Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tướng mặt 5 mẫu phụ nữ nham hiểm

Tuy là nữ giới nhưng trí thông minh và năng lực lại chẳng thua kém so với nam giới, đặc biệt với 5 loại người này thì độ nham hiểm còn hơn nam giới gấp nhiều
Tướng mặt 5 mẫu phụ nữ nham hiểm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

lần.

 
Tuong mat 5 mau phu nu nham hiem hinh anh
Ảnh minh họa
  1. Lông mày ngắt quãng
 
Lông mày đứt đoạn là người phụ nữ khá nhạy cảm trong chuyện yêu đương, nội tâm yếu ớt, đa sầu đa cảm, tinh thần có chút không ổn. Những người này thường có tính cảnh giác cao, lúc nào cũng có cảm giác mất an toàn, tính cách vui buồn thất thường, thường xuyên bị cảm xúc chi phối. Người phụ nữ này, tâm tư thật không tốt, lại thêm ánh mắt gian xảo, chỉ nghĩ cho lợi ích của bản thân, chính vì vậy, nếu không muốn gặp rắc rối thì hãy tránh xa mẫu phụ nữ này.   2. Mũi nhọn và nhỏ, lại đeo kính

Nếu một người phụ nữ sở hữu chiếc mũi nhọn thì năng lực phân tích khá tốt, có khả năng đoán được tâm tư của người khác, giỏi ứng biến và nhiều mưu lược. Khi nghe nàng nói thì người ta sẽ không còn biết gì nữa, như là bị thôi miên, nhất nhất đều nghe theo nàng. Mẫu phụ nữ này thích hợp với các công việc quản lý, đặc biệt là quản lý nhân sự. Thế nhưng, suy nghĩ và lời nói không đồng nhất nên đàn ông cần phải cảnh giác, tốt nhất là giữ khoảng cách, hạn chế giao tiếp để đảm bảo an toàn cho bản thân.  
Tuong mat 5 mau phu nu nham hiem hinh anh 2
Ảnh minh họa
3. Xương hàm bạnh ngang

Xương hàm bạnh ngang là người sống 2 mặt, bất luận là nam nữ thì cũng không phải là người tốt, nhất là phụ nữ. Nếu một người sở hữu tướng mạo như này thì đích thị là người ích kỷ, đề cao lợi ích của bản thân mà không quan tâm tới người khác, chỉ cần bạn có giá trị lợi dụng thì nàng sẽ nhanh chóng kết giao với bạn. Hầu hết những người phụ nữ này có lối sống rất coi thường người khác và khá là nham hiểm, tốt nhất là nên tránh xa.
  4. Răng nanh ngổn ngang, siêu siêu vẹo vẹo

Xét về góc độ tướng mạo thì răng nanh lộn xộn, siêu vẹo cũng là tướng mạo không tốt. Nếu một người phụ nữ như vậy thì nội tâm thâm hiểm, sống giả dối, rất hay tạo chuyện thị phi. Kết bạn với những người phụ nữ này, bạn sẽ cảm thấy bất an, tâm trạng hoang mang. Đây là những người phụ nữ lắm mưu nhiều kế, cho rằng mọi người luôn ganh đua với mình nên lúc nào cũng phải tính kế trả thù, thật sự là rất nguy hiểm nếu ở gần người phụ nữ này.
 
Chớ dại rước cô nàng có tướng mũi siêu xấu làm vợ
– Cô nàng mũi tỏi coi bản thân là nhất quả đất, không biết chăm lo chồng con, ai vô phúc với rước họ về làm vợ.
5. Đuôi mắt cong và dài, miệng nói một đằng, tâm nghĩ một nẻo, không thành thật

Hầu hết những người phụ nữ này đều có tướng mạo đẹp, luôn tạo cho người tiếp xúc cảm giác lịch sự, nho nhã. Nhưng thực chất là những con người lòng dạ vô đáy, mặc dù mẫu người này khá thông minh, thích đối mặt với những khó khăn. Nếu bạn có một người bạn gái như vậy, bạn sẽ phát hiện ra, khi nói chuyện, ánh mắt của cô ấy khá là mơ hồ, nhìn xa xăm chứ không dám nhìn thẳng vào đối phương, như sợ người ta phát hiện ra rằng mình không thật lòng. Loại phụ nữ này cũng khá thâm hiểm, từ trong lòng đã không thành thật rồi, lúc nào cũng âm mưu tính kế hãm hại người khác, đàn ông chớ nên tiếp xúc nhiều.
 
=> Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về 12 con giáp bạn nên xem

Phương Thùy
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt 5 mẫu phụ nữ nham hiểm

Những 'chàng giáp' nữ tính hơn cả con gái

Theo các chàng tuổi Hợi, họ mít ướt là bởi trái tim yếu mềm và nhạy cảm với bất kỳ cảm xúc nào.
Những

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Chàng trai tuổi Hợi

Việc những anh chàng tuổi Hợi dễ rung động trước cái đẹp, nhạy cảm với mọi sự trên đời hoặc đôi khi mít ướt… không còn là chuyện xa lạ. Sở dĩ như vậy là do họ có trái tim yếu mềm, dễ bị ngoại cảnh tác động. 

nhung-chang-giap-nu-tinh-hon-ca-con-gai

Chỉ cần xem bộ phim cảm động hay đơn giản là nghe câu chuyện tình cảm lâm li bi đát nào đó, anh chàng cầm tinh con Heo này lại xúc động nghẹn ngào, thậm chí hai mắt đỏ ửng lúc nào không hay. 

2. Chàng trai tuổi Dần

Ai cũng biết những anh chàng cầm tinh con Hổ tôn sùng chủ nghĩa anh hùng, chúa ghét việc khóc lóc, buồn rầu. Nhưng con giáp này lại rất thích chia sẻ mọi tâm tư tình cảm với bạn bè, thậm chí có thể “buôn dưa lê” thâu đêm suốt sáng hệt như con gái vậy. 

nhung-chang-giap-nu-tinh-hon-ca-con-gai-1

Ngoài ra, việc chụp ảnh “tự sướng” và đăng tải mọi lúc mọi nơi như khi đi du lịch, học bài, ăn cơm, gặp gỡ bạn bè… cũng khiến không ít người cho rằng chàng trai này có sở thích hệt như con gái. 

3. Chàng trai tuổi Tý

Tôn sùng chủ nghĩa hoàn mĩ là đặc điểm nổi bật ở những anh chàng cầm tinh con Chuột. Khi làm bất cứ việc gì họ cũng tỉ mỉ, chau chuốt, kén cá chọn canh để có được kết quả ưng ý nhất. Chính tính cách này khiến họ hay để ý, soi mói, bới lông tìm vết chuyện của những người xung quanh nên bị cho là lặt vặt như con gái. 

nhung-chang-giap-nu-tinh-hon-ca-con-gai-2

Ngoài ra, anh chàng này cũng dễ xúc động, không thể kiểm soát được “cơn mít ướt” của mình khi nghe hoặc chứng kiến những câu chuyện xúc động. Những lúc này trông họ còn nữ tính, yếu đuối hơn cả hội tóc dài ấy chứ.

Mr.Bull (Theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những 'chàng giáp' nữ tính hơn cả con gái

Xem tướng mặt qua Lục phủ và Bộ vị học đường

lục phủ là vị trí của 2 xương gò má, bộ vị học đường gồm tứ học đường, tam phủ học đường, học đường thi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trên khuôn mặt, Lục phủ là vị trí của 2 xương gò má, 2 mắt là nhị phủ, 2 phủ giác là tứ phủ. Lục phủ này cần đầy đặn, sáng bóng. Nếu một phủ phát triển đẹp thì phú quý 10 năm, nếu một phủ khuyết lõm, có vết, có nốt ruồi là không cát lợi.

tuong mat luc phu

Lục phủ: Rắn chắc đầy đặn, tài vận thịnh vượng

Lục phủ rắn chắc đầy đặn, phù trợ cho nhau, không có sự khác biệt nhiều, như thế là tướng tốt.

Lục phủ rắn chắc đầy đặn, không có khiếm khuyết lõm, không có điểm xấu, chủ về giàu có.

Người mà bộ vị Thiên thương nổi cao sẽ được hưởng tài lộc. Người có cằm vuông rộng tất sẽ có ruộng đất của tổ tiên để lại.

Người mà bộ vị Thiên thương và Địa các đều có sự khiếm khuyết là người không có tiền tài, không có đất đai, cũng chẳng được hưởng phúc lộc.

Bộ vị Học đường

Tứ học đường

Thứ nhất, mắt là Quan học đường. Quan học đường nhất định cần nhỏ dài, thanh tú, nhãn cầu đen trắng phân minh mới có thể có quan lộc.

Thứ hai, răng cửa gọi là Nội học đường. Nội học đường trắng và bằng, to, dày mới là người có đức trung tín.

Thứ ba, trán là Lộc học đường. Lộc học đường cần vuông vắn, rộng, tuấn tú mới có tước vị và phú quý.

Thứ tư, trước cửa tai là Ngoại học đường. Ngoại học đường đầy đặn, sáng sủa là người thông minh và có học thức.

Tam phủ học đường

Thượng phủ học đường là chỉ từ Thiên trung đến xung quanh Ấn đường, gồm 10 vị trí. Sáng bóng, toàn bộ nhô lên thành hình có kích thước khoảng 1 tấc là người đại quý, nếu không là tể tướng cũng là tướng lĩnh, làm quan nhị phẩm. Nếu lại có Trung học đường cân đối hài hòa sẽ thành trọng thần của hoàng đế, làm quan nhất phẩm. Nếu Thượng phù học đường có một vị trí khuyết lõm thì cần xem Trung, Hạ học đường. Nếu Trung, Hạ học đường không tương ứng với nó thì chi có thể tham gia vào những nhiệm vụ quan trọng, làm quan nhị phẩm. Nếu Trung, Hạ phù học đường toàn bộ đều lõm xuống thì có thể làm thừa lang hoặc quan võ. Nếu Đông, Tây nhạc (2 xương gò má) và cằm khá cao, tương ứng với trán có thể sẽ thành mệnh tướng quân.

Trung phủ học đường là chỉ vị trí từ Sơn căn (sống mũi) đến Tỵ tiêm (chóp mũi), bao gồm 6 vị trí là 2 mắt, miệng và 2 xương gò má hợp thành. Nếu đầy đặn và nhô lên hoặc có màu đỏ tía và sáng bóng, không có vân đứt, tỳ vết hoặc nốt ruồi thì có thể giữ chức quan như đô sát, đài các, hoặc là quan bộ binh, bộ hình. Người như vậy thường vận mệnh thuận thông, cả đời không có tai họa, đồng thời có tiếng tăm tốt. Các vị trí của Hạ phù đều tốt có thể thành quan tứ phẩm hoặc chức quan quan trọng ở các bộ. Nếu Hạ phù và Trung phù có các vị trí đều tốt thì có thể thành tam công, thượng thư, thị lang.

Hạ phủ học đường là từ Huyền bích đến Di ngạch, tổng cộng gồm 4 vị trí. Đầy đặn, sáng sủa, hình dạng đẹp sẽ làm tướng hoặc quan khanh giám. Võ tướng thì giữ chức canh giữ biên cương như phòng đoàn, thích sứ.

Bát học đường: Tướng người phú quý cát tường có hình tướng như sau

Đỉnh đầu được gọi là Cao minh hộ học đường, đầu tròn hoặc có xương lạ nổi lên là tướng tốt.

Trán được gọi là Cao quảng hộ học đường, người có trán tròn bóng xương vuông là tướng tốt.

Ấn đường được gọi là Quang đại bộ học đường, Ấn đường bằng sáng, không có thương tích là tướng tốt.

Mắt được gọi là Minh tú bộ học đường, mắt sáng điểm chấm đen ẩn tàng là tướng tốt.

Tai được gọi là Thông minh bộ học đường, tai có vành, có màu hồng hoặc vàng là tướng tốt.

Răng được gọi là Trung tín bộ học đường, răng tề chỉnh khít nhau, sắc trắng như sương tuyết là tướng tốt.

Lưỡi được gọi là Quảng đức bộ học đường, đầu lưỡi có thể dài đến Chuẩn đầu, có đường vân đỏ là tướng tốt.

Lông mày mắt được gọi là Ban duẩn bộ học đường, lông mày nổi cao đến bộ vị Thiên trung, nhỏ tú lệ mà dài là tướng tốt.

Học đường thi: Xem tướng mặt biết tuổi thọ

Tam đình thấp lõm là biểu hiện của Học đường không có vị trí tốt. Người có đặc trung tướng mặt như thế sẽ chẳng được nổi danh. Nếu có một vị trí Nhân trung không thể tương xứng, chủ về người chẳng thế được làm bề tôi trong triều đình.

Người mà bộ vị Tư môn có sắc xanh lại có đường vân xuất hiện, tức là điềm báo không thế làm quan, cũng không được hưởng phúc đức. Người trên mũi có sắc hồng là tướng vất vả cực khổ, cả đời chẳng được nghỉ ngơi.

Người có Sơn căn, sống mũi hình nhọn tất tiên tài có sự tổn thất, những năm đầu lưu lạc tha hương, sau đó còn gặp phải nhiều tai họa giáng xuống, nảy sinh nhiêu chuyện liên quan đên kiện tụng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mặt qua Lục phủ và Bộ vị học đường

Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Dần –

Mậu Dần (1938, 1998) 1. Sinh lực 0X: Đây là vận may quan trọng nhất cần tìm hiểu, nó cho biết liệu có mối nguy hiểm tiềm ẩn nào đe doạ tính mạng của bạn hay không. Sự đe doạ tính mạng có thể xuất hiện theo nhiều kiểu khác nhau và có thể xuất hiện một
Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Dần –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Dần –

Không thể không biết 3 cách chiêu tài phong thủy cực dễ, cực hay

Đứng trên góc độ phong thủy, ai cũng muốn tự thân vượng vận, chiêu tài, tăng thêm phúc lộc. Chỉ cần nhớ 3 lưu ý cách chiêu tài phong thủy rất đơn giản dưới.
Không thể không biết 3 cách chiêu tài phong thủy cực dễ, cực hay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người xưa có câu “quân tử ái tài”, đối với tiền tài, mỗi người đều hi vọng càng nhiều càng tốt. Đứng trên góc độ xem phong thủy, ai cũng muốn tự thân vượng vận, chiêu tài, tăng thêm phúc lộc. Thực ra, vấn đề này không hề phức tạp, chỉ cần nhớ 3 lưu ý về cách chiêu tài theo phong thủy rất đơn giản dưới đây là đủ rồi.


Khong the khong biet 3 cach chieu tai phong thuy cuc de, cuc hay hinh anh
 
Muốn phong thủy nhà ở tốt cũng là để chiêu tài, vượng vận, vượng bình an. Vì thế, không ít người theo đuổi những phương pháp phong thủy cát tường rất phức tạp, rắc rối và khó thực hiện. Phong thủy là bộ môn vi diệu, mênh mông, muốn hiểu tường tận, cặn kẽ phải cần quá trình lâu dài. Nên, nếu ngay lập tức muốn mang tới may mắn cho gia đình thì chỉ cần làm theo 3 lưu ý phong thủy chiêu tài dưới đây. Dễ làm, đơn giản lại vượng trạch.  

1. Ánh mặt trời sung túc

  Phong thủy vi diệu nhưng cũng bắt nguồn từ những điều hết sức tự nhiên, quen thuộc. Nơi đâu có mặt trời, nơi đó có sinh khí, nơi đâu sáng sủa, nơi đó tốt lành. Ánh mặt trời thấu khắp các phòng ốc sẽ mang đến cát tường thụy khí, tăng cường sức khỏe của người trong nhà. Trong phong thủy học, ánh mặt trời đại biểu cho sự thịnh vượng, khỏe mạnh, phát đạt, có khỏe mạnh mới có thể chiêu tài.    Vì thế, trong bố trí nhà cửa, không nên treo rèm quá dày hay thiết kế phòng quá kín. Hãy đảm bảo trong nhà lúc nào cũng có thể đón nắng, đón gió, tốt nhất là phòng nào cũng có cửa sổ.  

2. Không khí lưu thông


Khong the khong biet 3 cach chieu tai phong thuy cuc de, cuc hay hinh anh
 
Trong phong thủy chiêu tài, dòng khí đại biểu cho tài vận, phòng ốc lưu chuyển không khí thì vận trình hanh thông, trôi chảy. Nhà thiết kế phải đảm bảo có cửa đón gió, gió không quá lớn mà phải ôn nhu hòa thuận, lấy đông ấm hạ mát làm nguyên tắc.
 

3. Trên cửa treo chữ Phúc

 
Khong the khong biet 3 cach chieu tai phong thuy cuc de, cuc hay hinh anh
 
Cửa nhà treo, trang trí chữ Phúc có thể trợ giúp chiêu tài hướng phúc, phúc đến vận khí tự nhiên đến, vừa tốt cho tài lộc lại tốt cho gia vận, bảo hộ bình an. Phúc này còn có ý nghĩa là vận may tự nhiên ghé thăm, phúc bỗng nhiên tụ lại.
Trang trí gì ở huyền quan để chiêu tài, nạp phúc? “Mổ xẻ” tác dụng chiêu tài bất ngờ của trâu đồng Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Không thể không biết 3 cách chiêu tài phong thủy cực dễ, cực hay

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Kiêng kỵ sàn nhà không bằng phẳng –

Hiện tượng: Sàn nhà không bằng phẳng chia thành các trường hợp sau dây: trái cao phải thấp, phải cao trái thấp, trước cao sau thấp, địa thế cao cao thấp thấp. Những trường hợp này đều bất lợi cho sự ổn định khí trường trong ngôi nhà.   Nếu gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Sàn nhà không bằng phẳng chia thành các trường hợp sau dây: trái cao phải thấp, phải cao trái thấp, trước cao sau thấp, địa thế cao cao thấp thấp. Những trường hợp này đều bất lợi cho sự ổn định khí trường trong ngôi nhà.

phong_cach_san_nha_4

 

Nếu gặp phải những trường hợp như vậy. khi hoàn thiện ngôi nhà nhất định phải làm cho sàn nhà được bằng phẳng. về phương diện này không được thích lập dị, nếu không bất kể có hợp với đạo phong thủy hay không nhưng đối với sinh hoạt thường ngày và sắp đặt vật dụng gia đình đều gây bất tiện, hơn nữa sàn nhà không bằng phẳng còn làm cho tâm lý người trong nhà luôn căng thẳng, sông lâu như vậy tất nhiên sẽ gây ảnh hường bất lợi đối với tinh thần con người. trong nhà nếu có người già hay trẻ nhỏ còn dễ gây thương tích cho cơ thể họ.

Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải triệt đế nhất là đo lại độ bằng phẳng của sàn nhà đẻ làm phẳng lại. Nếu tạm thời chưa thể làm lại sàn nhì thi có thể làm như sau: ven tường bên sàn nhà thấp đặt 36 đồng tiền cổ đều nhau để hóa giải. Nếu sàn nhà cao cao thấp thấp thì đặt 36 đồng tiền cổ đều nhau xung quanh viền chân tường để hóa giải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ sàn nhà không bằng phẳng –

Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 16 tháng 8 âm lịch - Hội Nghinh Ông Vũng Tàu

Vào ngày 16 tháng 8 âm lịch có diễn ra một số lễ hội tiêu biêu như sau: Hội Nghinh Ông Vũng Tàuvà Hội Đền Đông Cao.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 16 tháng 8 âm lịch - Hội Nghinh Ông Vũng Tàu

Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 16 tháng 8 âm lịch - Hội Nghinh Ông Vũng Tàu

Hội Nghinh Ông Vũng Tàu

Thời gian: tổ chức từ ngày 16 tới ngày 18 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: lăng Cá Ông, đường Hoàng Hoa Thám, thành phố Vũng Tàu.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Cá Ông.

Nội dung lễ hội: Lễ hội Nghinh Ông đình Thắng Tam (Bà Rịa Vũng Tàu) được bắt đầu từ sáng sớm ngày 16 với một đoàn người gồm các vị kỳ lão, kỳ hương... lên một chiếc ghe lớn (có trang trí hoa, cờ, bàn thờ và bài vị thuỷ tướng, có đoàn nhạc ngũ âm, chiêng, trống và đội múa lân rộn ràng) đi đến địa điểm đã định rồi dâng hương, rượu. Sau đó, đoàn thuyền về bến rước Ông đến lăng, tiếp đến là các lễ cúng Tiền Hiền, Hậu Hiền, đọc văn tế, sắc phong, học trò dâng trà, hoa, rượu...

Ðến với lễ hội, du khách còn được thưởng thức các tiết mục: Võ thuật, múa lân, hát Bội... cùng với nhịp điệu hoà âm của chiêng, trống trong khói hương nghi ngút.

Hội Đền Đông Cao

Thời gian: tổ chức vào ngày 18 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: làng Đông Cao, xã Yên Lộc, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn An Dương Vương và Mỵ Châu.

Nội dung: Hội đền có lễ tế dâng hương lên Thánh Thần, lễ kiệu Mỵ Nương đến yết kiến cha, tiếp đó là lễ tạ tội với cha.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 16 tháng 8 âm lịch - Hội Nghinh Ông Vũng Tàu

Chia sẻ những kinh nghiệm khi trang trí phòng khách

Phòng khách là căn phòng đặc biệt trong ngôi nhà vì nó là căn phòng được nhiều người khách đến thăm, là căn phòng thể hiện phong cách của chủ nhà cũng như nó là bộ mặt của ngôi nhà. Vì thế phòng khách được quan tâm đặc biệt, được trang hoàng cầu kỳ hơn những căn phòng khác trong ngôi nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một phòng khách nên là một không gian vui vẻ và dễ chịu; là một không gian thể hiện cá tính riêng; là một không gian thoải mái và thân thiện; là một không gian phù hợp với sự yên tĩnh của một người hoặc náo nhiệt của nhiều người. Chúng tôi xin giới thiệu một số kinh nghiệm bố trí phòng khách.

1. Vị trí và cách tổ chức phòng khách

– Phòng khách được bố trí trung tâm của ngôi nhà, gần cửa ra vào. Tất nhiên là cửa ra vào chính không nên trực tiếp vào phòng khách mà thường qua một tiền phòng để mọi người để mũ, nón, giày dép… ở ngoài.

– Phòng khách cũng nên được bố trí gần phòng ăn, để khách đến chơi sau khi thăm phòng khách, chuyện trò thì qua phòng ăn thưởng thức bữa ăn.

– Có 2 loại phòng khách: Phòng khách mở và phòng khách kín.
Phòng khách mở thường có diện tích tường ít nhất; khu vực phòng khách, bàn ăn, và có thể có một phần của bếp được bố trí thông với nhau hoặc ngăn cách không gian bằng những quầy bar hay vách kính, vách thấp. Những ngôi nhà có diện tích nhỏ và vừa phải thì nên bố trí loại phòng khách này vì nó sẽ làm không gian thông thoáng và hiện đại.

phong-khach-gam-mau-vang-am-thong-voi-phong-an

Phòng khách hở thông với phòng ăn

Phòng khách kín: thường có tường chạy đến sát trần, và sẽ có những mặt tiếp xúc với thiên nhiên thoáng đãng để tạo những góc nhìn đẹp. Những ngôi nhà có diện tích lớn thì nên bố trí loại phòng khách này để có thể sắp đặt trưng bày nhiều đồ theo nhu cầu gia chủ, thể hiện được cá tính gia chủ.


phong-khach-kin-the-hien-su-sang-trong-long-lay

Phòng khách kín thể hiện sự sang trọng lộng lẫy

– Phòng khách là nơi được khách đến thăm nhiều nhất nên phải tạo cho nó những khung nhìn đẹp, như nhìn ra vườn, mở ra ban công, hiên…

phong-khach-voi-thiet-ke-tran-nha-doc-dao

Trong phòng khách nên tạo điểm nhìn ra thiên nhiên

– Nếu có thể thì nên bố trí phòng khách hướng Nam, vì hướng này đón nhận nhiều ánh sáng mặt trời nhất, và vào mùa đông ta cũng nhận được nhiều nhiệt từ hướng này. Tất nhiên là những bức tường hướng này cũng phải chú ý vật liệu để tránh những ảnh hưởng xấucủa nắng.

– Thông thường phòng khách hình chữ nhật là dễ bố trí nhất, mặt bằng hình vuông thì có một chút khó khăn.

– Trung tâm của phòng khách nên có một vài điểm nhấn như lò sưởi, cửa sổ rộng, sofa hoặc những đồ nội thất đặc biệt.

phong-khach-voi-tham-va-bo-sofa-tao-diem-nhan
Bộ sofa và lò sưởi ở vị trí trung tâm tạo điểm nhấn cho phòng khách

– Phong cách trang trí phòng khách phải tương đồng với phong cách ngôi nhà. Nếu ngôi nhà có phong cách hiện đại thì trang trí nội thất phòng khách nên dùng những đường nét đơn giản, tinh giản để phản ánh được phong cách. Nếu ngôi nhà mang phong cách cổ điển châu Âu thì nên trang trí những bức tường theo phong cách cổ điển như có gờ, phào, vật liệu che phủ có thể dùng giấy gián tường với những loại hoa văn nhẹ nhàng hoa lá và màu sơn phải nhẹ nhàng theo gam màu tự nhiên.

– Phòng khách là điểm nhấn chính của ngôi nhà, gây ấn tượng với khách nhiều nhất, nó là không gian trình diễn, thể hiện phong cách gia chủ. Nó cần được thoải mái, tiện nghi, thú vị, hấp dẫn, gọn gàng,không quá nhiều đồ đạc. Nó phải được kết hợp hài hòa từ nhiều yếu tố như những đồ đạc nội thất, những bức tường trang trí, ánh sáng, vật liệu sàn…theo một phong cách thống nhất.

– Đồ đạc chính trong phòng khách thường là 1 bộ sofa, tivi, tủ trang trí; nên bố trí nhóm đồ đạc này hợp lý theo từng loại phòng khách và nên kết hợp các đồ vật khác để tạo nên điểm nhấn chính. Khu vực trò chuyện này phải có đường kính từ 2,4-3m.

phong-khach-voi-mau-xanh-va-trang-hoa-minh-vao-thien-nhien

Khu vực trò chuyện là trung tâm của phòng khách

– Bạn không nên bố trí đồ đạc trong phòng khách một cách tuỳ tiện, nên bố trí sao cho toát lên vẻ cân xứng, gọn gàng vừa mắt. Đồ đạc nên đi từng đôi như đôi đèn, đôi ghế… để tạo sự cân đối.

– Nên bố trí một sofa giường để thư giãn và nghỉ ngơi buổi trưa, đôi khi dùng cho khách.

– Nếu phòng khách rộng bạn có thể bố trí thêm khu vực giải trí cho phòng khách như bàn để chơi cờ, đánh bài…

– Để tiện đặt đèn hoặc cắm điện cho dàn âm thanh,ti vi… bạn nên bố trí dọc chân tường cứ 3m một ổ cắm điện.

2. Màu sắc

– Màu sắc trong các không gian nói chung và phòng khách nói riêng đều phải tuân theo những yếu tố gồm màu chủ đạo và màu trang trí.

– Màu chủ đạo (màu nền) chính là màu được sử dụng nhiều nhất và cũng cần cẩn thận nhất vì nó đóng vai trò quyết định cho sự logic của không gian và những màu sơn còn lại. Màu chủ đạo phải được dựa trên sự nghiên cứu tổng thể của những phần liên quan như sàn, tường, trần và những đồ nội thất khác thuộc vào sự ảnh hưởng qua lại.

– Thông thường, sơn tường nên chọn màu không quá đậm, để tạo cảm giác thoải mái cho người cư ngụ, và cũng để kết hợp dễ dàng với các đồ trang trí khác. Do đó, những gam màu trung tính (không quá đậm, nhưng cũng không nhạt) sẽ rất phù hợp, chẳng hạn như trắng, xanh nhạt, vàng nhạt, ghi…

– Hiện nay, màu trắng được sử dụng phổ biến cho màu nền, giúp không gian có cảm giác rộng thêm. Một căn phòng chỉ toàn sắc trắng sẽ rất dễ dàng khi muốn thay đổi màu sơn theo mùa hoặc đơn giản chỉ thêm bớt một số chi tiết nội thất để tạo bộ mặt mới. Căn phòng một màu cũng có thể khiến các mảng không gian như tường hay trần nhà dễ dàng trở thành một khối thống nhất.

– Tuy nhiên, căn phòng toàn màu trắng cũng có thể bị cảm giác nhàm chán sau một thời gian sử dụng. Do đó, việc chọn màu mạnh (màu trang trí) để tạo điểm nhấn ấn tượng như đỏ, da cam, xanh sẫm… sẽ là một giải pháp hay. Chẳng hạn, phòng khách toàn màu trắng hoặc vàng nhạt, nhưng được nhấn ở một số vị trí như mảng tường phía sau nơi đặt TV, hoặc nơi treo tranh… sẽ rất ấn tượng. Không nên sử dụng những màu mạnh này làm màu chủ đạo.

phong-khach-thoang-khong-gian-rong-voi-mau-nhe-hien-dai

Các gam màu trung tính thường được sử dụng rộng rãi

3. Ánh sáng

– Phòng khách thường là nơi sinh hoạt chung của các thành viên trong gia đình và giữa chủ nhà với khách nên cần một không gian gợi mở. Vì thế, ánh sáng trong phòng tận dụng được nguồn sáng tự nhiên càng nhiều càng tốt. Nếu phòng khách nằm ngay tầng một, có thể dùng kính thay cho những bức tường kín mít. Phòng khách nhìn ra hướng vườn, không gian trong suốt của kính sẽ tạo nên sự giao hòa giữa thiên nhiên và nhà ở, ngồi trong nhà nhưng cảm giác như đang ngồi chơi giữa vườn có mái che.

– Bố trí nguồn sáng cho phòng khách bằng ánh sáng điện vào buổi tối cũng rất cần thiết. Khi dùng nguồn sáng điện, phải tạo được không khí ấm cúng, gần gũi. Đèn chính của phòng khách rộng nên là những loại đèn mang đến sự sang trọng, chẳng hạn như đèn chùm. Nếu không gian phòng khách theo phong cách cổ một chút nên dùng ánh sáng gián tiếp hơn là trực tiếp. Các đèn tuýp có thể được giấu trên trần hắt xuống, đèn hắt treo ở tường hắt ngược lên trần.

– Ánh sáng gián tiếp sẽ tạo cảm giác chan hòa, thoải mái và không bị chói mắt, đặc biệt khi xem TV. Tường có thể dùng đèn trang trí để chiếu sáng phụ cho các phòng rộng. Xu hướng hiện nay là trang trí ánh sáng bằng các đèn điện mà không lộ ra bóng đèn. Dùng đèn âm trần, âm tường tạo ra nguồn sáng trang trí từng góc có chủ định.

– Đối với các loại đèn âm trần thường bố trí các loại đèn bóng tròn, halogen, neon, compact để cho một ánh sáng nền vừa phải. Gian phòng khách có sofa màu ấm hay sáng nên dùng những cây đèn nhỏ chiếu sáng từng góc để tạo nên sự ấm cúng. Nếu tường sơn sáng màu và có lắp gương lớn thì không cần mắc nhiều bóng đèn.

– Không nên lạm dụng quá nhiều đèn trong phòng khách. Chỉ nên bố trí khoảng 2 đến 3 loại ánh sáng khác nhau.

phong-khach-voi-tong-mau-cua-thien-nhien

Đèn âm trần và các nguồn sáng kín tạo sự hấp dẫn cho phòng khách


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chia sẻ những kinh nghiệm khi trang trí phòng khách

Nốt ruồi vượng phu phú quý trên cơ thể phụ nữ –

Với người đàn ông, cưới được người vợ có tướng vượng phu quả là phúc lớn. Theo nhân tướng học, ngoài những đặc điểm về nét mặt, hình dáng cơ thể, tướng nốt ruồi cũng là một dấu hiệu rõ rệt để nhận biết người phụ nữ có tướng vượng phu. Nốt ruồi vượng
Nốt ruồi vượng phu phú quý trên cơ thể phụ nữ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi vượng phu phú quý trên cơ thể phụ nữ –

Khám phá cảm xúc mãnh liệt phòng ngủ –

Phòng ngủ là nơi thích hợp nhất đế cải thiện phong thủy nhằm hỗ trợ tình cảm lãng mạn hay tình trạng hôn nhân bất kể phòng ngủ là cung của bát quái. Hãy trang trí phòng ngủ bằng các màu sắc, đồ vật và hình ảnh phản ánh mối quan hệ lý tưởng và khuyế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

n khích tình cảm lãng mạn.

vochong1

Màu hồng, xanh  lá cây nhạt hay các gam màu trắng, màu ngà ấm áp là những màu thích hợp cho phòng ngủ. Màu đỏ là màu tuyệt vời làm tăng cảm xúc mạnh mẽ. Tác phẩm nghệ thuật về hoa lá, cỏ cây, giấy dán tường, vải, thảm, nhất là loại có nhiều màu hồng hay xanh lá cây, cũng tốt cho phòng ngủ. Đường thẳng, trang trí đơn giản và các tông màu đất chỉ thích hợp với những người thích trang trí đơn giản; các vật phong thủy nhỏ, như đồ pha lê có cạnh treo phía trên giường, tượng đôi tình nhân hay hai bông hồng cấm trong lọ pha lê, càng nổi bật hơn trên nền trung hòa.

Ngoài khoảng không đều nhau ở hai bên giường (nhằm thúc đẩy sự bình đẳng trong mối quan hệ), bạn cũng nên kê hai tủ đầu giường là một bộ hay có kích thước như nhau. Một tủ đầu giường ngụ ý căn phòng này là của người độc thân, vì thế hãy thiết kế căn phòng dành cho hai người nếu bạn muốn có cặp có đôi. Người độc thân muốn thu hút mối quan hệ cũng nên ngủ trên giường đôi; giường đơn dành cho trẻ em và người độc thân chứ không dành cho các cặp đôi. Thay vì nằm choáng hết cả giường, bạn hãy dành một chỗ với ý định là “nửa kia” sẽ nhanh chóng kề bên.

Một cách đơn giản và rất có tác dụng nhằm thúc đẩy sự xuất hiện của “đối tượng yêu đương” trong cuộc sống của bạn là chuẩn bị không gian cho người đó. Ngoài việc ngủ ở một bên của giường đôi, hãy dọn sạch ít nhất 25% khoảng không của tủ, bàn trang điểm và giá sách trong phòng ngủ. Hãy chuẩn bị không gian ở cả những vị trí khác trong nhà, nơi “đối tượng” có thể muốn cất giữ đồ vật của mình: tủ trong phòng tắm, tủ lạnh và giá để ttivi, đài trong phòng khách, v.v…

Nên lưu ý đến cung Hôn nhân trong phòng ngủ – phần giữa, phía bên phải của căn phòng, cách xa cừa ra vào – nếu bạn muốn thu hút mối quan hệ mới hay cải thiện đời sống yêu đương của mình. Dọn tất cả vật gây bừa bộn ra khỏi khu vực này, đồng thời trang trí các hình ảnh tượng trưng cho tình yêu và quan hệ vợ chồng. Bổ sung năng lượng hành hỏa, ví dụ hai chiếc gối hình trái tim màu đỏ, hai ngọn nến đỏ, thậm chí là dây đèn trang trí với bóng đèn hình quả ớt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá cảm xúc mãnh liệt phòng ngủ –

Top 4 con giáp xuất sác hơn người sau tuổi 30

Sau tuổi 30, những con giáp này mới trưởng thành và nỗ lực tạo dựng sự nghiệp.
Top 4 con giáp xuất sác hơn người sau tuổi 30

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bảng xếp hạng 4 con giáp trưởng thành và tạo sự nghiệp sau năm 30 tuổi

Xếp thứ 4: Tuổi Chó

Xem tử vi, những người tuổi Chó sau tuổi 30 sẽ có rất nhiều cơ hội, các dự án cho họ phát triển cũng sẽ không ngừng xuất hiện, do khi còn trẻ họ tích lũy nhiều kinh nghiệm cũng như các mối quan hệ xã hội. Nhờ vào sự giúp đỡ của quý nhân, nếu như có thể làm tốt, thì nửa cuộc đời còn lại những người tuổi Chó sẽ không phải lo lắng tiền bạc.

Xếp thứ 3: Tuổi Trâu

Những người tuổi Trâu thuở trẻ thuộc loại làm quên ăn quên ngủ. Theo Phong thủy, đến tuổi 30, sau khi đã chuẩn bị nền tảng kinh tế và kinh nghiệm xã hội, họ mới nhanh chóng trưởng thành. Những người tuổi Trâu cần cù chịu khó, cho dù thất bại cũng không nản lỏng, mặc dù ngộ tính không cao, nhưng luôn luôn có tinh thần dám xông pha, kiên trì đến cùng. Do đó cuối cùng đạt được mục tiêu, có được cả danh lẫn lợi.

Top 4 con giáp xuất sác hơn người sau tuổi 30

Top 4 con giáp xuất sác hơn người sau tuổi 30

Xếp thứ 2: Tuổi Chuột

Ở trước tuổi 30, những người tuổi Chuột  tập trung nhiều hơn vào các lĩnh vực khác. Sau tuổi 30, họ mới nỗ lực tạo dựng sự nghiệp. Những người này sẽ kiên trì cố gắng vì mục tiêu, sau khi vượt qua các vận hạn, chịu bao nhiêu vất vả cũng cam tâm, cũng không vì thế mà oán trách thân phận. Họ là những người có đầu óc kinh tế, giỏi tận dụng thế mạnh của mình hoặc tài nguyên xung quanh để xây dựng sự nghiệp. Do vậy, họ sẽ trở nên rất thành công.

Xếp thứ 1: Tuổi Hổ

Những người tuổi Hổ trước 30 tuổi khí thế hừng hực, khó lòng kiềm lại để làm việc. Sau 30 họ mới trưởng thành. Họ không thích khuất phục trước người khác, đặc biệt là sau khi hiểu đời, họ sẽ nỗ lực hoàn thiện bản thận, phấn đấu vì mục tiêu. Những người tuổi Hổ rất biết cách tận dụng đầu óc thông minh của mình để tìm kiếm những dự án có thể làm được, kiếm được những đồng tiền mà người khác không kiếm được. Con đường thành công cho dù có bao nhiêu thất bại, trắc trở, họ cũng không muốn quay đầu. Cuối cùng sự nghiệp càng ngày càng thuận lợi, cuộc sống càng ngày càng tươi đẹp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp xuất sác hơn người sau tuổi 30

Top 4 con giáp sống tốt để khỏe mạnh

Sức khỏe là thứ quý giá mà ai cũng mong muốn, ai cũng cầu mong mình khỏe mạnh để hưởng thụ cuộc sống này, người ta thường ví “Có sức khỏe là có tất cả, không sức khỏe là không có gì”.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tý, Sửu, Tị và Mùi là 4 con giáp vô cùng may mắn vì sở hữu một cơ thể khỏe mạnh, ít khi phải lo lắng về bệnh tật và sức khỏe, từ đó dễ dàng gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp cũng như trong cuộc sống.

Top 4 con giap song tot de khoe manh hinh anh
Ảnh minh họa
  Tuổi Tý
Người tuổi Tý từ khi sinh ra đã có tài vận rất tốt, thích hợp với các công việc kinh doanh hoặc lĩnh vực tài chính, nhờ vào tài vận và tài năng của bản thân mà họ nhanh chóng gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên, sự nghiệp của họ sẽ đi xuống nếu sức khỏe yếu. Người tuổi Tý cần chú ý và đề phòng cẩn thận để phúc khí tích tụ nhiều để có thể vượt qua mọi bệnh tật và tai nạn lớn.
 
Tuổi Tị
Vốn là con giáp có trí thông minh cao nên người tuổi Tị thường không cam tâm khi chỉ là người làm thuê, không có địa xã hội, cho dù họ không có bằng cấp hoặc gia đình không có điều kiện đi chăng nữa. Tuy nhiên, để đạt được thành công thì người tuổi Tị cần chuẩn bị cho bản thân thật tốt và nhanh nhạy trong việc nắm bắt cơ hội nghề nghiệp. Người tuổi Tị cũng khá thận trọng và chính đức tính cẩn thận này giúp cho họ tránh được nhiều tai ương về sức khỏe.

Top 4 con giap song tot de khoe manh hinh anh 2
Ảnh minh họa

Tuổi Sửu
Người ta có thể dễ dàng nhận thấy ở người tuổi Sửu một sức khỏe và tinh thần luôn tráng kiện. Điều này có được là do bản tính kiên trì, không chấp nhận sống một cuộc sống bình thường, càng không chấp nhận sự sa ngã. Tính cách tích cực của người tuổi Sửu có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của họ, chính sự nỗ lực không ngừng đã mang lại phúc khí cho bản thân họ, vậy nên cả cuộc đời hiếm khi người tuổi Sửu gặp vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe, gia đình luôn êm ấm hạnh phúc. 
 
Tuổi Mùi
Người tuổi Mùi không phải là người nhu nhược, hèn yếu, mặc dù họ không hay tranh cãi hoặc tham gia vào các cuộc xung đột với người khác. Người tuổi Mùi lương thiện, hồn nhiên và họ đối đãi với mọi người bằng sự chân thành và thành tâm. Họ dùng chính những đồng tiền mình kiếm được để giúp đỡ những số phận khó khăn, với họ giàu có không phải là có tiền, giàu có nhưng chưa chắc đã được mọi người tôn trọng, chỉ những đồng tiền chính đáng, tự bản thân mình kiếm được thì mới được mọi người tôn trọng. Người tuổi Mùi nhận được rất nhiều thiện cảm từ mọi người chính vì vậy mà khi gặp biến cố, người tuổi Mùi thường dễ dàng vượt qua vì luôn luôn có người giúp đỡ.   
S.T
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp sống tốt để khỏe mạnh

Tử vi tiểu sảo

Một bài viết chia sẻ về bản thân của cụ Thiên Lương. Ngắn gọn mà lại ý nghĩa.
Tử vi tiểu sảo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Lương

Năm 1947 là năm đất nước có nhiều chuyện nhiễu nhương làm cho dân tình điêu đứng. Tôi là một người có thể gọi là vô gia cư, nhà cửa bị phá hoại vì lệnh tiêu thổ kháng chiến, đến định cư tại một làng (B,V.) cùng một số người trong hoàn cảnh lánh nạn chiến tranh.

Công việc hàng ngày như giống nhau, nghĩ là không có ngày chủ nhật. Buổi sáng dậy xếp dọn đồ đạc sẵn vào mấy cái bị, ăn cơm mau chóng, nghe ngóng tin Tây đánh đến gần là chạy, đến xế chiều mới yên chí. Ăn xong ngồi họp với mấy người bạn tản cư tán gẫu hết chuyện này sang chuyện khác.

Năm ấy tôi 38 tuổi, học Tử vi được 10 năm, ngồi đâu cũng ham nói chuyện lý số, coi bộ ta đây là một cây…Thế rồi một buổi chiều, một ông bạn lối xóm cùng tuổi thấy nói tôi biết Tử vi mời sang chơi, xem giùm cho số phận tuổi Canh Tuất sinh ngày 6 tháng 6 giờ Mão.

Mệnh đóng tại Thìn có Thiên Cơ, Thiên Lương, Tuế Phá, Thiên Hư, Hoả Tinh, Quan lộc ở Thân Vô chính diệu Thiên Mã, Lộc Tồn, Khốc, Khách, Địa không, cung Tài ở Tí có Thiên Đồng, Thái Âm, Hoá Khoa, Hoá Kị, Linh Tinh. Tuy lúc này đầy lòng tự mãn sự học số vì xã giao, tôi nhùn nhường đặt vấn đề, nếu 2 câu đầu mà không trúng thì thôi xin vô phép không giám nói tiếp.

Ông bạn ngồi trước mặt tỏ ra rất hân hoan được người chỉ đường đi nước bước cho mình.

Câu trước nhất tôi hỏi: Bác có bị cháy nhà lần nào chưa? (Vì thấy Cơ Lương thủ mệnh bị Hoả Tinh)

Ông bạn trả lời: Thưa chưa có

Tôi tấn công liền, nếu không cháy nhà bị máy bay ném bom (Thiên Mã, Hoả Tinh) mà bác sống được nhờ có người mắt lé ngồi trong hầm núp với bác (Thái Âm, Hoá Kị, Hoá Khoa, Linh Tinh).

Ông bạn tôi nẩy người lên, hai tay chấp lạy vái lên vái xuống, miệng nói có, có trúng quá. Ông kể đầu đuôi, năm 1945 Mỹ đánh Nhật ở Đông Dương, nhà ông bị máy bay Mỹ ném bom trúng tiêu tùng, các hầm núp xung quanh sập nát, mọi người chết hết. Chỉ còn cái hầm của ông là còn và trong hầm lúc đó người em họ mắt lé ngồi bên ông, ông tấm tắc khen ngợi cho tôi là Thánh sống, năn ni xin xem hộ có thời vận làm ăn gì được không, vì tôi đã có hẹn trước là chỉ coi vài ba câu thôi.

Thấy ông hỏi thời vận để làm ăn, tôi tính năm đó ông 38 tuổi, ở đại vận cung Mùi (33 - 43) vô chính diệu, tuổi Canh Tuất có Triệt ở Ngọ Mùi, Thiên Không ở Mão, Tuần ở Dần Hợi, tứ là vận Vô chính diệu có Triệt ở chính cung Thiên Phủ ở Hợi, gặp Thiên Không, Thiên Tướng ở Mão gặp Tuần, tôi cất cao giọng hạ một câu đến nay nhiều lúc nghĩ đến vấn thấy mặt đỏ tía tai, mắc cỡ, vận bác có gì đâu là nguy hại, Vô chính diệu đắc tam không, cứ làm ăn tiến tới đừng ngại.

Ông bạn đứng ngay dậy nói: Tôi mất hết cơ nghiệp, vợ chết, con chết, tấm thân lang bạt cầu bơ cầu bất 4 năm nay, hiện giờ tiền hết gạo không, không biết lấy gì mà sống.

Bao nhiêu lời nói đó như một gáo nước lạnh đổ xối vào lòng tự cao của tôi với câu “máy bay dội bom vì có người mắt lé mà thoát chết”, cáo lỗi đứng lên ra về và nhất định từ biệt Tử vi, từ đó không coi số cho ai và cũng không thèm nói chuyện tử vi với ai.

Đến nay, xin thưa, thật những trò tiểu sảo nhiều khi rất sáng chói nhưng không căn bản nguyên tắc nắm vững, khác nào căn nhà làm trên bãi sính lầy dễ sụp đổ.

KHHB Xuân Ất Mão (1975)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi tiểu sảo

Những nàng giáp lỗ cả tình lẫn tiền trong tình yêu

Tình yêu viên mãn là điều mọi cô gái mong muốn, tuy nhiên những nàng giáp sau đây hay gặp trắc trở trong tình duyên, dễ lỗ cả tình lẫn tiền.
Những nàng giáp lỗ cả tình lẫn tiền trong tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu viên mãn là điều mọi cô gái mong muốn, tuy nhiên những "nàng giáp" sau đây hay gặp trắc trở trong tình duyên, dễ lỗ cả tình lẫn tiền. Hãy cùng ## tìm hiểu rõ hơn.


Nhung nang giap lo ca tinh lan tien trong tinh yeu hinh anh
 
Hạng 1: Tuổi Mùi sinh tháng 3 âm lịch

Nhung nang giap lo ca tinh lan tien trong tinh yeu hinh anh 2
 
Sở hữu tấm lòng yếu mềm, chỉ cần nghe vài câu hoa mỹ của đàn ông thì "nàng giáp" này đã xao xuyến, động tâm. Nếu người có lòng khó lường đến tiếp cận họ, chắc chắn sẽ thành công, đợi đến khi bản chất của họ được bộc lộ thì mệnh chủ cũng khó lòng thoát khỏi đoạn tình cảm này. Điều đáng buồn là, rõ ràng bản thân gặp nhiều đau khổ nhưng họ không tự chủ động giải thoát cho chính mình.   Hạng 2: Tuổi Tỵ tháng 12 âm lịch

Nhung nang giap lo ca tinh lan tien trong tinh yeu hinh anh 3
 
Mệnh chủ tuổi này có chút trái tính trái nết, mặc dù không dễ dàng bị lừa, nhưng lại dễ yêu đối phương chỉ vì điểm tốt hay phương diện nhất định nào đó. Thậm chí rõ ràng biết bản thân không nên yêu, người thân phản đối thì "nàng giáp" này cũng không quan tâm. Tình yêu không được chúc phúc này đã minh chứng cho vấn đề của phái nam và người đau khổ bao giờ cũng là mệnh chủ.
Mẹo phong thủy nhà ở hóa giải mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu
Mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu là vấn đề muôn thuở. Ngoài cách đối nhân xử thế, bạn có thể áp dụng một vài yếu tố phong thủy dưới đây để hóa giải mối quan hệ nhạy

Hạng 3: Tuổi Tuất tháng 10 âm lịch


Nhung nang giap lo ca tinh lan tien trong tinh yeu hinh anh 4
 
Con giáp nữ có mệnh trụ như trên rất yêu thích việc nghiêm trọng hóa, bi quan trong tình cảm, luôn luôn nghi ngờ, quy trách nhiệm cho đối phương. Nếu thấy đối phương có chút không thích hợp thì sẽ phủ định họ từ đáy lòng, đồng thời dùng ngôn từ trả thù đối phương. Như vậy chỉ khiến đối phương bội bạc
Hạng 4: Tuổi Hợi tháng 3 âm lịch

Nhung nang giap lo ca tinh lan tien trong tinh yeu hinh anh 5
 
Điều đáng trách của con giáp này là quá trong sáng và lý tưởng hóa chuyện tình cảm, chỉ cần có tình cảm thì sẽ vượt qua tất cả. Tuy nhiên nửa kia sẽ không nghĩa vậy, sẽ có thể bỏ rơi mệnh chủ khi muốn "đậu cành cao" và mệnh chủ sẽ phải chịu nỗi đau về tình cảm và tiền bạc cho mối tình đó.   Hạng 5: Tuổi Dần tháng 7 âm lịch

Nhung nang giap lo ca tinh lan tien trong tinh yeu hinh anh 6
 
Người xưa có câu "Đi đêm lắm có ngày gặp ma", đối với chuyện tình cảm, nếu nàng giáp tuổi Dần dùng thái độ tùy tiện có thể khiến phái nam dần dần có thái độ coi thường, về lâu về dài sẽ bị lợi dụng, mất đi cả tình yêu lẫn tiền bạc.
Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nàng giáp lỗ cả tình lẫn tiền trong tình yêu

Xem tuổi hợp hướng nhà –

Mỗi hướng nhà đều ảnh hưởng khác nhau đến mỗi con người, trong đó có hướng tốt và cũng có hướng xấu. Hướng nào là hướng tốt nhất... TT Hướng nhà với Cung mệnh chủ nhà Tính chất của hướng nhà kết hợp với cung mệnh chủ nhà NHÀ HƯỚNG ĐÔNG, CHẤN TRẠCH 1

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi hướng nhà đều ảnh hưởng khác nhau đến mỗi con người, trong đó có hướng tốt và cũng có hướng xấu. Hướng nào là hướng tốt nhất…

image001_1


TT

Hướng nhà với Cung mệnh chủ nhà

Tính chất của hướng nhà kết hợp với cung mệnh chủ nhà
NHÀ HƯỚNG ĐÔNG, CHẤN TRẠCH
1 Nhà hướng Chấn, chủ nhà Cung mệnh chấn Du niên: Được khí phục vị, nhà và người đồng hành.Cung mệnh chủ nhà và hướng nhà đều thuần dương (Chấn – mộc).Hướng cung nhỏ lựa chọn là Hoan lạc.

Nhà này lúc đầu khá giàu có. Nhưng do thuần dương nên vợ con tương khắc, dễ bất hòa trong gia đình, phụ nữ dễ sinh bệnh, nhân khẩu không tăng. Cần hóa giải thuần dương.

2 Nhà hướng Chấn, chủ nhà Cung mệnh Tốn Du niên: Diên niên. Nhà và người đồng hành.Nhà và người Âm + Dương Cân bằng ( Âm mộc của Tốn với Dương mộc của Chấn).Hướng cung nhỏ lựa chọn: Hoan lạc.

Ở nhà này rất tốt. Người nhà giàu có, thăng tiến, công danh hiển đạt. Lúc đầu cũng bình thường, nhưng về sau cháu con thông minh,gia đình hạnh phúc, phát phúc phát lộc, giàu có, con trai và con gái đều phát triển.

3 Nhà hướng Chấn, chủ nhà Cung mệnh Ly Du niên: Sinh khí. Nhà sinh cho người. Rất tốt.Nhà và người có Âm – Dương Cân bằng ( Dương mộc của chấn với Âm hỏa của Ly).Cung hướng lựa chọn: Vượng tàm, Tấn điền.

Nhà này phú quý, thịnh vượng,  Giàu có, người trong nhà đỗ đạt cao, có tài có danh, con cháu khỏe mạnh và thông minh, gia đình hòa thuận.

4 Nhà hướng Chấn, chủ nhà Cung mệnh Khôn Du niên:Họa hại. Nhà khắc ngườiNhà và người Có Âm – Dương cân bằng ( Dương mộc của Chấn với Âm thổ của Khôn). Nhưng Mộc khắc thổ.Cung hướng lựa chọn: Vượng trang, Hưng phúc.

Nhà này lúc đầu giàu có, nhân khẩu tăng, nhưng về sau thì sa sút, thường gặp tai họa, thương là người mẹ già sẽ bị tổn thương. Cần phải hóa giải hướng nhà họa hại.

5 Nhà hương Chấn, chủ nhà Cung mệnh Đoài Du niên: Tuyệt mệnh. Người khắc nhà. Rất xấuNhà và người có Ân – Dương cân bằng ( Dương mộc của Chấn với Âm kim của Đoài) Nhưng Kim khắc Mộc.Cung hướng lựa chọn: Vượng trang, Hưng phúc.

Nhà nay rất xấu, không hưng vượng, nhân đinh thiệt hại – trưởng nam là người thiệt mạng, nhà thường lo buồn, kinh tế sa sút. Cần thay đổi hướng nhà hoặc có biện pháp hóa giải nhanh chóng.

6 Nhà hướng Chấn, chủ nhà Cung mệnh Càn Du niên: Ngũ quỷ. Người khắc nhà, rất xấu
Nhà và người thuần dương (Dương mộc của Chấn với Dương kim của Càn)  kim khắc mộc.
Nhà này phát sinh nhiều tai họa, nhất là hỏa hoạn. Thường hao tổn về tài sản, hỏa hoạn dễ xảy ra, người nhà hay gặp nhiều chuyện thị phi, kiện cáo, không yên ổn, hay bị bệnh tật, Người con trai sẽ hay bị tổn thương. Cần hóa giải mới yên.
7 Nhà hướng Chấn, chủ nhà Cung mệnh Cấn Du niên: Lục sát. Nhà khắc người.Nhà và người Thuần dương ( Dương mộc của Chấn với Dương thổ của Cấn).Cung hướng lựa chọn: Phúc đức, Tấn tài

Nhà này con trai dễ bị tổn thương, về sau tài lộc bị tán, suy bại, con cháu ăn chơi cờ bạc, nhân khẩu giảm sút, tuổi thọ kém. Cần có hóa giải mới lâu bền.

8 Nhà hướng Chấn, chủ nhà Cung mệnh Khảm Du niên: Thiên y. Người sinh nhà,bị tiết khí.Nhà và người thuần dương ( Dương mộc của Chấn với Dương thủy của Khảm).cung hướng lựa chọn: Tấn tài.

Nhà này lúc đầu hưng vượng, nhưng về sau kém dần, nhân khẩu không tăng. Gia đình hòa thuận, sống nhân nghĩa. Do nhà thuần dương, âm suy nên người phụ nữ sẽ kém hơn nam giới, người phụ nữ dễ bị bệnh. Cần có biện pháp hóa giải.

Trong trường hợp ngôi nhà mà gặp du niên xấu: Tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát, họa hại, Thì cần phải có các giải pháp hóa giải ngay: Thay đổi hướng, mở cửa chính hướng khác, mở của phụ, điều chỉnh hướng bếp, hướng ban thờ, vị trí và hướng cổng…..Nếu mà nhà gặp hướng tuyệt mệnh lại có nhiều góc khuyết cộng với nhà âm khí thì tốt nhất là thay đổi hướng, làm lại nhà và cải tạo địa khí bằng đá phong thủy.
NHÀ HƯỚNG ĐÔNG NAM – TỐN TRẠCH
9 Nhà hướng Tốn, Chủ nhà Cung mệnh Tốn Du niên: Phục vị. Nhà và người cùng Hành.Nhà và người Thuần âm (Âm mộc của Tốn). Âm vượng, dương suy, nên nam giới trong nhà kém hơn nữ giới.Cung hướng lựa chọn: Vượng tài, phúc đức.

Nhà này lúc đầu khá giả, tăng nhân đinh. Nhưng về sau nhân đinh kém dần, con trai dễ đoản thọ. Phụ nữ nắm quyền trong gia đinh và nuôi con. Cần hóa giải thuần âm.

10 Nhà hướng Tốn, chủ nhà Cung mệnh Ly Diên niên: Thiên y. Nhà sinh người. Rất tốtNhà và người Thuần Âm ( Âm mộc của Tốn và âm mộc của Ly). Cách cuộc tốt vì mộc sinh hỏa.Cung hướng lựa chọn: Vinh phú.

Nhà này lúc đầu thịnh vượng, có tài có danh, giàu có, phụ nữ thông minh và nhân hậu. Nhưng về sau nam giới hay bị bệnh, không thọ. Phụ nữ dễ thành cô quả. Cần có hóa giải thuần âm.

11 Nhà hướng Tốn, chủ Cung mệnh Khôn Du niên: Ngũ quỷ. Nhà khắc người, rất xấu.
Nhà và người thuần âm ( Âm mộc của Tốn với âm thổ của Khôn).
Nhà này không có tài lộc, gia sản bại sút, nhiều chuyện thị phi, dễ bất hòa, gia đình không yên, tranh chấp tài sản, hiếm con trai. Mẹ già dễ gặp tai họa. Cần thay đổi hướng hoặc cách hóa giải.
12 Nhà hướng Tốn, chủ Cung mệnh Đoài Du niên: Lục sát. Người khắc nhà.
Nhà và người thuần âm (âm mộc của Tốn với âm kim của Đoài).
Nhà này sống không thuận lợi. Phụ nữ dễ xích mích, bị bệnh, chịu cô quả, bị thương, trưởng nữ dễ bị tổn thương. Làm ăn kinh doanh sa sút, khó phát triển. Cần có hóa giải.
13 Nhà hướng Tốn, Chủ nhà Cung mệnh Càn Du niên: Họa hại, người khắc nhà.Cân bằng âm – dương (Âm mộc của Tốn với Dương kim của Càn).Cung hướng lựa chọn: Vinh phú.

Nhà này lúc đầu làm ăn khá phát đạt nhưng về sau người trong nhà sẽ phát sinh bệnh tật, khó sinh con và khó nuôi con. Trưởng nữ dễ bị tổn hại. Cần có hóa giải.

14 Nhà hướng Tốn, chủ nhà Cung mệnh Khảm Du niên: Sinh khí. Người sinh nhà, tiết khí.Cân bằng âm – dương (Âm mộc của Tốn với Dương thủy của Khảm).Cung hướng lựa chọn: quan lộc, quan quý.

Nhà này luôn giàu sang phú quý. Các con đều thông minh, hiển đạt, nhà gia giáo tốt, vợ chồng hòa thuận, con cái hiếu thảo, hạnh phúc lâu bền, trường thọ. Cần có hóa giải để khỏi bị tiết khí.

15 Nhà hướng tốn, chủ nhà Cung mệnh Cấn Du niên: Tuyệt mệnh. Nhà khắc người, rất xấu.Cân bằng âm – dương ( Âm mộc của Tốn với Dương thổ của Cấn).Cung hướng lựa chọn: Quan lộc.

Nhà này thường gặp nguy hiểm từ bên ngoài vào. Người trong nhà dễ mắc bệnh chứng gió, dễ gặp tai họa, trộm cướp, thiệt mạng. Con út là người dễ thương tổn.

16 Nhà hướng Tốn, chủ nhà Cung mệnh Chấn Du niên: Diên niên. Nhà và người cùng hành.Cân bằng âm – dương ( Âm mộc của Tốn với dương mộc của Chấn) Lưỡng mộc thành Lâm nên dù Diên niên hành kim cũng không khắc nổi.Cung hướng lựa chọn: Vượng tài, Phúc đức.

Nhà này công danh rất phát, phúc lộc thọ đều tốt. Người trong nhà đều có chí lớn, biết rèn luyện thành tài, công danh hiển hách nhà này sẽ sinh ra hiền tài làm công thần cho đất nước.

Trong trường hợp ngôi nhà mà gặp du niên xấu: Tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát, họa hại, Thì cần phải có các giải pháp hóa giải ngay: Thay đổi hướng, mở cửa chính hướng khác, mở của phụ, điều chỉnh hướng bếp, hướng ban thờ, vị trí và hướng cổng…..Nếu mà nhà gặp hướng tuyệt mệnh lại có nhiều góc khuyết cộng với nhà âm khí thì tốt nhất là thay đổi hướng, làm lại nhà và cải tạo địa khí bằng đá phong thủy.
NHÀ HƯỚNG NAM – LY TRẠCH
17 Nhà hướng Ly, chủ nhà Cung mệnh Ly Du niên: Phục vị. Nhà và người đồng hành.Nhà và người thuần âm ( Âm hỏa của Ly).Cung hướng lựa chọn: Hoan lạc.

Nhà này lúc đầu cũng có tài lộc, nhưng không giàu có. Nhân khẩu không tăng. Do nhà thuần âm, dương khí nên nam giới dễ mắc bệnh, giảm về nhân đinh. Cần có hóa giải.

18 Nhà hướng Ly, chủ nhà Cung mệnh Khôn Du niên: Lục sát. Nhà sinh người. Nhưng không tốt,Nhà và người thuần âm ( âm hỏa của Ly với âm thổ của Khôn).Cung hướng lựa chọn: Vượng tàm, tấn điền.

Nhà này những năm đầu cũng có tài lộc, nhưng về sau sa sút, giảm đinh, dương khí suy do đó nam giới đoản thọ, phụ nữ góa bụa cai quản gia đình. Thiếu con nối dõi. Cần hóa giải.

19 Nhà hướng Ly, chủ nhà Cung mệnh Đoài Du niên: Ngũ quỷ. Nhà khắc người.Nhà và người thuần âm ( Âm hỏa của Ly với âm kim của Đoài).Cung hướng lựa chọn: Vượng tàm, tấn điền.

Nhà này lắm chuyện thị phi, an hem bất hòa, kinh tế suy bại dần, thiếu nữ trong nhà dễ bị tổn thương, bệnh tật. cần có hóa giải.

20 Nhà hướng ly, chủ nhà Cung mệnh Càn Du niên: Tuyệt mệnh. Nhà khắc người, rất xấu.Cân bằng âm – dương ( Âm hỏa của Ly với dương kim của Càn) nhưng hỏa khắc kim.Cung hướng lựa chọn: Hoan lạc.

Nhà này Cha già không thọ. Phụ nữ nhiều hơn nam, phụ nữ nắm quyền, bệnh tật ở mắt và ở đầu. Kinh tế suy và tán tài.

21 Nhà hướng Ly, chủ nhà Cung mệnh Khảm Du niên: Diên niên. NGười khắc nhà.Âm dương cân bằng ( Âm hỏa của Ly với Dương thủy của Khảm).Cung hướng lựa chọn: Vượng trang, hưng phúc.

Nhà này giàu giàu sang phú quý, gia đình hạnh phúc, gia đình trường thọ, nhiều lộc. Cần hóa giải Thủy – Hỏa tương xung.

22 Nhà hướng Ly. Chủ nhà Cung mệnh Cấn Du niên: Họa hại. Nhà sinh người. Nhưng không tốt.Cân bằng âm – dương (Âm hỏa của Ly với Dương thổ của Cấn).Cung hướng lựa chọn: Quan quý, vượng trang.

Nhà này lúc đầu cũng giàu có, nhưng về sau tài lộc suy dần, nhân khẩu không tăng, vợ lấn át chồng, gia đình hay mâu thuẫn. Cần có hóa giải.

23 Nhà hướng Ly, chủ nhà Cung mệnh Chấn Du niên: Sinh khí. Người sinh nhà. Sao sinh khí hành mộc vượng cho người và hướng. rất tốt.Âm – dương cân bằng ( Âm hỏa của Ly với dương mộc của Chấn).Cung hướng lựa chọn: Tấn tài.

Nhà này phát phúc nhanh chóng, phụ nữ lương thiện, sông hiếu thảo. con trai và con gái đều thông minh, giỏi giang. Giàu có và phú quý.

24 Nhà hướng Ly, chủ nhà Cung mệnh Tốn. Du nhiên: Thiên y. Người sinh nhà.Nhà và người thuần âm ( Âm hỏa của Ly với âm mộc của Tốn).Cung hướng lựa chọn: Tấn tài.

Nhà này nhưng năm đầu được phú quý. Người trong nhà sống lương thiện, nữ giới phát triển hơn nam giới. Nhưng Cần có hóa giải thuần âm.

Trong trường hợp ngôi nhà mà gặp du niên xấu: Tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát, họa hại, Thì cần phải có các giải pháp hóa giải ngay: Thay đổi hướng, mở cửa chính hướng khác, mở của phụ, điều chỉnh hướng bếp, hướng ban thờ, vị trí và hướng cổng…..Nếu mà nhà gặp hướng tuyệt mệnh lại có nhiều góc khuyết cộng với nhà âm khí thì tốt nhất là thay đổi hướng, làm lại nhà và cải tạo địa khí bằng đá phong thủy.
NHÀ HƯỚNG TÂY NAM – KHÔN TRẠCH
25 Nhà hướng Khôn, chủ nhà Cung mệnh Khôn Du niên: Phục vị, Người và nhà đồng hành.Nhà và người thuần âm (âm thổ của Khôn).Cung hướng lựa chọn: Vinh phú.

Nhà này thời gian đàu cũng cũng phát đạt giàu có, nhưng về sau bị tổn hại, nam bị tổn thương, nữ nắm quyền trong gia đình, có khi trở thành cô quả. Cần có hóa giải thuần âm.

26 Nhà hướng Khôn, chủ nhà Cung mệnh Đoài Du niên: Thiên y, nhà sinh người – tốt.Nhà và người thuần Âm (âm thổ của Khôn với âm kim của Đoài) nên Âm thịnh, Dương suy.Cung Hướng lựa chọn: Hoan lạc.

Nhà này lúc đầu phát đạt nhanh, giàu có, nhưng về sau nam giới tổn thọ, phụ nữ nắm quyền trong gia đình, không có con trai nối dõi. Cần hóa giải thuần âm.

27 Nhà hướng Khôn, chủ nhà Cung mệnh Càn Du niên: Diên niên (Kim), nhà sinh người – tốt.Nhà và người cân bằng âm dương (âm thổ của Khôn với Dương kim của Càn) nên Âm thịnh, Dương suy.Cung hướng lựa chọn: Vượng tài, Phúc đức.

Nhà này được giàu sang phú quý, tăng nhân đinh, nhiều tài lộc, gia đình hòa thuận, trường thọ, con cháu thông minh hiển đạt, thịnh vượng lâu bền.

28 Nhà hướng Khôn, chủ nhà Cung mệnh Khảm Du niên tuyệt mệnh, nhà khắc người – rất xấu.Nhà và người cân bằng  Âm Dương (âm thổ của Khôn với dương thủy của Khảm). Thổ khắc Thủy, con trai thứ bị tổn hại.Cung hướng lựa chọn: Không có cung tốt. Nên đổi hướng nhà.

Nhà này dễ thiệt mạng về nhân đinh, nhiều chuyện thị phi, nhà ở bất an, gia sản suy bại.

29 Nhà hướng Khôn, chủ nhà Cung mệnh Cấn Du niên: Sinh khí. Nhà và người cùng hành.Nhà và người âm dương cân bằng ( Âm thổ của Khôn với Dương thổ của Cấn).Cung hướng lựa chọn: Hưng phúc.

Nhà này giàu có về điền sản, giàu có, nhiều nhân đinh, hạnh phúc. Nhưng do Mộc tinh hành mộc khắc hướng (thổ) nên về sau sẽ kém và suy dần. cần có háo giải.

30 Nhà hướng Khôn, chủ nhà Cung mệnh Chấn Du niên: Họa hại. Người khắc nhà.Nhà và người cân bằng âm dương ( âm thổ của Khôn với dương mộc của Chấn).Cung hướng lựa chọn: Quan lộc, quan quý.

Nhà này nhân đinh ít, làm ăn khó khăn, người bà người mẹ là người dễ bị tổn thương. Cần có hóa giải.

31 Nhà hướng Khôn, chủ nhà Cung mệnh Tốn Du niên: Ngũ quỷ. Người khắc nhà.Nhà và người thuần âm ( Âm thổ của Khôn với âm mộc của Tốn).Cung hướng lựa chọn: Quan lộc, quan quý.

Nhà này hay bị đau ốm, bệnh tật, tài sản suy bại, nhiều chuyện thị phi, Người mẹ gánh chịu nhiều bệnh tậ và tổn thọ. Cần có hóa giải.

32 Nhà hướng Khôn, chủ nhà Cung mệnh Ly Du niên: Lục sát, Người sinh nhà.Nhà và người thuần âm (âm thổ của Khôn và âm hỏa của Ly)Cung hướng lựa chọn: Vượng tài, Phúc đức.

Nhà nay âm thịnh dương suy, nên nữ giới nắm quyền, lấn át chồng, chịu cô quả, nam giới tổn thọ. Cần có hóa giải.

Trong trường hợp ngôi nhà mà gặp du niên xấu: Tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát, họa hại, Thì cần phải có các giải pháp hóa giải ngay: Thay đổi hướng, mở cửa chính hướng khác, mở của phụ, điều chỉnh hướng bếp, hướng ban thờ, vị trí và hướng cổng…..Nếu mà nhà gặp hướng tuyệt mệnh lại có nhiều góc khuyết cộng với nhà âm khí thì tốt nhất là thay đổi hướng, làm lại nhà và cải tạo địa khí bằng đá phong thủy.
NHÀ HƯỚNG TÂY – ĐOÀI TRẠCH
33 Nhà hướng Đoài, chủ nhà Cung mệnh Đoài Du niên: Phục vị. Nhà và người cùng hành.Nhà và người thuần âm ( Âm kim của đoài).Cung hướng lựa chọn: Hoan lạc.

Nhà này âm thịnh, dương suy, phụ nữ lấn át chồng, nữ giới thành công hơn nam giới. Đàn ông bệnh tật, giảm thọ. Gia sản lúc đầu vượng, giàu có, nhưng về sau kém và suy bại. cần có hóa giải.

34 Nhà hướng Đoài, chủ nhà Cung mệnh Càn Du niên: Sinh khí. Nhà và người cùng hành.Nhà và người Âm dương cân bằng ( Âm kim của Đoài với dương kim của Càn).Cung hướng lựa chọn: Tấn tài.

Nhà này giàu sang phú quý, thịnh vượng, đông nhân đinh. Nhưng do sao Mộc tinh bị hướng nhà khắc nên về sau sẽ suy kém. Do vậy cần có cách hóa giải sao.

35 Nhà hướng Đoài, chủ nhà Cung mệnh Khảm Du niên: Họa hại. nhà sinh người.Nhà và người cân bằng âm dương ( âm kim của Đoài với dương thủy của Khảm).Cung hướng lựa chọn: Tấn tài.

Nhà này nhiều chuyện thị phi tri gái, cờ bạc, gia sản suy bại, làm ăn kinh doanh hay gặp trắc trở và thất bại. cần có hóa giải.

36 Nhà hướng Đoài, chủ nhà Cung mệnh Cấn Du niên: Diên niên. Người sinh nhà.Nhà và người cân bằng âm dương ( Âm kim của Đoài với dương thổ của Cấn).Cung hướng lựa chọn: Vượng tàm, tấn điền.

Nhà này phát tài phát lộc nhanh chóng. Đặc biệt là các năm tỵ, dậu, sửu. con cháu thông minh, đỗ đạt cao, gia đình hạnh phúc. Người trong nhà trường thọ.

37 Nhà hướng Đoài, chủ nhà Cung mệnh Chấn Du niên: Tuyệt mệnh. Nhà khắc người.
Nhà và người cân bằng âm dương ( âm kim của Đoài với dương mộc của Chấn).
Cung hướng lựa chọn: Vượng trang, hưng phúc
Nhà này không giàu có, gia sản suy bại, nhiều chuyện, kinh doanh khó khăn, trưởng nam dễ đoản thọ. Cần hóa giải.
38 Nhà hướng Đoài, chủ nhà Cung mệnh Tốn Du niên: Lục sát. Nhà khắc người.Nhà và người Thuần âm ( âm mộc của Tốn với âm kim của Đoài).Cung hướng lựa chọn: Vượng trang, Hưng phúc.

Nhà này lúc đầu làm ăn cũng có của, nhưng về sau sa sút, nghèo nàn. Âm thịnh dương suy nên nam giới dễ đoản thọ, và trưởng nữ trong nhà hay ốm đau và thương tật. Cần có hóa giải.

39 Nhà hướng Đoài,chủ nhà Cung mệnh Ly Du niên: Ngũ quỷ. Người khắc nhà.Nhà và người thuần âm ( âm kim của Đoài với âm hỏa của Ly).Cung hướng lựa chọn: Tấn tài.

Nhà này âm thịnh dương suy, nam giới đoản thọ, thiếu nữ cũng gặp nguy hại. Kinh tế, làm ăn sa sút đến bại tuyệt. Cần hóa giải.

40 Nhà hướng Đoài, chủ nhà Cung mệnh Khôn Du niên: Thiên y. Người sinh nhà.Nhà và người thuần âm (âm kim của Đoài với âm thổ của Khôn).Cung hướng lựa chọn: Hoan lạc

Nhà này âm thịnh dương suy, ít con trai. Nhà này gia đạo tốt, nhiều tài lộc làm ăn, nhưng cần hóa giải không về sau sẽ suy kiệt về kinh tế.

Trong trường hợp ngôi nhà mà gặp du niên xấu: Tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát, họa hại, Thì cần phải có các giải pháp hóa giải ngay: Thay đổi hướng, mở cửa chính hướng khác, mở của phụ, điều chỉnh hướng bếp, hướng ban thờ, vị trí và hướng cổng…..Nếu mà nhà gặp hướng tuyệt mệnh lại có nhiều góc khuyết cộng với nhà âm khí thì tốt nhất là thay đổi hướng, làm lại nhà và cải tạo địa khí bằng đá phong thủy.
NHÀ HƯỚNG TÂY BẮC – CÀN TRẠCH
41 Nhà hướng Càn, chủ nhà Cung mệnh Càn Du niên: Phục vị. Nhà và  người đồng hành.Nhà và người thuâng dương ( Dương kim của Càn)Cung hướng lựa chọn: Quan lộc, quan quý.

Nhà này dương thịnh, âm suy, phụ nữ hay ốm yếu, khó nuôi con. Gia sản lúc đầu khá giả nhưng về sau sẽ kém dần. Cần hóa giải.

42 Nhà hướng Càn, chủ nhà Cung mệnh Khảm Du niên: Lục sát. Nhà sinh người.Nhà và người thuần dương (Dương kim của Càn với dương thủy của Khảm).Cung hướng lựa chọn: Vinh phú.

Nhà này lúc đầu có của ăn của để, nhưng sau bị sa sút, làm ăn thất bại, kinh tế khó khăn. Do nhà này âm suy nên phụ nữ dễ bị suy yếu. Cần có hóa giải.

43 Nhà hướng Càn, chủ nhà cung mệnh Cấn Du niên: Thiên y. người sinh nhà.Nhà và người thuần dương ( dương kim của Càn với dương thổ của Cấn).Cung hướng lựa chọn: Vinh phú.

Nhà này được giàu sang phú quý, người nhà lương thiện, nhân đinh nhiều, tài lộc làm ăn dồi dào theo phúc đức để lại. Do nhà thuần dương nên phụ nữ ốm yếu. Cần có hóa giải.

44 Nhà hướng Càn, chủ nhà Cung mệnh Chấn Du niên: Ngũ quỷ. Nhà khắc người.
Nhà và người thuần dương ( dương kim của Càn với dương mộc của Chấn).
Nhà này làm ăn sa sút, hay gặp chuyện kiện cáo, thị phi. Con trai trưởng sẽ hay gặp rắc rối về bệnh tậ và sức khỏe.
45 Nhà hướng Càn, chủ nhà Cung mệnh Tốn Du niên: Họa hại. Nhà khắc người .
Nhà và người cân bằng âm dương ( dương kim của Càn với âm mộc của Tốn).
Nhà này lúc đầu có tài lộc, nhưng về sau suy. Nhiều tai họa xảy ra, phụ nữ đặc biệt là trưởng nữ dễ bị tổn thương, khó sinh đẻ. Cần có hóa giải.
46 Nhà hướng Càn, chủ nhà Cung mệnh Ly Du niên: Tuyệt mệnh. Người khắc nhà. rất xấuNhà và người cân bằng âm dương (dương kim của Càn với âm hỏa của Ly).Hướng lựa chọn: quan lộc, quan quý.

Nhà này khó giàu, làm ăn sa sút, tai họa liên miên. Bậc cha ông không thọ, phụ nữ trong nhà phải sống cô đơn. Cần thay đổi hướng nhà hoặc hóa giải.

47 Nhà hướng Càn, chủ nhà Cung mệnh Khôn Du niên: Diên niên. Người sinh nhà.Nhà và người cân bằng âm dương ( dương kim của Càn với âm thổ của Khôn).Cung hướng lựa chọn: Vượng tài, phúc đức.

Nhà này nhiều tài lộc, giàu có, có danh có tiếng, con cháu thông minh học giỏi, gia đình hạnh phúc, người trong nhà trường thọ.

48 Nhà hướng Càn, chủ nhà Cung mệnh Đoài Du niên: Sinh khí. Nhà và người đồng hành.Nhà và người cân bằng âm dương ( dương kim của Càn với âm kim của Đoài).Cung hướng lựa chọn: vượng tài, phúc đức.

Nhà này lúc đầu rát tốt, tài lộc nhân đinh đều vượng, nhung do hướng nhà khắc sao mộc tinh nên về sau sa sút, kinh tế kém, nhiều khó khăn.

Trong trường hợp ngôi nhà mà gặp du niên xấu: Tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát, họa hại, Thì cần phải có các giải pháp hóa giải ngay: Thay đổi hướng, mở cửa chính hướng khác, mở của phụ, điều chỉnh hướng bếp, hướng ban thờ, vị trí và hướng cổng…..Nếu mà nhà gặp hướng tuyệt mệnh lại có nhiều góc khuyết cộng với nhà âm khí thì tốt nhất là thay đổi hướng, làm lại nhà và cải tạo địa khí bằng đá phong thủy.
NHÀ HƯỚNG BẮC – KHẢM TRẠCH
49 Nhà hướng Khảm, chủ nhà Cung mênh khảm Du niên: Phục vị. Nhà và người đồng hành.Nhà và người thuần dương ( dương thủy của Khảm).Cung hướng lựa chọn: Hoan lạc.

Nhà này lúc đầu phát đạt, giàu có. Nhưng do nhà thuần dương nên âm suy, vợ con sức khỏe kém. Cần phải hóa giải.

50 Nhà hướng Khảm, chủ nhà Cung mệnh Cấn Du niên: Ngũ quỷ, người khắc nhà.
Nhà và người thuần dương ( Dương thủy của Khảm với dương thổ của Cấn).
Nhà này nhiều chuyện thị phi, kiện tụng cãi vã. Gia sản ngày càng suy, không vượng. Do nhà dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà hay bị tổn thương. Cần có hóa giải.
51 Nhà hướng Khảm, chủ nhà Cung mệnh Chấn Du niên:Thiên y. Nhà sinh người.Nhà và người thuần dương (Dương thủy của Khảm với dương mộc của Chấn).Cung hướng lựa chọn: Vượng tàm, tấn điền.

Nhà này lúc đầu giàu có, phú quý, mọi người sống nhân hậu. Nhưng vì thuần dương nên phụ nữ trong nhà suy yếu, bệnh tật. Cần có hóa giải.

52 Nhà hướng Khảm, chủ nhà Cung mệnh Tốn Du niên: Sinh khí. Nhà sinh người. Rất tốt.Nhà và người cân bằng âm dương ( dương thủy của Khảm với âm mộc của Tốn).Cung hướng lựa chọn: Vượng tàm, tấn điền.

Nhà này được công danh phú quý song toàn, có danh có tiếng. Con cái ngoan hiền thành đạt có công danh hiển hách. Nhà này rất tốt.

53 Nhà hướng Khảm, chủ nhà cung mệnh Ly Du niên: Du niên. Nhà khắc người.Nhà và người cân bằng âm dương (dương thủy của Khảm với âm hỏa của Ly).Cung hướng lựa chọn: Vượng trang, hưng phúc.

Nhà này giàu sang phú quý. Sức khỏe người trong gia đình tốt. Con cái học hành thông minh, thành đạt trong cuộc sống. Nhà này phú quý bền lâu. Nhưng phải hóa giải thủy – hỏa tương xung.

54 Nhà hướng Khảm, chủ nhà Cung mệnh Khôn Du niên: Tuyệt mệnh. Người khắc nhà.Nhà và người cân bằng âm dương ( dương thủy của Khảm với âm thổ của Khôn).Cung hướng lựa chọn: Tấn tài.

Nhà này làm ăn suy bại, không giàu có. Sức khỏe suy yếu, con trai thứ dễ tổn thọ sớm. Cần thay đổi hướng nhà hoặc hóa giải.

55 Nhà hướng Khảm, chủ nhà Cung mệnh Đoài Du niên: Họa hại. Người sinh nhà.Nhà này cân bằng âm dương (dương thủy của Khảm với âm kim của Đoài).Cung hướng lựa chọn: Tấn tài.

Nhà này lúc đầu cũng có của nhưng không giàu có, về sau càng nghèo khó. Nhất là thiếu nữ dễ bị tổn thương, nhất là khi sinh nở. Cần hóa giải.

56 Nhà hướng Khảm, chủ nhà Cung mệnh Càn Du niên: Lục sát. Người sinh nhà.Nhà và người cân bằng âm dương (Dương thủy của Khảm với dương kim của Càn).Cung hướng lựa chọn: Vượng trang, hưng phúc.

Nhà này lúc đầu cũng có của ăn của để, nhưng dần bị suy kiệt về kinh tế và sức khỏe. Nhất là phụ nữ trong nhà dễ bị tổn thương. Con cái ăn chơi, cờ bạc rượu chè, dâm đảng. Cần có hóa giải.

Trong trường hợp ngôi nhà mà gặp du niên xấu: Tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát, họa hại, Thì cần phải có các giải pháp hóa giải ngay: Thay đổi hướng, mở cửa chính hướng khác, mở của phụ, điều chỉnh hướng bếp, hướng ban thờ, vị trí và hướng cổng…..Nếu mà nhà gặp hướng tuyệt mệnh lại có nhiều góc khuyết cộng với nhà âm khí thì tốt nhất là thay đổi hướng, làm lại nhà và cải tạo địa khí bằng đá phong thủy.
NHÀ HƯỚNG ĐÔNG BẮC – CẤN TRẠCH
57 Nhà hướng Cấn, chủ nhà Cung mệnh Cấn Du niên: Phục vị. Nhà và người cùng hành.Nhà và người thuần dương ( dương thổ của Cấn).Cung hướng lựa chọn: Hoan lạc, vượng tài.

Nhà này lúc đầu có tiền tài, có của ăn của để. Nhưng về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà sẽ kém hơn nam giới về sức khỏe và công danh tiền tài. Cần hóa giải.

58 Nhà hướng Cấn, chủ nhà Cung mệnh Chấn Du niên: Lục sát. Người khắc nhà.Nhà và người thuần dương ( dương thổ của Cấn với dương mộc của Chấn).Cung hướng lựa chọn: Vinh phú.

Nhà này làm ăn khó khăn, tài lộc không có. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau. Cần hóa giải hướng xấu.

59 Nhà hướng Cấn, chủ nhà Cung mệnh Tốn Du niên: Tuyệt mệnh. Người khắc nhà.Nhà và người cân bằng âm dương (dương thổ của Cấn với âm mộc của Tốn).Cung hướng lựa chọn: Vinh phú.

Nhà này rất xấu, kinh tế suy bại, nhà thiệt nhân đinh, nữ giới bệnh tật khó chữa. Phụ nữ khó nuôi con. Cần thay đổi hướng hoặc hóa giải ngay.

60 Nhà hướng Cấn, chủ nhà Cung mệnh Ly. Du niên: Họa hại. Người sinh nhà.
Nhà và người Cân bằng âm dương (dương thổ của Cấn với âm hỏa của Ly)
Nhà này kinh làm ăn khó khăn, suy tán tài sản. Nhiều chuyện thị phi, tai ương. Cần hóa giải hoặc thay đổi hướng nhà.
61 Nhà hướng Cấn, chủ nhà Cung mệnh Khôn. Du niên: Sinh khí. Nhà và người đồng hành.Nhà và người cân bằng âm dương (dương thổ của Cấn với âm thổ của Khôn).Cung hướng lựa chọn: Quan lộc, quan quý.

Nhà này nhiều tài lộc, giàu sang phú quý, nhiều tiền của, con cái thành đạt, nhiều đất đai. Về sau sẽ kém vì hành mộc của sao Sinh khí sẽ làm suy giản tài lộc. Cần hóa giải.

62 Nhà hướng Cấn, chủ nhà Cung mệnh Đoài Du niên: Diên niên. Nhà sinh người.Nhà và người cân bằng âm dương (âm kim của Đoài với dương thổ của Cấn).Cung hướng lựa chọn: Quan lộc, quan quý.

Nhà này giàu sang phú quý, nhân khẩu tăng, sức khỏe mọi người tốt, gia đình hạnh phúc, con cái thông minh và thành công trong cuộc sống. Mọi người đều có tuổi thọ cao.

63 Nhà hướng Cấn, chủ nhà Cung mệnh Càn Du niên: Thiên y. Nhà sinh người.
Nhà và người thuần dương ( dương kim của Càn với dương thổ của Cấn).
Nhà này giàu có, gia sản nhiều, gia đình hạnh phúc. Con người nhân hậu. Do nhà thuần dương nên về sau con gái trong gia đình hay ốm đau.
64 Nhà hướng Cấn, chủ nhà Cung mệnh Khảm Du niên: Ngũ quỷ. Nhà khắc người.Nhà và người thuần dương ( dương thổ của Cấn với dương thủy của Khảm).Cung hướng lựa chọn: Vượng tài, phúc đức.

Nhà này nhiều chuyện thị phi, anh em bất hòa, hay tranh chấp kiện tụng. Nhà này nghèo khó, không giàu. Cần hóa giải.

Trong trường hợp ngôi nhà mà gặp du niên xấu: Tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát, họa hại, Thì cần phải có các giải pháp hóa giải ngay: Thay đổi hướng, mở cửa chính hướng khác, mở của phụ, điều chỉnh hướng bếp, hướng ban thờ, vị trí và hướng cổng…..Nếu mà nhà gặp hướng tuyệt mệnh lại có nhiều góc khuyết cộng với nhà âm khí thì tốt nhất là thay đổi hướng, làm lại nhà và cải tạo địa khí bằng đá phong thủy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi hợp hướng nhà –

Mơ thấy quả cau: Sẽ giải tỏa khó khăn, có được thành công –

Mơ thấy quả cau, bản thân sẽ không ngừng hoàn thiện, giúp mình ngày càng vững mạnh hơn. Mơ thấy mình nhặt quả cau, dự báo sự nghiệp thành công. Mơ thấy ăn quả cau, với hàm ý trong sự nghiệp bản thân không hề dựa dẫm bạn bè. Mơ thấy hình ảnh quả cau t
Mơ thấy quả cau: Sẽ giải tỏa khó khăn, có được thành công –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy quả cau: Sẽ giải tỏa khó khăn, có được thành công –

Luồng khí cho phòng khách –

Thách thức lớn nhất trong phòng khách thường là làm thế nào để sắp xếp đồ đạc hợp lý nhằm tăng cường luồng khí tốt Căn phòng dưới đây cần đủ yên tĩnh để thư giãn, nhưng không được yên tĩnh đến mức khiến bạn ngủ thiếp trên ghế đi-văng ngay sau bữa ăn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nên sắp đặt những đồ đạc chính sao cho khí lưu chuyển nhẹ nhàng qua các khu vực kê ghế ngồi, thay vì để khí không thể lưu chuyển hoặc hướng quá nhiều năng lượng vào một điểm, quá nhiều đồ đạc trong một không gian chật hẹp là nguyên nhân phố biến khiến khí bị tắc nghẽn.

1300672831.nv

Tất cả khu vực kê ghế ngồi trong phòng khách phải được bảo vệ khỏi mọi nguồn sát khí. Dưới đây là một số vị trí cần tránh nếu có thể và một số gợi ý cần phải làm nếu không thể tránh:

Vấn đề: Lưng ghế sô-fa quay ra cửa hay lối vào

Giải pháp: Kê một chiếc bàn phía sau ghế, trên bàn để đèn hoặc lọ hoa; treo một đồ pha lê có cạnh ở giữa cửa ra vào và ghế; trải một tấm thảm dệt mịn giữa cửa và ghế.

Vấn đề: Xà rầm lộ phía trên ghế sô-fa hoặc khu vực ngồi khác.

Giải pháp: Dịch chuyển ghế; sử dụng các phương pháp hóa giải theo phong thủy đối với các xà rầm lộ.

Vấn đề: Quạt trần phía trên ghế sô-fa hay chỗ ngồi khác

Giải pháp: Treo quả cầu pha lê có cạnh vào dây xích kéo

Vấn đề: Chỗ ngồi ở phía thấp của trần xiên

Giải pháp: Sử dụng vị trí này để kê tủ ly, bàn hay giá sách; dịch chuyển chỗ ngồi sang phía cao hơn.

Vấn đề: Mũi tên bí mật hướng vào chỗ ngồi

Giải pháp: Kê lại chỗ ngồi nếu có thể; dùng cây cối hay rèm để làm dịu các góc nhọn; treo quả bóng pha lê có cạnh giữa điểm bắt đầu của mũi tên bí mật và chỗ ngồi.

Kê ghế ngồi nổi bật nhất – thường là ghế sôfa – ở vị trí chỉ huy (cách xa cửa ra vào, có tầm nhìn không gian tốt và, nếu có thể, có một bức tường vững chắc phía sau để chống đỡ). Nếu ghế đơn ở vị trí chỉ huy luôn do một người sử dụng, người đó có thể chi phối mối quan hệ trong gia đình, ở nhiều ngôi nhà, tivi được đặt ở vị trí chỉ huy.

Nếu đã kê đồ đạc theo cách tốt nhất mà bạn có thể làm với thiết kế của phòng khách, nhiều năng lượng vẫn hỗn loạn, hay mọi người dường như không ổn định, thì một thay đổi dịch chuyển nhẹ ở cung Gia đình của phòng khách có thể đem lại tác dụng tích cực.

Nếu năng lượng quá yếu, hãy dùng chuông gió trong cung Gia đình để thay thế nhằm làm cho năng lượng trong phòng mạnh lên. Chọn những màu lạnh (xanh lá cây xám, xanh da trời và xanh nhạt hơi pha đỏ) để làm dịu không gian, các tông màu ấm (đỏ, da cam, vàng tươi) để kích thích mọi vật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luồng khí cho phòng khách –

Những bài khấn Phật cần thuộc nằm lòng

Khấn Phật là một thói quen tốt để trấn tĩnh tâm hồn và tìm nơi nương tựa tâm linh, hoặc là biện pháp vượt qua những lúc nguy khốn.
Những bài khấn Phật cần thuộc nằm lòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khấn Phật là một thói quen tốt để trấn tĩnh tâm hồn và tìm nơi nương tựa tâm linh, hoặc là biện pháp vượt qua những lúc nguy khốn. Nhưng không phải ai cũng biết cách khấn Phật đúng và những bài khấn phù hợp với hoàn cảnh.


Nhung bai khan Phat can thuoc nam long hinh anh
 
Cách khấn Phật đúng là lễ trước bàn thờ Phật vào mỗi sáng hoặc chiều, trước khi khấn lạy từ 3 đến 108 lạy. Nếu không làm được thường xuyên thì nên làm vào ngày Rằm, mùng 1. Thậm chí, không cần có ban thờ, chỉ cần thành tâm nghĩ đến Phật rồi tự khấn cũng được.
 
Dưới đây là các bài khấn Phật đơn giản theo từng trường hợp cụ thể:
 
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Thập Phương Tam Thế Chư Phật, chư Bồ Tát,
 
Tam Bảo khắp mười phương (3 lần)
 
Nam Mô Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần).
 
Tri ân
 
Hôm nay lại bước qua một ngày, con tự biết con đã được rất nhiều may mắn, con đã hưởng được tha lực từ bi của chư Phật, chư Bồ Tát và Đức Mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát ban cho, và được chư vị giúp đỡ mà con mới có được ngày hôm nay. Con xin thành tâm thành kính quỳ nơi đây dâng lòng chí thành chí kính tri ân. (1 lạy)
 
Cầu an Con xin thành tâm thành kính cầu nguyện sự an lành, an lạc, thanh bình, hạnh phúc cho cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc, cùng khắp các chúng sanh hữu tình, vô tình.
 
Con cầu xin thập phương tam thế chư Phật, chư Bồ Tát, Đức mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát, và chư vị từ bi gia hộ, giúp đỡ để chúng con đồng được sự an lành, an lạc, tu hành đến Tri Kiến Giải Thoát, thoát khỏi sanh tử luân hồi (1 lạy).
 
Cầu siêu Con cũng thành tâm cầu siêu cho vong linh cửu huyền thất tổ, cha mẹ, tổ tiên, thân bằng quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp.
 
Những vong linh liên hệ và không liên hệ đến con,
 
Những vong linh con đã lỡ gây hại, sát hại trong quá khứ,
 
Cho những vong linh tên:…..
 
Cùng những vong linh mất trong chiến tranh, thiên tai, tật bệnh, và vì mọi lý do chưa được vãng sanh.
 
Con thành tâm cầu nguyện xin tha lực từ bi của mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, Đức từ phụ A Di Đà Phật, Đức Mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát, Đức Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, cùng chư vị giúp đỡ để các vong linh được tiếp dẫn về nơi an lạc, siêu sanh Tịnh Độ (1 lạy).
 
Sám hối Nay con xin chí thành sám hối mọi tội lỗi con đã lỡ gây tạo từ nhiều kiếp cho đến nay, những tội con đã gây tạo trong kiếp sống hiện tại.
 
Những tội con gây tạo do bởi vô tình hay cố ý, gây hại, sát hại đến nhân mạng, đến giới hữu tình hoặc vô tình, những tội do bởi Tham, Sân, Si, do bởi ngã mạn, vô minh che lấp.
 
Từ nay, mỗi ngày con xin kiểm soát hành động, tư tưởng để sám hối, sửa sai và xin nguyện giữ mình không tái phạm.
 
Hết thảy các tội, con xin chí thành quỳ nơi đây dâng lòng sám hối. Xin chư Phật mười phương, chư Bồ Tát, Đức Mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát chứng minh cho lòng thành của con (1 lạy).

► ## cung cấp công cụ xem ngày tốt xấu theo Lịch vạn sự chuẩn xác

Theo Văn khấn cổ truyền Việt Nam
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bài khấn Phật cần thuộc nằm lòng

Sao Hỏa - hình tượng Na Tra

Sao Hỏa được lấy hình tượng từ người con út của Lý Tính, tam thái tử Na Tra. Sao Hỏa trong Tử Vi Đẩu Số tượng trưng cho sức chiến đấu mạnh mẽ, nặng lượng dồi dào bất tận, vô cùng ổn định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong "Phong thần diễn nghĩa", Na Tra là nhân vật tượng trưng cho sao Hoả, một trong lục sát của Tử Vi Đẩu số. Theo như "Phong thần diễn" Na Tra là con trai út của Lý Tịnh, quan Tổng binh trấn giữ ải Trần Đường của vương triều Trụ. Khi Lý Tịnh còn học đạo, ông từng bái Độ Ách chân nhân núi Tây Côn Lôn làm thầy, nhưng vì đạo tiên khó học, nên ông xuống núi, nhận chức Tổng binh cho triều đình. 

Phu nhân của ông là Ân thị đã sinh được hai con trai là Kim Tra và Mộc Tra. Vài năm sau, bà lại mang thai, nhưng hoài thai được ba năm sáu tháng vẫn chưa sinh. Lý Tịnh thấy quái dị, ngờ rằng là quái thai, còn Ân phu nhân cũng rất buồn phiền, không biết phải giải quyết ra sao.

Một đêm, Ân phu nhân mơ thấy có một đạo nhân đi vào trong phòng, thì ngạc nhiên nghĩ thầm: "Vị đạo nhân này sao lại tự tiện đi vào nhà của người ta?" Đạo nhân cầm một viên ngọc ném về phía phu nhân mà nói: "Phu nhân mau nhận con đi".

sao Hỏa - hình tượng Na Tra

Ân phu nhân giật mình tỉnh dậy, thuật lại giấc mơ cho Lý Tịnh nghe. Lời chưa nói dứt, chợt thấy bụng đau dữ dội, Lý Tịnh bèn quay ra ngoài đợi. Một lát sau thị nữ hớt hải chạy ra báo: "Phu nhân sinh ra một quái thai". Lý Tịnh vào xem, chỉ thấy một khối sáng đỏ rực, khắp nhà sực nức hương thơm, thì ra Ân phu nhân sinh ra một cục thịt, đang lăn lông lốc khắp nhà. Lý Tịnh thấy cảnh tượng đó thì vô cùng kinh sợ, bèn rút kiếm chém vào cục thịt.

Bất ngờ từ trong cục thịt nhảy ra một đứa bé trai trắng trẻo xinh đẹp, đó chính là viên ngọc thiêng đầu thai chuyển thế. Tay phải đứa bé đeo một chiếc xuyến vàng, ngang bụng thắt một dải lụa đỏ. Chiếc xuyến vàng và dải lụa hồn thiên lăng chính là bảo vật trấn động của núi Càn Nguyên. Lý Tịnh thấy đứa bé vừa ra đời đã luôn chân chạy nhảy, thì vừa mừng vừa lo.

Hôm sau, có Thái Ất chân nhân tại động Kim Quang núi Càn Nguyên đến cầu kiến. Đạo nhân nói rằng: "Nghe nói tướng quân sinh được một vị công tử nên đặc biệt đến chúc mừng. Cho tôi nhìn quý công tử một chút được chăng?" Lý Tịnh cho người bế đứa bé ra cho Đạo nhân nhìn mặt. Đạo nhân bèn hỏi đã đặt tên chưa, Lý Tịnh đáp rằng chưa.

Đạo nhân bèn nói: "Để bần đạo đặt tên cho đứa bé và thu nhận làm đệ tử của bần đạo, có đưực chăng?" Và đặt tên cho đứa bé là Na Tra.

Theo "Phong thần diễn nghĩa", Na Tra từ thưở bé đã giương được cây cung càn khôn và mũi tên chấn thiên do hoàng đế Hiên Viên để lại, bắn trúng đứa bé hái thuốc của Thạch Cư nương nương, nên đã chuốc lấy tai hoạ lớn. Khi Na Tra bảy tuổi, đến nghịch nước tại cửa Đông Hải ải Trần Đường, làm kinh động đến long cung của Đông Hải Long vương. Tuần hải dạ xoa cùng Long vương tam thái tử Ngao Bính đến ngăn trở, đều bị Na Tra lấy đi tính mạng. Đông Hải Long vương nổi giận, tố cáo với Ngọc đế, buộc Lý Tịnh phải giao nộp Na Tra đền mạng. Na Tra khẳng khái dám làm dám chịu, cõng gông xin chịu tội, rồi tự mình lóc thịt trả mẹ, róc xương trả cha để đền đáp ơn dưỡng dục.

Sau đó, linh hồn Na Tra trôi dạt không nơi nương tựa, bay đến núi Càn Nguyên, được sư phụ là Thái Ât chân nhân triệu vào trong động. Rồi chân nhân sai Kim Hà đồng tử đến ao Ngũ Liên hái về hai đoá hoa sen và ba chiếc lá sen, sau đó ngắt cánh hoa sen xếp thành tam tài, bẻ lá sen xếp thành xương khớp, ba tấm lá sen chia ba phần trên, giữa, dưới hợp thành Thiên - Địa - Nhân, rồi đặt một viên kim đan vào chính giữa, dùng phép tiên thiên, vận khí chín lần, phân: Ly rồng, Đoài hổ, bắt lấy hồn phách của Na Tra, đẩy lên phía trên quát rằng: "Na Tra không biến thành người, còn đợi đến bao giờ!"

Bỗng nhiên một tiếng nổ vang rền, đám hoa, lá sen háa thành hình Na Tra nhảy vụt dậy, chỉ thấy thân cao một trượng, khuôn mặt hồng hào, môi đỏ như son, mắt toả thần quang. Na Tra lập tức sụp xuống bái lạy Thái Ât chân nhân.

Sau vì Lý Tịnh nổi lửa đốt miếu Na Tra, nên giữa hai cha con thành ra thù oán. Nhưng Lý Tịnh được Nhiên Đăng đạo nhân hoá giải, lại thêm hai con trai Kim Tra, Mộc Tra đều đầu quân về với Chu Vũ Vương, nên Lý Tịnh từ bỏ chức vị Tổng binh vào núi ở ẩn, đợi khi thời cơ chín muồi, bèn hợp lực cùng các con góp sức vào sự nghiệp thảo phạt Ân Trụ.

Trong thời gian Vũ Vương phạt Trụ, Na Tra được giao chức tướng tiên phong, cùng Dương Tiễn (sao Kình Dương), Hoàng Thiên Hoá (sao Đà La), Lôi Chân Tử (sao Linh) sánh vai tác chiến, lập rất nhiều kỳ công. Na Tra giỏi vận dụng các chiến lược linh hoạt, biến hoá khó lường, xuất kỳ bất ý, lâm trận dũng mãnh phi thường, thường gan dạ chọc thẳng vào sào huyệt địch, khiến kẻ địch kinh hồn bạt vía.

Sau khi Vũ Vương phạt Trụ thành công, muốn thưởng công ban tước cho Na Tra, nhưng Na Tra khước từ mà thảnh thơi trở về núi Càn Nguyên, theo Thái Ất chân nhân tiếp tục tu luyện. Lý Tịnh cùng Kim Tra, Mộc Tra cũng tương tự, không quyến luyến danh lợi thế tục, đều trở về nơi tu luyện của mình tiếp tục tu tiên.

Về sau, Na Tra được phong làm Hoả tinh, là một ngôi sao tượng trưng cho sức chiến đấu mạnh mẽ, với nguồn năng lượng dồi dào bất tận. Nếu nguồn năng lượng của sao Thái Dương do bị ảnh hưởng bởi lúc mặt trời mọc, lặn, nên không ổn định, lúc mạnh lúc yếu, thì năng lượng của sao Hoả là ổn định, liên tục, không hề tiêu giảm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Hỏa - hình tượng Na Tra

Mơ thấy có hôn ước là điềm báo gì?

Sau khi kết hôn, có người hạnh phúc, có người không. Mơ thấy mình có hôn ước cũng vậy, đôi khi là cát mộng nhưng nhiều phần là ác mộng.
Mơ thấy có hôn ước là điềm báo gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hôn ước là chuyện hệ trọng cả đời người, tuy nhiên, sau khi kết hôn, có người hạnh phúc, có người không. Mơ thấy mình có hôn ước, đôi khi là cát mộng nhưng nhiều phần là ác mộng.
 

► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát

Mơ thấy xem hôn lễ của người khác là gia trạch có vận tốt, cha thì thăng chức hoặc bệnh của mẹ khỏi hoặc anh em thi cử thông suốt. Bản thân bạn thì cũng trải qua những tháng ngày bình yên.

 
Mơ thấy mình làm cô dâu là tình yêu bắt đầu thăng tiến. Những cuộc hẹn hạnh phúc sẽ diễn ra trong bầu không khí có nhạc, có mỹ thuật vô cùng lãng mạn, càng khiến cho tình cảm hai bạn thắm thiết.



Mo thay co hon uoc la diem bao gi hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy mình tham gia lễ kết hôn ngụ ý mặt tình yêu bị trì trệ, vì chuyện nhỏ mà phải cãi vã với người yêu… vì đôi bên đều cố chấp nên không có cơ hội làm lành.

 
Người độc thân mơ thấy bỏ trốn kết hôn là điềm báo bạn ở trong trạng thái bất mãn, không muốn đối diện với cuộc sống hoặc một cá nhân nào đó.
 Người có gia đình mơ thấy mình bỏ trốn kết hôn là điềm báo tình cảm gặp rạn nứt.

 
Cha mẹ mơ thấy có con gái lấy chồng là ngụ ý gia đình tan vỡ.

 
Nữ giới chưa kết hôn mơ thấy lấy chồng là ngụ ý bản thân rất hi vọng được kết hôn.

 
Nữ giới đã kết hôn mơ thấy lấy chồng là ngụ ý bạn bất mãn với cuộc hôn nhân hiện tại.


Mơ thấy chồng thì hãy xem lại tình trạng hôn nhân của mình Cảnh báo: Phụ nữ mơ thấy chuột túi là sắp ly hôn chồng? Lập tức tổ chức lễ kết hôn sau khi… mơ thấy mình đi may áo
Nam giới mơ thấy mình cưới thiếp là ngụ ý cuộc sống không thỏa mãn.

 
Nữ giới mơ thấy chồng mình cưới thiếp là ngụ ý cảm thấy nguy cơ trong tình cảm.
 
Nữ giới đã kết hôn mơ thấy nam giới khác cầu hôn bản thân là ngụ ý cuộc sống hôn nhân sẽ gặp sóng gió.

 
Nam giới đã kết hôn mơ thấy cầu hôn nữ khác ngụ ý cuộc sống sẽ gặp sóng gió, có lẽ bản thân sẽ có chuyện ngoại tình.

 
Nam giới mơ thấy mình cầu hôn cô gái mình thích ngụ ý cuộc sống thực anh ấy yêu thầm cô gái này nhưng không biết làm sao có được trái tim cô ấy nên cảm thấy buồn phiền.

 
Nữ giới mơ thấy người khác cầu hôn mình ngụ ý sắp có ý trung nhân xuất hiện và bạn hi vọng được đối phương chú ý.

 
Nữ giới đang yêu mơ thấy người khác cầu hôn hoặc bạn trai cầu hôn ám chỉ bạn rất yêu người ấy, thậm chí bạn còn cảm thấy giày vò bản thân vì không biết anh ấy nghĩ gì, sao không hỏi trực tiếp anh ấy.

 
Mơ thấy từ hôn là điềm báo tình cảm không ổn định.

 
Mơ thấy một cuộc hẹn để từ hôn ngụ ý bạn không nắm bắt được nhân phẩm của người mình yêu, hoặc mặt tài sản phân chia lo lắng có sự không công bằng.

 
Mơ thấy anh chị em mình từ hôn ngụ ý tình cảm của bạn với anh chị em rất sâu đậm.

 
Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy có hôn ước là điềm báo gì?

Điểm danh 4 chòm sao sĩ diện nhất vòng tròn hoàng đạo

Tự tôn quá hóa tự kiêu, 4 chòm sao kiêu ngạo dưới đây là điển hình của trường hợp quá coi trọng sĩ diện mà mù quáng, khiến người khác khó chịu.
Điểm danh 4 chòm sao sĩ diện nhất vòng tròn hoàng đạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi người đều có lòng tự tôn, nó kích thích sự cố gắng tiến bộ và nỗ lực phát huy tiềm năng bên trong cá nhân. Nhưng tự tôn quá hóa tự kiêu, 4 chòm sao kiêu ngạo dưới đây là điển hình của trường hợp quá coi trọng sĩ diện mà mù quáng, khiến người khác khó chịu.


► Khám phá thêm: Bí ẩn 12 cung hoàng đạo và những điều liên quan tới bạn

Diem danh 4 chom sao si dien nhat vong tron hoang dao hinh anh 2
 
Sư Tử
Chòm sao kiêu ngạo nhất vòng tròn hoàng đạo không ai khác là Sư Tử. Họ thực sự là người bá đạo, thích chỉ huy, lãnh đạo người khác, đối với bất kì sự việc nào cũng đều muốn được ca ngợi và làm chủ. Chòm sao Sư Tử có đồ vật xa hoa hay đạt được chút thành công nào đó thì không thể khống chế được mong muốn khoe khoang cho người khác biết. Không bao giờ che giấu nhu cầu theo đuổi và hưởng thụ tiền tài, cũng không bao giờ che giấu sự sĩ diện của bản thân. Cũng chính vì thế mà không ít lần bị người khác lừa gạt, cho vào bẫy.
Thiên Yết   Chòm sao kiêu căng Thiên Yết lòng dạ thâm sâu, tính toán tỉ mỉ, rất ít người có thể nhìn thấu nên thói sĩ diện và cho mình cao hơn người khác rất mạnh. Dục vọng mãnh liệt bên trong Thiên Yết là thứ luôn chi phối họ, không thể nào che giấu sự ham thích hư vinh, muốn khoe năng lực, dù cho khả năng của mình có hạn thì cũng nhất định phải thắng bằng được, không từ thủ đoạn. Như vậy, sẽ có lúc tổn thương chính mình.
Hé lộ tử vi tương lai gần của 12 cung hoàng đạo Kim Ngưu và Ma Kết - khoảng cách chỉ là một câu nói Bí kíp siêu hay để theo đuổi một chàng Ma Kết
Ma Kết
  Nội tâm trầm tĩnh nhưng Ma Kết lại không ngừng theo đuổi danh vọng. Đối với chòm sao Ma Kết, tiền tài, quyền lực, danh dự chính là khát vọng tột đỉnh, có thể dùng cả đời để theo đuổi. Họ muốn trở thành người giàu có nhất, thành công nhất, rực rỡ nhất trong tất cả nhưng lại cũng ghét nhất là phiền toái, dây dưa. Thế nên, không ít lần chòm sao hư vinh này cảm thấy rối rắm.
Diem danh 4 chom sao si dien nhat vong tron hoang dao hinh anh 2
 
Song Ngư
  Đối với Song Ngư, hư vinh của họ nằm ở việc theo đuổi tình yêu, cả ngày ảo tưởng hôn nhân lãng mạn ngọt ngào, chia tay rồi thì giả bộ đáng thương, cô độc để người khác chú ý đến mình. Để đạt lấy tình yêu và mình mong muốn, Song Ngư sẵn sàng giả tạo, đóng kịch và chỉ khoe khoang những thứ tốt đẹp, còn nỗi buồn thì giấu nhẹm.
 
5 điều cần biết khi hẹn hò với Song Ngư Top sao nữ chấp nhận mình bị … lừa tình

Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 4 chòm sao sĩ diện nhất vòng tròn hoàng đạo

Chọn tên theo hoa để mang lại may mắn cho bé yêu

Hoa là một trong những 'ứng cử viên' sáng giá để bạn đặt tên cho con. Nhưng, muốn chọn cho con một tên thật hay và ý nghĩa, trước tiên, bạn cần hiểu tính biểu
Chọn tên theo hoa để mang lại may mắn cho bé yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trưng của mỗi loài hoa.

HOA ĐỖ QUYÊN

Đỗ Quyên còn có tên gọi là Sơn Thạch Lựu, Ánh Sơn Hồng, Mãn Sơn Hồng... Đỗ quyên có nhiều giống với nhiều màu hoa và là một trong những loài hoa nổi tiếng đẹp, hiếm. Ở Việt Nam, loài hoa này mọc rất nhiều ở vách đá của một thác nước nổi tiếng trong rừng quốc gia Bạch Mã, thác Đỗ Quyên – dòng thác mang tên loài hoa này.

Hoa Đỗ Quyên mang ý nghĩa dịu dàng, ôn hòa và nữ tính (theo quan niệm Trung Quốc). Dùng hoa Đỗ Quyên làm tên, ngoài tên gọi Đỗ Quyên, còn có thể tách ra và có thể lựa chọn sắc thái màu sắc để kết hợp lại, ví dụ Hồng Quyên, Bạch Quyên, Hoàng Quyên… Hoặc bạn có thể lấy cách gọi nho nhã của Đỗ Quyên để đặt tên như Thiên Hương, ví dụ Trương Thiên Hương, Trịnh Thiên Hương.

HOA TRÀ (SƠN TRÀ)

Trong ngôn ngữ của các loài hoa, Sơn Trà mang ý nghĩa là 'sự duyên dáng nhất'. Dùng hoa Trà để đặt tên cho con, bạn có thể học tập cách tưởng tượng phong phú lãng mạn như: nếu họ Chu có thể đặt tên con gái là Chu Kim Trà. Hoặc có thể dùng cách gọi khác của hoa Sơn Trà là “Hải Hồng” để đặt tên gọi như Nguyễn Hải Hồng (hoa Trà màu hồng)…

HOA MAI

Hoa Mai hay còn gọi là “Xuân Mai” là loài hoa từ màu sắc, hương thơm đến tư thế đều khiến các loài hoa khác phải ngưỡng mộ. Có rất nhiều người thích hoa Mai và cũng có rất nhiều người lấy hoa Mai để đặt tên, ví dụ như Hiểu Mai, Đông Mai, Tú Mai, Ngọc Mai, Nguyệt Mai, Tố Mai, Hoàng Mai… Những cái tên này rất dễ nghe, nhưng nếu thấy nhiều người đặt tên như thế thì bạn hoàn toàn có thể tìm hiểu thêm ý nghĩa của loài hoa này (hoa Mai không những có cái thanh tao, trong trắng của tuyết, mà còn có mùi hương quyến rũ, lan tỏa) để tự sáng tạo ra một cái tên thật hay và mang nét đặc trưng nhất của loài hoa này cho con mình.

Chon ten theo hoa de mang lai may man cho be yeu hinh anh
Tên hoa Hồng: vừa đẹp người, vừa đẹp nết

HOA HỒNG

Hoa hồng có hương thơm ngào ngạt. Đặc tính của loài hoa này là thích ánh sáng mặt trời và chịu được giá lạnh. Người phương Tây quan niệm hoa Hồng là loài hoa hàm chứa tình cảm nhiều nhất. Dùng hoa Hồng để đặt tên có thể mang nghĩa là: có cái tình sâu nặng, đẹp người và đẹp cả nết.

HOA TƯỜNG VI

Tường Vi thuộc loài cây lá rụng, hoa Tường Vi có màu trắng hoặc màu phấn hồng, hoa có nhiều loại: Tường Vi thập tỉ muội, Tường Vi phấn đoàn… Tường Vi là loài hoa không chịu được trong phòng ấm, mà thích dãi dầu với mưa nắng, rèn rũa để có sức sống mạnh mẽ. Những người thích tính cách này của Tường Vi có thể để con mình mang tên loài hoa này. Bạn có thể dùng chữ Tường (Tường Anh) hoặc cả hai chữ Tường Vi để đặt tên cho con đều được.

HOA HẢI ĐƯỜNG

Các văn nhân Trung Quốc trước kia đã gọi Hải Đường là “mắt xanh”, họ miêu tả loài hoa này giống như má hồng của các thiếu nữ khi thẹn thùng hay xấu hổ với ai đó. Hải Đường là loài hoa vừa thuần khiết vừa quý phái nhưng màu sắc của hoa lại không kém phần tươi mới, nên Hải Đường rất thích hợp để đặt tên cho những người con gái đẹp.

 

 

HOA LÊ (LÊ HOA)

 

Trong lịch sử đã không ít danh nhân miêu tả đặc tính của hoa Lê: một loài hoa thanh khiết, trắng trong. Lấy chữ hoa Lê để đặt tên tương đối dễ nghe, ví dụ như: Phạm Lê Hoa, Phan Lê Hoa, Hà Lê Hoa…

HOA CÚC

Hoa Cúc là loài hoa được người Nhật Bản rất yêu mến, bởi hoa tượng trưng cho sự trường thọ. Nhiều người lý giải rằng họ yêu hoa Cúc vì hoa vốn giản dị và lâu tàn. Hoa Cúc còn có thể gọi là hoa Hoàng Lan. Hoa Cúc không được phú quý như hoa Đỗ Quyên, không quyến rũ như hoa Lan, nhưng nó là loài hoa chịu được gió rét, gian khổ và rất lâu tàn. Phẩm chất vừa cương vừa nhu này của hoa Cúc rất xứng đáng để bạn cho con mình mang tên loài hoa này.

HOA LAN

Hoa Lan, cùng với hoa Cúc và Nguyệt Quế, cũng được liệt vào danh sách 10 mỹ hoa Trung Quốc. Do có nhiều người thích hoa Lan nên những người mang tên loài hoa này cũng nhiều. Ngoài ra, bạn có thể đặt tên con bằng hoa Lan theo mùa như Xuân Lan, Thu Lan, Hạ Lan…

THỦY TIÊN

Thủy Tiên cũng được liệt vào hàng Top 10 hoa đẹp nhất Trung Quốc. Đặc tính của Thủy Tiên là mùi hương không quyến rũ, nhưng dáng hoa lại thướt tha yểu điệu như thần như tiên. Thủy Tiên, với đặc tính này của mình, rất xứng đáng để bạn chọn làm tên cho con gái mình.

BÁCH HỢP (HUỆ TÂY)

Hai chữ “Bách Hợp” là ý chỉ mọi sự được hòa thuận, tốt lành, nên nhiều người khi tặng hoa cho bạn bè thường chọn mua hoa Bách Hợp. Tức là hoa này có hàm ý cát tường, nên chọn loài hoa này để đặt tên cho con là rất hợp lý, chỉ có điều hai chữ Bách Hợp nghe có vẻ giống tên nam giới mà thôi.

LIÊN HOA (HOA SEN)

Điều tuyệt diệu của Liên Hoa là sống trong bùn đất mà lại tinh khiết đến vô ngần, vì thế hoa Sen có địa vị rất cao trong lòng mọi người. Phẩm chất cao đẹp thanh khiết của hoa Sen khiến ai cũng phải kính phục. Không những hoa đẹp hương thơm mà hoa còn không bị cuốn theo dòng nước. Vì thế, nội hàm của hoa Sen là phẩm chất cao quý gần bùn mà không bị hôi tanh mùi bùn.

Dùng hoa Sen để đặt tên, thông thường dùng chữ Liên hoặc chữ Hà, sau đó dùng thêm một chữ khác để ghép vào, ví dụ: Nguyệt Hà, Liên Hoa, Bích Liên, Ngọc Liên, Vũ Hà…

Theo Tìm hiểu khoa học về tên gọi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn tên theo hoa để mang lại may mắn cho bé yêu

Khả Năng Dự Đoán Của Tứ Trụ

- So với Tử Vi hay Chu Dịch Dự Đoán,khối đồ hình của Tứ Trụ trông thật ngắn gọn & đơn giản. Nó chỉ bao gồm cácký hiệu của Âm Dương ( + & - ), Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ).

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Lập luận Âm Dương & Ngũ Hành tương tự như luận bệnh bên Đông Y, nên Tứ Trụ cho kết quả dự đoán tuỳ thuộc vào năng lực tư duy của người dự đoán.

- Như bao phương pháp dự đoán học Trung Hoa, chỉ thể hiện chữ NHÂN (Khả năng) của một con người trong tiến trình vận động của một số phận. Còn chữ ĐỊA (Hoàn cảnh xã hội) chữ THỜI (Giai đoạn xã hội) Tứ Trụ cũng không thể dự đoán được.

- Cần nhận định rằng một số trường hợp ngoại lệ rơi vào những người có khả năng ngoại cảm (Không lẫm lẫn với khả năng sành tâm lý) Họ có khả năng dự đoán chính xác đến từng hoàn cảnh trong từng giai đoạn xã hội cụ thể. Các nhà bói toán số phận giỏi hiện nay khả năng sành tâm lý cao hơn là khả năng ngoại cảm.

- Vì thế, có sự Khác biệt giữa Bói toán & Dự đoán:

- Nhà Bói toán: Sử dụng khả năng tâm lý nhằm hướng lập luận của lá số sao cho phù hợp với đối tượng. Tức là, họ thực hiện qui trình “Tạo nên 1 lá số sao cho phù hợp với đối tượng” Ở đây, Nhà bói toán lấy đối tượng, không phải lá số, để lập luận.

- Nhà Dự đoán thì ngược lại: Lập luận lá số nhằm đưa ra lời giải đáp theo lý thuyết. Tiếp theo, căn cứ vào hoàn cảnh, môi trường sống của đối tượng mà đưa ra lời giải đoán. Tức là, Nhà dự đoán thực hiện : “Lập luận của lá số là căn cứ để đưa ra lời giải đoán cho đối tượng” Ở đây, Nhà dự đoán lấy lá số, không phải đối tượng, để lập luận.

- Trong dự đoán số phận, xác định yếu tố “Cách” của 1 số phận là công việc quan trọng. Nó quyết định sự Hay - Dở của 1 lá số.

- Chu Dịch Dự Đoán dự đoán “Cách ” phức tạp và khá rắc rối. Tử Vi luận giải “Cách” Hay - Dở này cũng rắc rối đến mơ hồ.

- Với Tứ Trụ thì Khác, nhìn vào các mũi tên của Tứ Trụ vừa lập xong sẽ thấy ngay được “Cách”:
Quân tử, bần tiện, phúc hậu hay hạ cách,
Giỏi, dở, dốt, tài năng hay phi thường,
Hậu Vận sáng hay u tối, Tứ Trụ thể hiện ngay trên các mũi tên.

-Dưới đây, dự đoán Tứ Trụ sẽ được trình bày gồm 4 phần: Hình thể Tứ Trụ, Kỹ thuật lập Tứ Trụ, kỹ thuật lập bảng đánh giá Tứ Trụ.

- Theo luận cứ của nguyên lý Chủ Vị:
Năm là Về Già.
Tháng là Trung Niên.
Ngày Trưởng Thành.
Giờ là Thiếu Thời.

- Bản Chất & Hình Thức:
Địa Chi mang tính Âm, biểu diễn Bản Chất của số phận ;
Thiên Can mang tính Dương, biểu diễn Hình Thức của số phận.

- Phân Định 4 Giai Đoạn Cuộc Đời: Việc phân định 4 giai đoạn căn cứ vào 2 đặc điểm chung trong sinh hoạt sống của con người: Đặc điểm sinh học và đặc điểm xã hội.
Việc phân định từ 2 đặc điểm này là mang tính tương đối. Tính tương đối này phụ thuộc vào hoàn cảnh sống, môi trường xã hội, ví dụ như đa số sinh viên hiện nay phụ thuộc vào cha mẹ cho đến khi tốt nghiệp ra trường, nhưng vẫn có một thiểu số sinh viên họ đã tự lập từ lâu trước đó thì phải tính là tuổi vào đời sớm (Trưởng thành).

Căn cứ vào tiêu chí 2 điểm trên, một bảng phân định 4 giai đoạn cuộc đời được thể hiện như sau:



Giải thích bảng:

- Thiếu thời: Giai đoạn mà hoạt động của cá nhân còn phụ thuộc nhiều vào cha mẹ. Ở một số nước tiên tiến, sinh viên đi làm ngoài giờ để trang trải việc học, điều này chỉ cho thấy rằng họ đã bớt đi phần phụ thuộc vào cha mẹ, do sinh viên được thừa hưởng những tiện ích khác từ nhà trường và xã hội đem lại, mà kinh phí tạo ra các tiện ích này có từ các khoản thuế mà cha mẹ họ đóng.

- Trưởng thành: Đây là giai đoạn một cá nhân quyết định lấy toàn bộ các khoản thu nhập, chi tiêu và chịu trách nhiệm mọi hành động của bản thân trước luật pháp, xã hội.

 - Trung niên: Giai đoạn lập gia đình, có con cái. Trách nhiệm mới, một người chồng (vợ), một người cha (mẹ) cùng các thói quen, biến đổi về tâm sinh lý.

- Về già: Xác định mốc là chu kỳ 60 năm Hoa Giáp ?  Điều này chỉ nói lên rằng đã chấm dứt 1 chu kỳ hoa giáp. Xác định mốc là tuổi về hưu ? Điều này chỉ đúng  trên phương diện luật pháp, xã hội.
Xác định mốc theo Thời Sinh Học ? Thời Sinh Học xác định được thời điểm sinh học rơi xuống điểm thấp nhất tính từ khi chào đời là vào năm 49t ở cả hai phái. Ở phụ nữ, hiện tượng về già diễn ra rõ hơn so với đàn ông qua hiện tượng mãn kinh…. Ở thời điểm này, quá trình Đồng hoá giảm đi, quá trình Dị hoá tăng lên, tái tạo tế bào chậm hơn sự huỷ của tế bào chết. Về mặt xã hội, người đàn ông 50t được đánh giá giai đoạn chín mùi của sự nghiệp (trước khi về hưu 60t), và tuổi thọ trung bình con người trên thế giới hiện nay trong khoảng 75t - 80t, vì thế, nếu tính theo số học trung bình thì 50t đã có thể coi là về già.

Những trường hợp cá biệt:

- Có những cá nhân vì nhiều lý do phải kết thúc việc học từ rất sớm, ra đời tìm kế sinh nhai. Trong trường hợp này, tuổi thơ bị rút ngắn: Tính cho tuổi trưởng thành.

- Có những cá nhân vì hoàn cảnh phải tự lập hoàn toàn khi là sinh viên: Sẽ tính là tuổi Trưởng thành.

- Có những cá nhân lập gia đình và có con sớm. Trong trường hợp này, độ tuổi trưởng thành kết thúc sớm: Tính cho tuổi trung niên.

- Có những cá nhân sau khi chính thức rời ghế nhà trường đi làm, nhưng sau đó bỏ dở công việc tiếp tục học lại hay học lên cao:
Tính tuổi trưởng thành ngay thời điểm chính thức rời ghế nhà trường.

- Có những cá nhân đã lập gia đình lâu năm không có con nhưng vẫn ở với nhau đến 49t: Tính Trung niên.

 - Có những cá nhân vì các nguyên do khác nhau đã có con đầu lòng nhưng không nuôi nấng đứa trẻ ấy: Tính là độ tuổi Trưởng thành.

* Có 3 /4 vượng nên Nhân Cách Tứ Trụ là Thượng Cách.

* Thượng Cách có 1 tương khắc, nên “Cách” Tứ Trụ là Tài năng lớn.

Tứ trụ này là Tiện Cách.
Khả năng cho thấy đây là người có tài. 

Tứ Trụ này là Quí Cách, nhưng khả năng không phát huy hiệu quả. 

* Thiếu thời: Nhân Cách ẩn vào bên trong.

* Trưởng thành: Nhân Cách lộ ra bên ngoài.

* Trung niên: Nhân Cách lộ ra bên ngoài.

* Về già: Nhân Cách ẩn vào bên trong.


Tứ trụ có ¾ là tương sinh, tương hỗ, đây là Tứ Trụ người có tài.

* Thiếu thời: là tương khắc nên việc học không tốt.

* Trưởng thành: tương hỗ vượng: Khả năng, công việc tiến triển tốt.

* Trung niên: tương hỗ vượng: Khả năng, công việc tiến triển tốt.

* Về già: tương sinh: Khả năng, công việc tiến triển tốt. 

* Thiếu thời: Can khắc Chi. Thiếu trung thực.
    Học vấn kém do tác động từ bên ngoài. Bẩm sinh là tốt.

* Trưởng thành: Can Chi tương hỗ. Trung thực.

   Tài năng & Nhân Cách tương hỗ nhau.

* Trung niên: Can Chi tương hỗ. Trung thực.

   Tài năng & Nhân Cách tương hỗ nhau.

* Về già: Can sinh Chi. Trung thực.

   Tài năng có từ sự nỗ lực. Phẩm chất lúc này đã suy kém.

Xem xét, đánh giá chi tiết một Tứ Trụ

- Ở trên ta xác định Cách người ấy có tài năng, nhưng có tài năng gì thì chưa rõ. Biết là Cách xấu, nhưng xấu như thế nào chưa hay. Muốn biết rõ điều này ta xem lập - Ta lấy các qui ước bên Đông Y để ứng dụng dự đoán:


Ta có bảng sau:







Theo qui tắc Ngũ Hành Biến Hoá (bảng 3), ta có:


Theo bảng 9, ta có:


Thay thế các vị trí Ngũ Hành vào bảng 8, ta có:




Ở phần trên tôi sử dụng các nguyên lý bên Đông Y nhằm tạo lập nên bảng vận động bên trong & thể hiện bên ngoài. Trong phần này, tôi trình bày một biểu đồ ngũ hành thể hiện các mối quan hệ khác:

·       Quan hệ Tương Sinh:

Cha mẹ sinh trợ cho Tôi

Tôi sinh trợ cho Vợ con tôi

Vợ con tôi sinh trợ cho các quan hệ anh em, họ hàng của tôi

Quan hệ anh em, sinh trợ cho các mối quan hệ ngoài xã hội của tôi

Các mối quan hệ ngoài xã hội của tôi sinh trợ cho Cha mẹ tôi.

·       Quan hệ Tương Khắc:

Quan hệ ngoài xã hội của tôi kềm chế Tôi

Tôi kềm chế các mối quan hệ anh em của tôi

Quan hệ anh em của tôi kềm chế Cha mẹ tôi

Cha mẹ tôi kềm chế Vợ con tôi

Vợ con tôi kềm chế các mối quan hệ ngoài xã hội của tôi.

Các mối quan hệ Tương Sinh, Tương Khắc trên được biểu diễn bằng đồ hình sau:






Ta đã có (Xem ví dụ trên):

Thay vào ta có:


Ở 2 giai đoạn Thiếu thời & Trưởng thành do chưa lập gia đình, mối quan hệ Vợ Con được thay bằng mối quan hệ với Bạn Gái.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khả Năng Dự Đoán Của Tứ Trụ

Vụ kiện hoa hậu Phương Nga: Nhân quả báo ứng tội tà dâm

Vụ kiện hoa hậu Phương Nga chỉ là kết quả của tội tà dâm của hai con người làm việc bất chính và họ đang phải trả giá cho những gì mình đã gây ra.
Vụ kiện hoa hậu Phương Nga: Nhân quả báo ứng tội tà dâm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vụ kiện hoa hậu Phương Nga chỉ là kết quả của tội tà dâm của hai con người Toàn Mỹ, Phương Nga khi họ từng làm việc bất chính và đang phải trả giá cho những gì mình đã gây ra.   Những ngày qua, dư luận không khỏi xôn xao khi vụ kiện tình, tiền liên quan tới Hoa hậu Phương Nga cùng những tình tiết mới về bản hợp đồng tình dục với đại gia Cao Toàn Mỹ (Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tin học Không gian ảo VinaCyber, thành viên Hội đồng Sáng lập VinaGame) tiếp tục gây xôn xao dư luận.    Câu chuyện đến đây chưa thực sự ngã ngũ nhưng ai cũng dễ dàng nhận ra cả hai đều sai, vấn đề họ tiếp tục thể hiện cái sai của mình trước mặt công chúng, bàn dân thiên hạ tới mức nào mà thôi. Trước khi chờ kết quả chính thức, chúng ta cùng nhìn nhận về vụ kiện này xét về khía cạnh nhân tướng học và Phật pháp.

cao toan my
 
 

1. Vụ kiện hoa hậu Phương Nga: Khía cạnh nhân tướng học

  Xem tướng mặt hay còn gọi là xem bói tướng mặt, bói tướng mặt, tướng mặt là cách luận mệnh thông qua việc quan sát những đặc trưng trên khuôn mặt. Đây là nghệ thuật xem tướng cổ xưa nhất của người Trung Hoa, cũng chính là thuật xem tướng quan trọng nhất.   Tùy từng trường phái tướng số khác nhau và có cách nhìn nhận về tướng mệnh khác nhau, tuy vậy tựu chung có các thức cơ bản để quan sát tướng mạo con người . Về tổng quan, định thần để biết thanh lọc, quan sát mặt thấy, quan sát ngôn ngữ, cử chỉ : hành , trụ, tọa, ngọa…; quan sát khí sắc của các bộ vị. 
 
Theo đó, ông Toàn Mỹ là người có khuôn mặt gãy là tình trạng mà gương mặt có phần trán rộng, phần cằm dài và nhô ra phía trước nhiều. Những người này nhanh nhẹn, tinh ranh hay tư lợi cho bản thân.   Khuôn mặt gãy ở cả nam lẫn nữ đều không được đánh giá cao bởi ảnh hưởng lớn đến thẩm mỹ chung của toàn bộ gương mặt, phá vỡ đi đường nét hài hòa vốn có của ngũ quan. Trong nhân tướng học, khuôn mặt bị gãy cũng là tướng số không tốt, thường gặp nhiều khó khăn, trắc trở trong cuộc sống và sự nghiệp. 
 
Đàn ông có lỗ mũi nhỏ, ngắn, hai cánh mũi mỏng, đầu mũi thấp và cong y như mỏ chim ưng là tướng gian xảo, không biết giữ chữ tín, keo kiệt. Ngoài ra, khuôn mặt của ông Toàn Mỹ có đầu nhọn, cằm nhọn, hàm gồ và bạnh ra, môi mỏng, tai lộn, trán hẹp thường gian xảo, có ác tâm. Những người này nhìn rất rõ ràng thường hiếu thắng, thích tranh đấu hơn thua. Thêm nữa, người này không đáng tin cậy, dễ phản bội bạn bè để trục lợi cá nhân. Vì lợi ích của bản thân, họ bất chấp tất cả để đạt được, không bao giờ giảng đạo lý.    Còn nói về Hoa hậu Phương Nga, cô có đôi mắt sáng tinh anh, thông minh sắc sảo. Thêm vào đó khuôn mặt nhỏ, sắc mặt xanh là người tính toán, tuy nhiên tổng thể khuôn mặt trông qua khá hiền hòa. Nếu chưa hiểu thấu người này nam giới sẽ mau chóng sa vào tình ái nhưng đến về lâu về dài thường xuyên khắc khẩu.

Xem thêm: Luận bàn tướng phụ nữ gian truân, bất hạnh nhân vụ kiện Hoa hậu Phương Nga

Hoa hau Phuong Nga
 
 

2. Vụ kiện hoa hậu Phương Nga: Góc nhìn Phật pháp
 

Người xưa có câu: Nhân nào, quả đó. Con người khi sinh ra trên cõi đời này không mang theo thứ gì và khi rời đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng. Ngày nay vì không tin vào nhân quả, khi việc không hay xảy tới chúng ta lại nghĩ nó là không may, là vận rủi vô tình tới. Tuy nhiên, những điều không may mà nay chúng ta đang phải trải qua đó là kết quả của rất nhiều hành động sai trái trước đó mà thành.
 
Nếu am tường về nhân quả rồi ắt sẽ không dám tạo tội. Vì nếu so sánh sẽ thấy rằng, nếu đại gia Toàn Mỹ không chạy theo tình cảm nhất thời, chỉ vì ham ái, ham dục vọng mà niềm vui không bao nhiêu mà hậu quả thống khổ phải trả lại vô cùng tận.

Kết quả giờ đây đại gia Toàn Mỹ phải gánh chịu đó là mất tiền, vợ cũng muốn chấm dứt cuộc hôn nhân, công việc đình trệ vì phải theo sát vụ kiện, mọi người nhìn bằng ánh mắt xem thường. Nếu đặt lên bàn cân, người khôn ngoan sẽ biết chọn điều thật sự có lợi cho mình chứ không chỉ vì mù quáng mà sa chân để ra nông nỗi này. Đối với cô gái xinh đẹp Phương Nga cũng vậy, cô vừa trẻ vừa thông minh, con đường công danh rộng mở nhưng suốt hai năm qua phải theo đuổi vụ kiện tụng này vừa mang điều tiếng, sự nghiệp đi xuống, tâm bất an...
  Đứng về khía cạnh hạnh phúc gia đình, hay nói rõ là cuộc sống vợ chồng, trong suốt quá trình giáo hóa của mình, đức Phật đã không ít lần nhắc nhở người nữ phải luôn giữ gìn tiết hạnh và người nam không được sanh tâm tà vậy.
 
Ngoại tình được quy vào tội tà dâm. Người có thói tà dâm thường hay có ý nghĩ, lời nói và hành vi xấu. Họ gây ra sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình của bản thân và của cả người khác. Tội tà dâm tuy mang đến khoái cảm nhất thời nhưng nó gây ra quả báo rất khủng khiếp. Một số thì bị mất mạng, một số thì bị mất chức vị, một số hủy hoại gia đình và một số thì bị tuyệt tự. Một người có thể có mệnh phú quý, nhưng nếu phạm tội tà dâm, anh ta có thể trở nên khốn khổ lao đao suốt cuộc đời. Có thể xem thêm những cái kết NGHIỆT NGÃ cho những kẻ có ý định tà dâm.
 
Cách đây hơn 2.500 năm, Đức Phật đã đề cập đến vấn đề ngoại tình và hệ lụy của nó. Người ngoại tình được xem là kẻ sát nhân hủy hoại cả tương lai của một gia đình hạnh phúc. Đấy là chưa kể đến con cái của họ cũng bị ảnh hưởng không tốt từ việc bố mẹ li dị do ngoại tình. 
 
Khi người chồng chồng ngoại tình, họ thỏa mãn được bản thân nhưng hệ lụy là vợ của anh ta đau khổ. Người vợ bất an sẽ làm cho bầu không khí trong gia đình đó bất an, con cái họ cũng cảm nhận được điều này. Bởi vậy, việc người chồng ngoại tình không chỉ làm cho vợ anh ta đau khổ mà tất cả các thành viên trong gia đình đó cũng bị liên lụy, ngay cả chính anh ta cũng phải đứng trong vũng lầy bất hạnh đó. Khổ đau do ngoại tình gây ra vì thế như một loại vi rút, nó có khả năng lây lan rất nhanh và phá hủy hạnh phúc gia đình.
 
Nói về đàn bà là người thứ ba, họ tự đắc rằng mình đã chiếm được cảm tình của người đàn ông họ yêu. Rồi một ngày, họ nhận ra, người đàn ông kia chỉ coi họ như một món hàng. Buồn thì tới, chán thì lui. Họ vốn nghĩ, chỉ cần yêu như thế, chỉ cần cặp kè với một anh có tiền là họ sung sướng cả đời. Rồi sau này lấy chồng sẽ sống cuộc sống khác.    Tuy nhiên, nhân quả đến lúc nào họ không hề hay biết. Đối với hoa hậu Phương Nga, nhân quả đến sớm nên chúng ta nhìn thấy rõ những gì mà cô phải gánh chịu hậu quả. Có thể nói, người phụ nữ là tác nhân khiến gia đình người khác tan vỡ cũng phải chịu quả báo tương tự. Họ vướng tội tà dâm, phải chịu sự dè bỉu của dư luận, luôn sống trong day dứt và mức độ nặng nhẹ còn tùy thuộc vào những gì họ đã từng gây ra.
 
Ai cũng tưởng chỉ có sát sinh mới đoản mệnh, nhưng thật ra tà dâm cũng chiêu cảm lấy các bệnh hiểm nghèo, tán tài, mất phúc lộc và đoản mệnh. Chưa kể sau khi chết rồi còn vào địa ngục thọ hình chịu khổ.
 
Vì thế, vụ kiện hoa hậu Phương Nga thực sự là lời cảnh tỉnh cho những ai đang có ý định hoặc đang phạm phải tội tà dâm. Đừng vì một phút yếu lòng, ngoại cảnh dụ dỗ mà làm tan nát gia đình mình hay của người khác. Nếu người đã lỡ phạm vào tà dâm thì ngay nơi đây phải hạ quyết tâm từ bỏ, tha thiết sửa đổi lỗi trước, phát nguyện sám hối, vĩnh viễn không tái phạm. Như vậy mới có thể chuyển đổi vận mệnh mình thành tốt đẹp được.


Minh Minh

Tìm hiểu đàn ông trốn vợ ngoại tình qua 7 nét tướng mặt Lông mày sâu róm, cả xóm chửa hoang?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vụ kiện hoa hậu Phương Nga: Nhân quả báo ứng tội tà dâm

Phong thủy bàn làm việc thúc đẩy đào hoa

Phong thủy bàn làm việc có ảnh hưởng đến sự nghiệp, tài vận thì hầu như ai cũng biết, nhưng nó còn có tác dụng đối với nhân duyên nữa đấy. Bí quyết bố trí bàn
Phong thủy bàn làm việc thúc đẩy đào hoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy bàn làm việc có ảnh hưởng đến sự nghiệp, tài vận thì hầu như ai cũng biết, nhưng nó còn có tác dụng đối với nhân duyên nữa đấy. Bí quyết bố trí bàn làm việc thúc giục đào hoa, ai còn độc thân phải học ngay thôi.


Phong thuy ban lam viec thuc day dao hoa hinh anh 2
 

1. Trái cao, phải thấp

  Phong thủy bàn làm việc phải tuân thủ nguyên tắc bất di bất dịch: trái cao, phải thấp nên văn kiện, đồ dùng đều nên bày sang bên trái. Điều này không chỉ giúp chủ nhân thăng cấp sự nghiệp, phát vận làm quan, thăng tiến nhanh chóng mà còn có thể vượng đào hoa, được quý nhân quan tâm, thu hút người khác phái.  

2. Tránh thất vận đào hoa

  Để cải thiện phong thủy bàn làm việc, chiêu dụ đào hoa thì nên bày vật phẩm phong thủy tình duyên. Ví dụ như đôi uyên ương, hoa hồng, thủy tinh hồng hay dây kết cát tường,… Nếu bày đúng thì chắc chắn nhân duyên thịnh vượng, còn bày sai có khi đào hoa không thấy, chỉ thấy xui xẻo.   Bày khai vận đào hoa bên trái sẽ đưa đến nhân duyên chân thành. Lãnh đạo, đồng nghiệp khác phái sẽ tận lực yêu mến, giúp đỡ cả trong công việc lẫn về tình cảm. Nhưng bày vật phẩm phong thủy bên phải bàn làm việc thì chiêu dụ đào hoa dữ, gặp vướng mắc tình cảm với cấp trên, đồng nghiệp mang tới phiền nhiễu, sắc dục.   

3. Bày thực vật tốt lành

Phong thuy ban lam viec thuc day dao hoa hinh anh 2
 
Ở nơi làm việc bày hoa, cây cảnh là rất tốt, lợi khí, lợi vận. Muốn tình duyên như ý, quan hệ đồng nghiệp hài hòa thì trưng một chậu cây lá hình tròn mang ý nghĩa đoàn viên, may mắn. Muốn không vướng thị phi, tránh sát tránh họa thì bày một chậu cây xương rồng.  

4. Không bày búp bê

  Phong thủy học cho rằng, búp bê đại diện cho tiểu nhân, trên bàn làm việc có bày thì vô tình chiêu dụ tiểu nhân đến với mình. Có thể bản thân bạn không ý thức được nhưng tiểu nhân đã ngấm ngầm ở phía sau hãm hại, nói xấu, chia rẽ, gây ảnh hưởng đến sự nghiệp và tình duyên của bản mệnh.  

5. Màu sắc cốc uống nước

  Thứ quen thuộc nhất trên bàn làm việc của mỗi người là cốc uống nước. Màu cốc trong phong thủy bàn làm việc cũng có tác động không nhỏ tới nhân duyên vận nơi công sở. Tốt nhất là dùng cốc có hình dáng thông thường, đừng quá kì lạ, màu sắc trang nhã, xinh đẹp. Cốc màu trắng đơn giản hóa ra lại là phù hợp nhất. Do đó mà khi sử dụng cốc nên tìm hiểu màu sắc hợp mệnh, chẳng hạn như Mệnh Thủy hợp màu gì, mệnh Thổ hợp màu gì,..

Chậu sen đá đẹp lung linh cho bàn làm việc của cô nàng mệnh Mộc Hướng dẫn cách hóa giải lỗi phong thủy bàn làm việc thường gặp 5 tip phong thủy bàn làm việc dễ làm, dễ tăng tài
  Tâm Lan
 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy bàn làm việc thúc đẩy đào hoa

Giải mã số đào hoa của người tuổi Tý

Số đào hoa của người tuổi Tý thường trong một thời gian ngắn. Khi cảm nhận được một tình yêu đang đến gần, người này nên nắm bắt lấy cơ hội.
Giải mã số đào hoa của người tuổi Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu không, họ sẽ bỏ lỡ mất thời cơ có được người mình yêu thương.

Sắc thái tình cảm của người tuổi Tý khá phong phú và thường "đứng núi này trông núi nọ". Họ cần cố gắng điều hòa tình cảm của mình, tránh trường hợp yêu nhiều mà cuối cùng lại không thu được kết quả. Nếu thấy hợp tình, hợp duyên, họ nên mở rộng tấm lòng kẻo lại rơi vào tình cảnh "đêm dài lắm mộng".


 

tuoi ty (3)
 

Để tạo được ấn tượng đối với phái kia, người tuổi Tý nên thể hiện những nét vốn có của mình, đối xử thân thiện, chân thành với mọi người. Để tạo được sự hấp dẫn với nam giới, nữ tuổi Tý có thể mặc những bộ quần áo trẻ trung, năng động và hoạt bát.

Theo phong thủy, một số đồ vật đem lại may mắn và tình yêu cho người tuổi Tý là: hoa hồng, quả nhãn, bạch kim.

Các bài viết sau cùng chủ đề người tuổi Tý, có thể bạn quan tâm:

Tuổi Tý hợp với tuổi nào trong tình yêu, hôn nhân Đặt tên hay cho người tuổi Tý để tăng may mắn tài lộc Bí quyết chinh phục người tuổi Tý trong tình yêu

(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã số đào hoa của người tuổi Tý

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd