốt đẹp hơn, một khi bạn đã chấp nhận những sự việc chung quanh mình. Mặt tiêu cực: bạn sống hơi cô lập và ủy mị.

C – Chữ C biểu thị sự cởi mở, tính thân thiện và năng lực sáng tạo. Bạn thích làm việc trong môi trường chuyên nghiệp, thích du lịch và chấp nhận rủi ro để kiếm tiền. Mặt tiêu cực: đôi khi bạn hay lãnh đạm, dửng dưng và tủn mủn.

D – Là một chữ cái có hình thù “đóng”. Nếu có tên bắt đầu bằng chữ D, bạn có thể là một quản trị gia tài ba. Bạn nặng tình yêu thương với gia đình và có tính tham công tiếc việc. Bạn là người rất bảo thủ. Mặt tiêu cực: khắt khe, bướng bỉnh và thích tranh cãi.

G – Tính cách không cởi mở, không thân thiện là người có tên bắt đầu bằng G. Bạn sống cô lập, bảo thủ. Bạn rất hay bị hiểu lầm, người khác nhìn bạn như một ốc đảo. Tuy nhiên, bạn có quyết tâm cao và luôn xem “chất lượng hơn số lượng”. Đặc biệt, bạn là người có tài diễn thuyết. Mặt trái của bạn là thích chỉ trích và dễ làm tổn thương người khác.

H – Ký tự H giống như một chiếc thang, biểu trưng cho sự thành công và những bước thăng trầm trong cuộc sống. Bạn tự kiểm soát tốt, có khát vọng mạnh mẽ đến thành công. Nếu có địa vị, bạn có thể là người lãnh đạo tốt, song cũng có thể rất tồi. Mặt tiêu cực: Hơi khắt khe trong cách nhìn nhận, đánh giá con người và sự việc. Bạn cũng nên cẩn thận với tiền bạc vì chữ H của bạn trống rỗng cả đầu lẫn đuôi.

K – Bạn hành động rất ngẫu hứng, lúc nào cũng khẳng khái, ung dung và cạn nghĩ. Các giác quan của bạn hơi kém. Tuy nhiên, đối với bạn, âm nhạc lại rất có tác dụng trong việc xoa dịu thần kinh. Nên lắng nghe những mối linh cảm của mình. Mặt tiêu cực của người có tên bắt đầu bằng phụ âm này: ít thật lòng và hay ủ dột.

L – Trầm tĩnh, thân thiện và yêu gia đình là tính cách của bạn. Đôi khi, bạn còn tỏ ra là người rất lãng mạn. Nghề giáo, hoặc các hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc rất thích hợp với bạn. Bạn hay có cảm giác bị người khác hiểu lầm. Chỉ cần rèn luyện thêm tính kiên nhẫn, bạn có thể trở thành một “quan tòa” tốt cho những rắc rối.

M – Bạn thuộc kiểu người trầm lặng và có suy nghĩ sâu sắc. Bạn siêng năng làm việc, cầu tiến và biết tổ chức tốt công việc. Mẫu người nội trợ giỏi cũng chính là bạn. Một khi đã vươn lên được một bậc, bạn biết cách giữ vững chỗ đứng của mình. Mặt tiêu cực của những người có tên bắt đầu bằng chữ M: hơi lạnh lùng, thiếu cảm thông và thiếu nhạy cảm.

N – Chữ N vốn có hình dạng “kết mở” ở cả 2 đầu. Vì thế, người có tên bắt đầu bằng chữ này có suy nghĩ cực kỳ phóng khoáng. Tuy nhiên, họ không phải là người ồn ào. Những người này có trực giác tốt, tư duy linh hoạt và thường đưa ra nhiều phát kiến hay. Họ có xu hướng đi đây đi đó rất nhiều trong suốt cuộc đời. Mặt tiêu cực: hơi độc đoán, dễ cáu gắt và ích kỷ.

O – Bảo thủ là tính cách dễ nhận thấy nhất ở bạn. Chính hình thù tròn trĩnh, khép kín của chữ O đã thể hiện sự “tự vệ” ấy. Tuy nhiên, bạn là người có tinh thần trách nhiệm và rất “có duyên” với tiền bạc. Đối với bạn, mái ấm gia đình rất quan trọng. Đó là nơi để bạn đi về sau một ngày làm việc mệt nhọc. Một ưu điểm nữa của bạn là sống rất thật lòng. Mặt tiêu cực: hay tự cho mình là đúng, hơi tự mãn và đa nghi.

P – Tên bắt đầu bằng chữ P là người uyên bác và có năng lực tập trung cao. Tính hay lo xa, vì thế, bạn luôn làm việc chăm chỉ, xử sự và chi tiêu luôn có cân nhắc. Điều đó không có nghĩa là suốt ngày bạn vùi đầu vào công việc. Bạn biết tận hưởng những giây phút thư giãn quý báu. Mặt tiêu cực: hay tự cao tự đại và thường ưu sầu.

Q – Tên bạn bắt đầu bằng chữ Q? Bạn là người đằm thắm, thủy chung và có hiểu biết. Bạn biết cách kiếm tiền, thích độc lập và giàu trí tưởng tượng. Tên bắt đầu bằng chữ Q khá hiếm (ở cả những nước khác). Những người này có thiên hướng hình thành tính cách, phẩm chất như tầng lớp quý tộc. Hãy cẩn thận, mặt tiêu cực của chữ cái bắt đầu này có thể rất nguy hiểm.

S – Là người thích làm việc độc lập và thường chỉ kết thúc đường công danh sự nghiệp khi đã làm ông, bà chủ. Người có tên bắt đầu bằng chữ S thường có trí nhớ tốt, thích kịch tính và có thể thành công trong nghề diễn viên. Bạn thường muốn đạt cho bằng được mục đích, nhưng đôi khi cũng hay bỏ dở nửa chừng. Khúc lượn ngay giữa chữ S chính là nguyên do của tính cách này. Mặt tiêu cực: hơi tự phụ.

T – Bạn là người luôn nghĩ đến hai mặt của một vấn đề. Bạn thường biết ngăn ngừa những điều xấu có thể xảy ra với mình. Tuy nhiên, bạn cũng rất dễ bị tổn thương. Những người có tên bắt đầu bằng chữ T có tinh thần hợp tác tốt, rất thích hợp với vai trò hòa giải. Mặt tiêu cực: nóng tính và thích mỉa mai.

U – Bạn có diện mạo dễ coi, tính cách cởi mở và thân thiện với tất cả mọi người. Ngoài ra, bạn còn là người có đầu óc sáng tạo, trí nhớ tốt đối với những vấn đề có liên quan đến ngôn từ, chữ nghĩa. Những người có tên bắt đầu bằng chữ U còn là người thật thà, rất đáng tin cậy. Mặt tiêu cực: bạn rất hay ghen. Đôi khi không kiềm chế được cảm xúc, bạn dễ nổi nóng, sẵn sàng gây gỗ với người khác. Rắc rối rất dễ xảy ra.

V – Suốt cuộc đời, bạn luôn phải xây dựng một sự cân bằng như 2 vế của chữ V. Chữ V thoải dốc, có đáy nhọn. Đây cũng là nét tính cách của bạn: biết đúc kết những suy nghĩ thành ý tưởng. Bạn cũng là người làm việc không biết mỏi mệt. Mặt tiêu cực trong tính cách của bạn là thực dụng, đôi khi hoang phí và thiếu cân nhắc.

X – Bạn coi trọng cả tinh thần lẫn vật chất. Bạn là người tuyệt vời nhất trong việc xây dựng sự cân bằng giữa hai lĩnh vực này. Những người có cái tên bắt đầu với chữ X luôn có được một tinh thần sáng suốt và lành mạnh. Chính nhờ ưu điểm này bạn luôn giúp ích được co bạn bè và người thân. Tuy nhiên, cuộc sống của bạn chứa đựng nhiều cay đắng và thù hận.

Y – Nếu tên của bạn bắt đầu bằng chữ Y, bạn là một người biết suy nghĩ sâu sắc. Bạn yêu thích tìm tòi, học hỏi và không thích ngồi lê đôi mách. Tuy nhiên trong cuộc sống thường ngày, bạn thường không dứt khoát khi đưa ra quyết định cuối cùng cho một vấn đề. Mặt tiêu cực của những người này: thường cảm thấy mình rất cô đơn, hơi nhiều dục vọng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chữ cái đầu của tên và tính cách –

Tụng Chú Đại Bi, diệt trừ ác nghiệp, được hưởng phúc lành

Chú Đại Bi là bài kinh thường được sử dụng trong các dịp cúng Quan Âm Bồ Tát, có tác dụng tiêu tai giải bạn, cầu may mắn, bình an.
Tụng Chú Đại Bi, diệt trừ ác nghiệp, được hưởng phúc lành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi khi có khó khăn hay trở ngại, hãy nghe hoặc niệm bài chú này, trong lòng sẽ thấy bình yên hơn.

=> Xem tử vi hàng ngày của 12 con giáp cập nhật mới nhất

chu dai bi hinh anh
 
Chú Đại Bi cầu Quan Thế Âm Bồ Tát mang tới những nhân duyên vô cùng tốt lành: Chúng sinh yên vui; Trừ mọi tai bệnh; Sống lâu khỏe mạnh; Giảm trừ tai nạn; Diệt trừ nghiệp ác; Xa rời chướng ngại; Tăng cường công đức; Củng cố thiện căn; Lánh xa uế tạp; Thỏa mãn mong mỏi.
  Trì tụng Chú Đại Bi mang tới công đức vô biên, nên thực hiện trong các trường hợp: trước khi qua đời; mở mang đất thờ Phật; gặp điều ác đức; hóa độ chúng sinh; tích cực tu hành; sám hối; gặp nguy nan bĩ cực.   Trở thành thiện nam tín nữ để hưởng an lạc
Cũng có những trường hợp, dù cầu trăm ngàn lần Chú Đại Bi cũng không ích lợi gì, ví như tâm không thành ý nên sở cầu không được như sở nguyện; cầu vì hạnh phúc của mình bất hạnh của người khác; tổn thương người khác để có lợi cho mình.
  Tụng Chú Đại Bi có thể làm chứng, tiêu trừ hết thảy tội nghiệt, hết thập ác, ngũ nghịch, hại người, hại pháp, phá trai, phá giới, phá tháp, phá chùa, trộm cắp, ô uế. Thành tâm thành ý mà niệm thì tận diệt đại ác, tất cả tiêu tan. Tu vi   Đọc Thần Chú Đại Bi, tiêu tai giải nạn
Thần Chú Đại Bi được rút ra từ Kinh Thiên Thủ, do chính Đức Phật Thích Ca diễn nói trong một pháp hội, trước mặt đông đủ các vị Bồ Tát, Thánh Tăng.

Nếu niệm Chú Đại Bi từ tâm thì không bao giờ phải sợ 15 cái chết: chết vì đói khổ, chết vì đánh đập, chết vì bị oan, chết vì chiến trận, chết vì thú dữ, chết vì rắn độc, chết vì nước lửa, chết vì trúng độc, chết vì hãm hại, chết vì cuồng loạn, chết vì rơi xuống núi, chết vì kẻ ác, chết vì quỷ thần, chết vì ác bệnh, chết vì không an phận.
  Tụng Chú Đại Bi, cầu tới cửa Quan Âm BồTát tấm lòng mênh mông rộng mở, đại lượng thì sẽ thành người thiện, hướng về cái thiện, giữ mình khiêm cung, biết phân biệt phải trái.  Thiện nam tín nữ tụng chú phát quang bồ đề tâm, phổ độ chúng sinh, giải trừ ác nghiệp. Chay tịnh tâm hồn, thanh lọc suy nghĩ, một lòng hướng Phật thì đời sẽ bình an.   Không điều gì là vĩnh cửu, nhớ để buông bỏ mà cải biên số mệnh Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tụng Chú Đại Bi, diệt trừ ác nghiệp, được hưởng phúc lành

Các lễ hội ngày 27 tháng 12 Âm Lịch - Hội Quỳnh ở Nghệ An

Hàng năm cứ vào ngày 27 tháng 12 âm lịch tại xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An lại tổ chức lễ Hội Quỳnh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 27 tháng 12 Âm Lịch - Hội Quỳnh ở Nghệ An

Các lễ hội ngày 27 tháng 12 Âm Lịch - Hội Quỳnh ở Nghệ An

Hội Quỳnh

Thời gian: tổ chức vào ngày 27 tháng 12 âm lịch.

Địa điểm: xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn tổ các dòng họ có công lập làng: Hồ, Nguyễn, Hoàng, Dương, Phan, Phạm.

Nội dung: Mở đầu lễ hội là rước thần về đình, tế lễ. Phần hội có trò chơi cướp cầu giỏ, đấu vật, đánh đu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 27 tháng 12 Âm Lịch - Hội Quỳnh ở Nghệ An

Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 8 tháng 6 - Hội Chọi Trâu Ở Đồ Sơn

Vào ngày mùng 6 tháng 9 âm lịch hàng năm tại quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng lại diễn ra lễ hội là Hội Chọi Trâu Ở Đồ Sơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 8 tháng 6 - Hội Chọi Trâu Ở Đồ Sơn

Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 8 tháng 6 - Hội Chọi Trâu Ở Đồ Sơn

Hội Chọi Trâu Ở Đồ Sơn

Thồi gian: tổ chức vào ngày 8 tháng 6 và 9 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.

Nội dung: Lễ hội chọi trâu cũng như nhiều lễ hội khác có hai phần, phần lễ và phần hội đan xen. Từ ngày mùng một đầu tháng, các vị cao niên trong làng đã ra làm lễ tế thần Điểm Tước ở đình Tổng. Lúc này, các làng có trâu chọi đều phải ra làm lễ. Sau đó là lễ rước nước ( có gắn với tục tế Thuỷ Thần). Lọ nước thần mỗi năm thay một lần được từng làng ( phường ) mang về đình riêng. Tại đình làng, các  chủ trâu được cho trâu ra làm lễ Thành Hoàng. Sau khi làm lễ thần, trâu chọi đã chính thức được gọi là "Ông trâu", là biểu tượng của tâm linh, là niềm tin, và là ước vọng của người dân nơi đây. Sáng ngày chính hội, 9/8 âm lịch, dân cư trong phường đều kéo ra đình. Từ đây, lễ rước các "Ông trâu" ra sới đấu với kiệu bát cống, long đình bát biểu, cờ thần bay phấp phới, rộn rã trong tiếng nhạc bát âm.

Phần hội diễn ra vào chính hội (9/8) với nhiều hoạt động mang đậm bản sắc dân tộc. Điệu múa khai hội được 24 tráng niên của làng chia thành hai hàng trình diễn vừa uyển chuyển, vừa mạnh mẽ, màu sắc biến hoá linh hoạt và huyền ảo trong những âm thanh của trống, thanh la. Theo cách nói của các lão làng, tiếng trống, tiếng thanh la có tác dụng tạo không khí trong sân bãi thúc giục các “ông trâu” thi đấu thêm phần quyết liệt. Với màn múa cờ, những lá cờ vung lên quật xuống mạnh mẽ, dứt khoát, nhịp nhàng, có lúc đan chéo vào nhau như hai đội quân đang giao chiến, thể hiện sự dũng cảm của con người chống chọi với biển khơi. Đúng 8 giờ, tiếng trống, tiếng chiêng khai hội, dịch loa gọi các “ông trâu” vào trận vang lên. Từ hai cổng bắc - nam của sới đấu, từng đôi trâu được dắt ra đứng dưới chân cột cờ Ngũ Phụng (ở hai bên). Hiệu lệnh phát ra thì hai trâu từ hai phía di chuyển lại gần nhau hơn, cách nhau chừng 20 m. Hiệu lệnh tiếp theo người dắt trâu đột nhiên rút dây mũi, hai trâu liền lao vào nhau bắt đầu trận so tài. Khi đã phân thắng bại, cảnh "Thu trâu" cũng diễn ra vô cùng hấp dẫn bắt bằng được con thắng để phải thi đấu xếp loại, phân ngôi nhất nhì...

Theo quan niệm cổ xưa, nếu trâu làng nào thắng trận trong lễ hội, năm ấy cả làng sẽ gặp nhiều may mắn, mưa thuận gió hoà, mọi người bình yên trong suốt hành trình đi biển. Và đặc biệt hơn nữa là cho dù thắng hay thua, sau khi kết thúc lễ hội, các trâu đều được mổ thịt tế lễ trời đất, cầu mùa màng thuận hoà. Người ta cũng tin rằng, nếu được ăn thịt trâu chọi trong dịp lễ hội, sẽ gặp nhiều điều may mắn.

Lễ hội chọi trâu mang đậm nét văn hoá tâm linh của người dân miền biển, góp phần tạo nên phong cách rất riêng cho một vùng duyên hải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 8 tháng 6 - Hội Chọi Trâu Ở Đồ Sơn

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd