Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cải tạo đường tình duyên

Chỉ cần bố trí lại đồ vật trong nhà và tác động đến từ trường xung quanh bằng các vật phẩm phong thủy, các mối quan hệ của bạn sẽ được cải thiện, tạo cơ hội phát triển chuyện tình duyên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Người ta thường quan niệm nhân duyên là do “số phận”. Nhưng nếu xét kỹ, hệ số may mắn ấy có thể tác động được dựa trên tương quan giao tế hằng ngày. Trong phong thủy, mọi hành động cải tạo thực chất cũng chỉ nhằm tạo ra môi trường sinh hoạt hợp lý để bạn có được sức khỏe tốt nhất, tâm trạng vui tươi hứng khởi, sẵn sàng đón nhận những mối quan hệ mới. Thêm vào đó là việc sử dụng vật khí phong thủy hợp lý nhằm đem lại cho người lận đận đường tình duyên nhiều cơ hội hơn.

1. Khắc phục hướng nhà xấu

Nếu nhà không hợp hướng với gia chủ, ta có thể đặt một số vật phẩm phong thủy trừ chướng khí, mang lại vận may (cả vận may về tình cảm) như: kỳ lân, tỳ hưu, sư tử… trước cửa. Tình duyên không thể suôn sẻ, nếu bạn cứ gặp phải sự “cản trở” mãi.

Một số loài thực vật cũng có tác dụng cải tạo đường tình duyên là xương rồng Bát Tiên, hoa mẫu đơn... Hãy đặt một cặp xương rồng trước cửa nhà hoặc trước ban công, phòng ngủ để xua đuổi những thế lực xấu. Bên cạnh đó, có thể bố trí hoa mẫu đơn trước nhà, đặt 2 chậu hoa cẩm tú cầu 2 bên nhà hoặc chưng hoa đào giả trong bình lớn cũng có tác dụng tương tự.

2. Bài trí lại phòng ngủ

Theo phong thủy, nơi tác động đến chuyện tình duyên nhiều nhất chính là phòng ngủ. Vì vậy, người lận đận trong chuyện cưới xin nên treo một tấm hình chân dung của mình ở những cung tốt cho tình cảm như: Thần hôn, Vượng trang, Hoan lạc... Đồng thời, có thể sắp xếp hoa đào (giả) theo phương vị cửu tinh (9 ngôi sao trên trời), lập thành đào hoa trận, có tác dụng tăng cường may mắn và cơ hội.

Ngoài ra, có thể đặt trong phòng ngủ một cặp uyên ương (chất liệu đá thiên nhiên), biểu tượng của tình cảm gắn bó khăng khít. Sử dụng các loại đá có năng lượng tốt để mang lại giấc ngủ ngon và tâm trạng vui tươi hứng khởi mỗi ngày.

3. Lưu ý dụng cụ trong bếp

Trong nhà, ngoài biểu tượng cho của cải, bếp còn là biểu tượng của tình cảm, đặc biệt là chuyện tình duyên. Do đó, nên tránh đặt bếp gần nước vì Thủy khắc Hỏa, dễ gây xích mích tình cảm của các cặp đôi.

Đồng thời, nên tránh đặt dao kế bên bếp, gần bếp (khoảng cách dưới 1,5m) vì Hỏa khắc Kim, theo phong thủy dễ gây cãi vã. Dao nên để vào chạn trên tường, dưới gầm bếp, vừa tránh nguy hiểm, vừa tạo thế Thổ sinh Kim, có lợi cho gia chủ.

Phong thủy có quy ước, gia chủ phải tự đi mua dao, không nhận quà tặng từ bất kỳ ai. Vì nếu không sẽ làm gia đình lục đục. Đặc biệt, những người chưa lập gia đình, nếu ra ở riêng càng phải chú ý chuyện này.



4. Chỉn chu sắc diện

Để tăng vận may giao tiếp, phong thủy chú trọng việc rửa mặt vào buổi sáng, nhằm giữ cho sắc diện luôn sạch sẽ, sáng sủa, đồng thời xua đi hắc khí trên ấn đường (khu vực trên trán, giữa chân mày). Khi khu vực này tối, xám, đen nghĩa là sức khỏe bạn có vấn đề, đồng thời bạn đang gặp xui xẻo. Ngược lại sẽ cho thấy sức khỏe hưng vượng, vận may dồi dào, có quý nhân “phù trợ”, tình duyên thuận lợi, giao tiếp dễ dàng. Thành ngữ có câu “mặt mũi sáng sủa” chính là quan niệm nhìn sắc diện, nhìn “thần tướng” từ ấn đường như thế này.

 Chúng ta không thể chắc chắn được tình duyên của mỗi người, vì từ việc bắt đầu một mối quan hệ sơ giao đến lúc giao tình thắm thiết là cả một câu chuyện dài. Nhưng bằng một số biện pháp đơn giản, chúng ta có thể tăng cường vận may giao tiếp, từ đó có cơ hội phát sinh tình cảm, tiến triển tình duyên như ý.


Trích từ:http://vn.nang.yahoo.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cải tạo đường tình duyên

Ông Bà Tổ Tiên

Giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Việt liên hệ với việc truyền giáo Lm Vũ Kim Chính, SJ Giáo sư Ðại Học Công Giáo Phụ Nhân, Ðài Loan
Ông Bà Tổ Tiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ðề cập tới văn hóa, phong tục của một dân tộc là một đề tài hết sức phức tạp, vì mỗi dân tộc không ít thì nhiều là một đơn vị đặc thù, dầu vậy tính cách đặc thù văn hóa này không khải là cô lập, nhưng là kết tinh vừa tế nhị vừa phức tạp qua sự giao tiếp với các dân tộc khác, với những nền văn minh khác. Văn hóa, phong tục tập quán của nfười Việt cũng thế, là những tinh hoa đã được gạn lọc, biến hóa qua cuộc sống dân tộc của biết bao nhiêu thời đại, qua việc tiếp xúc với nền văn minh, những nguồn tư tưởng sâu rộng nhất, mạnh mẽ nhất của nhân loại như Hoa-Ấn, Hy-La. Ở đây khi chọn đề tài "Ông bà tổ tiên" liên hệ với việc truyền giáo, chúng ta đã thu hẹp phạm vi không thảo luận những liên hệ Lão giáo và Phật giáo, nhưng chỉ chú tâm vào Nho giáo và Kitô giáo có liên quan tới vấn đề "lễ nghi" đối với ông bà tổ tiên. Trước tiên chúng ta truy xét lý do tại sao người Việt thành kính ông bà tổ tiên, thứ tới thảo luận lý do người Việt Công giáo trong quá trình lịch sử gặp phải những khó khăn khi bầy tỏ lòng thành kính này theo như phong tục tập quán của mình. Cuối cùng chúng ta tự hỏi có thể học được gì trong kinh nghiệm lịch sử này để hy vọng có thể suy tư về một thần học bản vị hóa việc thành kính ông bà tổ tiên?

1. Nguồn Gốc Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên

Tuy ai cũng biết mỗi người, mỗi gia đình đều có ông bà tổ tiên riêng, nhưng nói tới việc tôn kính ông bà tổ tiên cách chung là chấp nhận những điểm tương đồng của những nền văn hóa Viễn Ðông trong lịch sử ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của Nho học, như Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam. Nên ở dây khi bàn về nguồn gốc tôn kính ông bà tổ tiên hay ở phần sau thảo luận những tranh chấp về "lễ nghi" thì những tài liệu của các quốc gia trên đều có thể dùng để bổ túc cho nhau để hiểu rõ vấn đề.

Việt ngữ dùng danh từ "tôn giáo" để chỉ chung các tín ngưỡng. Chữ "tôn" cũng còn một âm nữa là "Tông" nguyên ủy chỉ ông "thứ tổ" (ông tổ thứ hai), rồi dùng rộng hơn nữa để chỉ nơi thờ kính tổ tông, cũng như chỉ các giáo phái, học phái. Như vậy, "tôn giáo" theo ngữ văn là thực hiện lòng hiếu kính đối với tổ tông, tổ tiên. Lòng hiếu kính này được biểu tỏ nôm na theo lối bình dân như:

"ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
uống nước nhớ tới nguồn"
, hoặc:

"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn đạo hiếu mới là đạo con"
.

Hay Nguyễn Du viết trong truyện Kiều:

"Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân"
.

hay ở đoạn khác:

"Lấy tình thâm, trả tình thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời"
.

Như vậy căn nguyên tôn kính ông bà tổ tiên ở đâu? Phải chăng là một sự tôn kính "Thần Thánh" theo phẩm trật? Như sách Lễ Ký, thiên Khúc-lễ-hạ đã chép: "Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn xuyên, tế ngữ tự, chư hầu phương tự, tế ngũ tự (tức là tế Thần cửa, ngõ, giếng, bếp và giữa nhà), chư hầu tế phương mình ở, tế ngũ tự, quan đại phu tế ngũ tự, kẻ sĩ tế tổ tiên). Thực ra đây là những phương châm cho những nền văn hóa chịu ảnh hưởng Khổng học, nên dù ở Thiên An Môn bên Trung Hoa hay ở Ðàn Nam Giao tại Huế, việc tế trời chỉ có nhà vua mới có quyền đứng chủ tế. Trong lễ tế Nam Giao, trên Viên-Ðàn ở giữa là bàn Thời Trời Ðất, hai bên có hai hàng hương án song hành thờ các Tiên Ðế. Xem như thế, thừ Vua quan tới thứ dân, tế tự là việc rất quan trọng, lễ nghi được minh định có trật tự, chung qui vào hai nguyên ủy là Trời và Tổ, vì "vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ" (Lễ ký) (dịch: muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở Tổ). Nhưng thực ra hai nguyên ủy này chỉ bắt nguồn bởi một mà thôi, vì các Tổ Tiên tuy sinh ra người, nhưng tất cả đều do Trời sinh dưỡng, như Kinh Thi chép: "Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức" (Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, mới có đức tốt).

"Ông Trời" là nguyên ủy của muôn loài, nên tế Trời là quan trọng nhất, do đó không phải ai cũng được phép mà chỉ có Thiên Tử, dân chi phụ mẫu, mới được trực tiếp hành lễ mà thôi. Ông Trời tuy rất gần kề đại chúng trong cuộc sống, khi vui khi buồn đều có thể gọi "Trời ơi" được, nhưng họ không được phép trực tiếp cúng tế, nên thường kêu cầu tới Tổ Tiên hay cúng tế các thiểu thần. Chính vì thế mà Trần Trọng Kim đã viết: "Việc thờ Trời, thờ quỉ thần và tổ tiên, tuy là phân biệt, nhưng kỳ thực cũng là theo một lý cả, và chính là cái tôn giáo đặc biệt của những dân tộc theo văn minh Tầu ở Á đông". Dù được trực tiếp tế tự "Trời" hay chỉ gián tiếp qua Thần Thánh, tổ tiên, người Việt đều tin tưởng vào sự liên đới "Thiên nhân tương dữ". Theo đó con người được phú cho nhân tính để nhận ra thiên lý, để mô phạm Thiên tính, để trong cuộc sống họ thực thi nhân đạo hợp với Thiên đạo. Nói cách khác: "Trời đối với quần chúng như một nguyên ủy tiền định con người, nhưng vượt trên con người, định đoạt sinh tử, phúc họa, giầu nghèo. Họ kêu Trời vì Trời không xa ta. Trời thấu suốt tất cả, cả những tâm tư thầm kín. Họ kêu Trời vì Trời toàn năng, không mù quáng trong việc xét xử. Trời công minh vì thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ".

Nho gia thừa hưởng tư tưởng Khổng tử tin Trời là chủ tể vũ trụ, điều hòa mọi biến hóa bởi vậy tri Thiên mệnh là nguồn gốc và lý tưởng của tu tâm và dưỡng tính của bậc quân tử". "Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã" (Luận Ngữ; Nghiêu viết, XX) (dịch: không biết mệnh Trời thì không lấy gì làm quân tử). Khi bậc quân tử quyết tâm học biết và tuân theo mệnh Trời tức là sống trong tâm tình Kính và Thành. Mặc dù khi họ cúng tế thì biểu tỏ lòng chân thành: "tế thần như thần tại" (Luận Ngữ: Bát dật, III) (dịch: tế thần như có thần ở đó); nhưng đồng thời "kính quỉ thần nhi viễn chi" (Luận Ngữ: Ung giả, VI) (dịch: quỉ thần thì kính mà xa ra), vì theo Khổng tử con người làm sao biết được thế giới quỉ thần cao xa, u ẩn, nếu có tưởng tượng ra không khỏi bầy ra những điều huyền hoặc, dẫn đường cho mê tín. Như vậy, Khổng tử tuy rất trọng lễ, coi nghi thức là bày tỏ lòng Thành Kính, nhưng đồng thời cũng coi thực hành đạo Nhân là sống Thành Kính hợp với Thiên mệnh là rất quan trọng. "Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ sự" (Kinh Dịch:Văn Ngôn truyện) (dịch: quân tử lấy cái nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là đủ làm hòa cái nghĩa, biết cái trinh-chính mà cố giữ là đủ lam gốc cho mọi sự). Vậy đạo Nhân là gì? "là Cung, khoan, tín, mẫn, huệ". Khổng tử giải thích thêm: "Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người ta tin cậy được, mẫn thì có công, huệ thì đủ khiến được người" (Luận Ngữ: Dương Hóa, XVII). truy ngồn năm cái kết quả diễn đạt đạo Nhân này, chúng ta sẽ tìm ra cái Nhân Tâm Thành Kính. Tam đạo là quan trọng như thế, nên sau này, mặc dù Mạnh tử và Tuân tử mỗi người phát huy Khổng học theo đường hướng riêng, một người coi trọng "Nhân" là bảo tồn tính bản thiện của con người, một người trọng "Lễ" để chế ngự tính bản ác của người, nhưng tất cả hai đều công nhận sự trọng yếu của tâm đạo: bảo tồn lương tâm (Mạnh Tử), tu dưỡng tâm tri (Tuân tử). Ði xa hơn nữa, Mặc tử phê bình chỉ trích Nho đạo cũng vì trong thực tế tâm đạo đã bị nghi lễ tha hóa làm mất tính cách phổ biến của tâm đạo vậy.

Ðạo hiếu là một đặc tính của đạo tâm, làm cho con người tỏ lòng Thành Kính đối với cha mẹ, tiền nhân, nên chỉ nuôi dưỡng cha mẹ mà không có lòng hiếu thảo thì làm sao gọi là hiếu được! Lòng hiếu thảo này phụng sự cha mẹ lúc các ngài còn sống, tang lễ nếu các ngài quá cố: "sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế" (Luận Ngữ: Vi chính II). Hiếu đễ đối với cha mẹ tức là kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, lễ tế những bậc cha mẹ đã lễ tế. Ðó là nguồn gốc của tôn kính tổ tiên vậy. Bởi đó Tăng tử nói: "Thận chung, truy viễn, đức qui hậu hĩ" (Luận Ngữ: Học Nhi, I) (dịch: cẩn thận lúc cha mẹ chết, nhớ đến tổ tiên xa, thì cái đức của dân trở nên hậu).

Tư tưởng đạo hiếu đã thấm nhuần vào lòng người Việt trở thành một phần quan trọng của Việt tính. Kính bái tổ tiên là chân nhận giới vô hình và hữu hình luôn luôn có sự liên lạc mật thiết với nhau. Ðó là cách diễn tả sự hiệp thông giữa ông bà cha mẹ và con cháu, giữa người sống và cả chết, là dịp đoàn tụ của đại gia đình. Quan niệm vong hồn gia tiên luôn gần gũi với con cháu được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau. Ðại đa số quần chúng Việt Nam được coi là theo "đạo Ông Bà" thường có phong tục làm lễ cáo gia tiên, trong mọi tuần tiết, hoặc ngày kị giỗ, hoặc khi có việc hiếu hỉ, tang chay. Toan Ánh diễn giải thêm: Những biến cố quan trọng trong gia đình, lẽ tất nhiên gia trưởng đều có lễ cáo gia tiên, như: sinh con cái, con cái đầu cữ, đầy tháng, đầy năm, con cái bắt đầu đi học, sửa soạn đi thi, thi đỗ, dựng vợ gả chồng cho con... hay nhiều khi chỉ sửa sang lại nhà cửa, nhất là những di sản của tiền nhân để lại. Vui đã thế, buồn cũng khấn trình tổ tiên để các ngài biết và phù hộ, như việc làm ăn thua lỗ, có người đi xa, có người mệnh một... Ngoài những biến cố trong gia đình ra, gia trưởng cũng kính cáo những việc quan trọng khác xẩy ra trong làng nước, như làng có cướp tới, đất nước sinh loạn lạc hay những tin vui trong thôn xã,... Tất cả những kính cáo, trình khấn trên mục đích để tổ tiên hiệp thông hay phù trợ trong những khi vui cũng như lúc buồn. Tùy từng trường hợp, tùy từng gia cảnh mà sửa soạn lễ. Nhiều khi gia chủ chỉ cần sửa soạn cái lễ nhỏ, như chén trà, đĩa xôi, nải chuối. Cũng có khi lễ lạc linh đình. Toan Ánh kết luận: "Con cháu nhớ đến tổ tiên thì cúng, năng cúng bái càng tỏ rõ lòng hiếu thảo của mình đối với các cụ. Sống khôn chết thiêng, các cụ thấy con cháu hiếu kính, ất vong hồn cũng vui mừng".

Nói tới cúng vái tổ tiên tức là phải nói tới bàn thờ gia tiên. Bàn thờ này mặc dù trang trí có khác nhau, nhưng đại để đều có bài vị, bình hương, nến sáp... Nếu là bàn thờ họ thường đặt trong miếu đường, chính giữa có bàn thờ riêng thờ ông "Thủy Tổ" của dòng họ. Còn các bàn thờ biệt tông, biệt phái khác trong mỗi ngày giỗ kỵ của tông, phái mình mới được bày ra. Trên bàn thờ Thủy Tổ luôn có cuốn gia phả ghi rõ danh tánh các chi nhánh dòng họ. Nhiều khi gia phả này được ghi khắc trên tường sau bàn thờ Thủy Tổ.

Quần chúng tuy một đàng muốn bày tỏ lòng hiếu kính mình đối với tổ tiên, nhưng họ không thể phân biệt rõ ràng như những nho sĩ "vụ dân chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi", nên thực hành đạo hiếu và thờ quỉ thần đã trở thành lẫn lộn. Vì muốn bảo vệ phần mộ ông cha, nên nhớ tới Thần Thổ Công, Thần Hà Bá. Ngoài ra còn có những thần tại gia khác như: Thần Tài, Thần Tiên Sư (hay Thánh Sư, Nghệ Sư, tức là ông tổ mỗi nghề), Ðức Quan Thánh... để bảo vệ che chở mình hay giúp phát tài,... Chính vì thế mà khi các nhà truyền giáo Tây Phương tới Việt Nam hay Trung Hoa gặp phải những khó khăn làm sao thấu hiểu tinh thần, nhất là về tinh thần "lễ nghi" tôn kính ông bà tổ tiên.

2. Tôn Kính Tổ Tiên Liên Hệ Tới Việc Truyền Giáo:

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa bắt đầu bằng những bước dò dẫm, va chạm những khó khăn về phiên dịch, vì hai loại ngôn ngữ biểu tả hai văn hóa quá khác nhau, nên không biết phải làm sao mới có thể đạt tới việc "bản vị hóa" chân chính được. Thoạt đầu những nhà truyền giáo tiên khởi dùng ngôn ngữ địa phương để phiên âm những từ căn bản của Kitô giáo, như thánh Phanxicô Xavier đã Nhật âm hóa tiếng Latinh: Deus Pater, Deus Filius, Deus Spiritus Sanctus là: Deusu Patere, Deusu Hiiruo va Deusu Spiritusu Santa (có khoảng 50 ngữ vựng căn bản như thế). Nhưng cách phiên âm này đã gặp những khó khăn lớn, vì hoặc là âm đó có một nghĩa khác trong ngôn ngữ là "Deusu" làm trò cười cho nhiều Phật đồ Nhật, vì họ liên tưởng tới một âm tương tự là "daiuso", có nghĩa là "Nói dối đại tài". Thấy cách phiên âm này không ổn, nên các nhà truyền giáo kế vị các bậc tiên khởi này như A. Valignano, M. Ricci, A. Schall, A. de Rhodes v.v... đã học hỏi ngôn ngữ và tư tưởng địa phương để Kitô giáo được thích ứng với môi trường mới. Trong lúc phiên dịch và thích ứng này đã xảy ra cuộc tranh chấp về "lễ nghi". Cuộc tranh chấp này mặc dù đầu tiên là bàn về hai phương pháp truyền giáo được hai phe (một bên là dòng Tên, một bên là dòng Ðaminh, dòng Phanxicô và hội Thừa Sai Balê) chủ trương, nhưng dần dần đã vượt qua phạm vi thuần túy truyền giáo và tôn giáo trở thành một tranh chấp bị những ảnh hưởng chính trị, quyền bính chi phối, nên đã trở thành một tấm bi kịch của lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông. Ở đây chúng ta chỉ có thể chú tâm tới những dự kiện chính yếu mà thôi.

Trước tiên chúng ta bàn về vấn đề phiên dịch. Sau khi thảo luận những khả thể dịch chữ, "Deus", các nhà truyền giáo đã đồng ý dùng chữ "Thiên Chúa". Nhưng dùng cách thế nào để giải thích chữ "Thiên Chúa" thì hai phe có những lập trường khác nhau. Một bên cho rằng dùng chữ "Thiên Chúa" để chỉ Deus thì phải hiểu hoàn toàn khác, hoàn toàn độc lập, không thể dùng một từ ngữ nào như "Thiên", "Thượng Ðế" để diễn giải được, vì "Thiên" theo ý họ "chỉ có nghĩa là bầu trời" (ciel materiel et visible), còn quan niệm "Thượng Ðế" là quan niệm dân ngoại thường dùng, nếu ta dùng sẽ rơi vào giới "vô thần" như dân ngoại. Một bên khác cho rằng chữ "Thiên Chúa" mặc dù là chữ ghép mới để chỉ Deus, nhưng có thể dùng những quan niệm sẵn có trong kinh điển Trung Hoa xưa như "Thiên", "Thượng Ðế" để người Trung Hoa có một mấu cứ để thăng hóa, nhờ đó mới dễ dàng hiểu rõ nghĩa thực sự của "Thiên Chúa" được. Thực ra, hai bên dùng hai phương pháp thần học cổ điển vẫn dùng là: phương pháp "phủ nhận" (via negotiva) và phương pháp "sánh loại" (via analogia). Ðứng trên phương pháp học không có chi đáng bàn cãi, nhưng động lực nao khiến họ chọn hai phương pháp này để nói lên thái độ của họ đối với nền văn hóa địa phương. Ðó mới là điều quan trọng. Dù sao đi nữa, sự kiện xẩy ra trong lịch sử là: Giám Mục Charles Maigrot, đặc sứ tông tòa ở Phúc Kiến đã nhân danh Thánh Bộ truyền giáo tuyên bố: từ ngữ "Thiên Chúa" phải được dùng để chỉ chữ "Deus" còn những tiếng khác như "Thiên" và "Thượng Ðế" thì không được dùng.

Ðối với người Công Giáo Việt Nam hiện nay, ta dùng chữ "Thiên Chúa" trong văn chương, nhưng cũna dùng chữ "Ðức Chúa Trời" theo nghĩa bình dân để chữ "Deus". Trong khi đó những người không Công Giáo thường dùng "Ông Trời" (Trung Hoa dùng chữ Lão Thiên) để chỉ Ðấng Tối Cao. Thực ra, quan niệm "Trời" không phải chỉ là "bầu trời", nhưng cũng là "Hóa Công", đấng sinh thành vũ trụ, vì vậy tại sao chúng ta không thể dùng những quan niệm đã có sẵn trong kinh điển Trung Hoa, đã được nhiều người biết tới để giải thích một quan niệm chí ư "trừu tượng", đối với họ hoàn toàn mới lạ như Deus. Phải chăng phản đối dùng những quan niệm như "Thượng Thiên", "Hiển Thiên", "Hoàng Thiên", "Thượng Ðế" để giải thích chữ "Thiên Chúa", vì các nhà truyền giáo sợ người Trung Hoa, Việt Nam không hiểu xác thực được nghĩa Deus của Kitô giáo, hay là các nhà truyền giáo đó đã không hiểu rõ được những quan niệm trên trong tư tưởng Trung Hoa? Trần Văn Hiến Minh còn đi xa hơn nữa, khi ông quả quyết: "Quan niệm một Tiên Chúa có ngôi vị, Thượng Ðế là một trực giác đầu tiên của người Trung Hoa từ xa xôi bao ngàn năm trước. Tất cả cuộc sống Trung Hoa cổ kính đều qui hướng vào đó". Ðề mục họ Trần nêu ra có thể là một đề tài thảo luận hào hứng, nhưng vượt qua phạm vi của bài nói chuyện này. Dù "Thượng Ðế" theo người Trung Hoa hiểu có "ngôi vị" hay không, cũng không thể là lý do chính đáng không dùng những quan niệm đó để "giải thích" tiếng "Thiên Chúa" được.

Như vậy ta thấy được tranh luận về mấy danh từ trên không phải chỉ là một cuộc thảo luận lý thuyết thần học hay ngôn ngữ, văn chương, nhưng là tỏ rõ đường hướng của hai phe đối với vấn đề truyền giáo: giáo hội có thể dùng di sản văn hóa của địa phương để diễn đạt giáo lý, nghi lễ của mình hay không? Mà được phép dùng tới mức nào? Tại sao có thể dùng hay bị cấm dùng như vậy?

Bây giờ chúng ta trực tiếp đề cập tới cuộc tranh luận "lễ nghi". Vấn đề chính của cuộc tranh chấp này là câu hỏi: lễ nghi đối với tổ tiên là "tôn thờ" tổ tiên vì nghi thức này có tính cách tôn giáo. Tôn thờ tổ tiên là những người theo "đạo Ông Bà". Nói cách khác, nghi lễ tôn thờ này được cử hành trong những nơi nhất định (chủ đường hay tông đường hoặc tại gia, trước bàn thờ tổ), có những qui định riêng (thành văn hoặc bất thành văn) và đối tượng của đạo này là "tôn thờ Bài Vị" của những người quá cố, Bài Vị này là chỗ của các Hồn người quá cố "cư ngụ". Khi hành lễ gia trưởng chắp vái hay quì lạy, dâng hương, báo cáo, cầu xin trước bàn thờ vong linh có đốt nến và bày những lễ cúng như hoa quả, bánh rượu... lễ nghi này cũng giống như lễ nghi trước phần mộ khi mai táng hay trong các dịp kỵ lễ. Sau khi đã mô tả những chi tiết trên, cộng thêm sự ghi chú những tính cách tôn giáo của đạo ông bà, các vị thừa sai này đã đặt những câu hỏi xin thánh bộ giải quyết, như: xin hỏi người Kitô hữu có được phép cử hành những nghi lễ và dâng cúng trước bài vị theo như tập tục ở chủ đường hoặc nơi phần mộ hay trước linh cửu? Và nếu họ được phép làm như vậy thì họ có thể tham dự với dân ngoại hay hành lễ một mình? Hay câu hỏi: Người Kitô hữu có được dựng bài vị tổ tiên ở trong nhà mình với chữ khắc "Thần Chủ" không? Dĩ nhiên những câu hỏi này đã được sửa soạn bằng những "mô tả" hàm xúc một câu trả lời phủ nhận. Có người còn đi xa hơn nữa, coi việc "Tôn thờ tổ tiên" ở Trung Hoa giống hệt như việc thờ phượng các thầ Manes xưa ở Hy lạp hay La Mã: "Theo lịch xưa của người La Mã khi thời thờ ẩu thần còn hiển trị, có nhắc tới một dịp lễ gọi là "Feralia", bắt đầu từ 20 tháng 2 kéo dài tới cuối tháng 2. Lễ này là dịp tôn thờ các Thần Manes. Dân ngoại đem thịt đặt trên mộ các người quá cố để họ hưởng, như tiến sĩ Varron đã giải thích. Ðó cũng là những việc mà những người Trung Hoa hành lễ ở các chùa chiền, trên phần mộ hay trong tư thất trước bài vị tổ tiên". Sự so sánh này đặt người hữu trách trước một sự lựa chọn không thể chối được: Nếu xưa giáo hội đã hủy bỏ phong tục thờ tà thần Manes, tại sao ngày nay lại có thể cho phép làm như thế ở trung Hoa. Lý chứng này càng ảnh hưởng tới người hữu trách khi người đó không hiểu thấu hiện trạng phức tạp ở miên Viễn Ðông.

Trong khi đó, phe khác coi nghi lễ đối với ông bà tổ tiên là sự "tôn kính" bày tỏ lòng hiếu đễ của con cái đối với bậc tiền nhân, dù khi còn sống hay đã quá cố. Trước tiên họ nhận định những nghi lễ trong các chùa chiền hay trước những thần tượng bày rải rắc khắp nơi là có tính cách tôn giáo và nhuốm nhiều màu sắc mê tín, dị đoan. Họ cũng công nhận thái độ mê tín này có thể ảnh hưởng tới việc tôn kính tổ tiên, nếu không được giải thích minh bạch giữa nơi tôn thờ và tôn kính: Ngược với "chùa miếu" là nơi tôn thờ các thần thánh, "đường" nơi có tính cách "trung tính" (có thể dùng liên quan tới tôn giáo hay không). Do đó, "chủ đường" hay "tông đường" (hay nói nôm na là "chỗ dành cho tổ tiên") là "nơi" kính nhớ ông bà tổ tiên để tỏ lòng biết ơn với những người quá cố, cũng như phong tục tập quán địa phương có những "nơi" riêng trọng kính các vị tiền bối lúc sinh thời. Còn Bài Vị thực ra không phải là "bàn thờ" thực, nhưng thường là một thanh gỗ được sửa soạn tươm tất ở trên đó có ghi danh tánh ông bà tổ tiên được bày trên án hương. Tuy Bài Vị "là biểu tượng" cho vong linh người quá cố, nhưng không phải là chỗ "cư ngụ" của hồn linh đó. Các vị này giải thích: trong quá khứ người Trung Hoa có thói quen tìm một người "thay thế" cho một người thân quá cố. Phong tục này được chuyển hóa bằng việc dùng bài vị như là biểu tượng của người quá cố ở giữa con cái. "Bài vị được dựng nên không phải để đánh dấu sự hiện hữu của một linh hồn mà người ta tin rằng linh hồn đó cư ngụ ở bài vị, nhưng đúng hơn là để thức tỉnh một thái độ luân lý và sự biểu tượng này có thể coi như sự hiện diện của một thân xác". Trong khi đó, việc "hóa" vàng giấy, đốt những đồ vật làm bằng giấy cho tổ tiên dùng là những điều mê tín, dị đoan cần cấm bỏ. Ngược lại, những cử chỉ bái lạy hay quỳ gối là những cung cách người Trung Hoa thường dùng để tỏ lòng tôn kính đối với bậc trên, dù những người này còn sống hay đã qua đời. Ðiều đáng chú ý là, chính vua Khang Hy ngày 30.11.1700 đã tự tay chứng thực bản văn do các cha dòng tên thảo nói những lễ nghi tôn kính Khổng Tử, tổ tiên là những hình thức bày tỏ lòng thành kính mà thôi: "Nói là Khổng Tử được thờ phượng để xin sự khôn ngoan hay để xin được thăng chức hay thêm bổng lộc là không đúng... Dựng bài vị tiền nhân quá cố không có nghĩa là linh hồn tổ tiên được nghĩ là thực sự ngự trị trong miếng gỗ này... Mục đích thực sự của nghi lễ tôn kính tổ tiên là con cháu trong một dòng tộc không được phép quên, nhưng luôn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên cho đến muôn đời". Nhưng lời chứng thực của vị hoàng đế trung Hoa, người có thẩm quyền nói lên ý nghĩa thực sự của phong tục tập quán, đã không được tòa thánh thời đó lưu ý tới.

Trên đây là lược thuật tổng quát lập trường của hai phe phái về vấn đề đối với tổ tiên có liên hệ đến việc truyền giáo. Cuộc tranh chấp "lễ nghi" này đã tạm thời kết thúc khi Ðức Giáo Hoàng Clement XI ngày 20.11.1704 đã quyết định:

- Cấm dùng chữ "Thiên" hay "Thượng Ðế" để giải nghĩa "Thiên Chúa". Theo đó không được dùng "mensa seu altare" (bàn thờ) để "kính Thiên" trong nhà thờ.

- Người Kitô hữu không được phép tổ chức hay tham gia những lễ nghi theo như phong tục đối với Khổng Tử hay những người quá cố. Do đó cũng không được phép lập "chủ đường", miếu đường", cũng không được phép dâng lễ vật trong miếu đường hay gia thất vì những nghi thức này liên hệ tới mê tín ("tamquam superstitione inseparabilia"). Tông huấn (Ex illa die) đã được quyết định, đã được đặc sứ tòa thánh, Hồng Y De Tournon mang sang Trung Hoa để ban hành. Sau ba lần De Tournon hội kiến với Hoàng Ðế Khang Hy, Tông huấn đã không được chính thức ban hành cho tới ngày 19.3.1715 mới được Giám Mục đầu tiên của địa phận Bắc Kinh Charles Castorano ban hành. (Trong khi đó De Tournon đã mất ngày 8.6.1710 ở Macao). Tông huấn "Ex illa die" được chính thức ban hành gây ra nhiêu phản ứng khác nhau, nhưng khi phải quyết định phát thệ "chống lễ nghi" theo chỉ thị của tòa thánh, các nhà truyền giáo đã anh dũng bỏ lập trường riêng để chấp nhận tông huấn "Ex illa die". Về phần Khang Hy, ông thấy Công Giáo chống đối lễ nghi và tập tục Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, đã đổi thái độ từ thân thiện sang nghịch thù. Nhưng cuộc tranh chấp chưa kết thúc, vì chính Ðức Clement XI lại sai một đặc sứ khác là Charles Ambrose Mezzabarba, tân giáo phụ của Alexandria tới Bắc Kinh ngày 26.12.1720. Sau khi đã hội kiến, lắng nghe các nhà truyền giáo báo cáo và đã được tiếp kiến Hoàng Ðế, C. A. Mezzabarba đã trở về Maccao và thảo một bức thư mục vụ ca ngợi tinh thần phục tùng và thống nhất của các nhà truyền giáo, đồng thời đã liệt kê "Tám điều được phép" để dễ dàng thực hành mục vụ. "8 điều được phép này" đã được ban hành ngày 4.11.1721, nới rộng những điều cấm ngặt của tông huấn "Ex illa die". Tỉ dụ: được lập "bài vị" trên đó chỉ được phép ghi tên người quá cố. Tất cả các lễ nghi trung Hoa đối với tổ tiên nếu không pha trộn mê tín mà chỉ có tính cách "dân sự" (Civil) thì đều được phép tổ chức hay tham dự. Hay là: được phép dùng nến, hương, hoa quả, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với người quá cố... "8 điều được phép này" đã làm sống lại cuộc tranh chấp "lễ nghi" một lần nữa, nhất là sau khi đặc sứ C.A. Mezzabarba đã trở về Âu Châu. Một đàng khác, Dũng Thành kế vị Khang Hy được một năm thì ra chỉ thị trục xuất những nhà truyền giáo trừ những người được mời ở lại. Tình trạng hỗn độn này cuối cùng đã được chấm dứt với Tông huấn "Ex Quo Singulari" do Ðức Benedictus XIV ban hành ngày 11.1.1742. Tông huấn này là tông huấn cuối cùng cấm ngặt "lễ nghi" đối với tổ tiên và rút lại tất cả những điều cho phép trước kia. Ðức Benedictus XIV đã minh định: "không phải xấu vì bị cấm, nhưng bị cấm vì xấu".

3. Bàn Về Việc Tranh Chấp "Lễ Nghi"

Trong quá trình tranh chấp như chúng ta thấy ở trên khó mà phân định được "bị cấm vì xấu" hay "xâu vì bị cấm". Ngay cả khi đã bị cấm nhưng trên thực tế chỉ là tránh né vấn đề hơn là giải quyết vấn đề. Bằng chứng là sau gần 200 năm bị cấm ngặt, ngày 8.12.1939 thánh bộ truyền giáo đã hủy bỏ việc bắt các nhà truyền giáo phải tuyên thệ chối bỏ "lễ nghi" mà tông huấn năm 1742 đã đòi buộc và đồng thời tuyên bố các Kitô hữu và các nhà truyền giáo ở trung Hoa, Việt Nam... đối với việc tôn kính Khổng Tử và tổ tiên cần có một cái nhìn "mới". Cái nhìn mới này sau công đồng Vaticanô II đã trở thành một khía cạnh quan trọng để thành lập một nền thần học bản vị hóa. Như vậy Bản vị hóa không những chỉ được phép mà phải được khuyến khích. Ðứng trên một thái độ mới này nhìn lại lịch sử tranh chấp chúng ta dễ có cái nhìn khách quan hơn.

Trước tiên chúng ta nhận định "mạch sống" của hai phe. Một bên đứng trên quan điểm của người trí thức, của tân nho gia đời Minh, để tìm hiểu ý nghĩa của các nghi lễ. Nếu lễ nghi đối với hổng Tử, tổ tiên thuộc về tôn kính hơn là tôn thờ thì hiển nhiên thuộc về phạm vi luân lý hơn là tôn giáo. Quả thực các nhà trí thức Trung Hoa đã hiểu như thế, vì vậy lập trường của các nhà truyền giáo này đã được Hoàng Ðế Khang Hy chứng thực. Chúng ta thấy hiện nay những "lễ nghi" tưởng niệm Khổng Tử hay các vị tiên đế đã mang một ý nghĩa hoàn toàn "dân sự". Các nhà trí thức Việt Nam như Trần Văn Chương, Hồ Ðắc Diễm, Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim v.v... cũng cho những nghi lễ tôn kính ông bà là bày tỏ lòng con cái hiếu thảo đối với tổ tiên, là hành động muốn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên mà thôi. Vì thế cúng bái ông bà tổ tiên theo như tập tục không phải là hành động của "niềm tin", nghĩa là qua đó cắt nghĩa một sự mầu nhiệm liên quan tới sự sống và sự chết, cũng không phải là hành động "phi lý" nhưng là những củ chỉ "tự nhiên" (theo phong tục tập quán của một nền văn hóa) do tấm lòng hiếu thảo thôi thúc. Cũng vì thế những việc dâng hương cúng quả, tiến rượu bày cỗ trước Bài vị không mang một ý nghĩa phụng dưỡng vật chất nào cả. Quan trọng nhất là vì nhớ tới ông bà tổ tiên nên con cái cháu chắt thấy họ có bổn phận phải sống như một người tốt, một tôi trung, một đệ tử thành tín, một người chồng gương mẫu, một người vợ hiền, một người con thảo... để khỏi làm nhơ danh tiền nhân. Ðây là quan niệm tôn kính tổ tiên trong mạch suấng của trueỳn thống nho học đặt nặng trên bổn phận luân lý.

Trong khi đó các nhà truyền giáo khác đứng trên phương diện của giới bình dân coi việc tôn kính ông bà tổ tiên là một lễ nghi tôn giáo, vì vậy họ nghĩ rằng cho phép cử hành những nghi thức này tức là hỗn hợp các tôn giáo, làm tha hóa, làm tha hóa Kitô giáo và làm hoang mang lòng các tín hữu. Do đó, họ xin tòa thánh qui định rõ ràng để dễ thực hành mục vụ. Ở đây ngôn ngữ là vấn đề then chốt. Nhưng để giải quyết nạn ngôn ngữ thiếu minh bạch mà cấm dùng ngôn ngữ đó thì không phải là giải pháp thỏa đáng, vì nếu không dùng chữ "Thiên" để giải thích "Thiên Chúa" thì khi dùng chữ "Thiên Chúa" người địa phương cũng không thể hiểu khác hơn mạch sống văn hóa của họ được. Cũng vậy, gọi Khổng Tử là "Thần nhân" thì ý nghĩa của chữ "Thần" này không thể hiểu theo một mạch văn hóa khác được (tỉ dụ như thánh nhân theo nghĩa hẹp của Giáo Hội Công Giáo). Cũng thế, những hạn ngữ như "Altare", "Sacrificium", genuflectio, templum... là những từ ngữ tùy theo nền văn hóa Âu Châu hay Trung Hoa, Việt Nam mà mang một ý nghĩa khác nhau. Nếu dùng cái nhìn của nền văn hóa Âu châu phán đoán những hiện trạng của nền văn hóa Á Châu tức là đã tách những dự kiện, hình ảnh tượng trưng ra khỏi mạch sống văn hóa. Nếu hai nền văn hóa đó quá khác nhau và chưa hiểu nhau được, thì làm sao tránh khỏi được những ngộ nhận. Nếu quyền phán quyết dành cho một phía khi chưa thấu triệt vấn đề thì phán đoán đó làm sao tránh khỏi những thiên kiến?

Tóm lại, cuộc tranh chấp "lễ nghi" nói lên những khó khăn mà một thần học bản vị hóa trong một môi trường cụ thể đã gặp phải và dần dần vượt qua. Cuộc tranh chấp trên không những chỉ bộc lộ hai phe đứng trên hai phạm vi khác nhau để nhìn một vấn đề mà cũng đứng trong những giai đoạn tiến tới thần học bản vị hóa khác nhau, nên gặp nhau trong đối thoại. Sự tranh chấp lễ nghi trở thành một thảm kịch trong lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông, vì giải quyết sự tranh chấp đã không nằm trong mạch sống đó, nhưng ở ngoài và ở trên mạch sống văn hóa, nên không thấu đáo được những nhu cầu sống của giáo hội địa phương.

Như vậy, đề cập tới vấn đề "Ông Bà Tổ Tiên" có liên quan tới việc truyền giáo tức là phản tỉnh một nền thần học bản vị hóa. Bản vị hóa không có nghĩa là chỉ hội nhập và chấp nhận những gì có sẵn trong nền văn hóa đó, nhưng đồng thời cũng thăng hóa những giá trị đó. Vậy theo đó ý nghĩa của lễ nghi đối với ông bà tổ tiên là gì? Nếu chỉ coi lễ nghi đối với tổ tiên là cách bày tỏ lòng hiếu đễ, tức là thực thi một bổn phận luân lý, thì chưa chứng minh lý do tại sao con người đòi buộc phải thực hành luân lý như vậy. Nếu ta coi sự đòi buộc đó là một sự tự minh (self-evident) thì hoặc là rơi vào chủ nghĩa độc đoán (dogmatism) hoặc chủ trương thuyết "vô tri thức" (agnosticsm) như khuynh hướng của một số nhà nho tân thời ở Ðài Loan hiện nay. Cả hai khả thể trên chỉ là né tránh vấn đề mà không giúp chúng ta hiểu tại sao con người phải thi hành bổn phận luân lý với tổ tiên. THực ra khi những nhà truyền giáo dòng Tên chủ trương coi lễ nghi tôn kính ông bà thuộc phạm vi luân lý, họ tin rằng một khi đã tìm ra ý nghĩa nguyên ủy và chính yếu của lễ nghi này, họ có thể giáo dục quần chúng gọi bỏ những mê tín mọc rườm rà bên ngoài và cuối cùng có thể biến hóa những bổn phận luân lý đó cho họp với niềm tin Kitô giáo. Như vậy, mặc dù học nhấn mạnh "lễ nghi" này thuộc phạm vi luân lý, nhưng ngầm xác định cn bản của luân lý không thể tách rời khỏi niềm tin tôn giáo được. Mối liên hệ giữa luân lý và tôn giáo này có thể dùng tư tưởng sẵn có trong kinh điển Trung Hoa như niềm tin "Thiên nhân tương dữ" và "vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ" để giải thích. Theo đó tôn kính ông bà không thể độc lập với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc kính Thiên được, vì con người cũng là thành phần của vạn vật mà nguyên ủy của vạn vật là Thiên. Hiểu như thế, việc tôn kính ông bà tổ tiên không những không phản với đạo Công Giáo mà còn bộc lộ được tính cách đặc biệt đông phương, đạo hiếu của người Việt, đồng thời qua việc đưa hành động tôn kính này hòa hợp với tinh thần Kitô giáo, chúng ta vừa thăng hóa vừa qui tụ những giá trị luân lý và những hình thức bày tỏ trên về cội gốc của muôn loài: chúng ta hiếu thảo cha mẹ vì Chúa là Cha chúng ta đã dậy như thế. Nói cách khác, một khi việc tôn thờ "Trời". "Thượng Ðế"... những danh từ chỉ Thiên Chúa ẩn hình (Deus absconditus) được niềm tin do Ðức Kitô mặc khải soi chiếu, canh cãi và hoàn hảo hóa, thì những hành động có tính cách nhân bản của một nền văn hóa cũng được xác định và thăng hóa theo đúng mức nahn bản của nó.

4. Kết luận

Thảo luận việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ tới việc truyền giáo là dịp may hiếm có để chúng ta suy tư về một khía cạnh của nền thần học bản vị hóa Việt Nam. Trong bài học lịch sử trên chúng ta nhận ra hậu quả của một cuộc tranh chấp lễ nghi mà đã bị tách rời khỏi mạch sống văn hóa và bị phán quyết do những người chưa thấu đáo ý nghĩa của nó. Tấm bi kịch này là một điển hình của bước khó khăn trong cuộc gặp gỡ của hai nền văn hóa cổ truyền, mạnh mẽ nhưng khác nhau, khi hai nền văn hóa đó thiếu uyển chuyển nên ngăn cản việc thăng hóa tới một hợp đề bao gồm một nền nhân bản phong phú hơn. Sau công đồng Vaticanô II việc tích cực tìm hiểu nền văn hóa địa phương, xác định những giá trị nhân bản chân chính của những tôn giáo khác, những luồng tư tưởng khác trở thành một nhu cầu thường nhật của mỗi giáo hội địa phương. Chúng ta nghiên cứu việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ với việc truyền giáo ở Việt Nam, ở Trung Hoa, không phải để nuối tiếc một dịp may đã qua, nhưng quan trọng hơn là tìm thấy những ý nghĩa có liên quan tới cuộc sống đạo hiện tại của chúng ta. Nói cách khác sau khi đã nhận định lòng hiếu thảo là một giá trị nhân bản căn bản của nền văn hóa ảnh hưởng nho học, và ý thức được những lễ nghi tôn kính khác với những mê tín dị đoan, chúng ta tự hỏi, chúng ta có thể thực hiện những hình thức, "lễ nghi" nào để biểu tỏ lòng thành kính, hiếu đễ của chúng ta? Nhưng để những nghi thức đó không rơi vào trạng thái "vụ hình thức" "cố chấp" chiếu lệ. điều quan trọng nhất là tấm lòng người Việt thành kính mà chúng ta có thể gọi là "Tâm Việt". Tâm Việt đối với ông bà tổ tiên là một khía cạnh biểu lộ của Tâm Việt. Khía cạnh này không thể tách rời khỏi lòng thành đối với Thượng Ðế được, nếu không Tâm Việt này sẽ thiếu nguồn sống và trở thành độc đoán. Bởi đó Tâm Việt là nguồn sống của "Việt tính". Dĩ nhiên Tâm Việt này còn có thể biểu lộ theo những cách thế khác tùy theo ta nhìn từ Phật Giáo hay Lão Giáo mà trong bài này chúng ta không có dịp để bàn tới. Có Tâm Việt như vậy chúng ta mới có thể bước thêm một bước nữa là đi tìm một hợp đề của Tâm Việt trong môi trường cụ thể mà chúng ta đang sống ở hải ngoại này. Hợp đề này là một mức độ nhân bản cao hơn vì nó được cải hóa và bổ túc do hai nền văn hóa khác nhau. Tiên chuẩn canh cải và hoàn thiện này không gì khác hơn là một nhân bản thuần túy: Hiện Thân của một mẫu mực Thiên Nhân tương dữ, Thiên Nhân hợp nhất, Thiên Chúa Nhập Thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ông Bà Tổ Tiên

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý, Phong thủy bàn thờ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý, tu vi Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý, tu vi Phong thủy bàn thờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý

Gia chủ tuổi Nhâm tý cũng nên đặt bàn thờ thần tài ở vị trí thông thoáng, nơi mọi người ra vào có thể quan sát được.

– Năm sinh dương lịch: 1972, 2032, 2092

– Năm sinh âm lịch: Nhâm Tý

ban-tho-than-tai-tuoi-nham-ty

ban-tho-than-tai-tuoi-nham-ty

– Theo phong thủy, Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhất là gia đình mua bán hay kinh doanh đều có bàn thờ Thần tài, đốt nhang nghi ngút để cầu xin Thần tài cho mua may bán đắt, trúng mối lời nhiều, đem lại nhiều tiền bạc sung túc. Những nhà kinh doanh đều có lập bàn thờ Thần tài. Vì vậy, khi đặt bàn thờ thần tài gia chủ tuổi Nhâm tý cần quan tâm đến cả vị trí và hướng đặt.

– Theo nguyên tắc chung nhất, thì gia chủ tuổi Nhâm tý nên đặt bàn thờ thần tài tại góc nhà, sát mặt đất, nhưng phải giữ vệ sinh sạch sẽ, khô ráo. Tốt nhất là tại góc chéo bên trái hoặc bên phải đối diện với cửa chính, mặt bàn thờ hướng ra cửa để đón tài lộc (trong phong thủy đây là vị trí tụ khí vì thế sẽ thu hút được vận may, tài lộc vào nhà).

– Gia chủ tuổi Nhâm tý cũng nên đặt bàn thờ thần tài ở vị trí thông thoáng, nơi mọi người ra vào có thể quan sát được. Ngoài ra, bàn thờ thần tài phải có chỗ tọa vững chắc vì vậy lưng bàn thờ nên dựa vào tường hoặc tủ kệ cố định.

– Gia chủ tuổi Nhâm tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng tốt là: Nam (Diên Niên); Đông Nam (Sinh Khí); Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y). Đối với tuổi Nhâm tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng tốt là: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y).

– Gia chủ tuổi Nhâm tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng xấu là: Tây (Họa Hại);Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Tuyệt Mệnh).Đối với tuổi Nhâm tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng xấu là:Nam (Họa Hại);Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh).

*Giải nghĩa một số từ ngữ phong thủy

– Sinh khí: Thu hút tài lộc, danh tiếng, thăng quan phát tài.

 

– Thiên y: Cải thiện sức khỏe, trường thọ

 

– Diên niên: Củng cố các mối quan hệ trong gia đình, tình yêu.

– Phục vị: Củng cố sức mạnh tinh thần, mang lại tiến bộ của bản thân, may mắn trong thi cử.

– Họa hại: Không may mắn, thị phi, thất bại.

– Ngũ quỷ: Mất nguồn thu nhập, mất việc làm, cãi lộn.

– Lục sát: Xáo trộn trong quan hệ tình cảm, thù hận, kiện tụng, tai nạn.

– Tuyệt mệnh: Phá sản, bệnh tật chết người.

– Bên cạnh đó, gia chủ tuổi Nhâm tý cũng cần quan tâm thêm đến trạch khí của ngôi nhà cũng như bố cục của phòng ốc để có lựa chọn tối ưu.

– Trong nhiều trường hợp, bàn thờ thần tài vẫn có thể xoay chéo 45 độ so với tường. Khi đó, phía sau lưng cần có bức vách che góc nhọn của tường hoặc những đồ trang trí như lọ lộc bình… để làm vững lưng ban thờ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Mơ thấy kênh đào: Khống chế tình cảm –

Kênh đào là công trình xây dựng nhân tạo, nó biểu thị của sự khếng chế tình cảm. Ngoài ra, hình ảnh kênh đào trong mơ còn cho thấy người nằm mơ đã thêm thắt quá nhiều khó khăn để ức chế tính sáng tạo của mình. Người nằm mơ cần đi sâu tìm hiểu chính b
Mơ thấy kênh đào: Khống chế tình cảm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy kênh đào: Khống chế tình cảm –

Bàn luận về Thuyết âm dương ngũ hành trong tử vi

Âm dương trong hiện tượng xã hội , -Nam là dương còn nữ là âm ,-Quân tử là dương còn tiểu nhân là âm
Bàn luận về Thuyết âm dương ngũ hành trong tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Âm dương Ngũ hành trong Tử vi

Âm dương:

    Học thuyết Âm dương được thể hiện rất đầy đủ trong kinh dịch. Cái gọi là thái cực sinh lưỡng nghi, thái cực là chỉ trạng thái hỗn độn lúc ban đầu của vũ trụ, là thể hỗn độn của trời đất, càn khôn, cương nhu, âm dương, có thể mãi mãi phân thành hai, lưỡng nghi chỉ sự trời đất, mở rộng ra là chỉ tất cả sự vật đều có thể phân thành hai , chỉ sự tương đối của tất cả sự vật hiên tượng

Thuyết âm dương ngũ hành trong tử vi

Ví dụ: Âm dương trong hiện tượng xã hội

-Nam là dương còn nữ là âm

-Quân tử là dương còn tiểu nhân là âm

Ngũ hành:

Học thuyết ngũ hành cho rằng, tất cả sự vật trên thế giới đều do sự vận động biến hóa của 5 vật chất cơ bản là:

  Hoả (lửa), Thổ (Đất), Kim (Kim loại), Thuỷ (nước, chất lỏng). Mộc(cây cỏ) tạo nên, thế giới chỉ là một trạng thái vận động tương sinh tương khắc của ngũ hành mà thôi.

Ngũ hành có quy luật sinh, khắc chế hoá lẫn nhau. 

Ngũ hành sinh:

      Ngũ hành sinh thuộc lẽ thiên nhiên:

      Nước nuôi dưỡng cây trồng (Thuỷ sinh mộc- màu xanh)

      Gỗ cháy sinh ra lửa (Mộc sinh hoả- màu đỏ)

      Lửa cháy hết thành than (Hoả sinh thổ: Màu vàng)

      Lòng đất tạo nên kim loại trắng ( Thổ sinh kim: màu trắng)

      Kim loại nung chảy thành nước (Kim sinh thuỷ- màu đen)

Ngũ hành khắc:

      Ngũ hành tương khắc (lẽ xưa nay)

      Cây phá đất mà mọc lên ( Mộc khắc thổ: Tụ thắng tán)

      Đất có thể ngăn nước (Thổ khắc Thuỷ: Thực thắng hư)

      Nước có thể dập lửa (Thuỷ khắc hoả: chúng thắng quả, nhiều thắng ít)

      Lửa có thể đốt cháy kim loại (Hoả khắc kim: Tinh thắng kiên)

      Thép cứng rèn dao chặt cỏ cây ( Kim khắc mộc: cương thắng nhu).

Ngũ hành chế hoá:

      Chế hoá là ức chế và sinh hoá phối hợp nhau. Chế hoá gắn liền cả tương sinh và tương khắc. Luật tạo hoá là: mọi vật có sinh phải có khắc, có khắc sinh, mới vận hành liên tục, tương phản tương thành với nhau.

      Thổ khắc Thuỷ thì con của Thuỷ là Mộc lại khắc Thổ

      Kim khắc Mộc thì con của mộc là Hoả lại khắc Kim

      Thuỷ khắc Hoả thì con của Hoả là Thổ lại khắc Thuỷ

      Mộc khắc Thổ thì con của Thổ là Kim lại khắc Mộc

      Hoả khắc Kim thì con của Kim là Thuỷ lại khắc Hoả

Ngũ hành là nền tảng cơ bản của bộ môn khoa học tâm linhtử vi sử dụng học thuyết ngũ hành trong rất nhiều yếu tố của mình như: cung, sao, mệnh .v.v.v


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn luận về Thuyết âm dương ngũ hành trong tử vi

Xem tướng tổng quát của phụ nữ –

Lưng dài vai tròn là: Vượng phu ích tử. Tam đình bình đẳng là: Khởi gia hưng nghiệp. Tục ngữ nói “đàn ông như cái đăng, đàn bà như cái đó” hoặc nói “Đàn ông đem vô, đàn bà cất giữa” v.v… đều là chỉ về sự tương quan trong cuộc lập nghiệp của đôi vợ ch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lưng dài vai tròn là: Vượng phu ích tử. Tam đình bình đẳng là: Khởi gia hưng nghiệp.

ktt_damtuong1_kienthuc

Tục ngữ nói “đàn ông như cái đăng, đàn bà như cái đó” hoặc nói “Đàn ông đem vô, đàn bà cất giữa” v.v… đều là chỉ về sự tương quan trong cuộc lập nghiệp của đôi vợ chồng.

Nghệ thuật xem tướng TỔNG QUÁT HÌNH TƯỚNG PHỤ NỮ
Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ :
Đăng lùa được cá, nhưng đó lủng rách thì cá chui lọt đi hết còn đâu. Vậy hình tướng của đàn bà trọng đại tới tương lai chồng con lắm.
Sau đây chúng tôi xin sưu tập và dịch rỏ phần tổng quát về hình tướng phụ nữ để quí thân chủ và bạn đọc suy nghiệm.
– Lưng dài vai tròn là: Vượng phu ích tử.

– Lưỡng quyền cao mủi nhỏ là: Hại tử khắc phu.

– Tam đình bình đẳng là: Khởi gia hưng nghiệp.

– Mũi cao lỗ kín là: Có chồng giàu sang.

– Môi xứng với miệng là: Con làm nên danh vọng.

– Mặt chỗ lép chỗ nhọn là: Sạt nghiệp chồng con.

– Mặt sáng ngời như ngọc: Ắt đẻ con sang, con hiếu.

– Mũi nhỏ mặt bạnh là: Đa dâm đa loạn.

– Mình thơm mắt sáng là: Phu quí tử vinh.

– Miệng rộng mồm méo là: Phu cùng tử yểu.

– Trán thẳng mày thanh là: Đàn bà phước đức.

– Mặt lớn má lép là: Người vô phước.

– Mũi tròn da mịn là: Tướng phụ nữ hưng gia.

– Mũi tẹt mặt lớn là: Tướng đàn bà phá sản.

– Môi trắng mỏ nhọn là: Phường ăn không nói có.

– Má cao khắc lỏm là: Tướng khắc chồng con.

– Môi hường tươi: Ắt sanh con quí.

-Con ngươi đỏ như tia lửa là: Khắc sát chồng con.

– Dáng vóc nhàn tịnh khiêm cung là: Nghiêm tướng.

– Mặt đẹp con ngươi vàng là: Sát tướng.

– Tướng hình đoan chính trang nghiêm là: Uy tướng.

– Mặt lớn mồm nhỏ răng thô là: Sát tướng.

– Trên sóng mũi có nhiều lằn gạch là: Sát tướng.

– Ngồi ngay nói thẳng lòng khoan hoà là: Uy tướng.

– Tai lật không có thành quách là: Sát tướng.

– Vẻ mặt hoà dịu, mừng không lộ, sợ không khiếp là: Nghiêm tướng, quí tướng, có con quí chồng sang.
– Mặt đẹp nhưng trắng như vôi, lông mi đen rậm như lưỡi dao lớn, con ngươi như mắt cá đỏ, lông mày thô như chổi, đều là Sát tướng. Dù mặt – tướng diện – có đẹp đẻ đến đâu cũng hình phu khắc tử sát hại chồng con ghê lắm.
Trở lên là tướng hình tốt xấu lẫn lộn, xem rồi suy gẩm ắt thấy điều hay. Sau đây là tướng hình đàn bà hiền đức.
Trán bằng, đầu tròn, tóc mịn đen mướt.
Mặt như khuôn thiên, cằm nở dài mép có một vành. Đi đứng ngay thẳng, ngồi nằm khoan thai. Tóc nỏn nà nhuyễn mượt, mắt dày mày thanh môi hồng răng trắng ngà, da mịn xương nhỏ không lộ, mình trắng hơn mặt, thân mình sắc hoà dịu.
Lưng vai tròn, ngực rộng, vú to không xệ, rún sâu có vành. Bàn tay dài, ngón tay hơi nhọn, tiếng thanh, ít nói cười. Hơi mình thon, xương âm cao nhô ra, thịt dầy, âm đạo thẳng đều là tướng hiền, có phước đức.
Lại có những tướng hình tổng quát lẫn lộn thiện ác, tốt xấu như sau:
Người có tướng đi đứng khoan hoà hiền diệu, tinh thần nghiêm chỉnh, tiếng nói trắng thanh, ngồi nằm đoan chính là tướng đàn bà quí, lập danh cho chồng, để đức cho con, hưởng thọ tuổi cao, sanh toàn con trai.
Người có tướng mặt hơi vuông dài, ngực lớn, tiếng nói lớn mà thanh, tinh thần tươi sáng, cử chỉ đoan chính, chuyện trò êm thấm hoà dịu, vẻ người trang nghiêm chửng chạc, khiến kẻ đối diện nể trọng, ấy là đàn bà có phước đức trinh thuận, liêm chánh.
Người có tướng diện tươi thắm như hoa nở đầy hương nhụy, cười như hoa đào, mắt sáng như sao chớp, đi đứng phong lưu đài trang, làm cho người đối diện phải ao ước mơ tưởng và hình dung điều bất chánh, có khi kẻ đối diện có cảm tưởng như cởi bỏ y trang, để xoi mói vào bên trong thân thể, ấy là tướng tà dâm, rất dễ bị mềm lòng nhẹ dạ. Không tốt.
Tướng người mặt nhọn ngực lép mà bạnh ra, môi ướt răng hô, mắt tròn trắng dả, mũi nguỡng thiên, tiếng nói rè, đi như ma đuổi, đi lắc như phải gió, chưa nói mà ngoắc tay nghiêng mình kiễng chân như con lật đật. Tướng nghèo khó, hình phu, khắc tử.
Má thật cao, mắt lỏm, tóc xoắn, môi mép có lông rám như râu. Xương thịt thân thể cứng rắn, mình miệng và các chỗ kín có mùi hôi hám khó chịu đều là các hình tướng bần tiện, hạ đẳng, ngu độn chỉ làm nô tỳ chớ không thể làm nổi ca kỷ được nữa.

Tướng có gò má thật cao, lông mày xoáy hoặc hình chổi sề, hình lưỡi đao, tiếng nói nhọn bén như ong vò vẻ, mắt như mắt chó sói, như mắt cá đỏ, là tướng đàn bà cùng hung cực ác, khắc sát chồng con dữ lắm.
Lại có tướng người đi đứng không yên như gấp rút vội vàng như sợ sệt gì vậy. Người thì đong đưa nghiêng ngã, tưởng như sắp té đến nơi, giọng nói cợt nhả đỏng đảnh mời mọc, đó là tướng đàn bà ngồi lê đôi mách, bần tiện hạ lưu, chuyên đi nịnh bợ xoi móc hàng xóm.
Cũng có tướng người mặt ngang trán lớn má cao, tiếng nói khao khao, bước đi mông lắc như chim se sẻ, mắt lộ con ngươi đỏ như diều, như cá chép, như mắt rắn là người bạc ác, lòng một dạ hai, bất nghĩa bất tín mà ương ngạnh, ưa nói càng nói bướng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng tổng quát của phụ nữ –

Kiêng kỵ bố trí phòng ngủ sau bàn thờ

Một trong những cấm kỵ của Phong thủy cũng như của phong tục truyền thống dân gian là phòng ngủ không nên bố trí ngay phía sau bàn thờ, trang thờ thần phật, Tổ tiên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một trong những cấm kỵ của Phong thủy cũng như của phong tục truyền thống dân gian là không được cư trú trước mặt các vị Thần linh hoặc phía sau miếu tự. Điều đó có nghĩa là trong nhà, phòng ngủ không nên bố trí ngay phía sau bàn thờ, trang thờ thần phật, Tổ tiên. Theo Phong thuỷ thì đặt giường ngủ ngay phía sau bàn thờ sẽ dễ gây nên những bất lợi cho quan hệ tình cảm và sinh hoạt vợ chồng.

Cũng vậy, dân gian không chỉ cấm kị việc đặt giường ngủ của vợ chồng sau bàn thờ, mà còn cho rằng những người trong độ tuổi từ 12 đến 60 không nên ngủ ở ngay phía sau trang thờ, bàn thờ. Điều này nhằm tránh nảy sinh những bất lợi đối với “Đào hoa nhân duyên”, ngăn chặn sát khí làm cho tình cảm vợ chồng, đôi lưa trở nên nhạt nhẽo, thậm chí hai bên có thể bât hòa và thất vọng về nhau.


Về phương diện khoa học:

Một đặc điểm chung của con người là hay liên tưởng đến những gì diễn ra quanh mình. Nếu phòng ngủ đặt ngay sát phía sau bàn thờ thì người ngủ ở đó sẽ thường xuyên ngửi mùi nhang khói, nghe những lời tụng niệm, đọc kinh, gõ mõ,…từ đó liên tưởng đến Thần Thánh, Tổ tiên và những người đã qua đời. Cũng vì thế, trong tiềm thức, họ sẽ nảy sinh tư tưởng hướng về coi tâm linh, nhạt dần với đời sống trần tục, với quan hệ tình cảm, luyến ái nam nữ, vợ chồng.

Về mặt sinh lý, khoa học chứng minh rằng, từ độ tuổi 12 cho đến 18 là giai đoạn cơ thể con người bước vào tuổi dậy thì và trưởng thành. Do đó, các chất kích thích tiết ra từ hooc-môn sinh lý mà đặt tính cơ bản về giới tính của nam, nữ phát triển rất nhanh và gần như hoàn tất quá trình phát triển về mặt sinh lý và sự phát dục trong giai đoạn này.

Cấu tạo cơ quan sinh dục ở nam và nữ dần đi vào hoàn thiện, hình thành sự khác biệt về tính cách và bắt đầu nảy sinh sự tò mò rồi đi đến thèm muốn quan hệ với người khác giới. Cũng trong thời kỳ này, giữa hai giới bắt đầu sự cảm thông, hòa hợp, hay nói cách khác đó chính là những biểu hiện của thời kỳ tiền hôn nhân.

Từ độ tuổi 60 trở đi, cơ thể con người dần đi đế giai đoạn hết khả năng sinh sản, rồi già lão, những đòi hỏi và hứng thú về mặt sinh lý dần dần không còn nữa. Do đó, nêu những người chưa lập gia đình, những người ở độ tuổi từ 12 cho đến 60, thường xuyên sinh sống, cư trú ngay phía sau bàn thờ Thần Phật thì cách suy nghĩ, quan niệm của họ (về mặt tình cảm cũng như quan hệ giới tính) đều sẽ khác với những người bình thường khác. Hầu hết đều không thấy hứng thú trong chuyện quan hệ nam nữ mang chí hướng về cõi tâm linh, Thần Phật.

Theo đặt điểm sinh lý thì ở vào đọ tuổi dưới 12, thường thì trẻ em chưa hình thành tình cảm với người khác giới cũng như chưa hề có ý niệm gì về quan hệ giới tính. Còn những người ở độ tuổi trên 60 là những người đang đi về già, họ đã trải qua giai đoạn phát triển về mặt tâm sinh lý. Đây là giai đoạn đòi hỏi về qua hệ sinh lý giảm rõ rệt, và trên môt chừng mực nào đó, những nhu cầu âu yếm về mặt tâm linh có nhẹ hơn một chút. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, tư tưởng và tình cảm của những người thường xuyên sống, sinh hoạt ở ngay phia sau bàn thờ Thần Phật gây nên, cách tốt nhất là chọn một vị trí khác thích hợp hơn để làm nơi thờ tự, cúng bái.


Nếu không, bạn có thể sử dụng những biện pháp hóa giải khác như dùng ván gỗ hoặc bê tông ngăn phòng ngủ với bàn thờ lại, biến không gian ấy thành một lối đi tương đối thoải hoặc một cái kho để chứa đồ đạc.

- Đầu giường ngủ ngay phía sau bàn thờ: Vợ chồng dễ tranh cãi nhau, thậm chí đánh lộn nhau. Những người còn độc thân thì khó lập gia đình. Bất kể là đã lập gia đình hay chưa thì đều có khả năng xảy ra tình trạng lạnh nhạt về mặt tình cảm luyến ái, thậm chí rời bỏ gia đình đi tu.

- Giường ngủ nằm bên phải hoặc bên trái ở phía sau bàn thờ: Hai vợ chồng dễ xảy ra tranh cãi, đôi co thậm chí đánh lộn nhau.

- Chân giường quay về hướng ngay phía sau bàn thờ: Giữa hai vợ chồng dễ to tiếng, thậm chí đánh lộn nhau.

Một trong hai vợ chồng hoặc cả hai rất có thể gặp phải tai nạn khi ra khỏi nhà, nhất là xuất ngoại.

(Theo Eva)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ bố trí phòng ngủ sau bàn thờ

Vì sao lại là Phong Thủy ?

Phong Thủy tức là Nước và Gió, là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của Địa lý đến đời sống hoạ phúc của con người. Là sự ảnh hưởng của hướng gió, khí, mạch nước đến mỗi cá nhân. Phong Thuỷ có vai trò rất to lớn, tuy nhiên nó chỉ hỗ trợ, có tác dụng cải biến chứ không thể làm thay đổi hoàn toàn mệnh vận.
Vì sao lại là Phong Thủy ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khái niệm về phong thuỷ

Về cơ bản Phong Thuỷ là một bộ môn khoa học về môi trường sống, là những lời diễn dịch của người Trung Quốc xưa về thế giới tự nhiên với mục đích giúp họ xây dựng nên một hệ thống canh tác hiệu quả. Ngoài ra với ý nghĩa sâu xa hơn, Phong Thuỷ còn chứa dựng những kiến thức, hiểu biết về sự chuyển động của các thiên thể mà người Trung Quốc đã nghiên cứu để xác định đường đi của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, những lý lẽ diễn dịch này càng phức tạp và được ghi chép lại bằng chữ viết và được lưu truyền đến ngày nay.

Ở Trung Quốc, khoa Phong Thuỷ chi phối toàn bộ cuộc sống nhân sinh. Bằng cách thấu hiểu các khái niệm căn bản về Phong Thuỷ, chúng ta có thể chọn ra các mô hình về thiết kế, những hình ảnh và biểu tượng đầy ý nghĩa từ chính nền văn hoá của mỗi dân tộc để hỗ trợ cho đời sống tinh thần của dân tộc đó.

Ngày nay về mặt thực hành, Phong Thuỷ cho chúng ta các lời khuyên về cách kiến tạo ra một môi trường sống thoải mái và tích cực. Những yếu tố bất thường trong đời sống hiện đại đang ngày càng gia tăng sức huỷ hoại và vì vậy ngày càng có nhiều người tìm đén các cách sống khác, mong rằng có thể lấy lại thế quân bình cho đời sống cá nhân và những người thân của họ.

Các kiến thức Phong Thuỷ chủ yếu mang đến cho chúng ta cơ hội được sống khoẻ mạnh, hạnh phúc và sung túc vì ý nghĩa căn bản của Phong Thuỷ là giữ gìn và duy trì một cuộc sống hài hoà với môi trường xung quanh ta. Hiểu biết về Phong Thuỷ có thể giúp chúng ta tự đặt mình vào những vị trí có lợi nhất trong môi trường sống của mình. Việc chọn nơi làm văn phòng cũng như các thiết kế nội thất sẽ ảnh hưởng đến mỗi chúng ta theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực.

Thuật phong thuỷ không những giúp ta biết được vị trí thuận lợi nhất đối với ta mà còn chỉ cho ta cách bài trí, chọn mầu sắc và kiểu dáng để hỗ trợ cho chúng ta trong cuộc sống. Việc thể hiện những lý thuyết của thuật Phong Thuỷ vào cuộc sống chắc chắn sẽ mang lại những lợi ích cụ thể cho chúng ta, cho dù chúng ta chỉ mới hiểu biết sơ qua về chúng.

Khi hiểu biết nhiều hơn về cuộc sống của mình và bắt đầu có ý thức tích cực thay đổi những nhân tố gây khó chịu cho chúng ta thì cũng đồng thời chúng ta đã bắt đầu hiểu rõ chính bản thân và vai trò của mình trong bối cảnh rộng lớn hơn.

Nguồn: Blogphongthuy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao lại là Phong Thủy ?

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi Giáo sư Lê Trung Hưng
10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :

1. Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2. Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không, Kiếp
3. Đời là bể khổ: cung ách
4. Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5. Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6. Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7. Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8. Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9. Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10. Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.

Bây giờ xin vào chi tiết:

1- Sinh bất phùng thời :

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương.

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy).

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó:
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi

Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc:
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10- Anh hùng tạo thời thế:
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Tính cách người tuổi Ngọ nhóm máu O: tình cảm lãng mạn

Những người tuổi Ngọ vốn thích tự do và bay nhảy, song tính cách người tuổi Ngọ nhóm máu O lại thiên nhiều về tình cảm. Cùng xem vận mệnh của họ ra sao nhé.
Tính cách người tuổi Ngọ nhóm máu O: tình cảm lãng mạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Tính cách đặc trưng của người tuổi Ngọ nhóm máu O

  Người tuổi Ngọ nhóm máu này nổi tiếng là những người tình cảm dồi dào, yêu thiên nhiên, luôn luôn theo đuổi tình yêu lãng mạn. Cũng có thể nói đây là người đa sầu đa cảm, dễ thay đổi tâm trạng, tức cảnh sinh tình, cảm xúc lên xuống thất thường.   Người cầm tinh con Ngựa lại mang nhóm máu O tính tình vui vẻ phóng khoáng, thích những nơi náo nhiệt, không ưa cô đơn. Họ có nhiều bạn bè, song chỉ là những mối quan hệ xã giao chứ không có bạn bè thân thiết hay người tri kỉ. Người này thích những thứ xa hoa phù phiếm, dễ vung tay quá trán, chi nhiều hơn thu.


tinh cach nguoi tuoi Ngo nhom mau O
 
  Bản thân họ không coi trọng tiền bạc, sống không có kế hoạch hay mục tiêu gì, cũng không biết tiết kiệm, chính vì thế mà thường tự đẩy mình vào hoàn cảnh bị động, túng thiếu trước sau.   Dù có tham vọng khá lớn trong công việc song lại thường làm mọi chuyện theo ý thích của bản thân, thuận theo tự nhiên chứ không hết mình đeo đuổi mục tiêu, do đó đánh mất rất nhiều cơ hội thăng tiến. Nhiều khi chỉ cần cố gắng thêm chút nữa, kiên nhẫn thêm chút nữa là sẽ thành công nhưng họ đã sớm nản lòng nhụt chí.   Tính cách người tuổi Ngọ nhóm máu O tuy lạc quan vui vẻ, song hễ gặp khó khăn, trở ngại là họ dễ buông xuôi, yếu đuối, không tự mình cố gắng. Nên học cách để trưởng thành hơn, sống thực tế, có mục tiêu trong cuộc sống. Thường ngày nên kết bạn với những người có ý chí cầu tiến, chớ nên tiếp tục cuộc sống phiêu du không mục đích, cần thiết lập kế hoạch rõ ràng, sau đó làm mọi chuyện đúng theo kế hoạch đã định.


tinh cach ngo o
 
  Người này có sự mãnh liệt trong tình yêu, họ hết lòng hết dạ đem lòng yêu người, chỉ mong tình yêu ra hoa kết trái. Sau khi kết hôn, họ vô cùng tôn trọng bạn đời của mình, cũng để cho người ấy có đủ không gian riêng, dù yêu thương mặn nồng nhưng không ràng buộc nhau quá nhiều. Có điều, đây là người hay thay đổi, người tuổi Ngọ yêu mãnh liệt mà hạ nhiệt cũng nhanh nên nếu có đối tượng trẻ trung xinh đẹp đeo đuổi thì dễ thay lòng đổi dạ, ngã mình vào vòng tay mới.  

Ưu điểm của người tuổi Ngọ nhóm máu O

  Tính cách người tuổi Ngọ nhóm này rất tích cực, lạc quan, thích vui vẻ náo nhiệt, cũng có rất nhiều bạn bè. Khi làm việc, họ đánh giá cao tính thực tế cũng như hiệu suất công việc.


uu diem ngo o]
 
  Người này không coi trọng tiền bạc, sống không có mục tiêu kế hoạch cụ thể nên rất thoải mái phiêu du với đời, hiếm khi cảm nhận thấy áp lực cuộc sống. Bản chất đây là người rất thông minh, có tham vọng, yêu cái đẹp.   Khi lựa chọn một nửa cho mình, người tuổi Ngọ nhóm máu O thường khá chú trọng vẻ bề ngoài. Là người có khả năng lãnh đạo, họ khá giỏi trong chuyện kinh doanh, cũng nhờ tính cách phóng khoáng, khoan dung mà nhân duyên rất tốt, có lợi cho công việc.  

Nhược điểm người tuổi Ngọ nhóm máu O

  Tuy là người quảng giao nhưng bạn bè người này đều không quá thân thiết, chỉ là các mối quan hệ chơi bời chứ hiếm ai là người tri kỉ. Ham mê những thứ phù phiếm xa hoa, bản thân họ không có khái niệm về tiền bạc nên tiêu pha vô độ, khiến cho mình lâm vào cảnh túng thiếu.   Mặc dù tính cách người tuổi Ngọ nhóm máu O vui vẻ lạc quan song lại không đủ mạnh mẽ để vượt qua thất bại, chỉ cần gặp khó khăn là dễ dàng nản lòng nhụt chí.


nhuoc diem ngo O
 
  Tình cảm phong phú khiến cho con giáp này có đôi chút đa sầu đa cảm, cảm xúc thất thường ảnh hưởng khá nhiều đến cuộc sống hàng ngày của họ.   Bản thân người này cần học thêm sự kiên nhẫn, rèn cho mình thói quen nhìn xa trông rộng. Làm việc theo sở thích nên bạn trở nên kém chuyên nghiệp. Đề cao tính tự nhiên, người tuổi Ngọ nhóm máu O hiếm khi nảy sinh tranh chấp với người khác, song cũng vì thế mà thiếu tính cạnh tranh, khó lòng giành được thành công.  

Tài lộc của người tuổi Ngọ nhóm máu O

  Tính cách người tuổi Ngọ nhóm máu này rất vui vẻ lạc quan, phóng khoáng cởi mở. Tuy có tham vọng song họ không có ý chí phấn đấu, dễ nản lòng trước khó khăn thất bại, chùn bước ngay khi gặp phải vật cản trên đường. Bản thân khá cố chấp, không muốn thay đổi lối sống, chỉ chọn làm những gì dễ dàng, dần dần trở nên lười nhác. Một người như vậy thì cơ hội tài lộc sẽ chẳng có nhiều, cũng không biết cách nắm bắt khi thời cơ đã đến gần mình.


tai loc ngo nhom mau o
 
  Tuy nhiên, bản thân người tuổi Ngọ nhóm này cũng có những thế mạnh riêng, cũng may mắn được quý nhân giúp đỡ nên sẽ có cơ may đón tài lộc đến bất ngờ. Nhờ thế mà con giáp này vẫn có tài chính vượt trội, kinh tế vững vàng và ngày càng tăng tiến.   Một điều cần nhắc nhở người tuổi Ngọ nhóm máu O rằng cần phải tỉnh táo, suy xét kĩ càng trước khi đổ vốn đầu tư vào bất cứ đâu. Chớ nên bỏ tất cả số trứng mình có vào trong cùng một giỏ, đề phòng bất trắc có thể xảy tới bất cứ lúc nào. Đặc biệt là nữ mệnh càng phải chú ý hơn đến vấn đề này. Bạn có thể tham khảo thêm Vận trình tài lộc của người tuổi Ngọ theo từng tháng nữa.   Nếu muốn có cơ hội phát tài phát lộc thì con giáp này cần phải kiểm điểm lại thái độ sống của mình. Đừng chỉ thuận theo tự nhiên, nước chảy bèo trôi, chẳng có chút nỗ lực hay cố gắng nào để đạt được những gì mình muốn. Cần đặt cho mình mục tiêu rõ ràng, cũng nhìn nhận vấn đề một cách thực tế. Nên tỉnh táo, chớ ham cái lợi nhỏ mà mất tiền mất của. Cũng cần chọn những người đáng tin cậy để cùng hợp tác làm ăn thì khả năng thành công mới cao, tài lộc và may mắn theo đó không ngừng kéo tới.  

Tình yêu, hôn nhân của người tuổi Ngọ nhóm máu O

 

Tình yêu

  Xem tử vi phương Đông, những chú Ngựa là biểu tượng của sự tự do, phóng khoáng, không thích ràng buộc. Họ thích vui vẻ, thích hưởng thụ. Người tuổi Ngọ nhóm máu này càng thích những nơi đông đúc náo nhiệt, cư xử khẳng khái, cởi mở. Ở họ có sự linh hoạt và nhanh nhẹn, có khả năng thu hút và thuyết phục mọi người xung quanh.   Tính cách người tuổi Ngọ nhóm máu O mạnh mẽ lạc quan, cũng có tư duy nhạy bén và tinh tế. Họ dồi dào tình cảm, dễ dàng rơi vào tình yêu, song cũng nhanh chóng tỉnh táo trở lại và thoát khỏi lưới tình.   Họ thích mối quan hệ rõ ràng, minh bạch, không thích những ai mập mờ nước đôi. Người này thích tham gia các hoat động tập thể nên thường có cảm tình với những ai hướng ngoại, cũng thường thích hẹn hò với người yêu ở nơi công cộng, vui vẻ và náo nhiệt.   Họ cần người yêu cho mình có không gian riêng, bởi họ yêu cuộc sống tự do và không thích bị ràng buộc quá nhiều. Bản thân họ cũng sẽ không can thiệp vào cuộc sống riêng của người yêu, có sự tôn trọng nhất định với nhau. Họ dễ xiêu lòng trước những cô gái mạnh mẽ và độc lập, không dựa dẫm vào một nửa của mình. Hãy thử xem bói tình yêu cho người tuổi Ngọ theo tháng sinh âm lịch nhé.


tinh yeu nguoi tuoi ngo nhom mau O
 
 

Hôn nhân

  Người tuổi Ngọ nhóm máu O thường lập gia đình khá muộn, bởi họ tiếc nuối cuộc sống hôn nhân. Bản thân họ không mấy thích hợp với cuộc sống vợ chồng bởi luôn muốn có khoảng trời riêng cho mình.   Đối với người này, việc kết hôn chỉ là hình thức, chỉ cần hai người yêu thương nhau thì không nhất thiết phải tổ chức rình rang mà vẫn hạnh phúc vô cùng. Tuy nhiên, khi đã có con, họ sẽ dần thay đổi suy nghĩ và muốn cho con có một tổ ấm ổn định, bản thân họ cũng sẽ buông bớt những sở thích cá nhân để chuyên tâm chăm lo cho gia đình.   Nam giới tuổi Ngọ nhóm này nên chọn vợ là người phụ nữ trầm tĩnh, hiền hậu, tính cách vui vẻ và phóng khoáng. Có như vậy cuộc sống hôn nhân mới bền lâu, đặc biệt hạnh phúc sau khi có thêm đứa con là sợi dây gắn kết. Trách nhiệm làm cha sẽ khiến họ thay đổi nhiều suy nghĩ và sống hết mình để dành cho gia đình những điều tốt đẹp nhất.   Nữ giới tuổi này nên chọn chồng là người đàn ông mạnh mẽ, độ lượng, có sức hấp dẫn, cũng có chí tiến thủ, có thể lo được cho gia đình thì hôn nhân mới bền vững lâu dài.    Bản thân hai người tuổi Ngọ cùng nhóm O không nên đến với nhau bởi sự tương đồng trong tính cách khiến họ khó có được hạnh phúc, cũng không hợp cho sự phát triển của con cái.  

Lời khuyên dành cho người tuổi Ngọ nhóm máu O

  Nên học cách trưởng thành hơn, chớ để cảm xúc quyết định thay lý trí, để tình cảm ảnh hưởng đến công việc. Cũng cần đặt cho mình những mục tiêu trong cuộc sống, từ đó phấn đấu hết mình để đạt được mục tiêu đó. Đừng vội nản lòng trước khó khăn mà phải kiên trì, tự tin rằng bản thân có thể chiến thắng được những thử thách đó.   Nên chọn những người bạn sống thực tế, có chí tiến thủ, chớ nên thuận nước đẩy thuyền, kết bạn với bất cứ ai mình gặp. Trong tình yêu, cần giữ mình chung thủy, đừng để bị dao động trước những cảm xúc mới mẻ để rồi đánh mất tình yêu đích thực.
Hy Vũ

Xem hướng nhà theo tuổi: Nam tuổi Ngọ nên và không nên làm nhà theo hướng nào? Tính cách, vận mệnh người tuổi Ngọ mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Ngọ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách người tuổi Ngọ nhóm máu O: tình cảm lãng mạn

Diễn giải giải mã và các ví dụ minh họa - Quyển 3

Ngày đưa lên mạng: 1-2-2003 Cử nhân Kinh tế: Dương Kiện Toàn (Saigon, Việt Nam) KINH DỊCH - KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN Tác giả giữ bản quyền. Tout droits réservés. All rights reserved. Mọi trích dịch vui lòng ghi tên tác giả. Rất cám ơn !
Diễn giải giải mã và các ví dụ minh họa - Quyển 3

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Tóm Tắt:

Ở quyển 1, tôi đã chứng minh rằng Chu Dịch là quyển sách trình bày 64 định luật, và chúng được viết lại từ những hình vẽ.
Ở quyển 2, tôi đã chứng minh rằng 64 định luật mang cấu trúc định sẵn, và cấu trúc ấy hình thành từ 6 học thuyết.
Trong quyển 3, tôi sẽ viết :
Bởi cho rằng đây là quyển sách trình bày 64 định luật, nên tôi sẽ diễn giải các thoán từ, hào từ theo đúng nghĩa đen của chúng.
Bởi cho rằng các thoán từ, hào từ mang cấu trúc định sẵn, nên tôi sẽ diễn giải chúng từ cấu trúc định sẵn ấy. Nói cách khác, có một qui tắc và từ qui tắc ấy thoán từ, hào từ được viết nên.
Bởi cho rằng Chu Dịch được viết lại từ các hình vẽ, cho nên khi căn cứ vào qui tắc tôi sẽ chỉ ra những thiếu sót ở một số hào từ.
Bởi cho rằng Chu Dịch là bản chép lại, cho nên tôi sẽ trình bày bộ Chu Dịch bằng ngôn từ hiện đại sau khi đã bổ sung những thiếu sót.
Và ví dụ minh hoạ ở mỗi hình thái sẽ giúp bạn đọc có được hình dung ban đầu tính ứng dụng dự đoán của Chu Dịch.

MỤC LỤC


QUYỂN 3: CHU DỊCH DIỄN GIẢI
Cấu Trúc Chu Dịch
Cấu Trúc Thoán Từ
Cấu Trúc Hào Từ
Cấu Tạo Của Từ
Qui Tắc Tạo Nên Thoán Từ
Qui Tắc Tạo Nên Hào Từ
64 Quẻ Dịch


1- THUẦN CÀN
2- THUẦN KHÔN
3- Thuỷ Lôi TRUÂN
4- Sơn Thuỷ MÔNG
5- Thuỷ Thiên NHU
6- Thiên Thuỷ TỤNG
7-Địa Thuỷ
8- Thuỷ Địa TỈ
9- Phong Thiên TIỂU SÚC
10- Thiên Trạch
11- Địa Thiên THÁI
12- Thiên Điạ BỈ
13- Thiên Hoả ĐỒNG NHÂN
14- Hoả Thiên ĐẠI HỮU
15- Địa Sơn KHIÊM
16- Lôi Địa DỰ
17- Trạch Lôi TUỲ
18- Sơn Phong CỔ
19- Địa Trạch LÂM
20- Phong Địa QUÁN
21- Hoả Lôi PHỆ HẠP
22- Sơn Hoả
23- Sơn Địa BÓC
24- Địa Lôi PHỤC
25- Thiên Lôi VÔ VỌNG
26- Sơn Thiên Đại Súc
27- Sơn Lôi DI
28- Trạch Phong ĐẠI QUÁ
29- THUẦN KHẢM
30- THUẦN LY
31- Trạch Sơn HÀM
32- Lôi Phong HẰNG
33- Thiên Sơn ĐỘN
34- Lôi Thiên ĐẠI TRÁNG
35- Hoả Địa TẤN
36- Địa Hoả MINH DI
37- Phong Hoả GIA NHÂN
38- Hoả Trạch KHUÊ
39- Thuỷ Sơn KIỂN
40- Lôi Thuỷ GIẢI
41- Sơn Trạch TỔN
42- Phong Lôi ÍCH
43- Trạch Thiên QUẢI
44- Thiên Phong CẤU
45- Trạch Địa TUỴ
46- Địa Phong THĂNG
47- Trạch Thuỷ KHỐN
48- Thuỷ Phong TĨNH
49- Trạch Hoả CÁCH
50- Hoả Phong ĐỈNH
51- THUẦN CHẤN
52- THUẦN CẤN
53- Phong Sơn TIỆM
54- Lôi Trạch QUI MUỘI
55- Lôi Hoả PHONG
56- Hoả Sơn LỮ
57- THUẦN TỐN
58- THUẦN ĐOÀI
59- Phong Thuỷ HOÁN
60- Thuỷ Trạch TIẾT
61- Phong Trạch TRUNG PHU
62- Lôi Sơn TIỂU QUÁ
63- Thuỷ Hoả KÝ TẾ
64- Hoả Thuỷ VỊ TẾ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Diễn giải giải mã và các ví dụ minh họa - Quyển 3

3 lỗi phong thủy thư phòng đại kị trong năm Bính Thân

Lỗi phong thủy cửa thư phòng sẽ ảnh hưởng đến khả năng tập trung và khả năng phạm tiểu nhân . Các cách hóa giải dưới đây sẽ giúp bạn không
3 lỗi phong thủy thư phòng đại kị trong năm Bính Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu phạm lỗi phong thủy cửa thư phòng sẽ ảnh hưởng đến khả năng tập trung và khả năng phạm tiểu nhân của gia chủ. Các cách hóa giải đơn giản do chuyên gia phong thủy đưa ra dưới đây sẽ giúp bạn không còn lo lắng.


3 loi phong thuy thu phong dai ki trong nam Binh Than hinh anh
 
1. Cửa sau lưng bàn

Bàn làm việc hay bàn học quay lưng với cửa khiến gia chủ dễ phạm tiểu nhân, đồng thời không tập trung trong công việc và học tập   Để cải thiện lỗi phong thủy thư phòng này, gia chủ tốt nhất điều chỉnh vị trí của bàn làm việc hoặc cửa. Trong trường hợp không thể thay đổi, thì đặt hũ đựng muối hạt ngay trước bàn, đồng thời treo hoặc đặt xâu Ngũ Đế, Lục Đế hoặc Thập Đế trong ngăn tủ. Nếu muốn ổn định khí trường, đặt Vinh Hoa Tượng hoặc Kim Thiềm Cửu Chuyển Càn Khôn tại góc trái bàn.
Phong thủy cho xe cưới: những điều bạn chưa biết
Tầm quan trọng của phong thủy xe cưới không được nhiều cặp đôi để ý, song chỉ cần phạm lỗi phong thủy sẽ ảnh hưởng đến sự hạnh phúc của hôn

2. Cửa thư phòng đối diện cửa phòng vệ sinh

Trong trường hợp cửa thư phòng đối diện cửa phòng vệ sinh, dòng khí ô uế từ nhà vệ sinh được lưu chuyển vào thư phòng. Do sao Văn Xương trong thư phòng tương xung với dòng khí này, sẽ dẫn đến việc phạm tiểu nhân, không nhận được sự trợ giúp của quý nhân, ảnh hưởng đến chất lượng học tập và làm việc.
 
Khi phạm lỗi phong thủy thư phòng này, gia chủ nên treo rèm trước cửa nhà vệ sinh, đồng thời treo xâu Ngũ Đế, Lục Đế hoặc Thập Đế để hóa giải sát khí. Bên cạnh đó, trong thư phòng đặt Cửu Trận Càn Khôn hoặc Thiềm Thừ để vượng quý nhân, tránh tiểu nhân, tập trung khí trường.
3 loi phong thuy thu phong dai ki trong nam Binh Than hinh anh 2
 
3. Cửa thư phòng đối diện bàn

Khi bàn và cửa được đặt đối diện nhau sẽ sinh ra khí trường, dòng khí này gây ra sự mất tập trung, tâm tính không ổn định của gia chủ hoặc trẻ nhỏ.
 
Điều tốt nhất khi gia chủ gặp tình huống này là thay đổi vị trí. Trong trường hợp không thể thay đổi vị trí cửa phòng thư phòng, gia chủ đặt hũ đựng muối hạt ngay trước bàn, đồng thời treo hoặc đặt xâu Ngũ Đế, Lục Đế hoặc Thập Đế trong ngăn tủ, đặt Vinh Hoa Tượng hoặc Cửu Chuyển Càn Khôn tại góc trái bàn.

► Xem thêm: Phong thủy nhà ở theo ngũ hành giúp cầu tài lộc, tránh tai ương

Chi Nguyễn

Xem Clip  Hoạt động vui trong ngày Tết này
 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 lỗi phong thủy thư phòng đại kị trong năm Bính Thân

Các thí nghiệm đi tìm lời giải đáp cho thế giới tâm linh

Khoa học trăn trở tìm cách giải mã các hiện tượng tâm linh trong suốt nhiều thập kỉ. Hàng trăm ngàn thí nghiệm đã được tiến hành để trả lời câu hỏi có tồn tại
Các thí nghiệm đi tìm lời giải đáp cho thế giới tâm linh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khoa học trăn trở tìm cách giải mã các hiện tượng tâm linh trong suốt nhiều thập kỉ. Hàng trăm ngàn thí nghiệm đã được tiến hành để trả lời câu hỏi có tồn tại hay không một thế lực siêu hình. Dưới đây là những thí nghiệm nổi tiếng nhất.


Cac thi nghiem di tim loi giai dap cho the gioi tam linh hinh anh
 
Thí nghiệm 21 grams
Năm 1901, tiến sĩ Duncan MacDougall, một nhà vật lý ở Massachusetts, Mỹ đã tiến hành một loạt các thí nghiệm để giải mã các hiện tượng tâm linh, chứng minh rằng linh hồn con người có trọng lượng, hiểu theo nghĩa một đơn vị vật lý xác thực.
 
MacDougall muốn đo đạc xem liệu có bất kỳ thay đổi đáng kể nào trong khối lượng của bệnh nhân vào thời khắc cuối đời của họ hay không. Ông đã đặt sáu bệnh nhân mắc chứng lao giai đoạn cuối trên một chiếc cân công nghiệp có khả năng đo đạc chính xác đến 2/10 của một ounce (1 ounce = 28 gram).
 
Theo lời kể của MacDougall, cả sáu bệnh nhân đã mất ¾ ounce hay khoảng 21 gram sau khi trút hơi thở cuối cùng. Tương tự, ông tiến hành thí nghiệm trên 15 con chó nhưng không phát hiện thấy thay đổi về khối lượng. Từ đó ông kết luận rằng sự chênh lệch khối lượng ở đây chính là khối lượng của linh hồn con người.
 
Mặc dù nghe có vẻ logic, nhưng thí nghiệm này lại không có căn cứ khoa học và trên thực tế MacDougall đã tuyển chọn khi công bố các kết quả thí nghiệm của mình. 
 
Hiện tượng giọng nói điện tử EVP (Electronic Voice Phenomena – hiện tượng giọng nói điện tử) là hiện tượng xuất hiện các âm thanh kỳ lạ trong các cuộn băng thâu âm điện tử. Những ai có thiên hướng tâm linh tin rằng những âm thanh này chính là giọng nói của người đã khuất. Âm thanh dạng này thường không có trong quá trình thu âm, nhưng lại xuất hiện trong quá trình tua lại.
 
Trong nhiều năm qua, rất nhiều người đã thử liên lạc với người chết thông qua biện pháp EVP và một số người thậm chí còn tuyên bố chế tạo được những thiết bị được thiết kế riêng cho mục đích này. Hai trong số những thiết bị nổi tiếng nhất là Spiricom của O’Neil và Ghost Box của Frank Sumption.
 
Mật mã bí mật của Houdini Ảo thuật gia nổi tiếng Houdini cảm thấy rất thích thú với việc lật tẩy trò lừa đảo của những thầy cúng chuyên gọi hồn người chết.
 
Để ngăn ngừa khả năng những kẻ bị nhập hồn tuyên bố liên lạc được với mình sau khi chết, Houdini đã thiết lập một mật mã bí mật mà chỉ có ông và vợ biết. Mật mã chứa 10 từ ngẫu nhiên từ một lá thư ông nhận được từ Doyle – tiểu thuyết gia trinh thám nổi tiếng.
 
Sau khi Houdini mất, vợ ông đã tổ chức các buổi họi hồn vào dịp lễ Halloween trong 10 năm liên tiếp, nhưng ông chưa từng hiện về. Đây là một trong những thí nghiệm giải mã các hiện tượng tâm linh khiến nhiều người tin vào giả thuyết vô thần.
 
Mũ bảo hiểm God Helmet Nhà phát minh Stanley Koren và nhà khoa học thần kinh Michael Persinger đã phối hợp tạo ra chiếc mũ bảo hiểm God Helmet. Thiết bị này có một vài cuộn dây gắn vào một chiếc mũ bảo hiểm của xe máy tuyết snowmobile. Theo Persinger, các cuộn dây này tạo ra các từ trường biến thiên có khả năng giúp người đeo có những “trải nghiệm huyền bí và các trạng thái thay đổi”. Từ trường được mũ bảo hiểm God Helmet tạo ra không mạnh bằng phương pháp kích thích từ trường xuyên sọ TMS; chúng chỉ mạnh bằng từ trường tạo ra bởi một chiếc máy sấy tóc thông thường.
 
Những người tham gia thí nghiệm của Persinger đã báo cáo cảm nhận được sự hiện hữu của các sinh mệnh, ví như các thiên thần hay thân nhân quá cố. Một người tham gia thậm chí còn tuyên bố đã tiếp xúc với Chúa. Thí nghiệm này đã khiến giới truyền thống gọi thiết bị của Persinger là mũ bảo hiểm God Helmet (mũ bảo hiểm của Chúa). Chính Persinger cũng liên tục khẳng định rằng 4 trong số 5 người đeo mũ đã cảm nhận được sự hiện hữu của các sinh linh hoặc sinh mệnh.
 
Năm 2004, một nhóm các nhà nghiên cứu người Thụy Điển đã cố gắng tái lập thí nghiệm này dưới các điều kiện có kiểm soát nhưng không thành. Họ đưa ra kết luận rằng các kết quả thí nghiệm của Persinger đã bị làm thiên lệch bởi chính tính nhạy cảm của các thành viên tham gia vì họ không tìm thấy mối liên hệ giữa từ trường yếu của chiếc mũ và các trạng thái nhận thức biến đổi.
 
Không nản lòng, Persinger và nhóm của ông đã phát triển một thiết bị khác tên là The Octopus (Bạch tuộc). Thiết bị này là một chiếc máy tăng cường cảm xúc đồng thời là máy sản sinh trạng thái biến đổi. Một nhóm nghiên cứu đã thí nghiệm nó và phát hiện thấy nó cũng không có ảnh hưởng gì khác biệt khi bật hay tắt. Tuy nhiên, họ nhận định, “cần tiến hành các nghiên cứu bổ sung”.

Luân hồi - Thôi miên hồi quy Hơn 40 năm trước, thôi miên hồi quy (hypnotic regression) đã được sử dụng phổ biến bởi các học giả phương Tây để phục vụ nghiên cứu về luân hồi. Sau đó, liệu pháp tiền kiếp (past-life therapy) đã vận dụng khái niệm luân hồi vào trị liệu và bổ sung cho phương pháp thôi miên hồi quy nhằm giải mã các hiện tượng tâm linh. Khía cạnh đáng kinh ngạc nhất của liệu pháp tiền kiếp chính là các triệu chứng của bệnh nhân có thể biến mất một cách bí ẩn sau khi họ “thấy” được tiền kiếp của chính họ.
 
Đa số là về các bệnh nhân mà sau khi hồi tưởng lại tiền kiếp, họ trở nên hạnh phúc và an hòa hơn. Họ dễ dàng đối mặt với khó khăn và cải thiện quan hệ với mọi người. Họ trở nên độc lập, vui vẻ và thích giúp đỡ người khác hơn. Điều này đã chứng tỏ rằng nhiều bệnh nhân, sau khi nhớ lại tiền kiếp, đã cải biến nội tâm và có cái nhìn tích cực hơn về cuộc sống. Họ trở nên khoan dung và tốt bụng hơn.  
ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các thí nghiệm đi tìm lời giải đáp cho thế giới tâm linh

Hợp tự là gì ? Tại sao phải hợp tự ?

Hợp tự có nghĩa là : rước các tiên linh các đời vào thờ chung trong cùng một nhà thờ của đại tôn hay của từng tiểu chi. Theo phong tục cổ truyền: Năm đời tống giỗ, hay "Ngũ đại mai thần chủ" (Đến 5 đời thì chôn thần chủ). Thực chất chỉ có bốn đời, tức là làm giỗ cha mẹ (đời 2), ông bà (đời 3), cụ ông cụ bà (hay cố 4 đời) và kỵ (hay can 5 đời).
Hợp tự là gì ? Tại sao phải hợp tự ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cao hơn kỵ gọi chung là tiên tổ, thì không cúng giỗ nữa, mà rước chung tất cả thuỷ tổ, tiên tổ các đời vào chung một nhà thờ mỗi năm tế một lượt. Thần chủ con cúng cha mẹ, đề là Hiền khảo, Hiền tỷ, đến khi người con trưởng chết, cháu đích tôn cúng ông bà, đối thần chủ là Hiền tổ khảo, Hiền tổ tỷ, đến lượt cháu trưởng mất, chắt trưởng tiếp tục thờ cụ là Hiền Tằng tổ khảo (hoặc tỷ), chít (chiu) trưởng thờ kỵ là Hiền Cao tổ khảo (hoặc tỷ).

Sau năm đời thì rước vào nhà thờ tổ rồi chôn thần chủ đó đi. Trong nhà thờ tổ chỉ để duy nhất có một ngôi thần chủ cao nhất (thuỷ tổ hoặc tiên tổ bậc cao nhất của nhà thờ chi đó) gọi là "Vĩnh thế thần chủ".

Gộp chung tất cả tiên tổ của nhiều đời lại để tế chung thay cho từng lễ giỗ, đó là hình thức hợp tự cổ truyền. Song trong phong tục đó còn có nhiều điều bất tiện: Chỉ con trưởng, cháu trưởng, chắt trưởng v.v...nối dòng qua nhiều đời mối được thờ ở nhà thờ chính. Vì vậy con , cháu, chắt những ông con thứ qua nhiều đời phải xây nhiều nhà thờ lớp con thứ, lớp cháu thứ, lớp chắt thứ v.v...

Nếu cứ thế tiếp tục mãi, thì có nơi số nhà thờ còn nhiều hơn cả số nhà ở của người dương trần. Chính vì lẽ trên, nên hồi đầu thế kỷ 20 đến trước CM Tháng 8-1945 ở nhiều nơi đã có phong trào tiến hành hợp tự vào các nhà thờ họ: Dầu cửa trưởng hay cửa thứ, sau khi mất, hết vòng tang, đều được rước linh vị vào thờ ở nhà thờ chung của họ. Linh vị xếp theo thứ tự trên dưới.

Đến ngày giỗ người nào, thì đưa linh vị người đó vào hàng giữa theo thứ bậc, cúng xong lại xếp vào vị trí cũ. Việc hợp tự như vậy: trước là hợp với tâm linh, con cái ở dưới chân cha mẹ, cháu chắt về với tổ tiên, tượng trưng sự đoàn tụ ở cõi âm, sau nữa thuận tiện cho việc chung sức, chung lòng xây dựng nhà thờ, mua sắm tế khí, quanh năm hương khói, gắn bó thêm mối tình ruột thịt trong nội thân. Song cũng có những gia đình, kinh tế dồi đào hơn, lại ở cách xa nhà thờ đi lại bất tiện, nên họ cúng riêng, tiện hơn, không hợp tự. Do đó, ngày nay nên vận động hợp tự, trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hợp tự là gì ? Tại sao phải hợp tự ?

Chùa Đông Thuần - Hải Dương

Chùa Đông Thuần còn có tên gọi khác là chùa Đông Hải hay chùa Phúc Hải. Chùa tọa lạc tại số 20, đại lộ Hồ Chí Minh, phường Nguyễn Trãi, thành phố Hải Dương
Chùa Đông Thuần - Hải Dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Đông Thuần còn có tên gọi khác là chùa Đông Hải hay chùa Phúc Hải. Chùa tọa lạc tại số 20, đại lộ Hồ Chí Minh, phường Nguyễn Trãi, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương do Ni trưởng Thích Đàm Thận trụ trì.

Chùa được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIX, kiến trúc kiểu chữ Đinh. Năm 1936, chùa được trùng tu, xây dựng tam quan, nhà giảng. Năm 1970, Hòa thượng Thích Tâm Minh về trụ trì chùa đã tổ chức nhiều đợt tu sửa, nhất là đợt đại trùng tu năm 1994. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chùa Đông Hải hiện đặt Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Hải Dương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Đông Thuần - Hải Dương

Rubi (Al2O3)

Đá được đặt tên như vậy là do có màusắc đặc trưng (Theo tiếng La Tinh Rubeur - “Màu đỏ”) do crom oxit tạo ra.Thuậtngữ “Rubi” với ý nghĩa hiện đại của nó bắt đầu được nhà khoáng vật học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tên gọi: Đá được đặt tên như vậy là do có màu sắc đặc trưng (Theo tiếng La Tinh Rubeur - “Màu đỏ”) do crom oxit tạo ra.Thuật ngữ “Rubi” với ý nghĩa hiện đại của nó bắt đầu được nhà khoáng vật học Valerius đưa vào sử dụng năm 1747. Trước đó người ta sử dụng các từ “Ruber” hoặc “Ruberus” để chỉ cả granat lẫn rubi và spinen đỏ. Ở Việt Nam, ta quen gọi chúng là hồng ngọc hoặc ngọc đỏ.

Tên gọi khác, biến thể: Corundum đỏ quý - Tên đồng nghĩa của rubi.

Manikia - Rubi trong tiếng Sanskrit dịch nghĩa là “Vua của các loại đá quỷ”.

Ratnanajama - Tên gọi khác của rubi trong tiếng Sanskrit có nghĩa là “Chúa tể của các loại đá quý”.

Yakhont - Tên gọi rubi và các loại đá quý màu đỏ khác trong tiếng Nga cổ.

Những đặc điểm chính: Màu đỏ với nhiều sắc độ khác nhau, có khi chuyển sang sắc hồng, tím, vàng... Thường gặp những dạng tinh thể có hình tonno, hình trụ lưỡng tháp, có khi kích thước khá lớn (bán kính tới dm). Trên bề mặt của lăng trụ và lưỡng tháp có vết vạch chéo. Trong các trường hợp khác thấy những vết sọc nằm ngang do song tinh theo song diện. Các tinh thể rubi thường phân bố tản mạn trong đá nhưng cũng gặp những khoáng sàng mà nó tạo thành khối hạt đặc sit.

Tính chất vật lý

- Độ cứng: 9,0

- Tinh hệ: Sáu phương

- Tỷ trọng: 3,95 - 4,10 g/cm3

- Ánh: Thuỷ tinh

Tính chất chữa bệnh: Từ thời xa xưa, rubi đã được gán cho những tính chất siêu nhiên, trong đó có khả năng ngăn ngừa các căn bệnh nặng và tạo cho cơ thể nguồn năng lượng. Người ta cho rằng rubi chữa các bệnh về tim, não, làm tăng thêm sức mạnh và trí nhớ của con người. Trong một cuốn sách cổ cúa Nga kể về các loại đá quý có nói về rubi rằng loại đá này “đuổi khỏi cơ thể người mọi loại bệnh tật, giũ gìn sức khoẻ”. Người ta gán cho rubi cả tác dụng giải độc. Những viên đá này dường như cứu người chủ của nó thoát khỏi các loại chất độc.

Các nhà thạch học trị liệu hiện đại nói rằng rubi có vai trò to lớn trong việc điều trị nhiều loại bệnh khác nhau. Cho rằng, rubi có khả năng chữa các bệnh về máu, viêm hạnh nhân mãn tính, bệnh ở cột sống và khớp. Ngoài ra, còn nhận thấy khả năng của rubi trong việc ngăn ngừa những cơn động kinh, có ảnh hưởng tốt tới hệ thần kinh. Loại đá này có khả năng chứa chứng trầm uất, có tác dụng trong điều trị bệnh mất ngủ và tâm thần phân liệt. Khuyên không nên đeo rubi trong các trường hợp khi cơ thể bị dư thừa năng lượng khới đầu của “Dương”, bị rối loạn thần kinh và tăng áp lực động mạch. Trong trường hợp này tốt nhất là nên thay nó bằng loại đá mang tính Thuỷ để “làm mát” và điều hoà cân bằng năng lượng.

Nguồn: VietGem (st)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rubi (Al2O3)

Những câu nói hay về cuộc sống gia đình

Tổng hợp những câu nói hay về cuộc sống gia đình ý nghĩa nhất với những câu danh ngôn, câu nói hay, câu nói châm biếm về gia đình, vợ chồng hay nhất
Những câu nói hay về cuộc sống gia đình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng hợp những câu nói hay về cuộc sống gia đình ý nghĩa nhất với những câu danh ngôn, câu nói hay, câu nói châm biếm về gia đình, vợ chồng hay nhất. Vậy bạn hãy cùng xem và cười cùng chúng tôi với những câu nói hay về cuộc sống gia đình nhé!

Những câu nói hay về cuộc sống gia đình

1. Khi móng tay dài, chúng ta cắt móng tay chứ không cắt ngón tay. Cũng tương tự, khi hiểu nhầm phát sinh, hãy cắt bớt cái tôi chứ đừng cắt đứt mối quan hệ.

——–

2. Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên được.

———

3. Bạn bè là những người hiếm hoi hỏi han bạn và rồi chờ để nghe câu trả lời.

———

4. Cho dù chúng ta đã thay đổi và đều tìm được chỗ của mình trên thế giới này, chúng ta đều biết khi lệ rơi và nụ cười lan tỏa trên gương mặt, chúng ta sẽ đến với nhau, vì dù thế giới điên cuồng này có đưa ta đến đâu, không gì sẽ thay đổi tới mức chúng ta không còn là bạn nữa.

———

5. Hạnh phúc chỉ được cảm nhận khi ai đó thực sự trải qua đau khổ. Đau khổ không chỉ là niềm đau, sự phiền muộn mà còn là một cách nhìn mới mẻ hơn vào cuộc sống.

6. Kẻ khốn cùng nhất trên thế giới này không phải là người không một đồng xu dính túi, mà là kẻ không có nổi một ước mơ.

7. Câu hỏi không phải là liệu bạn có sẵn sàng hy sinh vì bạn mình không, mà là bạn có người bạn nào đáng để mình hy sinh không?

8. Thật đau đớn khi yêu ai đó và không nhận lại được tình yêu. Nhưng còn đau đớn hơn là yêu mà không bao giờ đủ can đảm để thổ lộ tình cảm của mình với đối phương.

9. Nếu tôi có một ngôi sao cho mỗi lần bạn khiến tôi cười, tôi sẽ có cả bầu trời đêm trong lòng bàn tay.

10. Nếu hạnh phúc có thể mua, cái giá của nó chẳng mấy ai trả được.

11. Mơ mộng về con người mà bạn muốn được giống là lãng phí con người thực chất của bạn.

12. Tình bạn giống như sức khỏe tốt, giá trị của nó ít được nhận ra cho tới khi nó đã bị đánh mất.

13. Người ta nói tình yêu quan trọng hơn tiền bạc, nhưng bạn đã bao giờ thử thanh toán hóa đơn với một cái ôm chưa?

14. Bạn từng sợ rằng nếu bạn không bạn hoàn hảo, bạn sẽ không được thương yêu… giờ bạn sẽ hiểu rằng trừ phi bạn không hoàn hảo, nếu không bạn sẽ chẳng thể yêu thương.

15. Chúng ta yêu thương không phải bởi tìm được người hoàn hảo, mà bởi học được cách nhìn người không hoàn hảo một cách hoàn hảo.

16. Lòng tốt không chỉ là hành động. Nó là thái độ, biểu cảm, cái nhìn, sự tiếp xúc. Nó là mọi thứ làm người khác ấm lòng.

17. Nếu bạn muốn biến những ước mơ của mình thành hiện thực, điều đầu tiên mà bạn cần phải làm là thức dậy.

18. Hãy khắc mục đích vào bê tông và viết kế hoạch lên trên cát.

19. Đến một lúc nào đó bạn sẽ nhận ra mình không còn thật sự quan tâm rồi tương lai sẽ trở thành một người như thế nào, mà quan trọng là bạn có đang sống một cuộc sống mà bạn là chính mình không.

20. Đôi khi tình bạn có nghĩa là làm chủ nghệ thuật xác định đúng thời điểm. Có thời điểm cho sự im lặng. Có thời điểm cần buông tay và để bạn mình lao vào vận mệnh của chính họ. Và có thời điểm để chuẩn bị nhặt lên những mảnh vỡ sau khi tất cả đã kết thúc.

21. Nếu bạn thấy một người bạn không có nụ cười, hãy lấy nụ cười của mình cho người đó.

22. Ngày hôm qua chỉ là cảnh mộng, và ngày mai chỉ là một giấc mơ. Nhưng ngày hôm nay sống tốt sẽ khiến mỗi ngày qua là giấc mơ hạnh phúc, và mỗi ngày mai là giấc mơ hy vọng.

23. Triết lí từ trà
Cuộc sống có lúc thuận lợi, có khi trắc trở. Những người biết thưởng thức sẽ cảm nhận được vị ngọt của hạnh phúc vươn lên sau mỗi thất bại đắng cay.

24. Mỗi khi vấp ngã, tôi thường tự nhủ bản thân hãy nhanh chóng đứng dậy và đi tiếp. Vì chỉ có bước đi mới có thể đến đích, cùng lắm chỉ là thêm vài lần vấp ngã để lại đứng lên. Còn nếu nằm đó, tất cả những gì tôi nhận được, chỉ có thể là những tiếng xầm xì.

25. Cách tốt nhất để thành công trong đời là hành động theo lời khuyên mà ta trao cho người khác.

26. Sống phải biết mình là ai

Đừng vì lòng sĩ diện mà làm khổ cha mẹ
Đừng vì giàu sang và khinh kẻ nghèo hèn
Đừng vì tiền mà bán rẻ lương tâm
Đừng coi mình khôn ngoan mà lừa lọc dối trá
Sông có lúc người có khúc

Gieo nhân nào thì sau này sẽ gặp quả đó

27. Mục tiêu của khoa học là tạo nên cái bẫy chuột tốt hơn. Mục tiêu của tự nhiên là tạo nên con chuột tốt hơn.

28. Bạn không thất bại, bạn chỉ đang từng bước xây dựng nên thế cờ để chiến thắng mà thôi.

29. Tôi không tỏ ra mình biết tình yêu là gì với tất cả mọi người, nhưng tôi có thể nói với bạn tình yêu là gì đối với tôi; tình yêu là biết tất cả về một người mà vẫn muốn ở bên người đó hơn bất cứ ai khác; tình yêu là tin tưởng một người để nói với người đó tất cả về bản thân mình, kể cả những điều có thể khiến bạn xấu hổ; tình yêu là cảm thấy thoải mái và an toàn với một người, nhưng vẫn thấy bủn rủn chân tay khi người đó bước vào phòng và cười với bạn.

30. Một ngày nào đó, có người sẽ bước vào cuộc đời bạn và cho bạn nhận ra tại sao tình yêu không thể đến với bất kì ai khác.

31. Đôi khi bạn dựng lên những bức tường không phải để ngăn người khác ở bên ngoài, mà để xem ai đủ quan tâm phá vỡ chúng.

32. Để trở thành một ngôi sao, bạn phải tự tỏa ánh sáng của riêng mình, đi theo con đường của riêng mình, và đừng lo lắng về bóng tối, bởi đó là khi sao sáng nhất.

33. Đôi khi bạn cần trải nghiệm mọi thứ để có thể học hỏi. Cuộc đời không phải điều bạn có thể dễ dàng tìm ra cách sống, vì vậy hãy đón nhận đời như những gì đến với bạn.
Khóc…
Cười…
Khờ dại…
Và đừng bỏ lỡ những cơ hội mà đời trao cho bạn bởi những điều quan trọng nhất không phải là “Vật chất”. Luôn luôn chính là những “Con người” khiến cho cuộc đời bạn đáng sống.

34. Cuộc sống của chúng ta được định hình bởi những người yêu ta và những người không chịu yêu ta.

35. Chúng ta đều đi những con đường khác nhau trong đời, nhưng dù chúng ta đi tới đâu, chúng ta cũng mang theo mình một phần của nhau.

36. Một người bạn là người mà ta có thể trút ra tất cả trái tim mình, trái tim đầy tro trấu, biết rằng những bàn tay dịu dàng nhất sẽ cầm lấy nó và sàng lọc, giữ lại những gì đáng giữ, và với hơi thở của lòng tốt, thổi đi tất cả những phần đáng để cuốn đi.

37. Đừng bận tâm về những điều người ta nói xấu sau lưng bạn, vì họ là những người chỉ bới móc sai lầm trong đời bạn thay vì lo sửa sai lỗi lầm của chính mình!

38. Thế giới này rộng lớn là thế, đi đến cùng trời cuối đất cũng không gặp được em, nhưng đồng thời thế giới cũng quá ư là nhỏ bé, gặp ai, cũng thấy giống em.

Trên đây là một số những câu nói hay về cuộc sống gia đình, những câu châm ngôn, những câu nói bất hủ hay ý nghĩa nhất về cuộc sống gia đình. Vậy bạn hãy đọc và cảm nhận nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay về cuộc sống gia đình

Mơ thấy mưa giông: Nếm trải gian khó để có thành công –

Một trận mưa giông dữ dội trong mơ mang ý nghĩa nếm trải gian khó để có thành công. Nữ giới đã kết hôn mơ thấy mưa giông, nghĩa là sau một thời gian dài cực nhọc vất vả, không oán không than sẽ tìm thấy hạnh phúc bản thân, một cuộc sống đủ đầy, con c
Mơ thấy mưa giông: Nếm trải gian khó để có thành công –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mưa giông: Nếm trải gian khó để có thành công –

Tết nguyên tiêu, ngày giằm tháng giêng

Ngày rằm tháng giêng âm lịch là tết Nguyên Tiêu một trong những ngày tết truyền thống, cũng là ngày cuối trong cả dịp Tết Xuân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày rằm tháng giêng âm lịch là tết Nguyên Tiêu một trong những ngày tết truyền thống, cũng là ngày cuối trong cả dịp Tết Xuân.

Tết Nguyên Tiêu cũng gọi là Nguyên Tịch, Nguyên Dạ còn gọi là tết Thượng Nguyên. Đêm rằm tháng giêng là đêm trăng tròn đầu tiên trong năm mới theo Âm lịch. Đêm hôm đó, trong dân gian TQ từ trước đến nay đều có tập trước treo hoa đăng, vì vậy Tết Nguyên Tiêu còn gọi là tết “Hoa Đăng”.

Phật giáo trong hơn ngàn năm du nhập vào Việt Nam đã gắn kết các phong tục văn hóa của Việt. Rằm tháng giêng không phải là một ngoại lệ, từ một ngày lễ hội xa lạ có nguồn gốc từ Trung Hoa đã biến đổi thành một ngày Tết mang bản sắc rất riêng của người dân Việt thấm nhuần Phật pháp.

tet-nguyen-tieu

Rằm tháng giêng làm một trong 4 ngày rằm lớn trong năm mà người Việt đặc biệt là Phật tử thường viếng chùa lễ Phật cầu gia đạo bình an, phong điều vũ thuận, quốc thái dân an. So với rằm tháng Tư (Phật đản) và rằm tháng Bảy (Vu Lan) thì rằm tháng giêng không quan trọng bằng.

Do rằm tháng giêng trùng hợp với lễ Thượng nguyên và Tết Nguyên tiêu trong dân gian, đồng thời ngày này là rằm đầu tiên của năm mới, thời điểm thích hợp nhất để cầu nguyện an lành cho cả năm, nên thu hút sự tham gia đông đảo của giới Phật tử và toàn thể dân chúng. Thành ngữ “Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng Giêng” đã nói lên tầm quan trọng của hội rằm tháng Giêng trong tâm thức người Việt

Đối với hầu hết các chùa Việt, trọng tâm của hội rằm tháng Giêng là lễ cầu quốc thái dân an, cầu nguyện an lành, khỏe mạnh, no đủ, thịnh vượng và phát triển cho bá tánh và đất nước. Vì thế, ngày càng đông người đến chùa, lễ Phật, cầu nguyện trong hội rằm tháng Giêng là một tín hiệu tốt, thể hiện rõ nét tinh thần “Đạo pháp và Dân tộc”.

Khi chùa chiền được tự do sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, được sửa chữa trùng tu to đẹp khang trang cùng với sự quan tâm khôi phục các lễ hội văn hóa truyền thống dân tộc của các cấp chính quyền và nhất là ý thức tìm về những giá trị sống của tổ tiên thông qua các lễ hội văn hóa của nhân dân được đánh thức, thì việc tham dự đông đảo các lễ hội như hội rằm tháng Giêng là điều bình thường.

