Nằm mơ thấy mình được cầu hôn –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Pháp thoại này, Thế tôn muốn đề cập đến hai phương diện đối lập với sự lợi hại trong những hiện tượng mới phát sinh. Người con Phật phải nhận thức được hai mặt của vấn đề khi nó còn trong trứng nước
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana. Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến, sau khi chào hỏi, ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:
Tôn giả Gotama có tự cho mình đã chứng Vô thượng chính đẳng chính giác không?
Thưa đại vương, nếu ai có thể nói là mình đã chứng vô thượng chính đẳng chính giác, thời người ấy phải chính là Ta. Thưa Đại vương, Ta đã chứng Vô thượng chính đẳng chính giác.
Thưa Tôn giả Gotama, có những vị Sa môn, Bà la môn là giáo chủ, hội chủ, sư trưởng có tiếng tăm, có danh vọng, được quần chúng tôn sùng như các ngài Purana Kassapa, Nigantha Nàtaputta….Khi con hỏi các vị ấy “Có tự xem là đã chứng vô thượng chính đẳng chính giác không?”, thì họ trả lời là không tự xem đã chứng Vô thượng chính đẳng chính giác. Vậy tại sao tôn giả Gotama trẻ tuổi, sinh sau đẻ muộn và chỉ mới xuất gia lại tự cho mình như vậy?
Thưa Đại vương, có bốn loại tuổi trẻ không nên khinh thường, không nên miệt thị vì họ là trẻ. Thế nào là bốn? Đó là vị vương tử trẻ tuổi, một con rắn trẻ tuổi, một ngọn lửa trẻ tuổi và một vị Tỷ kheo trẻ tuổi.
Thưa Đại vương, bốn loại trẻ tuổi này không nên khinh thường, không nên miệt thị vì chúng là trẻ.
(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, chương 3, phẩm Thứ nhất, phần Tuổi trẻ, VNCPHVN ấn hành 1993, tr.159)
Đứng về phương diện chín chắn và kinh nghiệm trong cuộc sống xưa nay xã hội vẫn dành cho người già một địa vị trang trọng. Tuy nhiên, về phương diện tài năng, nhất là những tài năng xuất chúng thì bất luận tuổi tác, bởi thiên tài vốn thiên bẫm, là phước báo riêng của mỗi người. Do vậy, chẳng có ai ngỡ ngàng trước chuyện tuổi tác của thiên tài cả.
Vì thế, với tuệ giác của Thế tôn, Ngài thấu rõ bản chất của bốn nhóm đối tượng đặc biệt, rất lợi hại, rất nguy hiểm dù cho còn trẻ tuổi, sự nghiệp mới manh nha. Một vị vương tử trẻ tuổi nhưng đã tiềm ẩn bên trong một đại đế quyền uy, đứng trên muôn dân, cai trị toàn thể thiên hạ. Một con rắn nhỏ nhưng là rắn độc thì phải tránh xa nến không muốn mất mạng. Một ngọn lửa nhỏ là khởi đầu của trận đại hỏa hoạn, thiêu rụi tất cả. Vị Tỷ kheo trẻ tuổi nhưng với thiện căn nhiều đời, giới hạnh viên mãn đã ẩn tàng bên trong một bậc Đạo sư, một đấng giác ngộ.
Pháp thoại này, Thế tôn muốn đề cập đến hai phương diện đối lập với sự lợi hại trong những hiện tượng mới phát sinh. Người con Phật phải nhận thức được hai mặt của vấn đề khi nó còn trong trứng nước.
Khuynh hướng của xã hội hiện nay là trẻ hóa, nhất là trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo là một chuyển biến tích cực, năng động, kích thích sự phấn đấu vươn lên để tự thể hiện mình của giới trẻ. Giáo hội cũng đang có những động thái trẻ hóa hàng ngũ lãnh đạo nhưng xem ra vẫn còn quá dè dặt. Giữa hai thế hệ già và trẻ bao giời cũng có những lợi thế và những hạn chế riêng. Tuy vậy, phải tin tưởng vào sức trẻ, dìu dắt và nâng đỡ đồng thời giao phó trách nhiệm cho lớp trẻ chính là thực hiện di huấn của Thế tôn. Thế nên, chúng ta không nên xem thường hay nghi ngờ thế hệ trẻ, một khi họ đã đầy đủ những tố chất của sự trưởng thành.
Hoa đồng tiền Hoa đồng tiền là loại hoa tượng trưng cho tiền tài, những bông hoa đồng tiền mang lại ước vọng về một năm mới tài lộc và thịnh vượng. Đặc biệt với hai loại đồng tiền đơn và đồng tiền kép, loại hoa này còn có nhiều màu sắc rực rỡ như cam, đỏ, cam... để giúp cho bình hoa ngày Tết của gia đình bạn thêm bắt mắt, ấn tượng. Tiền vào như nước với bó hoa đồng tiền tươi thắm. Chỉ một bông hoa đồng tiền đỏ cam mạnh mẽ cắm trong lọ cũng đủ để mang lại lời ước nguyện may mắn cho năm mới rồi. Hoa cúc Hoa cúc - nhẹ nhàn và thanh thản là một trong những loài hoa nở rộ trong dịp tết Nguyên Đán. Sắc hương của nó tuy giản dị nhưng làm say lòng người. Ngoài ra, loại hoa này còn tươi rất lâu. Đóa cúc vàng như mặt trời tỏa nắng trong những ngày giáp Tết se se lạnh tạo cảm giác ấm cúng và gần gũi. Hoa cúc trắng là loài hoa biểu tượng cho sự duyên dáng và lòng hào hiệp. Những cành cúc trắng muốt cắm vào bằng gốm nung mang lại vẻ nhẹ nhàng và thanh thản cho những ngày cuối năm bận rộn. Ngoài cắm cúc vào bình, bạn cũng có thể ngắt những bông cúc nhỏ xinh thả vào bát để trang trí nhà thêm đẹp.
Hoa cúc trắng thả bát cũng là ý tưởng trang trí nhà ngày Tết thú vị.
Hoa trạng nguyên Trạng nguyên đỏ cũng là một loài hoa có ý nghĩa trong dịp năm mới. Những cánh hoa đỏ thắm tượng trưng cho niềm vui về sự học hành đỗ đạt, chính vì vậy những gia đình có các "cậu tú, cô cử" thường bày loài hoa này vào dịp Tết. Trạng nguyên - loài hoa mang ý nghĩa của sự đỗ đạt Hoa lan Là loài hoa đa dạng và sang trọng về màu sắc này sẽ giúp nhà bạn rực rỡ hơn. Một loài hoa nữa được xem là biểu tượng của người quân tử cũng thường được trang trí trong nhà những ngày đầu năm mới là hoa lan. Loài hoa quân tử thường được bày ở phòng khách mỗi dịp xuân về.
Những cánh hoa mong manh nhưng lại rất bền.
Hoa sống đời Loài hoa nhỏ nhắn nhưng màu sắc rực rỡ mang một sức sống bền bỉ, mãnh liệt cũng được yêu thích trong dịp tết. Nó tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở và tình đoàn kết của các thành viên trong gia đình. Sống đời, loài hoa có sức sống bền bỉ mang lại ước vọng gắn kết của các thành viên dịp đầu xuân.
Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Người xưa có câu" Nét chữ Nết người" quả thực không sai. Chữ viết ngoài việc phản ánh rõ nét tính cách tốt, xấu của một người còn biểu hiện cả sức khỏe, bệnh tật trong đó, Hãy cùng lịch vạn niên 365 xem bói chữ viết tay cho bạn nhé
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Đức Khổng Tử tôn xưng vua Thuấn là bậc đại hiền có nói: Tổ tiên được hưởng việc tế tự nơi tông miếu, con cháu đời đời hưởng phúc, bảo tồn cơ nghiệp của tổ tông truyền lại, đều là những lời nghị bàn thiết thực xứng đáng.
1. Dưng Vinh làm quan đến chức thiếu sư, nguyên người huyện Kiến Ninh tỉnh Phúc Kiến, gia đình đời đời sinh sống bằng nghề chèo đò đưa khách qua sông. Nhân gặp phải kì mưa lũ quá lâu, nước từ trên núi đổ xuống vùng hạ lưu. Các thuyền khác đều nhân cơ hội mà theo vớt các tài vật trôi nổi trên sông, chỉ riêng thuyền của cụ nội ông thiếu sư chuyên cứu vớt người mà thôi, tuyệt đối không tham vớt một chút tài vật nào cả. Người làng ai cũng cười chê cho là ngớ ngẩn, đần độn.
Kịp cho tới khi sinh ra phụ thân của thiếu sư thì gia đình đã dần dần khá, có thần nhân hóa làm một vị đạo sĩ mà mách bảo rằng tổ phụ nhà ngươi có âm đức, con cháu sẽ được vinh hiển phú quý, nên táng vào chỗ đất đó, bèn theo lời chôn cất vào chỗ huyệt đã được chỉ dẫn, tức nay là phần mộ Bách thố vậy.
Sau sinh thiếu sư, vào năm 20 tuổi đã đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức tam công (tức thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo, hay thái sư, thái phó, thái bảo), tằng tổ, nội tổ và phụ thân cũng được truy phong chức tước như vậy. Con cháu đều vinh hiển, thịnh vượng, cho tới nay trong gia đình cháu chắt còn có nhiều người hiền.
2. Dương Tự Trừng, người huyện Ngân, tỉnh Triết Giang, buổi đầu làm huyện lại, lòng vốn nhân hậu, ngay thẳng, giữ phép công bình. Vào thời ấy, quan huyện lại quá nghiêm khắc, ngẫu nhiên gia hình tù nhân đến máu chảy đầy đất mà cơn giận chưa nguôi. Họ Dương Quỳ xin khoan dung. Huyện quan bảo: tù nhân này đã phạm tội lại không tôn trọng pháp luật, không biết đạo lý nữa, khiến ta làm sao không giận được. Tự Trừng khấu đầu thưa: Người trên lỗi đạo, không còn làm gương mẫu cho kẻ dưới noi theo nên dân tâm thất tán từ lâu rồi, quan trên nếu hiểu rõ tình trạng phạm pháp của dân thì nên thương xót họ, chẳng nên thấy mình xét xử án được phân minh mà vui thích, vui còn chẳng nên huống hồ lại giận dữ sao! Quan huyện nghe nói tỉnh ngộ mà nguôi cơn thịnh nộ.
Nhà rất nghèo, lại không nhận một chút tặng vật nào cả. Gặp những lúc tù nhân thiếu ăn, thường tìm cách giúp đỡ. Một hôm có bọn tù nhân mới từ xa tới, dọc đường không có ăn nên đói lả, mà nhà lại thiếu gạo, đem cho tù ăn tất nhà không có miếng, để lại nhà ăn thì khó nhẫn tâm, bèn thương lượng với vợ. Bà vợ hỏi là tù nhân từ đâu lại thì Tự Trừng bảo là từ Hàng Châu tới, dọc đường không có ăn, đói khát khổ sở, sắc mặt xanh xao như tàu lá, nhân đó lấy bớt gạo của nhà nấu cháo cho tù ăn đỡ.
Về sau sinh được hai trai, con trưởng đặt tên là Thủ Trần, con thứ là Thủ Chi, đều làm đến Lại bộ thị lang, một người ở Bắc Kinh, một người ở Nam Kinh; cháu nội được hai người, trưởng làm Hình bộ thị lang, và thứ làm liêm hiến (án sát ty) ở tỉnh Tứ Xuyên, tất cả con và cháu đều là những danh thần. Hiện nay, (tức vào thời của Liễu Phàm tiên sinh) Sở Đình hay Đức Chính cũng đều là dòng dõi của gia đình đó.
3. Xưa vào niên hiệu Chính thống nhà Minh, Đặng Mậu Thất khởi loạn ở Phúc Kiến, sĩ dân theo giặc rất đông. Triều đình cử quan đô hiến Trương Giai người ở huyện Ngân, xuất quân nam chinh, tiễu trừ giặc. Sau Trương Đô hiến phái viên đô sự họ Tạ, thủ hạ của Bố chánh ty tỉnh Phúc Kiến truy sát tầm nã giặc ở phía đông tỉnh.
Tạ Đô sự tìm được quyển sổ danh sách của đảng giặc; phàm người không theo phụ họa giặc đều bí mật được phát cho một lá cờ nhỏ bằng vải trắng, ước hẹn tới ngày quân binh tấn công thì treo cờ ở trước nhà, lại nghiêm lệnh cho quân lính không được giết hại bừa bãi, vì thế cứu sống được cả vạn người. Sau con của Tạ Đô Sự là Tạ Thiên thi đỗ trạng nguyên, làm quan đến tể tướng, cháu nội là Phi cũng đỗ thám hoa.
4. Bà họ Lâm, người huyện Phủ Điền, trên có mẹ già chăm làm việc thiện, thường nắm cơm thí thực, ai đến cũng liền cho ngay mà không hề có vẻ phiền hà, ghét bỏ. Một vị tiên hóa trang làm đạo nhân, mỗi sáng đến xin đều đòi cho được sáu bảy nắm. Mỗi ngày đều cho như vậy, suốt ba năm liền, ngày nào cũng như ngày ấy, nên thấu rõ tấm lòng thành thực chỉ bố thí mà không cầu mong gì cả. Nhân vậy, đạo sĩ bèn bảo rằng: Ta ăn của nhà ngươi đã ba năm, chẳng biết lấy gì đền đáp. Sau nhà có chỗ đất quý, nên táng vào chỗ đó, con cháu về sau quan chức, tước vị thật vô số kể như vừng đựng trong đấu vậy. Người con bèn theo chỗ chỉ điểm mà để mộ. Mới đợt đầu đã thấy phát ngay có chín người đăng khoa trúng cử, đời đời quan tước cực thịnh. Ở Phúc Kiến có câu nói: chẳng người họ Lâm nào là chẳng khoa bảng đề danh cả.
5. Phụ thân của thứ sử Phùng Trác Am hồi còn là tú tài, một buổi sáng trời mùa đông cực kì rét buốt, dạy sớm đi lên huyện học, dọc đường gặp một người ngã nằm trên lộ bị tuyết phủ đầy, lại sờ thân thể người đó, thấy nửa mình đã bị đông cứng, bèn cởi áo lông của mình ra mặc cho và đưa về cứu giúp cho tỉnh lại; đêm mộng thấy thần nhân bảo: ngươi do tâm chí thành cứu được một mạng người, ta sẽ khiến Hàn Kỳ (một vị tể tướng đời nhà Tống) đầu thai vào làm con ngươi, kịp đến khi sinh ra Trác Am bèn đặt tên Kỳ.
6. Ưng thượng thư người phủ Đài Châu, tỉnh Triết Giang, lúc còn tráng niên học tập ở trên núi, ban đêm nghe quỷ hú gọi nhau tập hợp, tiếng hú thường làm nhiều người rùng rợn, nhưng ông không hề sợ hãi. Một đêm nghe quỷ bảo nhau mụ vợ nhà kia chồng đi xa đã lâu không về, bố mẹ ở nhà ép gả cho người khác, đêm mai sẽ thắt cổ ở nơi đây; vậy là ta đã có người thế thân rồi.
Ông ngầm bán ruộng được bốn lạng bạc bèn giả lời lẽ người chồng viết một bức thư kèm theo tiền gửi về nhà. Bố mẹ ở nhà nhận được thư thấy bút tích không giống cũng hơi hoài nghi nhưng lại nghĩ rằng thư có thể giả được nhưng tiền đâu có giả, vả lại được biết tin con nên thôi không ép gả nữa. Người con sau đó trở về nhà, vợ chồng cùng nhau sum họp vui vầy như thuở ban đầu.
Ông lại nghe thấy quỷ nói với nhau: Ta đang sắp được thế thân mà gã tú tài kia làm hỏng chuyện của ta. Một quỷ khác ở cạnh nói: Sao ngươi không hại hắn? Quỷ kia nói: Thượng đế thấy người này tâm địa rất tốt, làm nhiều điều phúc, âm đức dày đáng bậc thượng thư, ta làm sao hại nổi. Nhân đó họ Ưng tự nỗ lực chăm làm lành, ngày càng gia công tu thiện, đức ngày càng thêm dày; gặp người thân thích có chuyện cần cấp tức thì tận tình tìm mọi cách giúp đỡ họ qua lúc khó khăn, gặp trường hợp phải đối xử với người không biết lẽ phải trái, không hiểu được đạo lý thì ngược lại ông chỉ tự trách mình sao không biết cư xử với họ, mà vui vẻ an nhiên không chấp, coi như mình lầm lỗi vậy. Con cháu khoa bảng đỗ đạt cho tới nay thật là nhiều vô kể.
7. Người huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô, họ Từ tên Thức tự Phượng Trúc, phụ thân là điền chủ giàu có, gặp năm mất mùa, trước đề xướng việc quyên tô, tức bỏ không thu địa tô nữa, sau lại đem thóc gạo dự trữ ra phát chuẩn cho người nghèo khó. Ban đêm nghe thấy quỷ hô ở ngoài cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, tú tài nhà họ Từ sẽ thành cử nhân lang, cứ thế tiếp tục hô liền nhiều đêm không ngừng. Quả nhiên năm đó Phượng Trúc thi hương đỗ cử nhân.
Phụ thân của Phượng Trúc thấy vậy càng gia công tích đức, cần mẫn chăm lo hành thiện chẳng chút lơ là mệt mỏi; phàm những việc có ích lợi đều hết sức tận tâm làm như tu sửa cầu, tu bổ đường sá, thí thực trai tăng, tiếp tế người nghèo… Sau lại nghe thấy quỷ hô ở trước cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, cử nhân họ Từ quan chức thăng tới đô sát. Phượng Trúc sau cùng làm quan tới Lưỡng Triết tuần vũ.
8. Ông Đồ Khánh Hy, người phủ Gia Hưng tỉnh Triết Giang, buổi ban đầu giữ chức chủ sự bộ hình, thường vào trong ngục tra xét cẩn thận hỏi lại tình trạng của tù nhân biết được nhiều người vô cớ bị tội. Ông không tự lấy làm công lao của mình mà viết sớ mật trình lên đường quan, tức thượng thư bộ hình. Về sau, các án tích đều được đưa về triều xét lại. Đường quan theo lời trong mật sớ tra vấn lại tình trạng của tù nhân giải oan được cho hàng chục người, khiến cho không ai là không phục. Thời đó ở kinh thành tất cả mọi người đều khen ngợi thượng thư xử án thật công minh.
Ông lại bẩm cáo đường quan: ở ngay kinh thành mà còn nhiều dân bị án oan, thì hàng trăm triệu dân ở khắp bốn phương trong nước sao khỏi không có người bị oan ức, khá nên trong năm năm lại sai phái một vị giảm hình quan đi điều tra sự thực xét lại án, hoặc gia giảm tội hình, hoặc giải oan phóng thích họ. Thượng thư bộ hình tấu trình hoàng đế thì lời đề nghị đó liền được phê chuẩn, và ông có tên trong danh sách những người được sai phái làm giảm hình quan. Ông nằm mộng thấy thần nhân bảo: người số không con, nay đề nghị việc giảm hình thật rất hợp lòng trời nên thượng đế ban cho ngươi được ba trai đều mặc cẩm bào đai vàng. Ngay đêm đó, bà vợ thụ thai, sau sinh ra Ưng Huyên, Ưng Khôn, Ưng Tuấn đều quan chức hiển hách cả.
9. Ở phủ Gia Hưng có người tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi, thân phụ ông làm thái thú huyện Trì Dương sinh được bảy người con. Bằng là út, gởi rể ở nhà họ Viên, huyện Bình Hồ cùng với phụ thân ta là chỗ thâm giao, học rộng tài cao, nhiều lần thi hương không đậu cử nhân nên chán chuyện khoa bảng mà chuyên tâm học Phật và Lão.
Một hôm đi du ngoạn Mão Hồ ở phía đông tỉnh, ngẫu nhiên tới một ngôi chùa ở làng nọ, thấy tượng đức Quán Thế Âm bị lộ thiên, dầm mưa loang lổ, bèn mở túi đẫy lấy mười lạng bạc đưa cúng dường để hòa thượng trụ trì sửa lại chùa cho khỏi dột nát làm tượng bị ướt át, thì hòa thượng cáo bạch là việc tu sửa mất nhiều công mà tiền bạc không đủ, e khó hoàn thành công tác. Bao Bằng cho mở rương mây lấy thêm bốn tấm vải, sản phẩm của Tung Giang, và bảy bộ áo kép bằng vải gai còn mới tinh đưa cúng dường để bán lấy tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa. Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại thì Bao Bằng bảo miễn là tượng đức Bồ Tát không bị ướt át là được, ta dù có ở trần cũng chẳng thương tổn gì. Hòa thượng trụ trì nghe nói cảm kích rơi lệ bảo rằng: tiền tài, vải vóc, quần áo xả bỏ không phải là điều khó, chỉ riêng có tấm lòng chân thành như vậy đâu phải dễ có. Sau, công việc tu bổ hoàn thành, ông dẫn cha già cùng đi, đêm ngụ lại ở chùa, mộng thấy các vị hộ pháp lại cảm tạ, bảo: Con cháu nhà ngươi sẽ được hưởng lộc ở đời. Về sau con ông là Biện và cháu là Sanh Phương đều đăng khoa, đỗ đạt, quan chức hiển hách.
10. Phụ thân của Chi Lập, người huyện Gia Thiện, làm lại ở phòng hình sự thấy tù nhân vô cớ bị hàm oan hãm vào trọng tội, ông lấy làm thương hại muốn cứu mạng. Tù nhân cảm kích bảo vợ rằng: Chi công có lòng tốt muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo đền ơn đức ấy được. Ngày mai, ngươi hãy về nhà ngỏ ý đem thân hầu hạ, hoặc giả ông ấy chịu thu dụng ngươi, tất ta ắt có đường sống vậy.
Người vợ khóc mà nghe lời chồng; kịp khi họ Chi tới, tự mình ra mời rượi và bày tỏ hết ý nguyện của chồng. Họ Chi tuy không nghe nhưng vẫn tận tình giúp đỡ để bạch hóa án oan. Người tù được tha, cả hai vợ chồng cùng đến nhà khấu đầu cảm tạ mà bảo rằng: Chi công ân đức dày như vậy, ở đời thực hiếm có, hiện nay chúng tôi có đứa con gái đã lớn muốn tiến dẫn làm thiếp để hầu hạ công việc nhà cửa, đây cũng là chuyện thường tình hợp lý. Huyện lại họ Chi sắm sanh lễ vật và thâu nạp làm thiếp, sinh ra Chi Lập mới hai mươi tuổi đã đỗ khôi nguyên làm quan tới chức Khổng mục ở Hàn Lâm Viện. Lập sinh ra Cao, Cao sinh ra Lộc đều học rộng và có chức phận cả. Lộc sinh ra Đại Luân cũng khoa bảng đề danh.
Mười chuyện trên đây, tuy cách cư xử, hành động của các nhân vật có khác nhau, nhưng đều quy về việc làm lành lại gặp quả báo tốt lành.
II–Thế nào là thiện ?
1. Bàn luận rõ ràng về thiện.
Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện có chân có giả, có ngay thẳng có khuất khúc, có âm có dương, có phải hay chẳng phải, có lệch hay chính đáng, có đầy có vơi, có tiểu có đại, có dễ có khó, đều cần bàn luận rõ ràng. Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý, cứ tự cho việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích.
Thế nào là chân thiện và giả thiện? Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hòa thượng (một vị cao tăng triều đại nhà Nguyên) mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác; nay có người nọ thiện mà con cháu lại không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt, như vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao?
Hòa thượng nói: Người phàm tâm tình chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái, cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn trách oán trời cho báo ứng là sai, là không công bằng ư. Bọn nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn, trái ngược, điên đảo vậy? Hòa thượng bảo họ thử ví dụ xem sự tình như thế nào là thiện và thế nào là ác. Một người trong bọn họ nói: Mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính, lễ phép với người là thiện. Hòa thượng nói không nhất định là như vậy. Một người khác cho là tham lam, lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện. Hòa thượng cũng bảo không nhất định như vậy. Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hòa thượng đều bảo không nhất định như vậy. Nhân thế bọn họ đều thỉnh hòa thượng giảng giải cho.
2. Định nghĩa chữ thiện
Hòa thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Làm việc có ích cho người là thiện, còn chỉ có lợi cho riêng mình là ác. Có ích cho người thì dù đánh hay mắng chửi họ cũng gọi là thiện, chỉ có ích cho riêng mình dù tôn kính, lễ phép đối với người cũng kể là ác. Bởi vậy, người làm việc thiện mà có lợi ích cho người là công, chỉ lợi cho mình là tư, công là chân, còn tư là giả.
Lại nữa, làm việc thiện mà phát xuất từ tấm lòng thành là chân thiện, còn hời hợt, chiếu lệ mà làm là giả thiện. Hơn nữa, hành thiện mà không nghĩ tới một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kĩ lưỡng.
Thế nào là ngay thẳng, khuất khúc? Nay ta thấy một người cẩn thận dễ bảo mà vội phân loại ra cho là thiện nhân có thể dung nạp. Các vị thánh nhân dùng người thì lại khác, thà dùng một cuồng sỹ cao ngạo, quật cường có tài cán biết mạnh dạn tiến thủ còn hơn. Người cẩn thận dễ bảo, tuy ở đời ai cũng ưu thích cho là tốt, nhưng thánh nhân cho là không có chí khí hướng thượng, chỉ biết vâng dạ không hiểu rõ đạo lý nên có phần không lợi cho nền phong tục đạo đức. Bởi thế cho nên quan niệm của người phàm về thiện ác, tốt xấu thực rõ ràng khác biệt, tương phản với thánh nhân vậy.
Suy rộng ra thì mọi sự lựa chọn thiện ác, gìn giữ hay buông xả của người đời đều không giống với thánh nhân, còn chỗ thiên địa, quỷ thần coi là phúc, thiện họa, dâm tà, phải trái đều đồng tiêu chuẩn với thánh nhân mà khác biệt hẳn với người phàm tục.
Phàm muốn tích lũy thiện tất phải phát xuất từ chỗ tiềm ẩn của chân tâm đã được thanh lọc hết ý ác, quyết không để nhĩ mục sai khiến hành thiện vì tự tư tự lợi. Một lòng một dạ cứu giúp đời là ngay thẳng, còn nếu có chút lòng mị thế, lấy lòng người để được danh vọng, tiền tài thì là hành động khuất khúc, chỉ một lòng một dạ tôn kính người là ngay thẳng, còn có chút lòng bỡn cợt, coi khinh người là khuất khúc; đều nên bàn luận tường tận.
Thế nào là âm thiện, dương thiện? Phàm làm việc thiện mà mọi người đều hay biết được thì gọi là dương thiện, hành thiện mà không một ai biết là âm đức, thực ra đã có thiên địa quỷ thần biết rõ, nên có âm đức thì tự nhiên sẽ được cảm ứng quả báo; dương thiện được hưởng danh tiếng ở đời, đã có danh tiếng tức là đã được phúc báo rồi. Xưa nay những người có danh, có tiếng thường bị tạo hóa ganh ghét đố kỵ; vì thế những người có danh tiếng lừng lẫy mà thực sự không có nhiều công đức xứng đáng với danh tiếng đó, thường gặp phải nhiều tai họa bất kì xảy ra. Người không có tội lỗi gì mà bỗng phải chịu mang tiếng xấu một cách oan uổng thì con cháu họ sẽ được đáp đền, mau chóng phát đạt. Chỗ sai biệt của dương thiện và âm thiện cần phải cẩn thận suy xét cho kỹ.
Thế nào là phải và chẳng phải? Nước Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở các nước chư hầu về đều được phủ quan thưởng tiền. Tử Cống (học trò đức Khổng tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền thưởng. Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng: Tứ làm việc thất sách rồi. Ôi, thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục, thay đổi tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, chẳng phải cứ nhiệm ý làm những việc thích hợp với riêng mình. Nay nước Lỗ, người giàu ít, người nghèo thì nhiều, nếu nhận thưởng cho là tham tiền, là không liêm khiết, còn không lãnh thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về nữa.
Tử Lộ (tên Do, học trò đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một con trâu. Tử Lộ nhận lãnh, đức Khổng hay chuyện hoan hỷ bảo rằng: Từ nay về sau nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối. Cứ lấy con mắt phàm tục mà xét thì Tử Cống không lãnh tiền thưởng là hay, còn Tử Lộ nhận tặng trâu là kém. Nhưng kiến giải của thánh nhân khác với người phàm nên trái lại đức Khổng lại chọn Do mà truất Tứ. Vậy nên biết người hành thiện không nên chỉ nghĩ tới lợi ích nhãn tiền mà cần xét xem hành động đó có ảnh hưởng tệ hại gì về sau này hay không, không nên bàn đến lợi ích nhất thời ở đời này mà phải nghĩ tới tương lai xa, mà cũng chẳng nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân mình mà phải nghĩ cho cả thiên hạ đại chúng nữa.
Việc làm hiện nay tuy bề ngoài là thiện nhưng trong tương lai lại để hại cho người, thì thiện mà thực chẳng phải thiện, còn việc làm hiện thời tuy chẳng phải thiện nhưng về sau này lại có lợi ích cứu giúp người thì tuy ngày nay chẳng phải thiện mà chính thực là thiện vậy. Chẳng qua ở đây chỉ lấy một vài sự việc mà bàn thế nào là thiện và không phải thiện mà thôi. Tuy nhiên, ở đời có nhiều sự tình tương tự, chẳng hạn như tưởng là hợp lễ nghĩa, là có trung tín, từ tâm mà thực ra lại trái lễ nghĩa, không phải trung tín hay từ tâm; đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng.
Thế nào là thiên lệch và chính đáng? Xưa, ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức tể tướng, cáo lỗi hồi hương, dân chúng bốn phương nghênh đón như Thái sơn, Bắc đẩu. Nhưng có một người say rượi mạ lỵ ông. Lã công điềm nhiên bất động bảo gia nhân: Kẻ say chẳng chấp làm gì, đóng cửa lại mặc kệ hắn. Qua một năm sau, người đó phạm tội tử hình bị giam vào ngục. Lã công hay biết sự tình mới hối hận rằng: giá mà ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt thì hắn có thể chỉ bị trừng giới với một tội phạm nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về sau. Ta lúc đó chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ lại hóa ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm phải tội tử hình như ngày nay vậy. Đó là một sự việc do lòng thiện mà hóa ra làm ác.
Lại nữa, có khi làm việc thiện với tâm ác, như một nhà đại phú nọ gặp năm mất mùa, dân nghèo giữa ban ngày cướp bóc thóc gạo ở ngay nơi thị tứ, báo cáo lên huyện thì huyện không xử lý, dân nghèo được thể càng lộng hành. Gia đình nọ bèn tự xử sự cho bắt những kẻ cướp bóc giam giữ trị tội nên ổn định được tình hình, nếu không hành động như vậy cướp sẽ làm loạn.
Sở dĩ ai cũng đều biết làm thiện là chính đáng và làm ác là thiên lệch nhưng tâm tuy thiện là chính, mà việc làm hóa ra ác là thiên lệch nên gọi đó là thiên ở trong chính; còn tâm tuy ác mà việc làm hóa ra thiện, đó là chính ở trong thiên vậy. Sự lý này không thể không hiểu cho thật rõ ràng.
Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn)? Kinh Dịch nói việc thiện mà chẳng tích lũy lại cho nhiều không đủ để được danh thơm tiếng tốt, việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để bị họa sát thân. Kinh Thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ vì thế mà Trụ vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho, còn biếng nhác không chịu tích lại thì vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi, bán hay mãn là như vậy.
Xưa có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại không có tiền, trong túi chỉ còn hai đồng bèn đem cả ra để cúng. Vị trụ trì đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài, phú quý có thừa, đến chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hòa thượng trụ trì sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi. Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi chỉ cúng dường có hai đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho, nay cúng dường cả ngàn lượng bạc mà sư lại không tự mình làm lễ là vì sao vậy? Vị hòa thượng đáp: Trước kia tiền bố thí quả là ít ỏi, nhưng phát xuất từ tấm lòng thật chân thành, nếu bần tăng không đích thân bái sám hồi hướng thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy thật quá hậu, nhưng tâm bố thí không được chân thành như trước, nên bảo đồ đệ thay bần tăng làm lễ cũng đủ. Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng mà việc thiện được viên mãn, còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà lòng không được chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi. Trên đây là một thuyết nói về làm thiện được bán và mãn hay vơi và đầy vậy.
Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có thể đem dùng để cứu giúp người đời. Lã Đồng Tân hỏi rằng vàng đó sau có thể biến chất hay không? Chung Ly Quyền bảo năm trăm năm sau vàng ấy sẽ trở lại nguyên bản chất cũ là sắt, thì họ Lã nói: Như vậy là sẽ gia hại cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng muốn học phép ấy làm gì. Chung Ly Quyền bảo: Muốn tu tiên cần phải tích công lũy đức 3000 điều, nhưng chỉ một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000 công đức rồi. Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán mãn vậy.
Hơn nữa, làm việc thiện mà tâm không hề chấp trước là mình làm thiện, cứ tùy theo công việc nào mình làm mà được thành tựu thì hành động đó gọi là mãn. Nếu tâm còn chấp việc mình làm là thiện thì dẫu cả đời chăm chỉ hành động cũng chỉ là bán thiện mà thôi. Giả như mang tiền tài cứu giúp người, nội tâm không nghĩ tới mình là người bố thí, ngoài mặt không cần biết người nhận tiền là ai, ở khoảng trung gian cũng không nghĩ tới số tài vật bố thí là bao nhiêu, đó gọi là tam luân thể không, bố thí với tấm lòng thanh tịnh như vậy thì một đấu thóc cũng có thể trồng thành vô lượng vô biên phúc đức, dù một xu cũng có thể tiêu diệt được tội nghiệp của ngàn kiếp trước. Nếu như còn tồn tâm nghĩ tới mình là người làm thiện, số tài vật đem bố thí và người nhận vật là ai, thì dù có vạn lượng bạc đem cho, phúc cũng không được viên mãn. Đây cũng là một thuyết nữa về bán hay mãn thiện, thiện đầy hay vơi.
Thế nào là đại và tiểu?Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn Lâm Viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm phủ. Diêm vương sai các phán quan trình những cuốn sổ ghi việc thiện và ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì sổ ghi những việc ác thực quá nhiều, còn sổ ghi việc thiện chỉ có một cuốn nhỏ mỏng như que đũa mà thôi. Diêm vương sai bắc lên cân, cân thử thì bên 1 cuốn sổ ghi việc thiện lại nặng nhiều hơn tất cả những cuốn sổ ghi việc ác hợp lại . Trọng Đạt nhân thế mới hỏi: Năm nay, bản chức chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại có thể nhiều đến như thế? Thì Diêm vương bảo: Mỗi một niệm ác kể là một tội không cần đợi tới lúc có thực sự phạm phải hay không. Trọng Đạt lại hỏi thêm là trong cuốn sổ nhỏ đó ghi việc thiện gì vậy. Diêm vương bảo: Triều đình đã từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn, nhà ngươi dâng sớ can gián. Sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy. Trọng Đạt thưa: Bản chức tuy có dâng sớ, nhưng triều đình không y theo lời tấu trình, thì sự việc đâu có ích gì? Thì Diêm vương lại bảo cho hay là: Triều đình không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà ngươi là vì lợi ích của toàn dân, muốn cho họ khỏi bị lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng, nếu mà lời tấu được triều đình y theo thì công đức của nhà ngươi thực vô cùng lớn lao. Cho nên nếu có chí nguyện làm việc lợi ích cho quốc gia thiên hạ, cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, còn nếu chỉ nghĩ làm lợi riêng cho thân mình thì tuy có làm nhiều mà công đức lại nhỏ vậy.
Thế nào là khó và dễ?Các vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục mình, muốn thắng được tâm mình thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi công trước. Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, tức là từ chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong.
Như ông họ Thư ở Giang Tây bỏ hết cả tiền lương gom góp trong hai năm dạy học đem nộp quan để trừ vào tiền thiếu nợ giúp cho hai vợ chồng nhà nọ được sum họp khỏi bị bắt đi làm gia nhân nhà người; đó đều có thể gọi là chỗ khó xả bỏ mà xả bỏ được. Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đã cao, không con nối dõi, lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến cho nạp làm thiếp, nhưng ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn được. Vậy nên phúc báo trời cho hưởng sẽ được hậu.
Phàm những người có tiền tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc thì thực là dễ, dễ mà chẳng làm là tự hủy hoại mình, người nghèo hèn khốn cùng muốn làm phúc thì thật là khó, khó nhưng mà làm được, đó mới thực là đáng quý vậy.
3.- Tùy duyên hết sức tu thập thiện
Tùy lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tùy hỷ công đức mà hành thiện, nếu phân biệt ra từng loại thì thật rất nhiều, nhưng đại khái có 10 loại như sau: thứ nhất, trợ giúp người cùng làm thiện; thứ hai, giữ lòng kính mến người; thứ ba, thành toàn việc thiện của người; thứ tư, khuyến khích người làm thiện; thứ năm, cứu người gặp nguy khốn; thứ sáu, kiến thiết, tu bổ có lợi ích lớn; thứ bảy, xả tài làm phúc; thứ tám, giữ gìn bảo hộ chánh pháp; thứ chín, kính trọng tôn trưởng; thứ mười, thương tiếc mạng sống loài vật.
Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện?Xưa vua Thuấn, lúc chưa tức vị, thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều tranh chiếm chỗ nước sâu nhiều cá, còn người già yếu phải tìm chỗ nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có lòng trắc ẩn bất nhẫn, bèn cũng tới đánh cá; thấy người nào cũng tranh giành chỗ, thì ông im lặng không đả động gì đến tánh xấu ấy, còn thấy người mà có lòng nhường chỗ thì ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người khác. Một năm sau, những người đánh cá ở những chỗ nước sâu, ai cũng có lòng nhường chỗ cho nhau mà không tranh giành nữa.
Ôi, vua Thuấn thực là sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo hóa được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân mình làm gương mẫu cho người khác tự sửa đổi lấy mình. Đây là chỗ khổ tâm và khéo dụng công của vua Thuấn vậy.
Bọn chúng ta ở đời mạt pháp này chẳng nên thấy mình có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người;
chẳng nên lấy chỗ hay giỏi của mình mà đem so sánh xét người; chẳng nên thấy mình có quyền năng thế lực mà làm khốn khó người; nếu mình có tài có trí cũng chẳng nên khoe khoang biểu lộ ra ngoài mà nên ẩn giấu ở bên trong coi như tài mình còn non, trí còn kém như không thực có gì hết, và thấy người có lỗi lầm thì bao dung ẩn nhẹm cho, tức ẩn ác dương thiện vậy.
Một là để cho người tự hối mà sửa lỗi, hai là để họ tự biết lỗi mà e dè úy kỵ không dám phóng túng làm càn. Nếu thấy người có chỗ hay tốt có thể chấp nhận học hỏi được thì dù là việc thiện nhỏ cũng nên ghi nhớ ngay, không những để tự mình học lấy chỗ hay của người, mà còn tán dương thuật lại cho mọi người cùng hay biết.
Phàm những việc làm thường ngày, một lời nói, một hành động hoàn toàn đều không nên vì lợi cho mình mà làm, nên đặt ra nguyên tắc nghĩ và làm lợi cho thiên hạ, đại chúng. Đây là chỗ độ lượng của người chính nhân quân tử coi thiên hạ là công mà mình là tư.
Thế nào là giữ lòng kính mến người?Người quân tử và tiểu nhân, nếu chỉ xét hình dáng bề ngoài thường có sự lẫn lộn khó phân biệt, duy có một điểm thiện ác khác nhau xa là ở chỗ tồn tâm biết giữ được lòng mình, và do đó mà phán xét thì trắng đen rõ ràng trái hẳn nhau; cho nên nói người quân tử sở dĩ khác người là ở chỗ tồn tâm vậy.
Chỗ tồn tâm của người quân tử chỉ là lòng tôn kính, yêu mến người. Đại khái con người ta ở đời có người thân sơ hay sang hèn, có người thông minh trí tuệ hay đần độn ngu si, có người hiền lương đạo đức hay phàm phu tục tử, hàng vạn vạn người chẳng ai giống ai, nhưng đều là đồng bào của ta, đều cùng một thể chất như ta, sao lại chẳng yêu kính ư? Thánh nhân, hiền nhân thường luôn kính trọng, thương yêu đại chúng làm lợi cho họ, nếu ta cũng kính yêu mọi người là trùng hợp với lòng của các vị thánh hiền, như vậy cũng như ta có lòng kính ái các vị ấy. Nếu như ta thông hiểu được chí nguyện của đại chúng tức là hiểu rõ được tâm ý của thánh hiền. Bởi vì chí nguyện của người đời là mong được lợi lạc an bình, mà tâm ý của thánh hiền vốn dĩ vẫn vì đại chúng mà làm cho họ được như ý muốn, đắc kỳ sở nguyện; lòng chúng ta nếu trùng hợp với lòng kính ái của thánh hiền mà làm cho đại chúng được an lạc tức là chúng ta đã vì thánh nhân và hiền nhân mà làm lợi lạc cho mọi người vậy.
Thế nào là thành toàn việc thiện của người?Một hòn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt sẽ vỡ tan như hòn ngói, nhưng nếu đem mài dũa, chạm trổ ắt sẽ thành khuê chương, hốt ngọc của vua quan. Cho nên phàm thấy người làm việc thiện, hoặc thấy ý chí và tư chất của họ có thể tiến thủ thành công thì đều nên khuyến dụ, trợ giúp họ; hoặc khen ngợi khích lệ, hoặc gìn giữ bao bọc họ; hoặc biện bạch hộ cho họ hay chia xẻ cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu họa phỉ báng họ, cốt sao giúp cho họ được thành công mà thôi.
Đại khái, con người thường không ưu thích những người không giống như mình, chẳng hạn như ác không ưu thiện, tiểu nhân không thích quân tử. Người trong một xóm làng, thiện thì ít mà xấu ác thì nhiều, vì thế người thiện ở đời bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng. Hơn nữa người hào kiệt, thông minh tài cán, tính tình cương trực không trọng bề ngoài, không ưu tiểu tiết nên hay bị người ta hiểu lầm mà chỉ trích phê bình; vì thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng mà người thiện thường bị nhạo báng, cười chê, chỉ duy có người trưởng giả nhân hậu mới hiểu rõ được sự tình mà phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành toàn cho người thì công đức thực là lớn lao vô cùng.
Thế nào là khuyến khích người làm thiện? Con người ta đã sinh ra làm người, ai mà không có lương tâm. Đường đời mênh mông mù mịt rất dễ bị sa đọa chìm đắm vì lợi danh. Đối với những người còn mải mê tham danh, tham lợi, tạo thành nghiệp ác, ta nên tìm cách để cảnh tỉnh họ cho thoát khỏi sự mê hoặc, cũng giống như họ đang trải qua một giấc mộng lớn trong đêm dài mà làm cho họ được thức tỉnh, hay giống như họ bị hãm vào vòng phiền não tích tụ từ lâu đời mà ta giúp họ trong trắng đoạn trừ, bại trừ hết thì ân huệ đó thật vô biên vô lượng.
Hàm Dũ, đời nhà Đường có nói: Uốn ba tấc lưỡi dùng lời nói mà khuyên người làm việc thiện chỉ là phương pháp nhất thời bởi có thể nghe tai này lọt qua tai khác rồi quên đi, còn muốn có hiệu quả dài lâu đến tận trăm năm về sau thì dùng văn thư sách vở để lại mà khuyên người đời làm lành tránh ác. Tuy nhiên, dùng lời nói hay sách vở khuyên người cũng giống như gặp bệnh nào thì phát thuốc trị bệnh ấy cho bệnh nhân kể cũng có hiệu lực nhưng còn lưu lại dấu vết, còn như dùng chính bản thân mình hành động làm mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên tỉnh ngộ biết được lỗi lầm mà sửa đổi thì hiệu quả cũng chẳng kém mà không để lại hình tích gì; cả hai phương tiện này đều chẳng thể bỏ qua. Muốn giúp người, khuyên người cần phải thông minh sáng suốt, biết tùy thời, tùy người không để mất lời tức phí lời nói của mình mà người không nghe, cũng không để mất người, tức là gặp người có thể khuyên cải được mà mình không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém hiểu biết, không có trí tuệ vậy.
Thế nào là cứu người lúc nguy cấp? Người ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai ương hoạn nạn xảy ra. Ngẫu nhiên mà ta gặp trường hợp người bị nạn thì coi sự đau khổ của người cũng như là mình đau mà mau mau cứu giúp; hoặc dùng lời nói làm nhẹ nỗi oan uổng uất ức cho họ, hoặc tìm mọi cách giúp họ khỏi sự thống khổ triền miên. Thôi Tử có nói: Làm ân không cần để ý tới là nhỏ hay lớn, chỉ cần lúc người gặp nguy khốn mà tới giải cứu, giúp đỡ ngay là được. Đó thực là lời nói của người có lòng nhân hậu, đạo đức vậy.
Thế nào là kiến thiết, tu bổ lợi ích lớn?Nhỏ như một thôn xóm, lớn như trong một huyện, phàm những công đức kiến thiết có lợi ích c
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Tâm tật đố bắt nguồn từ lòng dạ hẹp hòi, ích kỷ, nhìn thấy phẩm hạnh, tài năng của người khác vượt trên mình thì trong lòng buồn bực, sinh tâm oán hận từ đó làm ra những chuyện thương Thiên hại lý. Tuy nhiên nếu biết cách sửa sai, hành thiện tích đức thì có thể chuyển họa thành phúc. Người hành sự, Trời đang nhìn!.
Tưởng Viện, một vị đại phu thời kỳ Xuân Thu chiến quốc nước Tống có 10 người con trai, một người lưng gù, một người què chân, một người teo tứ chi, một người hai chân tàn tật, một người điên, một người ngốc, một người tai điếc, một người mắt mù, một người câm, một người chết trong ngục.
Công Minh Tử Cao nhìn thấy tình cảnh này liền hỏi Tưởng Viện: “Đại phu lúc bình thường đã làm những chuyện gì, mà dẫn tới việc chiêu mời tai họa kỳ lạ như vậy?”
Tưởng Viện nói: “Ta tự nghĩ xưa nay cũng chưa làm việc xấu gì lớn, chỉ là trong tâm thường hay đố kỵ với người khác. Thấy ai tốt hơn ta liền đố kỵ, oán hận người đó; nếu có người tâng bốc ta, trong tâm ta rất vui vẻ; nghe thấy người khác làm việc thiện thì nghi ngờ không tin, nghe thấy người khác làm việc xấu thì tin chắc như đinh đóng cột; thấy người khác được lợi thì giống như bản thân mình đã mất đi thứ gì đó; thấy người khác bị tổn thất thì giống như mình đã được lợi vậy. Đây chính là thái độ làm người của ta”.
Tử Cao than rằng: “Đại phu ôm giữ tâm thái như vậy, như thế tâm thuật bất chính, e rằng không lâu sau sẽ chiêu mời họa diệt môn, ác báo đâu chỉ là những điều nhìn thấy trước mắt này!”
Tưởng Viện nghe Tử Cao nói vậy cảm thấy vô cùng sợ hãi, không biết nên làm thế nào cho phải. Tử Cao lại nói: “Trời tuy ở cao xa mà lại có thể nhìn rõ mọi việc, nếu ngài quyết tâm sửa chữa sai lầm, thành tâm hướng thiện, nhất định sẽ chuyển họa thành phúc, sửa chữa từ bây giờ vẫn còn kịp”.
Tưởng Viện từ đó đã thay đổi thói xấu tật đố, tự răn đe mình, hành thiện tích đức, tiến cử hiền tài. Vài năm sau, các con ông dần dần khỏi bệnh.
Quả thật, nhân quả báo ứng không sai chút nào, Thiên lý khắc chế tất cả. Làm người phải biết tôn trọng và kính yêu, có tấm lòng bao dung với mọi người với vạn vật, không có chút ngăn trở của tâm tật đố mới có thể thực sự dùng thiện đãi người.
Tưởng Viện tật đố hiền tài, lòng dạ hẹp hòi, tâm thái ông ta như vậy sẽ ứng với quả báo nào? Ông không chỉ tạo nghiệp cho bản thân, mà còn lưu lại họa hại cho người đời sau.
Sau khi Tưởng Viện sửa sai quy thiện đã chuyển họa thành phúc, chuyện này cũng giống như câu cổ ngữ nói rằng:
Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh.
Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương
Nghĩa là: Nhà mà tích thiện, ắt sẽ dư dả. Nhà không tích thiện, ắt lắm tai ương.
Ảnh minh họa |
Núi này thường sinh huyệt chân long, vị trí ở bên trái minh đường trước mộ nên gọi là “Tả Phụ”.
Núi Tả Phụ thường nằm bên cạnh núi Vũ Khúc, nó có khá nhiều điểm giống với núi này. Núi cao như chuông úp là núi Vũ Khúc, núi thấp bên cạnh là núi Tả Phụ.
Núi Tả Phụ nhỏ nhắn, tròn đầy là địa thế đẹp. Nếu núi kéo dài thành dáng bình phong lại càng tốt. Núi Tả Phụ có càng nhiều núi hộ vệ thì long mạch rất tốt.
Nếu núi Tả Phụ liên tiếp như tường thành, có thể bao bọc hết huyệt mộ thì long thế lớn kết huyệt quý. Trường hợp là cát tinh (núi cát) kết huyệt không có núi Tả Phụ bảo vệ, chứng tỏ long mạch chưa lập. Nếu kết huyệt cũng không quý. Trong “Hám Long Kinh” có viết: “Núi Tham Lang, núi Cự Môn không có núi Tả Phụ, núi Hữu Bật hộ vệ thì không giữ được long mạch”.
Núi Tả Phụ thuộc hành Kim. Bản thân núi không cát cũng không hung. Vậy nên kết hợp với cát tinh thì cát, kết hợp với hung tinh thì hung. Dương trạch cũng vậy.
Theo Bí ẩn thời vận
Cùng đi xét chi tiết sự kết duyên giữa Ất Sửu ( 1985 ) và Canh Ngọ ( 1990) để hiểu rõ hơn về mối lương duyên này.
Về tổng quan : Cặp đôi này gặp số Nhị Bần Tiện, gia cảnh bước đầu có đôi chút thiếu thốn, về sau khá hơn. Cần có kế hoạch làm ăn tiết kiệm để tránh của cái hao tốn . Con đầu là con gái thì hợp cha mẹ, vật dụng trong nhà chỉ tạm đủ dùng.
Người vợ hay bôn ba, tính thẳng cộc, ưa giao thiệp, hay lo lắng, dễ tin người. Vợ chồng ít hòa hợp, cần thương lẫn nhau chung lo làm ăn cuộc sống ngày càng khá giả.
Vậy cùng đi chi tiết luận giải giữa trên các yếu tố bản mệnh ngũ hành, thiên can địa chi và bát trạch nhân duyên để cân đo mức độ hòa hợp của cặp vợ chồng tuổi này.
Xét về bản mệnh ngũ hành người chồng mệnh Kim người vợ mệnh thổ hai vợ chồng thuộc hảo phu thê tầm đầu ý hợp, con cháu vui vầy ngoan ngoãn, hiếu thuận. Nhà cửa lúc nào cũng tràn ngập niềm vui. Phúc đức tự đến.
Xét về thiên can một người can Ất một người can Canh hợp nhau hỗ trợ cho nhau trong làm ăn.
Xét về mặt địa chi tuổi Sửu và tuổi Ngọ kết hợp với nhau hơi xấu. Theo kinh dịch thì hai tuổi này tương hại, bản thân của nó có nghĩa là một cuộc hôn nhân không thuận, thiếu đi sự hòa hợp của đôi lứa. Trong gia đình không khí lúc nào cũng u uất, trầm lắng. Họ hàng, cha mẹ cũng thường không thích quan hệ của cặp đôi này
Xét trên Bát Trạch Nhân Duyên thì hai tuổi này gặp cung Thiên Y thuộc sao Cự Môn tốt cho sức khỏe, sự nghiệp.
Như vậy có thể thấy nếu xét chi tiết nhiều yếu tố thì không có cặp vợ chồng nào hoàn hảo, chi bằng lựa nhau mà sống, để có cuộc sống hòa thuận lâu bền.
Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn là 1 trong 3 chùa có cùng tên Linh Ứng tại Đà Nẵng: Chùa Linh Ứng Bãi Bụt và Chùa Linh Ứng Bà Nà. Ngũ Hành Sơn là một thắng cảnh bậc nhất ở miền Trung xưa nay. Vua Minh Mạng đặt tên các núi này là Ngũ Hành Sơn: Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn.
Chùa cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 8 km về phía Đông Nam. Chùa còn được gọi là chùa Ngoài (chùa Trong là Chùa Tam Thai). Tọa lạc trên một khu đất rộng, bằng phẳng phía đông hòn Thủy Sơn thuộc quần thể khu di tích danh thắng Ngũ Hành Sơn, bên phải là Vọng Hải Đài, bên trái là hang Ngũ Cốc. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn là một ngôi chùa cổ, có giá trị lịch sử cao. Vào đời Gia Long, chùa được xây và đặt tên Ứng Chân. Vào đời Vua Lê Hiển Tông, ncó Hòa thượng Quang Chánh (hiệu Bảo Đài) đến tu tại động Tàng Chân. Ngài dựng am Dưỡng Chân, sau sửa chữa lại gọi là Dưỡng Chân đường. Đến đời Gia Long, Dưỡng Chân đường được đổi thành chùa Ứng Chân. Sau khi Vua Minh Mạng đến vãng cảnh chùa đầu tiên vào năm 1825 thì các ngôi chùa tranh tre ở đây mới được thay bằng gạch ngói. Vua đã ban cho chùa tấm biển có ghi Ngự chế Ứng Chân Tự, Minh Mạng lục niên. Đến đời Thành Thái, do kỵ húy tên một vị vua nhà Nguyễn nên chùa được đổi tên là Linh Ứng. Chùa còn tấm biển ghi Cải tứ Linh Ứng Tự, Thành Thái tam niên.
Chùa cũng đã qua trùng tu nhiều lần nhưng ngôi chùa vẫn giữ được những nét cổ kính và hài hòa với quan cảnh thiên nhiên. Đường lên sân chính thẳng hướng gian Tam Bảo chùa Linh Ứng, là tôn tượng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni bằng đá trắng nguyên khối.
Ngài an tọa kiết già, hướng nhìn thẳng đường lên từ những bậc thang đá, phía trước là một hồ nước nhân tạo nhỏ xinh, xung quanh xanh mướt cỏ cây, sắc núi… Tới khoảng sân trước gian Chính điện chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn, phía bên trái là Vườn tháp nhuốm đậm màu thời gian, rêu phong bám đầy. Lối đi bên hông phải gian Chính điện, chếch bên trái Vườn tháp dẫn đến Động Tàng Chơn. Chánh điện chùa được xây kiểu chữ “Nhất”, bên phải là nhà tổ, giảng đường, nhà khách, nhà thiền và nhà trù. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm.
Từ nơi tôn tượng Đức Phật Bổn Sư, theo phía tay phải, đi chừng vài chục mét dẫn tới một hang nhỏ, nơi có tôn tượng Đức Phật A Di Đà đứng trên đài sen, tay trái Ngài bắt kiết ấn hướng lên trời, cánh tay phải buông nhẹ với bàn tay để mở hướng xuống đất.
Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Chùa Có vị trị địa lý thuận lợi là nằm trong khu danh thắng Ngũ Hành Sơn, chùa Linh Ứng và Tam Thai đã đón tiếp đông đảo du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái hằng ngày.
Hôm nay 2/2 (tức mùng 6 tháng giêng âm lịch), hàng trăm người dân Thủ đô đến chùa Phúc Khánh (Tây Sơn, Hà Nội) làm thủ tục đăng ký dâng sao giải hạn và dự khóa lễ cầu an lớn nhất trong năm
Chùa Phúc Khánh là nơi thực hiện nghi lễ dâng sao giải hạn quen thuộc của người dân Thủ đô. Chính vì vậy, nơi đây hàng năm có hàng nghìn lượt người tìm tới chùa để dâng sao giải hạn theo quan niệm tâm linh riêng.
Hôm nay cũng là ngày đầu đi làm sau kì nghỉ Tết, mọi người đến chùa để lễ Phật, cầu bình an, may mắn
Trong khuôn viên, nhà chùa đã bố trí nhiều cột xem sao chiếu mệnh và các bàn phục vụ đăng ký để dâng sao tốt và giải sao xấu để người dân đến lễ chùa biết năm nay mình bị sao xấu hay sao tốt
Việc dâng sao giải hạn được thực hiện trong một số ngày tương ứng với từng sao chiếu, bắt đầu từ ngày mùng 8 trở đi. Tuy nhiên, ngay từ mấy ngày trước, nhiều người đã đến chùa xem sao chiếu mệnh và đăng ký sao giải hạn
Nhiều người chăm chú theo dõi bảng giải thích sao chiếu mệnh trong năm 2017 của nhà chùa dán trên cột
Sao xấu dán trên cột sẽ được tô màu nổi bật khác thường để mọi người dễ dàng nhận diện
Sau khi xem, người dân bắt đầu ghi ra giấy để đăng ký dâng sao giải hạn
Bên trong chùa, người dân phải xếp hàng chờ đến lượt đăng ký và chuẩn bị sẵn tiền dâng lệ phí. Chùa Phúc Khánh bố trí nhiều bàn đăng ký, phục vụ người dân làm lễ cả ở bên trong lẫn phía bên ngoài Chùa để phục vụ tốt nhất cho người dân. Phí cầu an cho đại gia đình là 150.000 đồng. Riêng đối với lễ giải sao La Hầu, Thái Bạch, Kế Đô là 150.000 đồng/người, tăng 50.000 đồng so với năm ngoái
Đi chùa, nhiều người cũng "bốc quẻ" để xem trong năm sẽ diễn ra như thế nào.
Trước Tam Bảo trong chùa Phúc Khánh, rất đông người hành lễ.
Sao chiếu mệnh và dâng sao giải hạn là quan niệm tâm linh riêng của khá nhiều người, không có trong phong tục Việt Nam và không chính thức tồn tại trong các nghi lễ của đạo Phật. Tuy nhiên, dâng sao giải hạn vẫn được nhiều người Việt thực hiện và coi như là biện pháp tâm linh để cầu mong những điều may mắn đến với bản thân, gia đình, cộng đồng, tránh những vận hạn không tốt.
Phương Vị: Bắc Đẩu TinhTính: ÂmHành: ThủyLoại: Ám TinhĐặc Tính: Ngôn ngữ, thị phiTên gọi tắt thường gặp: Cự
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 4 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Vị Trí Ở Các Cung
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Chùa Thánh Chúa nằm trong khuôn viên trường ĐH Quốc gia Hà Nội và trường ĐH Sư phạm I Hà Nội (quận Cầu Giấy, Hà Nội). Từ cổng số 1 hoặc cổng số 2 trường Đại học Sư phạm Hà Nội tại địa chỉ 136 đường Xuân Thuỷ, phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy, đi một quãng, đến gần sân vận động của trường, sẽ thấy cổng chùa Thánh Chúa với tấm biển lớn bằng đá hoa cương: Bộ Văn hoá – Chùa Thánh Chúa – Di tích lịch sử văn hoá đã xếp hạng. Ngôi chùa này được Bộ Văn hoá và Thông tin công nhận di tích lịch sử – văn hoá cấp quốc gia vào ngày 21-1-1989.
Nơi đây còn lưu câu ca dao:
Ngàn năm nay có mấy chùa/ Có chùa Thánh Chúa hai vua tôn thờ
Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì chùa đã có từ trước năm 1064, đã là nơi lui tới của hai vua triều Lý và triều Lê. Chùa được xây dựng thời Lý, trước năm 1064, tại làng Vòng, một làng cổ, nơi sản sinh ra cốm Vòng nổi tiếng. Sau chùa trở thành di tích chung của hai phường Dịch Vọng và Mai Dịch, quận Cầu Giấy.
Tương truyền, lúc bấy giờ vua xuân thu đã nhiều, tuổi 40 mà chưa có con trai nối dõi, sai tri hậu nội thần Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó Ỷ Lan phu nhân có mang sinh hoàng tử Càn Đức – tức Nhân Tông”. Theo sử sách ghi lại, gần 400 năm sau, chùa lại là nơi ẩn tích của bà Ngô Thị Ngọc Giao cùng con là thái tử Lê Tư Thành, bởi loạn Nghi Dân. Sau loạn, thái tử được hai vị tôi trung thành của triều đình là Đinh Liệt và Nguyễn Xí rước về lên ngôi hiệu là Lê Thánh Tông. Sau vua nhớ ơn đã phong tặng cho sư sãi và trùng tu lại chùa.
Ngày nay chùa có cảnh quang khang trang, thanh tịnh. Tam quan xây hai tầng, tầng trên có 3 cửa tò vò treo chuông, khánh. Chùa xây hình chữ Đinh, tiền đường 7 gian, đầu hồi bít đốc, bộ vì nóc kiểu “chồng giường giá chiêng“. Trên kiến trúc trang trí các hình rồng, phượng, hổ phù.
Chùa thờ Phật với hệ thống tượng khá phong phú (77 pho) gồm cả tượng gỗ và tượng đất nung, trong đó có nhiều pho tượng mang phong cách thế kỉ thứ 17. Các hiện vật gỗ sơn son thiếp vàng, chạm trổ tinh tế. Điện Mẫu còn có một số pho tượng mang phong cách nghệ thuật thế kỳ 19 có giá trị cao. Trong chùa còn có đồ thờ tự như hoành phi, câu đối, bia đá, chuông đồng phản ánh phong cách nghệ thuật của các thế kỹ 17 – 20.
Trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm sau này, chùa Thánh Chúa còn là nơi tập kết của nghĩa quân, là nơi đề ra kế hoạch phục giết tên quan năm Pháp ngày 19 tháng 5 năm 1883. Đây cũng là nơi tập kết của du kích hồi kháng chiến 9 năm, là trạm giao liên, là trụ sở của Quận uỷ Trấn Tây, địa điểm liên lạc giữa Quận uỷ và Thành uỷ Hà Nội, giữa vùng tạm chiến và vùng tự do.
Hằng năm, chùa Thánh Chúa tụ hội vào ngày 25 tháng giêng âm lịch. Đó là dịp nhiều hoạt động văn hoá cổ truyền được triển khai đồng loạt: hát chèo đò Đưa thuyền về Tây Trúc, hát chèo tích Phật, múa hoa sen, múa chim phượng, cùng cả loạt trò chơi dân gian mang tính thể thao như bắt chạch trong chum, bịt mắt đập niêu, thi đấu cờ bỏi, v.v.
Chùa Thánh Chúa và hội chùa là một nét đẹp của di sản văn hoá, một dấu tích của Thủ đô ngàn năm văn hiến.
Nếu vợ chồng không thống nhất về màu sắc cho phòng ngủ, bạn hãy lựa chọn các tông trung tính như xám ghi, nâu, be, trắng... Sau đó, bạn hãy lựa thêm một vài điểm nhấn để không gian sinh động hơn.
Sắc đỏ, tím luôn gợi tới sự nóng bỏng, lãng mạn, phù hợp với không gian phòng ngủ. |
Màu sắc tươi sáng sẽ giúp cho ngôi nhà có cảm giác thoáng đãng. Các cặp vợ chồng trẻ nên bổ sung thêm họa tiết hoa lá hay màu tươi sáng ở các đồ như gối dựa, đèn, chăn ga. |
Nếu sử dụng tông màu trầm, bạn có thể bố trí thêm gương khổ lớn ở vị trí phù hợp giúp phòng có cảm giác rộng hơn. |
Những chi tiết vàng đồng đem lại nét sang trọng cho không gian sử dụng nhiều nội thất mộc mạc. |
Nếu bên ngoài có khung cảnh đẹp, bạn nên mở cửa sổ cao từ sàn tới trần nhà. |
Trong căn phòng đơn giản với sắc nâu và ghi xám, vài chi tiết nhỏ như rèm cửa hay hoa sẽ khiến không gian nhẹ nhàng hơn. |
Tông màu be chủ đạo cùng chiếc đèn chùm lộng lẫy khiến phòng trông sang trọng như ở khách sạn. |
Nếu bạn là người thích sự chỉn chu, ngăn nắp, căn phòng có sự đối xứng cửa sổ, bàn, gương... sẽ là lựa chọn phù hợp. |
Màu xanh nhạt đem lại cảm giác bình yên, sự thư giãn cần có cho không gian nghỉ ngơi của hai vợ chồng. |
Lam Huyền (Theo Karmastream)
Sau khi đã thiết lập được tinh bàn (hay trạch vận) cho 1 căn nhà thì điều trước tiên là phải xác định được những khu vực nào có sinh –vượng khí, cũng như những khu vực nào có suy - tử khí của căn nhà đó. Điều này cũng rất dễ dàng, vì chỉ cần căn cứ vào thời điểm lúc đang coi Phong thủy cho căn nhà là thuộc vận nào, rồi lấy vận đó làm chuẩn mốc. Kế đó nhìn vào hết 9 cung của trạch bàn.
Hễ thấy cung nào có Hướng tinh cùng 1 số với đương Vận (tức vận hiện tại) thì khu vực đó được xem là có VƯỢNG KHÍ. Những cung nào có 2 số tiếp theo sau vượng khí thì được xem là có SINH KHÍ. Những cung nào có số trước số của vượng khí thì bị coi là có SUY KHÍ. Còn những cung nào có những số trước vượng khí từ 2 số trở lên thì đều bị coi là có TỬ KHÍ. Những điều này được áp dụng cho cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh, còn Vận tinh thì không mấy quan trọng nên không cần phải xét tới.
Thí dụ 1: Nhà tọa TÝ hướng NGỌ, xây xong và vào ở trong vận 8.
Nếu lập trạch vận thì sẽ thấy Hướng tinh 8 tới phía NAM, nên phía NAM được xem là đắc VƯỢNG KHÍ (vì hướng tinh cùng 1 số với đương Vận, tức Vận 8). Còn phía ĐÔNG BẮC có hướng tinh số 9, phía TÂY có hướng tinh số 1, tức là 2 số tiếp theo sau số 8 (vì sau 8 là 9, sau 9 lại trở về 1) nên là 2 khu vực có SINH KHÍ. Còn phía BẮC có hướng tinh số 7, trước số 8 (đương vận) 1 số nên là khu vực có SUY KHÍ. Những phía còn lại có những hướng tinh 6, 5, 4, 3, 2, tức là những số trước số 8 tối thiểu là 2 số nên đều là những khu vực có TỬ KHÍ. Đó là mới chỉ xét về Hướng tinh. Sau đó lần lượt làm như vậy với Sơn tinh để tìm ra những khu vực có Sinh- Vượng khí hay Suy-Tử khí.
Thí dụ 2: Cũng nhà tọa TÝ hướng NGỌ, xây xong và vào ở năm 2000 (tức vận 7).
Đến năm 2007 mới coi Phong thủy. Vì nhà còn mới, chưa tu sửa gì nhiều, chủ nhà cũng chưa bao giờ đi xa quá 1 tháng, cho nên khi lập trạch vận thì vẫn phải dùng Vận 7 để lập Vận bàn. Sau đó lấy Tọa, Hướng bàn thì sẽ thấy Hướng tinh 7 tới phía BẮC, Hướng tinh 8 tới phía TÂY NAM. Hướng tinh 9 tới phía ĐÔNG, Hướng tinh 1 tới phía ĐÔNG NAM. Vì nhà này nhập trạch trong vận 7, nên lúc đó phía BẮC có Hướng tinh số 7, nên là 1 khu vực tốt (đắc VƯỢNG KHÍ). Còn phía ĐÔNG NAM có Hướng tinh số 1, lúc đó trong Vận 7 còn là Tử khí nên là 1 khu vực xấu. Nhưng đến năm 2007 mới coi Phong thủy thì đã qua Vận 8, nên lúc đó khu vực phía BẮC có số 7 là bị SUY KHÍ, nên đã biến thành xấu. Còn khu vực phía TÂY NAM có hướng tinh số 8, lúc này đã trở thành VƯỢNG KHÍ, nên là khu vực tốt nhất của căn nhà. Rồi Hướng tinh số 1 đang là TỬ KHÍ của vận 7 trở thành SINH KHÍ của vận 8, nên khu vực phía ĐÔNG NAM cũng đang từ xấu mà biến thành tốt.
Cho nên sự biến đổi của Sơn, Hướng tinh: từ Sinh-Vượng thành Suy-Tử, rồi từ Suy-Tử trở thành Sinh-Vượng là điều mà người học Huyền Không cần để ý, và nó cũng là 1 trong những yếu tố giúp cho việc giải đoán Phong thủy thêm phần linh hoạt và uyển chuyển, chính xác hơn.
Sau khi đã phân biệt Cửu khí thành SINH-VƯỢNG-SUY-TỬ cho mỗi vận thì mới xét tới mức độ ảnh hưởng của chúng như sau:
- SINH KHÍ: có tác dụng tốt, tuy ảnh hưởng lâu dài và trong tương lai, nhưng cũng cần được phát huy.
- VƯỢNG KHÍ: có tác dụng tốt đẹp và mau chóng, nhất là trong lúc còn đương vận, cho nên cần được phát huy càng sớm càng tốt.
- SUY KHÍ: vì chỉ là khí suy nên tác dụng cũng chưa đến nổi xấu lắm (ngoại trừ các khí 2, 5, 7) cho nên tuy cần phải né tránh nhưng cũng không phải là tuyệt đối.
- TỬ KHÍ: là những khí xấu cần phải né tránh, nếu không sẽ có tai họa về nhân sự, sức khỏe hoặc tiền bạc.
Kế đó lại còn phải phân biệt những khí SINH-VƯỢNG-SUY-TỬ đó là Sơn tinh hay Hướng tinh. Nếu là Sơn tinh thì sẽ có ảnh hưởng đến nhân sự (số lượng người nhiều, ít, tài giỏi hay không...trong nhà). Nếu là Hướng tinh thì sẽ có ảnh hưởng đến sức khỏe và tài lộc của gia đình đó.
Trong “Thiên ngọc kinh Ngoại thiên” của Dương công Chẩm có viết: “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc”. Chữ “Sơn” ở đây không chỉ có nghĩa là “núi”, mà còn là Sơn tinh của 1 trạch vận. Cũng như chữ “Thủy” không chỉ có ý nghĩa là “sông nước”, mà còn là Hướng tinh (do quan niệm phương tọa cần có núi, phía trước cần có thủy). Cho nên Sơn tinh chủ về nhân đinh, còn Hướng tinh chủ về tài lộc.
Vì đã gọi là “Sơn”, nên Sơn tinh nếu muốn phát huy tác dụng (hay đắc cách) thì cần phải có núi cao (hay nhà hoặc cây cao...). Vì đã gọi là “Thủy”, nên Hướng tinh nếu muốn phát huy tác dụng thì cần phải gặp nước (thủy). Nhưng không phải Sơn tinh nào cũng cần phải gặp núi, mà chỉ có những Sơn tinh đang là khí Sinh, Vượng mà thôi. Chẳng hạn như trong vận 1 thì các Sơn tinh 1 (vượng khí), 2, 3 (sinh khí) đóng ở khu vực nào thì cần có núi hay nhà cao ở tại khu vực đó. Có như vậy thì gia đình đó nhân đinh đông đúc, lại chủ xuất hiện người tài giỏi, có danh, có tiếng. Ngược lại, những khu vực có những Sơn tinh là Suy khí hay Tử khí thì lại cần thấp, trống hay bằng phẳng. Nếu tại những khu vực đó mà có núi hay nhà cao... thì sẽ có tai họa về nhân đinh như hiếm người, con cái khó lấy chồng, lấy vợ, hoặc trong nhà xuất hiện cảnh chia ly, góa bụa, cô quả...
Đó chỉ là riêng đối với các trường hợp khí SINH, VƯỢNG, SUY, TỬ của Sơn tinh. Còn đối với các trường hợp của Hướng tinh cũng thế. Tuy rằng Hướng tinh cần có Thủy, nhưng chỉ những khu vực nào có Sinh khí hay Vượng khí của Hướng tinh mới cần có Thủy như sông, hồ, ao, biển hoặc buồng tắm, nhà vệ sinh, đường xá, cửa ra vào... Nếu được như thế thì tài lộc dồi dào, của cải sung túc, công việc làm ăn ổn định... Ngược lại, nếu những khu vực có Suy, Tử khí của Hướng tinh mà lại có “THỦY” thì nhà đó tài lộc túng thiếu, dễ bị hao tán tiền của, công ăn việc làm lụn bại...
Thí dụ: nhà hướng 30 độ, tức tọa MÙI hướng SỬU, vào ở trong vận 8.
Nếu lập Trạch vận thì sẽ thấy các Hướng tinh 8 (Vượng khí), 9, 1 (Sinh khí) ở các khu vực phía ĐÔNG BẮC, TÂY và TÂY BẮC. Cho nên những khu vực này (bên trong hay bên ngoài nhà) cần có thủy của sông hồ, ao biển, buồng tắm, cửa ra vào ... Còn khu vực phía NAM có hướng tinh 7 (Suy khí) nên không nên có thủy, nếu có tất nhà sẽ dễ bị trộm cướp quấy phá. Những khu vực còn lại cũng toàn là Tử khí của Hướng tinh nên đều không nên có thủy hoặc cửa ra vào.
Kế đó lại xét tới những trường hợp của các Sơn tinh. Vì các Sơn tinh số 8 (Vượng khí), 9, 1 (Sinh khí) nằm tại các khu vực phía TÂY NAM, BẮC và NAM, nên nếu những khu vực này mà có núi hay nhà cao... thì nhà này sẽ đông con, nhiều cháu, con cái tài giỏi, nên người... Các khu vực còn lại thì chỉ toàn là Suy khí hay Tử khí của Sơn tinh, nên nếu có núi hay nhà cao tất sẽ làm phương hại tới nhân đinh của căn nhà này.
Sau khi đã biết và phân biệt được những yếu tố trên rồi mới có thề xét tới trường hợp cơ bản đầu tiên của Phong thủy Huyền Không là Vượng sơn, Vượng hướng. Như chúng ta đã biết, Phong thủy bắt đầu từ Hình tượng, rồi sau này mới phát triển lên tới Lý khí và Vận số. Mà Hình tượng phái (tức Loan đầu phái) thường chủ trương nhà cần có núi bao bọc, che chở nơi phía sau (Huyền Vũ), còn phía trước thì cần phải trống thoáng, có sông, hồ phản chiếu ánh sáng để tích tụ Long khí (Chu Tước), đồng thời có cửa ra vào để hấp thụ Long khí. Còn đối với Phong thủy Huyền không thì khi cất nhà phải chọn hướng như thế nào cho Vượng khí của Hướng tinh tới Hướng (tức phía trước), còn Vượng khí của Sơn tinh tới phía sau. Phối hợp giữa Hình tượng với Lý khí (tức phi tinh) thì nhà này sẽ có Vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, đắc Thủy của sông hồ, lại có lối ngõ, cửa nẻo vào nhà nên tài lộc đại vượng. Còn Vượng khí của Sơn tinh tới phía sau gặp núi nên chủ vượng nhân đinh, con cháu đông đúc, nhân tài xuất hiện nên là cách cục “phúc lộc song toàn”. Cho nên Vượng Sơn, Vượng Hướng (còn gọi là ĐÁO SƠN, ĐÁO HƯỚNG, vì vượng khí của Sơn tinh tới tọa, vượng khí của Hướng tinh tới hướng) là cách cục cơ bản của Phong thủy và Huyền Không. Những nhà có cách cục như vậy còn được gọi là những nhà có “Châu bảo tuyến” (hướng nhà quý như châu báu). Điểm quan trọng của những trường hợp này là giữa hình thế bên ngoài (Loan đầu) và phi tinh có sự tương phối thích hợp. Ngược lại, nếu 1 căn nhà phía trước cũng có sông hồ, phía sau cũng có núi cao. Nhưng do việc chọn hướng không thích hợp, hoặc do xây dựng không đúng lúc mà khi lập Trạch vận thì Vượng khí của Sơn tinh lại tới hướng (phía trước), còn vượng khí của Hướng tinh lại tới tọa (phía sau) thì tuy hình thế chung quanh của ngôi nhà là tốt, nhưng do không ứng hợp được với phi tinh nên lại chủ phá tài, tổn đinh, tan cửa nát nhà mà thôi. Đây còn gọi là cách cục “Thượng sơn, Hạ thủy” sẽ nói ở 1 phần khác.
Một điểm cần chú ý trong cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng" (hay "Đáo Sơn, Đáo Hướng”) này là tuy trên lý thuyết thì các nhà Phong thủy thường coi những nhà có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, còn vượng khí của Sơn tinh tới phía sau nhà là cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng”. Nhưng điều quan trọng là ngoại hình bên ngoài của căn nhà (Loan đầu) có phù hợp với vượng khí của Sơn và Hướng tinh hay không? Nếu phù hợp thì mới thật sự là cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng”, và nhà mới phát phúc, phát lộc. Còn nếu ngoại hình không phù hợp thì sẽ biến thành cách cục “Thượng Sơn, Hạ Thủy” mà gây ra hung họa đầy dãy. Nhưng thế nào là phù hợp hay không phù hợp? Như chúng ta đã biết, Sơn tinh mà muốn đắc cách thì phải đóng ở những khu vực có núi cao. Còn Hướng tinh mà muốn đắc cách thì phải đóng ở những khu vực có Thủy như sông biển hoặc đường đi hay cửa nẻo ra vào nhà... Cho nên những nhà mà có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước thì còn đòi hỏi khu vực phía trước của nhà đó phải trống, thoáng, có thủy hay đường đi, cửa ra vào... Còn vượng khí của Sơn tinh đến phía sau cũng đòi hỏi khu vực phía sau nhà có núi hay nhà cao... Có như thế mới được coi là thật sự đắc cách “Đáo Sơn, Đáo Hướng” mà đinh, tài đều vượng. Ngược lại, nếu như nhà đó có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, nhưng phía trước nhà lại có núi hay nhà cao, hoặc bị gò đất nhô lên, hay bị cây cối rậm rạp, um tùm che chắn... tức là vượng khí của Hướng tinh không gặp “Thủy” mà lại gặp “Sơn”. Còn vượng khí của Sơn tinh tuy tới phía sau, nhưng phía sau nhà lại không có núi hay nhà cao, mà lại có sông, hồ, ao, biển, hoặc cống rãnh..., tức là vượng khí của Sơn tinh không gặp “Sơn” mà lại gặp “Thủy”. Đó đều là những cách cục suy bại về tài lộc và nhân đinh. Cho nên mới nói giữa phi tinh và ngoại hình Loan đầu bên ngoài phải có sự phù hợp là như vậy. Nếu phù hợp thì mới thật sự là “vượng”, và mọi sự mới được tốt đẹp. Còn nếu như trái ngược (tức không phù hợp) thì dù có “vượng” cũng sẽ thành “suy” và phát sinh ra muôn vàn tai họa.
Ảnh minh họa |
Trong cuộc sống mội người ai ai cũng từng ít nhất trải qua ít nhất là một mốt tình, có người còn trải qua 3 đến 5 cuộc tình. Dù dài ngắn khác nhau những mỗi cuộc tinh đều mang lại cho bạn những thứ tình cảm và khoảng khắc không giống nhau. Song, chuyện tình cảm không giống như sự nghiệp, không phải ai cố gắng thì đều được thành công, không phải khi nào kiên trì và chân thành thì đều được đáp trả. Bởi ái tình là sự cảm nhận của hai người trong cuộc sống, biết đâu chúng ta gặp nhau nhiều lần nhưng trái tim không cùng chung nhịp đập, biết đâu đó chỉ là sự rung động nhất thời của một người.
Trong khía cạnh của nhân tướng học thì người con gái mà có 5 đặc điểm sau trên khuôn mặt thường là người lụy tình, có thể hiểu theo khía cạnh: họ là người rất chung tình, trước sau như một. Vì thế nên họ thường là người chịu nhiều đau khổ hơn trong chuyện tình cảm. Cùng nhau xem bói xem bạn có đặc điểm nào dưới đây không nhé.
Nếu bạn đã có người thương, cùng xem bói giật mắt để biết người ấy đang nghĩ gì về bạn nhé!
Con gái ai cũng mong mình có làn da mịn màng tươi sang, nhưng nhìn từ góc độ nhân tướng học thì những người có da mặt mỏng thường là kiểu người sống tinh tế, đời sống tình cảm phong phú. Những người này thường rất đẽ rung động, nhưng khi đã vướng vào chuyện tình cảm thì sẽ yêu điên cuồng, bất chấp. Họ toàn tâm toàn ý yêu người đó, không một chút tính toán, nên thường nhận lại nhiều đau thương.
Nếu bạn để ý sẽ thấy có khá nhiều người có hai mắt to nhỏ không đều nhau. Những người như thế nào thường một khi đã thích việc gì thì rất quan tâm săn sóc, nhất là trong chuyện tình cảm. Nếu không may chuyện tình cảm tan vỡ thì họ là người chịu nhiều tổn thương nhấy, thâm chí họ còn tự làm mình tổn thương, làm bản thân tổn thương, đau khổ đểu mong níu kéo được người ấy.
Thông thường, những người có má lún đồng tiền 1 bên khá duyên dáng và đáng yêu, theo quan niệm của người xưa thì những người có má lún là người chưa dứt được duyên tình với người kiếp trước, nên kiếp này họ phải trả cho hết nợ nhân tình. Vì thế nên những người có má lún đồng tiền thường bị vướng vào những cuộc tình đơn phương, cho dù biết được tình cảm của mình không được đối phương đáp trả nhưng họ vẫn ngây ngốc chờ đợi.
Những người có mái tóc dày dặn là người chung tình. Theo nhân tướng học thì với những người tóc xơ nhưng dày dặn thì đây chính là kiểu người bướng bỉnh, cố chấp dễ lâm vào đường cùng. Nhưng người này một khi đã muốn gì đó thì thường bất chấp để đạt được cho dù cách thực hiện là đúng hay sai. Và với tình yêu họ cũng không ngoại lệ, kể cả khi biết rõ kết quả của mối tình không đi tới đâu và không thể có kết quả tốt đẹp những họ vẫn như thiêu thân lao vào lửa. Ngoài ra, tướng tóc của mỗi người khác nhau và cũng phản ảnh khá nhiều đặc điểm tính cách của người đó. Bạn có thể tham khảo thêm bào viết: Luận bàn về tướng tóc và xoáy trên đỉnh đầu
Kiểu nữ giới này thường có một đặc điểm chung là rất ngang bướng, thậm chí họ ngang bướng một cách cố chấp, khi đã thích một ai đó thì họ sẽ dùng mọi cách để theo đuổi người kia. Nhưng chúng ta đều biết, tình cảm phải xuất phát từ hai phía, không phải cứ kiên trì là đủ. Những người con gái như thế này, trong ái tình thường phải chịu nhiều tổn thương bởi chính tính cách ngang bướng cổ chấp của mình.
Trên đây là 5 đặc điểm về nhân tướng học mà Phongthuyso tổng hợp được để nhận biết được một người con gái sẽ chịu khổ vì tình. Nhưng các bạn cũng có thể dựa vào để xác định những cô nàng chung tình, nếu bạn có được tình cảm của những cô nàng này thì hãy nên trân trọng, vì họ luôn chung thủy và hy sinh cho bạn.
Những câu nói hay và bất hủ về son môi. Thỏi son là vũ khí tối thượng của mọi phụ nữ. Một khuôn mặt nhợt nhạt trong phút chốc có thể trở nên xinh đẹp rạng rỡ. Thỏi son thật sự cần thiết cho cả những người phụ nữ ít trang điểm nhất.
Son môi được ví von như chiếc gậy ma thuật làm đẹp, có khả năng biến hóa gương mặt. Yếu tố khiến son môi trở thành cơn sốt toàn cầu phải kể đến những cô gái Paris trong thập kỷ 30 và những diễn viên nổi tiếng trên màn bạc. Phụ nữ Paris vào những năm 1930 được xem là mẫu mực của mọi phụ nữ Pháp, thậm chí danh tiếng còn bay xa đến tận Tân Thế giới. Những màu son họ ưa chuộng lập tức trở nên phổ biến và bán chạy.
Huyền thoại Coco Chanel từng nói bà chưa bao giờ nghĩ mình sẽ ra khỏi nhà mà không mang theo một thỏi son. Không chỉ riêng gì Chanel, từ minh tinh màn bạc cho đến những cô gái mới lớn đều bị thu hút bởi ma lực đặc biệt của món đồ trang điểm nhỏ nhắn.
1. Tôi có tất cả các sắc độ của son đỏ mà bạn có thể tưởng tượng ra – theo đúng nghĩa đen.
2. Nếu tôi không tô son khi ra đường, tôi sẽ cảm thấy như mình chẳng mặc gì cả. Sofia Vergara
3. Uống rượu, tô son, và lấy lại tinh thần. Elizabeth Taylor
4. Vẻ đẹp đối với tôi nghĩa là sự hài lòng với chính bản thân mình hoặc một thỏi son đỏ thật nổi bật. Gwyneth Paltrow
5. Anh có cái nhìn mơ màng của James Dean trong ánh mắt còn em là cô gái tô son đỏ cổ điển mà anh thích. Taylor Swift
6. Không có gì gọi là tôi đã có quá nhiều son môi cả.
7. Tôi tin vào việc sơn móng. Tôi tin vào sự ăn diện. Tôi tin vào sự chải chuốt. Và tôi tin vào việc tô son đỏ. Audrey Hepburn
8. Nếu bạn buồn, hãy mua và tô thêm son để tiếp tục chiến đấu. Coco Chanel
9. Tôi không thể tưởng tượng ra bản thân mình nếu thiếu son hồng. Tôi có thể không tô son trong vài ngày nhưng nếu không còn sắc son hồng trên đời tôi nghĩ mình sẽ vô dụng mất. Nicki Minaj
10. Hãy ở bên người làm nhòe son trên bờ môi bạn chứ không phải bên người làm nhòe mascara của bạn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Các tác phẩm nghệ thuật thư pháp và hội họa có hiệu quả trang trí rất lớn. Chỉ cần biết treo chúng thật đúng cách là bạn có thể che bớt một số khuyết điểm của căn nhà:
Treo theo chiều ngang
Vài bức thư họa có kích thước giống nhau đặt cạnh nhau sẽ làm không gian ngôi nhà trở nên rộng rãi hơn.
Treo theo hướng vuông góc
Mấy bức tranh nhỏ treo theo hướng vuông góc, căn phòng sẽ trở nên cao hơn.
Treo đối xứng
Treo các bức tranh đối xứng vối các vật dụng khác trong nhà. Chẳng hạn, treo hai bức tranh phía trên hai chiếc ghế sopha đặt đối diện nhau, bên cạnh bộ sopha là môt bộ tràng kỉ, như vậy cảnh tưởng trong phòng sẽ thêm phần uy nghi.
Độ cao vừa phải
Tùy theo độ cao của căn phòng mà điều chỉnh vị trí các bức tranh. Thông thường vị trí trung tâm để treo các bức tranh thích hợp nhất là cách mặt đất 160 cm. Những bức tranh treo ngang có thể treo cao hơn vị trí này một chút, nhưng không được phép vượt quá độ cao tối đa của các vật dụng bày trong nhà.
Tứ độc là chỉ tai, mắt, miệng và mũi. Từ 4 bộ vị này có thể biết được một người có được phú quý hay không. Độc mang nghĩa là nước. Nước ở trên sông vận hành hài hòa, thong thả là tốt, như thế 4 bộ vị cũng được cân xứng, tiền tài khi đó mới như nước ào ào kéo đến, cả đời được an khang phú quý.
Trong tướng thuật Tai được ví với sông Trường Giang, cho nên lỗ tai nên sâu mà rộng rãi. Cửa ra nên cuộn tròn căng cứng mới là tướng tai thông minh, nhanh trí, người có tướng tai như thế, gia vận hưng thịnh, có thể giữ được tiền của.
Trong tướng thuật Mắt được ví với sông Hoàng Hà, mắt thấp lõm hướng vào bên trong mà dài tất sẽ được phú quý trường thọ. Người mà mắt có thần sẽ thông minh, người mà mắt ngắn sẽ chang được trường thọ. Người có mắt mờ tối không sáng, ngưng đọng thường cuộc sống sẽ nghèo khổ vất vả. Người có mắt tròn gặp nhiều tai họa, mắt không to không nhỏ mới là tướng quý.
Trong tướng thuật Mắt được ví với sông Hoài Hà, tướng miệng tốt lành là to, vuông, rộng, môi trên môi dưới sát nhau không hở. Người có môi mỏng là không tốt lành, nếu môi trên mỏng mà không che hết được môi dưới, hoặc môi dưới mỏng mà không cân xứng với môi trên, môi trên môi dưới không có khít nhau, người có hình tướng như thế sẽ chẳng được trường thọ đến già cũng chẳng được phúc. Người mà môi trên không che hết môi dưới, gia nghiệp tất xảy ra biến cố, như thế là tướng phá hoại.
Trong tướng thuật Mũi được ví với sông Tể Thủy, mũi dài thẳng tựa bút, lỗ mũi không hướng lên trời, không có sự tổn hại là tướng phúc.
1. Vị trí, khu vực và không gian của ngôi nhà
Vị trí của mảnh đất mà ngôi nhà tọa lạc giữ vai trò rất quan trọng, nó quyết định đến chất lượng của nguồn năng lượng đi vào trong nhà. Hãy chắc rằng ngôi nhà của bạn nhận được nguồn năng lượng tốt từ xung quanh: đường phố sạch sẽ, hàng xóm tốt bụng, không có Sha chi (không có nguồn năng lượng chết chóc, bệnh tật trong cấu trúc ngôi nhà, không có phần đất dốc đằng ở sau nhà,…).
Trong quan niệm phong thủy, những ngôi nhà có phòng ốc thông thoáng, có nhiều tầng năng lượng nhờ có sân sau nhà rộng hơn sân trước là rất tốt. Ngoài ra, nếu ngôi nhà có phía sau tựa núi (năng lượng của núi rất tốt cho phong thủy) hoặc có tầm nhìn rộng trước nhà cũng rất tốt.
2. Cửa trước thu hút năng lượng mạnh
Cửa trước của ngôi nhà có vai trò rất quan trọng trong phong thủy vì người ta quan niệm rằng đây là nơi tiếp nhận nguồn năng lượng đi vào ngôi nhà. Hãy xem hướng cửa của nhà, nếu là hướng mang lại may mắn cho các thành viên trong gia đình hãy cộng thêm điểm cho nó; xem xét cửa trước với tổng thể căn nhà, đường từ cổng vào cửa nhà và phong thủy của lối vào.
3. Cửa trước, cửa sau và tất cả các cửa còn lại của ngôi nhà
Bạn cần xem xét kĩ lưỡng lối tiếp nhận nguồn năng lượng mới và những đường thoát năng lượng cũ, khí cũ của ngôi nhà. Cửa trước và cửa sau của ngôi nhà có bố trí thẳng hàng hay không? Nếu hai cửa thẳng nhau mà bạn không có ý định sửa lại ngôi nhà hoặc thay đổi hướng của cửa sau thì không nên mua ngôi nhà như vậy. Bởi vì, cửa trước là nơi tiếp nhận năng lượng mới và cửa sau mà nơi thoát ra năng lượng cũ, khi 2 cửa đối thẳng nhau, năng lượng vào nhà sẽ lập tức bị hút ra theo đường cửa sau. Khi đó, ngôi nhà của bạn sẽ bị thiếu năng lượng nghiêm trọng.
4. Lối vào và lối ra của ngôi nhà
Bạn nhìn thấy gì ngay khi bước vào một ngôi nhà? Hãy chắc chắn rằng bạn không nhìn thấy cửa sau hoặc những dấu hiệu phong thủy không tốt. Bạn có gặp bức tường ngay khi bạn bước vào nhà không? Lối cầu thang có thẳng với cửa trước, cửa phòng tắm hoăc cửa buồng hay không? Cửa phòng tắm ở tầng trên có ở thẳng hướng theo chiều đứng với cửa trước hay không? Nếu phạm phải những điều này mà bạn không có ý định sửa lại căn nhà thì không nên chọn mua nhà này.
5. Vị trí phòng bếp, phòng ngủ, phòng tắm
Cách bố trí các phòng trong ngôi nhà là một vấn đề quan trọng bạn cần xem xét trước khi quyết định mua. Bạn cần phải hiểu cách bố trí như thế nào là tốt cho phong thủy, đâu là vị trí tốt nhất để đặt căn bếp, phòng ngủ, phòng tắm theo phong thủy? Những điều gì có thể ảnh hưởng xấu đến phong thủy của các căn phòng này?
Nằm ở góc rẽ nơi giao nhau giữa hai con đường có thể sản sinh ra “hiệu ứng góc rẽ”. Nơi đây tương đối lý tưởng cho việc mở cửa hàng.
Ưu điểm của nó: Có thế tăng diện tích bày hàng, người qua lại hai con đường đông gây sự chú ý cho khách hàng, thông qua số người qua lại hai con đường này mà thu hút khí ấm áp. Nhưng do nằm ở hai mặt đường nên chọn hướng nào làm cửa chính cũng là vấn đề quan trọng.
Cách thông thường là chọn hướng nào có lưu lượng giao thông qua lại nhiều nhất làm cổng chính, còn hướng ít người thì làm cổng phụ. Nhưng cũng có lúc mở cả hai hướng làm cổng chính, khách hàng đi cống nào cũng được, điều này cùng tốt cho kinh doanh.