Các biệt tướng và thông tin –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
► Khám phá: Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác |
Hiện nay nhiều người ưa chuộng làm nhà lệch tầng, với mục đích tiết kiệm diện tích, điểm nhấn kiến trúc… Tuy nhiên, dưới góc nhìn phong thủy, nhà lệch tầng không phải là kiểu nhà tốt.
Bản chất nhà lệch tầng là sự khác biệt về cao độ giữa các tấm sàn hoặc các không gian. Vì vậy, làm nhà cao tầng cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như tính chất sử dụng không gian, sở thích cá nhân, nhân khẩu trong gia đình, diện tích…
Có thể xuất phát từ sự cảm thấy đơn điệu trong những không gian nhà ống vốn đều và thẳng, nên người ta muốn thay đổi, nhất là khi điều kiện mặt bằng chật hẹp hoặc bị gò bó vào một khuôn khổ nhất định thì việc thay đổi các cao độ sẽ mang lại dáng vẻ lạ lẫm, mới mẻ cho không gian, đồng thời kèm theo nhiều ưu điểm khác.
Ưu điểm đầu tiên của nhà lệch tầng là giải quyết được vấn đề thông thoáng (khi kết hợp vói cầu thang, giếng trời) vì các tấm sàn không kéo dài suốt mà thay đổi và tạo những ống hút gió xiên giữa tầng này với tầng kia (tất nhiên phải có lối cho gió vào).
Thứ hai, tầm nhìn giữa các tầng đa dạng, phong phú, khả năng quan sát và đi lại thoải mái, không nhàm chán. Cầu thang sau khoảng chục bậc lại có thể đi vào được một tầng.
Do đó, đa số các ngôi nhà lệch tầng đều có chung cảm giác “là lạ”, tạo cảm giác căn nhà như có nhiều không gian, nhiều tầng và nhiều sự hấp dẫn.
Ưu điểm tiếp theo là sử dụng không gian hữu dụng hơn, chẳng hạn nhũng khu phụ để xe, kho, phòng cho người giúp việc… đặt nơi tầng trệt không cần cao, bên trên là phòng khách hoặc bếp.
Lệch tầng, có thể làm cao độ trần tùy thích, không giống như nhà thẳng tầng có chiều cao “cứng”.
Thế nhưng, nhà lệch tầng cũng có không ít nhược điểm:
– Thứ nhất là tổng thể ngôi nhà về mặt giao thông bị chia ra bỏi các cao độ khác nhau nối với nhau bằng cầu thang nên gây một số bất tiện, chẳng hạn như cứ ra khỏi cửa phòng là phải lên xuống cầu thang, nhất là với nhà nhỏ.
Điều này không phù hợp vói người cao tuổi, trẻ em hoặc người tàn tật. Nếu không làm phòng vệ sinh riêng theo từng tầng thì xảy ra tình trạng từ tầng này phải lên tầng kia để dùng.
– Về cao độ, nhà lệch tầng có thể sẽ không phù hợp vói một số quy hoạch có bắt buộc khống chế chiều cao từng tầng.
– Nhược điểm nữa là ở nhà lệch tầng, tỷ lệ chiếm chỗ của ô cầu thang và các chiếu nghỉ thang luôn lớn.
– Về mặt cơ động và đa năng hóa không gian, nhà lệch tầng cũng không linh hoạt bằng nhà thẳng tầng vì không gian bị giới hạn khi đi lại, chỉ phong phú trong điểm nhìn.
Dưói góc nhìn phong thủy, nhà lệch tầng không phải là kiểu nhà tốt. Nếu xây dựng không khéo dễ tạo thành những luồng xung khí từ cát mặt sàn tác động vào con người sống và sinh hoạt trong tòa nhà, ảnh hưỏng đến sức khỏe và tài vận của từng thành viên trong gia đình.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
► Xem bói ngày sinh để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
1. Lông mày lộn xộn, ánh mắt vô thần – 30 đến 40 tuổi vẫn thất nghiệp
Trong Nhân diện học, lông mày lộn xộn, đứt đoạn là biểu hiện của đời sống tình cảm phức tạp. Chủ nhân của tướng lông mày này thường yếu đuối, dễ bị yếu tố ngoại cảnh tác động, cuộc sống thăng trầm, khó ổn định sớm.
Bên cạnh đó, lông mày chỗ đậm chỗ nhạt cũng là biểu hiện của trí lực kém, cộng thêm đôi mắt vô thần, chứng tỏ sức khỏe yếu, khó tập trung làm việc nên hiệu quả công việc không cao. Đây cũng là một trong những đặc điểm tướng mặt người nghèo khó, cuộc sống vất vả, bếp bênh.
Cách cải thiện: Chăm chỉ làm việc “cần cù bù thông minh”, không tham vọng quá nhiều ắt có ngày gặt hái được thành quả tốt. Đồng thời, không nên nhảy việc quá nhiều, chú trọng đến các mối quan hệ xã giao, tạo điều kiện cho sự nghiệp phát triển thuận lợi.
Sinh ngày Tý: Người tuổi Dậu sinh vào ngày này trong đời sẽ gặp nhiều điều may mắn, vui vẻ. Tuy nhiên, do bị sao Cẩu Giảo chiếu mệnh nên nếu theo nghiệp kinh doanh khó phát đạt.
(Ảnh minh họa) |
Sinh ngày Dần: Sinh ngày này, người tuổi Dậu có số may mắn, mỗi khi lâm nguy thường được người khác cứu giúp. Tuy nhiên, cần đề phòng bệnh tật, ốm đau triền miên.
Sinh ngày Mão: Người tuổi Dậu sinh vào ngày này vận số không tốt, hay bị tiểu nhân quấy phá gây hao tổn. Gia đình không yên ổn, dễ gặp thử thách, sóng gió.
Sinh ngày Thìn: Người tuổi Dậu sinh vào ngày này được sao Tử Vi chiếu mệnh nên trong đời mọi việc đều diễn ra thuận lợi, thành công. Có lúc gặp khó khăn, nguy khốn nhưng đều được quý nhân phù hộ.
Sinh ngày Tỵ: Ngày này có sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên người tuổi Dậu sẽ bị phá tài, trong đời gặp nhiều tai họa. Nên cẩn trọng trong sự nghiệp và cuộc sống gia đình.
Sinh ngày Ngọ: Người tuổi Dậu sinh vào ngày này thường có vận số may mắn, cuộc sống vui vẻ, mọi việc thuận lợi, thành công dễ dàng, lại được sao Phúc Tinh soi chiếu nên luôn được che chở, độ trì.
Sinh ngày Mùi: Là người đôn hậu, hòa nhã, thành thực nhưng lại có số phận cô đơn; cuộc sống thanh nhàn, đạm bạc.
Sinh ngày Thân: Sinh vào ngày này thường là người có tính cách mạnh mẽ, nhiều lúc hung hăng, vận số thăng trầm, phải biết nhẫn nại chờ đợi thời cơ mới có thể gây dựng đại nghiệp.
Sinh ngày Dậu: Người tuổi Dậu sinh vào ngày này thường có dáng hình đầy đặn, thân thể khỏe mạnh, tính cách ôn hòa, rộng lượng; danh lợi song toàn.
Sinh ngày Tuất: Sinh ngày này là người thiếu thực tế, hay chạy theo hư vinh, sống xa xỉ, phung phí, bản mệnh không tốt, hay gặp vận đen.
Sinh ngày Hợi: Người tuổi Dậu sinh ngày Hợi thường trọng nghĩa. Số có tài vận và sự nghiệp phát đạt. Nhưng nếu bị thất bại cuộc đời sẽ đi xuống nhanh chóng.
(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)
Khi xem lá số tử vi ngoài việc xem tổng quan và chi tiết các cung và các sao trong lá số, người xem còn phải lưu ý việc thuận mùa sinh hay nghịch mùa sinh, được giờ sinh hay nghịch giờ sinh ,xem giờ sinh có thuận lý hay nghịch lý,bởi các yếu tố này có tác dụng gia tăng hoặc suy giảm mức độ quy mô của lá số.
Muốn biết mùa sinh giờ sinh thuận hay nghịch để xem độ số được tăng hay giảm bớt. Vậy theo sự kê khai dưới đây sẽ rõ:
1.Thuận mùa sinh:
- Mệnh Vượng
Mệnh Mộc sinh mùa xuân- Mệnh Hỏa sinh mùa hạ
Mệnh Kim sinh mùa thu - Mệnh Thủy sinh mùa đông
-Mệnh Tướng
Mệnh Hỏa sinh mùa xuân - Mệnh Thổ sinh mùa hạ
Mệnh Thủy sinh mùa thu - Mệnh Mộc sinh mùa đông
Cách Mệnh Vượng hay Mệnh Tướng là thuận mùa sinh
2. Thuận giờ sinh:
Sinh mùa xuân vào giờ Dậu, Thìn, Tỵ
Sinh mùa Hạ vào giờ Mão, Mùi, Hợi
Sinh mùa Thu vào giờ Ngọ, Thân, Dần
Sinh mùa Đông vào giờ Sửu, Tuất, Tí
Được thuận giờ sinh độ số gia tăng.
3.Giờ sinh thuận lý hay nghịch lý
Sinh vào giờ Dương mà an mệnh tại cung Dương là thuận lý. Trái lại là Nghịch lý.
Sinh vào giờ thuộc Am mà Mệnh an tại cung âm là thuận lý. Trái lại là nghịch lý.
Thuận lý thì độ số gia tăng, mà nghịch lý thì bị kém bớt.
4.Năm sinh và giờ sinh
Tuổi Dần, Ngọ, Tỵ, Dậu mà sinh giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì tối độc.
Tuổi Dần, Hợi, Tý mà sinh giờ Ngọ, Thân, Dậu, Hợi thì khắc cha phải đến 16 tuổi mới khỏi âu lo về sự mồ côi cha.
Tuổi Thìn, Tỵ, Sửu, Mùi sinh giờ Tí, Ngọ, Mão, Tỵ, Hợi, Thân, Dậu khắc mẹ, cũng tương tự
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Cửa trước, hoặc cửa chính có vai trò rất quan trọng trong phong thủy. Đó là nơi đón luồng năng lượng từ vũ trụ vào nhà. Do đó, cửa trước càng mạnh mẽ, càng cân đối thì chất lượng nguồn năng lượng càng tốt cho những người sống trong nhà. Vậy thế nào là một cánh cửa trước tốt nhất cho phong thủy? Dưới đây là 5 tính chất bạn có thể tham khảo để giúp gia tăng sức mạnh cho ngôi nhà của bạn.
Mở dòng chảy cho năng lượng Một dòng chảy năng lượng tràn trề không bị cản trở sẽ đi qua cửa chính để vào nhà của bạn. Điều này có nghĩa là không được phép đặt thùng rác, chậu cũ đã nứt vỡ, những cái cây đã chết hoặc bất kỳ vật nào có thể ngăn cản dòng chảy năng lượng phong thủy.
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Có một số phòng khách ở giữa lại có một lối đi, nhìn từ góc độ phong thủy, nếu xuất hiện hai trường hợp sau thì cần thiết đặt cửa ở lối đi.
Tận cùng lối đi là nhà vệ sinh
Có một số ngôi nhà, phía tận cùng lối đi là nhà vệ sinh, không những gây phản cảm mà về phong thủy bị coi là không tốt. Sau khi đặt cửa lối đi, ngồi trong phòng khách không gặp phải tình huống ngại ngùng là nhìn thấy người qua lại nhà vệ sinh, hơn nữa lại tránh được uế khí từ nhà vệ sinh bay vào phòng khách.
Cửa trực xông phòng ngủ
Có một số ngôi nhà thiết kô không hợp lý, có thể xuất hiện tình trạng cửa ra vào chính và cửa phòng ngủ nằm trên một đường thẳng, hơn nữa có một số nhà cửa ra vào, cửa phòng và cửa trong phòng cùng nằm trên một đường thẳng, trường hợp như vậy có thể sử dụng phương pháp đặt cửa để cho vương khí và tài khí không bị mất đi.
Đặt cửa lối đi còn có một số điểm lợi sau:
Đặt cửa ở lối đi nên “hạ thực thượng hư”, lý tưởng nhất là nửa phía dưới là gỗ, nửa phía trên là kính, bởi vì như vậy là vừa có cái gốc kiên cố mà lại không nhìn xuyên qua được. Nếu dùng cửa toàn gỗ, kín quá không thông gió, làm giảm cảm giác thông suốt của phòng khách. Nhưng nếu dùng cửa toàn kính thì làm cho phòng khách quá thông suốt mà lại mất đi tính kín đáo, vì thế không lý tưởng, đặc biệt là nhà có trẻ nhỏ, kính là chất liệu rất đễ vỡ không nên dùng. Ngoài ra, khung cửa lối đi không được chon hình bầu dục, bời hình bầu dục giống như hình ngôi mộ, như vậy là không tốt lành cho ngôi nhà.
Nếu gặp phải hai trường hợp sau thì lối đi không nên đặt cửa:
1. Phòng quá nhỏ không nên đặt cửa
Phòng khách có diện tích nhỏ thì khó đặt cửa ở lối đi, bởi vì thêm vào lối đi phòng khách nhìn vào thấy sâu hơn một chút, nếu lắp cửa thì sẽ gây cảm giác chật hẹp.
2. Phòng ít cửa sổ không nên đặt cửa
Lối đi mà đặt cửa sẽ làm cho không khí trong phòng khách trờ nên ngưng trệ, bởi vì phòng khách ít cửa sổ, không khí bên ngoài rất khó lọt vào phòng, nếu lại lắp thêm cửa thì không khí trong phòng khách không được trao đổi với các phòng khác, như vậy đương nhiên là không khoa học.
Ngoài ra, những năm gần đây phong cách Châu âu đang thịnh hành, cùng có một số nhà sử dụng cột trụ kiểu phương Tây để trang trí trong nhà ở, hai bên cửa vào lắp hai cột, như vậy cũng không có gì là sai, nhưng nếu xuất hiện hai trường hợp sau thì cần phải thận trọng.
1. Phòng nhỏ cửa hẹp không được lắp cột trụ
Nếu diện tích phòng khách nhỏ, lối đi lại chật hẹp, bỗng nhiên cửa lối đi xuất hiện hai cột trụ sẽ làm cho phòng khách càng trở nên nhỏ hẹp hơn, cửa lối đi sẽ trở nên chật chội.
2. Cột trụ hình nến tuyệt đối không được sừ dụng
Có một số người thích sừ dụng cột trụ tròn hình nến, nếu là màu khác thì được, còn nếu là màu trắng thì là đại kỵ. Bời vì như vậy giống như hai cây nến trắng cắm ờ hai bên lối vào phòng ngủ. Trong phong tục truyền thống Trung Quốc, nên trắng chỉ dùng trong tang lễ, vì thế nếu phòng khách sử dụng cột trụ hình nến trắng, khằng định là hung chứ không cát, cần cố gắng tháo dỡ đi.
=> Chuyên trang Tử vi - ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu Tử vi hàng ngày, Tử vi trọn đời chuẩn xác nhất |
► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về 12 con giáp bạn nên xem |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Sao Thái Dương là chủ tinh của các sao Trung Thiên, thuộc dương hỏa. Do Thái Dương là chủ tinh của Trung Thiên, cho nên cũng ưa "bách quan triều củng". Đặc tính rất quan trọng của Thái Dương là phát ra ánh sáng và nhiệt, nhờ vậy mà ánh sáng chói lọi. Vì vậy, trong đời người nó chủ về thanh danh và quý hiển, trừ phi nó hội hợp với các sao chủ về tài phú, như Thái Âm, Hóa Lộc, Lộc Tồn, nếu không, càng chủ về quý mà không chủ về giàu có.
Chủ về quý là đặc tính của Thái Dương, do đó cũng ưa đồng độ hoặc hội hợp với các sao mang tính chất quý hiển, như Thiên Lương, Thiên Khôi, Thiên Việt. Thậm chí người Thái Dương tọa mệnh, đến cung hạn có các sao quý hiển tọa thủ như: Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Lương, Thái Âm, cũng cần đặc biệt chú ý, đây có thể là niên hạn khai vận. Nếu được thêm Lưu Khôi, Lưu Việt xung chiếu Thiên Khôi, Thiên Việt của nguyên cục, thì chủ về gặp nhiều cơ hội.
Thái Dương đã có đặc tính phát xạ, vì vậy đang lúc nhập miếu thì không nên gặp quá nhiều các sao mang tính chất phát xạ, như Thiên Mã, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Thiên Thương, Thiên Sứ, Cô Thần, Quả Tú, Phỉ Liêm, Phá Toái. Nếu không, nhiệt và ánh sáng của Thái Dương sẽ khuếch tán thái quá, càng dễ thành trống rỗng mà thiếu thực tế.
Cũng vậy, Thái Dương thủ cung mệnh ở cung Ngọ, trái lại, không tốt bằng ở cung Tị. Bởi vì Thái Dương của cung Ngọ đã thuộc "Nhật lệ trung thiên", lại đi quá một bước mặt trời bắt đầu lặn về tây, hơn nữa lúc này ánh nắng rất mãnh liệt, không bằng Thái Dương của cung Tị, trái lại còn có chỗ để phát triển.
Cho nên muốn phán đoán sự tốt xấu của Thái Dương, cần phải tuần tự phân tích theo 4 nguyên tắc sau đây:
Thái Dương Hóa Lộc chủ về phú quý. Nhưng khi cung mệnh của vận hạn gặp Thái Dương Hóa Lộc, mức độ phú quý của nó vẫn phải căn cứ các sao ở cung mệnh của thiên bàn để tính. Nếu các sao quá yếu, như mệnh vô chính diệu, mượn các sao Thiên Đồng Thái Âm Hóa Kị để nhập cung, hoặc Cự Môn, Thiên Cơ lạc hãm thì mức độ phú quý sẽ giảm rất nhiều.
Thái Dương Hóa Quyền, Hóa Khoa sẽ không bằng Hóa Lộc bởi vì Hóa Quyền và Hóa Khoa chỉ có thể làm tăng sự quý hiển của Thái Dương, mà không thể làm cho giàu có được. Thời xưa tệ trọng phú hơn trọng quý còn ít, trong xã hội thương nghiệp hiện đại người ta trọng phú nhiều hơn là trọng quý, vì vậy không ưa tính chất hơi thiên lệch của Thái Dương Hóa Quyền hay Hóa Khoa. Bất kể cung mệnh của mệnh bàn, hay cung mệnh của vận hạn, tính chất đều thuộc như vậy.
Người sinh vào ban đêm không nên có Thái Dương tọa mệnh Thái Dương lạc hãm càng không nên. Nói "không nên", có hai tính chất như sau:
Kết cấu tinh hệ Thái Dương trong 12 cung, luôn đồng độ hoặc đối cung với ba sao Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương- vì vậy ba sao này có ảnh hưởng rất lớn đối với Thái Dương.
- Ở hai cung Tí Ngọ, Thái Dương và Thiên Lương chiếu nhau ở hai cung Mão Dậu, "Thái Dương, Thiên Lương" đồng độ. Cho nên bốn cung Tí, Ngọ, Mão, Dậu là tổ hợp của "Thái Dương, Thiên Lương”
- Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thái Dương và Thái Âm chiếu nhau; ờ hai cung Sửu hoặc Mùi, "Thái Dương, Thái Âm" đổng đã. Cho nên bốn cung Thìn, Tuâ't, Sửu, Mùi là tổ hợp của "Thái Âm, Thái Dương".
- Ở hai cung Tị hoặc Hợi, Thái Dương và Cự Môn chiếu nhau; hai cung Dần hoặc Thân, "Thái Dương, Cự Môn" đồng độ. Cho nên bốn cung Dần, Thân, Tị, Hợi là tổ hợp của "Thái Dương, Cự Môn".
Trong các tình hình thông thường, Thái Dương rất ưa trường hợp "Thái Dương, Cự Môn" ở cung Dần; hoặc Thái Dương độc tọa ở cung Mão, Thìn, Tị. Khá ngại "Thái Dương, Cự Môn" gặp các sao sát. kị, hình ở cung Thân; và "Thái Dương, Thiên Lương" gặp các sao sác kị, hình ở cung Dậu.
Thái Dương còn là sao chủ về kiện tụng và điều tiếng thị vì vậy không nên gặp quá nhiều sao hình, như Kình Dương, Thiên Hình, Quan Phù, Bạch Hổ. Nhất là Thái Dương Hóa Kị, gặp sao hình càng dễ chuốc oán, nạn tai.
Liên quan đến kiện tụng thị phi, nhiều lúc do cung phúc đức mang lại, chứ không chỉ thuộc cung mệnh, vì vậy khi luận đoán mệnh bàn, gặp Thái Dương tọa thủ cung phúc đức cũng cần chú ý.
Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh
Cổ nhân có thiên kiến đổi với Thái Dương, cho rằng miếu vượng thì cát, lạc hãm thì hung. Nói "miếu vượng", tức là mặt trời (Thái Dương) ở vào giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão, đến cung Ngọ thì như mặt trời ở giữa trời, đến cung Dậu thì mặt trời bắt đầu lặn về tây, sau đó đến cung Dần mặt trời lại bắt đầu nhô lên. Do đó lúc luận đoán người có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái Dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực.
Vì vậy đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau: "Thái Dương thủ mệnh lạc hãm, du Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thanh bại bất nhất."; "Thái Dương thủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật."; "Thái Dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa."; "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão,Thìn, Tị hoặc Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử. Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là cát, gặp Thái Dương buổi chiều là hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái Dương; mà còn bỏ sót một điều, Thái Dương buổi sáng cũng có sự khiếm khuyết của nó, Thái Dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Phái Trung Châu Vương Đinh Chi luận về Thái Dương khách quan hơn.
Thái Dương tọa mệnh thực ra có ba đặc điểm như sau:
- Một là, hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái Dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.
- Hai là, danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái Âm chủ về phú, Thái Dương chủ về quý. Cho nên người có Thái Dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là cự phú, thậm chí có lúc bản thân không giàu có bằng người dưới quyền của họ.
- Ba là, tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ phi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh thường cảm thấy vận khí cúa mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy mình có chỗ không bằng người.
Thái Dương tọa mệnh có ba loại phối hợp
Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có ba tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái Âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự Môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên Lương ở cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tí, Thìn, Tị Ngọ, Tuất, Hợi còn lại đều là Thái Dương độc tọa.
Nhưng Thái Dương độc tọa cũng có ba tình huống khác nhau. Thái Dương độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên Lương; Thái Dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn; Thái Dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái Âm.
Cho nên Thái Dương có quan hệ với chính diệu thực ra chỉ có ba sao Cự Môn, Thiên Lương, Thái Âm; và chia thành hai tình huống đồng cung và đối cung.
Cự Môn chủ về "ám"; Thái Âm chủ về "phú"; Thiên Lương chủ vê' "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái Dương thủ cung mệnh. Cho nên về đại thể, Thái Dương gặp Cự Môn, là người chi có hư danh; Thái Dương gặp Thái Âm, là người có thế phú quý, nhưng cũng có thế chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chi là người ở bậc trung có chút quyền lực; Thái Dương gặp Thiên Lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người được đại chúng nghe danh.
Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính rất cơ bản, tình hình cụ thể vẫn cân phải xem các sao hội hợp khác mà thay đổi.
So sánh Thái Dương với Tử Vi
Trong Đẩu Số, như bạn đọc đã biết, Thái Âm chủ về phú, Thái Dương chù về quý, đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên hễ người có Thái Dương thủ mệnh thì phải xem xét từ phương diện "quý" này.
Vì chủ về quý, cho nên Thái Dương rất ưa hội hợp vói một số trợ tinh chủ về quý. Như Thiên Khôi, Thiên Việt; Tả Phụ, Hữu Bật; Văn Xương, Văn Khúc; Tam Thai, Bát Tọa; Ân Quang, Thiên Quý; Long Tri Phượng Các. Các trợ tinh này chia làm 6 cặp, nếu có sao đôi đủ cặp hội hợp với Thái Dương thì sức mạnh càng lớn.
Ví dụ: nếu Thái Dương hội hợp với ba sao cát là Văn Xương, Hữu Bật, Thiên Khôi, sẽ không bằng hội hợp với một cặp sao đôi trong số đó, như chi hội hợp với Tả Phụ và Hữu Bật thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn là hội hợp với ba sao cát phân tán kế trên.
Hai cặp sao đôi Tam Thai và Bát Tọa, Ân Quang và Thiên Quý, một khi phân tán sức mạnh sẽ cực kì nhỏ, nhưng nếu sao đôi đủ cặp đồng cung với Thái Dương, sức mạnh lại cực kì lớn, thậm chí so với ba bốn sao lẻ không thành đôi trong lục cát tinh là Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, cũng không lớn bằng.
Tính chất này của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi thì kém hơn không nhiều, bởi vì Tử Vi cũng cần các sao cát "triều củng", sau đó mới có thể phát huy sức mạnh của nó. Nhưng trong đó cũng có một số phân biệt như sau:
Tử Vi thích Thiên Phủ, Thiên Tướng triều củng, Thái Dương thì không được nói chính diệu triều củng; trong số lục sát tinh, Tử Vi sợ Tham Lang và Phá Quân, nhưng Thái Dương thì không sợ hai sao này, mà lại sợ Cự Môn. Tử Vi thủ mệnh chủ về rất có tài lãnh đạo và có uy nghiêm; Thái Dương thủ mệnh thì chỉ hơi có tài lãnh đạo, nhưng lại có đặc tính "cho mà không nhận", dễ khiến người khác gần gũi.
Nhưng Thái Dương lại có lực "hình khắc", còn Tử Vi thì không có. Người có Tử Vi thủ mệnh, duyên phận với cha mẹ, anh em, con cái đều khá tốt; nhưng người có Thái Dương thủ mệnh thì lại có "hình khắc" đối với cha, anh, con cả; nặng thì tử vong, nhẹ thì sinh li, hoặc tình cảm thân thuộc không được tốt.
Thậm chí ngay cả tình hình sức khỏe, tính chất của Tử Vi cũng tốt hơn Thái Dương.
Thái Dương tọa mệnh, hình khắc hay quý hiển?
Do Thái Dương có khuyết điểm "hình khắc", cho nên cổ nhân cho rằng "Thái Dương, Thái Âm thủ mệnh không bằng chiếu hợp". Lí do là, nếu cung mệnh không gặp Thái Dương tọa thủ, mà lại được Thái Dương vây chiếu, thì vẫn khiến cung mệnh có tính chất "quý", nhưng lại có thể giảm bớt mức độ "hình khắc" của nó.
Nhưng theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi, người hiện đại nếu gặp Thái Dương thủ mệnh, mức độ "hình khắc" trên thực tế chẳng nặng như cổ nhân đã nói. Mà mức độ quý hiến cũng không lớn như cổ nhân đã nói.
Có lẽ là do phương thức sinh hoạt của cổ nhân và người hiện đại khác nhau. Thời xưa cha con hai đời cùng ở một nhà, dễ xảy ra va chạm, không như người hiện đại, sau khi kết hôn thì ra ở riêng, vì vậy mệnh tạo có thể phát huy đặc tính tình cảm của sao Thái Dương. Nhìn từ góc độ khác, ở riêng cũng có thể tính là "hình khắc" ở mức độ rất nhẹ.
Quan hệ vói bạn bè cũng vậy, phạm vi xã giao của cổ nhân khá hẹp, do Thái Dương tính tình mạnh mẽ, cho nên khi ở trong một phạm vi nhỏ người ta khó mà tiếp nhận nổi, biến mệnh tạo thành người không họp quần; không như ngày nay, phạm vi xã giao khá lớn, có thể gặp những bạn bè tiếp nhận được mẫu người có tính tình đặc biệt.
Cho nên dùng Đẩu Số để đoán mệnh, gặp Thái Dương thủ mệnh, phải cẩn thận một chút, không nên hoàn toàn chiếu theo ca quyết của cổ nhân để luận đoán.
Ví dụ như cổ nhân nói: "Thái Dương ở Ngọ, quý mà chuyên quyền", đó là vì cổ nhân thích Thái Dương có ánh sáng chói lọi ở cung Ngọ. Trên thực tế, người hiện đại chưa chắc đã làm việc trong chính giới, mà con đường làm việc trong chính giới cũng ít; nếu kinh doanh làm ăn, thì người có Thái Dương thủ mệnh ở cung Ngọ sẽ dễ biến thành người ưa xuất đầu lộ diện. Đây là vì Thái Dương chủ về quý, cho nên mệnh tạo ưa thích hư danh; ở phương diện khác, Thái Dương không chủ về phú, càng ưa hư danh thì càng dễ khoa trương phù phiếm.
Con cái của Tào Tháo, cả nam lẫn nữ đều rất đông. Tuy nhiên, do tư tưởng trọng nam khinh nữ, cả đời Tào Tháo sinh được mấy người con gái thì không thấy sử sách ghi chép rõ.
Tuy nhiên, việc Tào Tháo lợi dụng những cuộc hôn nhân của con gái để duy trì và củng cố quyền lực của mình, đem rất nhiều con gái của mình gả cho các vương công, đại thần, thậm chí là… hoàng đế được sử sách ghi chép khá đầy đủ.
Từ những gì được ghi chép trong các sách "Tam Quốc chí" của Trần Thọ và "Hậu Hán thư" của Phạm Diệp, chúng ta có thể biết rằng, chí ít Tào Tháo có 7 cô con gái, bao gồm: Tào Hiến, Tào Tiết, Tào Hoa, Thanh Hòa Trương Công chúa, An Dương Công chúa, Kim Hương Công chúa và Lâm Phần Công chúa.
Trong đó, câu chuyện ba nguời con gái của Tào Tháo cùng lấy một chồng là câu chuyện được sử sách nhắc tới nhiều nhất.
Tào Tháo trên phim
Theo sử sách chép lại vào năm Kiến An thứ 18, tức năm 213, Tào Tháo đem ba cô con gái của mình là Tào Hiến, Tào Hoa, Tào Tiết cùng gả cho Hán Hiến Đế Lưu Hiệp làm phi tử.
Những cô gái có phụ thân là vương thất là một hạnh phúc những cũng là một bi kịch. Là con gái của Ngụy vương Tào Tháo, các nàng công chúa cũng không hạnh phúc hơn ai.
Những nàng công chúa của Tào Tháo đều là người có tài sắc và cá tính riêng. Vì muốn củng cố vị trí quyền lực của mình, Tào Tháo đã dùng con gái mình thành "lễ vật" để kết thân với hoàng thượng.
Năm thứ 18 Kiến An tức năm 213, Tào Tháo đã gả trưởng nữ Tào Hiến, Tào Tiết và Tào Hoa vào cung phong làm phu nhân hầu hạ Hán Hiến Đế Lưu Hiệp.
Đến năm 214, Tào Hiến được phong làm quý nhân nhưng bất hạnh không có con.
Sau khi Tào Hiến qua đời được hợp táng cùng với Hán Hiến Đế và được truy phong làm Hiếu Hiến Tào hoàng hậu. Tào Hoa cũng trở thành phi tần trong cung của Hán Hiến Đế.
Nàng thứ hai Tào Tiết được phong làm hoàng hậu. Hán Hiến Đế vốn đã có vị hoàng hậu tên là Phục Thọ.
Phục Thọ vì bất mãn với Tào Tháo nên đã viết thư mật báo cho cha mình là Phục Hoàn không ngờ bị phát hiện. Tào Tháo đã ép Hán Hiến Đế phế Phục Thọ và lập Tào Tiết làm hoàng hậu.
Chính vì thế, tuy là hoàng đế bù nhìn nhưng vì chuyện này mà Hán Hiến Đế Lưu Hiệp rất ghét Tào hoàng hậu.
Tào Tháo cũng chả để ý đến điều đó. Mục đích đã đạt được, con gái đã gả cho Lưu Hiệp thì giờ là người nhà họ Lưu, chết cũng là ma nhà họ Lưu.
Cuộc đời Tào hoàng hậu chưa bao giờ được hưởng hạnh phúc thật sự.
Năm 215, Tào Tiết được phong thành hoàng hậu. Tuy là con gái họ Tào nhưng Tào Tiết rất trung thành với Hán Hiến Đế, vì cơ nghiệp họ Lưu.
Không biết nhiều về hoạt động của Tào Tiết trong thời gian làm hoàng hậu, nhưng rõ ràng thời điểm đó Hán Hiến Đế hoàn toàn mất quyền lực, cha bà là Tào Tháo nắm toàn bộ quyền lực.
Năm 220, Tào Tháo mất, anh bà là Tào Phi lên nối ngôi Ngụy vương. Tháng 10 năm đó, Tào Phi cướp ngôi Hán Hiến Đế, kết thúc triều đại nhà Hán, lập ra triều Tào Ngụy.
Khi sai người tới hỏi bà để lấy ngọc tỷ truyền quốc. Tào hoàng hậu nhất định không chịu đưa. Sau vì bị ép quá, Tào hoàng hậu vứt ngọc tỷ xuống lầu, khóc mắng Tào Phi:
Trời không phù hộ cho nhà ngươi đâu!
Năm 214, có người tố cáo việc hoàng hậu Phục Thọ cùng cha là Phục Hoàn mưu giết Tào Tháo.
Tào Tháo bắt giết cha con Phục hoàng hậu, rồi ép Hiến Đế lập một trong ba vị Tào quý nhân, con gái mình làm hoàng hậu mới.
Hán Hiến Đế không biết quyết định chọn ai bèn chỉ định Tào Tiết là người ở giữa làm hoàng hậu.
Cũng vì Tào Tiết không hợp tác với anh trai nên nàng và Tào Phi xung khắc với nhau vì thế cuộc sống càng ngày càng trở nên khó khăn, thê thảm.
Hán Hiến Đế bị phế làm Sơn Dương công. Tào Tiết trở thành Sơn Dương công phu nhân. Năm 226, Tào Phi mất, con là Tào Tuấn, tức cháu gọi Tào Tiết bằng cô, lên kế vị.
Năm 234, Sơn Dương công Lưu Hiệp mất. 26 năm sau, vào năm 260, Sơn Dương công phu nhân Tào Tiết qua đời, an táng với Hán Hiến Đế tại Thiền lăng với thụy hiệu là Hiến Mục hoàng hậu với nghi lễ nhà Hán.
Nhưng cũng còn vớt vát chút thể diện cuối cùng, khi Tào Tiết qua đời, Tào Phi vẫn lấy thân phận và lễ nghi của Hán triều hoàng hậu để tổ chức tang lễ cho em gái và cho hợp táng cùng với Hán Hiến Đế.
Cả đời Tào Tiết chả bao giờ được sống vui vẻ. Còn sống thì bị chồng ghẻ lạnh, căm ghét. Huynh trưởng cũng không ủng hộ vì nàng đã không chịu hợp tác.
Người đời thì chửi nàng là gian tế của Tào Tháo. Một tài nữ cành vàng lá ngọc mà phải sống đầy bi thảm.
"Kinh thư" có viết: "Phượng hoàng minh hỉ, vu bỉ cao cương. Ngô đồng sinh bỉ, vũ bỉ triều dương" (Chim phượng chim hoàng cùng hót ở trên đồi cao kia. Cây ngô đồng đón ánh mặt trời mọc tốt tươi nơi sườn đồi). Do đó, người xưa đã sáng tác nên bức tranh "Đan phượng triều dương" (chim phượng đỏ hướng về mặt trời), mặt trời và chim phượng cùng vẽ trên một bức tranh để biểu thị con người hướng về phía tương lai tươi đẹp, cùng vươn tới cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Treo tranh hợp phong thủy sẽ giúp mang lại nhiều lợi ích trong cuộc sống. Tranh phượng
hoàng có thể treo trong phòng ngủ giúp cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.
Hợp và kỵ:
• Tranh chim phượng hoàng treo ở vị trí cát lợi trong phòng ngủ của vợ chồng thì có thể làm không gian đẹp hơn, cũng như có thể khiến cuộc sống hôn nhân tràn đầy hạnh phúc.
• Phượng hoàng có đặc tính của loài gà, người cầm tinh con rồng, rắn và trâu rất hợp với gà, do đó hợp nhất là treo tranh chim phượng hoàng; Còn người cầm tinh con mèo, chó và gà không hợp với gà cho nên không nên treo loại tranh này.
• Do chim phượng hoàng có đặc tính giống với gà, do đó không nên treo tranh chim phượng hoàng ở vị trí chính Đông của ngôi nhà, bởi vì đây là vị trí tương xung của gà. Nên treo ở vị trí tương hợp là hướng Đông nam, hướng Đông bắc hoặc treo ở vị trí Dậu là hướng chính Tây.
(Theo Bố trí đồ vật theo phong thủy) Năm bản mệnh hay còn gọi là năm tuổi, có quan điểm không nên kết hôn, tiến hành hỉ sự vào năm ấy, điều đó có chính xác hay không? Cùng theo dõi 5 lưu ý khi kết hôn vào năm bản mệnh để có thêm kiến thức về vấn đề này, vận dụng cho bản thân mình. Năm bản mệnh có nên kết hôn không? Năm bản mệnh là năm trùng với tuổi của mình, ví dụ người tuổi Ngọ trong năm Ngọ gọi là năm bản mệnh. Thực chất, năm bản mệnh hoàn toàn có thể kết hôn nhưng trong quá trình bàn bạc cưới gả sẽ gặp một số trắc trở, lực cản đồng thời tiêu hao khá nhiều tiền.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Tuổi Dần
Nhắc tới nghĩa khí không thể không kể đến người tuổi Dần. Con giáp này rất thích kết giao bạn bè rộng rãi. Đồng thời họ hết mực tôn trọng tình bạn, không phân biệt đẳng cấp sang hèn.
Dù bạn là ai, xuất thân từ đâu, người tuổi Dần vẫn đối xử trước sau như một. Vậy nên, có được người bạn thân tuổi Dần, teen hãy tin tưởng tuyệt đối và coi đó mà may mắn trong cuộc sống.
Tuổi Thìn
Người tuổi Thìn tôn sùng trường phái anh hùng nên đối xử với bạn bè theo chiều hướng nhiệt tình, cho đi mà không cần báo đáp. Hơn thế, họ vô cùng chân thành, không miệt thị bất kỳ ai.
Tuy nhiên, con giáp này mắc phải nhược điểm - nói mà không cần suy nghĩ, nên đôi khi khiến mọi người chạnh lòng. Nếu bạn có thể bỏ qua tính xấu ấy của người tuổi Thìn, họ xứng đáng là tri kỷ hoàn hảo.
Tuổi Hợi
Trong mắt mọi người, con giáp này thích hưởng thụ cuộc sống sa hoa nên sẽ khó cảm thông với những hoàn cảnh khó khăn. Thực tế lại trái ngược, họ thường dùng tấm chân tình, lòng tốt của mình để đối đãi với bạn bè.
Họ có số giàu sang thiên bẩm nhưng không bao giờ coi thường người nghèo khó. Thậm chí, con giáp này còn hết lòng giúp đỡ những ai gặp khó khăn. Họ xứng đáng là đối tượng kết bạn tốt nhất.
Tuổi Thân
Lý do khiến người tuổi Thân đáng để kết bạn chính là tính cách lạc quan, hào phóng, không tính toán thiệt hơn với bất kỳ ai. Làm bạn với người tuổi Thân, tinh thần của bạn sẽ luôn vui vẻ, thoải mái, không phải lo lắng câu nệ những phép tắc hay quy định nào đó. Bởi mọi thứ bạn làm đều khiến con giáp này vui vẻ. Hoặc nếu có tức giận, họ sẽ nhanh chóng quên đi và chủ động làm hòa.
Tuổi Mùi
Không những đối xử với bạn bè nhiệt tình, chu đáo, người tuổi Mùi còn ra sức bênh vực người yếu thế hơn mình. Với họ, tình bạn không phân biệt tuổi tác, giàu nghèo hay giới tính. Chỉ cần đôi bên cảm thấy thoải mái, vui vẻ là có thể trở thành bạn tâm giao của nhau.
Người tuổi Mùi cho rằng nếu bạn bè giàu có, hạnh phúc thì bản thân cũng cảm thấy vui vẻ. Nếu họ buồn tủi, nghèo khó, họ sẽ chủ động đưa tay giúp đỡ. Dù bạn từng phạm lỗi khiến họ buồn lòng, nhưng vì tình bạn cao cả, con giáp này sẵn sàng bỏ qua tất cả.
Mr.Bull (theo Dyxz)
Bài viết của tác giả Phong Nguyên
Tục ngữ có câu “Ớt nào mà ớt chẳng cay” để nói lên bản tính ghen tuông cố hữu của giới phụ nữ có chồng. Và khổ một nỗi là các đấng lang quân đều có tâm hồn lả lướt, không nhiều thì ít, cứ luôn đề cao “trai anh hùng năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có 1 chồng” để tự bào chữa, khiến cho các bà vợ lúc nào cũng nghi ngờ và theo dõi chồng. Thậm chí khoa Tử Vi cũng được các bà chiếu cố tận tình để tìm hiểu tâm hồn thầm kín của chồng.
Vì vậy tôi xin dành trọn bài hôm nay để bàn về “đa thê” thực sự ngõ hầu giúp được phần nào các bà biết Tử Vi đang thắc mắc về người bạn đời của mình. Nhưng tôi cũng xin nói trước với quý bà là đừng quá câu nệ tử vi (do bất cứ ai giải đoán) để đến nỗi “chén đĩa bay” 1 cách oan uổng thì lại còn tệ hại hơn, vì những điều giải đoán tử vi không bao giờ có thể hoàn toàn chính xác, nhất là khi người sử dụng không biết nắm vững.
Tôi xin tạm chia bài ra làm 2 phần:
MÔI TRƯỜNG TỬ VI THUẬN LỢI CHO ĐA THÊ
Tôi buộc lòng phải nêu ra 1 cách tương đối như vậy vì e rằng các bà áp dụng quá máy móc, đâm ra tai hại, nghĩa là tôi chỉ muốn nói rằng, nếu đàn ông nằm trong 1 trường hợp nào đó dưới đây có thể vướng vào vòng đa thê chứ không phải chắc chắn, vì có nhiều yếu tố linh động gia giảm mức ứng nghiệm đi.
Tôi xin lỗi quý bạn vì sự dè dặt của tôi vì vấn đề này rất phức tạp và dễ gây hậu quả không hay.
Thông thường chúng ta có thói quen để ý đến các sao Đào, hồng, tả Hữu, Riêu, Mộc, Cái chiếu Thê Thiếp hoặc nô bộc hay Mệnh Thân hầu tìm hiểu về khía cạnh đa thê. Nếu chỉ có thế thực quá dễ dàng, đơn giản, chẳng cần phải nhờ đến thầy Tử Vi, vẫn biết rằng khi cung Thê có Đào hồng, Tả Hữu cũng hay ứng nghiệm như vậy, nhưng nhiều trường hợp không có các sao đó mà người chồng vẫn cứ đa thê thì làm sao ta hiểu được. Vì vậy ta cần phải phân biệt môi trường tạm gọi là “lộ” và “ẩn”
A – MÔI TRƯỜNG LỘ
Xét về môi trường này tương đối dễ dàng, miễn là quý bạn thận trọng kết hợp 1 số cung và sao liên hệ là có thể thấy kết luận khá rõ rệt, vì đã gọi là “lộ” nghĩa là không có ý nghĩa ngược lại hoặc khác đi
- Ví dụ: 1 ông chồng Mệnh có Riêu, Mộc; cung Thê có Đồng âm, Trường Sinh, Đế Vượng; cung Nô có Tả Hữu, Đào hồng, Mộ; cung Di có Hoa Cái; cung Tài có Song Lộc thì hơi khó tránh được vấn đề đa thê. Tại sao vậy? Vì khi Mệnh có Riêu, mộc là tâm hồn ưa nhục dục; Cung Thê có những sao liệt kê trên là chủ về vợ mềm yếu, không áp đảo được chồng, nhất là sao Thiên Đồng thường chủ về canh cải, có nghĩa là vợ đổi mới hoài; Cung nô có đủ bộ sao chủ về ăn chơi, trụy lạc và được nhiều con gái thương yêu, phù hợp với Hoa Cái cư Thiên Di là ra ngoài được long nhiều người, bất luận nam nữ, già trẻ; trong khi đó, cung Tài song Lộc lại càng them phương tiện thu hút phái nữ cũng như bao bọc cho họ vì tiền bạc quá sung túc, thừa thãi…tức là quá đủ cho môi trường đa thê.
- Trường hợp ông chồng Mệnh có Khôi Việt hội Đào hoa; cung Nô có Hồng Loan, Riêu hỉ; cung Quan có Tả Hữu; cung Thê có Cô Quả, Không Kiếp cũng chẳng kém gì trường hợp trên vì khi Mệnh có Khôi Việt hội Đào hoa thường chủ về hào hoa phong nhã, ưa bao dung phụ nữ, bất kể người đó là con gái hay đã có chồng. Cung Nô có hồng, Riêu, hỉ, chủ về phụ nữ dưới quyền hoặc trong giới giao du thiếu đứng đắn và ưa sắc dục, làm gì họ không mê dáng đẹp kiêu hùng của Khôi Việt Đào. Trong khi đó, cung Quan lại có Tả Hữu là cách sốt sắng giúp đỡ mọi người, dễ đắc nhân tâm nên càng them sức hấp dẫn. Còn cung Thê thì dễ làm cho chồng xa lánh vì có Cô Quả Không Kiếp. Như thế tưởng cũng đã quá đủ yếu tố thuận lợi cho con người đa thê
Vì mục “lộ” này khá dễ dàng nên tôi chỉ cần nêu ra 2 ví dụ và chắc quý bạn có thể suy luận ra các trường hợp khác. Nghĩa là cứ thấy các cung và sao lien hệ hoàn toàn bổ túc cho nhau chứ không tương phản hoặc trái ngược nhau là dễ kết luận dứt khoát
B – MÔI TRƯỜNG ẨN
Khía cạnh này có thể nói là rất khó tìm ra vì cần xét cả yếu tố tâm lý. Nếu quý bạn chỉ xem phớt qua thì thế nào cũng lầm. Tôi cũng đã có lần chỉ muốn vứt bỏ Tử Vi vì không sao tìm hiểu được khía cạnh đa thê “ẩn”. Nay tôi xin nêu ra những ví dụ để quý bạn hiểu rõ, chứ không thể nào đưa ra 1 phương thức tổng quát để giải đoán vì khía cạnh này rất uyển chuyển.
- Tôi có được coi lá số 1 ông chồng Mệnh rất đứng đắn, vắng bóng hẳn các sao Đào, Riêu, mộc, Cái, Tham Lang; cung Thê cũng chứng tỏ là cô vợ đoan trang, nết hạnh, hiền thục và còn xinh đẹp nữa (vì có Long Phượng, Khoa, Quan, Phúc, Tứ Đức…); rồi cung Quan và Tài cho thấy đương số có chức phận và tiền bạc; duy chỉ còn cung Nô là có Tả Hữu, hóa Quyền, Xương Khúc, Thai Tọa, Khôi Việt – nghĩa là chưa có đủ yếu tố để đoán là đương số đa thê. Nhưng trên thực tế, đương số lại có 3 vợ mới khổ chứ. Chính vì trường hợp này mà tôi nản chí nghiên cứu Tử vi. Nhưng cũng chính nhờ trường hợp này mà tôi đã tiếp tục hăng say, miệt mài với lý số khi đã được 1 cao thủ Tử Vi chỉ dẫn cách đây nhiều năm. Thực thế, lá số trên không phải là sai trật, chỉ vì tôi đã bỏ qua 1 cung rất quan trọng, đó là cung Tử tức. Cung này có Đẩu Quân, Cô Quả, Kình Đà cho thấy là đương số rất hiếm con. Do đó, tuy là con người đứng đắn và biết yêu thương vợ đoan trang, nhưng đương số vì quá ham muốn có con, bất luận trai gái nên đã đành phải lấy them người con gái khác sau khi được sự thỏa thuận thực tình của người vợ. Tuy nhiên, khổ 1 nỗi là với bà thứ 2 cũng chả có đứa con nào nên đương số lại kết hôn không chính thức với 1 bà thứ 3, và bà này sinh được 1 đứa con gái. Từ đó đương số sống với cả 3 bà 1 cách thuận thảo…nếu suy nghĩ kỹ và lý luận, các bạn thấy rằng nhờ cung Thê thuần hậu, biết điều nên đương số mới tiện lấy vợ bé, và nhất là cung Nô quá tốt nên mới đem lại nguồn vui cho đương số, vì hóa Quyền trong trường hợp này không còn có nghĩa là vợ bé áp đảo, bắt nạt vợ cả mà thực ra chỉ chủ về uy tín (vì đã sinh được người con), huống chi lại có Khôi, Việt, Thai, Tọa, Xương Khúc chủ về người có tư cách, thông minh thì làm gì không biết cách làm vừa long vợ cả. Nói tóm lại, đầu dây mối nhợ là do cung Tử hiếm, rồi mới nhờ đến cung nô, nhưng cũng phải xét đến cung Tài và Quan, chứng tỏ là đương số phải đủy cả quyền quý nên mới nghĩ nhiều đến con cái nối dõi, và mới đủ khả năng bao bọc nhiều vợ, chứ nghèo nàn làm sao thực hiện được ý muốn của mình
- Một trường hợp khác về đa thê rất lờ mờ mà tôi đã được coi cũng bắt nguồn từ cung Tử tức, nhưng lại không phải là hiếm con mà trái lại rất nhiều (chắc bây giờ phải có tới trên 10 người con) vì có Tả Hữu hội Trường Sinh, Đế Vượng (nguyên Tả Hữu cũng chủ về nhiều con, đó là cách “trập trập ưu trung tư” theo câu phú). Nếu không nhờ có sao Phục binh hội Đào hoa, Tướng Quân và Thai thì có lẽ không thể biết là đương số đa thê vì những sao trên thường chủ về có con riêng, con rơi, tức là khó có 1 vợ được, nhất là khi cung Thê không chứng tỏ là người vợ thường gần gũi chồng vì có Lộc Tồn hội Cô Quả, Đẩu Quân, khiến cho người chồng hướng về người khác. Trong trường hợp này không cần phải có cung Nô có yếu tố phù hợp mạnh mẽ vì cung Tử lại đóng vai trò chính yếu. tuy nhiên, có 1 điểm khác với trường hợp trên là các người vợ nhỏ khó sống chung được với vợ cả vì dù sao cung Thê cũng có uy lực mạnh hơn và có óc cố chấp (cô Quả) khiến cho khó dung hòa được với cung Nô. Hơn nữa, cung Tử tức cũng chỉ chứng tỏ có sự lén lút, vụng trộm nên mới có con riêng, con rơi…Vì vậy, bề ngoài ta rất khó nhận thấy đương số có nhiều vợ, nhất là khi Mệnh của đương số là những sao đứng đắn, tư cách. Sở dĩ đương số ham nhục dục nhiều là vì cung ách có Riêu, mộc, cái hội Tham Lang tức là sự ham muốn rất kín đáo, tiềm tang mà chỉ đương số mới nhận biết
MÔI TRƯỜNG TRỞ NGẠI CHO ĐA THÊ
A - MÔI TRƯỜNG TUYỆT ĐỐI
Trong phần này, tôi đề cập đến trường hợp rõ ràng không thể đa thê được, nghĩa là khi ta thấy cung Mệnh và Thân chỉ có những sao đứng đắn hoặc cô đơn, lạnh lùng; Cung Thê chứng tỏ vợ chồng thuận hòa, khắng khít; Cung Nô không thuận lợi cho việc giao du với phụ nữ hoặc ít ra không chứng tỏ họ lãng mạn,m đa tình hay trội hơn cung Thê, và sau hết (nếu có càng chắc), cung Tử Tức không có gì khả nghi về 2 dòng con hoặc quá hiếm hoi
Ví dụ: Nếu Mệnh có Lộc Tồn, Vũ khúc, Thân có Thiên Phủ hội Cô Quả chủ về đứng đắn, trung hậu, thích thanh tịnh; Cung Thê có Long Phương, Khoa, Thai Tọa, Quang Quý chủ về hạnh phúc lứa đôi bền vững, khắng khít; Cung Nô có Quan Phúc, bộ Tứ Đức…chứng tỏ phụ nữ giao thiệp với mình, nếu có đều biết luân thường đạo lý, đoan trang nết hạnh, không ưa chuyện cướp chồng người, thì làm sao ta dám nghĩ rằng đương số có vợ nọ, con kia. Nếu lại được them cung Tử hội các soa Khôi Việt, Khoa, Quyền, Sinh Vượng…chủ về con cái đầy đàn và thành đạt khiến cho gia đình them đầm ấm, lại còn chắc ăn hơn nữa.
B – MÔI TRƯỜNG TƯƠNG ĐỐI
Nói đến tương đối có nghĩa là các cung và sao liên hệ vấn đề trở ngại không thuần nhất. Ví dụ được cung Mệnh đứng đắn cô đơn nhưng cung Nô lại quá lả lướt….hoặc được cung Thê chứng tỏ vợ chồng thương yêu nhau nhưng cung Mệnh lại biểu lộ sự đam mê nhục dục, ăn chơi trụy lạc…Gặp trường hợp như thế, ta cần xét kỹ càng tới những yếu tố chế hóa mà tôi xin trình bày qua những ví dụ sau:
- Tôi đề cập ngay tới yếu tố đa thê mạnh nhất là Đào hồng, tả Hữu chiếu Thê để quý bạn thấy, để chế hóa nó ta cần phải có những khía cạnh nào. Trong trường hợp này, chỉ cần phải có cung Mệnh và Thân hội nhiều sao cô đơn, đứng đắn, khắc kỷ như Vũ Khúc, Lộc Tồn, Cô Quả, Khoa, Khôi việt, Quan Phúc, Thai Tọa và cung Tử Tức không có gì khả nghi về khả năng có 2 dòng con là đủ mức tin tưởng đương số không đa thê, dù cho cung Nô có những yếu tố chứng tỏ sự ăn chơi chăng nữa. Vì khi Mệnh và Thân là vai trò chủ chốt không có khuynh hướng 5 thê 7 thiếp thì các sao Đào hoa, Tả Hữu sẽ chuyển hướng hết. Lúc đó ta có thể ước đoán là đương số khó lây vợ, cứ mai mối hết đám này tới đám khác (Tả Hữu) và đám nào cũng xinh đẹp (Đào hồng), nhưng khi lấy được vợ rồi thì chính mình dễ bị cắm sừng vì Đào hồng lại ứng vào vợ bay bướm. Do đó, bà nào thấy chồng mình có trường hợp như trên, đừng bao giờ nghi ngờ chồng mà trái lại tự kiểm điểm tâm hồn mình xem có lệch lạc không?
- Ngoài thành kiến về Đào hồng, Tả Hữu chiếu Thê trên đây, đa số những người mới biết xem Tử vi cũng hay nghi ngờ những ông Mệnh có Đào hoa, Riêu, Hỉ và cung Nô có Tham Lang, hồng Loan, Mộ hoặc ngược lại, cho rằng họ rất dễ đa thê. Thật ra trường hợp trên dễ bị vô hiệu hóa vì chỉ cần cung Thê có bản lĩnh chi phối được người chồng là đủ (ví dụ như có Hóa Quyền, Tướng Ấn, Khoa Lộc; Lộc Tồn hội Liêm Phủ…) Khi đó ông chồng chỉ dám vui chơi trong khoảnh khắc như đi phòng trà, khiêu vũ…chứ đâu có liều mạng ăn ở với phụ nữ khác trước người vợ quyền uy của mình. Và có khi ngay cả vấn đề vui chơi chồng cũng phải lén lút và giới hạn nữa. Trường hợp cung Thê không đủ áp đảo ông chồng thì cần phải có các sao thuần hậu như Quang Quý, Long Phương, Quan Phúc, Khôi việt …để thu hút người chồng. Ngoài ra cần phải có them những đại hạn liên hệ hỗ trợ mạnh mẽ, nghĩa là không có các sao tạo môi trường thuận lợi cho việc ăn chơi hoặc tình yêu nồng nàn (ví dụ như Cô Quả, Thái Tuế, Đẩu Quân, Tang Hổ, khốc Hư). Nếu chỉ có 1 đại hạn hỗ trợ thì chưa đủ vì có người luống tuổi rồi mới đèo bồng vợ nhỏ, nghĩa là cần có sự trở ngại cho giai đoạn từ 30-60….thì mới yên 1 bề vì í tai có vợ nhỏ trước 30 và sau 60, trừ 1 vài trường hợp cá biệt.
Qua những điều trình bày trên đây, quý bạn hẳn thấy rằng quyết đoán 1 người đàn ông đa thê rất phức tạp, hấp tấp 1 chút là sai lạc dễ dàng và còn tai hại cho hạnh phúc vợ chồng. Về phần quý bà có gia đình cũng vậy, không nên lấy Tử Vi làm cứu cánh để nghi ngờ hoặc quá itn tưởng chồng mà đâm ra tự mình phá vỡ hạnh phúc gia đình
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
No1. Nữ tuổi Mùi
Những người tuổi Mùi luôn xem hôn nhân là chuyện đại sự và gắn liền suốt cuộc đời, cho nên họ không thể chấp nhận được việc người yêu không chung thủy. Nếu chẳng may phát hiện ra người yêu của mình lăng nhăng, cô nàng tuổi Mùi dịu dàng sẽ lật ngược thế cờ - họ trở nên tức tối và sẵn sàng phục thù bằng mọi cách, tuyệt đối khiến bạn ăn không nổi. Chúa ghen chính là quý cô tuổi Mùi đấy bạn.
No2. Nữ tuổi Tý
Những người tuổi Tý vốn vô cùng tinh tế, nhạy cảm trong tình yêu. Hai người đang đi trên đường, nếu bạn nhìn vu vơ cô gái nào đó, cô nàng tuổi Tý sẽ hiểu rằng trong mắt bạn không còn cô ấy nữa, bạn đã để trái tim về nơi khác... Nếu nghiêm trọng hơn, cô ấy sẽ khiến cuộc sống của bạn bỗng chốc rơi vào vực thẳm chỉ vì tính ghen tuông thái quá.
No3. Nữ tuổi Dậu
Những cô nàng tuổi Dậu có tiêu chuẩn vô cùng khắt khe trong việc "tuyển chọn" người yêu. Họ vốn theo đuổi sự hoàn mỹ. Mặt khác, dục vọng chiếm đoạt của họ vô cùng mạnh. Khi đã quyết định yêu bạn, họ sẽ không cho phép bạn có bất cứ bí mật nào liên quan tới đối tượng khác giới. Cũng vì vậy, tỷ lệ con giáp tuổi dậu ly hôn là khá cao - họ không chấp nhận sự thiếu chung thủy, dù thế nào chăng nữa.
No4. Nữ tuổi Ngọ
Nữ tuổi Ngọ cá tính mạnh, thích gì làm đấy, cuộc sống của họ đầy màu sắc nhưng lại rất nghiêm khắc với người yêu. Giả sử nhìn thấy người yêu mình đi với người con gái khác và nói cười không ngớt, họ sẽ lập tức nổi đóa lên. Nữ tuổi Ngọ sẽ không lập tức tấn công, nhưng họ sẽ không ngừng hoài nghi bạn, khi không vui sẽ lập tức phát tác khiến bạn phải khiếp sợ.
Anh Anh (theo D1xz)
► Khám phá Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác |
Căn cứ ghi chép trong sách cổ "Thái tuế có 3 loại, một là Thái tuế năm, vận hành sang trái 28 vì tinh tú, 12 năm một chu thiên, bắt đầu thấy ở phía Nam ngoài biển; tháng 1 là Thái tuế tháng, tháng 2 khởi từ ngày Mão, tháng 3 khởi từ ngày Tý, tháng 4 khởi từ ngày Dậu, tháng 5 khởi từ ngày Ngọ, tháng 6 lại quay về Mão".
Thái tuế trong sách Tử vi Đẩu Số là Thái tuế năm, cũng gọi là Thái tuế âm, Tinh long, Thiên nhất.
Thái tuế mỗi năm chuyển động một cung, ví dụ như năm Dân quốc thứ 72 là năm Quý Hợi, Thái tuế tại Hợi, sang năm sau Thái tuế tại Tý, sang năm sau nữa Thái tuế tại Sửu.
Ba công dụng của Thái tuế là:
1) Căn cứ vào tính toán chuyển động của mặt Trăng, tuy năm nay Thái tuế của mỗi người đều ở Hợi, nhưng lưu nguyệt của mỗi người lại không giống nhau. Ví dụ như Phan Tử Ngư sinh vào tháng 2, lấy cung Hợi làm khởi điểm, ngược chiều kim đồng hồ lấy Hợi địa làm tháng 1, Tuất địa làm tháng 2 (sinh tháng 3 lại theo đó suy tiếp 1 cung, sinh tháng 4 suy tiếp tương tự) tại cung Tuất làm khởi điểm, lại theo chiều kim đồng hồ đoán ngược giờ sinh. Phan Tử Ngư sinh vào giờ Dần, lấy Tuất địa làm giờ Tý, Hợi địa làm giờ Sửu, Tý địa làm giờ Dần. Như vậy Phan Tử Ngư năm nay Đẩu quân tại Tý, cũng tức là lất Tý địa làm chính nguyệt, Sửu địa làm tháng 2, Dần địa làm tháng 3 ... Sự biến hóa cát hung của vận khí mỗi tháng đều xem dựa trên vị trí tọa của các Sao.
Vận khí mỗi ngày như thế nào, thì lấy Lưu nguyệt làm ngày mồng 1, mỗi ngày vận hành một cung
Lưu thời lấy Đẩu Nhật làm giờ Tý, tính toán như lưu Nhật.
2) Thái tuế của mỗi ngươi đều ở Hợi địa, nhưng cung nhập Hợi địa mỗi người không giống nhau, ví như có người Hợi địa ở cung Phụ mẫu, có người ở cung Phu thê, có người ở cung Tử nữ, lại có người cung Tài bạch nhập Hợi địa ... Như vậy, Thái tuế và cung Hợi có quan hệ mật thiết, ví như cung Phu thê tọa Hợi địa thì luận về tình cảm vợ chông trong năm Quý Hợi là trọng yếu. Nếu sao ở cung Phu thê là cát tinh thì vợ chồng hòa thuận, nếu là hung tinh thì vợ chồng bất hòa, hoặc gặp tai nạn, thậm chí là xung khắc nhau. Nếu nha Thái tuế năm nay ở cung Tài bạch, gặp cát tinh tất phát tài, gặp hung tinh e khó tránh họa phá tài.
3) Xem vận khí mỗi năm, lấy Tiểu hạn làm chủ, Thái tuế làm phụ trợ. Ví dụ Thái tuế năm nay ở Hợi địa, thì lấy Hợi địa làm cung Mệnh, cung Phu thê ở Dậu, sao tọa Dậu địa là cát tinh thì vợ chồng hòa hợp, sao tọa là hung tinh thì vợ chồng bất hòa.
Cung Tài bạch ở Mùi địa, sao tọa là cát tinh thì năm Quý Hợi tài vận tốt đẹp, là hung tinh thì e khó tránh họa phá tài.
Tuy nhiên, nên chú ý phần phê mệnh, lại tham khảo các phương tiện Đại hạn, Tiểu hạn, Thái tuế, cùng Tứ hóa (bao gồm tứ Hóa năm sinh. Tứ Hóa đại hạn. Tứ hóa tiểu hạn. Tứ hóa Thái tuế...) tổng hợp để nghiên cứu.
Thái tuế rất kị gặp năm mệnh, nếu sao ở cung Mệnh là cát tinh thì không đáng lo ngại, nếu là hung tinh thì năm đoa khó tránh họa tai nạn.
Thái tuế kị gặp Thiên thương - Thiên sứ (như Thiên thương tại Tị, Thiên sứ tại Mùi, Thái tuế tại Ngọ), kị hành Địa không, Địa kiếp, Kình dương, Đà la, cũng kị Kình Đà xung phá Thái tuế, thường gặp hung hạn.
(Nguồn: blog tử vi tinh quyết)
Chúng ta tại thứ tư chương đệ nhất lễ trung nói qua lộc nhận đích khái niệm, tức: Giáp lộc tại dần, ất lộc tại mão, bính mậu lộc tại tị, đinh kỷ lộc tại ngọ, canh lộc tại thân, tân lộc tại dậu, nhâm lộc tại hợi, quý lộc tại tử. Nó vốn là nhật chủ đích kéo dài, đại biểu nhật chủ đến địa chi hành sử quyền lực, ngoài tâm tính hàm nghĩa có: Thân vi, độc lập, chủ trương, mình ý thức, tôn quý, độc chiếm, chúa tể, hưởng thụ ý; lộc vật tượng vi: Quyền lực, phong mà, tài phú, cung dưỡng; vu cơ thể người tỏ vẻ thân thể, chi thể, phụ nữ đích thân thể, sống lâu.
Lộc không xứng ấn vi khổ cực, lộc xứng ấn vi tỏ vẻ hưởng thụ ý. Nhàn chú: Lộc ấn tướng tùy theo, biểu hưởng thụ.
Khôn: Đinh kỷ tân tân
Mùi dậu sửu mão
Lộc ấn tướng tùy theo, có phúc khí. Dường như lười biếng, hưởng thụ. Sửu sửa vi thìn, càng thêm lười. Bởi vì thìn dậu hợp rồi. Không phải lộc bán đào hoa. Hợp đến ấn không tính đào hoa. Nhàn chú: Lộc ấn tướng tùy theo, có phúc khí, làm việc không khổ cực, cũng chính là lười người! Nơi này mão dậu một xung, còn đang làm việc.
Khôn: Quý tân tân tân
Mão dậu dậu mão
Khắp nơi việc buôn bán kiếm tiền. Rất khổ cực, vọt tài. Tay chân rất dễ dàng bị thương, giờ hầu tay chân khẳng định có vấn đề.
Nhàn chú: Niên thượng mang tượng, quý vi ấn cũng vi công việc, mão dậu một xung, lộc tố công, rất khổ cực, tài tại môn hộ cùng phương xa, chạy tới chạy lui việc buôn bán.
Khác: Phụ nữ đích lộc cũng là thân thể, hợp đến thương quan, quan sát, tài vi lộc bán đào hoa, lộc gặp tam hợp cũng là đào hoa; hợp đến phu thê cung không vi đào hoa.
Giáp nhận tại mão hoặc ất, bính nhận tại ngọ hoặc đinh, mậu nhận tại mùi hoặc tị, canh nhận tại dậu hoặc tân, nhâm nhận tại tử hoặc quý. Chỉ có dương can có dương nhận, âm can không có dương nhận. Dương nhận tuy là kiếp tài một trong loại, nhưng tỉ kiếp tài chi tâm tính chất càng hung hãn, ngoài tâm tính hàm nghĩa vi: Gan lớn, dũng cảm, hung ác, ác độc, bất kể hậu quả, không để ý mặt mũi, giữ lấy muốn, xâm hại, bất lợi phụ thê chờ; ngoài vật tượng vi: Đao, thương, kiếm, giải phẩu, binh khí, võ trang, chính pháp, chấp pháp; vu cơ thể người tỏ vẻ tứ chi, thân thể.
Dương nhận cũng có thể xem thiên can.
Lộc đích thật lệ:
Càn: Giáp mậu mậu đinh( Khang Hi)
Ngọ thìn thân tị
Càn: Đinh tân mậu đinh( Lâm Bưu)
Mùi hợi tử tị
Càn: Quý bính mậu đinh( Uông Tinh Vệ)
Mùi thìn thân tị
Mậu thấy niên thượng hoặc thời thượng đích tị ấn vi phần mà, biểu có kế thừa tính chất.
Lâm: Đinh ngồi mùi vi nửa lộc, cố đoạn nửa hoàng đế, có kế thừa tính chất, vốn là mao định đích người thừa kế.
Uông: Đinh ngồi mùi cũng là nửa thiên hạ, thượng cái quý thủy, phản rồi, cố vi ngụy chính phủ.
Khang: Năm thời đem nhật chủ hòa nguyệt lệnh bao ở, xu thế rất lớn, thổ địa đều là chính mình đích.
Klin bỗng nhiên đích bát tự cũng là loại này tố công, năm thời vây quanh rồi nguyệt nhật, loại này toàn bộ bao ở đích xu thế rất lớn.
Càn: Bính bính ất mậu( Klinton)
Tuất thân sửu dần
Dương nhận hỉ chế phục, chế chi được dụng chính, có thể tiến hành đích ngành sản xuất có: Quân nhân, cảnh sát, chấp pháp nhân viên, ngoại khoa đại phu, vận động thành viên, võ người chờ; dương nhận không có chế phục, thì dụng lệch, thì có thể tiến hành: Cường đạo, đánh cuộc đồ, đánh nhau ẩu đả, giết người càng hóa, phi pháp mưu doanh chờ.
Kiếp cùng nhận đều có sao làm đích ý tứ, có thao thủ chi nghĩa. Trên cơ thể người thượng biểu chi thể.
Mộ khố đích cách dùng đã tại thứ tư chương" Địa chi chi mộ" Trung có điều xiển phát, mộ khố vốn là cất dấu, khống chế ý, nó đích tượng nhất định là cùng can, chi, thập thần tượng phối hợp mới có ý nghĩa, như, dương nhận khố hoặc giải thích thành quân đoàn hoặc doanh địa; thương quan, thực thần khố có thể giải thích thành chùa miểu hoặc trường học; tài khố có thể giải thích thành ngân hàng; quan sát khố có thể giải thích thành quyền lực trung tâm hoặc tổ chức ngành. Hễ là tụ tập đông đảo đích ý tứ đều là khố đích hàm nghĩa, mọi người có thể suy một ra ba.
Như: Đinh nhâm ất mậu
Mùi tử sửu dần
Sửu mùi xung khai một chút, nhưng tử sửu hợp nhắm khố, vốn là tổ chức bộ đích [một người/cái] quan, trông nom quan đích.
Nhàn chú: Dương nhận khố: Quân đội, cảnh sát; thương quan khố: Chùa miểu, trường học; tài khố: Ngân hàng; quan sát khố: Tổ chức bộ.
Dịch mã tại mệnh trung tỏ vẻ đi lại, xuất ngoại, đi xa, chạy, di chuyển, vội vàng chờ ý. Manh sư phái sở định dịch mã cùng truyền thống thuyết pháp lược không có cùng, tức:
Thân tử thìn mã tại dần ngọ tuất, dần ngọ tuất mã tại thân tử thìn, tị dậu sửu mã tại hợi mão mùi, hợi mão mùi mã tại tị dậu sửu.
Tức thân tử thìn nhật hoặc năm thấy dần, thấy ngọ, thấy tuất cũng vi dịch mã.
Dịch mã đích tra pháp, lấy niên trụ cùng nhật trụ là việc chính, thấy khác chi hoặc đại vận, lưu niên vi dịch mã.
Dịch mã vật tượng vi: Xe, thuyền, mã. Như dịch mã gặp hợp, thì tỏ vẻ dừng lại, bất động ý.
Nhàn chú: Năm, nhật đồng thời tra, nhật trụ vưu rõ ràng!
Lục giáp không vong:
Giáp tý tuần trung tuất hợi không, giáp tuất tuần trung thân dậu không, giáp thân tuần giữa trưa mùi không,
Giáp ngọ tuần trung thìn tị không, giáp thìn tuần trung dần mão không, giáp dần tuần trung tử sửu không.
Giáp tý tuần trung tức giáp tý, ất sửu, bính dần, đinh mão, mậu thìn, kỷ tị, canh ngọ, tân mùi, nhâm thân, quý dậu mười nhật, tuất cùng hợi gặp không, nói đúng là, tòng giáp tý nhật đến quý dậu nhật này mười thiên trung không có tuất hợi hai chữ, như hắn chi thấy người vi không vong, còn lại phảng này. Không vong đích tra pháp lấy nhật chủ hoặc niên trụ là việc chính, xem hắn chi trung thấy người vi không vong.
Chi gặp không vong tượng trưng có ngoài khí mà không có ngoài hình, có kỳ danh mà không có kỳ thật. Niên chi không vong tổ nghiệp không; nguyệt chi không vong huynh đệ không có dựa vào hoặc có thương tổn hại; nhật chi không vong làm việc đầu hổ đuôi rắn, ít thành nhiều bại, không có về túc cảm giác, hoặc phu thê chi duyên bạc; thời chi không vong con gái trì dục hoặc con gái có tổn thương. Hung sao trời vong hung giảm phân nửa, cát thần không vong phúc không được đầy đủ. Mệnh trung sở dụng chi thần vượng tướng mà không vong, chủ tính cách khí độ rộng thùng thình, cá tính siêu phàm thoát tục, có thể thành tựu vu vụ hư chuyện nghiệp, như phật đạo, huyền học, ngũ thuật, khí công, nghệ thuật chờ lĩnh vực.
Không vong loại tượng: Vụ hư, huyền học, không vật, giảm phân nửa, tổn thất, không được đầy đủ, trên danh nghĩa, danh nghĩa, hữu danh vô thật, hình thức, khí, tượng, bóng dáng chờ.
Thiên can cũng có thể nói không vong, nguyên cục không có không vong, đại vận tới, cũng xem như không vong, nhưng tố công không có ấn tượng, một loại tượng mà thôi. Lưu niên không nói không vong.
Kim không thì minh, hỏa không thì phát, thủy không thì chảy, mộc không thì hủ, thổ không thì hãm.( Sửu không vốn là thổ không)
Tô Vĩnh Lợi: Quý đinh đinh nhâm
Mão tị tị ngọ
Tị hỏa không vong, tỏ vẻ làm cho huyền học, phật đạo, Dịch Học chờ.
Nhàn chú: Thìn vận tử phụ, niên thượng mão ấn vi phụ, quý cũng là phụ, bởi vì mang tượng, thìn vận, quý xuống tới rồi, quý= thìn, thìn mão một hại, ngọ mão vừa vỡ, tử phụ;
Năm tháng thượng thực thần vi mẫu, niên thượng thương quan nam vi nãi nãi, nữ vi bà bà; khác lộc cũng biểu mẫu thân; quan sát tài ấn cũng có thể vi phụ. Tị vi mẫu, không, mẫu tin phật!
Càn: Nhâm tân giáp kỷ
Dần hợi tuất tị
Chính quan vi nữ, thất sát vi nhân, như không vong nhân tiện phản rồi. Cho nên này tạo phản đoạn sinh nhân.
Thổ làm quan sát, như thế nào đoạn, đoạn sư cũng không biết rõ ràng.
Càn tạo: Nhâm quý tân kỷ
Dần sửu hợi hợi
Quý = hợi tại nguyệt lệnh vi thực thần biểu mẫu thân, nguyên nhân hợi hai lần hợp dần, cha mẹ ly dị, tùy theo mẫu sửa giá! Nguyên nhân hợi ngồi chi, cho nên, tùy theo mẫu !