Khá nhiều chùa chiền nhân dịp tết Nguyên Tiêu đã lập đàn Dược Sư, tụng kinh Dược Sư trong suốt tháng Giêng (hoặc từ mùng 8 đến rằm tháng Giêng), khuyến khích Phật tử tham gia tụng niệm rồi phục nguyện hồi hướng công đức an lành cho Phật tử. Thiết nghĩ, đây cũng là một cách tu tập, cầu nguyện có hiệu quả nhất để đem lại phước báo an lành như mong cầu của mọi người trước thềm năm mới.

Lễ Hội Đèn Lồng Hội An

le-hoi-den-long

Thời gian gần đây ở Hội An có tổ chức Lễ Hội Đèn Lồng Hội An định kỳ hằng năm vào dịp Tết Nguyên Tiêu. Đây là một lễ hội ban đầu được tổ chức với mục đích quảng bá du lịch nhưng dần dà đã đi vào tâm thức của người dân Hội An. Trong lễ hội Đèn Lồng Hội An có rất nhiều chương trình tiết mục biểu diễn văn nghệ xen kẽ với rất nhiều các hoạt động nghệ thuật như sắp đặt đèn lồng, thi đèn lồng nghệ thuật, trang trí lồng đèn, bắn pháp hoa nghệ thuật… đặc biệt Lễ Hội Đèn Lồng Hội An kéo dài từ trước tết âm lịch cho đến cuối tháng giêng âm lịch tái hiện nhiều truyền thống văn hóa phong tục Việt Nam như: lễ thượng nêu, gói bánh tét, hoa đăng trên sông… Trong khoảng thời gian này nhà nhà ở Hội An đều treo đèn lồng, loại đèn lồng đặc biệt do người dân Hội An làm ra.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết nguyên tiêu, ngày giằm tháng giêng

Lịch vạn niên là gì ? –

Lịch vạn niên còn gọi là Hoàng lịch thông thư, Hiệp kỷ lịch, Hiệp kỷ biện phương thư, Vạn bảo toàn thư, Tuyển trạch nhật, Ngọc hạp, v.v... Lịch vạn niên là loại lịch dùng cho nhiều năm; soạn theo chu kỳ: năm - tháng - ngày - giờ - hàng can, hàng chi;

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lịch vạn niên còn gọi là Hoàng lịch thông thư, Hiệp kỷ lịch, Hiệp kỷ biện phương thư, Vạn bảo toàn thư, Tuyển trạch nhật, Ngọc hạp, v.v…

lich-van-nien-1945-2045

Lịch vạn niên là loại lịch dùng cho nhiều năm; soạn theo chu kỳ: năm – tháng – ngày – giờ – hàng can, hàng chi; cứ 60 năm quay lại một vòng. Lịch vạn niên dựa vào thuyết âm dương ngũ hành sinh khắc chế hóa lẫn nhau, kết hợp với thập can, thập nhị chi, cửu cung, bát quái và nhiều cơ sở lý luận khác thuộc khoa học cổ đại phương Đông như thập nhị trực (Kiến Trừ thập nhị khách), Nhị thập bát túi 12 cung Hoàng đạo, Hắc đạo… để tính ngày giờ tốt xấu.

Cuốn Lịch vạn niên thông dụng ở nước ta dưới triều Nguyễn là cuốn Ngọc hạp thông thư. sở dĩ gọi là thông dụng, vì rải rác qua các tủ sách của các nhà Nho còn sót lại, chúng tôi tìm được các bản viết tay, quyển thì rách đầu, quyển thì mất đuôi, quyển bị xé giữa, và sưu tầm được ỏ các địa phương cách xa nhau (Bắc Thái, Hải Hưng, Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên) nhưng nội dung vẫn thống nhất.

Có thể nói, Ngọc hạp thông thư là cuốn sách gối đầu giường của các cụ nhà Nho nước ta thời trước. Động đến việc gì lớn hay nhỏ trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, chài lưới, săn bắn, trong lễ nghỉ tế tự, giao dịch, trong mọi mặt sinh hoạt gia đình, họ hàng, làng xóm, các cụ đều mở lịch ra chọn ngày giờ lành, tránh ngày giờ dữ.

Ngoài ra, trước năm 1945, ở nước ta cũng lưu hành một số sách khác như Vạn bảo toàn thư, Đổng công tuyển trạch nhật, Chư gia tuyển trạch nhật (từ Trung Quốc đưa sang), hay cuốn Tăng bổ tuyển trạch thông thư quảng ngọc hạp ký (in ở Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn). Tất cả những cuốn trên đều cùng nội dung Lịch vạn niên, nhưng pha trộn thêm nhiều tà thuyết, trong đó có những tà thuyết đã bị bác bỏ từ thời Vua Khang Hy triều nhà Thanh.

Dưới triều Nguyễn (1802 – 1945) có Khâm định vạn niên thư (triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu trị, Tự Đức) và Đại Nam Hiệp kỷ lịch (từ triều Thành Thái (1900) trở về sau). Đó là những cuốn lịch có tính pháp định, do toà Khâm thiên giám soạn, đệ trình nhà vua và do nhà vua ban cho thần dân hàng năm. Ngọc hạp thông thư, tức cuốn Lịch vạn niên chúng tôi đề cập ở đây cũng do Khâm thiên giảm ban hành, cũng có chung cơ sở lý luận thuộc thiên văn học cổ đại nhưng không phải là Khâm định vạn niên thư

-Lịch vạn niên dùng để chọn ngày tốt ngày xấu còn phải dựa vào một loạt “Thần sát” của thuật chiêm tinh cổ đại.

-Lịch vạn niên cũng khác với Lịch vạn sự của từng năm, nhất là các cuốn gọi là “Lịch vạn sự’ lưu hành trên thị trường nước ta những năm gần đây.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lịch vạn niên là gì ? –

Phong tục ngày Tết: Lễ chùa, đình, đền

Phong tục ngày Tết: Lễ chùa, đình, đền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc cầu may, xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và cho gia đình. Và nhân dịp này người ta thường xin quẻ đầu năm.

Khi đi lễ, người ta kén giờ và kén hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp sự may mắn quanh năm. Ngày nay, người ta đi lễ nhưng ít người kén giờ và kén hướng.

chua-ba-vang-1

Hái lộc

Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong, lúc trở về người ta có tục hái một cành cây mang về ngụ ý là lấy lộc của trời đất phật thần ban cho. Trước cửa đình cửa đền, thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá sum suê, khách đi lễ mỗi người bẻ một nhánh, gọi là cành lộc.

Cành lộc này mang về người ta cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô. Với tin tưởng lộc hái về trong Ðêm giao thừa sẽ đem lại may mắn quanh năm, người Việt Nam trong buổi xuất hành đầu tiên bao giờ cũng hái lộc. Cành lộc tượng trưng cho tốt lành may mắn.

Về tục xuất hành cũng như tục hái lộc, có nhiều người không đi trong Ðêm giao thừa, mà họ kén ngày tốt giờ tố trong mấy ngày đầu năm và đi đúng theo hướng chỉ dẫn trong các cuốn lịch đầu năm để có thể có được một năm hoàn toàn may mắn.

Hướng lộc

Có nhiều người trong lúc xuất hành đi lễ, thay vì hái lộc cành cây, lại xin lộc tại các đình đền chùa miếu bằng các đốt một nắm hương hoặc một cây hương lớn, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó cắm tại bình hương bàn thờ Tổ tiên hoặc bàn thờ Thổ công ở nhà.

Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt. Lấy lửa tự các nơi thờ tự mang về, tức là xin phật thánh phù hộ cho được phát đạt tốt lộc quanh năm. Trong lúc mang nắm hương từ nơi thờ tự trở về, nhiều khi gặp gió, nắm hương bốc cháy, người ta tin đó là một điềm tốt báo trước sự may mắn quanh năm. Thường những người làm ăn buôn bán hay xin hương lộc tại các nơi thờ tự.

(Trích Tín ngưỡng Việt Nam)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong tục ngày Tết: Lễ chùa, đình, đền

Ý nghĩa các loại rau trong giấc mơ

Nằm mơ thấy rau là lời dự báo về công việc của bạn trong thời gian sắp tới sẽ có một vài thử thách. Để vượt qua, bạn cần phải kiên trì, tập trung vào công việc
Ý nghĩa các loại rau trong giấc mơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

quan trọng và biết lựa chọn vấn đề để có cách giải quyết phù hợp. 


Nếu bạn mơ thấy món rau trộn, dù là mình được ăn hay phải chuẩn bị cho người khác thì điềm may mắn cũng sẽ đến với bạn.

Rau gia vị

Y nghia cac loai rau trong giac mo hinh anh
Mơ thấy rau húng là sắp được vui vẻ, hạnh phúc
Các loại rau mùi, rau diếp, húng… là món ăn kèm thơm ngon mà nhiều người ưa thích. Thấy cây rau diếp đang mọc trong mơ ám chỉ rằng, sau những ngày buồn tủi cuối cùng bạn sẽ có một khoảng thời gian vui vẻ hạnh phúc.    Mơ thấy bạn đang ăn rau diếp ám chỉ rằng sự ghen tị sẽ gây rạn nứt tình cảm với người yêu hoặc với bạn bè.   Mơ thấy bạn đang trồng rau diếp, điềm này cho biết bạn sẽ gặp phải rắc rối về sức khỏe.    Mơ thấy mình đang mua rau diếp ám chỉ rằng rất có thể bạn sẽ suy sụp vì làm việc quá sức hoặc công việc không phù hợp với bản thân.

Mùi tây

Thấy cây mùi tây biểu thị cho sự thán phục của mọi người trước những thành công mà bạn đạt được trong sự nghiệp. Ngoài ra, nó còn là biểu tượng cho sự thanh lọc tâm hồn, bạn nên giải tỏa những tiêu cực, muộn phiền trong tâm trí để hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn.

Cải bắp

Thấy hoặc ăn cải bắp trong mơ, ám chỉ rằng bạn sẽ không phung phí thời gian cho những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống. Bạn sống và vững vàng trước những thách thức của cuộc sống. 

Củ hành

Thấy hoặc ăn củ hành trong mơ, thể hiện rằng bạn cần khám phá những điều ẩn chứa trong công việc để tìm ra sự thật. Bạn cần tìm hiểu sâu hoàn cảnh hoặc vấn đề nào đó.

Cà rốt

Thấy một cây hay một củ cà rốt trong mơ, điều này là do sự dư dật, giàu sang. Cà rốt cũng có thể là biểu tượng cho sự cám dỗ.

Cà chua

Y nghia cac loai rau trong giac mo hinh anh 2
Mơ thấy ăn cà chua là sức khỏe tốt

Thấy những trái cà chua trong mơ, biểu thị cho hạnh phúc gia đình và sự hòa thuận.
 
Mơ thấy bạn đang ăn cà chua bào sức khỏe tốt.

Nghệ tây
Thấy cây nghệ tây trong mơ ám chỉ bị người yêu lường gạt hoặc gặp người bạn giả dối.
 
Mơ thấy bạn đang dùng nghệ tây trong thức ăn, nghĩa là có cách giải quyết êm đẹp cho những rắc rối và sự tranh cãi của bạn.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa các loại rau trong giấc mơ

Xem về hóa hợp của can chi trong tứ trụ (P1)

Nếu 2 thiên can cùng tương hợp với 1 thiên can thì gọi là âm - dương thiên lệch.
Xem về hóa hợp của can chi trong tứ trụ (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Hai can tương hợp, quý ở trung hòa

Ví dụ: Can Giáp, can Kỷ hợp Thổ, nếu cả 2 đều ở trạng thái sinh, vượng thì sẽ trung hòa, không thiên lệch. Còn nếu như can Giáp quá mạnh, can Kỷ quá yếu, nghĩa là một cái thái quá, một cái bất cập thì sẽ không trung hòa.

(Tranh minh họa)

2. Hai can tranh hợp, âm - dương thiên lệch

Nếu 2 thiên can cùng tương hợp với 1 thiên can thì gọi là âm - dương thiên lệch.

Ví dụ: 2 can Giáp hợp với 1 can Kỷ hoặc 2 can Kỷ hợp với 1 can Giáp sẽ giống như chồng nhiều vợ ít, vợ nhiều chồng ít, khó tránh khỏi tranh giành đố kỵ, tình cảm không chính chuyên, vì vậy không phải là chuyện tốt.

3. Dương được âm hợp, âm được dương hợp

Khi 2 thiên can hợp lại, nếu là can dương được can âm đến hợp thì phúc đến chậm, còn can âm được can dương đến hợp thì phúc đến nhanh.

Ví dụ: Can dương là Giáp được can âm là Kỷ hợp là Tài. Can âm là Kỷ được can dương là Giáp hợp là Quan, tuy cùng là điềm phúc, nhưng lại khác nhau ở chỗ, Tài đến chậm còn Quan đến nhanh.

(Theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem về hóa hợp của can chi trong tứ trụ (P1)

Giấc mơ người mang bệnh “ỷ lại tinh thần” –

Jung là một học giả, đồng thời cũng là một thầy thuốc. Khi quan điểm phiếm tính luận của Freud bị phê phán gay gắt, Jung đưa ra phương pháp phóng đại - một loại phương pháp giải thích các giấc mơ mới. Phương pháp phóng đại nguyên hình giấc mơ của Jun

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Jung là một học giả, đồng thời cũng là một thầy thuốc. Khi quan điểm phiếm tính luận của Freud bị phê phán gay gắt, Jung đưa ra phương pháp phóng đại – một loại phương pháp giải thích các giấc mơ mới. Phương pháp phóng đại nguyên hình giấc mơ của Jung là một loại phương pháp tổng hợp có trình độ cao.

Giấc mơ người mang bệnh

Jung có một người bệnh, ông ta ghi lại tất cả hơn 400 giấc mơ có liên hệ với nhau.

Người nằm mơ là một người theo đạo Ki-tô, không phải là giáo sĩ. Do những giấc mơ, ông không hứng thú mấy với tôn giáo. Người này kể: “Tôi mơ thấy có nhiều phòng, bên ngoài như sân khấu kịch, lại giống như bối cảnh của vũ đài. Có người nói lần sau sẽ biểu diễn hí kịch. Có một gian phòng, trên tường treo một tấm biểu ngữ khiến người ta phải chú ý. Tấm biểu ngữ viết:

Đây là giáo đường Ki-tô thế giới,

Là giáo điíờng của Thượng đế

Tất cả những ai tự giác bản thân,

Những người là công cụ của Thiủỵng đế đều có thể tiến đến.

Bên dưới có khắc dòng chữ nhỏ:

Giáo đường này do Ki-tô và Phao-lô xây dựng.

Tôi nói với bạn tôi:

–      Chúng ta hãy đến xem.

Bạn tôi trả lời:

–     Tôi xem không ra, tại sao lại có nhiều người tụ tập ở đây? Để có cảm tình với tôn giáo chăng?

Nhưng tôi nói:

–     Đây là một giáo đồ mới. Anh không có cách nào để hiểu được điều này.

Một người đàn bà đứng bên cạnh gật đầu tán thành.

Lúc này tôi mới phát hiện trên tường có khắc một đoạn văn, nội dung như sau:

Các binh sĩ!

Khi các anh cảm thấy mình ở dưới quyền uy của Tlnỉợng Đế, không cần trực tiếp nói chuyện với Thượng Đế, bởi vì Thượng Đế không nghe thấy gì cả.

Chúng tôi nghiêm chỉnh yêu cầu anh không cần mê muội

bằn luận về ân huệ giữa Thượng Đế với anh.

Như thế chỉ mất công vô ích.

Bất cứ sự việc gì có giá trị, khó có thể nói suông.

Điều trị bệnh tinh thần bắt nguồn từ quan điểm tự nhiên, tôn giáo và võ thuật cổ đại. Tôn giáo và võ thuật cho rằng bệnh tật là tà linh, là biểu hiện sự đau khổ.

Lý luận chủ yếu của quan điểm tự nhiên là để bác sĩ, thầy thuốc, hộ lý quan tâm đến người bệnh, giúp đỡ người bệnh khôi phục lý trí, tăng cường lòng tin chông lại bệnh tật.

Người ốm thường có tâm lý muốn trốn tránh bệnh tật của mình hoặc không muôn thừa nhận tình hình nghiêm trọng của bệnh tật. Cuối thế kỷ XVIII, một bác sĩ y khoa nổi tiếng cho rằng con người nếu ở trạng thái ngủ say sẽ làm cho nhiều căn bệnh tiêu tan và đã sáng tạo ra cách điều trị bằng thuật thôi miên.

Vào thế kỷ XIX, Freud đã sáng lập học thuyết phân tích tinh thần, được ứng dụng rộng rãi. Từ thập kỷ 50 của thế kỷ XX đến nay đã vận dụng phương pháp điều trị theo dõi hành vi phản xạ có điều kiện và phương pháp điều trị theo yêu cầu giúp đỡ về mặt tâm lý đối với người bệnh.

Theo con sô” thống kê chưa đầy đủ, có đến hơn 300 phương pháp điều trị tâm lý, trong đó có 10 loại được dùng nhiều nhất. Ai cũng có thể nắm vững phương pháp và quy luật để chữa bệnh khiến tâm lý ổn định và lành mạnh. Chúng tôi xin trình bày một số phương pháp chữa bệnh tâm lý sau:


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giấc mơ người mang bệnh “ỷ lại tinh thần” –

Sao Bạch Hổ

Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh Hành: Kim Loại: Bại Tinh Đặc Tính: Hình thương, tai nạn, bệnh tật, thị phi, khẩu thiệt, hùng dũng. Tên gọi...
Sao Bạch Hổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phương Vị: Bắc Đẩu TinhHành: KimLoại: Bại TinhĐặc Tính: Hình thương, tai nạn, bệnh tật, thị phi, khẩu thiệt, hùng dũng.Tên gọi tắt thường gặp: Hổ
Phụ tinh. Sao thứ 9 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.
Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là bộ Long Phượng Hổ Cái.
Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư). Phân loại theo tính chất là Bại Tinh.

Vị Trí Ở Các Cung

  • Đắc địa: Dần, Thân, Mão, Dậu.
  • Hãm địa: Tý, Sửu, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Tuất, Hợi.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Bạch Hổ đắc địa: Người can đảm, quả cảm, có nghị lực, tài giỏi, quyền biến, ứng phó được với mọi nghịch cảnh, khả năng xét đoán, lý luận giỏi, có tài hùng biện. Riêng với người nữ thì người có khí phách, có ý chí mạnh như đàn ông, có tâm tính của nam giới.
Bạch Hổ hãm địa: Người ương ngạnh, ngoan cố, cứng đầu, bướng bỉnh. Tính ưu tư, hay lo lắng, phiền muộn, cô độc. Thích ăn ngon mặc đẹp, không nặng về gia giáo.
Công Danh Tài Lộc
Bạch Hổ đắc địa, khi đi với các bộ sao tốt thì rất hiển đạt về công danh, sự nghiệp, tài năng sắc sảo, can đảm, nghị lực, ứng phó được với mọi nghịch cảnh. Đối với người nam thường hiển đạt về chính trị nếu được nhiều văn tinh hội chiếu, hiển đạt về quân sự nếu được võ tinh đi kèm.
Phúc Thọ Tai Họa
Sao Bạch Hổ bất lợi cho cả cha mẹ, gia đạo và con cái, chưa kể ảnh hưởng xấu đối với chính mình về mặt tâm lý, tính tình, vận số. Đặc biệt nếu đi với sát tinh thì tai họa rất nhiều và ảnh hưởng đến nhiều phương diện, cụ thể như:
  • Khổ cực, cô độc.
  • Khắc vợ, chồng, góa bụa, cô đơn.
  • Bị bắt bớ, giam cầm.
  • Bị bệnh tật trầm kha.
  • Bị tai nạn nguy hiểm đến tính mạng.
  • Yểu tử.
Riêng phái nữ thì gia đạo, hôn nhân thường bị trắc trở, phải muộn chồng, phải cưới chạy tang nếu không thì góa bụa hoặc đau khổ ưu phiền vì chồng con. Đây là sao bất lợi nhất cho đại gia đình (mồ côi) và tiểu gia đình (xung, khắc, ly cách). Mặt khác, vì Bạch Hổ cũng bất lợi cho sự sinh nở. Phải cần sao giải mạnh mới chế giảm được bất lợi đó.
Những Bộ Sao Tốt
  • Bạch Hổ, Tấu Thư: Cả hai sao này hợp nghĩa nhau về khoa ngôn ngữ, tài hùng biện. Đây là người có khả năng diễn thuyết hùng hồn, lời lẽ lưu loát và khích động, có sức quyến rũ bằng ngôn ngữ rất sâu sắc. Các chính khách, ứng viên tranh cử, giáo sư, quan tòa, luật sư rất cần đến bộ sao này. Nếu đi chung với các sao hùng biện khác như Lưu Hà, Lưu Thiên Khốc, Lưu Thiên Hư, Văn Xương, Văn Khúc thì tài hùng biện đạt mức quốc tế.
  • Bạch Hổ, Phi Liêm đồng cung (gọi là hổ mọc cánh): chủ sự vui vẻ, nhanh nhẹn, tháo vác, cũng lợi ích cho việc thi cử, cầu danh, đạt quyền chức, may mắn nói chung.
  • Hổ, Cái, Long, Phượng (gọi là Tứ Linh): cũng rất hiển đạt về uy danh, sự nghiệp, uy tín, khoa giáp.
  • Hổ Kình hay Hổ Hình đồng cung hay hợp chiếu: người có chí khí hiên ngang, có mưu lược, có tài quyền biến, rất đắc lợi về võ nghiệp và văn nghiệp.
  • Hổ ở Dần (gọi là Hổ cư hổ vị): ví như cọp ở rừng núi, có thể vùng vẫy tung hoành như ý muốn. Có nghĩa như gặp được thời, gặp vận hội may mắn, có thể phát huy tài năng, đạt chức quyền cao. Vị trí này rất hợp với hai tuổi Giáp và Kỷ, thường lỗi lạc về võ nghiệp, lưu danh hậu thế. Rất độc với tuổi Bính, Mậu.
Những Bộ Sao Xấu
  • Bạch Hổ, Tham Lang: Bị thú dữ cắn chết.
  • Tang, Hổ, Điếu, Binh (gọi là Tứ Hung): rất độc, báo hiệu cho tang tóc, tai nạn chết người, họa lớn. Nếu có Thiên Đồng thì hóa giải được.
  • Bạch Hổ gặp Lưu Tang Môn, Lưu Bạch Hổ: tang tóc liên tiếp, ưu phiền rất nặng, đại tang.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Phụ Mẫu
Cha mẹ mồ côi, nếu không thì cũng gặp chuyện phiền lòng về làm ăn, cực nhọc, vất vả.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Phúc Đức
  • Bị giảm thọ.
  • Gia đình không toàn vẹn.
  • Trong họ có người chết non, vất vả, nghèo khổ, cô độc.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Điền Trạch
Hay thay đổi nơi ăn chốn ở, hoặc có nhà mà thường phải đi xa, hoặc nội bộ gia đình hay có chuyện bất hòa, tranh chấp về đất đai, nhà cửa.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Quan Lộc
Đi với sao tốt thì công danh hiển đạt, đi với sao xấu thì tai họa rất nhiều, bất lợi.
  • Bạch Hổ, Phi Liêm, chủ sự vui vẻ, nhanh nhẹn, tháo vác, cũng lợi ích cho việc thi cử, đạt quyền chức, may mắn nói chung.
  • Bạch Hổ ở Dần, gặp thời vận tốt, cơ hội may mắn, phát huy được tài năng, đạt chức quyền cao, tốt cho tuổi Giáp, tuổi Kỷ, xấu cho tuổi Bính, tuổi Mậu.
  • Gặp bộ sao Bạch Hổ, Hoa Cái, Long Trì, Phượng Các (gọi là Tứ Linh ), rất hiển đạt về uy danh, sự nghiệp, khoa bảng.
  • Bạch Hổ, Kình Dương hoặc sao Thiên Hình đồng cung hay hợp chiếu, người có chí khí hiên ngang, có mưu lược, có tài quyền biến, rất đắc lợi về võ nghiệp và văn nghiệp.
  • Bạch Hổ, Tấu Thư, có tài hùng biện, văn học.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Nô Bộc
Bè bạn, người giúp việc ương ngạnh, bướng bỉnh, dũng mãnh, hay có sự lấn lướt.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Thiên Di
Ra ngoài hay gặp nguy hiểm, vất vả mới tranh đoạt được danh lợi.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Tật Ách
Bạch Hổ chỉ máu, xương trong cơ thể con người. Bạch Hổ là bại tinh cho nên báo hiệu hai loại bệnh tật:
  • Bệnh về tinh thần, biểu hiệu bằng sự âu sầu, u buồn, uỷ mị, bi quan.
  • Bệnh về vật chất, cụ thể là máu huyết, gân cốt như hoại huyết, áp huyết cao, đau gân, đau tim, nhức xương, tê thấp. Vì vậy, đối với phụ nữ, tình trạng khí huyết kém hay đưa đến sự đau yếu về kinh nguyệt, về tử cung, có ảnh hưởng đến sự sinh nở.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Tài Bạch
Kiếm tiền cực nhọc, tự tay tạo dựng tiền bạc.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Tử Tức
Có một trong các ý nghĩa sau:
  • Khó sinh, sinh non ngày tháng
  • Sinh con khó nuôi hoặc sinh con nhưng không được nuôi.
  • Gặp Kình Dương, Thất Sát, có thể không con.
  • Gặp Địa Không, Địa Kiếp, sinh nhiều nuôi ít.
  • Gặp Thai, sẩy thai, con chết non.
  • Gặp Địa Không, Địa Kiếp, sao Thai, có thể phá thai. Nếu thêm sao Thiên Hình, có mổ xẻ lúc sinh nở, con chết trong bụng mẹ, khó sinh, phá thai.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Phu Thê
Có những ý nghĩa hoặc một trong những ý nghĩa sau:
  • Cưới chạy tang.
  • Có tang chồng hay vợ hoặc ly thân, ly hôn.
  • Ở góa (nếu Phúc, Mệnh, Thân xấu).
  • Lấy vợ hay chồng có tật, mù lòa mới tránh được hình khắc, chia ly.
Ý Nghĩa Bạch Hổ Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em chết non.
  • Bạch Hổ, Tang Môn, Thái Tuế, anh chị em bất hòa, xung khắc, khắc khẩu, không hợp tính nhau.
  • Bạch Hổ, Tang Môn, Thiên Mã, anh chị em ly tán, xa cách.
Bạch Hổ Khi Vào Các Hạn
Có tang trong các trường hợp sau:
  • Bạch Hổ, Bệnh, Khách.
  • Gặp Lưu Tang, Lưu Hổ, Lưu Khốc, Lưu Hư (có nhiều tang liên tiếp, có đại tang).
  • Bạch Hổ, Khốc Mã (súc vật chết vì bệnh tật).
Bị ác thú cắn nếu gặp:
  • Hổ Riêu hay Hổ Đà Kỵ Nhật.
  • Hổ Đà Hình hay Hổ Khốc Riêu.
  • Hổ ở Dần, Địa Kiếp ở Tuất.
Bị kiện tụng, khẩu thiệt, ốm đau nếu gặp:
  • Hổ, Phục.
  • Hổ, Tuế, Phù, Phủ.
Đại Tiểu Hạn cần lưu ý xem kỹ Bạch Hổ và Lưu Tang, Lưu Hổ. Nếu đồng cung thì sự hung hiểm càng nhiều.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Bạch Hổ

Chuyền về ĐOÁN MỆNH, xem xong giật mình

Đoán mệnh là việc phán đoán về tương lai, việc này luôn làm cho mọi người tò mò, nếu mệnh cát thì vui vẻ, nếu mệnh hung thì phải dè chừng.
Chuyền về ĐOÁN MỆNH, xem xong giật mình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## gửi đến bạn đọc công cụ bói tử vi theo ngày sinh, xem ngày tốt xấu để thuận lợi công việc

Chuyen ve DOAN MENH, xem xong giat minh hinh anh 2
Ảnh minh họa

1. Một câu chuyện về đoán mệnh có thật

  Quê nhà một ông cụ có tên Thập Tự Hà, có một quán trọ ngay mặt đường, vốn là gia tộc Từ gia nhà họ mở ra.
 
Ngày trước có một đôi vợ chồng dẫn theo một đứa con nhỏ đến qua đêm. Họ đến ở đó thì không đi nữa, và đã ở hơn một tháng.   Lúc đó là mùa hè. Một ngày kia, trời bỗng đổ mưa lớn, trong quán trọ có một hố phân, sâu khoảng nửa mét, bị nước mưa tràn đầy cả.   Mưa xong trời quang mây tạnh, vợ chồng đó vừa không để ý, đứa bé liền chạy ra ngoài chơi, không ngờ lại bị chết đuối ngay trong cái hố phân đó. Hơn nữa là mặt úp xuống dưới. Nếu như mặt ngửa lên trên, cậu bé có lẽ sẽ không phải chết.   Việc xảy ra rồi, vợ chồng kia mới nói ra sự thật.   Thì ra là một thầy đoán mệnh từng đoán rằng con của họ sắp gặp nạn lụt. Họ liền lẩn trốn khắp nơi. Khi đến Thập Tự Hà, phát hiện nơi này địa thế rất cao, hơn nữa quán trọ lại ở nơi cao nhất trên đường, thế là quyết tâm ở lại quán trọ này để tránh nạn lụt.   Thật không ngờ vẫn là không tránh được.  

2. Câu chuyện của Hoàng Dụ Tử
 

Một người có biệt danh là Hoàng Dụ Tử, từng làm lính bát lộ quân. Trong một lần đánh trận với quân Nhật, hai bên đều chết sạch cả. Chỉ mình anh ta không chết, nhưng anh ta giả chết, sợ quân Nhật quay trở lại kiểm tra.   Anh ta giả chết đến nửa đêm, bỗng nhiên có hai người xách lồng đèn đi đến, dò xem từng người từng người một. Lúc đầu, anh ta tưởng đó là lính Nhật, không dám động đậy.   Khi tra dò đến anh, một người nói: “Anh này vốn không phải chết, sao lại chết rồi vậy?”   Người kia trả lời: “Anh ta giả chết đấy, tương lai anh ta sẽ chết trong biển nước”.   Anh mới biết đó là quỷ sai. Sau này, anh ta đánh trận rất dũng cảm, bởi biết bản thân mình sẽ không chết nơi chiến trận.   Sau khi giải phóng, anh chuyển công tác. Cấp trên hỏi anh ta muốn làm gì. Anh nhớ lại lời quỷ sai đoán mệnh năm nào rằng anh có nạn lụt, vì thế anh liền xin lên rừng làm kiểm lâm.   Nghĩ lần này có thể được bảo đảm rồi, ngờ đâu một con lũ bất ngờ từ trên núi đổ xuống, ngay đến cả ngôi nhà dựng trên núi của anh ta cũng bị cuốn trôi đến mấy dặm. Vẫn là không thoát được.   Ài!… Sống chết có số, muốn trốn, nào có trốn được đâu?  

3. Câu chuyện đoán mệnh của Vương thiện nhân

  Xưa ở tỉnh An Huy, Trung Quốc có một thương nhân tên Vương Chí Nhân, đã ở tuổi tam tuần nhưng vẫn chưa có con. Một ngày nọ, một thầy tướng số nói với ông rằng: “Tháng Mười này ông sẽ gặp một tai họa lớn có thể nguy hiểm đến tính mạng. Ông phải rất đề phòng mới mong tránh được nó!”.   Ông Vương trước giờ luôn bội phục khả năng của vị thầy tướng số này nên ông tin ngay không chút nghi ngờ. Ông lập tức vội vã đi đến Tô Châu, thu hồi hết mọi khoản đầu tư buôn bán và thuê một căn nhà ở Tô Châu để sống tạm nhằm tránh tai ương, theo lời mách bảo của thầy tướng số.   Một đêm nọ, ông Vương ra ngoài đi dạo và bắt gặp một phụ nữ nhảy xuống sông tự tử. Thất kinh trước cảnh tượng này và vì muốn cứu người phụ nữ đó, trong lúc cấp bách ông đã lấy ra 10 lạng bạc giơ lên cao khỏi đầu và hô lớn để những người trên thuyền bên kia sông nghe thấy: “Có một phụ nữ bị ngã xuống nước ở đằng kia, ai cứu được cô ấy sẽ được thưởng 10 lạng bạc!”.   Sau khi các chủ thuyền nghe thấy, tất cả họ bèn nhanh chóng chèo ra sông để cứu người phụ nữ.   Cùng lúc có 2 chiếc thuyền đến vớt và đưa người phụ nữ lên bờ. Rất may là cô được cứu kịp thời nên sống sót. Ông Vương là người hào phóng nên đã giữ lời hứa, lấy ra 10 lạng bạc chia ra cho 2 chủ thuyền.
 
 
Chuyen ve DOAN MENH, xem xong giat minh hinh anh 2
Ảnh minh họa
Khi người phụ nữ đã hồi tỉnh rồi, ông Vương vẫn còn rất bồn chồn. Ông hỏi: “Mạn phép xin hỏi là sự tình bức bách nào đã khiến cô phải tìm đến cái chết vậy?”.   Người phụ nữ trả lời trong nước mắt: “Chồng tôi làm thuê cho một người nhưng họ đang túng thiếu nên đã trả công cho chồng tôi bằng một con heo. Hôm qua trong lúc chồng tôi đi vắng, một người ở vùng khác đã đến làng của tôi tìm mua heo. Tôi đã bán con heo đổi lấy 10 lạng bạc. Tôi thấy rất vui và nghĩ rằng mình đã bán được giá hời. Sau đó một người họ hàng đến chơi nhà và phát hiện ra số bạc ấy là giả! Tôi sợ rằng mình sẽ bị chồng trách móc khi chàng trở về, và cảm thấy cuộc sống khổ cực này thật vô nghĩa nên tôi đã nghĩ đến việc tự tử để kết thúc nó đi!”   Sau khi nghe chuyện, ông Vương vô cùng thương cảm, không ngần ngại lấy ra đủ số tiền bằng với giá bán của con heo và trao cho người phụ nữ. Ông khuyên cô hãy quay về nhà và hãy sống thật tốt. Người phụ nữ mang số bạc ấy về kể lại toàn bộ câu chuyện cho chồng nghe nhưng anh ta không tin. Hai vợ chồng vội đi đến chỗ ở của ông Vương để xác nhận sự việc.   Ông Vương vừa mới thiu thiu ngủ thì bị đánh thức bởi tiếng gõ cửa và một giọng phụ nữ cất lên: “Tôi là người ngã xuống nước và được ông cứu mạng. Tôi quay lại để cám ơn ông, ông Vương! Xin hãy mở cửa”.   Nghe thấy thế, ông Vương nghiêm giọng trả lời: “Nàng là phụ nữ đã có chồng, còn tôi là lữ khách đang ở một mình. Nam nữ thụ thụ bất thân. Huống hồ chúng ta lại gặp gỡ lúc đêm khuya như vậy?”.   Mối nghi hoặc của người chồng liền tan biến khi nghe điều đó. Anh ta cảm động sâu sắc và lên tiếng: “Thưa ngài, ngài đúng là một bậc chính nhân quân tử. Xin đừng hiểu lầm, hai vợ chồng chúng tôi cùng đến để cám ơn sự hy sinh của ngài!”   Ông Vương chợt hiểu ra mọi chuyện và nhanh chóng thay quần áo để ra tiếp khách. Ngay khi ông mở cửa thì bức tường phòng ngủ bất ngờ đổ sập xuống khiến chiếc giường vỡ nát! Cặp vợ chồng thở phào nhẹ nhõm khi chứng kiến cảnh tượng ấy, sau đó họ thành kính cám ơn lòng tốt của ông Vương.   Tháng Mười trôi qua, ông Vương trong tâm rất thoải mái vì ông biết mình đã thoát được kiếp nạn. Ông đến gặp lại vị thầy tướng số khi về nhà ở An Huy.   Vị thầy tướng vô cùng sửng sốt khi nhìn thấy ông và nói: “Vài tháng không gặp, mà sắc diện của ngài đã cải biến hoàn toàn. Ngài đã được hồi sinh; nét "âm đức" đột nhiên xuất hiện khắp khuôn mặt. Tôi cho rằng nhất định ngài đã làm một việc đại từ bi là cứu mạng người. Với tướng mạo của ngài bây giờ, ngài sẽ đắc vô lượng phúc báo trong tương lai!”   Thời gian sau đó, vợ của ông Vương đã sinh hạ cho ông 11 người con trai, mỗi người con đều rất đoan chính, biết quan tâm và lễ phép. Ông Vương cũng được hưởng thọ 96 tuổi, đồng thời ông luôn hạnh phúc và khỏe mạnh trong suốt cuộc đời.   Con người hiện này đều nông nổi, có người thì thuận theo số mệnh, có người thì cảm thấy hết thảy sự tình đều nằm trong mưu trí của bản thân mình. Bận rộn ngược xuôi, thật ra đều đang lăn lộn trong vận mệnh.   Những gì hao tổn tâm sức để có được, vẫn là những thứ có trong vận mệnh. Uổng công vất vả một đời. Nếu như trong vận mệnh mà không có nó, thì dẫu có vắt có bày mưu cũng không giữ được.
ST.
Buông 10 điều để cuộc sống an nhàn thêm 10 phần Bật mí những chiêu hóa giải khi gặp vận xui Lời Phật dạy 5 điều đúng để cha mẹ nuôi con nên người

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyền về ĐOÁN MỆNH, xem xong giật mình

Cải tạo phòng vệ sinh hướng xấu –

Theo phong thuỷ nhà ở, để tránh vận xấu do phòng vệ sinh mang đến, tốt nhất phòng vệ sinh phải ở các hướng Tây Bắc, Đông Nam hoặc Đông (nhìn từ trưng tâm nhà ở). Đồng thời, cần tránh hướng xung với năm sinh của vợ, chồng gia chủ (ví dụ người sinh năm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mão thì phải tránh hướng Đông). Có thể thấy, để bố trí được phòng vệ sinh thế nào cho hợp lý quả là một việc rất khó khăn.

sap-xep-phong-tam-theo-phong-cach4
Hiện nay, trong các nhà bình thường phòng vệ sinh thường ở hướng Bắc. Nếu phòng vệ sinh ở hướng Bắc hoặc Đông Bắc thì phải chuyển nó sang hướng khác. Nói đến chuyện thay đổi hoặc chuyển vị trí phòng vệ sinh rất nhiều người chắc chắn không khỏi ái ngại, cho rằng trong nhà mình “sẽ không có chỗ nào, thực sự rất khó làm được”. Thực tế thì phòng vệ sinh chiếm một không gian rất nhó, chỉ cần quyết tâm cải tạo hoặc di chuyển thì nhất định làm được. Chỉ cần lệch so với trung tâm hướng bắc 15° (phạm vi Tý) là được. Nếu là đang ở hướng Đông Bắc (phạm vi Thìn) thì cũng chuyển lệch đi 15° (phạm vi Sửu) là được. Nếu phòng vệ sinh hướng Bắc hoặc Đông Bắc do điều kiện không thể khắc phục được thì có thể dịch chuyển hướng bệ vệ sinh lệch đi so với hướng Bắc hoặc Đông Bắc 15°. Nếu bệ vệ sinh đã ở hướng Bắc và Đông Bắc thì chỉ cần xử lý chuyển nó mà không cần phải cải tạo lại phòng.
Nếu vách tường ngăn phòng vệ sinh chính là vách tường bếp hay tường phòng chứa đồ là tốt. Do điều kiện kiến trúc khác nhau, có nhà không thể chuyển được phòng vệ sinh, bấy giờ có thể dịch chuyển vị trí cúa bệ vệ sinh như đã nói trên.
Khi di chuyến bệ vệ sinh có thể mở một cửa sổ trong phòng vệ sinh, mỗi ngày đặt lên đó một đĩa nhỏ muối ăn, đặt thêm một chậu cây xanh nữa, dùng năng lượng màu xanh của cây và muôi để hoá giải vận xấu.
Ngoài hướng Bắc và hướng Đồng Bắc ra, hướng Tây Nam cho phòng vệ sinh cũng là hướng xấu. Nếu phải di chuyển thì chỉ có thể chuyển sang hướng Tây hoặc Tây Bắc. Hướng Nam là hướng lấy ánh sáng, phòng vệ sinh ở hướng này sẽ ảnh hướng xấu dến vận khí trong nhà.
Khi chuyển phòng vệ sinh tuyệt đối tránh gần với khu vực bàn thờ. Thực ra, liên quan nhiều đến vận xấu của phòng vệ sinh trong nhà là người vợ, người chồng và người cao tuổi. Vi vậy, ngoài hướng Bắc và Đông Bắc ra chí cần kiểm tra vị trí phòng vệ sinh thông qua 12 chi của nhừng người này, sau đó mới tiến hành cải tạo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cải tạo phòng vệ sinh hướng xấu –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd