Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh để tiền tài "rủng rỉnh" cả năm

Thay vì vung tay với hàng hiệu hay lựa chọn theo sở thích, bạn hãy tìm hiểu và ứng dụng luật ngũ hành, phong thủy để chọn một món đồ “giữ của” phù hợp nhất cho mình nhé!

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người xưa vẫn có câu “tài lộc trong tầm tay bạn”, tạm chưa phân tích đến nghĩa bóng sâu xa của câu nói, chỉ riêng nghĩa đen cũng đủ mở ra một trong những phạm trù vô cùng quan trọng trong đời sống hàng ngày: ứng dụng phong thủy vào việc lựa chọn túi xách. Bởi túi xách là nơi cất giữ tiền, nên rõ ràng nó ảnh hưởng trực tiếp đến tài lộc, vận may của người dùng.

1. Đặc điểm của chiếc túi

Nếu trên phương diện thời trang nói chung thì màu sắc đóng vai trò quyết định trong việc ứng dụng cũng như gắn kết thuyết ngũ hành để tạo dựng sự may mắn, thuận lợi trong mọi trường hợp. Ở đây ta đang xét trên lĩnh vực cụ thể hơn, đó là lựa chọn túi xách nên vấn đề về hình dáng, kích thước và cả chất liệu của chiếc túi cũng đều góp phần quyết định đến sự lựa chọn của bạn nếu bạn muốn ứng dụng luật phong thủy vào đó.

* Mệnh Kim

Những người cung mệnh Kim thường gắn liền với những gam màu như trắng, be, ánh bạc – những gam màu bản mệnh đồng thời cũng cần đến sự hỗ trợ của vàng, nâu - gam màu của mệnh Thổ tương sinh với Kim. Khi lựa chọn túi bạn nên lưu ý nhiều đến những gam màu này. Những dáng túi hình hộp vuông vắn, thiết kế thêm thắt vài chi tiết kim loại sẽ mang lại cho chủ nhân mệnh Kim nhiều tài lộc và may mắn trong cuộc sống đặc biệt là lĩnh vực liên quan đến tài chính. Chất liệu da hay giả da có thể phù hợp với mọi "ngũ hành" và đặc biệt hợp với mệnh Kim nên bạn sẽ luôn yên tâm khi lựa chọn chất liệu tốt nhất cho chiếc túi của mình.

Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 1.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 2.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 3.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 4.

* Mệnh Mộc

Người mệnh Mộc nên khoanh vùng những màu sắc hợp với mình như: các tông màu xanh (xanh đen, xanh tím than, xanh lá…) màu đen. Một chiếc túi hay những món phụ kiện màu xanh sẽ giúp người mệnh Mộc cảm thấy tươi vui và thoải mái hơn. Bạn cũng thật may mắn khi sở hữu gam màu đen - gam màu kinh điển và luôn là sự lựa chọn đầu tiên của mọi cô gái khi chọn túi xách và đây cũng là gam màu của sự hội tụ và ổn định, nó sẽ giúp bản thân người dùng có kế hoạch chi tiêu hợp lý, cụ thể hơn. Những thiết kế túi xách hình hộp chữ nhật sẽ hỗ trợ tối đa trên mọi phương diện của người mệnh Mộc. Bên cạnh chất liệu da và giả da, bạn có thêm những lựa chọn mềm mại hơn với những chiếc túi bằng vải mềm nữ tính.

Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 5.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 6.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 7.

* Mệnh Thủy

Bên cạnh những tông màu của xanh dương, đen hay những tông màu trắng, ánh kim của mệnh Kim sinh Thủy, thì khi nhắc đến mệnh Thủy ta còn cảm nhận trọn vẹn sự mềm mại, uyển chuyển, ổn định nhưng cũng vô cùng ồn ào mãnh liệt của yếu tố nước. Chính vì vậy thay vì những dáng túi hình hộp góc cạnh, quý cô mệnh Thủy hãy chọn cho mình những thiết kế túi xách dáng cong, bầu tròn thêm thắt vài chi tiết uốn lượn trong thiết kế.

Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 8.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 9.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 10.

* Mệnh Hỏa

Tất cả những gam màu nổi bật như đỏ, cam, hồng... đều ẩn chứa tính Hỏa trong đó nên nếu thuộc mệnh Hỏa, bạn sẽ luôn sở hữu những chiếc túi tạo điểm nhấn cho phong cách của mình. Đây cũng là những gam màu có thể đem lại cho bạn sự hưng thịnh, may mắn, giúp kích hoạt năng lượng, có thêm nhiều tài lộc nếu bạn thường xuyên sử dụng chúng. Bên cạnh đó, bạn cũng cần đến sự hỗ trợ từ những gam màu của Mộc như đen, xanh, nếu được thì sự đan xen màu sắc giữa Hỏa và Mộc trên chiếc túi thì mọi việc bạn làm sẽ càng thêm thăng hoa và thuận lợi hơn.

Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 11.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 12.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 13.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 14.

* Mệnh Thổ

Người mệnh Thổ có khá nhiều lựa chọn màu sắc phù hợp cho chiếc túi của mình. Nếu muốn nổi bật, ấn tượng trong phong cách cũng như khơi gợi nhiệt huyết cho mọi việc, quý cô mệnh Mộc có thể chọn những tông màu nổi có tính Hỏa. Còn nếu hướng tới sự ổn định, nền nã và hài hòa, các tông màu nâu của đất - gam màu bản mệnh sẽ là lựa chọn hoàn hảo nhất. Thêm vào đó, từ ngàn xưa vẫn luôn có quan niệm Thổ tạo ra vàng, tiền tài danh vọng, vậy nên một chiếc túi da màu nâu đất, hay vàng nâu có thể giúp nâng cao năng lực tiết kiệm và tích lũy tài chính cho người mệnh Thổ.

Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 15.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 16.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 17.
Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 18.

2. Cách bạn sử dụng chúng

Sau khi khoanh vùng được chiếc túi với những đặc điểm phù hợp với từng cung mệnh của mình, thì ứng với thuyết phong thủy việc bạn sử dụng chiếc túi (cầm, nắm, đặt, để…) như thế nào cũng góp phần quyết định sự may mắn, tiền tài của người sử dụng.

Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 19.

Theo quan niệm phong thủy của phương Đông, phần bên phải cơ thể là “ Bạch Hổ” tượng trưng cho sự mạnh mẽ, đanh thép và cuồng nhiệt, trong khi bên trái là “Thanh Long” hiện thân của năng lượng, quyền lực và sự nể trọng. Vì vậy cách bạn đeo túi bên vai trái hay phải thể hiện rõ ràng điều mà bạn mong muốn và hướng tới. Tốt nhất bạn nên đeo, cầm túi xách phía bên trái, nếu là đeo chéo có thể đeo bên vai trái rồi lệch sang bên phải, điều này sẽ giúp tăng năng lượng vào và giảm năng lượng ra. Bên cạnh đó khi ngồi bạn cũng nên đặt túi sang phía bên trái cơ thể.

Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh phong thuỷ để tiền tài rủng rỉnh cả năm - Ảnh 20.

Theo thuyết phong thủy thì việc đặt túi xách lên sàn nhà là một điều cấm kị. Văn hóa Phương Đông xưa có một câu ngạn ngữ rằng: "Túi trên sàn nhà, tiền ra khỏi cửa". Tiền bạc, thẻ tín dụng thường nằm trong túi và khi đặt chúng trên sàn nhà hoặc dưới đất sẽ thể hiện sự bất kính, coi thường của cải, vật chất. Điều đó không hề tốt chút nào, tiền tài danh vọng và cả sự may mắn thuận lợi đều là những điều ta cần trân trọng, nên cần phải thực sự cẩn thận và nâng niu ngay cả với một chiếc túi xách đơn thuần nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đầu năm chọn túi xách hợp mệnh để tiền tài "rủng rỉnh" cả năm

Những thắc mắc tâm linh trong tháng 7 âm lịch

Theo truyền thống, tháng 7 Âm lịch không thích hợp với những chuyện đại sự như kết hôn hoặc khai trương. Thế nhưng, mọi sự đều có ngoại lệ.
Những thắc mắc tâm linh trong tháng 7 âm lịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tuy rằng cả tháng 7 Âm lịch đều là tháng Cô Hồn, thế nhưng phải tới ngày 14 tháng 7 Âm lịch, mới là tết Trung Nguyên và Quỷ Môn mới chính thức mở ra. Cũng có người thắc mắc sao không phải là ngày 15 tháng 7, lại có người cho rằng Quỷ Môn đã mở từ ngày mùng 1 rồi. Vậy, câu trả lời chính xác là gì?
 
 
Nhung thac mac tam linh trong thang 7 am lich hinh anh
Ảnh minh họa

1. Tại sao phải đúng ngày 14 tháng 7 Quỷ Môn mới mở ra?

  Chú ý, Quỷ Môn mở ra chứ không phải Quỷ Môn mở.   
Theo dân gian, tháng 7 Âm lịch là tháng cô hồn, Quỷ Môn sẽ mở từ ngày mùng 1 tháng 7 và sẽ đóng lại vào ngày 30 tháng 7 Âm lịch. Trong thời gian này, những quỷ hồn từ Địa phủ có thể trở về đoàn tụ cùng người thân. Còn với những cô hồn dã quỷ, không nơi thân thích thì lang thang khắp chốn để tìm đồ ăn, vì vậy nên hóa vàng mã để oán khí bớt nặng nề.
  Nhưng phải tới tận ngày 14 tháng 7 Quỷ Môn mới mở ra tới sau ngày 15 tháng 7 thì lại khép dần vào, tới tận ngày 30 tháng 7 thì chính thức khép kín.  

2. Tại sao quỷ hồn không đi cửa chính?

  Mọi người muốn tránh Quỷ hồn thì cần nhớ 3 điều sau: Đêm đi ngủ không mở cửa sổ vì quỷ hồn không đi cửa chính. Đi ngoài đường buổi đêm không nên quay đầu lại vì bước đi của quỷ không có tiếng động sẽ làm bạn phải kinh sợ. Đêm tối không gọi lớn tiếng vì âm thanh đó sẽ làm cho quỷ động lòng. Vậy tại sao quỷ không đi cửa lớn?    Bởi vì, xưa kia, cửa chính thường được làm bằng gỗ xoan đào, loại gỗ này có tác dụng trừ tà, tránh quỷ, hơn nữa trên cửa chính cũng có treo gương bát quái hoặc có Môn Thần trước cửa. Cửa sổ thường không làm bằng gỗ xoan đào, cũng không có Thần Môn giữa cửa, bởi vậy, quỷ hồn không đi cửa chính mà đi đằng cửa sổ.  

3. Tháng 7 cô hồn, nửa đêm hoảng loạn thì phải làm sao?

 

Người xưa có câu: “Thất Nguyệt quỷ môn khai, Ngọ dạ tâm hoảng hoảng”. Mỗi lần đến tháng 7 âm lịch thì ngoại trừ kem và những loại đồ uống mát lạnh hay bể bơi thì có một thứ khác khiến cho bạn cảm thấy lạnh thấu, đó chính là sự kinh hoàng trước quỷ. Rất nhiều người trong đêm oi bức lại bị hoảng sợ tới dựng tóc gáy hoặc chui trong chăn run lẩy bẩy khiếp đảm…   Trên trán mỗi người đều có một ngọn lửa, là vị trí của Thần Đăng nên tuyệt đối không nên để tóc che trán nếu không bạn sẽ gặp nhiều phiền phức. Hơn nữa, trong tháng cô hồn, mọi người thường nói nhiều về chuyện quỷ hồn nên mọi người có chút sợ hãi về tâm lý, tâm thần bất định nên vô cùng hoảng loạn và sợ hãi khi đêm đến.   Chỉ cần bạn biết cách trừ tà thì khí định thần nhà, sẽ không hoang mang và cũng sẽ không gặp chuyện phiền toái trong tháng cô hồn.

 

4. Sinh vào tháng quỷ, thậm chí vào đúng ngày 14 và 15 tháng 7 Âm lịch thì phải làm sao?

  Theo dân gian thì trai mùng một, gái ngày rằm, tức là những người được sinh ra trong tháng quỷ thì vận mệnh khó khăn, ảnh hưởng cả tới những người xung quanh, nên những người này thường tìm cha mẹ nuôi hoặc bán khoán. Vậy nhưng, bất kể sinh ra vào ngày nào thì cũng là duyên trời định, rất nhiều trường hợp sinh ra vào ngày tốt, giờ tốt thì vận mệnh vẫn gặp nhiều xui xẻo. Điều quan trọng là biết cách tự thân hóa giải thì mọi chuyện sẽ êm lành, tốt đẹp. Nếu vận mệnh của mình cứng ngắc thì bạn nên mang theo bùa hộ mệnh, phòng những chuyện không may, đặc biệt là tai nạn, xe cộ.   Còn nếu vận mệnh của bạn khắc với người khác thì sẽ ảnh hưởng tới những người xung quanh, kể cả cha mẹ, bạn nên tìm cách hóa giải xung khắc.  

5. Trong tháng 7 không nên kết hôn hoặc khai trương?

 

Theo truyền thống, tháng 7 Âm lịch không thích hợp với những chuyện đại sự như kết hôn hoặc khai trương. Thế nhưng, mọi sự đều có ngoại lệ, cứ căn cứ vào tình hình cụ thể để tiến hành, bên cạnh đó cần có kế hoạch rõ ràng, không được vội vàng hấp tấp thì cũng không phải lo lắng gì.   Có thể thấy rằng, tháng 7 Âm lịch là tháng cô hồn đã có lịch sử lâu đời, mang ý nghĩa rất quan trọng, ## chúc bạn bình an, hạnh phúc và may mắn trong tháng này.   Lệ Mỹ Bày cách cúng cô hồn chuẩn, gia đình không bao giờ bị ma quỷ quấy nhiễu 9 điềm báo gặp ma và cách hóa giải trong tháng 7 ma khóc quỷ hờn Tháng cô hồn: Nên sờ ngực, kị nhặt tiền rơi?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những thắc mắc tâm linh trong tháng 7 âm lịch

Nằm mơ thấy chồng ngoại tình –

Bình thường, giấc mơ sẽ phản ánh đúng có những hiện thực mà chúng ta đang gặp phải cũng như đang thực hiện. Chính vì vậy, hiện thực và giấc mơ thường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Một trong những khía cạnh cũng như hình ảnh mà chúng ta bắt gặp th
Nằm mơ thấy chồng ngoại tình –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy chồng ngoại tình –

Những chòm sao nữ khiến các chàng trai muốn chinh phục ngay lần gặp đầu –

Đứng hạng nhất là Thiên Bình bởi tính cách dễ mến mà kiêu sa; hạng nhì Bảo Bình, hạng ba Kim Ngưu…Nên khiến các chàng trai muốn chinh phục. Vậy những chòm sao nữ khác thì sao? Hãy cùng khám phá những chòm sao nữ khiến các chàng trai muốn chinh phục n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đứng hạng nhất là Thiên Bình bởi tính cách dễ mến mà kiêu sa; hạng nhì Bảo Bình, hạng ba Kim Ngưu…Nên khiến các chàng trai muốn chinh phục. Vậy những chòm sao nữ khác thì sao? Hãy cùng khám phá những chòm sao nữ khiến các chàng trai muốn chinh phục ngay lần gặp đầu trong bài viết sau.

Nội dung

  • 1 Những chòm sao nữ khiến các chàng trai muốn chinh phục
    • 1.1 Hạng nhất: Thiên Bình
    • 1.2 Hạng nhì: Bảo Bình
    • 1.3 Hạng 3: Kim Ngưu
    • 1.4 Hạng 4: Bò Cạp
    • 1.5 Hạng 5: Nhân Mã

Những chòm sao nữ khiến các chàng trai muốn chinh phục

Hạng nhất: Thiên Bình

Ấn tượng để lại trong lần gặp mặt đầu tiên của những cô nàng Thiên Bình là sự “vừa đủ” của mình. Họ không quá phô trương, cũng không quá khép mình trước mặt đối phương.

thien-binh-4807-1403109673

Tính cách hòa đồng, dễ mến mà vẫn tạo vẻ kiêu sa, kích thích sự hiếu kỳ của đối phương. Bởi thế hộ đầu keo mới mê mệt và tỏ ý muốn chinh phục những cô nàng Thiên Bình ngay từ giây phút đầu tiên gặp gỡ.

Hạng nhì: Bảo Bình

Sự năng động, hoạt bát, nhạy bén nhưng lại không quá phô trương và vô cùng đáng yêu của những cô nàng Bảo Bình là “liều thuốc” mê hoặc đối phương ngay từ lần đầu gặp mặt.

bao-binh-9182-1403109674

Ngoài ra, chòm sao này rất coi trọng ấn tượng đầu tiên, nên họ luôn chủ động tạo dựng hình ảnh đẹp trong mắt mọi người ở bất cứ đâu.

Hạng 3: Kim Ngưu

kim-nguu-8097-1403109674

Đây là chòm sao đáng tin cậy. Ngay trong lần gặp gỡ đầu, bạn sẽ thấy những cô nàng Kim Ngưu rất nhiệt tình và dễ mến, càng tiếp xúc lâu càng thấy họ hòa đồng và đáng tin cậy. Đó là lý do tại sao các chòm sao nam thích “mê mệt” các nàng Kim Ngưu đến vậy.

Hạng 4: Bò Cạp

Chòm sao này sẽ chủ động để tạo ấn tượng khó phai trong lòng đối phương ngay từ lần hẹn hò đầu. Dường như Bò Cạp sinh đã có sức hút mãnh liệt với người khác giới rồi.

bo-cap-9351-1403109674

Thường thì họ không để lộ tình ý của mình mà chỉ úp mở để đối phương tự tìm hiểu và đoán biết. Sức lôi cuốn của những cô nàng Bò Cạp chính là ở điểm biết “đánh thức” sự tò mò của người khác một cách khéo léo.

Hạng 5: Nhân Mã

Trong lần gặp đầu, những cô nàng Nhân Mã thường chủ động bắt chuyện với đối phương. Tuy nhiên, việc có thể nói chuyện một cách cởi mở và suôn sẻ hay không lại tùy thuộc vào khả năng của bạn. Nhân Mã biết cách “bật đèn xanh” cho đối phương một cách hài hòa, khôn khéo.

nhan-ma-7210-1403109674

Họ không bao giờ để lộ suy nghĩ thực của mình cho đối phương biết trong lần đầu gặp mặt. Muốn hiểu và chinh phục được trái tim Nhân Mã đòi hỏi đối phương phải cực kỳ kiên nhẫn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chòm sao nữ khiến các chàng trai muốn chinh phục ngay lần gặp đầu –

Những ảnh hưởng cần biết về sao chiếu mệnh trong năm

Dân gian có câu: “Nam La hầu, Nữ Kế đô" để chỉ những sao Hung tinh xấu cho tùy mệnh nam và nữ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi năm, các chòm sao chiếu mệnh và sao hạn lại dịch chuyển, mang lại vận hạn khác nhau với nam mạng và nữ mạng. Có những sao Hung Tinh như La hầu, Kế đô; những cũng có những sao Cát tinh như Mộc đức. Tuy nhiên, có rất ít người nắm rõ chính xác chòm sao chiếu mệnh đó mang lại vận hạn thế nào? Những hiểu biết cơ bản về sao Cửu Diệu sau đây sẽ giúp chị em có cái nhìn rõ ràng hơn.

 nhung anh huong can biet ve sao chieu menh trong nam - 1

1. La Hầu

Người gặp năm sao La Hầu chiếu thường hay gặp họa về miệng. Trong suốt cả năm gặp nhiều chuyện phiền muộn, bệnh tật. Sao Hung với cả nam lẫn nữ, đặc biệt là tháng Giêng, tháng Bảy.

2. Kế Đô

Sao hung hạn cho nữ giới, đặc biệt là trong tháng Ba và tháng Chín. Năm sao Kế Đô chiếu, mọi người dễ gặp hao tổn tiền của, tai nạn không ngờ. Gia đình cũng có nhiều lục đục.

3. Thái Dương

Sao Thái Dương (mặt trời) mang hào quang tới cho người nam, đặc biệt vào tháng Sáu, tháng Mười. Nam gặp sao Thái Dương sẽ được an khang thịnh vượng, tài lộc như nước. Tuy nhiên, sao Thái Dương lại mang đến tai nạn, bệnh tật cho nữ mạng.

4. Thái Âm

Sao Thái Âm (mặt trăng) tốt cho cả nam mạng và nữ mạng khi tháng Chín đến nhưng lại kéo hạn khi vào tháng Mười. Năm này, tốt về công danh, hỉ sự nhưng không tiện về đường con cái.

5. Mộc Đức

Sao Mộc Đức (Mộc tinh) là tốt về hôn sự. Vào năm này, có thể cân nhắc cưới xin vào tháng Mười, tháng Chạp. Tuy nhiên, nữ mạng nên đề phòng các bệnh liên quan đến sản khoa, máu huyết, nam mạng dễ mắc các bệnh về mắt. 

6. Vân Hớn

Sao Hỏa tinh mang lại hung hiểm vào tháng Hai và tháng Năm. Nam gặp hạn về công việc, bệnh tật, oan sai. Nữ mạng cẩn thận các bệnh về sản phụ khoa.

7. Thổ Tú

Năm gặp sao Thổ Tú (Thổ tinh) thì không nên đi xa. Trong công việc, dễ phạm kẻ tiểu nhân, bị vu oan. Đầu tư kinh doanh cũng không thuận lợi. Đặc biệt nên chú ý cẩn thận vào tháng Tư, tháng Tám.

8. Thái Bạch

Sao Thái Bạch (Kim tinh) không tốt cho công việc kinh doanh khi vừa có tiểu nhân quấy phá và còn hao tài tốn của. Người gặp năm sao Thái Bạch nên tránh sử dụng đồ màu trắng.

9. Thủy Diệu

Thủy Diệu (Thủy tinh) là chòm sao mang đến hạnh phúc, tài lộc. Gặp năm sao Thủy Diệu, người nữ nên cẩn trọng lời ăn tiếng nói để tránh mang đến những tranh cãi không đáng có.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những ảnh hưởng cần biết về sao chiếu mệnh trong năm

Hợp tác kinh doanh của người tuổi Mùi

Người tuổi Mùi và tuổi Thân hợp tác tương đối thành công. Người tuổi Thân tài năng hơn người, có thể thúc đẩy sự nghiệp phát triển.
Hợp tác kinh doanh của người tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Mùi và tuổi Tý có thể hợp tác nhưng không ăn ý lắm. Thành công sẽ khó được như mong đợi nếu hai bên không có thiện chí và tôn trọng nhau.

Người tuổi Mùi và tuổi Sửu không thể hợp tác vì hai bên không hiểu nhau, từ đó khó có chung quan điểm để cùng kinh doanh đạt nhiều lợi nhuận.

Người tuổi Mùi và tuổi Dần khó hợp tác lâu dài. Hổ có thể chịu đựng được dê nhưng dê không thể chấp nhận bản tính nóng nảy của hổ.

Người tuổi Mùi và tuổi Mão khá hòa hợp trong hợp tác làm ăn. Mèo có con mắt tinh tường, dê làm việc hăng say nên hiệu quả công việc sẽ được như ý muốn.

Người tuổi Mùi và tuổi Thìn có thể hợp tác ăn ý trong lĩnh vực nghệ thuật. Tuy nhiên, người tuổi Thìn thường đưa ra quyết định trong mọi vấn đề và điều này khiến người tuổi Mùi có cảm giác bị lép vế.

Người tuổi Mùi và tuổi Tỵ có thể hợp tác. Dê khoan dung, độ lượng thông cảm với những thiếu sót của rắn. Rắn lại thông minh, biết xử trí mọi việc một cách chu toàn, không ai có thể chê trách.

Hop tac kinh doanh cua nguoi tuoi Mui hinh anh
Tuổi Mùi

Người tuổi Mùi và tuổi Ngọ không thể hợp tác làm ăn lớn. Dê thường tán dương tài năng của ngựa. Đôi khi, hợp tác mang tính chất mạo hiểm.

Những người cùng tuổi Mùi hợp tác bình thường. Để có được thành công trong kinh doanh, họ cần sự giúp đỡ của người thứ ba.

Tuy nhiên, người tuổi Mùi nên có con mắt nhìn xa trông rộng, không nên quá lo lắng những khó khăn trước mắt.

Người tuổi Mùi và tuổi Dậu không nên hợp tác làm ăn. Người tuổi Mùi để lại ấn tượng không tốt cho tuổi Dậu khiến cho hai người khó có chung ý tưởng kinh doanh.

Người tuổi Mùi và tuổi Tuất ít có khả năng hợp tác được với nhau. Người tuổi Tuất nhận thấy mình có khả năng làm việc quan trọng hơn nên không muốn hợp tác với tuổi Mùi.

Người tuổi Mùi và tuổi Hợi hợp tác khá vui vẻ. Lợn có tài lộc tốt, dê thường giúp đỡ lợn hết lòng, hai bên đều có lợi khi chung sức phát triển sự nghiệp.

Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hợp tác kinh doanh của người tuổi Mùi

Clip "Chết không phải là hết" - giá trị của sinh mạng

Con người thường sợ hãi và trốn tránh cái chết nhưng nó có thật đáng sợ đến vậy? Xem clip “Chết không phải là hết” để cùng ## tìm câu trả lời.
Clip "Chết không phải là hết" - giá trị của sinh mạng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm

Clip Chet khong phai la het - gia tri cua sinh mang hinh anh
 
Sinh, lão, bệnh, tử là quy luật tự nhiên của đời sống, ai cũng phải trải qua, muốn cũng không thể trốn tránh. Biết như vậy nhưng nhiều người vẫn cố gắng kéo dài tuổi thọ, tránh xa cái chết, đối diện với nó bằng sự sợ hãi và tuyệt vọng.
 
Nếu xem rằng cái chết là sự kết thúc của tất cả thì con người sẽ sống buông thả, tìm đến cái chết mỗi khi khó khăn, không có động lực cố gắng, không có mục tiêu đúng đắn. Những trường hợp tự tử phần lớn xuất phát từ suy nghĩ tiêu cực ấy.
 
Nhưng phải biết rằng, sau khi từ giã cõi đời vẫn còn phải tiếp tục gánh vác những việc mình đã làm. Tìm đến cái chết không phải là giải thoát mà là trốn tránh, hèn nhát. Clip “Chết không phải là hết” dưới đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về sinh tử, giá trị của sinh mạng và ý nghĩ chân thực của cuộc đời này. 

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Clip "Chết không phải là hết" - giá trị của sinh mạng

Cách hóa giải nhà vệ sinh giữa nhà –

Theo xu hướng thiết kế chung trong những năm gần đây, nhà vệ sinh trong các chung cư thường hay được đặt ở khu vực giữa cửa nhà hoặc khu vực gần cửa chính (khí khẩu) của căn hộ, có khi nhà vệ sinh có thiết kế cửa nằm đối diện với phòng ngủ chính. The

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

o nguyên tắc  phong thủy, nhà vệ sinh đặt ở khu vực này sẽ khiến ngôi nhà bị uế khí, gây ảnh hưởng đến vận khí, đặc biệt là sức khoẻ của gia đình.

Khu vực trung tâm của ngôi nhà được ví như lá phổi để điều quản không khí sinh hoạt chung của cả gia đình. Vì thế nếu đặt nhà vệ sinh ở khu vực trong phong thủy là điều cấm kỵ, gia chủ rất dễ đau ốm và dễ xảy ra cãi cọ…. Chưa nói đến việc bất tiện trong việc lắp đặt hệ thống cấp thoát nước sẽ buộc phải chạy vòng qua phía dưới các  khu sinh hoạt của nhà ở, vừa không tiện lại khó sửa chữa nếu như có sự cố gì. Ngoài ra, cửa phòng vệ sinh rất kỵ xung chiếu (đối diện) với bếp ăn, phòng ngủ và cửa chính.  Cửa chính được gọi là “khí khẩu”, là nơi tiếp thu vận khí từ bên ngoài vào trong nhà. Nếu cửa phòng vệ sinh hướng ra cửa chính, những khí tốt và tài lộc của gia chủ sẽ bị cản lại, không khí sinh hoạt gia đình sẽ không được hòa thuận, vui vẻ, dễ xảy ra xung đột, cãi lộn. Nếu đối diện với cửa nhà bếp hoặc chính diện với bếp ăn, sự hôi hám và luồng khí âm từ nhà vệ sinh sẽ “ám” vào thức ăn, gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của các thành viên trong gia đình, bệnh tật , đau ốm liên miên. Phòng vệ sinh mang biểu tượng của Thủy khí, nhà bếp mang biểu tượng của Hỏa khí. Hai phòng này nếu đối diện nhau sẽ gây nên sự xung khắc lớn, gây hao tốn tài của và mang bệnh tật đến cho gia chủ.

Có thể thấy, một bước sai lầm trong việc đặt vị trí của nhà vệ sinh sẽ kéo theo đó không ít tác hại. Nhịp sống mở,con người đã dần dần ý thức trong việc sử dụng nhà vệ sinh không chỉ là nơi dùng để tắm rửa, vệ sinh thông thường nữa, mà thay vào đó là sự trau chuốt , tỉ mỉ từ những chi tiết nhỏ nhất như họa tiết viên gạch lát nền hay đến hình thức của bàn cầu cũng được rất chú trọng, để biến nhà vệ sinh còn trở thành một nơi lý tưởng giúp hòa dịu áp lực cuộc sống, giải phóng thể xác cũng như tinh thần sau một ngày làm việc vất vả. Nhưng nếu thiết kế  như ở trên thì vô hình chung đã biến nhà vệ sinh trở thành một nơi gieo “mầm họa”. Vậy khắc phục như thế nào, sửa chữa ra sao mới thuận?

thach-anh-bao-binh-thuy

Ắt hẳn việc gia cố lại nhà vệ sinh không phải là việc dễ dàng với mỗi gia đình. Với nhà đã hoàn thiện thì việc thay đổi thiết kế là việc tương đối khó, dễ phát sinh nhiều chi phí và phụ thuộc vào tiềm lực tài chính của gia chủ. Vậy trong trường hợp nguồn tài chính hạn hẹp, không thể đập đi xây mới lại căn nhà thì không lẽ phải chịu “sống chung với lũ”? Thạch anh bảo bình thủy hóa giải được điều này. Theo nghiên cứu, thạch anh bảo bình thủy được làm từ đá thạch anh dương khí rất mạnh, có tính chất hút âm khí trong nhà vệ sinh hóa giải một phần lớn khí xấu trong nhà vệ sinh giúp cải thiện sức khỏe, gia đạo và tài lộc. Khi sử dùng thạch anh bảo bình thủy nên có chứa nước bên trong để tăng uy lực. Khi khí đá trong bình chuyển màu vàng hoặc xám thì lấy nước sạch lau rửa rồi cho vào vị trí cũ. Chỉ với phương cách đơn giản này, có thể vừa khắc phục và giảm thiểu đáng kể những vận “xấu” do việc thiết kế nhà vệ sinh sai vị trí, đồng thời còn mang lại cho gia đạo thêm nhiều bình an và may mắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải nhà vệ sinh giữa nhà –

Chùa Tự Khánh - Hà Nội

Chùa Tự Khánh có tên nôm là chùa Vẽ, chùa Cả, gọi theo địa danh là chùa Đông Ngạc. Chùa tọa lạc tại xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, TP. Hà Nội
Chùa Tự Khánh - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Tự Khánh có tên nôm là chùa Vẽ, chùa Cả, gọi theo địa danh là chùa Đông Ngạc. Chùa tọa lạc tại xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, TP. Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 10km về phía Đông Bắc.

Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được xây dựng vào đời Hậu Lê. Tấm bia đời Lê Thần Tông (1653-1661) đã ghi công đức của ông Nguyễn Phúc Ninh và bà Trần Thị Ngọc Luân đã hưng công sửa ngôi chùa to lớn. Hai nhân vật trên được chọn là hậu Phật của chùa.

Chùa Tự Khánh có 59 gian, kiến trúc nội tự chữ “Đinh”, ngoại tự chữ “Quốc”. Chùa Tự Khánh với phong cách nghệ thuật thế kỷ 18 – 19. Chùa có quả chuông đúc năm Diên Hựu thứ 2 (1315). Trong chùa hiện còn có tấm bia có niên đại Thịnh Đức ghi rõ công đức của vợ chồng ông Nguyễn Phúc Ninh, cúng gia tư điền sản để tu bổ, dựng lại chùa, và được dân làng tôn làm Hậu Phật.

Hiện tại, chùa còn 53 tượng đẹp, 1 quả chuông nặng 750kg treo ở gác chuông có niên đại Gia Long 16 (năm 1817) và 2 quả chuông nhỏ hơn cũng được đúc vào thời Nguyễn. Chùa còn 3 bộ cửa võng, nhang án, hoành phi, câu đối được chạm trổ tinh xảo.

Kiến trúc chùa gồm tam quan, gác chuông, nhà vuông với mái chồng diêm, chùa chính, nhà Tổ. Chùa chính có kết cấu hình chữ Đinh gồm: tiền đường 3 gian 2 chái, hậu cung có mái chồng diêm.

Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa còn giữ được 5 pho tượng được tạo tác công phu mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII – XIX và nhiều đồ thờ tự cổ. Chùa được liệt vào danh sách “Chùa có ít tượng nhất” trong bảy cái nhất của chùa Hà Nội.

Chùa Đông Ngạc đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1993.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Tự Khánh - Hà Nội

Chùa Diệu Đế - Huế

Chùa Diệu Đế trải qua thăng trầm của lịch sử, từng huy hoàng, cũng từng suy vong theo thời cuộc, nhưng chùa vẫn đứng vững với thời gian
Chùa Diệu Đế - Huế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Diệu Đế tọa lạc ở 100 đường Bạch Đằng, phường Phú Cát , thành phố Huế. Chùa là ngôi Quốc tự thứ ba ở Huế, được Vua Thiệu Trị liệt hạng là một trong 20 thắng cảnh của đất Thần Kinh. Sở dĩ chùa có tên là Diệu Đế là vì nhà Vua muốn vừa làm nơi bảo vệ cho kinh thành vùa trấn tĩnh những người lầm đường lạc lối trở về với điều thiện.

Chùa Diệu Đế là một trong những cơ sở Đông Y khám và điều trị bệnh miễn phí có uy tín, góp phần không nhỏ trong chăm sóc và phát triển sức khỏe của cộng đồng không chỉ tại thành phố Huế mà còn ở nhiều địa phương khác trong và ngoài tỉnh Thừa Thiên Huế.

Chùa do Vua Thiệu Trị cho xây dựng vào năm 1844 với qui mô đồ sộ trên nền phủ đệ cũ của nhà vua, nhưng qua nhiều cuộc chiến tranh đã hư hỏng. Năm 1889, Hòa thượng Tâm Truyền được Vua Thành Thái ban tiền để trùng tu. Chùa lại bị hỏng do cơn bão năm 1904.

Khuôn viên chùa nằm gọn giữa bốn con đường: phía trước là đường Bạch Ðằng chạy dọc theo một nhánh sông Hương, phía sau là đường Tô Hiến Thành gần chùa Diệu Hỷ, bên trái là con đường mang tên chùa Diệu Đế và bên phải là đường chùa Ông.

Ban đầu, kiến trúc chùa rất qui mô. Tuy không đẹp bằng chùa Thiên Mụ, nhưng chùa Diệu Ðế có vẻ độc đáo riêng, có bốn lầu (hai lầu chuông, một lầu trống và một lầu bia). Kiến trúc chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1953, ở trần chánh điện có bức tranh vẽ “Long Vân khế hội”, nét vẽ điêu luyện.

Chính điện là đại giác, tả hữu chính điện là Thiền Đường, phía trước điện dựng gác Ðạo Nguyên hai tầng ba gian, sau gác Ðạo Nguyên có hai lầu chuông trống xây cân đối ở hai bên, chính giữa là lầu Hộ Pháp, sân trong có La Thành, sân trước có hai nhà lục giác, nhà bên tả đặt hồng chung, nhà bên hữu dựng bia lớn khắc bài văn do vua Thiệu Trị soạn.

Chùa Diệu Ðế có nhiều tượng Phật do được chuyển từ chùa Giác Hoàng, sau sự kiện Kinh đô thất thủ (1885). Cuối năm này, chính phủ Nam Triều đặt sở Đúc Tiền ở Cát Tường Từ Thất, phủ đường Thừa Thiên ở Trí Tuệ Tịnh Xá và một tăng phòng làm nhà lao của tỉnh, một tăng phòng làm trụ sở cho Khâm Thiên Giám. Năm 1887 phần lớn các ngôi nhà trong chùa đều bị triệt hạ…về sau, ngoài cổng La Thành xây thêm bốn trụ biểu.

Trong chùa chính giữa còn có các tượng Tam Thế với sắc vàng cháy của nước vàng thếp ngày xưa còn lại. Và có một pho tượng của ngài A-Nan, một tượng của ngài Ca-Diếp, và đặc biệt là pho tượng Chuẩn Đề có nhiều tay rất mỹ thuật. Phía trái có 3 tượng Phật, 3 tượng Thánh, phía phải còn có 5 tượng Phật, tượng Đức Di-Lặc thờ ở giữa. Sát vách bên trái còn có khám thờ vua Thiệu Trị và một vài công chúa, hoàng tử con vua, phía phải còn có khám thờ chư linh.

Sau Đại Giác Điện, hai bên tả hữu rất cân đối, có hai nhà Tăng Xá, rồi hai trù gia tức là hai nhà bếp. Cạnh hai trù gia xích vào trong có hai cái giếng. Có lẽ là cái giếng phía trái, nước rất trong mà chùa Diệu Đế đang dùng hiện nay là một trong hai cái giếng ngày xưa còn lại.Tất cả các lối đi từ sở này sang sở khác đều được lát bằng gạch Bát Tràng…

tam bảo
Tam bảo chùa

Sự hoành tráng của một ngôi quốc tự đã đi qua nhưng không gian và cảnh vật cũng như sự linh thiêng của Diệu Đế vẫn còn đó. Hình tướng bát bộ kim cang ở hai Lôi gia có thể làm cho những ai “yếu vía” cảm thấy sợ.

, vẫn là nơi lui tới cho những người con Phật. Ngày nay chùa đang được trùng tu tuy chưa lấy lại được vẻ huy hoàng xưa nhưng cũng xứng đáng là một nơi để tham quan vãng cảnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Diệu Đế - Huế

Tử vi vấn đáp

Một bài viết về Tử Vi vấn đáp trích ở phần phụ luc cuốn Tử Vi Chỉ Nam do Cam Vũ viết. Đây là bài viết rất hay giải đáp các câu hỏi mà người học tử vi thường hay thắc mắc, cần lời giải đáp.
Tử vi vấn đáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trích từ phần "Tử vi vấn đáp" của tác giả Cam Vũ, cuối bản điện tử cuốn Tử Vi Chỉ Nam tác giả Song An - Đỗ Văn Lưu

Dưới đây là một số các kinh nghiệm Tử Vi được góp nhặt từ các bậc tiền bối, được trình bày dưới hình thức Tử Vi vấn đáp.

1. Tôi thấy sách nói: Kình Dương Tý Ngọ, Mão, Dậu phi yểu triết tắc nhi hình thương hoặc Kình Dương cư Ngọ là mã đầu đời kiếm trấn ngư biên cương nhưng rồi cũng chết bất đắc kỳ tử, mà nay lại thấy có người phát công danh lại trường thọ, không chết ở hạn ấy nghĩa là sao? Trường hợp lá số Dương Nam Bính Dần tháng 12 giờ Hợi ngày 05?

Trong mọi trường hợp phải để ý đến ngũ hành và cát tinh phù trợ, ở trường hợp này người ấy phát công danh to ở đại hạn cung Ngọ mà bản mệnh vững vàng vì hạn đến tam hợp Thái Tuế, có Long Phương Cái Hổ, mệnh Hỏa có Liêm Trinh Hỏa đồng hành nhập hạn mà Mệnh Thân lại có tam hóa. Ðại hạn của Tử Phủ Vũ Tướng thì hỏi sao mà không phú quý, hành của mệnh và hành sao nhập hạn khắc KÌNH DƯƠNG hành Kim. Thiên Phủ ở Dần chiếu lên giải tính hung ác của Kình Ðà.

2. Thế nào là Vượng Tướng Hưu Tù Tuyệt?

Vượng, Tướng, Hưu, Tù, Tuyệt là 5 yếu tố thuộc về sinh trưởng thu tàn của ngũ hành.

Nguyên tắc: Khi ta xét đến 1 hành, nếu có nguyên nhân nào làm cho hành ấy Vượng, hành được sinh là Tướng, hành sinh ra hành chánh là Hưu, hành khắc hành chánh là Tù và hành bị khắc là Tuyệt, tóm lại bảng tóm tắt sau:

Bảng Vượng Tướng Hưu Tù Tuyệt của ngũ hành

Thí dụ: năm nay là Tân Dậu thuộc hành Mộc, thời Mộc Vượng, Hỏa Tướng, Thủy Hưu, Kim Tù, Thổ Tuyệt có lợi cho những ai hành Hỏa, Mộc, bất lợi cho 3 hành Thủy, Thổ, Kim.

Hay chi tiết hơn người ta xét đến khí của 4 mùa, mùa Xuân thuộc Mộc thời mộc vượng, mùa Hạ thuộc Hỏa thì hỏa vượng, mùa Thu thuộc Kim thì kim vượng, mùa Đông thuộc Thủy thì thủy vượng và giao mùa thuộc Thổ thì Thổ vượng. Năm yếu tố này được áp dụng trong Bốc Dịch và Y Học nhiều.

3. Sách xưa nói “sinh phùng bại đại phát đã hư hoa là sao”?

Ý muốn nói rằng Cung Mệnh, hay Thân cư ở nơi bại địa thì cuộc đời sẽ long đong vất vả, nếu có gặp được hạn tốt thì cũng chỉ phát như bông hoa bị vùi dập giông tố mà thôi. Khi mệnh lâm bại địa cần phải có cát tinh đắc địa hội chiếu hay Tuần Triệt án ngữ, nếu Ðại hạn lâm vào bại địa thì cũng một thời khốn khó. Căn cứ vào bảng dưới đây:

Bản mệnh Cung: mệnh, thân, hay cung hạn

Bảng: Sinh địa, Vượng địa, Bại địa, Tuyệt địa trong Tử Vi

Thí dụ: lá số Cụ Phạm Văn Toán (trang 33 sách Tử Vi Chỉ Nam của cụ Song An Đỗ Văn Lưu), tuổi Giáp Thìn là hỏa mệnh, cung mệnh là cung Dần là vượng địa, nên cuộc đời tuy có gặp khó khăn (tuần án ngữ) nhưng vẫn vượt qua được cả để tiến đến thành công.

4. Khi xem số Tử Vi làm thế nào để biết được người ấy bị lừa hay đi lừa người khác?

Tính chất cố hữu của Không, Kiếp là thị kỷ phi nhân (chỉ biết mình mà chẳng nghĩ tới người), tính điêu ngoa gian giảo tham lam của một số chính tim hãm địa như Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc nếu đứng chung với thế Thiên Không đắc Tả Hữu thì thật là mẫu người bán dối của người bồ tát, của mình lạt buộc. Nếu đứng chung với thế Thái Tuế là người lầm lạc, nên có tài mà bị đời lãng quên, nếu đứng chung với thế Tang  Điếu, hay Trực phù - Thiếu âm - Long đức thì là người hay bị người khác qua mặt, lừa gạt, nếu ở hạn cũng luận như vậy.

5. Có người nói Mã ở Hợi là CÙNG ÐỒ MÃ, lại có sách xưa nói mã ở Hợi là Ô TRUY mã. Như vậy có mâu thuẫn không? Thế nào gọi là cùng đồ mã?

Gọi Thiên Mã ở Hợi là Ô Truy Mã là đúng, vì mã đó là Thủy Mã, rất tốt với người mệnh Thủy, đa tài mẫn cán, tháo vát và nghị lực rất mạnh. Còn gọi Mã ở Hợi là Cùng Đồ Mã thì cũng không sai, chỉ đúng 1 phần thôi. Chỉ khi nào có sao Tuyệt đồng cung với Thiên Mã ở Hợi, chỉ sự ngựa tuyệt lộ cùng đường chạy nên gọi là Cùng Đồ Mã, vì lấy cái lý sao Tuyệt là sao cuối của bộ Trường Sinh, Tuyệt lại hành Thổ khắc Mã Thủy.

6. Thế nào gọi là cách tuyệt sứ phùng sinh?

Khi Cung Mệnh an tại cung tuyệt địa, nhưng lại có chính tinh đắc địa cho hành của bản mệnh ví như người đang hấp hối lại được thần dược cứu sống.

7. Tại sao gọi là HẠN TAM TAI?

Hạn tam tai là hạn của 3 năm liên tiếp đến với mỗi tuổi, không phải cứ đến năm tam tai là có tai họa nhưng hễ cứ đến những năm tam tai thì sẽ gặp nhiều vất vả khó khăn xảy ra, nếu các yếu tố trong lá số thật tốt thì cũng làm giảm bớt, gây khó khăn bực mình, nếu trong hạn của lá số xấu thì sẽ bị xấu thêm, khó mà tránh được tai ương họa hại.

  • Tuổi Dần, Ngọ, Tuất thì 03 năm tam tai là Thân, Dậu, Tuất.
  • Tuổi Thân, Tý, Thìn, thì 03 năm tam tai là Dần, Mão, Thìn.
  • Tuổi Tỵ, Dậu Sửu thì 03 năm tam tai là Hợi, Tý, Sửu.
  • Tuổi Hợi, Mão, Mùi, thì 03 năm tam tai là Tỵ, Ngọ, Mùi.

8. Khi lấy số Tử Vi nếu gặp tháng nhuận thì tính thế nào?

Có người tính từ 15 tháng sau coi như tháng trước và 16 tháng sau (tháng nhuận) được coi như tháng sau, nhưng do bởi lý: nếu đã nhuận (giống nhau) tức là thời điểm không đổi thì 2 tháng nhuận đều tính giống nhau.
Thí dụ: sinh ngày 20 tháng 5 nhuận, ta vẫn cứ tính như ngày 20 tháng 5 thường mà thôi.

9. Người muốn giỏi về Tử Vi cần phải làm sao?

Muốn đoánTử Vi giỏi cần phải có 4 điều kiện sau:

  1. TRÍ NHỚ: Tử Vi là một môn toán học phức tạp nên rất cần trí nhớ.
  2. SUY LUẬN: phải thuộc tính chất để suy luận tính chế hóa thiện, hung của các sao, đặc biệt là sự chế hóa xung khắc, yếu tố tiêu trưởng của Âm Dương Ngũ Hành.
  3. TRỰC GIÁC: cần phải có trực giác bén nhậy để giúp ích cho sự suy luận.
  4. KINH NGHIỆM: cuối cùng là phải thực hành nhiều để đối chiếu phần thực nghiệm với lý thuyết và suy luận ra những nguyên tắc về giải đoán cho phong phú.

10. Thế nào gọi là hạn Trúc La?

Hạn Trúc La là hạn SÁT PHÁ LIÊM THAM ở cung Mão, cung Mão thuộc hành Mộc quẻ Chấn, là tượng cho sấm sét, nên còn gọi là Mộc áp lôi kinh, nếu có các sao Kình, Hư, Tuế, Khách nữa thì chết, số Hạng Võ sinh năm Ðinh Mão, tháng 8 ngày 12 giờ Mão có cách này.

13. Ảnh hưởng của Tuần, Triệt là như thế nào?

Khi đoán số Tử Vi, đến cung nào có Tuần, Triệt trấn đóng, án ngữ bản cung thì nên thận trọng vì tính chất phức tạp của Tuần, Triệt.

  • Triệt: còn gọi là Triệt lộ không vong, hay gọi tắt là Triệt không, thuộc hành Kim đới Thủy, có nghĩa là chém đứt phân lìa ra.
  • Tuần: còn gọi là Tuần trung không vong, thuộc Hỏa đới Mộc, gọi tắt là Tuần không, có nghĩa là bao lại, bao vây, không cho phát huy khả năng.

Do tính chất hoàn không nên Tuần không, Triệt không hợp với Thiên không, Ðịa không gọi là Tứ không sẽ làm mất hết hiệu lực của các tính đẩu nằm trong phạm vi của nó, nhưng không có nghĩa là ngược lại, nghĩa là Tuần Triệt chỉ có tính chất làm mất cái tốt hoặc tiêu tan sự hung ác của ác sát tinh chứ không thể biến tốt thành xấu hay biến xấu thành tốt được.

Vị trí đắc địa của Tuần Triệt là ở cung Kim và cung Hỏa, khi “Triệt đáo Kim cung, Tuần lâm Hỏa địa” hai hành Kim khi va chạm sẽ gây nên tiếng vang, hai hành Hỏa hợp lại sẽ bùng to lớn mãnh liệt, nên người mệnh vô chính diệu, có bản mệnh đồng hành với Triệt, Tuần mệnh cư ở Ngọ hay Dậu (thế cung Ngọ là ly chính Hỏa, cung Dậu là đoài chính Kim) thì được nổi tiếng lẫy lừng và phú quý.

Về đặc tính của Tuần, Triệt trên lá số, sách xưa có các câu phú:

  • Tam phương xung sát hạnh nhất triệt nhi khả bằng.
  • Tứ chính giao phù kỵ nhất không chi trực phá.
    nghĩa là khi bản cung và các cung hợp phương gặp ác sát chi tinh, các hung tinh thủ chiếu, nhưng chỉ cần 1 sao Triệt cũng đủ làm cho bình yên. Khi bản cung được các cát tinh bội chiếu nhưng nếu chỉ gập 1 sao Không (Tuần hay Triệt) cũng đủ để phá mất ý nghĩa tốt đẹp đi.
  • Không vong định yếu đắc dụng. Nhược phùng bại địa chuyên khán phù trì chi diệu đại hữu kỳ công.

Tuần, Triệt cũng có chỗ đắc dụng khi nằm đúng vị trí thì lại thật là cần thiết vô cùng. Khi Mệnh ở cung Bại Ðịa hay Tuyệt Ðịa, thì Tuần Triệt ở đây lại phù trì cho các sao hãm địa lại trở nên vượng, bản mệnh từ mong manh lại trở nên vững vàng.

Trường hợp này đặc biệt hơn còn kỳ dư các cung khác, Tuần Triệt được ví như bộ thắng của chiếc xe vậy.

Về ảnh hưởng của Tuần, Triệt cụ Việt Viêm Tử có phổ biến định lý:

  • Dương hành tam thất: người Dương chịu ảnh hưởng cung dương 7 phần.
  • Âm qui nhị bát: người Âm chịu ảnh hưởng cung âm 8 phần.

Nhưng theo thiển nghĩ và kinh nghiệm áp dụng thì thấy rằng đối với Dương nam, Âm nữ là ở những tuổi thuận lý âm dương thì ảnh hưởng theo chiều thuận cho nên định lý Dương hành tam thất phải được dùng cho Dương nam Âm nữ.

Thí dụ: người Dương nam canh Dần, có Tuần Triệt cư Ngọ Mùi, nếu khởi theo chiều thuận thì đến cung Ngọ sẽ gặp Tuần, Triệt đương đầu, và ở cung Mùi thì Tuần, Triệt nằm sau lưng nên chỉ vuốt đuôi mà thôi. Ðối với tuổi Âm nam Dương Nữ, là ở những tuổi nghịch lý Âm Dương, nên chịu ảnh hưởng theo chiều nghịch cho nên định lý Âm qui nhị bát phải được áp dụng cho Âm nam Dương nữ.

Thí dụ: người Dương nữ canh Dần, Tuần Triệt cư Ngọ Mùi, nhưng vì là Dương Nữ cho nên ảnh hưởng theo chiều nghịch ( kim đồng hồ) vậy ở cung Mùi lại gặp Tuần Triệt đương đầu, mà với cung ngọ thì Tuần, Triệt lại chỉ là vuốt đuôi mà thôi.

  • Tam thập niên tiền quan Triệt.
  • Tam thập niên hậu khán Tuần.

Nghĩa là sao Triệt ảnh hưởng mạnh vào tuổi chưa lập thân (30 năm đầu)

Sao Tuần ảnh hưởng mạnh vào tuổi từ khi lập thân cho đến hết cuộc đời. Sở dĩ các cụ xưa dùng chữ tam thập niên tiền và tam thập niên hậu vì các cụ quan niệm là tuổi lập thân từ 30 trở ra, và cho đến 60 là hết vì nhân sinh thất thập cổ lai hi, đời người trung bình chỉ 60 thôi còn từ 70 trở ra là ngoại lệ.

14. Tại sao Triệt lại chỉ ảnh hưởng vào tiền vận 30 năm đầu, còn Tuần lại ảnh hưởng suốt cuộc đời?

Triệt Lộ Không Vọng được tính căn cứ vào Hang Thiên Can của năm sinh. Trở lại nguồn gốc vạn vật theo Hà Ðồ Lạc Thủ của Kinh Dịch, thì từ thuở hư không tức Thái Cực sinh trời rồi mới tới đất (Thiên nhất sinh thủy, Ðịa lục thành chi…) cho nên hàng can chính là cái cội rể của con người. Xét theo cuộc đời, thời gian thì hàng can phải là phần trước, có nửa đời trước thì mới có nửa đời sau, cái sau sinh ra bởi cái trước.

Tuần Trung Không Vong được tính theo can chi của năm sinh năm trong giáp nào tức là gồm cả thiên can và địa chi, thuộc giáp nào trong lục thập hoa giáp (Hội), mà can chi là 2 yếu tố căn bản để tạo nên tuổi của con người, nên Tuần sẽ ảnh hưởng suốt cuộc đời của con người.

15. Người có Tuần hay Triệt tại Mệnh, Thân thì sao?

  • Người có Tuần, Triệt án ngữ tại mệnh thì cuộc đời vất vả, làm việc gì cũng phải hai ba lần mới thành công, khi tai mệnh, thì thiếu niên tân khổ; nếu ở thân thì vất vả nhiều, chung thân bất như ý.
  • Nếu mệnh Tuần thân triệt hay ngược lại, thì cung mệnh hay thân lại rất cần vô chính diêu thì mới mong mát mặt với đời. Ðặc biệt khi mệnh hoặc thân có Tuần hoặc Triệt thì mọi sự lại hành thông.

16. Thế nào được gọi là lá số vô chính diệu?

Một lá số được gọi là vô chính diệu khi cung mệnh không có chính tinh chiếm đóng. Hoặc có chính tinh nhưng không được hưởng, nghĩa là chính tinh thủy mệnh không sinh hay đồng hành với bản mệnh.

Thí dụ: người tuổi Canh Tý là thổ mệnh, mệnh cư ở Hợi, có thiên đồng thủ mệnh, như thế là khắc với chính tinh, nên không hưởng mà không hưởng thì được coi như vô chính diệu.

Khi gặp lá số không có chính tinh thì phải lấy sao đồng hành với bản mệnh ở thế tam hợp cung mệnh phải khắc thắng được hành tam hợp của xung chiếu.

Thí dụ: mệnh cư ở cung Thân vô chính diệu, vậy phải tìm chính tinh đồng hành ở 2 cung tam hợp là Tỵ và Thìn, và lấy được ở cung Dần chiếu sang vì Thân, Tý, Thìn là Thủy khắc Dần, Ngọ, Tuất là hỏa cung trong trường hợp này nếu mệnh ở cung dần thì dùng được 2 cung tam hợp là Ngọ và Tuất. Còn các sao ở cung thân thì không hưởng được, trái lại còn nguy hại nữa là khác nếu có nhiều sao xấu.

17. Lá số vô chính hiệu thế nào thì tốt?

Gồm các trường hợp sau:

  1. Mệnh vô chính diêu đắc tam không nhi phú quý khá kỹ. Phải là mệnh Hỏa, được 1 không thủ và 2 không chiếu (các sao Không gồm có Tuần Không, Triệt Không Thiên Không, Ðịa Không), trường hợp này được côngthành danh toại.
  2. Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa: mệnh vô chính diệu có hung tính đắc địa đồng hành bản mệnh như Kình, Ðà, Linh, Hỏa, Khốc, Hư, Tang, Hổ nhưng phải mệnh Kim hay Hỏa Mới hợp. Trường hợp này phải xa lánh Tuần, Triệt.
  3. Trung tinh đắc cách hội chiếu: Khôi, Việt, Xương Khúc, Thai Tọa, Tam Hóa... nhưng cũng phải không gặp Tuần Triệt cản thì mới được phúc lộc. Còn kỳ dư tất cả các trường hợp khác đều là mộng ảo hoàng lương, phi yếu tắc bần, tất cả chỉ là phá cách, không tốt.

Nhưng bất cứ trường hợp nào thì ngừơi có lá số vô chính diệu vẫn là người thông minh, khôn ngoan và có đặc tính, trước một vấn đề cần giải quyết dứt khoát thì thường hay đắn đo, do dự.

18. Khi đoán hạn phải để ý đến yếu tố nào?

Khi giải đoán đến đại hạn hay tiểu hạn thì phải lưu ý đến những điểm sau:

  1. Phân biệt Nam đẩu tinh hay Bắc đẩu tinh để tìm ảnh hưởng vào nửa sau hay nửa trước của hạn, nếu gặp Tuần, Triệt thì ngược lại.
  2. Mệnh phải được cung nhập hạn sinh hay đồng hành với bản Mệnh.
  3. Chính tinh nhập hạn đồng hành hay sinh cho bản mệnh.
  4. Trường hợp cung hạn khắc bản mệnh thì cần phải có chính tinh sinh mệnh là cách tuyệt sứ phùng sinh.
  5. Xem hung tinh có đồng hành với bản mệnh hay với can của năm sinh hay không? Hung tinh không hại người đồng hành với nó, hay hành nó sinh. Thí dụ: Hỏa, Linh, không hại người mệnh Hỏa, hay Thổ mà chỉ hại ngưởi Thủy, Kim và Mộc.

Nếu được mệnh mà không đựơc can, hay ngược lại thì cũng lôi thôi. Thí dụ: tuổi Bính Dần đến hạn gặp Hỏa, Linh thì không việc gì Bính thuộc hỏa mà Bính Dần cũng thuộc Hỏa.

  • Người có cung nhập hạn khắc mệnh lại gặp Kình, Hình, Không, Kiếp, thì sẽ chết trong hạn đó.
  • Người mệnh Mộc hay có can Giáp, Ất, tối kỵ hạn gặp Kình, Hình.
  • Người có Mệnh Hỏa, hay có hàng can Bính, Ðinh tối kỵ hạn gặp Hỏa Ky.
  • Người có Mệnh Kim hay có hàng can Canh, Tân tối kỵ hạn gặp Hỏa, Linh.

Ba hành trên nếu gặp sao Kỵ khắc nhập hạn, sẽ gặp tai nạn, thương tổn lôi thôi.

19. Muốn xem nguyệt hạn thì phải làm sao?

Khi đoán đến nguyệt hạn tức là đoán đến chi tiết phải để ý đến nguyên tắc sau:

Cách cuộc của mệnh thân chi phối dài hạn (gia tăng hay xung phá, cách cuộc của đại hạn chi phối tiểu hạn, cách cuộc của tiểu hạn chi phối nguyệt hạn.

Ðặc biệt phải lưu ý đến can chi ngũ hành của nguyệt hạn, phối hợp với can chi và ngũ hành của bản mệnh và các sao cùng cung nhập hàm ra sao mà linh động chế hóa.

Có nhiều cách tính nguyệt hạn nhưng cách thông dụng nhất là khởi từ cung tiểu hạn là tháng 1 tính thuận đến tháng sinh rồi từ đó là giờ tý tính nghịch đến giờ sinh dừng lại cung nào thì đó là tháng 1 cứ thế theo chiều thuận mỗi cung 1 tháng cho đến tháng 12.

Cách tính can chi của tháng như sau:

  • Giáp, Kỷ Bính tác chủ
  • Ất, Canh, Mậu vi đấu
  • Bính, Tân, Canh dần khỏi.
  • Ðinh, Nhâm, Nhâm dần cầu
  • Mậu Quí tiên khởi Giáp.
  • Cung Dần nguyệt thuận lưu.

Nghĩa là: Năm thuộc can giáp hay can kỷ, thí dụ như năm kỷ mùi hay giáp thân thì tháng giêng là tháng bính dần, rồi đến tháng 2 là tháng đinh mão….cứ thế mà thuận đến tháng 12:

  • Năm thuộc can Ất, Canh, tháng giêng là mậu dần.
  • Năm thuộc can Bính, Tân tháng giêng là canh dần.
  • Năm thuộc can Ðinh, Nhâm tháng giêng là nhâm dần.
  • Năm thuộc can Mậu, Quí tháng giêng là giáp dần.

Nghĩa là bất cứ năm nào tháng giêng cũng là tháng dần, còn hàng can thì thay đổi theo hàng can của năm. Rồi cứ thế theo can chi mà luận xuống. Thí dụ năm nay là năm Tân Dậu. Vậy tháng 1 là tháng canh dần rồi tháng 2 là tân mão, tháng 3 là nhâm thìn tháng 4 là quí Tỵ, tháng 5 là giáp ngọ, tháng 6 là Ất Mão, tháng 7 là Bính Thân, tháng 8 là Ðinh Dậu, tháng 9 là Mậu Tuất, tháng 10 là Kỷ Hợi, tháng 11 là canh tý, tháng 12 là Tân Sửu.

Thí dụ: trong lá số Hoàng Ðế – trang 197 sách Tử Vi Chỉ Nam của Song An Đỗ Văn Lưu - năm 25 tuổi là năm Giáp Ngọ.

Bây giờ muốn tìm nguyệt hạn tháng 3 năm giáp ngọ xem ở cung nào.

  • Năm Giáp Ngọ tiểu hạn ở cung Thìn.
  • Kể từ cung Thìn là tháng giêng thuận đến tháng sinh (nếu sinh tháng 1 thì kể từ ở đó), rồi kể từ giờ tý nghichh đến giờ sinh là giờ thân, đến cung thân là cung nguyệt hạn.
  • Vì năm giáp cho nên tháng 1 là tháng bính dần, tháng 3 là Mậu Thìn.

Vậy lưu nguyệt hạn tháng 3 là tháng mậu thìn ở cung thân.

Khi giải đoán thì xem can chi nguyệt hạn có xung phá với can chi bản mệnh không? Ngũ hành của nguyệt hạn lại khắc hay sinh cho ngũ hành bản mệnh? Rồi xem đến các sao trong cung nguyệt hạn có hợp bộ, phò tá cho tiểu hạn không? Hay bị xung phá, thí dụ: tiểu hạn có Lộc tồn, đến nguyệt hạn gặp Phá Quân, Ðại Hao, hay Không Kiếp là bị phá vậy, cứ căn bản mà chế hóa cho tinh tường thì ra được đáp số.

Khi đoán tiểu hạn hàng năm, làm thế nào để biết sự việc sẽ xảy ra cho chính đường số hay cho các đối tượng liên hệ như cha mẹ, anh em, vợ con….?

  • Trước hết, khi tiểu hạn nhập cung nào thì cung ấy phải được lưu ý nhiều.
  • Cung xung chiếu được kể là quan trọng thứ nhì, nếu hành cung tiểu hạn khắc thắng được hành cung xung chiếu, thì sự việc xảy ra. (Tốt lành hay hung dữ tùy theo sao) đến 80% là đối tượng thuộc cung đối chiếu với cung tiểu hạn. Thí dụ: người canh dần, dương nam, mệnh lập tại dần, lưu hạn năm mùi ở cung dậu là cung ách, cung dậu (ách ) khắc cung phụ mẫu ở mão, vậy những việc quan trọng sẽ xảy ra cho phụ mẫu vào năm mùi hay năm nay tân dậu, lưu tiểu hạn ở cung Tử tức tại cung Hội, xung chiếu khắc cung điền ở tỵ, vậy sự việc xảy ra năm nay xảy đến là điền trạch nhiều hơn (đổi chỗ ở ) rồi đến năm 1982 là năm Tuất, tiểu hạn đến cung thê, xung chiếu khắc quan lộc, nên sự việc liên quan đến Công Danh.

Xin được nhắc lại khi đoán hạn phải lưu ý:

  • Nếu là đại hạn thì phải lưu ý đến hành tam hợp trước, rồi đến cung nhập hạn, rồi đến sao.
  • Nếu là tiểu hay nguyệt hạn phải lưu ý đến can chi và ngũ hành của năm nay tháng muốn xem rồi đến hành của cung hạn, rồi đến sao của cung hạn.
  • Dù bất cứ trường hợp nào cũng phải để ý đến hành của sao nhập hạn với hành của bản mệnh, xem sinh khắc thế nào, rồi đến vị trí miếu hãm của sao rồi cũng đi tìm xem hợp bộ hay xung phá, rồi căn cứ vào tính chất của sao để cho ra lời giải đáp.

21. Sao Thiên Mã có những tính chất gì?

Hành của thiên mã sẽ tùy theo cung, thiên mã ở cung nào sẽ mang hành ở cung đó. Thí dụ Mã ở thân là kim mã.

Dù ở bất cứ vị trí nào nếu thiên mã đồng hành hay sinh hành bản mệnh cũng rất tốt đa tài mẫn cán. Các cách tốt đẹp của thiên mã gồm có:

  1. Thiên mã đồng cung Lộc tồn: chủ phúc lộc.
  2. Thiên mã, Phượng các: cứu giải mọi tai nạn.
  3. Mã ngộ Khốc Khách: uy danh, oai vệ.
  4. Mã ngộ Lưu Hà: cứu giải tai nạn.
  5. Mã ngộ Trường sinh: thanh vân đắc lộ chủ về sự thăng tiến công danh.

Thiên Mã rất kỵ gặp các sao sau:

  1. Tuần, Triệt.
  2. Kình, Ðà
  3. Thiên Hình
  4. Không, Kiếp.

Nếu gặp chỉ gây ngăn trở công việc, nếu bản mệnh không vững thì thường tốn, tai nạn thương tật tay chân.

Riêng trường hợp thiên mã chỉ gặp 1 sao tuần, thì bên cạnh sau cái rủi sẽ có cái may, vì tuần chỉ như cái cầu ngăn cản để cho thiên mã phục rồi nhảy sang cung khác chứ không bị trảm như Triệt, Kình, Hình, Ðà. Mã còn là phương tiện di chuyển, mà cho phù hợp với lẽ biến dịch thì ngày nay chính là chiếc xe ta đang đi vậy. Như thế hành của bản mệnh và của thiên mã hay chiếc xe cũng nói lên ý nghĩa sau:

  1. Hành của Thiên mã đồng hành với bản mệnh. Thí dụ: tuổi Canh Tý: thổ mệnh sử dụng, xe màu vàng vì màu vàng thuộc thổ sẽ cảm thấy thoải mái với phương tiện di chuyển của mình.
  2. Hành của Thiên mã sinh hành của mệnh. Thí dụ: tuổi canh Tý: thổ mệnh sử dụng xe màu đó vì màu đỏ thuộc hỏa sinh thổ, gây ích lợi cho bản mệnh.
  3. Hành của thiệp mã khắc hành của mệnh. Thí dụ: tuổi Canh Tý: thổ mệnh sử dụng xe màu xanh thuộc mộc khắc thổ, gây bất lợi cho bản mệnh.
  4. Hành của mệnh sinh hành Thiên mã. Thí dụ: tuổi canh Tý mệnh Thổ sử dụng xe màu trắng, vất vả vì xe cộ, có thể là dù xe mới, sửa cái nọ theo ý của mình, và có khi là cứ hay hư hỏng lung tung khiến mình nhọc sức với nó.
  5. Hành của mệnh khắc hành Thiên Mã. Thí dụ: canh Tý mệnh thổ sử dụng xe màu đen hay nâu thuộc thủy bị thổ khắc, dễ hư hỏng, dễ gây tai nạn, nhưng bản thân không việc gì.

22. Muốn biết tổng quát đặc tính một người qua chính tinh thì căn cứ vào đâu?

  • Bộ: Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng Lương thì bản tính hiền và hiếu thảo.
  • Bộ: Nhật Nguyệt thì thông minh mà tình cảm lai láng.
  • Bộ: Sát Phá Tham thì nóng nảy mà dâm dục
  • Các Lục Sát Tình thì tính khí hỉ nộ bất thường, lúc vui lúc giận không định trước được.

23. Muốn xem số phái nữ khi nào bị tai nạn về "trinh tiết" khi căn cứ thế nào?

  1. Trước hết bất cứ là lá số phụ nữ nào khi cung quan lộc hay cung Thân có Tuần hay Triệt, bất luận về yếu sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái trước khi về nhà chồng.
  2. Các lá số phụ nữ có các sao thuộc về dâm tinh thủ mệnh như Tham Lang, Thai, Ðào Riêu, Cự Ky. Xương, Khúc, Cái Mộc, thì trong trừơng hợp này không coi là 1 tai họa, mà còn được họ coi là tự nhiên, 1 nhu cầu hay 1 sở thích, không đặt vấn đề luân lý đạo đức.
  3. Trường hợp được coi là tai họa khi ở mệnh hay hạn có các sao: Thai, phục gặp Kiếp, Không, chỉ sự bạo hành, cưỡng bức. Kinh nghiêm cho thấy hầu hết các lá số bị tai nạn tập thể do hải tặc Thái Lan đều thấy có Ðào Hồng gặp Hình Riêu Không Kiếp, Cự Môn và Hóa Kỵ, hay Tham lang hóa Kỵ chủ sự tình ngang trái mà sự thiệt thòi về phần phái nữ. Thai, Hình, Tang, Hổ: chỉ sự hiếp dâm đi liền với án mạng, nghĩa là người con gái sau khi bị bạo hành sẽ bị giết chết. Ý nghĩa của sao Thai khi đi chung với các sao dâm dục khác còn mang ý nghĩa có thai của phụ nữ.

24. Những sao nào không có lợi cho việc hôn nhân?

Khi tọa thư hoặc hội chiếu vào cung phu thê thì các sao ngăn trở làm cho gia đạo bất hòa gồm có:

  1. Hóa Kỵ: chỉ về cái lưỡi, khích bác chê bai.
  2. Cự Môn: chủ về cái mồm.
  3. Thiên Không: cuộc hôn nhân bất thành.
  4. Thiên Hình: gay go và hay gặp trở ngại bất ngờ.
  5. Khốc Hư Tang Hổ: chỉ cần gặp 1 trong 4 sao này cũng đã thấy có sự khó khăn.

Ngoài ra còn phải kể đến các sao như Thất Sát, Phá Quân, Cô Thần, Quả Tú, Tuần Triệt, nhất là cung thế có thiên mã gặp tuần, triệt là số vợ bỏ.

Tuần Triệt ngộ mã
Hành thê vi vợ bỏ
Chồng đào tỵ tha hương
.

25. Tại sao có lá số Mã ngộ Khốc khách mà lại nghèo, công danh thất bại?

Mã là Ngựa, Khốc Khách là tiếng nhạc ngựa đeo, khi ngựa chạy thì nhạc rung mà phát ra tiếng, như ng ngựa có no thì mới chạy được ví như xe của ta ngày nay phải có nhiên liệu cho xe ta phải cótiền, một chiếc xe hết xăng, mà trong túi ta lại không có lấy 1 xu, thì chiếc xe lúc ấy trở thành vô dụng.

Bởi vậy muốn được hưởng Mã ngộ khốc khách cho đúng cách thì tam hợp với khốc khách Mã phải có Lộc tồn, tùy theo ở mệnh hay ở hạn, mã sẽ được hưởng lâu dài hay ngắn hạn.

Mã Khốc Khách mà không có Lộc Tồn là tiếng rên của ngựa chết đói.

26. Muốn biết về hình thương bệnh tật của 1 người thì căn cứ vào yếu tố nào?

  1. Trước hết nên căn cứ vào mục các sao biểu tượng cho các phần trong cơ thể.
  2. Sau đó tùy ở cung mệnh, cung hạn, cung ách, phối hợp với các sao lục sát tinh Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp mà luận.

Thí dụ: một người ở cung ách có kình dương ngộ Riêu Y, Cô Quả, Ðào Hồng, Kình Dương chủ bộ phận sinh dục, Cô Quả chỉ một mình, Đào Riêu chỉ sự dâm dục, như thế là người ấy sẽ mắc tật dâm dục kín. Nếu cung mệnh không có những sao cứu giải như Nguyệt Đức, sao lý trí mạnh như Thiên Hình, Thái Tuế - thông thường theo kinh nghiệm thì:

  • Bộ Sát Phá Tham và bộ Lục Sát, Thiên Hình hay gây ra các tai nạn về ngoại thương.
  • Bộ Nhật Nguyệt gặp Hình, Kỵ, Đà, Kình, Hỏa, Linh gây các bệnh thuộc về mắt và hệ tim mạch, có Nhật, Nguyệt thủ mệnh thì ngoài các đặc tính tốt lành, nhưng bao giờ cũng bị yếu, thần kinh dễ nhạy bén, hay dễ căng thẳng.
  • Bộ Cự Kỵ Thái Tuế thì hay gây vạ miệng.
  • Bộ Từ Phủ Vũ Tướng và Cơ Nguyệt Ðồng Lương hay gây bệnh nội thương.
  • Hỏa Linh gặp Hao hay mệnh có Hao giáp Hỏa Linh thì bị nghiện, thường là ma túy.

27. Tại sao hầu hết các sách và kinh nghiệm cho thấy hạn Ðào Hồng Hỉ khi đắc tài danh có tình duyên, lợi cho thi cử mà khi người già hạn gặp đào hồng thì lại nguy đến tính mạng?

Nhớ lại cách xếp đặt của các tinh đẩu: Ðào hoa luôn luôn cứ ở tứ chính tức là 4 cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu và phối hợp với Thiên Không, Lưu hà, Kiếp Sát, gọi là Thiên Hà Địa Sát.

Thí dụ: người tuổi canh Tý thì Ðào Hoa ở Dậu Thiên Không ở Sửu, Kiếp Sát ở Tỵ, một Kiếp Sát cũng đủ làm mưa làm gió; ở một số tuổi lại gặp cả Lưu Hà. Người còn trẻ thì các sao còn vượng với bản thân, Đào Hồng chính là trợ tinh cho các sao tốt nên công thành danh toại. Nhưng người già, sức tàn lực kém, ví như bông hoa đào tàn úa lung lay trước gió, thần lưỡi hái là kiếp sát chỉ ra tay nhẹ cũng đủ hồn qui tiên cảnh.

Lấy trường hợp điển hình:

a. Số cụ Phan Thanh Giản sinh năm Bính Thìn (1796) chết năm Ất Mão 1967. Lưu hạn năm Mão ở cung Dậu có Đào Hoa ở chính cung có Thiên Không, Kiếp Sát ở Tỵ.
b. Lá số Ngọc Hân công chúa sinh năm canh Dần 1770 chết năm 1803 ở cung Mùi có Đào Hoa, Thiên Không ở mão, Kiếp Sát ở hợi.

28. Tại sao ở trên đời thấy có nhiều cảnh, con người lại phải chết đang lúc công danh, tiền bạc, tình duyên lên, danh tiếng lẫy lừng?

Trong phú Tử Vi có câu: Hung tinh đắc địa phát dã như lôi. Cát tinh nhập miếu trầm trầm sự nghiệp.

Bản tính của các cát tinh cư nơi miếu địa đều chủ phúc lộc nhưng sự nghiệp cứ từng bước phát dần dần, còn tính chất của các hung, Sát Phá Liêm Tham và bộ lục sát Kình, Đà, Hỏa, Linh Không Kiếp, nếu đắc địa sẽ phát rất nhanh, những tính chất của hung tinh, là bạo phát cho nên thực tế, hầu hết giới nhà binh nhưng người được thăng cấp quá nhanh, các cấp chỉ huy quá trẻ đều được lên bàn thờ sớm.

29. Theo như kinh nghiệm cụ Thiên Lương cho biết, người nào đến hạn Thái Tuế thì nếu đang tai nạn cũng được khởi đều được công thành danh toại. Nhất là ở những người có mệnh ở thế tam hợp Thái Tuế, đáo đại hạn cũng vào cung tam hợp Thái Tuế, thì cũng có danh ở đời nhưng tôi, thấy có người đang ở hạn Thái Tuế mà lại chết là sao?

Có người đáo vận tam hợp tuổi (tam hợp Thái Tuế ) mà vẫn chết vì gặp quá nhiều sao hung ác, lại khắc hành bản mệnh nên phải chết.

Nhưng theo quy luật người ấy chưa hưởng hết hạn Thái Tuế mà đã phải chết nên dường như sự bù trừ vô hình đã dành cho họ được lưu danh với hậu thế, hầu hết cái chết của những người đang ở vào thời kỳ đại hạn nằm trong tam hợp tuổi đều có cái chết đặc biệt mà người đương thời và thời sau đều biết đến nhớ tiếc.

Thí dụ:

  • Ðức Khổng Tử tuổi Canh Tuất chết ở đại hạn cung Ngọ (73).
  • Hạng Võ tuổi Ðinh Mão chết ở đại hạn cung Mão (32).
Một số phần nội dung bài viết đã được lập trình vào trong Hệ Thống Giải Đoán Lá Số Tử vi Xem Tướng. Bạn đọc có thể truy cập vào: ## để lấy lá số (lưu ý nhập ngày tháng năm và giờ sinh là âm lịch) sau đó căn cứu vào lời gợi ý giải đoán để tự tìm hiểu bản thân và tìm ra một cách ứng xử phù hợp với cuộc đời.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi vấn đáp

Mơ thấy bò sẽ gặp nhiều may mắn

Chiêm bao thấy bò mang đến cho bạn nhiều điềm báo may mắn, tuy nhiên vẫn có những điềm báo xấu, bạn cần cẩn thận đấy nhé.
Mơ thấy bò sẽ gặp nhiều may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về 12 con giáp, xem bói tử vi bạn nên xem

Chiêm bao thấy bò chạy ra ngõ là điềm báo bạn sẽ gặp nhiều may mắn.   Chiêm bao thấy bò vàng vào nhà, bạn nhận được tài sản quý.   Chiêm bao thấy người cưỡi bò đi trong thành phố, bạn hãy chuẩn bị đón tin vui từ xa đưa về. 

Mo thay bo se gap nhieu may man hinh anh
Ảnh minh họa
  Chiêm bao thấy con bê là điềm lành, nó báo trước bạn sắp có quý tử.    Chiêm bao thấy sừng bò máu là điềm báo sự nghiệp của bạn đang thăng tiến.    Chiêm bao thấy bò leo lên núi, bạn sẽ thành đạt trong công việc. Tuy nhiên, chiêm bao thấy bò húc người hoặc vật lại là điềm xấu. Công việc của bạn có thể gặp những khó khăn nhất định.    Chiêm bao thấy bò biết nói, bạn gặp nhiều chuyện bất lợi.   Chiêm bao thấy bò ốm mà hung hăng, trong nhà bạn sắp có chuyện xô xát.    Chiêm bao thấy bò rừng là điềm báo tình địch đang tìm cách hãm hại bạn.
 
Nằm mơ thấy con bò đực tượng trưng cho sự cứng đầu, ý chí mạnh mẽ, sức mạnh và quyền lực. Giấc mơ về bò đực có thể nói cho bạn biết rằng đây là thời gian để có một lập trường và quyết đoán hơn. Ngoài ra, những con bò đực cho bạn biết một cuộc sống giàu có, thịnh vượng và dồi dào đang đón chờ. Ngoài ra nếu bạn mơ thấy con bò đực bị chặt sừng, thì điều này khuyên bạn cần phải học cách thỏa hiệp trong một tình huống. Hoặc nó đang nói là có điều gì đó không có giá trị với bạn.
 
Ngủ nằm mơ thấy đang vắt sữa một con bò, điều này tượng trưng cho sự sẵn sàng của bạn và làm việc chăm chỉ. Cuối cùng, bạn sẽ được hưởng lợi thành quả từ công việc khó khăn của bạn.
 
 Nằm mơ thấy một con bò đực hoang dã, thì điều này nói rằng rằng niềm đam mê của bạn có thể vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Con bò cũng có thể đại diện cho một người nào đó trong cuộc sống của bạn. Bò đực cũng là biểu tượng của năng lượng dồn nén, tình dục, khả năng sinh sản và tính cương dương.   Nằm mơ thấy bò đen rượt đuổi có nghĩa là bạn đang từ chối nhìn nhận sự bướng bỉnh của chính mình.
 
Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bò sẽ gặp nhiều may mắn

Cô nàng tuổi nào là 'cao thủ' mặc cả

Dù vào cửa hàng đã niêm yết giá, những cô nàng tuổi Sửu... vẫn mặc cả nhiệt tình. Tất nhiên, chiến thuật cò kè bớt 1 thêm 2 của họ luôn thành công.
Cô nàng tuổi nào là

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán quân: Tuổi Sửu

Bạn đừng xem nhẹ sự dịu dàng, ôn hòa của các nàng tuổi Sửu nhé. Bởi khi đã vào "cuộc chiến" giá cả thì đến thượng đế cũng phải nể họ đôi phần. Tính cách nhẹ nhàng, chân thành kết hợp với tài ăn nói khéo léo giúp người tuổi Sửu làm chủ được mọi tình huống khi đi mua sắm.

Suu-4211-1416241317.jpg

Nếu bạn có ý định mua thứ gì, tốt nhất nên tham khảo ý kiến của con giáp này hoặc hãy rủ họ đi cùng. Chắc chắn bạn sẽ vô cùng hài lòng với những món đồ "ngon bổ rẻ" mà mình sắm được.

Á quân: Tuổi Thìn

Thin-7936-1416241318.jpg

Lý do khiến những cô  nàng tuổi Thìn mặc cả quyết liệt không phải vì suy nghĩ sẽ tiết kiệm được chút tiền cho bản thân mà do một vài yếu tố đặc biệt khác. Chẳng hạn như họ nghĩ rằng anh chủ quan cứ liếc nhìn mình, chắc chắn vì anh ta nghĩ rằng mình quá xinh đẹp. Do đó, khi người đẹp đã lên tiếng mặc cả thì lẽ thường chủ shop nào cũng sẽ liêu xiêu ^^.

No3: Tuổi Mùi

Mặc dù lớn lên trong gia đình điều kiện kinh tế khá giả, những cô  nàng tuổi Mùi lại có sở thích mặc cả chi ly miễn sao có thể bớt được chút ít. Vì vậy, trong các cuộc "đọ trí" với chủ cửa hàng, họ thường dành phần thắng.

Mui-4382-1416241318.jpg

Ngoài ra, các cô nàng tuổi này có sự nhạy cảm trời cho về việc đánh giá chất lượng sản phẩm. Họ biết rõ hàng nào tốt, giá nào là hợp lý và xứng đáng bỏ tiền túi ra mua. Nếu gặp phải khách là con giáp này, chủ cửa hàng đều sẽ nhượng bộ họ đôi ba phần.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cô nàng tuổi nào là 'cao thủ' mặc cả

Chùa Xuân Lan - Quảng Ninh

Chùa Xuân Lan còn có tên gọi khác là : "Linh Quang cổ tự". Chùa nằm trên một gò đất cao nhìn về hướng Nam, nơi đây có nhiều lễ hội vào tháng giêng
Chùa Xuân Lan - Quảng Ninh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Xuân Lan tọa lạc tại thôn Trung, xã Hải Xuân, huyện Hải Ninh, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Nơi đây được trụ trì bởi Đại Đức Thích Minh Hạnh.

Cũng như nhiều ngôi chùa khác trên khắp Việt Nam, tại Chùa Xuân Lan cũng có nhiều lễ hội diễn ra. Đông đúc và nhộn nhịp hơn cả là vào mùa xuân hàng năm, bắt đầu bằng lễ dựng nêu từ ngày 25 tháng Chạp âm lịch, kết thúc bằng lễ hạ nêu ngày 28 tháng Giêng âm lịch. Những ngày này thu hút đông đảo du khách thập phương đến cũng bái và chơi hội.

Chùa Xuân Lan còn có tên gọi khác là : “Linh Quang cổ tự”. Chùa nằm trên một gò đất cao nhìn về hướng Nam, phía trước Chùa là một hồ nước hình bán nguyệt và một nhánh của dòng sông Ka long chảy uốn khúc trước cửa Chùa và chảy thẳng ra Mũi Ngọc.

Không ai rõ là chùa được xây dựng khi nào. Điều đặc biệt là đến nay chùa còn lưu giữ được một số tượng Phật rất lớn (trong đó có 5 pho tượng thời Lê). Ngoài ra, chùa còn lưu giữ được một số mảng chạm khắc gỗ với những đường nét tinh vi sắc sảo mang phong cách thời Lê.

Tương truyền, chùa được xây dựng trên trán con rồng và mắt rồng là ao trước cửa chùa. Đây là mảnh đất cao ráo, thoáng đãng. Dòng sông Ca Long bắt nguồn từ Trung Quốc chảy thẳng vào cửa chùa rồi ngưng lại uốn khúc ở đó để tụ lại nguồn khí thiêng nơi địa đầu của Tổ quốc. Bởi thế mà từ lâu, ngôi chùa đã đi sâu vào tiềm thức của người dân nơi đây một điều gì đó rất linh thiêng và gắn bó.

Trước kia các bậc thềm trong lối vào chùa được ghép bằng các khối đá xanh, trải qua thời gian và chiến tranh, nên đã bị huỷ hoại phần nào. Hiện tại các bậc thềm này được làm xen kẽ với gạch nung. Tiếp theo là sân chùa được lát bằng một lớp vữa xi măng, xung quanh bó gạch tạo nên một không gian thoáng mát trước cửa chùa.

Chùa Xuân Lan có kiến trúc kiểu chữ đinh, toà tiền đường gồm 5 gian bịt đốc, nối liền với hậu cung 3 gian 2 chái tạo thành. Phía trước hai bên chùa là nhà Tổ và nhà Mẫu. Ngoài ra, chùa còn có nhiều kiến trúc phụ khác như: nhà sắp lễ, bếp, giếng… Hầu hết các công trình được xây dựng bằng một loại gạch xanh hết sức đặc biệt.

Chùa chủ yếu được xây dựng bằng các cấu kiện đá xanh. Các bậc lên chùa bằng đá xanh, các cột, xà ngang bằng đá. Và đặc biệt chùa vẫn còn lưu giữ một pho tượng đá. Chất liệu đá làm nên những cấu kiện này là những phiến đá có kích cỡ lớn, được đem từ núi Tổ Chim – đảo đá lớn nằm ở phía ngoài phường Trà Cổ, giáp biên giới Việt Trung.

Những nét chạm khắc ở các cấu kiện này hết sức tinh xảo, các mộng đá, gỗ được ghép vào nhau rất khít, tạo thế vững chãi, bền chắc cho ngôi chùa.

Ngoài nghệ thuật kiến trúc đá, chùa Xuân Lan còn lưu giữ được những mảng chạm khắc gỗ có giá trị. Đặc biệt là các mảng chạm khắc ở vì kèo, đầu dư, đầu bảy, bức cốn… được các nghệ nhân thời trước chạm trổ kênh bong với những hình long, ly, quy, phượng và các hoa văn khác với những đường nét tinh vi, sắc sảo và mềm mại, mang vẻ đẹp thâm nghiêm cả về tạo hình và tâm linh.

Chùa Xuân Lan là nơi có nền Phật giáo lâu đời, mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Chùa là di tích lịch sử văn hoá có giá trị, là “cột mốc văn hoá đường biên” nơi địa đầu của Tổ quốc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Xuân Lan - Quảng Ninh

Lễ hội Bon Om Thook tại Campuchia

Lễ hội Bon Om Thook hay còn gọi là lễ hội nước, được tổ chức ngày ngày 15 tháng 11 Âm lịch hàng năm tại Cung điện Hoàng Gia, Campuchia.
Lễ hội Bon Om Thook tại Campuchia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Hoạt động chính của lễ hội là đua ghe thuyền. Theo ghi ghép thì lễ hội này có nguồn gốc từ rất lâu đời, từ thế kỷ 12 trên các bức tường tại kinh đô Angkor đã có tạc cảnh của lễ hội đua ghe rất rõ ràng.

Le hoi Bon Om Thook tai Campuchia hinh anh
Ảnh minh họa
Đây là một nét truyền thống dân tộc vô cùng đặc sắc của người Khmer, tôn lên sự tài năng, nhanh nhẹn, kiên trì, cũng như đề cao tính nghệ thuật, niềm tự hào dân tộc, lòng yêu nước, tôn vinh ý thức bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ dân tộc của con người Khmer.   Lễ hội đua thuyền của người Khmer thể hiện nét đặc sắc truyền thông dân tộc, tài năng, nhanh nhẹn, sự kiên trì, nghệ thuật, hạnh phúc, sự yêu chuộng hòa bình, sự đoàn kết cộng đồng, niềm tự hào dân tộc và trên hết là lòng yêu nước cũng như ý thức bảo vệ đất nước, bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ dân tộc.
 
Đây vừa là cuộc thi tài cũng vừa là cảm ơn Đức Phật đã ban cho mùa màng bội thu và cầu mong no ấm. Ngoài ra, đây còn là dịp để tưởng nhớ lại sức mạnh không thể chia cắt của lực lượng thủy quân Đế chế Khmer cổ và giới thiệu sự đa dạng của các phương tiện giao thông đường thủy của dân tộc Khmer.   Bon Om Thook được xem là lễ hội đông người tham dự nhất trong các lễ hội ở Campuchia, người dân cả nước quy tụ về Phnom Penh để xem và cổ vũ cuocọ tranh tài. Lễ hội đã thu hút được rất nhiều khách du lịch tham quan vào ngày rằm tháng 11 hàng năm.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả công cụ xem ngày theo Lịch vạn sự chuẩn xác

Theo Toptravels
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội Bon Om Thook tại Campuchia

kiêng kỵ phòng bếp ở giữa nhà –

Hiện tượng: Trung tâm nhà rơi đúng phòng bếp, đặt biệt là bếp ga đặt đúng vị trí tâm nhà, bố cục như vậy sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định khí trường của ngôi nhà, đồng thời phòng bếp nằm ớ trung tâm thì ga và đường nước nhất định phải đi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Trung tâm nhà rơi đúng phòng bếp, đặt biệt là bếp ga đặt đúng vị trí tâm nhà, bố cục như vậy sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định khí trường của ngôi nhà, đồng thời phòng bếp nằm ớ trung tâm thì ga và đường nước nhất định phải đi qua các phòng khác. Như vậy gây ra bất tiện nhất định cho việc thi công và sự an toàn bị đe dọa.

245_2

Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải không có cách nào khác là nhanh chóng sửa đổi bố cục ngôi nhà cho hợp lý. Nếu hiện tại không tiện thì phải thường xuyên mở cửa sổ phòng bếp và ít mở cửa phòng ngủ, đặc biệt là khi nấu nướng càng cần phài lưu ý, để giảm thiểu những ảnh hưởng đối với khí trường của ngôi nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: kiêng kỵ phòng bếp ở giữa nhà –

Bài 1: Giới thiệu về bộ môn Thần Số Học

Chữ số là hệ thống ký hiệu dùng để ghi chép một số thông tin mà ở thờikỳ ban sơ con người vẽ chúng lên mặt đất. Những ký hiệu này được pháthiện vào thời kỳ đồ đã cũ - khoảng 25.000 năm trước. Nhưng trải qua sựtham gia, nghiên cứu của các nhà toán học, nhà triết học, các nhà tư tưởngtrong khoảng thời gian đó và trở về sau thì việc tính toán mối liên hệgiữa các chữ số đơn giản đã phát sinh thay đổi. Họ đãdựa vào nhiều đặc tính chuyên môn để liên hệ chữa số lại với nhau.
Bài 1: Giới thiệu về bộ môn Thần Số Học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà tư tưởng kiệt xuất Trung Quốc Mao Trạch Đông đã từng nói: "Con người" luôn không ngừng tổng kết kinh nghiệm, phát hiện, phát minh, sáng tạo, tiến về phía trước. Lịch sử đã phát triển của chữ số nói với chúng ta rằng, để giải quyết yêu cầu một số vấn đề, cần phải phát minh ra các con số mới và tổ hợp mới của chữ số. Sự hình thành của thuật dự đoán thông tin qua những con số là một khoa học hình thành trên cơ sở nghiên cứu lý số của người xưa.

Trên cơ sở này các nhà triết học Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu và làm sâu sắc thêm quan điểm này, đưa nó vào hệ quy chiếu với các trục không gian, thời gian để tính toán quá trình phát triển của thiên thời, nhân sự đòng thời tổng kết ra những quy luật ứng dụng trong cuộc sống và để đưa ra những quyết sách trọng đại.


Thần số học giới thiệu những lý luận cơ bản của thuật dự đoán thông tin qua các con số như một môn khoa học liên ngành tổng hợp. Bộ môn này lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm căn cứ, lấy lý luận không gian, thời gian làm tọa độ, lấy thuật số cổ đại làm nền tảng, lấy hiệu ích xã hội, lợi ích kinh tế làm mục đích. Nó là một môn khoa học thuật số trực tiếp ứng dụng vào quyết sách phát triển mục tiêu hóa hung được cát của con người đã trải qua kiểm chứng, thực hành mà tổng kết thành. Tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người như học hành, sự nghiệp, tài vận, hôn nhân, sinh đẻ cho đến cả vấn đề sức khỏe, tai họa, mất mát, thuyên chuyển trong công việc... tôi sẽ cung cấp phương pháp lập quẻ đoán quẻ tương ứng để có được những thông tin dự đoán chính xác.


Trương Xuân Toàn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài 1: Giới thiệu về bộ môn Thần Số Học

Tướng bàn tay của người nghèo khổ suốt đời - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Tướng bàn tay của người nghèo khổ suốt đời, Nhân tướng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tướng bàn tay của người nghèo khổ suốt đời, tu vi Tướng bàn tay của người nghèo khổ suốt đời, tu vi Nhân tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng bàn tay của người nghèo khổ suốt đời

Nhân tướng học cho rằng bàn tay cho biết vận trình sướng khổ của một đời người. Nếu sinh ra bàn tay bị dị tật, biến dạng thì đó là điềm xui xẻo, báo hiệu cuộc sống nghèo khổ, chật vật. 1. Bàn tay 6 ngón
 
Ngay từ khi sinh ra, nếu bàn tay bị dị tật bất thường như có 6 ngón là điềm báo xấu, tiên đoán số phận long đong lận đận của chủ nhân. Nam giới có tướng bàn tay này thì vận thế thời niên thiếu không tốt, nhưng nếu tích cực cố gắng và thay đổi, khi đến tuổi trung niên vận thế sẽ khởi sắc, cuộc sống thuận lợi và tốt đẹp hơn.

2. Bàn tay mỏng và phẳng
 
Đa phần người có bàn tay mỏng và phẳng thường có số mệnh nghèo khó, dù cả đời làm lụng vất vả, nỗ lực đến hơi thở cuối cùng vẫn không có số giàu sang, thậm chí phải lo ăn từng bữa. 

Tuong ban tay cua nguoi ngheo kho suot doi hinh anh
Ảnh minh họa

Ngoài ra, nếu trên bàn tay nổi nhiều gân xanh, da dẻ nhợt nhạt là dấu hiệu cho thấy người này dễ gặp xui xẻo hoặc tai nạn bất ngờ. Nếu trên gò Kim tinh có màu vàng sạm báo hiệu trong thời gian tới người này sẽ bị mất tiền của hoặc đồ đạc. Trường hợp đường chỉ tay Sự nghiệp có màu xám đậm chứng tỏ đó là người thường ảo tưởng về bản thân, đồng thời tính tình ích kỉ và khó giữ được tiền bạc.

3. Ngón tay trỏ quá dài
 
Người có ngón tay trỏ quá dài thường tính tình kiêu căng ngạo mạn, thích khoe khoang, hay áp đặt suy nghĩ của mình lên người khác, lúc giàu có thì lên mặt dạy đời. Chính những tính cách này khiến họ không được lòng mọi người xung quanh và khó giữ được tiền của.
 
Ngoài ra, nếu ngón tay trỏ quá ngắn thì là người thiếu tinh thần trách nhiệm, chí tiến thủ và ít quan tâm tới tiền bạc. Nếu ngón này tương đối dài lại là người có tính tình ngoan cường, nhiều mưu đồ.

4. Bàn tay nổi gân xanh kéo dài
 
Nếu một ngày nào đó bàn tay nổi gân xanh đột ngột, những đường gân này nổi lên rõ ràng và kéo dài khoảng 3 tháng trở đi, bạn nên cẩn thận đề phòng tổn thất lớn về tiền bạc, thậm chí phải mắc khoản nợ khổng lồ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng bàn tay của người nghèo khổ suốt đời - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Mục sở thị bên trong nhà của chuyên gia phong thủy lẫy lừng

Hãy cùng tham quan ngôi nhà của Lillian Too - chuyên gia phong thủy hàng đầu thế giới. Nhắc tới Lillian Too người ta không thể không nhắc tới hơn 80 đầu sách về phong thủy, được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, số lượng sách của tiến sĩ phong thủy này bán ra nhiều hơn bất kì một tác giả nào khác trong bộ môn khoa học phong thủy huyền bí.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lillian Too (người Malaysia), sinh năm 1946, nổi danh khắp thế giới với khả năng vượt bậc – một nữ CEO tài chính đầy năng lực và một nhà phong thủy uy tín vượt bậc.

Lillian Too tốt nghiệp MBA tại ĐH Havard năm 1976 và nhanh chóng trở thành người phụ nữ Châu Á đầu tiên trở thành CEO trong ngành ngân hàng (Ngân hàng Dao Heng của Hong Kong) năm 1982. Tuy nhiên, vào năm 1991, bà đã quyết định nghỉ hưu và trở thành một “người phụ nữ thực sự” sau câu nói của con gái bà “Mẹ, tại sao mẹ không giống như những bà mẹ khác?”.

 muc so thi ben trong nha cua chuyen gia phong thuy lay lung - 2

Nhà của bà không hổ danh là ngôi nhà của chuyên gia phong thủy với vô số vật phẩm phong thủy được trưng bày

Mặc dù từ bỏ sự nghiệp danh vọng khi mới 45 tuổi nhưng Lillian Too chưa bao giờ hối hận vì quyết định đó, bởi ở thời điểm ấy, bà chỉ muốn làm một người mẹ đúng nghĩa.

Sau khi nghỉ hưu, Lillian Too sáng lập công ty Thế Giới Phong Thủy – chuyên phát hành tạp chí “Thế Giới Phong Thủy” và tổ chức các chương trình dạy, phổ biến về phong thủy,…

 muc so thi ben trong nha cua chuyen gia phong thuy lay lung - 3

Bên cạnh việc chăm sóc cho các ấn phẩm của mình, Lillian Too cũng rất quan tâm tới việc trang trí nhà cửa theo phong thủy.

Tôi thường xuyên làm mới ngôi nhà của mình. Mỗi năm, các đồ nội thất trang trí bên ngoài ngôi nhà đều được thay đổi”, bà Lillian Too nói đầy tự hào.

Lillian Too bắt đầu sống tại ngôi nhà này từ những năm 1970. Nó đã cùng bà đi qua những thăng trầm của cuộc đời, khi bà sinh con gái đầu lòng Jenifer, khi bà đang ở đỉnh cao của sự nghiệp, là người phụ nữ châu Á đầu tiên trở thành CEO của ngân hàng và sau đó là nghỉ hưu để làm một bà mẹ đúng nghĩa.

Ngôi nhà của Lillian tràn ngập các bức tượng Phật ở khắp nơi, từ các pho tượng được đặt trang trọng trên kệ, bàn cho tới những pho tượng Phật nhỏ được điêu khắc tinh xảo bằng thạch sao của Pháp dùng để trang trí trên vòm cửa.

 muc so thi ben trong nha cua chuyen gia phong thuy lay lung - 4

Tôi yêu những bức tượng Phật. Tôi không thu thập chúng để trang trí. Tất cả những bức tượng được đặt trong nhà tôi đều nhằm mục đích tâm linh”, Lillian Too nói.

Có rất nhiều vật dụng phong thủy, nhiều trong số đó là các biểu tượng có ý nghĩa khác nhau. Chúng có thể mang lại may mắn và sức khỏe hoặc dùng để bảo vệ ngôi nhà, thu hút các nguồn năng lượng, mang lại cho gia chủ cơ hội thăng tiến và sự giàu có”, bà Lillian giải thích.

Ngôi nhà này có rất nhiều các chi tiết xây dựng tinh xảo, bà đã tự tay thiết kế chúng?

Mọi ngõ ngách, tôi đều tự làm với tình cảm vô cùng gắn bó và trân trọng. Tôi đã ở ngôi nhà này từ rất lâu, trước cả khi Jenifer ra đời. Ban đầu, nó chỉ là một căn nhà nhỏ, dần dần nó được mở rộng ra và sẽ còn to hơn nữa. Mặc dù căn nhà này đã 30 tuổi, nhưng nhìn vào nó bạn có thể thấy nó vẫn còn rất mới và tràn đầy năng lượng. Năng lượng đối với một ngôi nhà là rất quan trọng. Trong nhà cũng có rất nhiều đồ đạc nhưng không hề lộn xộn.

Bà có biết nguồn gốc của tất cả các pho tượng ở đây không?

Mỗi một đồ vật đến với tôi đều ẩn chứa một câu chuyện bên trong và tôi lưu giữ tất cả những điều đó. Chẳng hạn, tôi có bức tượng Phật 600 năm tuổi từ cách đây 25 năm.

 muc so thi ben trong nha cua chuyen gia phong thuy lay lung - 5

Tượng Phật được bày khắp nơi trong nhà

Bà đã có được những tác phẩm đó ở đâu?

Chúng có nguồn gốc từ khắp nơi trên thế giới. Rất nhiều trong số đó là những món quà từ những người bạn cũ, bạn thân, khách hàng hoặc tôi có được sau những chuyến du lịch. Mỗi một vật trong nhà, những đồ liên quan tới Phật giáo và phong thủy, đều có một câu chuyện. Tôi yêu tất cả mọi thứ trong nhà mình và không hề đặt bất cứ giá trị vật chất nào lên chúng, bởi với tôi, sự tinh xảo của người nghệ nhân khi làm ra những vật đặc sắc này và tình yêu tôi dành cho chúng khiến chúng trở nên quý giá hơn tất thảy.

 muc so thi ben trong nha cua chuyen gia phong thuy lay lung - 6

Bà là một tín đồ Phật giáo, vậy, điều đó có ảnh hưởng như thế nào đến niềm đam mê phong thủy của bà?

Nghề chính của tôi là giảng dạy về phong thủy. Việc này mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui và cảm hứng, tôi như bị cuốn vào đó và tôi cũng đã làm rất nhiều các nghiên cứu liên quan tới phong thủy. Bên cạnh đó, tôi cũng có một cuộc sống hạnh phúc. Tôi muốn mọi người luôn nhớ đến tôi là một phật tử và tôi thích triết lý của Phật giáo (Cười).

Phật giáo chủ trương rằng bạn nên sống cuộc sống của chính mình và làm cho nó trở nên ý nghĩa hơn, bạn cũng nên giúp đỡ người khác. Tôi là chủ tịch của một trung tâm thiền Phật giáo. Chúng tôi làm rất nhiều dự án cộng đồng, tôi cũng tổ chức các cuộc hành hương đến Tây Tạng, Kathmandu và Ấn Độ. Đó là cách tôi nuôi dưỡng đời sống tinh thần của mình.

 muc so thi ben trong nha cua chuyen gia phong thuy lay lung - 7

Ngôi nhà của Lillian Too có nhiều cây xanh, bể nước... thuận Phong Thủy

Có rất nhiều tượng Phật trong nhà mình nhưng tôi không muốn nó trông giống như một ngôi đền, thay vào đó, tôi muốn nó trông thật đẹp, giống như một cõi tịnh độ, một chốn thiên đường. Và thật may mắn khi cả chồng và con gái tôi đều thích nó. Đây là điều quan trọng nhất với tôi.

Vậy ai mới thực sự là Lillian Too?

Bất cứ ai sống trên đời đều có nhiều khía cạnh trong con người họ, tôi cũng không phải ngoại lệ. Khi bạn còn trẻ và ở thời điểm bắt đầu cho mọi thứ, bạn luôn muốn làm mọi việc mình muốn, giống như con gái tôi. Nó đang chăm sóc con trai mình và thực sự tận hưởng cuộc sống như một người mẹ. Tôi thực sự cảm động khi chứng kiến con bé yêu thương con trai nó. Rồi sau đó, tôi thấy vô cùng tự hào khi thấy con bé điều hành công ty. Như vậy đó, tôi từ một người mẹ và sau đó là một người phụ nữ thành đạt với sự nghiệp rực rỡ. Và bây giờ, khi đã ở bên kia cuộc đời, tôi thấy mình thực sự hữu ích và truyền được cảm hứng cho những người khác.

 muc so thi ben trong nha cua chuyen gia phong thuy lay lung - 8

Ai là hình mẫu người mà bà hướng tới?

Tôi thực sự ngưỡng mộ Hillary Clinton. Tôi biết câu trả lời của tôi có thể khác mọi người nhưng tôi phải khẳng định điều đó. Tôi tình cờ có mặt ở New York và có vinh dự được xem bà ấy vận động tranh cử để trở thành Thượng nghị sĩ New York vào thời điểm đó, vì thế, tôi đã theo dõi các chương trình của Hilary Clinton qua truyền hình và các buổi họp báo. Bà ấy thực sự rất mạnh mẽ, và tôi ngưỡng mộ những người làm việc có mục tiêu, tham vọng và can đảm. Tôi nghĩ đó là điểm khác biệt giữa một người tuyệt vời với những người tạm được.

 muc so thi ben trong nha cua chuyen gia phong thuy lay lung - 9


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mục sở thị bên trong nhà của chuyên gia phong thủy lẫy lừng

Phong thủy hình xăm rồng –

Ý nghĩa chung Rồng là vật tổ của nguời Hán, là biểu tượng của đất Hoa Hạ, rồng có sức mạnh rất lớn, chủ sự nghiệp, địa vị hiển đạt. Trong phong thủy học, phương bến trái là phương Thanh Long, chủ tiền tài, địa vị, quý nhân phù trợ và sự nghiệp thăng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa chung

1

Rồng là vật tổ của nguời Hán, là biểu tượng của đất Hoa Hạ, rồng có sức mạnh rất lớn, chủ sự nghiệp, địa vị hiển đạt. Trong phong thủy học, phương bến trái là phương Thanh Long, chủ tiền tài, địa vị, quý nhân phù trợ và sự nghiệp thăng tiến, bên phải là phương Bạch Hổ, chủ họa tử vong, đường xá, đổ máu, là ngôi của tiểu nhân. Do đó, rồng đại diện cho việc gọi quý nhân, có thể loại trừ thị phi, tiểu nhân.

Rồng đối với xăm hình

Xăm rồng phù trợ cho việc gọi quý nhân trợ giúp mình, có thể loại trừ thị phi, tiểu nhân làm hại, hỗ trợ cho sự nghiệp thăng tiến.

2

Xăm hình rồng thì đầu nên hướng vào trong, không nên hướng ra ngoài, vì hướng vào trong là triều bái, hướng ra ngoài là điềm không tốt.

Xăm hình rồng thì tốt nhất là có thêm nước, vì rồng gặp nước là tương sinh, tức đặc biệt uy phong dũng mãnh, nếu không nước thì sẽ rơi vào thế: rồng sa nước cạn, bị rắn khinh.

Nếu xăm rồng không có nước thì tốt nhất là xăm ở vị trí phương Bắc, tức là trước ngực, vì phương Bắc Ngũ hành thuộc Thủy, thích hợp với Rồng.

3

Rồng nên xăm ở bên trái cơ thể, không nên xăm bên phải vì: Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ – Trái là Thanh Long, phải là Bạch Hổ. Xăm rồng bên trái thì có thể phát huy được sức mạnh của phương Thanh Long.

Người cầm tinh con gà, chuột, khỉ (người tuổi Dậu, Tý, Thân) tương hợp với rồng, rất thích hợp xăm rồng, người cầm tinh con chó, mèo và rồng (người tuổi Tuất, Mão, Thìn) thì không nên xăm rồng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy hình xăm rồng –

Mẹo sử dụng đồ lưu niệm chuẩn phong thủy

Nếu không được sử dụng đúng cách thì đồ lưu niệm sẽ không còn là vật kỷ niệm đơn thuần, mà ngược lại, còn mang tới cho gia chủ những điều xui rủi.
Mẹo sử dụng đồ lưu niệm chuẩn phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thường chúng ta chỉ coi những món đồ lưu niệm như là một vật kỷ niệm hoặc vật may mắn. Tuy nhiên, nếu không được sử dụng đúng cách thì chúng sẽ không còn là vật kỷ niệm đơn thuần, mà ngược lại, còn mang tới cho gia chủ những điều xui rủi.

  7. Mặt nạ

Meo su dung do luu niem chuan phong thuy hinh anh
Có một số khu du lịch có bày bán những loại mặt nạ như mặt nạ nhân vật hoạt hình, mặt nạ ông Địa, mặt nạ lễ hội… và khách du lịch thường cảm thấy thích thú muốn mua về làm đồ kỷ niệm. Tuy nhiên, mặt nạ là một vật phẩm không thể trưng bày bừa bãi, nếu không gia chủ sẽ mắc các bệnh như đau đầu, thiếu máu, vướng vào chuyện thị phi…
 
Nên treo mặt nạ ở trên cao, nhìn hướng về phía cửa phòng hoặc cửa nhà, lối ra vào, tuy nhiên, tuyệt đối không được treo mặt nạ ở phía trên đầu giường hoặc đối diện gương chiếu.
 
8. Con rối, móc khóa búp bê

Meo su dung do luu niem chuan phong thuy hinh anh 2
 
  Rất nhiều người sử dụng con rối, con thú nhỏ hoặc búp bê làm móc chìa khóa hay móc điện thoại… Thực ra đây cũng không phải là vấn đề quá nghiêm trọng nếu như con búp bê đó không hồng hào quá hoặc không quá đen đúa. 
 
Các món đồ này cũng không nên đặt ở đầu giường, nếu không bạn sẽ gặp phải các vấn đề như mất ngủ, tinh thần không được phấn chấn, bi quan, thường xuyên gặp trắc trở trong chuyện tình cảm.
 
9. Quạt 

Meo su dung do luu niem chuan phong thuy hinh anh 3
 
Quạt cũng là món đồ lưu niệm được bày bán nhiều ở các khu du lịch, thế nhưng, nếu bạn mua về mà treo không chuẩn phong thủy thì trẻ nhỏ trong nhà sẽ học hành sa sút, tinh thần của bạn cũng không tốt, khó tập trung, dễ nổi nóng. 
 
Tốt nhất là nên treo quạt trong phòng khách hoặc trong phòng làm việc, treo cao và đối diện cửa phòng, lối ra vào. Tối kỵ treo đầu giường hoặc đối diện gương.
 
10. Tượng điêu khắc gỗ

Meo su dung do luu niem chuan phong thuy hinh anh 4
 
Có nhiều loại tượng gỗ như hình người, hình động vật… giá rẻ cũng có và giá cao cũng có. Nhưng trong phong thủy nhà ở thì không nên bày biện quá nhiều đồ vật bằng gỗ, vì điều này dễ làm cho tình cảm gia đình bất hòa, chìm đắm trong những thú vui mê muội, công việc cho dù có lao động tích cực cũng không đạt được hiệu quả cao.
 
11. Bình hoa

Meo su dung do luu niem chuan phong thuy hinh anh 5
 
Nhiều người thích trang trí, trưng bày bình hoa trong nhà, không chỉ là để cắm hoa mà còn là một thú chơi, ví dụ như thích sưu tầm những bình hoa cổ. Trong phong thủy thì không có nhiều cấm kỵ nhưng tốt nhất là không trưng quá nhiều bình hoa trong nhà, dễ gây ra vận đào hoa hoặc gia chủ tính tình nóng nảy, lỗ mãng.
 
Chỉ nên đặt bình hoa ở góc phòng và những vị trí ít người qua lại.
 
Trong cuộc sống, chúng ta nên để ý tới một số hiện tượng, thông qua các hiện tượng chúng ta có thể phát hiện ra rất nhiều các quy luật phong thủy, từ đó điều tiết cuộc sống để không chỉ vận khí mà cả thể xác lẫn tinh thần đều được tốt đẹp, khỏe mạnh.
 
Hết

► Xem thêm: Phong thủy số điện thoại hợp tuổi với bạn

Phương Thùy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo sử dụng đồ lưu niệm chuẩn phong thủy

Những lời chúc buổi sáng hài hước vui vẻ nhất

Những lời chúc buổi sáng hài hước vui vẻ nhất. Mỗi buổi sáng đón ánh ban mai tâm hồn chúng ta luôn cảm thấy thoải mái và thư thái nhất.
Những lời chúc buổi sáng hài hước vui vẻ nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những lời chúc buổi sáng hài hước vui vẻ nhất. Mỗi buổi sáng đón ánh ban mai tâm hồn chúng ta luôn cảm thấy thoải mái và thư thái nhất. Còn gì tuyệt vời hơn nữa khi ban mai thức giấc và nhận được những tin nhắn chúc buổi sáng tốt lành từ những người bạn của mình.

Bài viết này sẽ gợi ý đến bạn những lời chúc buổi sáng hài hước vui vẻ nhất giúp bạn dễ dàng gửi những lời tốt đẹp đến bạn bè của mình.

Những lời chúc buổi sáng hài hước vui vẻ nhất

Nắng buổi sáng ấm áp và ông mặt trời đang mỉm cười! Chúc bạn buổi sáng tốt lành, một ngày thật tuyệt và làm việc hiệu quả nhé!

———

Chúc cậu buổi sáng tốt lành, nhớ ăn sáng trước khi đi làm nhé. Cả ngày phải nhớ là luôn vui vẻ và hạnh phúc nghen.

———

Ê đồ lười! Dậy ăn sáng đi chứ. Chúc cậu buổi sáng ấm áp và ngày mới thật tuyệt nha. Good morning!

Mỗi ngày, khi Chúa mở cánh cửa thiên đường, Ngài nhìn tớ và hỏi: ”Điều ước hôm nay của con là gì?”. Tớ trả lời: Xin Người hãy bảo vệ người đang đọc tin nhắn này!

Tin nhắn này chẳng có chất béo, cholesterol hay các chất phụ gia, hoàn toàn chiết xuất từ tự nhiên, ngoại trừ có rất nhiều đường. Nhưng chắc chắn nó chẳng bao giờ ngọt hơn người đọc nó. Cười lên bạn nhé cho ngày mới rạng rỡ!

Chúc cậu thành công lớn vào thứ 2 – Không trở ngại ngày thứ 3 – Không căng thẳng thứ 4 – Không có lo lắng cho ngày thứ 5 – Nụ cười vào thứ 6 – Bên nhau hạnh phúc ngày thứ 7 – Tràn đầy niềm vui vào chủ nhật! 1 tuần mới tuyệt vời và hạnh phúc nha!!!

Con gà gáy le té le te sáng rồi ai ơi
Gà gáy té le té le sáng rồi ai ơi
Nắng sớm lên rồi dậy đi em hỡi em này em ơi!
Dậy mau đi nào! Chúc em ngày mới tốt lành!

Đây là lời bác sĩ khuyên: Ăn sáng đều đặn, uống nhiều nước, đừng quên vitamin C và nhắn tin cho anh ít nhất 3 lần/ ngày. Chúc cậu ngày mới nhiều niềm vui!^^

Cậu à, đi ăn với tớ nhé. Tớ có thể nghe thấy bụng cậu than thở với tớ qua đầu dây rằng: chủ nhân của nó chưa cho nó ăn sáng kìa…Hi, chúng mình cùng đi ăn để chuẩn bị cho một ngày mới dồi dào năng lượng nhé.

Khi nhận được tin nhắn này thì bạn hãy cười đi nhé, vì ít nhất đâu đó quanh đây có một người mong bạn hạnh phúc, vui vẻ và luôn yêu đời. He, chúc cô nương một ngày tươi trẻ nhé!

Mỗi sớm mai, thay vì tắt đồng hồ để nướng thêm một chút nữa như ngày thường, tớ lại thức sớm hơn để chuẩn bị một tin nhắn thật dễ thương gửi đến cậu buổi sáng tốt lành. Một ngày của tớ bắt đầu bằng niềm vui của cậu. Chúc cậu ngày mới tốt lành!

Dưới địa ngục có 6 con quỷ: 3 con quỷ đang chơi đùa, 2 con quỷ đang nói chuyện, còn 1 con đang ngáy ngủ. Đứa là ngày ngủ là em đó, dậy mau mau anh đưa lên thiên đường này.

Em/anh ơi, dậy chưa? em/anh đừng nướng kỹ quá, khét rồi! anh/em nhìn thấy từ phía nhà em/anh…”Ôi! có khói bốc lên cao rồi kìa”, anh/em sợ ko nhận ra em/anh mất.

Sorry có nghĩa là… SORRY… SORRY… Hehe. Đừng hiểu nhầm nha! Sorry có nghĩa là: S-Some, O-One Is, R- Really, R-Remember, Y-You = Someone’s really remember you = Có một ai đó đang thực sự nhớ cậu! Chúc cậu một buổi sáng tốt lành!

Cậu này, cậu nợ tớ thì phải trả đi chứ! Tính xù hả? người đâu mà … Cậu nợ tớ 1 NỤ CƯỜI ĐÓ! Chúc 1 ngày đầy niềm vui và những bất ngờ! Hihi

Tin nhắn này không chứa đường, cũng chẳng chứa mật ong, nhưng sao nó ngọt ngào thế nhỉ. Kiểu này chắc em bị tiểu đường mất thôi. Đọc tin nhắn rồi cười lên em nhé, chúc em ngày mới tốt lành.

Ngoài ra, còn có những tin nhắn chúc buổi sáng đẹp và không kém phần hài hước, vui vẻ:

|””|\_/|””|:”* . *”:
| |ot _.-”
|__|\_/|__| Ngày Mới
¤:·.(¯`°´¯).Tốt.Đẹp.·¤
..。☆☆Và☆☆。..
..。☆☆….☆☆。..
|””|__|””|:”* . *”:
| |ạnh_.-”
|__|””|__| phúc’!
»™ ¶_HAPPY DAY ™«

|””|\_/|””|:”* . *”: | |ot _.-” |__|\_/|__| Ngày Mới ¤:·.(¯`°´¯).Tốt.Đẹp.·¤ ..。☆☆Và☆☆。.. ..。☆☆….☆☆。.. |””|__|””|:”* . *”: | |ạnh_.-” |__|””|__| phúc’! »™ ¶_HAPPY DAY ™«

|;;;;;\..|;;;;;|
|;;;;;|\.|;;;;;|
|;;;;;|”‘\;;;;;|
______Ngày______
I;;;;;\../;;;;;I
I;;;;I\./I;;;;I
I;;;;I . I;;;;I
_______Mới_______
\;;;;\../;;;;/
\;;;;\/;;;;/
\;;;;;;;/
______Vui_______
\;;;;\../;;;;/
\;;;;\/;;;;/
\;;;;;;;/
_______Vẻ_______

|;;;;;\..|;;;;;| |;;;;;|\.|;;;;;| |;;;;;|”‘\;;;;;| ______Ngày______ I;;;;;\../;;;;;I I;;;;I\./I;;;;I I;;;;I . I;;;;I _______Mới_______ \;;;;\../;;;;/ \;;;;\/;;;;/ \;;;;;;;/ ______Vui_______ \;;;;\../;;;;/ \;;;;\/;;;;/ \;;;;;;;/ _______Vẻ_______

|;;;|\_/|;;;|:”*.*”:
|;;;|\_/|;;;| ột_Ngày Mới
¤(¯`°´¯)_Tốt_Đẹp_¤
..。☆ ☆ Và ☆ ☆ 。..
..。☆ ☆ _ ☆ ☆ 。..
|;;;|–|;;;|;”* . *”‘;
|;;;|””|;;;| ạnh_.,”
|;;;|””|;;;| phúc
»™ ¶_HAPPY DAY ™«

|;;;|\_/|;;;|:”*.*”: |;;;|\_/|;;;| ột_Ngày Mới ¤(¯`°´¯)_Tốt_Đẹp_¤ ..。☆ ☆ Và ☆ ☆ 。.. ..。☆ ☆ _ ☆ ☆ 。.. |;;;|–|;;;|;”* . *”‘; |;;;|””|;;;| ạnh_.,” |;;;|””|;;;| phúc »™ ¶_HAPPY DAY ™«

(>^^^)) (>~~))
( = ^.^ ) ( ^.^ = )
(”’).+””-.,.-“”+.(,,,)
*, ..Love.. ,*
*- .,. -*
!s2___s2___s2!
Chao Buoi Sang !
╔══╗
╚╗╔╝
╔╝ (¯`v´¯)
╚══`.¸.♥U

(>^^^<) (>~~<) ( = ^.^ ) ( ^.^ = ) (”’).+””-.,.-“”+.(,,,) *, ..Love.. ,* *- .,. -* !s2___s2___s2! Chao Buoi Sang ! ╔══╗____ ╚╗╔╝____ ╔╝(¯`v´¯)___ ╚══`.¸.♥U

__:♥____:♥:____♥:__
° ☆ ° ☆ ° ☆ ° ☆
°☆ °☆°☆
°|””\|””|:”* . *”:
°| |gay_.-“♥
°|__|\__|moi vui ve!
,*””””*, ,*””””*,
(0 ‘ _ ‘ ) ( ‘_ ‘ * )
=(,,)=(,,)=(,,)=(,,)=!!!
™ ¶_ove ß@ßY ™

__:♥____:♥:____♥:__ ° ☆ ° ☆ ° ☆ ° ☆ °☆ °☆°☆ °|””\|””|:”* . *”: °| |gay_.-“♥ °|__|\__|moi vui ve! ,*””””*, ,*””””*, (0 ‘ _ ‘ ) ( ‘_ ‘ * ) =(,,)=(,,)=(,,)=(,,)=!!! ™ ¶_ove ß@ßY ™

ღ.ღ.ღ.ღ ♫♫ . . • . .
. . • . . . Buoi . . . • . .
. . • . . Sang ღ.ღ
.♥♫♫ . • . Tot . • ….
. ☆ . ღ.ღ . • . Lanh..
♥♫♫♥.. • .. ☆ . .. ..
(¯`v´¯) Happy. .. ..
.`·.¸.·´ Day . ..
¸.·… ´¸.·´¨) ¸.·*¨) . . .
Good morning to you!

ღ.ღ.ღ.ღ ♫♫ . . • . . . . • . . . Buoi . . . • . . . . • . . Sang ღ.ღ .♥♫♫ . • . Tot . • …. . ☆ . ღ.ღ . • . Lanh.. ♥♫♫♥.. • .. ☆ . .. .. (¯`v´¯) Happy. .. .. .`·.¸.·´ Day . .. ¸.·… ´¸.·´¨) ¸.·*¨) . . . Good morning to you!

(¯`v´¯) Chao…….
.`•.¸.•´ Buoi…
¸.•… ´¸.•´¨) ¸.•*¨)Sang……
(¸.•´ (¸.•´ .•´ ¸¸.•¨¯`•.I..
(¯`v´¯)….L.o.v.e……
.`•.¸.•´……..Y.o.u…….
¸.•´¨¸.•´¨) ¸.•*¨)…..Baby….
(¸.•´ (¸.•´ .•´ ¸¸.•¨¯`•….

(¯`v´¯) Chao……. .`•.¸.•´ Buoi… ¸.•… ´¸.•´¨) ¸.•*¨)Sang…… (¸.•´ (¸.•´ .•´ ¸¸.•¨¯`•.I.. (¯`v´¯)….L.o.v.e…… .`•.¸.•´……..Y.o.u……. ¸.•´¨¸.•´¨) ¸.•*¨)…..Baby…. (¸.•´ (¸.•´ .•´ ¸¸.•¨¯`•….

____♥♥♥_____♥♥♥_____
__♥_____♥_♥_____♥___
__♥______♥______♥___
___♥___Chao___♥____
_____♥_______♥__ ___
_______♥___♥________
_________♥__________
_______♥___♥________
_____♥_______♥______
___♥_BUOISANG_♥____
__♥______♥______♥__
__♥_____♥_♥_____♥__
____♥♥♥_____♥♥♥____

____♥♥♥_____♥♥♥_____
__♥_____♥_♥_____♥___
__♥______♥______♥___
___♥___Chao___♥____
_____♥_______♥__ ___
_______♥___♥________
_________♥__________
_______♥___♥________
_____♥_______♥______
___♥_BUOISANG_♥____
__♥______♥______♥__
__♥_____♥_♥_____♥__
____♥♥♥_____♥♥♥____

|;;;|\_/|;;;|:”*.*”:
|;;;|\_/|;;;| ột_Ngày Mới
¤(¯`°´¯)_Tốt_Đẹp_¤
..。☆ ☆ Và ☆ ☆ 。..
..。☆ ☆ _ ☆ ☆ 。..
|;;;|–|;;;|;”* . *”‘;
|;;;|””|;;;| ạnh_.,”
|;;;|””|;;;| phúc
™ ¶_HAPPY DAY ™


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lời chúc buổi sáng hài hước vui vẻ nhất

3 “sai lầm” phong thủy nên “né” khi mua chung cư

Theo các chuyên gia thiết kế và phong thủy, khi chọn mua căn hộ chung cư, cần cân nhắc những yếu tố cơ bản để tránh ảnh hưởng xấu và đem lại sự thịnh vượng cho gia đình. Dưới đây là 3 sai lầm nên tránh.
3 “sai lầm” phong thủy nên “né” khi mua chung cư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1, Tòa nhà bạn mua thấp hơn những tòa nhà phía trước

Tòa nhà bạn chọn ở tốt nhất là phải cao hơn những tòa nhà khác ở phía trước. Xét về mặt ánh sáng, nếu phía trước nơi bạn ở có những công trình kiến trúc cao hơn và khoảng cách quá gần thì ánh nắng mặt trời sẽ bị cản lại, làm cho nơi bạn ở trở nên u ám do thiếu ánh sáng, lâu ngày dễ tích tụ vi khuẩn, khí độc, gây bất lợi cho sức khỏe lẫn tâm trạng của người sống.

Theo phong thủy, nếu không nhận được trường khí dương từ ánh nắng tự nhiên, điều đó có nghĩa là mạch khí trong nhà bạn bị đứt đoạn, gây ra cảm giác bị áp chế.

2, Phía sau tòa nhà không có điểm tựa

Điểm tựa ở đây chính là kiến trúc cao hơn, nằm ở phía sau tòa nhà của bạn như một điểm tựa vững chắc. Điểm tựa này là để cản gió, có tác dụng giúp người sống trong tòa nhà cảm thấy ổn định, dễ chịu. Đồng thời, khi có vật chống đỡ phía sau cũng đồng nghĩa nơi bạn ở được trợ giúp, bảo vệ, giúp chủ nhân có cuộc sống yên ổn và phát triển.

Theo phong thủy, điểm tựa còn có tác dụng tụ khí, giúp con người thuận lợi trong cuộc sống và được nhiều phú quý.

3, Nhà ở quá cao hoặc quá thấp

Nếu nơi ở quá thấp, ẩm mốc và tạp khí nhiều, cách âm lại không tốt sẽ hình thành môi trường độc hại, người ở cũng dễ bị quấy nhiễu bởi các tầng ở trên, gây cảm giác bức bí, bị đè nén.

Ngược lại, nếu bạn ở trên tầng quá cao thì dễ sinh ra cảm giác chơi vơi, chông chênh, nhiều khí lạnh, người ở trở nên yếu ớt, dễ hình thành tâm trạng bất ổn, cô độc. Tóm lại, chọn tầng để ở quá cao hay quá thấp đều không tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 “sai lầm” phong thủy nên “né” khi mua chung cư

Ý nghĩa Tết Hàn Thực trong văn hóa Việt Nam

Tết Hàn Thực bắt nguồn từ Trung Quốc song dần trở thành một ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Vậy trong văn hóa Việt, ý nghĩa Tết Hàn Thực là gì?
Ý nghĩa Tết Hàn Thực trong văn hóa Việt Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Hàn Thực là ngày lễ bắt nguồn từ Trung Quốc song dần theo thời gian, nó đã trở thành một ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Vậy trong văn hóa Việt, ý nghĩa Tết Hàn Thực là gì?

 

 

Theo nghĩa chữ Hán, “Hàn” là lạnh, “Thực” là ăn, “Tết” thực ra là cách đọc trại từ “Tiết” trong “Tiết khí”. Tết Hàn Thực có thể hiểu là “Tết ăn đồ lạnh”. 
 
Ngày Tết Hàn Thực diễn ra vào mùng 3 tháng 3 âm lịch, có nguồn gốc từ một câu chuyện có thật trong lịch sử Trung Quốc. Thời Xuân Thu (770 – 221 TCN), vua Tấn Văn Công nước Tấn khi gặp loạn phải sống cảnh lưu vong đã được hiền sĩ Giới Tử Thôi đi theo phò trợ, hiến nhiều mưu cao kế giỏi, giúp vua Tấn giành lại ngôi vương.

Không được vua Tấn nhớ công ban thưởng, ông không chút oán thán, sau bao năm bôn ba, ông quyết định về quê đưa mẹ vào núi ở ẩn, làm tròn đạo hiếu. Tới khi vua Tấn nhớ ra, vời ông về kinh đô ban bổng lộc, Giới Tử Thôi cũng không màng danh lợi mà từ chối, dù bị vua đốt rừng thúc ép quay về cũng không chấp nhận, thà chết cháy nơi rừng núi hoang vu. Vua thương xót nên cho lập miếu thờ, hạ lệnh kiêng đốt lửa 3 ngày, chỉ ăn đồ nguội đã nấu sẵn từ trước để tưởng niệm Giới Tử Thôi, về sau dịp này còn được gọi là Tiết Hàn Thực (từ mùng 3/3 đến mùng 5/3 âm lịch hàng năm).

 

Ý nghĩa Tết Hàn Thực trong văn hóa Việt Nam
 

Do vị trí địa lý và hoàn cảnh lịch sử, văn hóa Việt Nam và Trung Quốc sớm đã giao thoa và có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Ở Việt Nam cũng có Tết Hàn Thực nhưng không phải để tưởng nhớ Giới Tử Thôi  mà mang ý nghĩa dân tộc sâu sắc. Tết Hàn Thực mùng 3 tháng 3 và Tết Thanh Minh - vẹn tròn một chữ hiếu, thể hiện lòng thành kính với tổ tiên, thế hệ đi trước.
 
Tết Hàn Thực trong văn hóa Việt có những sắc thái riêng và mang đậm chất dân tộc với ý nghĩa hướng về nguồn cội, ghi nhớ công ơn dựng nước và giữ nước của tổ tiên. Vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch hàng năm, người dân vẫn nổi lửa, nấu nướng bình thường. Người Việt còn sáng tạo ra món bánh trôi bánh chay mang theo hồn dân tộc với ý nghĩa tượng trưng cho đồ ăn nguội – hàn thực. 


 

Nói đến Tết Hàn Thực mùng 3 tháng 3, chỉ cần là người con đất Việt, hẳn không ai không nhớ về vị ngọt ngào, thơm mát nhẹ nhàng của bánh trôi bánh chay. Món ăn truyền thống này đã trải qua bao thăng trầm lịch sử và đi vào thơ ca dân tộc, nổi bật là bài thơ “Bánh trôi nước” của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Cả hai thứ bánh đều được làm từ bột gạo nếp cái hoa vàng thơm lừng ngây ngất, mang hương vị thanh trong, tươi mát của đất trời, cũng thể hiện đặc trưng của nền văn hóa lúa nước lâu đời. Bánh trôi nặn viên tròn nhỏ, vỏ bánh trắng tinh, lại thêm nhân đường đỏ, luộc trong nước sôi, chờ bánh nổi lên thì vớt vào đĩa, rắc chút vừng cho thơm. Còn bánh chay thường được nặn viên to, tròn dẹt, không nhân hoặc nhân đậu xanh nghiền, luộc chín cho vào bát rồi rước nước đường nóng có thêm gừng xắt sợi. Mùi đỗ xanh thơm phức, mùi đường mật ngọt ngào, chỉ hai món ăn đơn giản nhưng dường như khiến cho không khí tết trở nên sôi động và ý nghĩa hơn.
 
Bánh trôi bánh chay được đem cúng ông bà tổ tiên, tỏ lòng thành kính và thể hiện nỗi nhớ thương người đã khuất. Ngoài ra, nhiều nơi cũng có tục lệ làm bánh để cúng Thành hoàng. Vào những ngày này, con cháu dù ở xa cũng cố gắng về quây quần bên gia đình. Chỉ cần cùng người thân thưởng thức đĩa bánh trôi bánh chay cũng thấy lòng ấm lại, cảm nhận được khí xuân thanh mát đang về, cảm nhận được nhân tình thế thái. Nhiều người còn truyền tai nhau rằng, mùng 3 tháng 3 âm lịch ăn bánh trôi bánh chay là để ôn lại chuyện xưa, nhớ về một thời đã xa của dân tộc Việt Nam.
 
Cứ đến ngày mùng 6 tháng 3, làng Hát Môn ở Phúc Thọ - Hà Tây lại có lệ dâng bánh trôi lễ Hai Bà Trưng. Tương truyền, Hai bà thua trận Cẩm Khê chạy về Hát Môn (cũng chính là nơi phất cờ khởi nghĩa) thì sức cùng lực kiệt, cổ bị thương nặng. May sao gặp được Bà hàng (chính là bà tiên hiện về đón Hai bà lên trời), được bà mời ăn bánh trôi, lại chỉ lối cho Hai bà đường đi ra sông Hát để thoát khỏi sự truy đuổi của quân nhà Hán và gieo mình tuẫn tiết.
 
Lại có truyền thuyết kể rằng ngày mùng 6 tháng 3 năm Quý Mão (năm 42), khi Hai Bà Trưng chuẩn bị xuất quân đi đánh giặc thì có bà lão bán hàng nghèo khó xin gặp, lại dâng 2 đĩa bánh trôi bà tự tay làm để tỏ lòng thành kính. Dù cách giải thích có khác nhau nhưng bao đời nay, dân làng vẫn duy trì thực hiện nghi lễ làm bánh và dâng cúng bánh trôi. Đây cũng trở thành một nghi lễ tối linh trong lễ hội Hai Bà Trưng.
 
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3, người dân Phú Thọ cũng dâng cúng bánh trôi. Hội Phủ Giày tháng 3 lễ Mẫu cũng thấy cúng bánh trôi.
 
Cũng có tích kể lại rằng bánh trôi bánh chay có từ thời Hùng Vương, 2 thứ bánh này được người dân sáng tạo ra để nhắc về sự tích “Trăm trứng nở trăm con” của Lạc Long Quân và Âu Cơ, trăm viên bánh tròn tựa như trăm quả trứng. Bánh trôi rắc vừng tượng trưng cho 50 quả trứng nở ra thành 50 người con theo mẹ lên non. Bánh chay chan nước đường tượng trưng cho 50 quả trứng nở ra thành 50 người con theo cha xuống biển. 
 
Như vậy, rõ ràng là trong văn hóa Việt Nam, Tết Hàn Thực có ý nghĩa hoàn toàn khác biệt, mang màu sắc dân tộc riêng, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tưởng nhớ tổ tiên và những người đã khuất, ghi khắc công lao của ông cha trong hành trình dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm lịch sử.
 

Ý nghĩa Tết Hàn Thực trong các nền văn hóa khác


Văn hóa Trung Quốc



 

Như đã nói ở trên, Tết Hàn Thực có nguồn gốc từ Trung Quốc, với ý nghĩa ban đầu là tưởng nhớ công lao của danh thần Giới Tử Thôi, đề cao tinh thần trung nghĩa và cốt cách thanh cao của ông. Dần dần, Tết Hàn Thực vì gần với Tết Thanh Minh nên cũng trở thành ngày tế lễ tổ tông, nhắc nhở con cháu về truyền thống đạo hiếu. Đến ngày nay, Tết Hàn Thực đã trở thành một dịp để giáo dục thanh thiếu niên về truyền thống dân tộc, tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ hy sinh trong thời kì cách mạng. 
 
Vào ngày này, người dân Trung Quốc kiêng đốt lửa, chỉ ăn đồ ăn nguội. Đồ ăn gồm nhiều loại, từ cháo trắng, mì sợi đến các loại bánh có ý nghĩa sâu sắc như Tử Thôi yến để nhắc nhớ về cốt cách tinh thần kiên trung bất khuất của Giới Tử Thôi, Xà bàn thố để cầu mong quốc thái dân an…
 
Theo truyền thống, ngày này người Trung Quốc có rất nhiều hoạt động như cắm liễu, đạp thanh, đánh đu, đá bóng, chọi gà. Các hoạt động này thường được tổ chức ngoài trời, là dịp để mọi người rèn luyện sức khỏe cũng như tận hưởng không khí ngày xuân. Trước đây, Tết Hàn Thực từng là ngày lễ lớn của dân tộc Trung Hoa, song theo thời gian, nó dần bị mai một, chỉ còn được tổ chức ở một số địa phương.
 

Văn hóa Hàn Quốc
 

 

Có thể nhiều người trong chúng ta không hề biết người Hàn Quốc cũng có Tết Hàn Thực. Bắt nguồn từ Trung Quốc, ngày này khi du nhập vào văn hóa Hàn Quốc đã trở thành ngày tảo mộ, tưởng nhớ tổ tiên. Tết Hàn Thực cùng với Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ và Tết Trung Thu được gọi là 4 ngày lễ lớn của dân tộc Hàn Quốc.
 
Vào ngày này, người Hàn Quốc thường đi thăm mộ phần của tổ tiên, cha mẹ, bạn bè thân thiết. Tục nhổ cỏ, trồng cây mới khi tảo mộ được gọi là “Cải sa thảo”. 
 
Trước kia, vào Tết Hàn Thực, hoàng thất sẽ tổ chức lễ tế long trọng ở hoàng lăng và đền chùa lớn, còn người dân thì chuẩn bị lễ mọn để dâng cúng gia tiên, gồm hoa quả, bánh trái, rượu trà. Theo truyền thống, ngày này người Hàn Quốc cũng không đốt lửa mà chỉ ăn đồ nguội. Đồ ăn thường là bánh ngải, rau trộn được chuẩn bị từ ngày hôm trước. Trẻ con thì rủ nhau chơi những trò chơi truyền thống như đá cầu, đánh đu…, trải nghiệm những phong tục xa xưa mà ông cha để lại.   Hy Vũ
Văn khấn Tết Hàn Thực (3/3 Âm lịch) Nguồn gốc Tết Hàn thực và ý nghĩa của bánh trôi bánh chay

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa Tết Hàn Thực trong văn hóa Việt Nam

5 chòm sao nữ có khả năng cầm cương đàn ông

Thông thường, phái đẹp luôn có xu hướng “núp bóng tùng quân”, nương nhờ vào người đàn ông của mình. Nhưng 5 chòm sao nữ mạnh mẽ dưới đây thì hoàn toàn ngược
5 chòm sao nữ có khả năng cầm cương đàn ông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

lại, họ thích cầm cương đàn ông hơn.


5 chom sao nu co kha nang cam cuong dan ong hinh anh 2
 
1. Song Ngư   Ngạc nhiên quá phải không, Song Ngư vốn rất hiền lành và yếu đuối cơ mà. Bạn nhầm to rồi. Họ chỉ giả bộ như vậy thôi, chứ thực ra thâm tâm nàng ấy luôn có tính toán và thích hướng người đàn ông theo ý muốn của mình.   Việc cư xử ngọt ngào, nhẹ nhàng và nũng nịu của Song Ngư chỉ chứng minh được một điều, họ rất biết cách lấy lòng người khác giới. Và đằng sau sự lấy lòng ấy, chính là mục đích để người đàn ông phục tùng.   2. Thiên Yết   Chòm sao nữ mạnh mẽ và lý trí như Thiên Yết không bao giờ muốn ôm chân đàn ông để nương nhờ. Họ khôn ngoan, sắc sảo, có thể làm đàn ông điên đảo, cũng có thể khiến đàn ông tự nguyện cúi đầu phục tùng vì sức hấp dẫn cũng như trí tuệ sâu sắc của mình.   Muốn khiến một cô gái Thiên Yết ngoan ngoãn và cúi mình thật khó hơn lên trời. Nàng ấy không phải con mèo nhỏ đáng yêu đâu mà là con hồ ly xảo quyệt đấy.   Infographic: 18 loại bố thí không sạch sẽ làm xấu chân lý nhà Phật
Đức Phật nói với các Tỳ Kheo, người làm việc thiện nhưng mang tâm không sạch, mưu cầu cá nhân thì không thể coi là bố thí. Dưới đây là 18

3. Kim Ngưu
  Có năng lực và có lập trường là hai điểm mấu chốt để chòm sao nữ Kim Ngưu vững vàng định đoạt những người đàn ông xung quanh mình. Vì họ không dựa dẫm nên không cần nhìn sắc mặt của ai. Vì họ có lập trường nên không bị lung lay bởi những thứ hào nhoáng phô trương.   Muốn gần bên Kim Ngưu, chỉ có một lựa chọn duy nhất là phục tùng cô nàng. Không bao giờ bạn cầm cương được cô ấy đâu, sự thật là ngược lại cơ.   4. Thủy Bình   Rất đơn giản, cung hoàng đạo nữ thông minh như Thủy Bình thì việc lãnh đạo ai đó dễ dàng hơn rất nhiều so với việc phục tùng. Nhất là khi họ có lòng kiêu hãnh cùng cái tôi độc đáo. Đối với Thủy Bình, không có điều gì qua mặt được cô ấy, nên đừng hòng lừa phỉnh họ.   Vì họ khá nhanh nhạy và sáng suốt, cũng có nhiều ý tưởng nên thường hướng người đàn ông của mình theo ý muốn cá nhân. Đó cũng là điều dễ hiểu khi Thủy Bình cảm thấy họ có trí tuệ hơn.  
5 chom sao nu co kha nang cam cuong dan ong hinh anh 2
 
5. Thiên Bình
  So với các chòm sao nữ khác, Thiên Bình khá hòa nhã và dịu dàng nhưng lại biết cách khiến người khác tự nguyện phục tùng, làm theo ý mình. Đó là nhờ sự khôn khéo, giao tiếp, hành xử một cách hấp dẫn nhưng đầy bản lĩnh.   Vì mê mẩn nàng Thiên Bình mà các chàng dù biết đang bị điều khiển cũng chẳng hé răng than thở nửa lời. Bình nhi cũng khá biết thời thế khi không bao giờ phô trương về vị thế của mình trước đám đông.   Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 chòm sao nữ có khả năng cầm cương đàn ông

Bí quyết săn được chồng lý tưởng - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Bí quyết săn được chồng lý tưởng, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bí quyết săn được chồng lý tưởng, tu vi Bí quyết săn được chồng lý tưởng, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bí quyết săn được chồng lý tưởng

Trong cuộc sống hẳn người phụ nữ nào cũng mong mình lựa chọn được người đàn ông mang lại hạnh phúc trọn vẹn. Và thực tế, có một số người đàn ông sau khi gặp gỡ, chị em không khỏi cảm giác thất vọng bởi “họ chỉ thích hợp để ngắm chứ không đủ chuẩn làm chồng!”. Cùng tử vi 2016 nếu lý do nhé.

Nếu bạn đang lựa chọn cho mình ý chung nhân. Bói bài khuyên bạn hãy cân nhắc lựa chọn mẫu đàn ông dưới đây vì ở họ tồn tại những ưu điểm lý tưởng.

1. Anh ấy luôn giữ lời hứa

Xem bói thấy chắc hẳn đã có những lúc bạn gặp phải vài đối tượng luôn thất hứa và điều đó khiến cho bạn cảm thấy thất vọng. Bởi vì việc giữ lời hứa cũng là cách mà đối phương thể hiện sự coi trọng bạn ở mức độ nào. Do đó nếu bạn gặp được một anh chàng luôn biết chịu trách nhiệm và giữ lời hứa của mình thì bạn nên giữ chặt lấy anh ấy. Hãy lấy đó làm tiêu chí “cưới gấp” anh chàng này vì rõ ràng với việc giữ đúng lời hứa của mình thì anh ấy cũng chứng tỏ không hề sợ bất cứ sự ràng buộc nào. Anh ấy cũng là người có quyết tâm, đáng tin cậy bởi tính trách nhiệm nghiêm túc của mình.

2. Anh ấy là một người lãng mạn

Bói tình yêu cho rằng, có một số người thường bỏ quên sự lãng mạn và điều đó khiến cho mối quan hệ rơi vào bế tắc. Nhiều người đàn ông nghĩ rằng sự lãng mạn mà chỉ là cần thiết để thu hút một cô gái và sau đó họ nghĩ rằng có thể dừng lại sau khi đã có được mối quan hệ. Ngược lại, một người đàn ông thực sự tử tế sẽ là người biết mang lại những cử chỉ lãng mạn đến cho cô gái mà mình thương yêu. Họ coi đó là một trong những điều cần phải làm để thể hiện sự quan tâm, chăm sóc đến bạn. Người đàn ông biết nghĩ cho bạn và vì bạn như vậy thì đừng dại mà buông tay nhé!

3. Anh ấy luôn có thời gian dành cho bạn

Anh ấy luôn có thời gian dành cho bạn

Anh ấy luôn có thời gian dành cho bạn

Một người đàn ông tuyệt vời, một người bạn trai lý tưởng là người luôn có thời gian dành cho người phụ nữ mình thương yêu. Và nếu anh chàng của bạn dù bận đến thế nào, ở xa bạn đến bao nhiên… nhưng vẫn ưu tiên dành thời gian để đến bên bạn thì hãy nhanh chóng kết hôn với anh ấy. Đừng để tuột mất hạnh phúc với anh chàng này bởi vì muốn được ở bên cạnh bạn, anh ấy có thể làm bất cứ điều gì. Và với anh ấy bạn là điều quan trọng, quý giá bất cứ gì khác.

4. Bạn có thể thoải mái cười đùa với anh ấy

Sự vui vẻ và tiếng cười trong trẻo của bạn chỉ được thể hiện một cách tự nhiên, thoải mái nhất khi bạn ở cạnh một người đàn ông tuyệt vời. Khi bạn ở cạnh một người đàn ông mà bạn có thể thoải mái thể hiện các nét tính cách thì hãy mỉm cười và kết hôn với anh ấy. Khi đang yêu, anh ấy biết cách làm thế nào để bạn cười thì sau khi kết hôn anh ấy cũng sẽ giúp bạn tận hưởng cuộc sống hôn nhân thoải mái, thú vị và hài hước như chính con người anh ấy.

5. Anh ấy yêu bạn và cho bạn biết mình là ai

Một người bạn trai tuyệt vời sẽ đánh giá cao con người bạn và cho bạn biết mình là ai. Khi ở bên cạnh anh ấy bạn không thấy bao giờ phải giả vờ làm một điều gì đó. Bởi vì bạn biết rằng anh ấy yêu tất cả mọi thứ thuộc về con người bạn, trong đó bao gồm các lỗi lầm và sai sót của bạn. Anh ấy chấp nhận bạn theo cách tự nhiên vốn có và không bao giờ muốn bạn thay đổi. Với một người đàn ông như vậy, bạn đừng dại dột mà bỏ lỡ. Cần cưới ngay và hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc bên anh ấy.

6. Gia đình và bạn bè của anh ấy tốt với bạn

Bạn mong chờ và rất hạnh phúc khi thời khắc anh ấy giới thiệu mình với gia đình và bạn bè của anh ấy?! Với nhiều cô gái khi hẹn hò với anh chàng nào đó, họ thường phải chờ sự chấp nhận của gia đình, bạn bè. Nhưng nếu cảm giác của bạn về gia đình cũng như bạn bè của anh ấy cũng thân thiện và tốt đẹp như khi bạn được ở cạnh anh ấy thì hãy nhanh chóng “gật đầu” kết hôn. Không ai dại khờ mà buông tay với một chàng trai có một gia đình quý mến bạn. Bên cạnh đó, sự thân thiết của gia đình anh ấy với bạn cũng chứng tỏ rằng anh ấy đã rất nỗ lực để những người đó thích bạn, mang lại cho bạn cảm giác thoải mái khi tiếp xúc.

7. Anh ấy luôn bên bạn khi bạn cần anh ấy

Anh ấy ghét khi nhìn thấy bạn buồn bã. Anh ấy luôn tìm cách để hỗ trợ và giúp bạn vượt qua mọi khó khăn. Anh ấy luôn ở bên bạn ngay cả khi cả thế giới này chống lại bạn… Điều đó cho thấy tình yêu và ý nghĩa quan trọng của bạn trong cuộc sống của anh ấy. Anh ấy sẽ buồn khi bạn buồn, khóc khi bạn khóc và reo mừng khi bạn cười. Một người bạn trai tuyệt vời, không bao giờ phán xét bạn, và chỉ muốn giúp đỡ để bạn trở thành người phụ nữ hạnh phúc nhất. Vậy thì còn chờ gì mà không cưới ngay anh ấy!

8. Bạn tin tưởng anh ấy tuyệt đối

Với tính cách và con người anh ấy, bạn biết rằng mình hoàn toàn có thể tin tưởng; bạn cũng chưa bao giờ để tâm trí mình bị bất cứ điều gì tác động tới niềm tin đó. Bạn biết khi anh nói yêu bạn, có nghĩa là anh ấy muốn bạn đừng bao giờ lo lắng về bất cứ điều gì khi hai người không đi cùng nhau. Bản năng của bạn quả quyết rằng mình hoàn toàn có cơ sở để tin anh ấy tuyệt đối. Và bằng niềm tin đó của bạn, hãy nhanh chóng kết hôn với người đàn ông tuyệt vời của bạn.

9. Anh ấy khuyến khích bạn nỗ lực hơn

 

Cũng giống như khi bạn làm việc, có một người luôn khuyến khích, động viên mọi nỗ lực của bạn thì kết quả công việc của bạn sẽ tốt hơn. Rõ ràng, ở bất kì mối quan hệ nào thì việc có được một người đồng hành với mình luôn là điều tuyệt vời. Bởi khi bạn gặp khó khăn, bạn cần ai đó có thể thúc đẩy mình bằng những lời động viên, khen ngợi hoặc đưa ra những gợi ý để bạn hoàn thành công việc, hoàn thiện bản thân. Nếu anh chàng của bạn cũng mang lại cho bạn cảm giác thoải mái, tự tin vào bất cứ việc gì mà bạn làm; Anh ấy khiến cho bạn cảm thấy bản thân mình tích cực… thì bạn nên lấy ngay anh ấy. Bởi vì chỉ có người đàn ông tuyệt vời và yêu bạn hết lòng mới khiến bạn tin vào bản thân mình.

10. Anh ấy có ước mơ và hoài bão

Bạn nhận thấy người bạn trai của mình chưa bao giờ ngồi ở nhà than thở về việc anh ấy có gặp may mắn hay không. Anh ấy luôn có những đột biến trong công việc và luôn có những ước mơ phát triển trong sự nghiệp. Thực tế, anh ấy cũng luôn tìm cách để hiện thực hóa những ước mơ và khát vọng đó của mình. Một người đàn ông có tham vọng trong công việc, chắc chắn sẽ biết mình muốn gì trong mối quan hệ với bạn. Anh ấy cũng biết mình muốn gì trong cuộc sống, và một trong những điều đó là mang lại hạnh phúc cho bạn. Vậy thì bạn còn chần chừ gì mà không cưới ngay anh ấy!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết săn được chồng lý tưởng - Bói tình yêu - Xem Tử Vi
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd