Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Quẻ Quan Âm: Mã Siêu Truy Tào

Quẻ Quan Âm thứ 54 Mã Siêu truy đuổi Tào Tháo là tượng mưu cầu uổng sức, tưởng chừng sắp thành công thì lại đột ngột chuyển hướng mà không được toại nguyện
Quẻ Quan Âm: Mã Siêu Truy Tào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 54 được xây dựng trên điển cố: Mã Siêu truy Tào – hay Mã Siêu truy đuổi Tào Tháo.

Đây là quẻ hạ, thuộc cung Tý. Quẻ này là tượng mơ thấy vật báu. Những việc mưu tính dễ không thành. Cũng như mơ thấy giấc mộng đẹp, tuy đẹp nhưng không thực, dễ uổng công sức.

Điển cố quẻ Quan Âm: Mã Siêu truy Tào

Mã Siêu (176 – 222), tự Mạnh Khởi, người Mậu Lăng, Phù Phong, thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc, là hậu duệ của Phục Ba tướng quân Mã Viện nhà Hán.

Năm 211, Tào Tháo không nghe lời can gián, kiên quyết sai Chung Diêu và Hạ Hầu Uyên chỉ huy quân đội, muốn vượt qua Kinh Châu, vốn là lãnh địa quân phiệt của Mã Siêu, để tấn công Trương Lỗ ở Hán Trung. Bọn Mã Siêu đều hoài nghi hành động này là nhằm vào mình, vì thế Mã Siêu nói với Hàn Toại rằng: “Trước đây Tư lệ Hiệu úy Chung Diêu từng sai tôi mưu hại tướng quân, người ở Quan Đông không thể tin tưởng được. Nay tôi đã từ bỏ cha mình, phụng sự tướng quân giống như cha đẻ, tướng quân cũng nên từ bỏ con của ngài, mà đối xử với tôi giống như con ruột!” Sau đó, Diêm Hạng can gián Hàn Toại, không muốn Hàn Toại liên kết với Mã Siêu, Hàn Toại đáp: “Nay các tướng không hẹn trước mà đồng lòng, thực là ý trời!”

Như vậy, Hàn Toại nhất quyết cùng đám quân phiệt Mã Siêu dấy binh chống Tào, bọn họ dẫn theo mười vạn người ngựa (bao gồm quân Hán, quân Khương và quân Hồ) tiến sát đến Đồng Quan. Tào Tháo sử dụng kế ly gián, khiến cho nội bộ quân Mã Siêu và Hàn Toái mâu thuẫn. Chiến thuật của Tào Tháo thành công, Mã Siêu bị thất bại trong cuộc chiến ở Đồng Quan. Tào Tháo thừa thắng truy kích, nhưng vì Điền Ngân, Tô Bá làm phản ờ Hà Gián, buộc phải lui binh. Do Mẫ Siêu dấy binh, nên cha của Mã Siêu là Mã Đằng cùng những người trong gia đình đã bị Tào Tháo sát hại.

Nhưng trong Tam Quốc diễn nghĩa, cuộc chiến Đồng Quan lại được mô tả khác hẳn:

Tào Tháo dẫn quân đến Đồng Quan, Mã Siêu đã sớm dàn quân bày trận chờ sẵn. Tào Tháo thấy Mã Siêu tướng mạo tuấn tú, lại rất có uy vũ, quân Tây Lương ai ai cũng tráng kiện dũng mãnh. Tào Tháo thúc ngựa tiến lên hỏi: “Ngươi là con cháu của danh tướng nhà Hán, lại sao lại muốn tạo phản?” Mã Siêu nghiến răng mắng lớn: “Tên giặc Tào kia, ngươi uy hiếp hoàng thượng, giết cha mẹ anh em của ta, ta với ngươi không đội trời chung, hôm nay ta phải bắt được ngươi, lột da của ngươi, rút gân của ngươi!” Mắng xong, liền cầm thương xông đến đánh Tào Tháo.

Các tướng của Tào Tháo là Vu cấm, Lý Thông đều không phải là đối thủ của Mã Siêu, Mã Siêu cầm thương, lao thẳng về phía trước, quân Tây Lương ai nấy đều hăng hái xông thẳng về phía quân Tào. Tào Tháo chống cự không nổi, đại bại mà phải chạy trốn. Tào Tháo lẩn trốn giữa đội quân thất bại, Mã Siêu cưỡi trên ngựa hô lớn: “Người mặc áo bào đỏ phía trước kia là Tào Tháo! Bắt lấy hắn, đừng để hắn chạy thoát!” Quân Tây Lương ai ai cũng tranh đi bắt Tào Tháo trước. Tào Tháo sợ hãi, vội vàng cửi áo bào đỏ ra, vứt ờ bên đường. Mã Siêu lại hô lớn với quân Tây Lương: “Người có râu dài là Tào Tháo!” Tào Tháo nghe vậy, liền vội vàng lấy kiếm cắt râu đi. Lại có người hô lớn: “Người râu cắt ngắn như gốc rạ là Tào Tháo!” Tào Tháo nghe vậy, không kịp suy tính gì nữa, vội vàng tháo chạy.

Tào Tháo đang thúc ngựa tháo chạy, đột nhiên nghe thấy phía sau vọng đến tiếng vó ngựa dồn dập, quay đầu lại nhìn, thấy Mã Siêu thúc ngựa cầm thương lao đến. Nhìn thấy Mã Siêu sắp đuối đến nơi, Tào Tháo sợ quá đánh rơi cả roi ngựa, vội xuống ngựa chạy đến bên một cây đại thụ. Mã Siêu cầm thương lao đến, do quá gấp gáp nên đã đâm trượt, khiến cây thương đã đâm sâu vào thân cây đại thụ. Khi Mã Siêu đang gắng sức rút cây thương ra, Tào Tháo đã nhân cơ hội chạy xa rồi.

Mã Siêu tiếp tục cưỡi ngựa đuổi theo, lại thấy trên sườn núi có một vị đại tướng lao xuống, thì ra là Tào Hồng, Tào Hồng ra sức đánh lại Mã Siêu. Một lát sau, bọn Hạ Hầu Uyên chạy đến. Mã Siêu chỉ có một mình, thấy quân Tào người đông thế mạnh, chỉ có cách quay ngựa rút về. Tào Tháo may mắn được bảo toàn tính mạng, còn Mã Siêu thì sắp giành phần thắng lại phải thất bại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Mã Siêu Truy Tào

Phán đoán nghèo hèn thọ yếu bệnh tật

Bậc đại nho Khổng Tử, khi sống từng long đong như con chó của nhà có tang, không thể đừng được, đành phải thốt lên, Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại trời. Đem Khổng Tử ví như con chó của nhà tang, vốn là lời của Cô bố Tử Khanh người nước Trịnh (theo sử ký - Khổng Tử thế gia) sau khi lén quan sát tướng mạo Khổng Tử, đã nói với học trò ông là Tử Công, về sau Tử Công đem đúng lời ấy nói lại với Khổng Tử, Khổng Tử đã không nổi giận mà còn cười: hình dạng (tướng người), là mạt hạng, nhưng bảo giống con chó nhà tang (ý muốn nói là thần sắc hoàng tốt).
Phán đoán nghèo hèn thọ yếu bệnh tật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phải thôi, phải thôi! Do phấn đấu cả đời người mà chưa thi thố được tài năng về chính trị, cuối cùng Khổng Tử phải làm ông thầy dạy học, sau khi đã bươu đầu sứt trán, bất đắc dĩ phải cúi đầu nhận mệnh. “Không biết mệnh, không phải là nhà nho”, đó là ông tự vận vào mình sau khi bị nhiều lần thất bại, tâm tình ngày càng đi xuống, thế thì làm thế nào để “biết mệnh” được sớm? Thời Khổng Tử còn sống. Ngoài một số tướng thuật lẻ tẻ ra, đó là một việc không thể làm được, vì rằng lúc đó chỉ biết có mệnh mà không biết cách đoán mệnh.

Sau khi đã phát minh ra thuật đoán mệnh, do bởi tuân theo lời di huấn của bậc đại sư nho giáo, phần lớn là nghiên cứu dự đoán phú quý nghèo hèn, thọ yểu bệnh tật của một con người, tự nhiên đó là mục đích chủ yếu của thuật đoán mệnh.

Tại sao cũng một con người, sau khi sinh ra hoàn cảnh mỗi người lại khác nhau? Theo cách giải thích của nhà mệnh lý học. Tức là khi người đó mới thụ thai, khí âm dương giao lưu, chân tinh hoà hợp, nếu tiếp nhận được thanh khí thì có trí lực, tài năng, nếu tiếp nhận trọc khí thì sẽ ngu đần, có tài trí trong xã hội hẳn được lợi lộc nhiều, cho nên hoặc giàu hoặc thọ, nếu ngu đần làm ăn không phấn phát thì sẽ nghèo hèn mà chết yểu.

Nó phản ánh vào trong mệnh, tự nhiên sẽ hiện ra trong bát tự sao sinh của mỗi người.

Nói về cách tính tương lai của bản thân mệnh chủ, mỗi nhà mệnh lý học đều có một lô biện pháp của mình, đó là đoán phú quý nghèo hèn trước tiên phải xem can ngày trong mệnh của người đó có được lệnh hay không được lệnh, sau đó xem dụng thần có đắc lực hay không đắc lực, cuối cùng xem hành vận có thuận lợi hay không thuận lợi, nếu như can ngày đắc lệnh, dụng thân đắc lực, vận gặp tài quan, thường là phú nhiều phát phúc, đại cát đại lợi, ngược lại thì nghèo khó chao đảo, khổ không kể xiết.

Đoán sinh tử thọ yểu phải xem kỹ tuế vận và nguyên cục dụng thần là hỷ hay kỵ, nếu như tuế vận gặp kỵ thần trùm đấu, hỷ thần không cứu được, nếu nhẹ là hung, nặng thì chết. Nhưng cũng có cách nói. Lấy “tháng sinh mà định” (ngọc môn quan tập) rằng: thọ sinh lấy tháng sinh mà định, tháng sinh ở vào chỗ can chi nạp âm vượng, là ngũ hanh tương sinh không nghịch, giò Tỵ cùng thai, đều đắc số không cùng hình khắc, chủ thượng thọ. Ngoài ra trích thiên tuỷ có cách nói về phú quý nghèo hèn thọ yểu, có ảnh hưởng rất lớn:

1. Làm thế nào biết người ấy giàu, tài khí thông qua cửa ngõ

Thế nào gọi là tài khí thông qua cửa ngõ? Lưu Cơ chú giải rằng: tài liệu thân cường, quan tinh vệ tài, kỵ ấn mà tài có thể phá ấn, hỉ nhật mà tài có thể sinh quan, thương quan trọng tài thần lưu thông, tài thần trọng mà thương quan có hạn vô tài mà ám thành tài cục, tài bộ mà thương cùng lộ, đó đều là tài khí thông cửa ngõ, cho nên giàu. Nhậm Thiết Tiều thì nói bổ sung: tài diệu thân nhược không có quan, tất phải có thực, thương. Thân vượng tài vượng thì không có thực, thương, hẳn phải có quan có sát. Thân có ấn vượng thực, thương nhẹ, tài tinh đắc cục. Thân vượng quan suy ấn thụ nặng, tài tinh đương mệnh. Thân nhảy sang kiếp, không tài ấn mà có thực thương. Thân nhược tài trọng, không quan ấn mà có tỉ kiếp, đều là tài khí thông của ngõ. Do ở mệnh cục, cách luận tài cũng giống luận thê, cho nên có cách nói “thân tài thân thanh mà thân vượng thì vợ đẹp, tài thần trọc mà thân vượng thì giàu có, nếu đi sâu vào nghiên cứu thì thuyết của họ Nhậm có thể tham khảo được. Ông nói: nếu thân vượng có ấn, quan tinh tiết khí, tứ chi không thấy thực, thương đều là tài tinh sinh quan, không thực, thương thì tài tinh cũng nông, chủ thể đẹp nhưng tài mỏng. Thân vượng không có ấn, quan nhược phùng thương, đắc tài tinh hoá thương sinh quan, thì cũng thông căn quan cũng được giúp, không những thê đẹp mà phú dày, thân vượng quan nhược, thực, thương trung kiến, tài tinh không thông với quan, nhà tuy phú nhưng thê xấu. Thân vượng nguyên quan, thực, thương có khí, tài tinh không liền với kiếp, không ấn mà thê, tài đều đẹp, có ấn thì tài vượng mà thê tổn thương. Bốn điều đó cần nghiên cứu kỹ.

Bát tự của mệnh:

Năm Giáp Thân Tháng Bính Tý

Ngày Nhâm Dần Giờ Tân Hợi

Nhâm Thuỷ sinh vào tháng giữa đông, dương nhận đương quyền, xem bề ngoài, chi ngày Dần thực thần Giáp Mộc bị Thân Kim xung phá nhưng hay ở chỗ chi ngày chi giò Dần Hợi hợp cục, hai cái đó là đất của niên can trung hoà và nguyệt can Bính Mộc Hoả trường sinh, thêm vào Tý Thân hợp Thuỷ, Thân Kim không những không xung Dần Mộc và sau khi hợp Thuỷ Thực Thần Giáp Mộc ngược lại được sinh phú, cho nên nói tài khí thông với cửa ngõ, là mệnh của phú ông trăm vạn, phàm là mệnh của bậc cự phú, không phải là tài tinh nhiều ít, chỉ cần sinh hoá có tình, thì tài khí sẽ thông cửa ngõ. Nếu tài tinh lâm vượng địa chi nên kiến quan vì quan tinh có thể làm tiết bớt khí của tài tinh. Nếu như nhật chủ thất lệnh thì hẳn phải có tỷ kiếp tương trợ mới là đẹp và tốt.

Bát tự của mệnh:

Năm Nhâm Thân Tháng Bính Ngọ

Ngày Quý Hợi Giờ Mậu Ngọ

Quý Thuỷ sinh vào tháng giữa mùa hạ, lại gặp giờ Ngọ tháng theo trụ giờ thấu xuất Bính Hoả Mậu Thổ, khó tránh được tài quan quá vượng. Hay ở chỗ trụ ngày Quý Thuỷ đắc địa, càng hay hơn là can năm Nhâm chi tiết toạ trường sinh, thân vượng Nhậm được tài quan, thêm vào ngũ hành không có Mộc, Thuỷ không tiết mà Hoả không trợ, cho nên lấy can năm Nhâm Thuỷ làm dụng thần. Sau đó vận đi về Tây Bắc, Kim Thuỷ đắc địa tuy nói di sản của tổ tiên để lại không nhiều, tay trắng làm nên, trở thành người giàu có 4-5 chục vạn.

2. Làm thế nào biết được quý (sang) quan tinh có lý hội

Giải thích về quan tinh có lý hội, Lưu cơ cho rằng: “quan vượng thân vượng, ẩn thụ vệ quan kỵ kiếp nên quan có thê khử kiếp, hỉ kiếp mà quan có thể sinh ấn, tài thần vượng mà quan tinh thông đạt, quan tinh vượng mà tài thần có đốt, không quan mà ngầm thành quan cục, quan tinh tàng mà tài thần cũng tàng. Những cái đó đều làm quan tinh có lý hội, cho nên quý.

Nhậm Thiết Tiêu thì nói: Thân yếu quan nhược, tài có thể sinh quan. Quang vượng thân nhược, quan có thể sinh ấn. An vượng quan suy, tài có thể phá hỏng ấn. ấn suy quan vượng, tài tinh không hiện. Kiếp nặng Tài nhẹ, Quan có thể khử Kiếp. Tài tinh hoại ấn, quan có thể sinh ấn. Dùng quan quan tàng tài cũng tàng dùng ấn lộ, quan cũng lộ, các quan tinh có- lý hội cho nên quý hiển vậy. Trong mệnh cục do luận quan và luận con cách làm giống nhau, cho nên lại có cách nói! Quan tinh thanh mà thân vượng thì quý, quan tinh trọc (đục) mà thân vượng thì nhiều con về chỗ này, Nhậm Thiết Tiêu nói thêm: nếu thân Vượng, quan vượng ấn cũng vượng, cách cục rất nhanh mà thương, thực tứ trụ, chẳng lẫn chút nào, tài tinh lại không xuất hiện, tình của quan tinh dựa vào ấn, tình của ấn dựa vào nhật chủ, chỉ sinh được một người, cho nên có quan không có vậy. Dù thực thương có hơi tạp cũng bị ấn tinh khắc, can cũng gian nan. Nếu thân vượng, quan vượng, ấn vượng, thực thương ám tang, không thương tổn quan tinh, không bị ấn tinh khắc, tự nhiên quý mà đông con. Nếu thân vượng quan suy, thực thương có khí, có ấn mà tài có thể hoại ấn, không tìa mà ngầm thành tài cục, không quý mà đông con và giàu. Nếu thân vượng quan suy, thực thương vượng mà không tài, có con tất nghèo, nêu thân nhược quan vượng, thực thương vượng mà không có ấn, nghèo mà không có con, hoặc có ấn phùng tài cũng theo luận thuyết này.

Bát tự của mệnh: Đại vận

Năm Đinh Dậu Ất Tỵ

Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn

Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn

Đông phương

Ngày Mậu Dần Quý Mão Mộc địa

Giáp Mộc trong Dần là sát dụng thần

Giờ Đinh Tỵ Nhâm Dần

Tân Sửu Bắc phương

Canh Tý Thuỷ địa

Mệnh này được tạo nên, nhật chủ Mậu Thổ, sinh vào tháng Ngọ giữa mùa hạ, Hoả khí viêm thịnh, lại gặp Hoả của Bính Đinh can chi năm, tháng, giờ sinh phù, Thổ của Mậu Kỷ trợ thân có thể nói thân cực vượng. Vượng lắm nên chế nên tiết cho nên lấy Dần trong chi ngày chế Giáp Mộc của ta thất sát, hoặc trong chi năm tiết Tân Kim trong Dậu của ta, lấy làm dụng thần. Lại xem hành vận, sớm trong năm Dần Mão Thìn Hợp Mộc, vạn hành phương đông được Mộc chế khắc, giữa và cuối năm chuyển sang Bắc phương Tý Sửu Thuỷ Vận, Thuỷ vượng sinh sát, cho nên là mệnh quý và quá phú.

Bát tự của mệnh: Đại vận

Năm sát Quý Mão Nhâm Tuất Tây phương

Tháng sát Quý Hợi quan ấn Tân Dậu Kim địa

Ngày Đinh Mão ấn Canh Thân

Kỷ Mùi Nam phương

Giờ Tân Hợi Mậu Ngọ Hoả địa

Đinh Tỵ

Trong cục quan sát nắm quyền, tựa hồ thương uý, tốt ở địa chi Hợi Mão cung ấn, lưu thông Thuỷ khí, cho nên quan tinh có được lý hội. Đầu vận Tân Dậu. Canh Thân sinh sát hoại ấn, công danh đau tranh. Kỷ Mùi nhất vận, đại vận địa chi Mùi sẽ cảm ứng với mệnh cục Mão suy: Đại vận thiên can thấu xuất thực thần Kỷ Thổ, cho nên vận trình đi lên. Từ đó về sau Mậu Ngọ, Đinh Tỵ, thương sát thấu ra Tỷ kiếp trợ Thân, nên con đường thi cử huy hoàng, do đó có thể thấy, có mệnh ấy thì được vận ấy, nếu không chỉ mãi là hàn nho.

Bát tự của mệnh: Đại vận

Năm quan Quý Dậu Bính Thìn Đông phương

Ât Mão Mộc địa

Tháng kiếp Đinh Tỵ Giáp Canh

Ngày Bính Ngọ Quý Sửu Bắc Phương

Giờ sát Nhâm Thìn Nhâm Tý Thuỷ địa

Tân Hợi

Bính Hoả sinh vào tháng đầu mùa hạ, toạ lộc lâm vượng, lại gặp can tháng Đinh kiếp trợ thân, cho nên bản thân thuộc cường, tốt ở địa chi Kỷ Dậu cung Kim, tài có thể sinh quan, quan lại chế kiếp. Càng hay hơn là Can giờ thấu xuất Nhâm Thuỷ, giúp khởi can năm quý quan, trỏ thành tượng ký tế của trụ tháng trụ ngày, kết hợp đại vận, một khi tiền vào Bắc Phương Thuỷ Địa, đăng khoa phát giáp, danh lợi đều sáng.

Bát tự của mệnh: Đại vận

Năm Tài Giáp Ngọ sát ấn Đinh Mão

Tháng quan Bính Dần tài quan ấn Mậu Thìn

Ngày Tân Dậu tỉ Ky Tị

Giờ ấn ẩn tỉ thực Canh Ngọ

Tân Mùi Nhâm thân Quý Dậu

Mệnh này bản thân can ngày Tân Kim, can năm tài tinh, can tháng quan tinh, can giờ ấn tinh, đều thông căn lộc vượng. Canh Ngọ nhất vận, 5 năm trước canh vận đeo vào người, nên trong vận năm Quý Dậu đăng khoa phát Giáp, sau 5 năm Ngọ vận thì sát vượng bệnh phát, thân thuộc hình tang đi đến Tân vận, tỉ đến trợ thân ở năm Kỷ Mão phát giáp lên cao, sau đó vận đi đến Kim Thuỷ. Giúp Thân chế sát, tung cánh bay cao.

Bát tự của mệnh: Đại vận

Năm Ất Tỵ Canh Thìn

Tháng Tân Tỵ Kỷ Mão

Ngày Canh Thìn Mậu Dần

Giò Giáp Thân Đinh Sửu

Canh Kim ở vào ngày 5 lập hạ, Thổ đương lệnh mà Bính Hoả lại chưa nắm quyền, sinh canh Kim toạ thực, thêm vào chi Thìn, giờ Thân, sinh phù đều vượng, can tháng Tân kiếp, chi năm trường sinh là giúp, có thể thấy đấy là mệnh chưa sát ít. Phân tích trong mệnh tuy chi năm thấu xuất tài tinh nhưng tài tinh này vô căn mà gặp kiếp, cho nên có thê bói khi giao vào Đinh vận, do quan tinh nguyền thần phát lộ. Cho nên trong 2 năm Mậu Dần, Kỷ Mão tài tinh đắc địa. Thời hỉ dụng đều đến, khoa Giáp cùng đạt, sách nói: lấy sát hoá quyền, hiện rõ vẻ quý nơi cửa.

3. Sao biết người ấy nghèo

Tài thần Phân Bất gọi là “tài thần Bất Trân”, Nhậm Thiết Tiều cho rằng đại thể có 9 loại tình hình: một là tài năng mà thực, thương nhiều, hai là tài nhẹ hỉ thực, thương, mà ấn lườm tổn tài, ba là tài nhẹ kiếp nặng mà kỵ thấy thực thương, bốn là tài nhiều kiếp nhẹ mà quan tinh chế kiếp, năm là hỉ ấn mà tài tinh hoại ấn, sáu là kỵ ấn mà tài tinh sinh quan, bảy là hỉ tài mà tài hợp giảm thần mà hoá, tám là kỵ tài mà tài hợp gián thần hoá tài, chín là quan sát vượng dung ấn mà tài tinh đắc cục, đều là: phàm mệnh bại nghiệp phá gia, mới xem tựa hồ tốt đẹp, không tài quan đều đẹp thì can chi đều thanh không sát ấn tương sinh, thì tài làm vượng địa, không biết tài quan tuy có thể dưỡng mệnh vinh thân, đầu tiên nhật chỉ phải vượng tướng, mới có thể đảm đương tài phú, nếu thái quá bất cập, đều là bất trân, có thể tán có thể hao; rốt cục không thể phú quý được.

Bát tự của mệnh: Đại vận

Năm Quý Mão Quý Sửu

Tháng Giáp Dần Nhâm Tý

Ngày Đinh Tỵ Tân Hợi

Giò Kỷ Dậu Canh Tuất

Mệnh này Dậu tài tàng mà Quý sát lộ và sát ấn nối liền Bắc Phương, nhưng do sát can năm vô căn và tinh hoa của sát bị ấn thụ lấy mất, cho nên không dùng Quý Thuỷ làm dụng thần. Lại xem tài của Dậu Kim ở chi giờ, bên trên có Kỷ Thổ che trùm đầu, xem ra là đẹp nhưng mà toàn bộ cách cục Mộc vượng Thổ hư, tướng Hoả phùng sing, cho nên Kỷ Dậu không hội Kim thành tài, khiến cho tài tinh bất chân. Kết hợp đại vận khi giao Nhâm Tý, tiết Kim sinh Mộc, làm suy bại hết tổ nghiệp. Sau đó đi đến Quý vận, ấn gặp trường sinh, sẽ bị chết đói.

Bát tự của mệnh: Đại vận

Nảm Tân Sửu Ất Mui

Tháng Bính Thân Giáp Ngọ

Ngày Qúy Tỵ Quý Tỵ

Giò Canh Thân Nhâm Thìn

Trong mệnh Bính tài tọa lộc, trong Sửu nhất sát độc thanh, xem ra tựa tốt đẹp, đáng tiếc trong cục ấn tinh qúa nặng, Sửu sát sinh ấn che tài, thêm vào Bính Tân Kim hợp mà hoá Thuỷ, biến tài thành kiếp, canh thân ở Tỵ, tài càng bất chân. Đầu hành vận, người Ất Mùi, Giáp Ngọ, Mộc Hoả đều vượng, thực thần sinh tài. Tổ nghiệp phong lưu. về sau một khi giao với Quý Tỵ, Tỵ cùng Thân Kim trong mệnh, đều hợp thành Thuỷ, khắp nơi Tỷ kiếp, bại tan như vôi, cuối cùng lâm cảnh ăn mày.

4. Sao biết người đó hèn

Quan tinh vẫn không thấy, Nhậm Thiết Tiều cho rằng quan tinh không thấy là do 3 tình huống, mức trên, mức giữa và mức dưới. Quan nhẹ, ấn nặng, thân vượng hoặc quan nặng ấn nhẹ, thân nhược, hoặc quan ấn bằng nhau, nhật chủ hưu tù, đây là quan tinh không thấy ở mức trên. Quan nhẹ, kiếp nặng, vô tài hoặc quan sát nặng vô ân, hoặc tài nhẹ kiếp nặng, quan phục, đó là quan tinh không thấy ở mức giữa.

Quan vượng hỉ ấn, tài tinh hoại ấn hoặc quan sát nặng vô ấn, thực thương cường chế hoặc quan nhiều kỵ tài, tài tinh đắc cục hoặc hỉ quan tinh mà quan tinh hợp với thần khác mà hoá thương, hoặc kỵ quan tinh, thần khác hợp quan tinh mà lại hoá quan, đó là quan tinh không thấy ở mức dưới.

Bát tự của mệnh:

Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý

Ngày Đinh Hợi Giờ Giáp Thìn

Đinh Hoả sinh vào giữa mùa Đông, Can tháng thấu xuất Nhâm Thuỷ, địa Chi Hợi Tý Sửu hội bắc phương Thuỷ cục, mà Thìn lại là đất ướt. Không thể không chế được Thuỷ mà còn làm mò Hoả, thêm vào nhật chủ hư nhược, Giáp Mộc khô héo, Mộc ướt không thể sinh ra ngọn lửa được. Cho nên quan tinh vượng cực bất chân, trở thành tượng trong và khô. Tốt ở trong cục không có Kim, khí thế thuần trong, là người học vấn thực sự, xử thế không câu nệ, lấy việc dạy học làm kế sinh sống hàng ngày, chịu phận thanh bần, đó gọi là “quan tinh không thấy ở mức cao”

Bát tự của mệnh: Đại vận

Năm Bính Thìn Tân Mão

Tháng Canh Dần Nhâm Thìn

Ngày Bính Ngọ Quý Tỵ

Giờ Nhâm Thìn Giáp Ngọ

Ất Mùi

Mệnh này Canh tài lâm vào tuyệt địa, vô căn, khí quan tinh cũng không đủ, vận đi về đông nam đất của Mộc Hoả, cho nên lúc nhỏ chết cha, mẹ đi lấy người khác, mấy năm sau mẹ chết, chăn trâu sông qua ngày. Lúc mối lớn lên đi ở kiếm sống, về sau không may mù cả hai mắt, không làm thuê mà đi xin ăn để sống.

5. Sao biết người ấy cát

Hỉ thần là phù bật hỉ thần là dụng thần phù bật, thuộc về cát thần trong tứ trụ nếu như có hỉ thân dụng thần có thể cả đời cát nhiều hung ít. Ngược lại trong tứ trụ không có hỉ thần xuất hiện, tuy có dụng thần nêu tuế vận không gặp kỵ thần xung khắc thì thôi, nếu qủa gặp kỵ thần, phần lớn khó tránh hung tai.

Bát tự của mệnh:

Năm sát Giáp Tý Tháng ấn Bính Dần sát ấn tĩ

Ngày Mậu Dần Giờ Kỷ Mùi

Đầu xuân, đất lỏng cát vượng phùng tài, cho nên lấy chính ấn Bính Hoả là dụng thần. Chi năm tài tinh sỏ thích cách với quả ấn và tài sinh sát, sát sinh ấn, có sinh sinh không sạch, lại lấy giờ Mùi giúp bản thân làm hỉ thần, hơn nữa tứ chi thuần tuý, chủ tòng đắc nghi thần, cho nên sớm đăng khoa Giáp, cả đời chỉ cát không hung, làm tới chức quan sát. Cuối đòi về hưu, phu phụ song toàn, thọ đến 80, mấy đời con cháu đều thi cử đỗ đạt

Bát tự của mệnh:

Năm Bính Thân Tháng Kỷ Hợi

Ngày Canh Thìn Giờ Mậu Dần

Đây là hàn Kim hỉ Hoả, can năm Bính Hoả được chi giờ Dần Mộc tương sinh, thì Hoả có ngọn lửa, nhưng dụng tài sát đầu tiên phải thân ngày vượng, hiện tại can ngày Canh Kim hỉ phùng Kim trong chi năm là lộc và tam ấn can tháng Kỷ Thổ, can giờ Mậu Thổ, chi ngày Thìn Thổ đều sinh, thêm vào chi Hợi Thuỷ đương quyền, thân Kim tham sinh không xung Dần Mộc. Xem cả toàn cục, không Hoả thì Thổ đông Kim hàn, không Mộc thì Thuỷ vượng Hoả hư, cho nên cân nhắc lấy Hoả làm dụng thần, Mộc làm hỉ thần, cả hai Mộc Hoả không thể thiếu một. Trong đoàn viên trúng hỉ, dụng thần. Cho nên cả đòi không hung không hiểm, đăng khoa phát Giáp, quan chức lên cao, con cháu đều đẹp, thọ ngoài 80 tuổi.

6. Sao biết người ấy gặp hung

Kỵ thần theo Triển Thế Công nói: gọi là kỵ thần tức là thần làm tổn hại dụng thần. Kỵ thần trong bát tự là bệnh, hỷ bệnh không thuốc. Có bệnh có thuốc là cát, có bệnh không thuốc là hung, như người sinh tháng Dần, nếu không dùng Giáp Mộc mà dùng Mậu Thổ, thế thì Giáp Mộc khắc Thổ sẽ thành kỵ thần của đương lệnh. Lúc này trong mệnh cục của nhật chủ nêu có Hoả hoá Mộc, có Kim chế Mộc, Hoả Kim này sẽ thành hỉ thần, nếu từ đó về sau hành vận càng phù hỉ ức kỵ đều có thể chuyển hung thành cát. Ngược lại nếu trong mệnh trong vận không có Hoả hoá Mộc, không có Kim chế Mộc, trái lại có Thuỷ sinh Mộc, có Mộc nuôi Mộc thế thì tai hoạ nhiều bề, đến già cũng không cát, ngoài ra, tuế vận tuy chưa thể phù hỉ ức kỵ nhưng cũng không kết bè với kỵ thần thế thì suốt đời không hung không cát làng nhàng đến già. Vì thế Lưu Cơ nói: tài cung không có khí, dụng thần vô lực, chẳng qua không phát đạt được mà thôi, cũng không bị hình hung. Còn như kỵ thần quá nhiều, hoặc hình hoặc xung, tuế vận trợ giúp. Chuyển sang công kích thần trong cục không được chuẩn bị, lại không theo chủ, không tránh khỏi hình tang phá bại, phạm tội, đến già cũng không cát.

Bát tự của mệnh: Đại vận

Năm Ất Hợi Đinh Sửu

Tháng Mậu Dần Bính Tý

Ngày Bính Tý Ất Hợi

Giờ Giáp Ngọ Giáp Tuất

Mệnh này Bính Hoả sinh vào ngày tháng Dần. Trong cục Dần Hợi hoá Mộc, năm đi vào Giáp Ất đều thấu, ấn tinh quá thịnh vượng mà chi ngày Tý Thuỷ lại bị chi giờ Ngọ Hoả xung phá, cho nên đành lấy can tháng khiếm Thổ làm dụng thần. Lại nhìn khí thế trong cục. Giáp Ất Mộc vượng, ngược lại được Hợi Tý Thuỷ sinh, đó là nói kỵ thần triển thế công vậy. Kết hợp vận trình, vận đầu Đinh Sửu, trợ khởi dụng thần, xuất thân cự phú, vui sướng đầy nhà. Khi giao với Bính Tý, Hoả không thông căn, Thuỷ trợ kỵ thần, nếu bố mẹ không chết, thì liên tiếp gặp Hoả tai. Vận đến Ất Hợi, Thuỷ Mộc đều vượng kỵ thần mỏ rộng, lại gặp Hỏa tai, khắc tam thê tự tử, nhảy xuống nước mà chết.

Bát tự của mệnh: Đại vận

Năm Tân Tỵ Kỷ Sửu

Tháng Can Dần Mậu Tý

Ngày Bính Thìn Đinh Hợi

Giờ Kỷ Sửu Bính Tuất

Ất Dậu

Bính Hoả tuy sinh vào tháng Dần nhưng xem rộng toàn cục Thổ Kim đều vượng, cho nên lấy Bính Mộc làm dụng thần. Nhưng Dần là cây non đầu mùa xuân, kỵ thấy Canh Kim che đầu nên lấy Canh là kỵ thần trong cục. Hành vận lúc đầu giao với Kỷ Sửu, Mậu Tý, sinh Kim tiết Hỏa, cha mẹ đều mất, sống cô độc không chịu nổi Đinh Hợi, Bính Tuất, vì Hoả đến Dậu đất Phương Bắc, không thể khử hết kỵ thần, cho nên trải đủ phong sương, lập nên gia nghiệp vừa phải. Khi giao với Ất Dậu, Ất hợp với can tháng Canh Kim, Dậu hợp với chi ngày Thìn Thổ mà hoá Kim, kỵ thần đắc thế, hình thê khắc tử, gặp Thuỷ tai mà chết.

7. Sao biết người ấy thọ

Tính định nguyên thần dày gọi là “tính định” tức là 4 chi trong cục đắc địa, ngũ hành dừng đều, những gì hợp đều là gian thần, những gì hoá đều là dụng thần, những gì xung đều là kỵ thần, những gì lưu đều là hỉ thần. Khuyết nguyên không hãm, không thiên lệnh không bóp méo. Con người “tính định” không tham yêu đương, không làm việc cẩn thả, là người nhân hậu hoà bình, nhân đức đều đủ, cho nên nhiều phúc, nhiều thọ. Gọi là “nguyên thần dày” tức là 4 chi trong cung nhược, gặp tài, tài nhẹ, gặp thương, thân nhược có ấn thụ sinh thân, thân vượng có Thực, Thương, Thổ ra, những gì hỉ đều là thần của đề cương, những gì kỵ là vật thất lệnh, hơn nữa đề cương có tình với chi giờ, hành vận cũng hỷ dụng thần không dừng, cho nên phú và thọ.

Bát tự của mệnh:

Năm Tân Sửu Tháng Quý Tỵ

Ngày Giáp Tý Giờ Bính Dần

Mệnh này tứ trụ thông căn sinh vượng, đầu nguồn lưu thông, rất là đặc sắc. xem trước 4 chi, bản thân Giáp Mộc, quy lộc ở chi giờ, ấn thụ Quý Thuỷ lộc ở chi ngày, thực thần Bính Hoả, lộc ở chi tháng, quan tinh Tân Kim, chi toạ bại địa. Lại xem ngũ hành chi tháng Tỵ Hoả sinh chi năm Sửu Thổ. Chi năm Sửu Thổ sinh can năm Tân Kim, can năm Tân Kim sinh can tháng Quý Thuỷ, can tháng Quý Thuỷ sinh can ngày Giáp Mộc, can ngày Giáp Mộc sinh can giờ Bính Hoả, Bính Hoả lại toạ ở trường sinh địa, có thể nói là nguồn xa chảy ra. Vì vậy, người có mệnh chủ này nhân đức đều đủ, cương nhu giúp nhau, chức ở tam phẩm, giàu có trăm vạn, thọ đến trăm tuổi, chỉ chết vì già.

Bát tự của mệnh:

Năm Ất Mùi Tháng Mậu Dần

Ngày Ất Mão Giờ Canh Thìn

Đông phương này chĩa thẳng vào nhân thọ cách, do Hoả khí trong cách suy vi, tài thần suy nhược nguyên khí, Mộc thế quá vượng, quan tinh mỏng mảnh vô cấn, cho nên suốt đời lận đận, trọng nghĩa khinh tài sông nếp thanh bần, nhưng hay ở đông phương nhất khí, nhân thọ thành cách. Lưu Cơ nói rằng: “khí của Giáp Ất Dần Mão lớn, không gặp xung chiến tiết thương, thiên vượng phù phiếm, có được an nhàn nên thọ. Mộc thuộc nhân, nhân thì tho, ai cũng ứng nghiệm”. Vì vậy tuy cuộc sống thanh bần nhưng thọ đến 94 tuổi mới mất.

8. Sao biết người ấy yếu, khí đục thần khô

Gọi là “khí đục”, Nhậm Thiết Tiêu cho rằng: đục tức là nhược. Người khí đục, nhật chủ thất lệnh. Dụng thần nông mỏng, kỵ thần sâu nặng, đề cương cùng chi giờ không chiếu nhau, chi năm và chi ngày không hoà, hỉ xung mà không xung, kỵ hợp mà không hợp, hành vận vô tình với hỉ dụng thần, ngược lại kỵ thần kết bè đãng, tuy không thọ nhưng có con. Gọi là “thần khô”, Nhậm Thiết Tiêu nói tiếp: thần cây bách, thân nhược mà ẩn thụ quá nặng, thân vượng mà đều không khắc tiết. Nhưng trọng dụng ấn mà tài tinh hoại ấn, thân nhược vô ấn mà trùng điệp thực, thương hoặc Kim hàn Thuỷ lãnh mà Thổ ướt hoặc Hoả bốc Thổ táo mà Mộc Khô, đều chết yểu mà không con. Lưu Cơ đã khái quát chung rằng i mệnh khí nhờn thần khô rất dễ xem., An thụ quá vượng, nhật chủ không có cái gì đến, tài sát quá vượng, nhật chủ không chỗ dựa, kỵ thần và hỉ thần tạp mà đánh nhau, tứ trụ nghịch với dụng thần mà tuyệt. Xung mà không Hoà, vượng mà không bị kiềm chế, ướt mà trệ, táo trên mặt, tinh lưu khí tiết, tháng bỏ giò thoát, đó đều là người không thọ.

Bát tự của mệnh:

Năm Đinh Sửu Nhâm Dần Bắc Phương

kỷ Thổ thương quan

Tháng Ọuý Mão Canh Tý Thuỷ Địa

Ẩt Mộc ân thụ dụng thần

Giờ thực thần

Mậu Tuất Ất Hợi

Mậu Thổ

thực thần Mậu Tuất Tây Phương

Đinh Dậu Kim Địa

Mệnh này Nhật chủ Bính Hoả, sinh tháng Mão giữa mùa xuân, Ất Mộc sinh Hoả, vốn thuộc việc tốt, đáng tiếc Kỷ Thổ trong chi năm Sửu. Mậu Thổ trong chi ngày Tuất, can chi trụ ngày lưỡng trùng Mậu Thổ, thực thương trùng trùng, khiến cho tự mình tiết khí quá nhiều, nhìn xem toàn cục khi lấy Ất Mộc ấn thụ làm dụng thần, đã có thể sinh ra mà còn chế phục được Thổ thái quá. Lại xem đại vận, từ Nhâm Dần về sau, cả một dày Hợi, Tý, Sửu là Thuỷ địa. Thuỷ tuy có thể chế Hoả nhưng Thuỷ lại có thể sinh Mộc, vận ở bước này không thể tốt hơn vận Mộc từ đông phương trực tiếp đến, nhưng lại không miễn cưỡng nói rằng đi qua. Nhưng một hành vận đi vào Tuất Dậu Kim địa, tuy nói Kim là tài vận nhưng Kim có thể khắc Mộc, tài tinh phá ấn, dụng thần bị chế, thế thì khó lòng giữ mệnh.

Bát tự của mệnh: Đại Vận

Năm Ấn thụ Ất Sửu Tân Kim Giáp Thấn

Tháng Ân thụ Ât Dậu Tân Kim, tử Quý Mùi

Ngày Bính Thìn Nhâm Ngọ

Giờ Chính tài Tân Mão Tân Tỵ

Mệnh này Bính Hoả sinh ở tháng Dậu tử địa, không có căn khí, thêm vào can giờ thấu xuất chính tài Tân Kim, chi năm chi tháng, Sửu Dậu cũng ngầm chứa chính tài Tân Kim, có thể nói là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thân, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần, vì rằng ấn, có thể sinh Thân, cho nên dụng thần ở đây sẽ áp tại Ất Mộc sinh ta vậy. Nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày cạn giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ tọa chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thần, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần. Vì rằng ấn có thể sinh ta vậy, nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày can giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ toạ chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài tinh phá ấn, trên dưới vô tình, ở trường hợp này, bề ngoài xem ra dụng thần tuy nhiên, nhưng lại không phải trân dụng, hơn nữa không có Tỷ, kiếp, lộc, nhậm sở hỉ trong mệnh bắt nhau, không khỏi gặp cảnh gian nan. Tốt ở đại vận Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Hoả đến trợ Thân, can ngày đắc địa nên có thể lấy vợ sinh con, nhưng khi giao vào vận Tân Tỵ can ngày Tân trong vận tước bỏ dụng thần Ất Mộc, tài có thể hoại ấn, địa chi trong vận cùng chi năm, chi tháng Sửu, Dậu trong mệnh cấu thành Kim cục, lại ra sức khắc chế thương tinh, ấn tinh chứa trong chi ngày chi giờ trong mệnh, chết yểu khó tránh ở kiếp tinh.

Về vấn đề sinh, tử, thọ, yểu trong Uyên Hải Tử Bình ở phần Cách cục sinh tử dẫn dụng có 7 điều, nêu lên để tham khảo

1. Phàm là cách cục, tự có định luận, giờ nói tóm tắt. Ấn thị kiến Tài hành tài vận lại kiêm tử tuyệt, tất xuống suối vàng, nếu có Tỷ kiên, có thể giải.

2. Chính quan gặp sát và thương quan hình xung phá hại, tuế vận song hành, tất tử,

3. Chính tài thiên tài gặp tỷ kiên chia nhau đoạt, kiếp tài dương nhận, lại gặp Tuế vận xung hợp, tất tử

4. Cách của thương quan, tài vượng thân nhược, quan sát gặp lại, hỗn tạp dương nhận. Lại gặp tuế vận, tất tử, nếu sống bị thương tật.

5. Giữ lộc, giữ quý, sang bằng lại gặp quan xung, nhận gặp tuế vận.

6. Lộc ngày quy giờ, hình xung phá hại, gặp thất sát, quan tinh, không vong, quan sát đại kỵ, tuế vận cùng vận tất tử.

7. Các cách khác đều kỵ sát và san bằng tuế vận cùng đến, tất tử, Gặp các hung thần ác sát, ấn thụ không vong, điếu khách, mộ, bệnh, tử cung chư sát, thập tử nhất sinh. Quan tinh thái tuế, tài nhiều thân nhược, nguyên phạm thất sát, thân được cứu thì cát, không được cứu thì hung, Kim nhiều yểu chết, Mộc thịnh bay trôi, Mộc vượng thì yểu, Thổ nhiều si ngây, Hoả nhiều ngu dốt. Thái quá bất cập, không để câu nệ mà phải quả đoán, cần phải lý hội để tìm ra sinh tử.

Ngoài ra Tam mệnh thông hội ở quyển 8 nói: “Ngày Đinh Hợi, giờ Ất Tỵ, ngày giờ đều xung, tổn thương vợ con, Tỵ, Dậu, Sửu, Than Ty, Thìn 2 cục Kim thuỷ, tài cung đắc dụng nên phú quý vậy. Tiếp theo còn nêu hai ví dụ về Bát tự của mệnh, một là Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Đinh Hợi, Ất Tỵ, nói đó là mệnh nghèo chờ chồng, một là Đinh Hợi, Giáp Thìn, Ất Hợi, Ất Tỵ, đó là mệnh ăn mày. Trên thực tế, do tồn tại khách quan nhiều loại không chuẩn xác, cho nên Trần Tố Am trong khán phú quý cát thọ bần tiện hung yếu pháp đã ra sức cổ vũ khuyến khích tư tưởng làm điều thiện, báo ứng nhân quả của Phật giáo. Lập luận của ông có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng mệnh học của các thế hệ đời sau, cho nên chúng tôi đã trích dẫn sau đây:

Cách cục phú quý cát, nghèo hèn hung, lấy lẽ đã định tương đối chuẩn, nhưng dùng đoán mệnh cho người không ứng nghiệm hoàn toàn là do bản thân có thiện ác và gia tộc có thiện ác. Phúc thiện dâm là lẽ tất nhiên. Như người làm điều ác, mệnh quý đến nhất phẩm thì giảm xuống chỉ còn tứ, ngũ phẩm, mệnh đáng giàu trăm vạn thì giảm xuống còn 6 - 7 chục vạn, mệnh đáng thọ trăm tuổi thì giảm xuống còn 6 - 7 chục tuổi; mệnh đáng hưởng đủ ngũ phúc thì giảm xuống còn 1 - 2. Như người làm điều thiện, mệnh lẽ cực hèn mà được vinh hiển một phần, mệnh đáng cực nghèo, có được tài sản của kẻ trung lưu, mệnh đáng chết sớm mà thọ được mấy chục tuổi, mệnh đáng gặp nhiều hung mà tránh được vài ba. Lẽ đời kẻ làm điều ác sao được hưởng phúc? Người làm điều thiện sao lại gặp hoạ, há không biết phúc đã bị tổn, hoạ đã bị diệt sao? Người biết hoạ phúc sao không biết mệnh, biết thiện ác là âm của hoạ phúc thì là biết mệnh. Tuy vậy, biết thì có ích gì? Có thay đổi được không, xưa Viên Liễu Phàm tiên sinh gặp thầy pháp thuật đoán mệnh, nói đi thì chỉ dừng ở cống sĩ mà không có con. Do trình bày cặn kẽ lý lịch, lúc đầu cái gì cũng đúng, sau gặp vị cao tăng, hướng dẫn học tạo mệnh, tích được phép làm điều thiện và cầu khoa bảng, tích được phép làm điều thiện cầu con cái. Thiên số đã định, thi hai kỳ đỗ cao, điều pháp sư đoán không có gì không nghiệm, cho nên phàm muôn cầu phú quý cát thọ mà tránh nghèo hèn hung yêu thì phải biết tích thiện là cần, hàng ngày tự nhớ việc làm, phải luôn tâm niệm nhân đức, việc việc đều thiện, lâu sẽ được như ý muốn. Nếu cậy mệnh thiện mà dám làm điều ác, mong mệnh giúp đỡ mà không biết suy nghĩ lại, đó là loại người ngu nhất trong thiên hạ, là kẻ sĩ chẳng có ý chí gì.

Đoán mệnh, ngoài đoán giàu nghèo thọ yểu là chính ra, có sách đoán mệnh còn không quên đoán bệnh tật cho người. Muốn đoán bệnh tật trước tiên phải liên hệ ngũ hành với lục phủ, sau đó căn cứ nguyên lý sinh ngũ hành để phân tích. Theo lý luận của Ô y, sự tương phối của ngũ hành với ngũ tạng, lục phủ như sau:

Giáp mật (đỏm) Ất gan (can)

Bính tiểu tràng Đinh tâm

Mậu dạ dày (vị) Kỷ tì

Canh đại tràng Tân phổi (phế)

Nhâm bàng quang Quý thận, tâm bào lạc tam tiêu

Trong đó mật, dạ dày, đại tràng, tam tiêu, bàng quan thuộc lục phủ, tính chất thuộc dương, cho nên đều phối với dương can, gan, tâm, tỳ thận thuộc ngũ tạng, tâm bào lạc thì thuộc vào tâm, tính chất thuộc âm, cho nên đều phối với âm can, ca rằng:

Giáp đơm Ất can Bính tiêu tràng

Đinh tâm Mậu vị Kỷ tỳ hương

Canh thị đại tràng Tân thuộc phế

Nhâm hệ bàng thoát Quý thận tàng

Tam tiêu diệc hướng Nhâm trung ký

Bào lạc đồng quy nhập Quý phương

Lại nói rằng:

Giáp đầu Ất hạng Bính kiên cầu

Đinh tâm Mậu hiếp Kỷ thuộc phúc

Canh thị tề luân Tân vi cổ

Nhâm cảnh Quý túc nhất Thân phúc

Chú thích: hạng (gáy) kiến (vai) hiếp (sườn) phúc (bụng) tề (rốn) cổ (đùi) túc (chân) Nam Định.

Đồng thòi, người xưa còn liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể nhưng nó không quan trọng bằng liên hệ với ngũ tạng, cho nên thường không được coi trọng.

Bây giờ đem việc liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể, ghép thành bài ca như sau:

Tý thuộc bàng quang thuỷ đạo nhĩ

Sửu vi bào đồ cập tỳ dương

Dần dởm phát mạch tịnh lưỡng thủ

Mão bản thập chỉ nội can phương

Thìn Thổ vì tỳ thận hung loại

Tỵ nhi xĩ yết hạ cửu cang

Ngọ Hoả tinh thần tự nhãn mục

Mùi Thổ vị quản cách tích lương

Thân Kim đại tràng kinh lạc phế

Dậu trung tỉnh huyết tiểu trường tàng

Tuất Thổ mệnh môn thoái Hoả túc

Hợi thuỷ vi đầu cập thận nang

Chú thích: bào (tâm bào) đỗ (bụng) đởm (mật) lưỡng thủ (hai tay) thập chỉ (10 ngón) can (gan) hung (ngực) xĩ yết (răng yết hầu) cửu cang (hậu môn) nhãn mục (mắt) vị quản (dạ dày) cách (hoành cách mô) tích lương (cột sống) phế (phổi) thoái (đùi) Hoả (mắt cá) túc (chân)...

Khi xem cụ thể, lấy can chi ngày làm chính, kết hợp ngũ hành sinh khắc thái quá bất cập mà định. Ví dụ can ngày là Giáp, Ất Mộc. Trong bát tự tứ trụ xuất hiện Kim trong Canh, Tân, Thân, Dậu, Mộc sẽ bị khắc, có thể sẽ bị gan mật, kinh sợ, lao lực, tay chân tê cứng, gân cốt đau nhức, đầu váng mắt hoa, hoặc mồm méo mắt xếch, phải trái bị liệt hoặc quỵ ngã thành thương tật. Ví dụ can ngày sinh vẫn là Giáp, Ất Mộc, trong Bát tự tứ trụ xuất hiện Hoả nhiều trong Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ mà không có thuỷ đến trợ giúp, lúc này Mộc khí bị tiết quá nhiều, có thể bị nội nhiệt miệng khô, đòm suyễn khạc ra máu, trúng phong không nói được, phụ nữ kinh nguyệt không đều: mang thai bị sẩy, trẻ con kinh phong cấp mạn tính, ho thở khóc đêm, da xanh xám. Tại sao Mộc bị Kim chế hoặc Hoả tiết quá nhiều mà sinh ra những chứng bệnh này, trong y học cổ truyền đã nói và phân tích nhiều, ở đây không đi sâu bàn luận.

Về cách xem bệnh tật nói ở trên, Trần Tố Am có cách kiên giải độc đáo của ông: xưa phân ngũ hành, luận về bệnh tật của người, không gì không hợp lý nhưng Ngũ hành tạng phủ kinh lạc của con người đều đủ, nhưng trong trụ mệnh trong vận của con người, ngũ hành vị tất đã đủ đầy, phải lấy một hành nào đó để đoán bệnh thì chia đủ linh nghiệm. Phải xem ngày và cách cục của nó, nêu mạnh khoẻ, trung hoà hoặc Hoả thuận đều là mệnh không có bệnh, nếu yếu đuối, xô tạp hoặc rũ xuống đều là mệnh có bệnh. Lại xem khí thế của thần, hoặc thái quá, hoặc bất cập, rồi kết hợp xem ngũ hành trong trụ trong mệnh mà tính, tức là không có Mộc mà sinh Mộc, khắc Mộc, xem thần Mộc sinh Mộc khắc mà có thể đoán Mộc có bị bệnh hay không. Còn như can chi phôi với đầu, mắt, tay chân là ý muốn nói tìm biết tín hiệu. Nếu các bệnh đều thuộc về tâm thì theo luận thuyết của danh y, đâu phải ngũ hành? Phải trích mấy trăm loại sách thuốc để đưa vào mệnh vậy.

Để giản tiện dễ nhớ, lấy một phần bài phú cổ trích ra sau đây:

Gân cốt sưng đau, do Mộc bị Kim làm tổn thương, mắt mờ tối hẳn do Hoả bị thuỷ khắc; Thổ hư gặp Mộc vượng, tỳ bị tổn thương; Kim nhược gặp Hoả viêm là bị bệnh huyết lại nói:

Mộc gặp Kim khắc, bị tai nạn ở lưng sườn, Hoả bị Thuỷ làm tổn thương, tất bị tật mắt; tâm yếu thỏ dội thuộc về Kim Hoả tương hình; tỳ vị tổn thương do Thổ Thuỷ khắc nhau, chi Thuỷ can đều có Hoả bốc nên bụng đau tim bị che; chi Hoả can đầu có Thuỷ tích nên nội chướng mắt mờ; viêm trên (Hoả) đốt Thổ ướt nên đầu váng mắt hoa, nhuận dưới (Thuỷ) thuần ướt không Thổ chế, thận hư tai rè; đom đóm nháy (Hoả tinh) thừa vượng lâm li (Hoả phong); trong gió (trung phong) mất tiếng, thái bạch (Kim tinh) cứng sắc hợp Đoài Khôn (Kim Thổ) mất hồn mất vía.

Kết hợp với học thuật của các học giả Đài Loan thời nay, Từ Bình Bát tự đại đột phá cho rằng: phàm mệnh người, cường Kim phạt Mộc, Thổ nặng Mộc gãy, thuỷ nhiều Mộc trỗi. Hoả viêm Mộc bị đốt, Mộc nặng không tiết đều là gan mật có bệnh”, “phàm mệnh người, thuỷ nhiều Hoả tắt, Thổ nhiều Hoả mờ, Kim nhiều Hoả biến, Mộc nhiều Hoả tắc, Hoả nhiều không tiết, đều là bệnh tiểu tràng, bệnh tim”. “Phàm mệnh người, Mộc nặng Thổ lún, thuỷ nhiều Thổ hoang, Kim nhiều Thổ hư, Hoả nhiều Thổ cháy, Thổ vượng không tiết, đều là bệnh ở tỳ vị”, “phàm mệnh người , cường Hoả làm chảy Kim, Mộc rắn Kim bị thương, Thổ nhiều Kim bị vùi, thuỷ nhiều Kim bị chìm, Kim vượng không tiết, đều là đại tràng và phổi có bệnh” “Phàm mệnh người, Thổ nhiều thuỷ tắc, Kim nhiều thuỷ đục, Hoả nhiều thuỷ bốc hơi, Mộc nhiều thuỷ co lại, thuỷ vượng không tiết, đều là bàng quang và thận có bệnh.

Cách xem tật bệnh ở mệnh cục, học giả Đài Loan Lương Tâm Minh trong cuốn Hiện đại mệnh học còn tích cực để mắt tới việc nuôi dưỡng hậu thiên, đã nêu lên cách nói “tiên thiên hậu thiên điều hoà phù nhau bổ sung cho nhau. Trong sách Luận kiên khang cư gia chính quyết ông nói: thần điều hậu là thần dược, rất quan trọng trong mệnh cục. Mệnh chính cách sinh vào hạ lệnh viêm nhiệt, cần có thuỷ điều hậu tư nhuận, nếu không trong cục Hoả nhiệt quá táo sẽ không tốt. về mặt ăn uống, ăn chất mát thì tốt cho thân thể, những thức ăn táo nóng thì nên ăn ít. Mệnh chính cách sinh vào mùa đông lạnh, cần điều hoà cho ôn ấm, để lạnh quá sẽ không tốt, cho nên ăn chất nóng có lợi cho thân thể”.

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phán đoán nghèo hèn thọ yếu bệnh tật

Phong Thủy Phòng Ngủ, Giường Ngủ (Phần 1)

Giường ngủ là nơi ít nhất 1/3 cuộc đời mỗi chúng ta ở đó. Hơn nữa khi ngủ, cơ thể trở về trạng thái tĩnh, phục hồi sức khởe – tinh thần sau một ngày làm việc. Khi ngủ cơ thể ta sẽ nhận khí thiên – tiếp khí địa – chịu ảnh hưởng của tần số ngũ hành của người vợ hoặc chồng.
Phong Thủy Phòng Ngủ, Giường Ngủ (Phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giấc ngủ ngon và ngủ không ngon ảnh hưởng vô cùng lớn tới sức khỏe – tinh thần – trí tuệ của một con người, có sức khỏe là có tất cả - người có sức khỏe, có hy vọng; và người có hy vọng, có tất cả mọi thứ. Cơ thể yếu đuối khiến tinh thần trở nên yếu ớt, tài sản đầu tiên là sức khỏe mà không có sức khỏe thì chẳng làm được việc gì, cũng chẳng có tiền tài hay quan chức. Vì vậy phòng ngủ và gường ngủ lại là nơi vô cùng quan trọng là nơi đem lại cho ta Sức khỏe tốt và trí tuệ minh mẫn là mang lại cho ta hai điều hạnh phúc nhất của cuộc đời

Những yếu tố khi đặt phong thủy cho Phòng Ngủ - Giường ngủ bao gồm:

  • Xem phong thủy toàn bộ ngôi nhà, để chọn được góc thịnh của ngôi nhà, không dùng theo Bát trạch là để lấy bốn phương tốt và bốn phương xấu.

  • Xem tứ trụ của hai vợ chồng, xem những vị trí thịnh trong ngôi nhà đó có ngũ hành theo Bát phương của Bát trạch là gì. Ngũ hành đó tốt xấu như nào với lá số của hai người

  • Căn cứ vào công năng của ngôi nhà và các vị trí có thể đặt giường rồi án ngữ vị trí nào phù hợp với hai vợ chồng, hướng nào tốt cho cả hai, mà kiến trúc nội thất đẹp nhất.

  • Sau đó mới chọn các đồ nội thất và vật phẩm phong thủy để phù hợp với ngũ hành bản mệnh, phương vị theo bát trạch, phù hợp với sao sơn vận hướng, phù hợp với khí được nạp từ cửa đi – cửa sổ

  • Những điều kiêng kỵ khi bố trí phòng ngủ - giường ngủ

Phần 1: Chúng tôi sẽ phân tích hai yếu tố trong năm yếu tố liên quan đến phong thủy phòng ngủ - giường ngủ

Mỗi ngôi nhà có địa thế khác nhau, công năng nội thất khác nhau, thờ cúng khác nhau và vị trí giường trong nhà khác nhau, nên thịnh suy theo phong thủy khách nhau. Nên ngủ trong từng nhà, từng giường khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau, ngon giấc hay không, mơ xấu hay đẹp, hay ốm hay không…

Đã từ rất lâu rồi, chúng ta đã nghe có câu “ y – lý – số”, theo một khía cạnh liên quan đến phong thủy thì Thầy thuốc Đông Y ngoài việc kê thuốc theo bệnh đang mắc, còn phải xem bệnh đó do địa lý, hay do lá số mà có, hay do khí hậu-thời tiết. Nếu bệnh đó mà mắc do địa lý thì uống thuốc và chuyển giường ngủ khỏi rất nhanh, nhưng không chuyển giường thì rất lâu khỏi, mà còn hay bị mắc lại.

Thầy phong thuỷ khi đến nhà phải đọc được phòng ngủ và giường ngủ đó hay bị mắc bệnh gì - đó là bệnh do địa lý, kết hợp lá số để biết người ngủ ở đó có bệnh do lá số là gì. Khi chấn phong thủy mới hiệu nghiệm. Một người nếu bệnh do lá số và địa lý trùng là một thì người ngủ giường đó bị bệnh rất nặng.

Phòng ngủ nạp khí Thiên như thế nào? Khí thiên là phải xem nhà đó xây trong vận nào, sao Sơn - Vận – Hướng tại giường đó ra sao, rồi mở cửa đi – cửa sổ ở đâu để nạp khí Thiên.

Nạp khí Địa như thế nào? Từ vị trí giường ngủ xem ra sao Sơn – Vận – Hướng tương tác với ngủ hành bản mệnh ra sao, ngũ hành phương vị đặt giường tương tác với bản mệnh tốt xấu như nào, hướng giường có tốt cho bản mệnh không ( lưu ý không dùng mệnh theo năm vì độ chính xác thấp do mới chỉ dùng 1 tiêu chí là năm trong bốn tiêu chí là Năm – Tháng – Ngày – Giờ. Thế nên Tử vi và Tứ trụ luận rất đúng vì dùng đủ năm-tháng-ngày-giờ )

Ngoài ra giường ngủ vợ chồng phải xét ngũ hành bản mệnh của hai vợ chồng xem vị trí giường ngủ - phòng ngủ đó có tốt cho Ngũ hành bản mệnh của cả hai không. Tốt chồng khắc vợ, tốt vợ khắc chồng là không được.

Cuối cùng mới xét đến màu sắc chăn – ga – gối – đệm và màu sắc phòng là màu gì. Các vật phẩm phong thuỷ nào tốt cho cả hai vợ chồng.

Một thầy phong thuỷ đến nhà – chủ nhà chỉ cung cấp mỗi năm tháng ngày giờ mà thầy phong thủy không đọc được thịnh suy của nhà đó vào năm nào, tháng nào, ngủ giường nào ai mắc bệnh gì, thì không thể bố trí xắp đặt phong thủy cho toàn nhà, đương nhiên không bố trí phòng ngủ và giường ngủ cho ai được. Sau nhiều năm học Phong thuỷ Kiến trúc sư Hoàng Trà khẳng định đọc được tài vận thịnh suy của nhà đó mà chủ nhà không cần kể lể điều gì.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong Thủy Phòng Ngủ, Giường Ngủ (Phần 1)

Mơ thấy tình yêu đồng tính: Yêu một người giống bản thân mình –

Trong mơ, con người có thể xử lý tính dục của mình. Nếu con người xem nhẹ bản năng giới tính, một phương thức biểu đạt sức sống của bản thân, mặt tiêu cực của tình dục sẽ biểu hiện trong mơ.Tình dục trong mơ là một dạng bù đắp cho trạng thái khi tỉnh
Mơ thấy tình yêu đồng tính: Yêu một người giống bản thân mình –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy tình yêu đồng tính: Yêu một người giống bản thân mình –

Phong thủy phòng ngủ cho phụ nữ độc thân

Nếu bạn là người phụ nữ còn độc thân, đang tìm kiếm tình yêu và muốn hướng đến hôn nhân, phong thủy khuyên bạn nên củng cố năng lượng dương trong nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giải pháp cho vấn đề này là đặt một ngọn đèn chiếu sáng ở góc Tây – Nam của phòng khách và phòng ngủ. Ngoài ra, tất cả tranh ảnh nghệ thuật trang trí trong nhà phải tượng trưng cho nam tính.




Bạn có thể treo tranh ảnh thần tượng của mình như nam diễn viên, nhóm ca nam, thậm chí tranh ảnh của hoàng đế, và treo gần những vật mà bạn ưa thích để người mà bạn muốn thu hút sẽ thích hợp với cách sống của bạn.

Đôi khi bạn cũng nên treo tranh ảnh một cặp tình nhân để cân bằng năng lượng. Âm nhạc sẽ cung cấp thêm sinh khí cho ngôi nhà, những vật trang trí được trưng bày theo cặp cũng mang lại sự hài hòa.

Điều cần chú ý, bạn nên hạn chế sử dụng năng lượng âm trong trang trí. Đối với đồ đạc nội thất màu đen và thảm màu tối nên cân bằng với ánh sáng mạnh nhưng không chói mắt để căn phòng được đầy đủ ánh sáng.

Tốt nhất, bạn hãy tăng cường năng lượng dương trong phòng khách. Không nên để quá nhiều năng lượng dương trong phòng ngủ, vì điều này sẽ tạo ra những trở ngại trong quá trình tìm kiếm bạn đời. Không nên sơn phòng ngủ màu đỏ hoặc trưng bày hình tượng rồng trong phòng ngủ nếu như bạn chưa lập gia đình.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ cho phụ nữ độc thân

Tìm hiểu, công dụng của đá Tourmaline –

Tourmaline có rất nhiều màu sắc khác nhau. Do vậy mà người ta cho rằng tên nó bắt nguồn từ tiếng Singhalese, Tourmali, có nghĩa là “tinh thể nhiều màu”. Tourmaline xuất hiện ở một số mỏ đá quý của Việt Nam... Không chỉ tôn lên vẻ đẹp cho chủ nhân khi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tourmaline có rất nhiều màu sắc khác nhau. Do vậy mà người ta cho rằng tên nó bắt nguồn từ tiếng Singhalese, Tourmali, có nghĩa là “tinh thể nhiều màu”. Tourmaline xuất hiện ở một số mỏ đá quý của Việt Nam… Không chỉ tôn lên vẻ đẹp cho chủ nhân khi được sánh cùng họ mà Tourmaline còn có công dụng chữa bệnh rất tốt. Như vậy, đeo trang sức gắn đá Tourmaline vừa có tác dụng tô điểm vẻ đẹp cho chủ nhân vừa là lá bùa hộ mệnh sức khỏe.

Nội dung

  • 1 Tìm hiểu về đá Tourmaline
    • 1.1 Khu vực phân bố
    • 1.2 Thành phần và cấu tạo
  • 2 Công dụng của đá Tourmaline
    • 2.1 Tourmaline đen (loại phổ biến nhất trong phong thủy năng lượng)
    • 2.2 Tourmaline lam
    • 2.3 Tourmaline lục
    • 2.4 Tourmaline hồng
    • 2.5 Tourmaline vàng

Tìm hiểu về đá Tourmaline

Khu vực phân bố

Tourmaline xuất hiện ở một số mỏ đá quý Yên Bái , Nghệ An , Thanh Hóa , Gia Lai và nhiều nơi trên thế giới như Myanma , Madagaxca , Ấn Độ , Braxin , Kenya , Nga . Không chỉ tôn lên vẻ đẹp cho chủ nhân mà Tourmaline còn có công dụng về phong thủy và chữa bệnh . Như vậy, đeo trang sức gắn đá Tourmaline vừa có tác dụng tô điểm vẻ đẹp cho chủ nhân vừa là lá bùa hộ mệnh sức khỏe .

Thành phần và cấu tạo

Các khoáng vật trong nhóm Tourmaline là một trong những nhóm khoáng vật silicat phức tạp nhất. Sở dĩ Tourmaline có nhiều màu là do hiện tượng thay thế đồng hình các nguyên tố phổ biến trong thành phần các nguyên tố hoá học của khoáng vật này , sự thay thế đồng hình (dung dịch rắn) .

Đá Tourmaline có rất nhiều dạng, gồm không màu, nâu thẫm đến đen , nâu, đỏ, hồng, lam, lục, cam, vàng ,lam …và một viên đá Tourmaline có thể hiện diện hai đến ba màu , chính sự đa sắc này ở có tác dụng cân bằng năng lượng và phân bổ đều trên toàn bộ cơ thể .

Đá Tourmaline kết tinh trong tinh hệ 3 phương, với các yếu tố đối xứng: một trục đối xứng bậc 3 và 3 mặt phẳng đối xứng , đôi khi gặp các tinh thể hình trụ ngắn. Các tinh thể thường nhỏ có khi mức hiển vi, nhưng đôi khi có những tinh thể lớn tới vài chục cm chiều dài và đường kính tới 10 – 20 cm. Các mặt lăng trụ luôn mang dấu vết tăng trưởng dưới dạng vết khía dọc. Tập hợp thường thành tập hợp que, tập hợp phóng xạ hoặc hình tóc rối. Hiếm khi thành khối hạt đặc xít, đôi khi ẩn tinh.

Đá Tourmaline có rất nhiều dạng, gồm không màu, nâu thẫm đến đen , nâu, đỏ, hồng, lam, lục, cam, vàng ,lam …và một viên đá Tourmaline có thể hiện diện hai đến ba màu , chính sự đa sắc này ở có tác dụng cân bằng năng lượng và phân bổ đều trên toàn bộ cơ thể .

Công dụng của đá Tourmaline

Tourmaline đen (loại phổ biến nhất trong phong thủy năng lượng)

– Tourmaline đen hết sức hiệu quả khi cần tỉnh táo và cũng làm ổn định một số người hay “mơ mộng”.

– Là 1 chiến binh mạnh mẽ trước sự tiêu cực từ các cá thể khác, từ người thường đến người có năng lực tâm linh, nếu được sử dụng cùng với mica, tourmaline đen sẽ bộc phát sự tiêu cực đó ngược lại những ai đã phát ra nó. Chúng cũng hạn chế năng lượng xấu từ những thiết bị điện tử và phóng xạ.

– Tourmaline đen cũng hỗ trợ nâng cao sinh lực và sức khỏe, nó có thể sử dụng cho những bệnh về lưng và thận cũng như giúp giảm đau.

Tourmaline lam

– Tourmaline lam làm hoạt hóa chakra họng và trán, vì thế nó rất hiệu quả khi trị những bệnh về cổ họng, phổi và mắt.

– Không chỉ nâng cao khả cường truyền thông và trực giác để kết nối với thế giới tâm linh, tourmaline lam còn hỗ trợ bạn xóa bỏ những buồn đau.

– Tinh thể này còn được dùng để chữa các vết phỏng.

Tourmaline lục

– Tourmaline lục có liên hệ với chakra tim, giúp trải lòng và đem tới tình yêu cùng lòng trắc ẩn. Đây là một tinh thể giải phóng giúp cho cảm xúc có thể tỏa ra ngoài, đồng thời cứu bạn khỏi các nỗi đau từ quá khứ và loại trừ chất độc trong cơ thể.

– Tourmaline lục ổn định cảm xúc, từ đó loại trừ áp lực và lo sợ, giúp có những giấc ngủ ngon và mang đến yên bình. Chúng còn được dùng để trị những vấn đề về tim, tuyến ức và hệ miễn dịch, cũng như giúp lên cân.

Tourmaline hồng

– Đây là 1 tinh thể tuyệt vời cho chakra tim, chúng mang đến niềm vui và tình yêu, và thường được dùng làm quà tặng cho bạn hay người yêu.

– Tourmaline hồng giúp thư giãn, khiến bạn có cảm giác yên bình và an toàn, nó là sự chọn lựa tốt cho 1 số người từng bị ngược đãi. Nó sẽ làm dịu nhẹ nỗi đau mất mát.

– Về mặt thể chất, tourmaline hồng còn được sử dụng cho những bệnh về tim, phổi và da.

Tourmaline vàng

– Đá Tourmaline vàng kích hoạt chakra tinh thểm rối dương, sự sáng chế và trí thông minh, mang đến sự nhạy bén cho đầu óc và tăng cảm giác mạnh mẽ và can đảm. Tóm lại, tourmaline vàng rất thích cho những ai thuộc giới doanh nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu, công dụng của đá Tourmaline –

Phát hiện người có tướng tay nợ nần chồng chất

Tướng tay nợ nần chồng chất có đặc điểm thế nào? Cùng ## cùng tìm hiểu về vấn đề này nhé.
Phát hiện người có tướng tay nợ nần chồng chất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Trên các đốt ngón tay xuất hiện nhiều vân dọc, bạn nên coi chừng về phương diện tiền bạc hay công việc sẽ gặp phải không ít khó khăn, phiền toái. Không vay người khác tiền thì cũng bị người khác vay tiền mà không trả lại.


1. Trên bàn tay không có vân Tài khố

Vân Tài khố nằm ở trên ngón tay cái, là đường vân có nhiều hình dạng khác nhau nối giữa hai đốt ngón tay cái. Xem tướng tay có thể biết được số phận của bạn một cách tương đối.

Đường vân này chủ quản về tiền bạc. Nếu không có nó, ít gặp may mắn về tiền bạc, thậm chí có quãng thời gian trong đời còn vay mượn, nợ nần chồng chất.

Phat hien nguoi co tuong tay no nan chong chat  hinh anh
Ảnh minh họa

2. Đường chỉ tay Vận mệnh có vân đảo

Đường chỉ tay Vận mệnh còn gọi là đường Sự nghiệp hay vân Ngọc trụ (vì nó giống như trụ cột giữa lòng bàn tay). Đường này đại diện cho thành tựu trong công việc đạt được là lớn hay nhỏ, các mối quan hệ xã giao mở rộng ở phạm vi nào, công danh sự nghiệp phát triển đến mức độ nào.

Xem tướng tay nợ nần cho thấy, nếu trên vân Vận mệnh có hình vân đảo (có hình dáng trông như hòn đảo) là điềm không may mắn. Khi nó xuất hiện, chủ nhân nên đề cao cảnh giác trong việc mất mát tiền bạc, thậm chí phải chạy vạy khắp nơi để vay mượn, khó mà nở mày nở mặt.

Phat hien nguoi co tuong tay no nan chong chat  hinh anh 2
Ảnh minh họa

3. Đốt ngón tay nhiều vân dọc

Trên các đốt ngón tay xuất hiện nhiều vân dọc, bạn nên coi chừng về phương diện tiền bạc hay công việc sẽ gặp phải không ít khó khăn, phiền toái. Không vay người khác tiền thì cũng bị người khác vay tiền mà không trả lại.

Nhìn chung, nếu sở hữu tướng tay này, tình hình tài chính, thu chi của chủ nhân dễ bị mất cân đối. Từ đó gây ra nhiều phiền toái về tinh thần, làm đảo lộn cuộc sống của bạn.

4. Lòng bàn tay dẹt và mỏng


Trong nhân tướng học, lòng bàn tay cũng được coi như là tài khố. Nếu nó càng dày, đầy đặn thì càng tốt, có thể giữ được tiền tài. Ngược lại, nếu lòng bàn tay dẹt và mỏng lại không được coi là tốt, nhiều lắm cũng chỉ đủ ăn, còn không thì nghèo khó, nợ nần chồng chất.

Ngân Hà

Soi tướng tay của quý cô có nguy cơ ế dài
Những quý cô sở hữu tướng tay dưới đây tuy khá thành đạt trong sự nghiệp nhưng đường tình duyên trắc trở và thường kết hôn khá muộn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phát hiện người có tướng tay nợ nần chồng chất

Những tuổi lận đận công danh trong 12 con giáp

Những tuổi lận đận công danh, dù cuối cùng cũng gặt hái thành công rực rỡ đấy nhưng quá trình thực hiện lắm gian truân, nhiều lận đận?
Những tuổi lận đận công danh trong 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Người tuổi lận đận công danh, dù cuối cùng cũng gặt hái thành công rực rỡ đấy nhưng quá trình thực hiện lắm gian truân, nhiều lận đận? Hãy cùng tìm hiểu đáp án cho câu trả lời ai cũng từng hỏi một lần trong đời này nhé.

 
Sinh vào ngày đen tối này 12 con giáp nữ sẽ khổ muôn đời Tật xấu đánh chết không chừa của 12 con giáp 3 con giáp luân phiên đóng vai ông Tơ bà Nguyệt cực duyên


No1. Tuổi Dần

  Tuổi lận đận công danh, phải chăng có tuổi Dần? Tuổi Dần “đầu đội trời, chân đạp đất”, sống nhiệt huyết, không phủ nhận rằng bản thân tham vọng lớn, khát khao thành công mãnh liệt. Sở hữu nguồn năng lượng dồi dào, sức hút cực mạnh, đi tới đâu con giáp này cũng dễ trở thành tâm điểm chú ý và được mọi người giao phó nhiệm vụ quan trọng.   Dẫu vậy, cái tật “đánh chết không chừa” của họ chính là hiếu thắng. Vì hay so bì hơn thua, họ tự tạo áp lực cho mình, lúc nào cũng phải thể hiện, phô diễn tài năng kẻo sợ người khác không biết hoặc bản thân không được khẳng định.   Thêm nữa, cách làm việc theo hứng, ham chơi quá đà dễ khiến tuổi Dần “sa đà”, tưởng chừng như thành công đã nằm trọn trong tay nhưng thực tế lại quá xa vời. Bởi thế mới nói, đây là một trong những con giáp thành công nhưng lận đận. Họ phải trải qua cả quá trình phấn đấu lâu dài, cứ xây rồi lại phá, phá rồi lại bắt đầu gây dựng lại từ đầu. Thành công rồi cũng sẽ đến, nhưng hơi muộn.  
Nhung tuoi lan dan cong danh trong 12 con giap hinh anh 2
 

No2. Tuổi Ngọ

  Trong số 12 con giáp, người chiếm tỷ lệ thành công cao nhất có lẽ là tuổi Ngọ. Thế mới có câu “Mã đáo thành công”, một khi họ nói là sẽ làm được, không thể phủ nhận năng lực xử lý công việc siêu tốt ở họ. Vậy lẽ ra họ phải dễ dàng thành công chứ, sao công danh nhiều lận đận?   Lý giải cho điều này, bạn nên nhìn vào cá tính mạnh và những yêu cầu quá cao của tuổi Ngọ trong tình cảm. Ai cũng biết, tình cảm và sự nghiệp luôn song hành, bổ trợ cho nhau. Khi tinh thần thư thái thì làm việc mới tốt và ngược lại.    Đa phần người tuổi Ngọ đều khó thỏa mãn về nhu cầu tình cảm, lúc nào cũng cảm thấy cô đơn, liên tục di chuyển để tìm kiếm hạnh phúc mà không biết rằng, hạnh phúc nằm chính trong lòng bàn tay của họ. Do vậy mà đây cũng là tuổi lận đận công danh và hạnh phúc.  

No3. Tuổi Sửu

  Tuổi Sửu thuộc tuýp truyền thống nhưng lại suy nghĩ vô cùng thiết thực. Hơn ai hết, họ có khát khao thành công trong sự nghiệp cực lớn, luôn nỗ lực không ngừng, không ngại khó ngại khổ để đạt được thành công.   
Nhung tuoi lan dan cong danh trong 12 con giap hinh anh 2
 
Dẫu vậy, thành công đến với tuổi Sửu cũng khá muộn. Yếu tố cản đường duy nhất chính là phương diện tình cảm. Họ mải mê “chinh chiến” vì sự nghiệp mà quên mất nhiệm vụ “yêu đương”. Đến khi quá lứa lỡ thì, quan tâm tới tình cảm cũng đã muộn màng.    Thêm nữa, yêu cầu chọn nửa kia của người cầm tinh con Trâu cũng cao ngất ngưởng, khổ não trong chuyện yêu đương là điều tất nhiên rồi. Càng khổ não trong tình yêu, càng khó tập trung làm việc, sai lầm nối tiếp, thành công tới muộn là điều khó tránh.  

No4. Tuổi Thân

  Ai cũng biết tuổi Thân thích tự do bay nhảy, chúa ghét sự ràng buộc. Vì thế, họ luôn phấn đấu hết mình, học hành giỏi giang, thi cử đỗ đạt, thăng quan tiến chức, sự nghiệp thăng cấp vù vù. Nhưng đang trên đỉnh cao sự nghiệp, họ luôn cảm thấy đơn lẻ, không có ai bầu bạn, một mình độc bước trong thế giới riêng của chính mình.   Vì thế, họ trầm tư, lo lắng cho đời sống tình cảm. Hôn nhân của người này cũng khó mà viên mãn khi bản thân họ không coi trọng phương diện này. Song song với thành công trong sự nghiệp là nỗi gian nan trong tình yêu. Nói người tuổi Thân lận đận công danh cũng không ngoa!  
►Mời các bạn: Xem tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh

Ngân Hà
  3 con giáp dễ đau đầu mất ngủ vì chuyện “lãng xẹt” trong tháng 8
Bước sang tháng 8, chỉ vì lý do lãng xẹt khiến những con giáp dễ bị mất ngủ, ăn không ngon miệng, sức khỏe giảm sút đáng kể. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tuổi lận đận công danh trong 12 con giáp

Hôn nhân của người tuổi Sửu

Người tuổi Sửu rất quan tâm đến gia đình, yêu quý những người thân và thích trẻ nhỏ. Nếu hai vợ chồng cùng cầm tinh con trâu thì gia đình sẽ rất hòa thuận,
Hôn nhân của người tuổi Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hạnh phúc.

Người tuổi Sửu thường lựa chọn bạn đời trong số những người mà mình quen biết từ trước. Quan niệm về hôn nhân của họ rất thực tế. Họ tìm hiểu nhau qua một thời gian dài rồi mới đi đến hôn nhân.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Sau khi lập gia đình, người tuổi Sửu sẽ trở nên hiền hòa, dịu dàng hơn rất nhiều. Đôi khi vì phải đối mặt với khó khăn, phức tạp trong cuộc sống và các mối quan hệ mà tâm lý, tình cảm của họ có sự bất ổn định. Nhưng “sau cơn mưa trời lại sáng”, tình yêu của họ dành cho người bạn đời của mình càng thêm sâu đậm.

Nam giới tuổi Sửu rất chung thủy, biết hy sinh cho hạnh phúc của gia đình. Họ luôn cố gắng hết sức để trở thành trụ cột kinh tế mà không cần đến sự trợ giúp của vợ. Dù tự hào về gia đình của mình nhưng họ vẫn có những yêu cầu rất cao với người thân. Họ lấy công danh và thành tích đạt được là thước đo tình yêu của mình với gia đình.

Nữ giới tuổi Sửu thường không giỏi giao tiếp. Bề ngoài họ kiên cường, mạnh mẽ nhưng bên trong họ là người mềm mỏng, hiền thục. Họ có thể trở thành người vợ hiền, người mẹ tốt. Giống như nam giới, nữ giới tuổi Sửu luôn cố gắng làm mọi việc vì người mình yêu thương. Họ biết cách trở thành người bạn sẵn sàng chia sẻ mọi tâm tư tình cảm của chồng, là cầu nối mọi người trong gia đình và luôn tạo không khí gia đình thêm đầm ấm, hạnh phúc.

(Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hôn nhân của người tuổi Sửu

Vật phẩm phong thủy mang lại tiền tài –

Gia chủ nào muốn tài vận đến nhanh thì đừng quên trưng bày những vật phẩm phong thủy được cho là mang may mắn, tiền bạc nhiều nhất mà chúng tôi đưa ra dưới đây nhé. 1. Thần Tài Tsai Shen Yeh Thần Tài Tsai Shen Yeh luôn là vua của tài vận và là một tr

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gia chủ nào muốn tài vận đến nhanh thì đừng quên trưng bày những vật phẩm phong thủy được cho là mang may mắn, tiền bạc nhiều nhất mà chúng tôi đưa ra dưới đây nhé.

1. Thần Tài Tsai Shen Yeh

1407236573-060814ndptthantai1

Thần Tài Tsai Shen Yeh luôn là vua của tài vận và là một trong những vị thần của cải phổ biến nhất. Ông thường được mô tả trong tư thế ngồi trên lưng hổ, thể hiện quyền uy với con vật này. Tay của ông cầm nhiều đồng vàng, mình mặc áo rồng. Dù được mô tả với hình hài nào thì Thần Tài cũng được coi là vị thần bảo vệ tài chính của bạn.

Nơi đặt Thần Tài tốt nhất là trước cửa ra vào, hướng thẳng ra cửa trước.

Lưu ý: Không đặt Thần Tài ở phòng ngủ vì như thế sẽ không nhận được may mắn.

2. Thiềm Thừ (Cóc ba chân ngậm tiền)

1407236573-060814ndptcoc1

Thiềm Thừ – Cóc ba chân gần như là biểu tượng kiếm tiền may mắn nhất. Linh vật này có ba chân, chân cóc đạp lên nhiều đồng tiền cổ, miệng ngậm 3 đồng tiền.

Thiềm Thừ hút vàng vào nhà của bạn khi nó được đặt ở vị trí thấp, theo đường chéo đối diện cửa trước. Nên đặt hướng về phía cửa trước giống như đang chào đón năng lượng của sự giàu có. Theo Phong Thủy, nếu đặt 9 Thiềm Thừ sẽ hút tiền vào nhà.

Lưu ý: Không đặt cóc đối diện trực tiếp với cửa chính, cửa sổ vì nếu đặt như vậy cóc sẽ nhả tiền ra ngoài hết.

3. Tỳ Hưu

Tỳ hưu còn được gọi là Thiên Lộc, Tịch Tà, Bách giải là thần thú nổi tiếng nhất được quan niệm mang lại sự giàu có và bảo vệ tài sản. Tỳ Hưu giúp mang lại may mắn với những tài sản nổi như xổ số, chứng khoán, đầu tư kinh doanh.

Người xưa tin rằng, sau khi mua xổ số, đặt vé số bên dưới Tỳ Hưu sẽ thu hút may mắn về tiền bạc.

4. Tiền xu Phong Thủy

1407236573-060814ndpttien

Tiền xu Phong Thủy, tiền xu cổ của Trung Quốc là công cụ mạnh để kích hoạt sự giàu có. Hình tròn và hình vuông của đồng tiền tượng trưng cho trời và đất. Buộc 3 đồng tiền vào một chuỗi dây màu đỏ và treo chúng lên cửa ra vào ngụ ý tiền hoàn toàn ở bên trong nhà bạn.

5. Những thỏi vàng Phong Thủy

1407253255-080614nd9vatvang2

Vàng tượng trưng cho sự giàu có, của cải và thành công. Thỏi vàng thu hút tài lộc liên tục vào nhà. Có thể trưng bày thỏi vàng bằng cách cho nhiều thỏi vào bình tài lộc rồi để trong nhà hoặc văn phòng.

6. Long Quy

1407253025-080614nd9vatlongquy

Long Quy là biểu tượng huyền thoại kết hợp quyền lực tuyệt đỉnh của cả rồng lẫn rùa. Người ta tin rằng nó có thể hút tài vận giàu có, tăng thu nhập, thúc đẩy thăng tiến, sức khỏe, tuổi thọ, bền vững và thịnh vượng lâu dài trong kinh doanh. Linh vật này mang lại may mắn sung túc ổn định (thay vì những yếu tố bất ngờ xảy ra, Long Quy sẽ giúp từng bước tiết kiệm, tăng tiền bạc một cách chắc chắn).

7. Tượng Cá

1407253443-080614nd9vatca

Theo Phong Thủy, Cá đại diện cho sự giàu sang, phú quý. Nhiều doanh nghiệp Trung Quốc thích đặt bể cá cảnh sống như cá vàng, cá chép, cá bảy màu gần lối vào văn phòng hoặc cửa hàng, nhà ở để thu hút sự giàu có và may mắn.

Tuy nhiên, đặt tượng cá thì đơn giản hơn và không phải chăm sóc như bể cá sống. Vì thế nhiều người trưng bày tượng cá trong nhà.

8. Ba vị thần Phúc – Lộc Thọ

1407256894-080614nd9vat3ong

Ba vị thần Phúc – Lộc Thọ là những vị thần phổ biến nhất và được trưng bày trong nhiều gia đình trên toàn thế giới.

Tượng Phúc, Lộc, Thọ thường được trưng bày theo phong thủy để cầu mong sức khỏe, sự giàu có và hạnh phúc.

Tượng ba ông cực kỳ phổ biến vì tượng trưng cho tất cả mọi thứ khiến cho con người hạnh phúc, mãn nguyện. Bày ít nhất 1 trong 3 ông sẽ thu hút may mắn đến với cuộc sống.

Nhà phong thủy nổi tiếng thế giới, Lilian Too, người đã viết hơn 80 cuốn sách về đề tài này, trưng bày ít nhất 3 bộ ba ông Phúc Lộc Thọ trong nhà riêng của bà.

9. Thuyền buồm đầu rồng

1407256894-080614nd9vatthuyenbuommavang

Người ta quan niệm rằng thuyền rồng mang lại sự giàu có từ gió và nước, được xem là biểu tượng của thành công trong kinh doanh. Để tăng thu nhập, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc bày thuyền đầu rồng trước cửa hàng, văn phòng.

Nên đặt thuyền buồm hướng vào bên trong văn phòng, cửa hàng, nhà ở. Hoặc có thể treo một bức tranh có hình chiếc thuyền buồm đang căng gió tiến về phía bạn để tăng thêm vận may và tài lộc.

Lưu ý: Không nên để thuyền buồm hướng ra ngoài cửa, vì như thế nó mang ý nghĩa chạy mất, đồng nghĩa với vận may và tài lộc cũng theo đó ra đi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy mang lại tiền tài –

Nằm mơ thấy cháy nổ cháy bếp ga, cháy điện là điện là điềm báo gì ? –

Nằm mơ thấy cháy nổ cháy bếp ga, cháy điện là điện là điềm báo gì ? đây là một trong những thắc mắc về tâm linh mà nhiều người hay gặp phải. Không biết liệu giấc mơ đó dự báo điều gì? Bài viết sau đây sẽ nói về vấn đề này và giải mã giấc mơ cho từng
Nằm mơ thấy cháy nổ cháy bếp ga, cháy điện là điện là điềm báo gì ? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy cháy nổ cháy bếp ga, cháy điện là điện là điềm báo gì ? –

Những điều nên kiêng kị vào mùng một để tránh đen đủi cả tháng, cả năm.

Quan niệm dân gian cho rằng, ngày mùng 1 đầu tháng có nhiều điều phải kiêng kỵ để tránh rước vận đen vào người cả tháng. Vậy cần kiêng kỵ những gì trong ngày đầu tháng?
Những điều nên kiêng kị vào mùng một để tránh đen đủi cả tháng, cả năm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Quan niệm dân gian cho rằng, ngày mùng 1 đầu tháng có nhiều điều phải kiêng kỵ để tránh rước vận đen vào người cả tháng. Vậy cần kiêng kỵ những gì trong ngày đầu tháng? Tùy theo quan niệm của từng địa phương mà ngày đầu tháng được hiểu khác nhau. Có nơi gọi là ngày đầu tháng tức là ngày mồng 1 âm lịch hàng tháng nhưng cũng có một số nơi coi các ngày mồng 1 đến mồng 10.

1. Kiêng một số món ăn

*Mực

Mực cũng là loại thực phẩm có trong danh sách “đen” của cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Nguyên nhân của điều này xuất phát từ quan niệm “đen như mực” của ông cha ta từ nhiều năm trước.

Theo quan niệm, nếu ăn mực vào đầu năm thì cả năm sẽ đen đủi, ăn mực đầu tháng sẽ không may mắn. Thậm chí, nhiều bậc cha mẹ còn không cho con ăn mực trước ngày thi. Nhiều người kỵ ăn mực khi đi xa vì có công việc quan trọng.

*Thịt chó

Thịt chó là thức ăn giàu chất dinh dưỡng và là món “khoái khẩu” của nhiều người. Thậm chí, thịt chó được coi là “quốc hồn quốc túy”, là nét ẩm thực riêng có của người Việt Nam. Thế nhưng, người ta quan niệm rằng ăn thịt chó vào đầu năm hay đầu tháng thì cả năm, cả tháng đó sẽ xui xẻo, không may mắn. Tuy vậy, thịt chó lại được coi là món giải xui nếu ăn vào cuối tháng.

*Thịt vịt

Thịt vịt là món ăn kiêng kỵ vào dịp đầu tháng và đầu năm của người miền Bắc và miền Trung. Món ăn này bị xem là không tốt, kém may mắn, nhất là vào dịp đầu năm. Người ta cho rằng, nếu ăn thịt vịt sẽ đen đủi, “tan đàn, xẻ nghé”. Thay vì sử dụng thịt vịt, người ta dùng thịt gà với ý nghĩa cát tường hơn. Giống như thịt chó, vào những ngày cuối tháng, món thịt vịt lại được xem là món ăn “giải đen”.

*Trứng vịt lộn

Món trứng vịt lộn ngon và bổ dưỡng. Tuy nhiên, quan niệm của người miền Trung và miền Bắc rất kiêng ăn trứng vịt lộn đầu tháng, đầu năm.

Họ quan niệm rằng, nếu ăn trứng vịt lộn vào đầu tháng, đầu năm thì cả tháng, cả năm sẽ không được may mắn. Mọi thứ đều xảy ra trái với ý mình.

*Tôm

Nếu người miền Bắc không kiêng kỵ tôm vào ngày Tết thì người miền Nam lại rất ít sử dụng món ăn này.Người miền Nam cho rằng tôm đầu to và đi giật lùi, nếu ăn tôm vào đầu năm sẽ khó “đầu xuôi, đuôi lọt”. Mọi việc trong năm mới sẽ không thể thuận buồm xuôi gió, không thăng tiến và phát tài phát lộc được.

*Cá mè

Người miền Bắc và miền Trung đều kiêng ăn cá mè đầu năm. Nhiều người cho rằng nguyên nhân là do chữ “mè” đi theo với chữ “mè nheo”. Hơn nữa, cá mè còn tanh và nhiều xương hơn các loại cá khác. Có lẽ vì thế, họ quan niệm loài cá này sẽ mang đến một năm đen đủi. Nhất là với người miền Trung, họ cho rằng ăn cá mè đầu năm thì cả năm sẽ bị “hãm tài”.

*Chuối

Với người miền Bắc, chuối là loại quả không thể thiếu trên mâm ngũ quả thì với người miền Nam lại tránh ăn chuối những ngày đầu năm do sợ ảnh hưởng đến việc thăng tiến. Nguyên nhân là do chữ “chuối” nói lái đi sẽ thành “chúi” theo giọng miền Nam nghĩa là không thể ngẩng lên được.

Cũng có người theo sách nho bảo ” tiền đàng bất khả thụ ba tiêu ” (Trước nhà thì không được trồng chuối). Và trái chuối cũng mang hình tượng không đẹp.

*Mắm tôm

Những ngày đầu tháng, đa số người Việt Nam đều kiêng ăn mắm tôm vì ai cũng sợ gặp điều xui xẻo.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

2. Kiêng vay mượn tiền, xuất tiền của

Vào ngày đầu tháng, mọi người thường kiêng xuất tiền của vì sợ bị "dông" cả tháng. Tương tự như vậy, dân gian kiêng đi vay mượn, đi trả nợ.

3. Kiêng gặp gái, gặp người vía dữ

Vào buổi sáng sớm hoặc ngày mùng 1 đầu tháng, nếu có việc phải đi xa, đi buôn bán, đi làm ăn... thì người ta rất kỵ ra ngõ gặp đàn bà con gái hay người vía dữ, khó tính, keo kiệt.
Để tránh gặp phải vía dữ, người ta sẽ hẹn với một người (có tính tình cởi mở, hay gặp may mắn) đứng đón ở ngõ. Khi người này đi ra thì người đón ngõ sẽ chào hỏi và chúc lên đường may mắn.

4. Kiêng ngã giá mua hàng rồi bỏ đi

Người buôn bán rất kỵ việc vào buổi sáng sớm hoặc ngày đầu tháng có khách tới xem hàng, đã thỏa thuận giá cả nhưng lại không mua hàng nữa. Họ quan niệm như vậy thì trong cả ngày đó hoặc trong tháng đó việc buôn bán sẽ gặp xúi quẩy.
Để xua đuổi sự xúi quẩy này người bán hàng sẽ phải "đốt vía" bằng cách vơ vội nắm rác hay que đóm, tờ giấy... quanh đó rồi châm lửa đốt ngay trước mặt người mua hàng vô duyên đó.

5. Kiêng đi thăm phụ nữ mới sinh con

Đầu tháng mà đi thăm gái đẻ là "dông" “ Sinh dữ tử lành” , các cụ vẫn kiêng thế.
Đối với người làm ăn lớn, buôn bán: Mọi người cho rằng họ đi thăm bà đẻ thì vận may trong công việc làm ăn của họ sẽ nhanh chóng biến mất, nên thường họ chờ đến cuối tháng mới đến thăm.

Đối với dân lái xe: rất kiêng kỵ đi thăm gái đẻ, bởi họ quan niệm sẽ gặp nhiều vận hạn, xui rủi, làm ăn thất bát, đi đường dễ gặp bất trắc...

Đối với người bình thường: Cũng cho rằng đi thăm bà đẻ khi họ sinh con được đầy tháng thì mới ko bị Xui.

Đối với những người có bầu: Các cụ cho rằng, nếu bà bầu đi thăm bà đẻ thì con sẽ ganh nhau (em bé của bà đẻ và em bé trong bụng của bà bầu), rồi đến lúc bà bầu đẻ con ra sẽ khó nuôi.

Thực ra, dân gian kiêng đi thăm gái đẻ trong vòng một tháng đầu không hoàn toàn là do mê tín. Trong vòng tháng đầu, cả mẹ lẫn bé đều đang rất mệt mỏi, cần ngủ nhiều, cần được yên tĩnh và sạch sẽ. Nếu người đến thăm nhiều, ồn ã, bụi bặm sẽ nhiễm vào mẹ và bé, ngay cả nếu như khách bị cảm cúm, bệnh tật, sẽ càng nguy hiểm hơn.

6. Kiêng quan hệ nam nữ

Trong ngày Tết, mùng 1, ngày rằm, người phương Đông có quan niệm kiêng khem, tránh việc gần gũi nam nữ, vợ chồng. Bởi lẽ, theo quan niệm cổ xưa, việc quan hệ nam nữ vào những ngày này sẽ dẫn đến những điều vận hạn đen đủi, không may mắn, thậm chí là đại hạn.

7. Kiêng không được cắt tóc

Ngày mùng 1 âm lịch, rất nhiều người kiêng cắt tóc vì họ sợ nếu cắt tóc thì tài lộc sẽ tiêu hao suốt cả tháng đó.

8. Kiêng nói bậy, chửi tục

Nói bậy chửi tục chắc chắn cũng phản ánh một phần nào đó văn hóa của mỗi người. Đây cũng là điều mà rất nhiều người kiêng kỵ để không xuất hiện trong những ngày đầu tháng. Nhiều người quan niệm nếu đầu tháng mà nói bậy chửi tục thì cả tháng sẽ gặp những chuyện thị phi.

9. Kiêng đánh vỡ bát đĩa, ấm chén

Ông bà ta quan niệm, từ vỡ, bể là những từ tạo nên sự chia cắt, đứt lìa trong gia đình. Vì thế, trong ngày đầu tháng không được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình.

10. Kiêng không nói tới điều rủi ro

Nhiều người rất kiêng kỵ việc nói tới những điều rủi ro trong ngày đầu tháng vì sợ rằng cả tháng cũng sẽ gặp phải rủi ro như lời đã nói.

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều nên kiêng kị vào mùng một để tránh đen đủi cả tháng, cả năm.

Phong thủy văn phòng cần cấm kỵ gì? –

Địa điểm của văn phòng nên đặt ở khu tụ hợp của toà nhà văn phòng, đàm phán làm ăn thuận tiện; địa điểm của văn phòng cố gắng nên ở gần nơi có phong nguyệt. Trang hoàng trong văn phòng không nên quá hào nhoáng, màu sắc trong nội thất văn phòng nên là

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa điểm của văn phòng nên đặt ở khu tụ hợp của toà nhà văn phòng, đàm phán làm ăn thuận tiện; địa điểm của văn phòng cố gắng nên ở gần nơi có phong nguyệt.

Trang hoàng trong văn phòng không nên quá hào nhoáng, màu sắc trong nội thất văn phòng nên là màu trắng sữa, màu ngà voi là tốt nhất. Các loại máy in của công ty không nên đặt ở phía Bạch hổ, két tiền của văn phòng không nên đặt quay ra cửa – tài đến tài đi; két tiền của văn phòng không nên hướng theo đường nước chảy – hao tài liên miên cũng không được đặt ở nơi dễ nhìn.

Du-an-4NTPH_0013

Gương soi của văn phòng không thể đặt đối diện với cửa – nhiều lời thị phi; gương soi của văn phòng nên đặt ở nơi có ánh sáng tối. Nơi đi lại của văn phòng nên được thoải mái thoáng đãng. Màu sắc: bàn làm việc trong văn phòng cố gắng sáng và nhạt màu. Cửa trong, ngoài của văn phòng cố gắng đặt ở Long phương, không thể đặt ở Bạch hổ phương; ngư tường của văn phòng kỵ nhất để ở Bạch hổ phương, nên đặt ở Long phương là tốt nhất. Những nơi lấy nước của văn phòng không nên ở bàn Bạch hổ phương, bàn làm việc của chủ nhân không thể dựa gần Bạch hổ phương hội binh – nộ khi chủ (bắt nạt chủ nhân).

Hai bên trái phải bàn làm việc của ông chủ không thể xung với cửa nhà vệ sinh, không thể đối diện với bức tường của phòng đối hoặc nhà vệ sinh, không thể dựa vào nhà vệ sinh, không thể trước sau, trái phải có nhà vệ sinh – chủ ngồi không yên ổn.

Vị trí bàn hoặc vị trí ngồi của ông chủ không có xà ngang, không thể trước sau trái phải xung góc tủ; phía trước sau bàn làm việc không nên cố gắng có không gian minh đường phải mở rộng.

Vị trí bàn làm việc của chủ nhân không thể lộn xộn, trần nhà nên sáng sủa, thoáng đãng. Phía trước bàn làm việc của ông chủ không được có bình phong, không đặt tủ rượu, hơn nữa phải đặt bằng khen thưởng ở trong tủ đó.

Phía trước bàn làm việc của ông chủ không thể treo gương soi phản chiếu vào bản thân – tâm thần bất định; cửa vào trong bàn làm việc của ông chủ không thể lắp gương soi thị phi nhiều.

Phía bên phải bàn làm việc của ông chủ cố gắng không được cắm cờ, cắm phía bên trái hoặc phải đằng sau lưng là tốt nhất.

Văn phòng hoặc bàn làm việc không thể ở dưới nhà vệ sinh và bếp, cũng không thể ở trên nhà vệ sinh hoặc bếp; cũng không thể ở dưới hoặc trên của cơ phòng, phía trước sau trái phải không có lối ngách nào xung thân, cũng không thể đặt thùng rác hay trụ phòng cháy bên cạnh, cũng như không có nhà vệ sinh bên cạnh.

Văn phòng của ông chủ không thể ở phía trước mặt của phòng cấp dưới – quân chủ bất phân: phòng làm việc của ông chủ phía Bạch hổ không để các máy móc rung động: trên đỉnh đầu của văn phòng không thể có bồn nước; phía bên phải bàn làm việc không được đặt bình nước: bên phải bàn làm việc không được đặt máy in, máy lạnh, máy thông khí…

Nội thất trong văn phòng của ông chủ không được đặt những loại cây cảnh thuộc chủng loại cây mây.

Không nên treo quá nhiều các tranh hoạ và sơ đồ trong văn phòng của giám đốc vì sẽ gây hỗn loạn; phía trước bàn làm việc không để bàn và ghế salon xung thẳng với chỗ ngồi; cửa sổ ngoài phía trước bàn làm việc không được đối thẳng vơi cột cờ hay cột điện; phía sau lưng của bàn làm việc không thể có người đi đi lại lại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy văn phòng cần cấm kỵ gì? –

Sắc Trong Tướng Học

I- Ý NIỆM SẮC TRONG TƯỚNG HỌC Á ĐÔNG Trong tướng học Á Đông từ ngữ Sắc bao gồm nhiều lĩnh vực : a) Màu da của từng cá nhân Tướng học Á Đông là kết quả tích lũy thực tế của nhiều thế hệ, chỉ áp dụng cho các chủng tộc Á Đông có cùng màu da căn bản là vàng, có cơ thể và tầm vóc tương tự người Trung Hoa và cùng hcịu ảnh hưởng sâu đậm của phong tục và tập quán Trung Hoa như Cao Ly, Nhật bản, Việt Nam mà thôi. Nói chung, ngưới Á Đông tuy là giống da vàng, trong cái vàng tổng quát đó, ta vẫn phân biệt được Sắc ngăm đen như Trương Phi, Sắc hung đỏ như mặt Quan Công, Sắc hơi xanh mét như Đơn hùng Tín trong truyện cổ người Trung hoa.
Sắc Trong Tướng Học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Về mặt vị trí quan sát. Tuy nói tổng quát là làn da nhưng trong tướng học khi nói đến da mặt, chỗ Sắc dễ thấy nhất còn các phần khác của cơ thể không mấy quan trọng.

b) Màu Sắc của từng bộ vị trên khuôn mặt hay thân thể:
Trên cùng một khuôn mặt hay cùng một thân thể của một cá nhân ta thấy có nhiều loại màu đơn thuần khác nhau :
- Màu hồng, màu hơi thâm đen của Môi, của các chỉ tay, vành Tai.
- Màu đen hay hung hung của râu tóc, long mày.
- Màu trắng của lòng trắng Mắt, màu nâu (ta thường gọi là đen) của tròng đen.
- Màu đỏ của các tia máu Mắt.


c) Sự đậm nhạt của từng loại màu
Cùng một loại màu, chẳng hạn như da mặt, làn Môi ta thấy có Môi hồng nhạt, hồng
đậm, hồng phương trắng: cùng một loại da trắng, ta thấy có người trắng hồng, trắng xanh trắng ngà. Tóm lại, sự đậm nhạt của màu cũng là một thành tố của ý niệm Sắc trong tướng học không thể bỏ qua được.

d) Phẩm chất của từng loại màu đơn thuần
Cùng một màu hồng của Môi, má nhưng ta thấy có người Môi khô, Môi mọng, có người Sắc da hồng nhuận, có người da khô như vỏ cây hết nhựa.
Ngoài màu đơn thuần, ta còn có những màu phức hôp do các màu đơn thuần hợp thành. Lĩnh vực của chúng ta cũng đồng một khuôn khổ như các lĩnh vực của các đơn Sắc. Sau hết, trên khuôn mặt của 1 cá nhân, dù màu đơn thuần hay màu phức hợp, chúng có thể biến đổi từ màu này sang màu khác hay về phẩm chất, về độ đậm nhạt, về thành phần cấu tạo (đối với các màu phức tạp) qua thời gian. Chẳng hạn màu da trắng của một người sau 1 thời gian có thể biến thành hồng hay xanh xám : tóc có thể từ đen mướt đến hung đỏ, cặp Mắt trong xanh và làn Môi tươi tắn có thể vì 1 lý do bệnh lý nào đó mà biến thành cặp Mắt trắng dã làn Môi đen sì.

Tóm lại, khi nói đến Sắc trong tướng học là nói đến màu của các loại da, màu các bộ vị, độ đậm nhạt, phẩm chất, sự phối hợp các màu đơn thuần thành các màu phức hợp, sự biến thiên của các màu con người từ khu vực này sang khu vực khác. Nghiên cứu về Sắc tức là nghiên cứu về tất cả mọi trạng thái của các lĩnh vực nói trên, đi từ tổng quát đến chi tiết, đơn giản đến phức tạp. Đôi khi quan sát bằng tịh giác chưa đủ còn phải vận dụng cả trực giác bén nhạy thiên phú nữa, nhất là trong lĩnh vực quan sát phẩm chất và độ đậm nhạt của màu Sắc ở từng bộ vị trên con người.

II- CÁC LOẠI SẮC TRONG TƯỚNG HỌC:
Nói đến Sắc là nói đến màu, nhưng ở đây nặng về phần màu da trên khuôn mặt Tướng học Á Đông phân ra 7 loại đơn Sắc:

- Màu đỏ
- Màu hồng
- Màu tía
- Màu xanh
- Màu trắng
- Màu đen
- Màu vàng

Ba màu Đỏ Hồng Tía dược tướng học ngũ hành hóa thành hỏa Sắc là màu chính thức cửa 3 tháng hè, là màu da căn bản của người loại Hỏa trong phép phân loại Ngũ hành hình tướng.

- Màu xanh thuộc Mộc, là màu Sắc chính của 3 tháng mùa xuân, màu da căn bản của người hình Mộc.
- Màu trắng thuộc Kim, là màu Sắc tượng trưng cho ba tháng mùa thu, là màu da căn bản của người hình kim.
- Màu đen thuộc Thủy là màu Sắc của mùa đông và là màu chíng của người hình thuỷ.
Sau cùng là vàng, màu Sắc tượng trưng cho an lành quanh năm, là màu da căn bản của loại người hình Thổ.

a) Ý nghĩa của từng loại màu trên con người:

Theo kinh nghiệm tích luỹ lâu đời của cổ nhân, người ta thấy bình thường mỗi một màu xuất hiện bất chợt trên các bộ vị của một cá nhân có ý nghĩa riêng biệt như sau:
- Màu Xanh chỉ về lo lắng, kinh hiểm, tật ác, trở ngại tiểu nhân nhục nhã
- Màu Đỏ chỉ khẩu thiệt thị phi, quan tụng, tù ngục phá tài, tật bệnh hung Tai.
- Màu Đen chỉ thủy ách. Hao phá, mất chức chết chóc.
- Màu Trắng chỉ hình khắc thiếu phục tật bệnh.
- Màu Hồng (đôi khi là Tía) chỉ các sự ngẫu nhiên đắc tài, đắc lợi may mắn ngoài ý liệu.
- Màu Vàng chỉ vui vẻ tài lộc thăng tiến, bình an may mắn.


Tuy vậy, các ý nghĩa trên không phải là định lệ bất di bất dịch. Trong thực tế, việc phân định và giải đoán ý nghĩa của Sắc vô cùng phức tạp vì mỗi loại Sắc có liên hệ chằng chịt xa gần với nhiều dữ kiện khác.
Sách Quy giám đã từng nói "vui buồn may rủi đều có thể hiện lên khuôn mặt qua Khí Sắc. Sắc phân ra lớn nhỏ, dài ngắn, cao thấp, rộng hẹp tùy thời cải biến hoặc xấu hoặc tốt, hay khô hay nhuận. Khởi nguyên của Khí ở ngũ tạng, Sắc bắt nguồn từ Khí, ban ngày hiện ra ơ ngoài. Cái dụng của Sắc còn tuỳ theo thời gian, Khí hậu. Sắc hiện ra có khi lớn như sợi tóc, nhỏ như sợi lông con tằm, dài như sợi lông, ngắn như chiều dài hạt tấm. Thế của Sắc có tính thịnh suy. Cho nên cần phải phối hợp thời gian, Khí hậu, Ngũ hành mà quan sát. Trong các loại Sắc, Sắc đỏ rất khó quan sát cho chính xác. Hay do nội tạng, hỏa vượng mà mặt đỏ, hay do đột nhiên cảm cúm mà mặt đỏ, hay do uất ức mà mặt đỏ. Chỉ đỏ Sắc tự nhiên, thiên bẩm hay vô bệnh tật mà phát sinh ra mới thật là Sắc đỏ của tướng học. Về thời gian, ít ra nó phải xuất hiện ở một bộ vị nhất định cả ngày mới có thể lấy làm căn cứ mà đoán tật bệnh cát hung, quan gia sự vận.

Nói tóm lại, biểu ý nghĩa đặc thù của từng loại Sắc chưa đủ để đoán mà còn phải lồng vào ý nghĩa đơn độc của nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp của nó :

- Sự lớn rộng hay hẹp của một khu vực xuất hiện Sắc.
- Tính cách Thanh Trọc của Sắc
- Hư Sắc hay thực Sắc.
- Bộ vị xuất hiện.
- Phối hợp hay không với màu da tổng quát căn bản của từng loại người(Ngũ hành hình tướng)
- Phối hợp hay không phối hộp với màu Sắc từng mùa
- Rõ ràng hay mờ ảo, thường trực hay bất chợt.
- Đơn thuần hay tạp Sắc. . .

Chẳng hạn, màu đen tuỳ theo định nghĩa thông dụng là một màu xấu nhưng nếu thấy xuất hiện ở người hình Thuỷ trong ba tháng mùa đông là đặc biệt lại ở Địa cát, với Sắc thái tươi bóng lại là một màu tốt, đặc biệt chủ về khang kiện và phát tài.
Màu đỏ tuy là màu chỉ về thị phi, quan tụng nhưng nếu người hình Kim trong ba tháng hè, Sắc tươi tắn không hỗn tạp mà lại hanh thông. Nếu vẫn ở cá nhân trên mà trong đỏ lại pha lẫn đen thành màu huyết dụ thì lại chủ về hung hiểm khó tránh: pha lẫn màu xanh hay vàng mà vẫn Thanh*(nghĩa là màu Sắc tươi tốt về hình thái) Sắc thì tùy Tai ương vẫn có nưhng mức độ nguy hại giảm thiểu đến tối đa, rốt cục không có gì đáng ngại, Từ đó, ta co thể áp dụng lối suy luận trên vào các màu khác.

b) Quy tắc tổng quát về cách đoán Sắc:
Trong phép đoán Sắc ta không cần quá câu nệ vào ý nghĩa riêng rẽ của từng màu mà cần phải để ý đến ý nghĩa kết hợp của nó trong một bối cảnh chung. Ngoài các yếu tố kể trên, ta cần phải phân biệt một vài điểm quan trọng trước khi lưu ý đến ý nghĩa của từng loại Sắc. Đó là :

1- Hư Sắc và thực Sắc :
Hư Sắc là trường hợp Sắc và Khí không tương hợp, chỉ có Sắc hiện ra ở ngoài da, mà phía dưới da không có Khí. Để hiểu ta có thể ví hư Sắc với vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớthành ra nhìn vào vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớp da lên cây, thành ra nhìn vào vết đó trên thân cây, ta không thể biết được chất nhựa chu lưu dưới lớp vỏ cây ra sao. Trường hợp này cũng còn gọi là hữu Sắc vô Khí.

Trái lại, thực Sắc là màu da thực sự của vỏ cây, nó phản ánh trung thực chất vỏ cây chu lưu ở trên lớp vỏ cây. Tùy theo chất nhựa sung mãn hay khiếm hụt, màu Sắc của vỏ cũng biến chuyển theo.
Trong tướng học chỉ có thực Sắc mới đáng lưu tâm còn hư Sắc không đáng kể.

2- Vương Sắc trệ Sắc, hoại Sắc.
Vương Sắc: màu thuộc loại chính cách, sáng sủa phân bổ đều khắp các bộ vị quan sát, phù hợp với thời gian tối thuận của nó. Vương Sắc đắc cách phù hợp với từng loại hình tướng là dấu hiệu tốt.
Trệ Sắc: màu xuất hiện đúng chỗ, đúng lúc nhưng phẩm chất xấu hay phân phối không đều đặn (hay lốm đốm, hay chỗ chậm chỗ nhạt)
Trong tướng học nói đến vương Sắc và trệ Sắc là người ta chú ý đến màu Sắc chính yếu trên khuôn mặt hay các bộ vị chính yếu.
Như danh xưng của nó, trệ Sắc chủ về các loại bất tường tiềm ẩn sắp bộc phát.
- Kim trệ: da mặt hiện ra Sắc trắng bệch và khô như mặt đất bị mốc là điềm báo trước về sự cùng khốn, ngưng trệ của của cải.
- Mộc trệ: Khuôn mặt xanh xao, u ám chủ về bệnh tật, Tai họa.
- Thủy trệ: toàn thể các bộ vị chính trên mặt, nhất là hai Tai, mờ ảo như khối ám là dấu hiệu tiềm ẩn chủ yếu về quan trung thị phi.
- Hỏa trệ: mặt nổi màu đỏ trông khô héo là điểm hao tổn tiền bạc.
- Thổ trệ: màu da mặt vàng lốm đốm không đều, không sáng như màu nghệ khô, là triệu chứng nội tạng bệnh hoạn, công việc khó thành.

Hoại Sắc: xuất hiện trái thời gian, sai bộ vị hay pha trộn nhiều màu Sắc tương khắc.

Tranh Phong Thủy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sắc Trong Tướng Học

Ý nghĩa của sao Quan Phủ

Sao Quan Phủ có ý nghĩa giống sao Quan Phù, tuy nhiên không hội chiếu với Thái Tuế. Chính vì điều này mà có thể phân biệt điểm khác biệt giữa Quan Phủ - Quan Phù.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa của sao Quan Phủ

Ý nghĩa của sao Quan Phủ

Hành: Hỏa

Loại: Phù Tinh, Hình Tinh

Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén

Phụ tinh. Là sao thuộc vòng Lộc tồn - 17 sao là Lộc tồn, Kình dương, Đà la, Quốc ấn, Đường phù, Bác sĩ, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân, Tấu thư, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ.

Sao Quan Phủ có ý nghĩa giống sao Quan Phù, tuy nhiên không hội chiếu với Thái Tuế. Chính vì điều này mà có thể phân biệt điểm khác biệt giữa Quan Phủ - Quan Phù.  

Ngoài các ý nghĩa tương tự sao Quan Phù, sao Quan Phủ nếu đồng cung (hội chiếu) với Thái Tuế sẽ khiến việc khiếu kiện, việc công vô cùng trắc trở, đặc biệt là kiện tụng, đấu tranh pháp lý...

Quan Phủ chủ khẩu thiệt thị phi không nên gặp thêm Hóa Kị hoặc Thiên Hình càng rắc rối nhất là đối với vận hạn. Không gặp Hình Kị tự nó vô lực. Có câu phú:

"Quan Phủ Thái Tuế một miền 

Đêm ngày chầu chực cửa công mỏi mòn"

Căn cứ vào câu phú trên đây thì gặp Thái Tuế còn nặng hơn Hình Kị. Quan Phủ thuộc Hỏa


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của sao Quan Phủ

Sự thật về các oan hồn ở bệnh viện

Xe hồng thập tự vừa đưa xác người chết xuất viện về quê… việc nầy đối với các Bác sĩ thì chẳng là gì! Nhưng với người bình thường vừa đến đây có cảm giác lành lạnh sờ sợ,
Sự thật về các oan hồn ở bệnh viện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Oan hồn, hồn ma, ma, cô hồn gọi chung là “ma”:

Bàn đến “ma”, “hồn ma bóng uế” đối với Phật giáo là việc không tưởng! Người Phật giáo cũng không tin là có ma. Phật giáo quan niệm ma là những nghiệp lực, chướng duyên cản trở quá trình tu chứng của người đệ tử đức Phật, như: ma tiền tài, ma danh vọng, ma sắc đẹp, ma ngủ nghỉ, ma ngũ dục… chứ không có vấn đề ma nhác, ma hiện hình cho người đời thấy, ma báo mộng, đưa tin…

Theo từ điển Việt Nam của Thanh Nghị thì hồn ma, oan hồn là bóng hình quái dị của người đã chết mà lắm người tin rằng có thể hiện ra. Như nói “ma da” là ma dưới nước, oan hồn, ma xó, cô hồn. Hồn ma là sự ám ảnh đối với người sống, “hồn ma” là hiện tượng mà mọi người tin là có, hoặc có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và “hồn ma” có thể xuyên qua khe hở, qua cửa, qua tất cả vật thể để đến với người sống, lúc bấy giờ người sống gọi là “ma nhác”. Câu chuyện “ma” là câu chuyện vô cùng hấp dẫn, nói mãi không hết chuyện “ma”. Người sợ “ma” bao nhiêu thì thích nghe nói chuyện “ma” bấy nhiêu… Thật ra “hồn ma” là một hiện tượng “vô thể” đối lập với “hữu thể”!

Như người bệnh mới vừa bị cưa mất khúc chân, người đó vẫn còn cảm giác bên khúc chân bị cưa mất về sự đau đớn, nhức nhối. Sự đau đớn nhức nhối ở khoản không bên khúc chân vừa bị cưa mất gọi là “chân ma”.

Nghe nói có người chết trên giường bệnh trong một bệnh viện lớn, vắng vẻ, xe hồng thập tự vừa đưa xác người chết xuất viện về quê… việc nầy đối với các Bác sĩ thì chẳng là gì! Nhưng với người bình thường vừa đến đây có cảm giác lành lạnh sờ sợ, khi vào bên trong đi ngang các phòng bệnh, nghe chuyền tai nơi đây hôm qua có người chết vừa đem ra khỏi giường… Cái cảm giác có người chết nằm trên giường, hôm qua còn người nằm, hôm nay không còn người nằm, liền nảy sanh sợ chỗ đó gọi là “sợ hồn ma bóng uế”.

Đối với các tôn giáo:

Nói đến ma, hồn ma, oan hồn, mọi người tiến bộ trên hành tinh nghĩ ngay đến tôn giáo, chỉ có những người làm công tác tôn giáo mới hóa giải vấn đề hồn ma. Một số tôn giáo và nền văn hóa dân gian quan niệm, con người gồm thể xác (mang tính chất vật chất) và linh hồn (mang tính chất phi vật chất). Khi thể xác chết, linh hồn xuất khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có con người sẽ gọi là “ma”, “hồn ma”; nhưng nếu các phần phi vật chất đó tương tác với cõi thực của con người theo tình cảm, theo trách nhiệm được giao của các tôn giáo thì lại gọi là “hồn”, “linh hồn”, “thánh”, “thần”, “thiên sứ”.

Theo Phật giáo:

Con người, nói chung là chúng sanh sau khi chết, không có một linh hồn, oan hồn nào tồn tại sau khi thân ngũ uẩn tan rã! Thân chúng sanh gọi là thân ngũ uẩn hay ngũ ấm, gồm có sắc, thọ, tưởng hành và thức: sắc dụ cho máu thịt gân xương v.v… và tâm (thọ, tưởng, hành, thức) dụ cho tâm thức, sự hiểu biết tạo ra nghiệp lực, hình thành một con người.

Có thể hiểu cách khác: thân người gồm có đất, nước, lửa, gió (là máu, thịt, gân, xương), tâm là thức đại, không đại (là sự hiểu biết); sau khi qua đời, đất, nước, lửa, gió được trả về với đất, nước, lửa, gió; thức đại, không đại được trả về với hư không và sau 49 ngày tái sanh theo nghiệp lực đã tạo. Như vậy, không còn gì ở lại thế gian nữa, làm gì có hồn ma hay oan hồn?

Việc cúng cầu siêu cho hương linh người qua đời, ngày kỵ giổ mời ông bà về thọ hưởng là đứng về mặt tín ngưỡng tưởng niệm người quá cố. Tưởng niệm không phải tin rằng có linh hồn tồn tại sau khi chết, tưởng niệm nói lên đạo đức của người con Phật, không quên ân sâu nghĩa nặng của cửu huyền thất tổ, ông bà cha mẹ, quá thế nhiều đời, cũng như cha mẹ tại tiền. Tưởng niệm cũng chính là để đáp ân sanh thành dưỡng dục của người con Phật mà thôi, hoặc cúng thí thực cho các “oan hồn” được siêu thoát là vì phát huy lòng từ thiện: người chết còn nghĩ đến huống gì người đói nghèo!

Con người hình dung về hồn ma:

Cho đến nay, hồn ma vẫn là bí ẩn đối với nhân loại, có những câu chuyện hư cấu về hồn ma, nhưng cũng không thể kết luận được có phải hư cấu hay không. Sự bí ẩn của hồn ma xuất phát từ giới hạn tri thức và hiểu biết của con người (nói chung) và các nhà khoa học (nói riêng).

Hồn ma thường được miêu tả là một dạng người, nhưng thông thường là “trắng bạc”, “cái bóng lờ mờ”, “nửa trong suốt”, hay “tựa như sương mù”, “đống đen thùi lùi”. Hồn ma không có cơ thể sống như con người, hoặc chỉ là bộ xương người biết đi. Xã hội của các oan hồn theo nhiều người là “âm phủ” còn chỗ ở của hồn ma là cái mộ (sống cái nhà, thác cái mồ) vì vậy họ xây dựng nhà mồ rất đẹp có nhiều nghĩa địa khang trang như một thành phố. Nhưng hồn ma cũng có thể vương vất ở những nơi tăm tối, vắng vẻ nơi có liên quan đến họ khi còn sống.

Ở một số tín ngưỡng dân gian:

Người có “duyên” với hồn ma mới có thể nhìn thấy hồn ma hoặc chỉ những người có khả năng đặc biệt còn gọi là các nhà ngoại cảm là có thể thấy và tương tác với hồn ma. Nhiều người cho rằng oan hồn (ma) có khả năng biết tất cả những gì người sống nghĩ, có khả năng biết được các việc đã, đang và sắp xảy ra, hoặc có khả năng tác động lên thể xác, lời nói của người sống như hiện tượng lên đồng, tác động lên cảm quan người sống như dắt người sống đi lạc vào bụi, xúi người sống ăn đất mà tưởng ăn bánh hoặc hồn ma có thể tác động lên vật chất như tạo ra tiếng động, tắm trong nhà tắm nữa đêm, rung cây, xô lệch bàn ghế…

Oan hồn theo nghĩa đen tức là người chết không do từ một nguyên nhân cố định (bệnh chết, già chết) như xe đụng hết, bị lạc đạn chết, bị chết vì nước, lửa, lốc xoáy… gọi là chết oan, chết tức tửi. Người chết không có người cứu, không có người tụng kinh, đưa linh, nên người đời gọi đó là những oan hồn, còn ẩn khuất đâu đây chưa siêu thoát. Cứ nghĩ như thế mãi theo thời gian và cho rằng người chết đó không siêu thoát nên thành “ma đói, ma ngã ba đường cái, ma oán, oan hồn, cô hồn”.

Lời khuyên:

Bạn có thấy những oan hồn, nghe những sinh hoạt của oan hồn, nghe tiếng nước chảy trong bồn tắm, nghe trong người của Bạn có hiện tượng khác, ngầy ngật, ợ ngáp, khó thở… đó là do nghiệp thức của Bạn cảm ứng.

Người đời nói chuyện “hồn ma” vì thấy có “hồn ma”. Khi các Bạn nghĩ đến ma, thấy ma, nói chuyện ma, nghi có ma ở nơi nào đó thì Bạn cảm thấy sợ sệt, nhất là những nơi vắng vẻ… Theo Sư thì hôm nay chúng ta sợ “ma sống” hơn là “ma chết”, “ma xã hội đen” đấy Bạn ạ!

Về đạo đức tâm linh, Bạn niệm thần chú Vãng sanh, thần chú thất Phật diệt tội chân ngôn (Thập chú trong kinh Nhựt Tụng), Bạn chỉ còn thấy đức Phật, Bồ Tát, nên không còn thấy “hồn ma bóng uế” nữa!

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự thật về các oan hồn ở bệnh viện

Đại vận 10 năm trong lá số tử vi của bạn (P1 Thiên thời)

Đại vận hay đại hạn trong lá số tử vi là chỉ cát hung họa phúc trong 10 năm của mỗi người. Đại hạn mà khá thì cũng như có cái gốc khá kéo tiểu vận tốt lên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại vận trong lá số tử vi là chỉ cát hung họa phúc trong 10 năm của mỗi người. Trong lá số tử vi đại vận được ghi rõ mang các con số ở góc phải trên cùng của mỗi cung.

Thí dụ: Đại vận ở cungThê số 22, là Đại vận trong thời gian từ 22 đến 31 tuổi.

Đại vận 10 năm, chủ vào 10 năm của cuộc đời.Đại vận mà khá thì cũng như có cài gốc khá,tiểu vận có kém cũng được khá theo và tiểu vận mà khá thi lại càng khá nhiều. Ngược lại, Đại vận mà kém thì tiểu vận có những sao tốt, cũng không thể tốt như ý muốn. Càng bởi thế, tÍnh vận hạn, ta không nên ngạc nhiên rằng năm Thân lần trước sao ta khá thế, mà năm Thân lần này, sao ta lại quá dở, đó là vì Tiểu vận phải tùy theo Đại vận.


Các yếu tố để tính Đại vận trong tử vi gồm có Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Thời.

1. Thiên thời

Được Thiên Thời là được vận tốt, nói chung, và không kể đến chi tiết. Người được Thiên Thời tốt thì được ăn trên ngồi trước, người người quý mến, dù gặp trường hợp xấu vẫn hơn người đồng cảnh. (Thí dụ như gặp Thiên Thời mà phải ở tù thời cũng là tù cha, tù chú, anh em cung phụng, cai tù nể sợ) và mọi việc làm đều được hanh thông.

Muốn rõ Thiên Thời tốt xấu, phải đem hành của tam  Đai vân so sánh với hành của tam hớp tuổi (hành của tam hợp tuổi tức là mình).

Thí du: Cung Đại vận ở Thân, thì tam hợp Đại vận là Thân Tý Thìn, thuộc 'Thủy. Tam hợp tuổi của người tuổi Mùi là Hợi Mão Mùi, thuộc Mộc. Tam hợp Đại vận sinh cho tam hợp tuổi, nên ta gọi là sinh nhập.

Sau đây là các trường hợp của Thiên Thời:

- Tốt 1: tam hợp Đại vận cùng hành với tam hợp tuổi (tức là trường hợp cung Đại vận nằm trong tam hợp Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ và có Tứ Linh: Long, Phượng, Hổ, Cái). Đây là Đại vận tốt bậc nhất trong đời.

- Tốt 2: tam hợp Đại vận bị tam hợp khắc (tức là mình khắc ra hay là khắc xuất) vì mình khắc ra được, cho nên minh thắng được hòan cảnh, bằng sự phấn đấu.

Thí du: Tuổi Thân, thuộc Thân, Tý, Thìn, hành Thủy. Gặp Đại vận ở Tuất, là tam hợp Dần Ngọ Tuất, thuộc Hỏa. Mình khắc được Đại vận, tức là mình đạt được những thành quả bằng sự phấn đấu.

- Xấu nhẹ: tam hợp Đại vận được sinh do tam hợp tuổi (tức là tam hợp tuổi bị sinh

xuất). Trường hợp này, đương số gặp những khó khăn, phải chịu mệt nhọc mới có thành quả, hoặc phải thất bại trước sau mới thành, hoặc thất bại luôn phải chờ dịp khác.

Nhưng người tuổi Hợi, tam hợp Hợi, Mão, Mùi, hành Mộc. Hành Mộc sinh cho Đại vận (sinh xuất) khi Đại vận đến một trong 3 cung Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa.

- Xấu vừa: tam hợp Đại vận sinh cho tam hợp tuổi, tức là tam hợp gốc được sinh nhập, ở thế này, có dễ có khó, có thành có bại, tốt xấú đều lãnh đủ: Càng ăn nên làm ra càng gặp xấu, suy tán đến độ mất nghiệp, mất việc làm, mất tàì sản (vì gặp Thiên Không).

Như tuổi Mùi, tam hợp Hợi Mão Mùi (Mộc) đến Đại vận ,Thân và được tam hợp Thân Tý Thìn thuộc Thủy sinh cho, làm ăn tốt nhưng rồi tan vỡ cả!

- Xấu nặng: tam hợp Đại vận khắc tam hợp tuổi, tức là trường hợp mình bị khắc nhập, ơ thế này, đương sế gặp nhiều khó khăn làm ăn không tiến, thua thiệt, thất bại, hay gặp nạn.

Như người tuổi Mùi, tam hợp Hợi Mão Mùi thuộc Mộc, bị tam hợp Đại vận ở Dậu khắc, vì tam hợp Tỵ Dậu Sửu thuộc Kim. Phải gặp những cái tốt khác mới gỡ được thế kẹt.

Bạn có thể xem thêm phần 2 tại : xem đại vận, đại hạn 10 năm trong lá số tử vi P2

Xem Tướng chấm net chúc mọi người năm mới an khang thịnh vượng !


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đại vận 10 năm trong lá số tử vi của bạn (P1 Thiên thời)

Nằm mơ thấy đi xem phim với bệnh đau mắt –

Người đàn bà này là một giáo viên tiểu học tuổi gần 50. Bà ta kể lại một giấc mơ trước khi bà bị chứng đau mắt xanh như sau: - Trước khi đau mắt tôi đã nhiều lần nằm mơ. Từ trước tôi không hề nghĩ đến bệnh tật, mơ nhiều nhưng có thấy bệnh đâu! Bá
Nằm mơ thấy đi xem phim với bệnh đau mắt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy đi xem phim với bệnh đau mắt –

Tìm may mắn cho người tuổi Nhâm Tuất

Tuổi Nhâm Tuất (mệnh Thủy, sinh năm 1982) số vất vả nhưng có quý nhân phù trợ, ăn ở phúc đức sẽ gặp điều lành, trung niên thuận lợi, cuộc sống khá giả nhưng
Tìm may mắn cho người tuổi Nhâm Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời: tinh thần không thoải mái, về già nhiều lộc, con cháu học hành đỗ đạt.

Những tuổi đại kỵ với tuổi Nhâm Tuất nlà: Giáp Tý, Ất Sửu, Canh Ngọ, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Ngọ.

Tính Cách: Là người ôn hòa, tính tình ngay thẳng, công bằng, cương trực, sống có đạo lý thường được mọi người quý mến. Tuổi này thông minh, siêng năng, làm việc cẩn thận, tuy nhiều tham vọng nhưng lại biết kiềm chế nên dễ thành công trong sự nghiệp.

Tình duyên: Tuổi Nhâm Tuất tình duyên thuận lợi, cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc.

Nam sinh vào các tháng: 8, 12; nữ sinh vào các tháng: 4, 9, 12 phải chịu nhiều lỡ dở, buồn phiền trong tình cảm sau mới có hạnh phúc.

Công danh sự nghiệp: Tuổi này sự nghiệp không thuận lợi, đến năm 47 tuổi mới có cơ hội phát triển.

Để công việc làm ăn phát đạt, người tuổi Nhâm Tuất nên kết hợp với các tuổi: Ất Hợi, Mậu Dần, Tân Tỵ.

(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm may mắn cho người tuổi Nhâm Tuất

Lành dữ tướng đất tướng nhà –

Nếu người nào đó có bộ mặt, tướng tay đều thuộc tướng nghèo, nhưng họ lại không bị tai nạn, vô bệnh tật, tài phú không ngừng. Đó là vì sao? Nói rõ ra không có gì lạ cả, chỉ là vì nhà anh ta lành, cũng có nghĩa là tướng nhà và tướng đất của anh ta đều

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu người nào đó có bộ mặt, tướng tay đều thuộc tướng nghèo, nhưng họ lại không bị tai nạn, vô bệnh tật, tài phú không ngừng. Đó là vì sao?

Nói rõ ra không có gì lạ cả, chỉ là vì nhà anh ta lành, cũng có nghĩa là tướng nhà và tướng đất của anh ta đều là tướng lành.

Lành dữ của tướng nhà và tướng đất có ảnh hưỏng rất lớn, một người ở lâu dài trong nhà phúc âm, vận đen đều vượt đươc cả. Ngược lại, một người trước nay gặp việc gì cũng thuận lợi, nếu ở nhà tưóng dữ, vận phúc của anh ta sẽ chuyển sang yếu mỏng.

av

Cho nên tướng nhà và tướng đất có quan hệ đến thịnh suy của vận mệnh một con người.

Người xưa có câu rằng: “Gần đen thì đen, gần đỏ thì đỏ”, đem miếng vải trắng đặt vào chậu thuốc nhuộm đỏ, lập tức miếng vải biến thành vải đỏ. Quan hệ giữa người và nhà ở cũng như vậy, nếu bạn không cẩn thận ở vào hoàn cảnh không tốt, lâu dần chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh mà không tự biết, tóm lại không thể có đất tự bốc, chọn nhà ở không thể không cẩn thận.

Muốn tìm hiểu về dương trạch (tướng nhà) phải hiểu về phương vị hoàn cảnh 4 bên, phương vị 4 bên của ngôi nhà.

4 phưong Đông, Tây, Nam, Bắc, các thầy phong thủy gọi là:

– Phương Đông gọi là: “Rồng xanh” – đại diện cho nước chảy.
– Phương Nam gọi là: “Chu tước” đại diện cho cánh đồng dương khí sung mãn.
– Phương Tây gọi là: “Bạch hổ” đại diện cho hộ vệ giao thông.
– Phưong Bắc gọi là: “Huyền vũ ” đại diện cho sự canh giữ của núi.

Luận về 4 phương lớn Đông, Tây, Nam, Bắc thì:

– Phương Đông phải nước chảy sạch, triệt để.
– Phương Nam cần phải có tầm nhìn rộng.
– Phương Tây phải có đường giao thông.
– Phương Bắc phải có núi bất động. Vì thế hướng Bắc của ngôi nhà, nếu có đỉnh núi, có thể đem lại dinh dưỡng của đại tự nhiên, có thể nuôi dưỡng đại khí xuất hiện.

“Khí lành khó gặp mà dễ tan, khí dữ dễ triệu mà khó tránh”, phong thủy đă cảnh giói như vậy.

Chúng ta cần phải cẩn thận chọn tốt hướng nhà, muốn có nhà lành trước hết phải có tướng đất lành, thích ứng nguyên lý đại khí, bởi vì một hoàn cảnh có tốt, có ảnh hưởng rất lớn đến tính linh, tuổi thọ, trí tuệ của mỗi con ngưòi.

Chọn chỗ tốt ở còn phải xét đến tính an toàn của ngôi nhà, địa thế phụ cận, luồng ánh sáng, luồng khí không khí, tính dễ chịu… của nhà mình.

Hiểu biết tầm quan trọng của nhà ở, cũng phải biết sự quan trọng của mồ mả. Nơi ở là của người sống ở, còn mồ mả là noi an nghỉ của tổ tiên. Thầy phong thủy chỉ ra rằng: Đất đai phần mộ lành mà chỗ ở dữ, cơm cháo của con cháu cũng không đủ, cho thấy rằng chỗ ở là phải cẩn thận nhất.

Giữ được núi xanh ở lại, không sợ không có củi đun, chỉ cần tự mình cố gắng, chọn lựa cẩn thận nơi ở, không có sự hỗ trợ của tiền nhân, cũng có thể làm nên sự nghiệp lớn.

Theo thuyết Ngũ thực ngũ hư:

Nếu có một ngôi nhà xây dựng trên một mảnh đất hình tam giác, thường là không lành, còn gọi là “Nhà quỷ”. Rằng xây dựng trên đất hình tam giác là rất không lành.

Nhà ở liên quan mật thiết đến đời sống hàng ngày, điều kiện thứ nhất cần cho nhà ở là phải được dễ chịu; ở dễ chịu không thể tách rời hoàn cảnh.

Thời cổ đại, các bậc đế vưong xây dựng kinh đô đều phải chọn đất: “Đĩa rồng Hổ cái”, đó không chỉ là phòng thủ chiến tranh, mà còn vì thịnh vượng của vận vua, vì họ hiểu hoàn cảnh địa lý ảnh hưởng trực tiếp đến loài người.
Nếu phối họp hoàn cảnh họp lý, chỗ ở và hoàn cảnh họp lý, cung thất của Hoàng đế đạt “Ngũ thực” thì tất nhiên sẽ ngày càng phú quý.

Nếu phối họp hoàn cảnh không tốt, chỗ ở và hoàn cảnh không hiệp đồng nhất trí vói nhau, cung thất của Hoàng đế đạt “Ngũ hư”. Nhà ngũ hư tất nhiên sẽ ngày càng nghèo đói.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lành dữ tướng đất tướng nhà –

Đoán vui tên chữ T và vận số (P1)

Mỗi cái tên là một tính cách khác nhau, một số phận khác nhau.
Đoán vui tên chữ T và vận số (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tá: Hiền hậu, đa tài, hoạt bát. Trung niên vất vả nhưng thành công, hưng vượng, có con muộn mới cát tường.

Tả: Tài trí, gan dạ, có học thức, cả đời thanh nhàn, vinh hoa phú quý, số kỵ xe cộ, tránh sông nước.

Tạc: Cả đời vất vả, số cô độc, trung niên càng vất vả, về già được hưởng lộc.

Tác: Số vất vả, khắc bạn đời, hiếm muộn con cái, trung niên phát tài, phát lộc, cuối đời vất vả.

Tại: Tính cách quyết đoán, số bôn ba vất vả. Trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời phát tài, phát lộc, danh lợi song toàn.

Tái: Đa tài, nhanh trí, có quý nhân phù trợ. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc. Nếu là nữ thì bạc mệnh, lắm tai ương.

Tài: Nhanh trí, số thanh nhàn, phú quý, thành công rộng mở, gia cảnh tốt.

Tâm: Ôn hòa, hiền hậu, có phẩm chất tốt. Trung niên tuy vất vả nhưng gặp nhiều may mắn, cuối đời vất vả.

Tam: Số cô độc, lúc nhỏ vất vả, ra ngoài được tài lộc, trung niên khó khăn, về già vinh hoa phú quý.

Doan vui ten chu T va van so (P1) hinh anh
Tên chữ T

 

 

Tân: Đa tài, lanh lợi, có số thanh nhàn phú quý, kỵ xe cộ, tránh sông nước. Trung niên cát tường, thành công hưng vượng.

 

Tấn: Là người anh minh, thanh tú, tính cách ôn hòa, hiền hậu, có số xuất ngoại. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc nhưng gặp nhiều trắc trở trong tình cảm.

Tăng: Đa tài, hiền hậu, cuộc đời thanh nhàn, phú quý, nên sinh con muộn sẽ tốt hơn, cuối đời hưng vượng, gia cảnh tốt.

Tặng: Nhanh nhẹn, đa tài, số nhàn hạ, phú quý, trung niên thành đạt, gia cảnh tốt, nếu kết hôn muộn sẽ gặp đại cát.

Tào: Là người tài giỏi, cuộc đời an nhàn, kết hôn muộn thì đại cát, trung niên vất vả, cuối đời hưng vượng.

Tảo: Gia cảnh tốt, cuộc đời nhàn hạ, nếu có 2 con thì được cát tường. Cuối đời ưu tư, vất vả.

Táo: Phẩm chất đôn hậu, lương thiện, gia cảnh tốt, số thanh nhàn, nam giới có 2 vợ, trung niên vất vả.

Tạo: Có dáng vẻ thanh nhàn, đa tài, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng, phúc lộc song hành,  xuất ngoại sẽ cát tường.

Tập: Bản tính nhanh nhẹn, thông minh, cần kiệm, lập nghiệp thành công, hưng vượng. Là phụ nữ thì bất hạnh, lắm tai ương hoặc đoản thọ.

Tất: Cơ thể yếu, bôn ba vất vả, xuất ngoại cát tường, hôn nhân hạnh phúc, sự nghiệp như ý.

Tất: Số sát bạn đời, khắc con cái, hay thất bại trong tình yêu, cuối đời hưởng phúc.

Tẩu: Số nay đây mai đó, nam có 2 vợ, trung niên vất vả, cuối đời hưởng phúc.

Tuyên: Tri thức uyên thâm, trí dũng song toàn, số thanh nhàn, phú quý. Cuối đời thành công hưng vượng, có số làm quan.

Tuyền: Tính cách điềm đạm, là người tài năng, số thanh nhàn, phú quý. Trung niên thành công, cuối đời hay phiền muộn.

Tuyết: Số bạc mệnh, tái giá hoặc quả phụ, đoản thọ, trung niên cẩn thận lắm tai ương, cuối đời cát tường.

Tỳ: Dáng vẻ thanh nhàn, đa tài, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng. Có 2 con thì được hưởng phúc lớn.

Tỷ: Là người hoạt bát, kiên trì lập nghiệp. Trung niên phát tài, phát lộc, cuối đời hưởng vinh hoa phú quý.

Tỵ: Trường thọ, trung niên gặp nhiều may mắn, cuối đời ưu tư, nghĩ nhiều hoặc chán chường.

Theo Tên hay thời vận tốt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán vui tên chữ T và vận số (P1)

Top những con giáp phải vất vả kiếm tiền –

Những con giáp nào phải vất vả kiếm tiền? Mong muốn kiếm được bội tiền của người tuổi Mão vô cùng lớn nhưng họ lại thiếu động lực và sợ mạo hiểm, do đó thường để tuột nhiều cơ hội làm giàu. Các tuổi khác thì sao? củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những con giáp nào phải vất vả kiếm tiền? Mong muốn kiếm được bội tiền của người tuổi Mão vô cùng lớn nhưng họ lại thiếu động lực và sợ mạo hiểm, do đó thường để tuột nhiều cơ hội làm giàu. Các tuổi khác thì sao? củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bàu viết sau để biết củ thể nhé!

Nội dung

  • 1 Top những con giáp phải vất vả kiếm tiền
    • 1.1 Thứ 1. Tuổi Sửu
    • 1.2 Thứ 2: Tuổi Tuất
    • 1.3 Thứ 3: Tuổi Tỵ
    • 1.4 Thứ 4: Tuổi Mão
    • 1.5 Thứ 5: Tuổi Hợi

Top những con giáp phải vất vả kiếm tiền

Thứ 1. Tuổi Sửu

Suu-1970-1411082810

Người cầm tinh con trâu tuy chất phác nhưng lại khái tính, cố chấp và bướng bỉnh. Họ “đơn thân độc mã” xây dựng sự nghiệp cho mình chứ không thích tìm sự trợ giúp từ phía gia đình và bạn bè.

Con giáp này hơi phiến diện khi cho rằng bản thân mạnh mẽ, có thể chống đỡ và vượt qua mọi khó khăn mà không cần bất cứ sự giúp đỡ nào từ mọi người xung quanh. Do đó, lúc nào họ cũng gồng mình lên để làm việc và kiếm sống.

Thứ 2: Tuổi Tuất

Tuat-7659-1413270105

Vốn là người có tinh thần trách nhiệm cao trước gia đình và bạn bè, người tuổi Tuất thường chủ động gánh vác công to việc lớn và tự tạo áp lực tâm lý cho mình. Tuy nhiên, tinh thần trách nhiệm ấy lại hơi quá đà nên lúc nào con giáp này cũng phải nỗ lực hết sức, chật vật làm việc khiến mọi người hài lòng. Dù cho họ có kiếm được bội tiền thì tinh thần và trí lực đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Thay vì kiếm tiền chật vật, người tuổi Tuất nên suy nghĩ phóng khoáng hơn, đừng ràng buộc bản thân bởi lòng tự trọng thái quá của mình.

Thứ 3: Tuổi Tỵ

2-8658-1411381613

Đa nghi là bản tính khó thay đổi của người tuổi Tỵ. Vì hoài nghi người khác làm không tốt hoặc chống đối mình nên con giáp này muốn tự tay làm mọi chuyện để yên tâm. Từ việc nhỏ tới việc lớn, họ ôm đồm quá nhiều khiến cuộc sống trở nên áp lực, căng thẳng. Ngoài ra, công cuộc kiếm tiền của họ vô cùng chật vật và vất vả.

Nếu muốn kiếm tiền dễ dàng và thuận lợi hơn, người tuổi Tỵ nên tin tưởng mọi người xung quanh và tin vào chính sự lựa chọn của mình. Như vậy bạn mới có nhiều thời gian để chăm chút cho bản thân và tận hưởng cuộc sống.

Thứ 4: Tuổi Mão

mao-8757-1408665021

Mong muốn kiếm được bội tiền của người tuổi Mão vô cùng lớn nhưng họ lại thiếu động lực và sợ mạo hiểm, do đó họ thường để tuột mất nhiều cơ hội làm giàu. Vì quá thận trọng và thiếu sự quyết đoán nên con đường kiếm tiền, xây dựng sự nghiệp của con giáp này khá vất vả.

Muốn thay đổi được vận mệnh của mình, người tuổi Mão nên quyết đoán hơn nữa và bắt tay vào hành động ngay kẻo muộn.

Thứ 5: Tuổi Hợi

hoi-7700-1411775212

Mọi người thường cho rằng người tuổi Hợi có số mệnh giàu sang nên không phải lo lắng, vất vả kiếm sống. Thực tế trái ngược, họ cũng phải kiếm tiền khá khó khăn. Nguyên nhân quan trọng là do tầm nhìn hạn hẹp của họ.

Người tuổi Hợi chỉ quan tâm tới lợi ích nhỏ bé trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài nên phải nỗ lực hết lần này tới lần khác mới có được một vài thành công đáng kể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top những con giáp phải vất vả kiếm tiền –

Chuyện đời tư ít biết của gian hùng Lưu Bị

Chỉ ở phương diện sắc và tình, người ta mới thấy một con người hoàn toàn khác với sử sách lẫn tiểu thuyết của Lưu Bị.
Chuyện đời tư ít biết của gian hùng Lưu Bị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lưu Bị cũng là người sáng lập nên nhà Thục Hán thời Tam Quốc, sử sách thường gọi là Chiêu Liệt Đế. Sau khi kết nghĩa anh em tại vườn đào, Trương Phi và Quan Vũ đều giết chết vợ của mình rồi bỏ theo Lưu Bị mong dựng nghiệp lớn.

Câu nói nổi tiếng: “Bạn bè như chân tay, vợ con như quần áo” chính là câu nói từ miệng của Lưu Bị mà ra. Có thể nói, trong mắt Lưu Bị, vợ con chẳng qua là một thứ đồ vật tùy lúc có thể mặc vào cởi ra mà thôi… Lưu Bị tự là Huyền Đức, người quận Trác, nay là tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, hậu duệ một nhánh xa của hoàng tộc nhà Đông Hán. Lưu Bị cũng là người sáng lập nên nhà Thục Hán thời Tam Quốc, sử sách thường gọi là Chiêu Liệt Đế.

Từ nhỏ, nhà nghèo, sau khi lớn lên gia nhập quân đội triều đình trấn áp khởi nghĩa Khăn vàng. Sau đó, nhờ sự giúp sức của Gia Cát Lượng, Lưu Bị hợp lực cùng Tôn Quyền đánh bại quân Tào Tháo ở Xích Bích, chiếm được Kinh Châu, Ích Châu và Hán Trung. Năm 221, Bị xưng đế, định đô ở Thành Đô. Một năm sau đó, trong trận chiến Ngô Thục, quân Bị thua trận, không lâu sau đó, Bị chết.

Lưu Bị là người huyện Trác, quận Trác, tự xưng là hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, con của Hán Cảnh đế. Lưu Bị liên tục nói về mình như vậy, cứ gặp người là nói vậy, sử sách cũng cứ như vậy mà ghi về Bị. Còn về chuyện có thực hay không thì chẳng có ai biết. Những người ưa thích “Tam Quốc diễn nghĩa” đều nghe rất quen câu này của Lưu Bị: “Tại hạ Lưu Bị, hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng”. Thực tế, chẳng có ai muốn hỏi Lưu Bị là hậu duệ, con cháu của ai, vì vậy, cách nói đó của Lưu Bị quả thực rất thừa và vô duyên.

Tuy nhiên, đi đâu Lưu Bị cũng chỉ có một cách nói như vậy. Điều này chứng tỏ, xuất thân nghèo khổ đã khiến Lưu Bị phải đau đầu rất nhiều. Lưu Bị từ nhỏ đã mồ côi cha, cùng mẹ đan chiếu bán để sống qua ngày. Bên cạnh căn lều cỏ của mẹ con Lưu Bị ở có một cây dâu, nhìn từ xa trông giống như một chiếc xe có lọng che.

Những người khách đi qua đây nhìn thấy hình dáng của cái cây này đều lấy làm kỳ lạ, nói rằng ở đây hẳn có quý nhân. Khi Lưu Bị chơi với chúng bạn ở dưới gốc cây nói: “Sau này ta sẽ đi một chiếc xe sang trọng như vậy”. Thời bấy giờ, xe có lọng là loại xe dành cho hoàng đế, vì vậy, chú của Lưu Bị là Lưu Tử Kính mới quát Lưu Bị rằng: “Mày ăn nói lung tung như vậy định hại chết cả gia đình chúng ta hay sao?”. Từ nhỏ, Lưu Bị đã không thích đọc sách, học hành cả ngày chỉ thích chơi với chó, ngựa, đàn hát và mặc quần áo đẹp.

Lưu Bị cao 7 thước 5 tấc (hơn 2 mét), tay dài quá đầu gối, ngoảnh đầu lại có thể nhìn thấy tai của mình, không thích nói, vui buồn không ai hay. Lưu Bị là người thích kết giao với những kẻ hào hiệp. Vì vậy, Trương Thế Bình, Tô Song Kha, các thương nhân nổi tiếng ở Trung Sơn đều bị kẻ “hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương” cuốn hút, cho rằng ông ta là kẻ không hề tầm thường nên đã cung cấp Lưu Bị không ít tiền bạc.

Với số tiền của được cung cấp, Lưu Bị đã mua một đôi binh mã bắt đầu thực hiện kế hoạch tranh đoạt thiên hạ của mình. Thời đại Tam Quốc là thời đại của những kẻ gian hùng. Tuy nhiên, khác với Tào Tháo và Tôn Quyền có sẵn một cơ sở vững chắc do thế hệ trước để lại, Lưu Bị dựng nghiệp từ hai bàn tay trắng. Tất cả gia sản của Lưu Bị chỉ là cái danh “hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng”.

Lưu Bị không phải là một kẻ háo sắc đến cuồng loạn, do vậy trong sử sách rất ít nói đến chuyện tình ái của ông ta. Tuy nhiên, Mạnh Tử có nói: “Thực, sắc, tính dã”, nghĩa là chuyện ham muốn ăn uống và tình dục là bản năng của con người. Lưu Bị cũng không phải ngoại lệ và chỉ ở phương diện sắc và tình, người ta mới thấy một con người hoàn toàn khác với sử sách lẫn tiểu thuyết của Lưu Bị.

Những người thích Tam Quốc hẳn ai cũng nhận thấy rằng, Lưu Bị có một đặc điểm rất xấu đó là đánh được thì đánh, không đánh được ắt chạy thoát thân thục mạng, tính mệnh của vợ, của con đều quên sạch. Riêng nói về trình độ chạy trốn, tần suất và cả sự nhếch nhác thì ngay đến cả tổ tiên của Lưu Bị là Hán Cao Tổ Lưu Bang có sống dậy cũng phải chấp nhận là “hậu sinh khả úy”.

Trong cả sử sách lẫn “Tam Quốc diễn nghĩa” có thể thống kê được ít nhất 4 lần Lưu Bị có hành động không được xứng tầm với một đại anh hùng, vứt bỏ vợ con, chạy lấy thân mình. Lần thứ nhất là vào năm Kiến An thứ nhất, khi đó Lưu Bị vừa tiếp nhận ấn soái Từ Châu. “Viên Thuật tới tấn công tiên chủ, tiên chủ chống lại ở Hu Di, Hoài Âm,…” Lưu Bị đành để Trương Phi ở lại phòng thủ Hạ Phì còn bản thân mình thì đem quân chống lại Viên Thuật. Kết quả Tào Tháo cấu kết với Lã Bố tấn công Hạ Phì, “Bố bắt vợ con tiên chủ làm tù binh”.

Lưu Bị không còn cách nào, chỉ còn cách đồng ý giảng hòa cùng Lã Bố, “Bố mới thả vợ con (Lưu Bị) về”. Tới năm Kiến An thứ ba, do cuộc tấn công của Lã Bố ở Từ Châu, Lưu Bị chỉ còn biết đóng quân ở đất Tiểu Bái. Trong thời gian này Lưu Bị những muốn tập hợp lực lượng tìm Lã Bố trả thù. Không ngờ rằng lần tái chiến này lại tiếp tục gặp phải thất bại đành chạy đến chỗ Tào Tháo. Tào Tháo đối đãi ông ta cũng chẳng bạc, phong ông ta làm Dự Châu mục.

Nhưng Lưu Bị không cam tâm, chuẩn bị tới huyện Bái để thu thập tàn quân, những mong rửa mối nhục cũ. Tào Tháo cũng ủng hộ, cấp cho Lưu Bị quân lương, phái quân đội theo ông ta tìm Lã Bố phục thù. Kết quả là Lưu Hoàng thúc không chịu thua kém ai lại bị bại dưới tay bộ tướng của Lã Bố là Cao Thuận. Cao Thuận “lại bắt được vợ con tiên chủ đưa về cho Lã Bố”.

Cuối cùng chính Tào Tháo phải thân chinh đánh Lã Bố. Sách “Tam Quốc chí” chép: “Tào công tự mình thân chinh, giúp tiên chủ vây Lã Bố ở Hạ Phì, bắt sống được Bố”. Chỉ tới lúc này, Lưu Bị mới có thể đem vợ con về. Đó là lần thứ hai. Sau đó hai năm, đến năm Kiến An thứ 5, Lưu Bị không cam tâm dưới trướng Tào Tháo, mượn cớ Viên Thuật mâu thuẫn với Tào Tháo mà đánh chiếm Hạ Phì vốn đã thuộc về Tào Tháo.

Tào Tháo không thể tha thứ bèn đem quân đánh Bị. Hoàng thúc lần này lại thêm một lần mất mặt. Chưa giao chiến, chỉ mới thấy cờ quân Tào đã hoảng sợ không còn con đường lựa chọn nào khác “bỏ dân mà chạy”. Kết quả là Tào Tháo lại “bắt được thê tử của tiên chủ, đồng thời bắt sống cả Quan Vũ”.

Chúng ta biết đều biết “ba điều kiện” của Quan Vũ với Tào Tháo rồi “qua 5 cửa chém 6 tướng” chỉ là sự hư cấu của nhà tiểu thuyết. Trong sử sách khi nói về việc Quan Vũ bỏ Tào Tháo đi tìm Lưu Bị không hề nói rõ là có mang theo hai vị phu nhân hay không.

Lưu Bị khi ở Kinh Châu là ở cùng gia đình, còn sinh ra A Đẩu. Cứ xem thái độ đối đãi của Tào Tháo với Lưu Bị và Quan Vũ thì đủ rõ, Tào Tháo đã cùng thả Quan Vũ và “vợ con tiên chủ”. Lần cuối cùng là vào năm Kiến An thứ 13, trong chiến dịch Trường Bản, Lưu Bị “bỏ vợ con, cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi, Triệu Vân,… khoảng hơn mười người ngựa bỏ chạy”. Cam phu nhân và A Đẩu may mắn được Triệu Vân bảo vệ mới thoát khỏi kiếp nạn. Trong các sử liệu không thấy nhắc đến Mi phu nhân, rất có thể đã thiệt mạng trong chiến dịch này. Như vậy, Lưu Bị bốn lần li tán cùng gia đình, trong đó, Lã Bố bắt hai lần, Tào Tháo bắt hai lần.

Truy nguyên nguồn gốc của sự tình dường như đều liên quan đến Tào Tháo. Điều đáng nói là, mọi người thường ca ngợi Lưu Bị trăm lần thất bại cũng không khuất phục, chính bản thân Lưu Bị cũng xác nhận như vậy. Nhưng cách mà Lưu Bị đối xử với vợ con như vậy hoàn toàn không thể lấy lý do “bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn” để biện minh được. Bởi lẽ, nếu không giữ được cái nhỏ thì chắc gì cái lớn đã giữ được.

Điều đáng nói là hành động bỏ vợ bỏ con chạy lấy thân mình của Lưu Bị hoàn toàn trái ngược với hành động hy sinh tính mạng để cứu con của Mi phu nhân, dù đứa con được cứu hoàn toàn không phải là con của bà ta. Thực tế, chuyện này phải bắt đầu từ hồi thứ 25 “Đóng Thổ sơn Quan Công giao ước ba điều Cứu Bạch Mã Tào Tháo giải trùng vây”. Khi đó, Quan Công dẫn binh vào Hạ Phì, thấy nhân dân yên ổn, liền đi vào phủ tìm hai chị, Cam, Mi hai phu nhân khi nghe nói Quan Công tới vội vàng ra nghinh đón. Công ở dưới thềm bái vào nói: “Làm cho hai chị phải thất kinh, thực là tội của mỗ vậy.

Hai phu nhân liền hỏi: “Hoàng thúc nay ở đâu?”. Công đáp: “Hiện không rõ”. Hai phu nhân hỏi tiếp: “Nay nhị thúc định thế nào?” Công đáp: “Quan mỗ ra thành tử chiến bị vây khốn ở Thổ sơn, Trương Liêu khuyên tôi đầu hàng, tôi bèn đặt ra ba điều cùng ước hẹn.

Tào Tháo đã đồng ý, nên lui binh cho tôi vào trong thành. Tôi chưa được biết ý của hai chị thế nào chưa dám tự quyết. Hai phu nhân liền hỏi: “Ba việc thế nào?”. Quan Công đem ba việc ở trên mà nói lại một lần. Cam phu nhân nói: “Đêm qua quân Tào vào thành, ta nghĩ ắt sẽ chết; ai ngờ chúng không hề động tới, một tốt cũng không bước vào cửa. Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng ta? Chỉ sợ sau này Tào Tháo không dung cho thúc thúc đi tìm Hoàng thúc thôi”.

Công đáp: “Hai chị yên tâm, Quan mỗ đã có cách”. Hai phu nhân nói: “Thúc đã có tự quyết, phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi”. Đoạn nói chuyện giữa Cam, Mi phu nhân đối với Quan Công có thể thấy Cam, Mi phu nhân là sản phẩm điển hình của tư tưởng đạo đức luân lý của Nho gia. Qua lời “phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi” và “Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng tôi?” có thể thấy hai người là những người nhu mì, nhưng lại hoàn toàn thiếu chủ kiến. Trước tất cả mọi việc, thậm chí ngay cả sự sống chết của bản thân họ đều do người đàn ông nắm giữ. Những hình tượng phụ nữ như thế là một dạng ký hiệu tồn tại trong “Tam Quốc diễn nghĩa”.

Ý nghĩa mà họ mang theo trong tác phẩm văn học vì thế rất nhỏ bé, rất khó để lại ấn tượng gì trong lòng người đọc. Nhưng những nhân vật này trong chiến dịch Trường Bản lại có một sự cải thiện rất đáng kể. Đặc biệt là hình ảnh cảm động của Mi phu nhân trong hồi thứ 41 của “Tam quốc diễn nghĩa”, Lưu Huyền Đức mang dân qua sông, Triệu Tử Long một ngựa cứu thiếu chủ.

Khi đó, quân Tào trùng trùng vây khốn Lưu Bị, trong thời khắc giữa sự sống và cái chết, Triệu Vân tìm thấy Mi phu nhân bị trọng thương. Đối diện với có hội sống sót duy nhất đó, người phụ nữ này nhất định không chịu lên ngựa mà nói với Triệu Vân một cách đầy nghĩa khí rằng: “Thiếp gặp được tướng quân, A Đẩu có cơ hội sống rồi. Hy vọng tướng quân có thể thương xót phụ thân của A Đẩu nửa đời long đong chỉ có mình nó là cốt nhục. Tướng quân có thể bảo vệ đứa con này, dẫn nó đến gặp phụ thân, thiếp có chết cũng không ân hận”.

Mi phu nhân vì bảo vệ sự sống cho đứa con không phải do mình sinh ra sẵn sàng nhảy xuống giếng mà chết. Một người phụ nữ không mảy may nghĩ đến tính mạng của bản thân để bảo vệ đứa con của người phụ nữ khác, điều này có lẽ chính là nguyên nhân đã khiến Triệu Vân đứng giữa vòng vây của quân Tào nỗ lực không ngừng, cứu được tiểu chủ nhân.

Kết thúc hồi này, La Quán Trung đã đặc biệt ca ngợi Mi phu nhân rằng: “Dùng cái chết để bảo tồn dòng giống họ Lưu, Đấng nam nhi còn thua người phụ nữ trượng phu này”. Sự đáng kính của người con gái anh hùng can đảm vì đại nghĩa, hiền đức mạnh mẽ này khác hẳn với sự nhu nhược yếu đuối của Lưu Bị ở trên. Đọc đến đoạn này, độc giả không khỏi cảm thấy xúc động.

Một người phụ nữ vì đại nghiệp của chồng mà cam tâm tình nguyện hy sinh khiến cho nhiều đấng mày râu không khỏi thẹn thùng. So với hành động của Mi phu nhân, việc bỏ vợ con chạy lấy thân mình của Lưu Bị sao có thể nói là “bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn” được?

Cam phu nhân là một mỹ nữ nổi tiếng thời kỳ Tam Quốc. Sinh ra trong một gia đình nghèo hèn, từ nhỏ Cam thị đã được một người xem tướng nói rằng: “Cô gái này sau này sẽ phú quý vô cùng, được một vị quý nhân nâng đỡ”. Sau khi Lưu Bị khởi binh tại Dự Châu đã nạp Cam thị làm thiếp. Sau đó mấy người vợ cả của Lưu Bị đều qua đời, Cam phu nhân vì thế mà trở thành vợ cả. Sau khi Lưu Bị đến Kinh Châu nhờ cậy Lưu Biểu, sinh hạ được A Đẩu.

Khi đại quân của Tào Tháo truy đuổi quân của Lưu Bị tại Trường Bản Đương Dương, Lưu Bị bèn vứt bỏ vợ lớn lẫn vợ bé. Hoàn toàn dựa vào một tay Triệu Vân bảo vệ, Cam phu nhân mới thoát khỏi kiếp nạn. Nhưng hồng nhan thì bạc mệnh, sau chiến dịch Xích Bích không lâu, Lưu Bị vừa mới ổn định thì cô “hương tan ngọc nát”, gặp bạo bệnh mất ở tuổi 24.

Cả đời Cam phu nhân theo Lưu Bị chạy đông chạy tây, trôi dạt nghèo khổ tương phản hoàn toàn với dự đoán của người xem tướng thuở nhỏ. Cả đời cô ấy chưa từng được hưởng một chút hạnh phúc nào. Tương truyền dung mạo của Cam phu nhân khi trưởng thành không giống với những phụ nữ bình thường khác. Mười tám tuổi đã trở thành mỹ nữ rất được Lưu Bị mê đắm. Lưu Bị thường để cô cùng ở trong trướng lụa, đứng ở ngoài trời mà nhìn.

Cam thị giống như tuyết trắng ngưng tụ dưới ánh trăng vậy. Ở Hà Nam có người muốn lấy lòng Lưu Bị, dâng tặng một tượng ngọc cao ba thước (khoảng 1m), Lưu Bị đem tượng ngọc này để cạnh Cam phu nhân, thường bắt Cam phu nhân trong đêm phải bỏ hết y phục để so sánh với người ngọc ở bên.

Lưu Bị chơi đùa Cam phu nhân không khác gì pho tượng bằng ngọc, thường nói: “Điều quý của ngọc là ở chỗ nó có thể so với cái đức của người quân tử. Hơn nữa lại có thể đẽo tạc thành nhân hình thì khó mà bỏ đi được”. Sự thanh khiết, nồng ấm của Cam phu nhân và tượng ngọc không có sự phân biệt, mọi người nhìn không biết đâu là người ngọc, đâu là Cam phu nhân. Vì thế Cam phu nhân rất muốn phá hủy tượng ngọc.

Bà từng khuyên Lưu Bị rằng: “Trước đây Tử Hãn không lấy ngọc làm quý, sách Xuân Thu vì thế mà khen ngợi. Hiện tại Ngô và Ngụy đều chưa diệt được, làm sao có thể vui chơi mà quên chí của mình. Phàm là thứ gì sinh ra dâm cảm đều không nên dùng”. Lưu Bị nghe những lời đại nghĩa của Cam phu nhân mới bỏ tượng ngọc. Tổng quan mà xét cuộc đời của Cam, Mi phu nhân và vận mệnh của Mi phu nhân cũng có một chút tựa hồ tốt đẹp: từ thiếp lên địa vị một phu nhân, sau khi chết được Lưu Bị phong làm Hoàng Tư phu nhân.

Đến khi hậu chủ Lưu Thiện tức vị đã phong bà thành Chiêu Liệt hoàng hậu, để bà hợp táng cùng Lưu Bị. Nhưng sự tôn vinh này cũng chỉ là nhờ có Lưu Thiện, con của bà, chẳng qua là “phú quý nhờ con” mà thôi. Đến như Mi phu nhân thì số phận quả thực là bất hạnh. Xét cho cùng thì khi Lưu Bị gặp nạn lấy bà, bà vẫn là chính thất nhưng khi Lưu Bị làm Hoàng đế thì không còn đoái hoài gì đến bà nữa.

Tam Quốc chí của Trần Thọ cũng không lập cho bà một truyện riêng mà chỉ đề cập đến bà trong một câu của Mi Trúc truyện (Trúc dâng em gái của mình làm phu nhân của tiên chủ). Có thể nói rằng, Mi phu nhân lúc còn sống thì gian khổ, gặp hết kiếp nạn này tới kiếp nạn khác khi chết lại im hơi lặng tiếng.

Thật ra điều này cũng không lấy gì làm lạ, ngay trong Tam Quốc diễn nghĩa Lưu Bị đã từng nói rằng: “Anh em như tay chân, vợ con như quần áo vậy thôi” mà y phục thì hoàn toàn có thể tùy tiện vứt bỏ. Bởi vì “quần áo rách, có thể may cái mới, chân tay bị chặt làm sao mà nối được đây?”. Nhiều người cho rằng, câu nói này thể hiện khí phách anh hùng, hoài bão kinh bang tế thế của Lưu Bị. Tuy nhiên, nhiều người lại cho rằng điều này chỉ thể hiện sự coi thường của Lưu Bị đối với vợ con mình.

Với Lưu Bị, vợ con chỉ giống như đồ vật, tùy lúc, tùy nơi có thể thay được. Chính vì thế, trong cuộc đời mình, Lưu Bị rất nhiều lần bỏ vợ con chạy thoát thân và cũng lấy rất nhiều vợ. Trước khi lấy Cam, Mi phu nhân, Lưu Bị đã trải qua nhiều đời vợ. Tuy nhiên, trong những năm chiến tranh loạn lạc, vợ của Lưu Bị hoặc chết vì bệnh, hoặc chết vì chiến loạn nên dù là vợ thứ nhưng Cam phu nhân được Lưu Bị giao cho nắm quản mọi việc trong gia đình.

Sau này, ngoài Cam, Mi phu nhân, Lưu Bị còn lấy hai người nữa làm vợ. Một người chính là em gái của Tôn Quyền, sử gọi là Tôn phu nhân. Người còn lại chính là người được Lưu Bị phong làm Hoàng hậu, Ngô thị. Hôn sự mang màu sắc chính trị này đã được rất nhiều tài liệu nhắc tới. Tuy nhiên, có lẽ ít người được biết tới câu chuyện lấy góa phụ Ngô thị của Lưu Bị. Ngô Thị từ nhỏ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, trước khi chết, cha của Ngô thị đã gửi gắm cô cho Ích Châu Mục là Lưu Yên. Lưu Yên nghe thầy tướng số nói Ngô thị có quý tướng, sau này ắt hẳn giàu sang, phú quý tột bậc có thể làm tới hoàng hậu, vì vậy muốn cưới Ngô thị làm vợ.

Tuy nhiên, do Lưu Yên và cha Ngô thị là bạn bè lâu năm, nay lại lấy con bạn thì thật không phải, vì thế, Lưu Yên đành cưới Ngô thị cho con trai mình là Lưu Xương. Lưu Xương sau đó chết sớm, Ngô thị trở thành góa phụ. Tới năm 214, Lưu Bị lấy thành Ích Châu, quần thần khuyên Lưu Bị lấy Ngô thị, Lưu Bị nghĩ rằng mình với Lưu Xương là người cùng họ, lấy Ngô thị e không tiện. Tuy nhiên cuối cùng, do quần thần khuyên nhủ, Lưu Bị quyết định nạp Ngô thị làm thiếp.

Vào năm Kiến An thứ 24, sau khi lên ngôi Hán Trung Vương, Lưu Bị lập Ngô thị làm Vương hậu. Tiếp đó tới năm Chương Vũ thứ nhất, Lưu Bị xưng đế, lập Ngô hậu làm Hoàng hậu. Năm 221, Lưu Bị vì trả thù cho Quan Vũ, cất đại quân đánh Ngô, mặc dù Gia Cát Lượng và Triệu Vân hết lòng khuyên can.

Liền sau đó ông truyền ngay lệnh khởi quân sang đánh Ngô, cũng không đem Gia Cát Lượng, Triệu Vân hay Mã Siêu đi cùng. Tôn Quyền sai Lục Tốn đứng ra chỉ huy. Trong trận Di Lăng, quân Thục bị Lục Tốn đánh cho thua to. Lưu Bị thua trận, xấu hổ với nhân dân Thục quốc nên không về triều mà ở tại thành Bạch Đế, rồi buồn bã mà sinh bệnh nặng sau đó chết tại đây.

Theo Hôn nhân & Pháp luật

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện đời tư ít biết của gian hùng Lưu Bị

CÂU CHUYỆN PHONG THỦY

Tản mạn về phong - thủy địa lý, truyện có ý nghĩa khuyên răn con người nên có cái nhìn thông thoáng, sâu sắc về mọi vấn đề trong cuộc sông
CÂU CHUYỆN PHONG THỦY

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Trước khi đưa truyện này lên, tôi cũng nói luôn rằng, không nhằm mục đích đề cao, hay bênh vực cho một học thuyết, hay trường phái nào, mà chỉ mang tính chất tham khảo mà thôi.

     Ngày trước vào thời vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn thập nhị sứ quân. Có hai chàng hào kiệt, một người họ Trần, một người họ Phạm, võ giỏi văn hay, dẫn một nhóm nghĩa sỹ đến xin gia nhập. Hai tướng này cùng vua Tiên Hoàng đánh đông dẹp bắc, xông pha rất anh dũng. Chiến sự trải dài trong vòng hai năm 965 – 967, thì đất nước bình yên, mây tĩnh biển hòa. Nhà vua đăng cơ, còn hai ông xin được trở về cầy ruộng, làm ăn. Vua thuận theo ý nguyện.

    Khi ấy giặc giã vừa tan, dân tình còn đói khổ. Hai ông bạn đồng sinh đồng tử này cùng nhau dẫn gia đình  của mình vào vùng Thanh Hóa để khai khẩn đất hoang, xây dựng kinh tế.

    Thời ấy vùng Thanh Hóa còn hoang vắng, cỏ mọc um tùm, rừng rậm, đầm lầy, muỗi vắt, thú giữ rất nhiều. Phải nói một cách khách quan rằng đó là nơi rừng thiêng nước độc. Hai họ Trần – Phạm giúp sức nhau, phát quang bờ bãi, dựng nhà cửa và làm nông nghiệp. Được vài năm thì kinh tế của họ đã khấm khá đầy đủ hơn rất nhiều.

    Vào một ngày nọ, nhân lúc rỗi việc, bỗng đâu có một anh học trò đi ngang qua, người học trò này vóc hạc dáng tùng, dung mạo khôi ngô thanh tú, khí chất toát lên một vẻ thanh cao, thoát tục, nhẹ nhàng. Chàng mặc bộ đồ the thâm khăn xếp, truyền thống của Nho gia nước Việt. Dừng chân ở nhà ông Trần và trò chuyện.

    Nho sỹ :  - Tôi là học trò bị lỡ độ đường qua đây, xin uống cho tôi một bát nước cho đỡ khát

   Ông Trần : - Mời ông vào nhà.

   Rồi lấy nước mời người học trò, tiếp đãi rất ân cần chu đáo, cung kính, tôn trọng.

    Nho sỹ : - Tôi vốn biết về phong thủy, địa lý. Xin được xem căn đất của nhà ông !

    Ông Trần : Mời Tiên sinh cứ tự nhiên, có điều gì xin được Tiên sinh chỉ rõ cho.

    Sau một hồi quan sát kỹ lưỡng từ địa hình, địa thế và cách bài trí nội thất phòng ốc trong nhà. Vị Nho sỹ lấy giấy bút viết lên tường nhà của ông một đoạn văn như sau: “Nhà này có trăm người chết cả trăm, ngàn người chết cả ngàn, vạn người chết cả vạn. Bao giờ cũng thế. Cha chết trước, con chết sau. Vợ chết trước, chồng chết sau”

    Ông Trần thấy những dòng chữ viết vậy thâm trầm suy nghĩ. Tuy không nói gì, nhưng trong bụng ông rất hài lòng. Ông lấy một nén bạc để tạ ơn vị Nho sỹ đó. Nhưng vị Nho sỹ đó từ chối không nhận, ông Trần, giữ lại nén bạc để làm kỷ vật, xem như một thứ bùa hộ mệnh, và thường dùng để đánh cảm, đánh gió.

    Người học trò từ biệt ông Trần, đi sang nhà ông Phạm, cách đó một quãng. Sau khi chào hỏi xong. Anh học trò xem phong thủy và xin được để lại vài chữ. Những dòng chữ này y như những dòng chữ bên nhà ông Trần  vậy : “Nhà này có trăm người chết cả trăm, nghìn người chết cả nghìn, vạn người chết cả vạn. Bao giờ cũng thế, cha chết trước, con chết sau, vợ chết trước. Chồng chết sau.”. Ông Phạm xem xong dòng chữ đó nổi giận đùng đùng toan đánh Nho sỹ. Khiến anh chàng này sợ hãi quá, van xin rối rít. Ông Phạm bắt chàng phải viết lại. Và chàng sửa lại rằng : “Nhà này chỉ chết duy nhất một người thôi”. Viết xong cũng cáo từ đi luôn.

     Ngay sau đó, ông Phạm sang nhà ông Trần, thấy những dòng chữ đó, mới kể chuyện vừa diễn ra tại nhà mình, nhân đó mới hỏi : “ Tại sao bác để cho anh ta viết bậy bạ vậy mà cũng chịu”. Ông Trần hỏi rõ sự việc rồi mới thất kinh, kêu ông Phạm đi tìm lại nho sinh nọ. Nhưng than ôi ! Vị Nho sinh đó đã đi mất từ bao giờ. Không thể tìm thấy nữa…

     Ông Phạm ở căn nhà đó được vài năm, rồi mắc bệnh qua đời đột ngột, vợ chồng ông không có con cái. Bà vợ ông, cải giá cùng một thương nhân rồi theo người thương nhân, thành ra căn nhà trở thành hoang phế.

     Còn ông Trần, gia đình ông ngày càng làm ăn thịnh vượng và giàu có. Vợ ông sinh con trai, và dòng dõi của ông trải qua bao đời, lúc thăng trầm, lúc vinh hiển. Một người cháu của ông là bạn chơi thân với tôi. Cậu ta kể lại câu truyện từ xa xưa của tổ tiên dòng họ, còn tôi là người ghi chép lại…

      Cái nghĩa lý uyên thâm sâu sắc từ câu văn của vị Nho sinh : “Nhà này có trăm người chết cả trăm, ngàn người chết cả ngàn, vạn người chết cả vạn, Bao giờ cũng thế, cha chết trước, con chết sau, vợ chết trước, chồng chết sau”. Câu nói trên nói nghe thực ra rất hung, rất xấu, nhưng là lối văn phản ngữ thật sâu sắc, thú vị. Ngôi nhà mà có bao nhiều người sống thì bấy nhiêu người chết ở đó, tức là căn nhà được ở rất lâu đời, truyền từ thế hệ này sang nhiều đời khác, sang nhiều thế hệ khác, vậy thì căn nhà ấy phải là một căn nhà tốt, che chở, bảo vệ được con người trong tất cả các biến cố lịch sử, chính trị, thiên tai, địch họa, bệnh tật, bão giông. Ở căn nhà này thì ngày càng thịnh vượng, bởi có một người đầu tiên ở mà sau sinh ra trăm người, nghìn người, vạn người, thì hẳn cuộc sống phải ngày càng sung túc, no ấm, hạnh phúc thì mới có điều may mắn ấy. Theo như đạo lý thông thường, cha già hơn thì chết trước là quá đúng rồi, thuận theo quy luật tự nhiên rồi, nếu như có gặp phải nghịch cảnh, trớ trêu, thì vợ chết trước, chồng chết sau giữ lại cái gốc gác, nền tảng để gây dựng lại về sau. Cho nên trong thực tế, họ Trần đến nay vẫn nhiều người vinh hiển, sang giàu. Ngôi nhà của cụ tổ họ bằng gỗ lim, qua nhiều đời, được tu sửa bảo tồn, vì giá trị kiến trúc, và giá trị lịch sử của nó.

   Còn nhà của ông Phạm, chỉ chết có một người. Vài năm sau ông mất, không có con cái, vợ ông cải giá, theo chồng mới. Thực là ứng quá ! Nghiệm quá !

    Câu chuyện này tuy có yếu tố, siêu hình, hoang đường, chưa được kiểm nghiệm dưới góc độ tử vi và khoa học. Nhưng nó khiến tôi có cái nhìn sâu sắc về một vấn đề, một câu chuyện, và gợi cho ta một bài học trong cuộc sống. Đó là thói quen suy nghĩ mọi việc theo chiều hướng tỉ mỉ, chi tiết, cụ thể, tinh vi, hàm ý. Tiện đây, tôi dẫn truyện ra để các bạn tham khảo.

  Học Trò nghèo ghi chép


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: CÂU CHUYỆN PHONG THỦY

Chùa Long Huê - Thành Phố Hồ Chí Minh

Chùa Long Huê còn được biết đến với tên gọi khác: Sắc Tứ Long Hoa Tự, Sắc Tứ Huệ Long Tự, Ngự Tứ Quan Long Tự; là một ngôi chùa cổ thuộc hệ phái Bắc tông
Chùa Long Huê - Thành Phố Hồ Chí Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Long Huê còn được biết đến với tên gọi khác: Sắc Tứ Long Hoa Tự, Sắc Tứ Huệ Long Tự, Ngự Tứ Quan Long Tự; là một ngôi chùa cổ thuộc hệ phái Bắc tông (Đại thừa) tọa lạc ở số 131/27 đường Nguyễn Thái Sơn, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo tấm bảng bằng gỗ do ông Thiện Ngọc khắc ghi vào năm 1912 còn lưu giữ ở chùa, thì chùa do Thiền sư Đạo Thông, người Quảng Nam, vào xã Cai Hạt lập một am nhỏ để tu hành vào năm 1798. Chùa đã được vua Gia Long ban tấm biển “Sắc tứ Long Huê Tự”. Dưới đời Vua Thành Thái, Hòa thượng Từ Huệ đã tổ chức trùng kiến ngôi chùa trang nghiêm.

Chùa được đại trùng tu vào năm 1966, 1972. Chánh điện được bài trí tôn nghiêm. Ở đây có bộ tượng cổ Di Đà Tam Tôn bằng gỗ và Đại hồng chung nặng hơn 1000kg, cao 1,70m, được đúc ở chùa vào năm 1987. Chùa còn giữ một con dấu bằng ngà, mặt trên có chạm hình kỳ lân, mặt dấu khắc 4 chữ triện “Phật Pháp Tăng Bảo” (1871).

Hiện chùa Long Huê còn gìn giữ được khá nhiều hiện vật quý, đáng chú có: Tấm biển “Sắc tứ Long Huê tự” do vua Gia Long ban tặng. Bộ tượng cổ Di Đà Tam Tôn (A Di Đà, Quán Thế âm, Đại Thế Chí) được tạc bằng gỗ mít. Một con dấu bằng ngà, mặt trên có chạm hình kỳ lân, mặt dấu khắc 4 chữ Hán (theo lối chữ triện) “Phật Pháp Tăng Bảo”, được làm vào năm Tự Đức thứ 24 (Tân Mùi, 1871). Đại hồng chung nặng khoảng 1000 kg, cao 1.70 m, đường kính 0.95 m; được đúc năm 1987, v.v…

bien ten
Tên biển chùa “Sắc tứ Long Huê Tự”

Sách Danh mục tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường Thành phố Hồ Chí Minh của Thành hội Phật giáo TP. HCM (NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001) cho biết chư vị trụ trì tiền nhiệm là Thiền sư Đạo Thông, HT Thích Từ Huệ, TT Thích Bổn Viên. ĐĐ Thích Nhật Hiếu trụ trì hiện nay.

Ngày 23 tháng 2 âm lịch, chùa tổ chức giỗ chư Tổ khai sơn. Chùa có phòng khám bệnh từ thiện và lớp học tình thương. Đây là ngôi chùa cổ nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Long Huê - Thành Phố Hồ Chí Minh

Thần tiên trong Đạo giáo

Tản mạn tâm linh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

                               Thần tiên trong đạo giáo, phong thủy tâm linh

Theo thần thoại của Đạo giáo Trung Hoa, người thầy đầu tiên, cũng là người có pháp lực, đạo hạnh cao nhất trong các thần tiên là Hồng quân lão tổ. Hồng quân lão tổ do khí hồng mông hoang sơ sinh ra, từ khi chưa có vũ trụ, chưa có thế giới vật chất, ý thức tinh thần. Hồng quân lão tổ dạy ba người học trò ưu tú.

Người đầu tiên đó là Lão tử, Tổ sư của đạo giáo, ông là một vị thần vào bậc lãnh tụ tối cao. Công việc của ông là chưởng quan nhân giáo, đảm đương những công việc về đạo đức, lễ nghĩa, tu luyện, bào chế linh đơn để kéo dài tuổi thọ. Tên hiệu đầy đủ là Thái thanh, - Đạo đức Thiên tôn, Thái thượng Lão quân. Ông có bảo bối là một chiếc vòng kim cương, một lò bào chế rất nhiều linh đơn, cưỡi một con trâu màu xanh.

Học trò thứ hai của Hồng quân lão tổ là Nguyên Thủy Thiên tôn. Người được sinh ra từ khí gốc đầu tiên của vũ trụ, là thái cực khí nguyên gốc trước khi phân chia thành lưỡng nghi âm dương. Ông là lãnh tụ của Xiển giáo. Nguyên lý của Xiển giáo quy tắc rất nghiêm ngặt. Thường chọn lọc đệ tử rất kỹ lưỡng, phải là người có phẩm chất trong sáng, căn nguyên đạo hạnh thì mới thu nạp và dạy dỗ.

Học trò của Nguyên Thủy Thiên Tôn gồm có 13 người tất cả

1.   Quảng Thành Tử ở động Đào Nguyên núi Cửu Hoa

2.   Hoàng Long chân nhân ở động Ma Cô núi Nhị Tiên

3.   Thái Ất chân nhân ở động Kim Quang núi Càn Nguyên

4.   Văn Thù Quảng Pháp thiên tôn ở động Vân Tiêu núi Ngũ Long

5.   Từ Hàng đạo nhân ở động Lạc Già núi Phổ Đà

6.   Đạo Hành thiên tôn ở động Ngọc Ốc núi Kim Đình

7.   Xích Tinh Tử ở động Vân Tiêu núi Thái Hoa

8.   Cù Lưu Tôn ở động Phi Vân núi Giáp Long

9.   Linh Bảo đại pháp sư ở động Nguyên Dương núi Không Động

10.  Phổ Hiền đạo nhân ở động Bạch Hạc núi Cửu Cung

11.  Ngọc Đỉnh chân nhân ở động Kim Hà núi Ngọc Tuyền

12.  Thanh Hư Đạo Đức chân nhân ở động Tử Dương núi Thanh Phong

13.  Khương Tử Nha

                                              Thần tiên trong đạo giáo, phong thủy tâm linh

      ( Khương Tử Nha học trò thứ 13 của Nguyên Thủy Thiên Tôn tay cầm cơ tiết, tay cầm roi đả thần tiên )

Trong số những đệ tử này có một số người sau đó lĩnh hội cả Phật giáo và trở thành bồ tát: Văn Thù bồ tát, Phổ Hiền bồ tát, Cù Lưu Tôn và Từ Hàng đạo nhân (Quan Thế âm bồ tát).

Người học trò thứ 13 của ông không đắc đạo thành tiên mà phong thần, cai quản sao Thiên Cơ, thần của mưu lược, tính toán, trí tuệ, giúp đỡ và học thức.

Tôn hiệu của ngài là Ngọc Thanh, Thánh Cảnh, Đai La -  Nguyên Thủy Thiên tôn. Ông tụ luyện ở cung Ngọc Hư.

Sư đệ của Nguyên Thủy Thiên tôn là Thông Thiên giáo chủ. Tôn hiệu của ngài là Thượng Thanh Linh Bảo Thiên tôn. Ông đứng đầu Triệt giáo. Tu đạo ở cung Bích Du

 Linh Bảo Thiên tôn coi vạn vật chúng sinh đều bình đẳng như nhau, và ai cũng có quyền tiếp cận với đạo, nghiên cứu, học tập và tu luyện. Bởi vậy, ngài thu nạp chấp nhận truyền thụ cho tất cả mọi loài, không phân thiện ác, chẳng lựa hiền ngu. Học trò của ông chiếm một số lượng rất đông, hầu hết là các loài vật, cây cối, chim muông, ngọc đá, nhờ hút linh khí âm dương mà tu luyện thành hình người, khi được truyền đạo có thêm phép thuật.

Mặc dù chiếm một lượng lớn, nhưng về chất thì không có. Nhóm đệ tử của ông cũng chưa hẳn là đã mất hết dã tính, rất dễ gây thị phi ồn ào. Trong các phim hay truyện tiểu thuyết thần tiên còn gọi một từ đó là “yêu quái”.

Vì quan điểm về vũ trụ, đạo lý, nhân sinh và cách truyền tải đạo lý, giáo dục khác nhau nên tạo ra mâu thuẫn với Xiển giáo. Đến thời kỳ Thượng cổ, khi chính quyền Nhà Ân do Trụ vương lãnh đạo quá thối nát đến lúc sụp đổ theo quy luật tự nhiên. Nhận thấy trong trời đất tam giới còn thiếu nhiều thần linh cai quản. Ba vị Tam thanh giáo chủ cùng ngồi họp bàn lập nên bảng phong thần để giáng một số tiên chưa đủ đạo hạnh, pháp lực xuống làm thần. Thu nạp các trung thần nghĩa sỹ hi sinh vì cuộc sinh lửa loạn lạc để phong thần. Còn lại, những người phẩm hạnh cực kém thì đầy làm quỷ sứ.

Cuộc chiến tranh mà Chu Vũ Vương phát động nhằm lật đổ chính quyền Trụ Vương, là một cuộc cách mạng nhằm xóa bỏ chế độ cũ. Nhưng thực ra nó cũng là sự sắp đặt của các đấng tối cao có uy lực bao trùm vũ trụ, hay là một cuộc đọ sức thi tài giữa hai bên Xiển giáo và Triệt giáo. Kết thúc bằng thắng lợi của bên Xiển giáo, Chu Vũ Vương và Khương Tử Nha. Nhưng trong thực tế, Triệt giáo đóng góp rất nhiều học trò đệ tử cho vũ trụ, như Nhị thập bát tú, Thiên binh thiên tướng, và rất nhiều các vị thần linh khác.

Xem lá số tử vi trọn đời để biết 28 ngôi sao trong Nhị thập bát tú ảnh hưởng như thế nào đến vận mệnh của bạn.

Như vậy Tam thanh là ba vị thần tối cao được thời trong Đạo giáo gồm có Thái Thượng Lão Quân, Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn.

Xem những truyền thuyết về các vị thần này và tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa của Hứa Trọng Lâm, ta thấy được trí tưởng tượng phong phú và rực rỡ màu sắc của người Trung Hoa thời thượng cổ.

Về mặt đạo lý, triết học, nhân sinh quan thì nói lên một quy luật hết sức phổ biến trong cuộc sống, đó là hai mặt âm dương, sáng tối, trong đục, các cặp phạm trù, các mặt đối lập, mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn, tất cả các vấn đề này luôn luôn đi liền với nhau và không thể tách rời, tạo thành một thể thống nhất và nó chính là động lực thúc đẩy sự tiến bộ đi lên của cuộc sống, của xã hội.

Nghiên cứu về đạo, hay suy ngẫm về thời đại Phong thần, không phải để ta mơ những giấc mơ về quá khứ, hay tâm hồn bay đến một chốn bồng lai tiên cảnh của các vị thần tiên trong miêu tả, mà nó giúp con người có được nhân sinh quan thực tiễn, luôn chấp nhận các mặt đối lập trong cuộc sống, nâng cao kỹ năng giải quyết mâu thuẫn khiến cuộc sống mỗi cá nhân nói riêng và toàn xã hội nói chung đạt tới mức độ phát triển ngày càng cao hơn, văn minh, nhân ái hơn, hướng đến chân, thiện, mỹ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thần tiên trong Đạo giáo

Các lễ hội ngày 19 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đức Bác

Các lễ hội trong tháng 2 âm lịch vào ngày 19 tháng 2 có lễ hội tiêu biểu đó là Hội đền Bà Tấm, Hội Quán Thế Âm. Các lễ hội diễn ra trong ngày 19 tháng 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 19 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đức Bác

Các lễ hội ngày 19 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đức Bác

Các lễ hội diễn ra trong ngày 19 tháng 2 âm lịch gồm:

1. Hội đền Bà Tấm

Thời gian: Tổ chức vào ngày 19 tháng 2 âm lịch - ngày hội lớn là ngày 25 tháng 7 âm lịch.

Địa điểm: xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Bà Tấm (tức Nguyên Phi Ỷ Lan).

Nội dung: Tương truyền, ngày 19 tháng 2 là ngày sinh cả Bà Tấm. Ngày hội được mở đầu bằng một đám rước long trọng - rước nước. Đám rước khởi hành từ Đền Bà Tấm lên đến giếng nước cạnh Chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km. Đi đầu đám rước là cờ ngũ hành, tiếp đến là tổng cờ, rồi đến chiêng, trống, bát bửu. Liền sau đó là long đình rước bài vị của bà Ỷ Lan, có những người phục dịch theo kiệu. Sau kiệu bà là kiệu dựng chóe lấy nước.

Trong lúc diễn ra cuộc rước nước, thì từ các thôn cũng tiến hành lễ rước vật ra đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào Đền yên vị thì cuộc lễ bắt đầu.

Trong hội còn có các trò chơi khác như: tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt pháo và thời pháp thuộc còn có cả hát cô đầu...

2. Hội Quán Thế Âm

Thời gian: Tổ chức vào ngày 19 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn đức Phật Bồ Tát Quán Thế Âm.

Nội dung: phần lễ có rước ánh sáng gồm: rước đuốc, rước kiệu, múa lân, múa rồng để cầu mong ánh sáng soi đường cho chúng sinh, và trong phật giáo ánh sáng đồng nghĩa với trí tuệ, trí tuệ sáng thì tấm lòng, đạo đức cũng trong sáng, sẽ làm nhiều việc thiện; lễ khai kinh để cầu nguyện cho quốc thái dân an, chúng sinh an lạc. Lễ trai đàn chuẩn tế để cầu siêu, cúng thập loại chúng sinh. Lễ thuyết giản về Bồ Tát Quán Thế Âm và dân tộc ngợi ca lòng từ bi bác ái của Đức Phật Bồ Tát Quán Thế Âm và cầu nguyện cho dân tộc bình an thình vượng; Lễ rước tượng Quán Thế Âm nhằm cầu nguyện cho đồng bào chúng sinh đi biển làm ăn trên sông nước được bình an và thuận lợi.

Phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc như: hội hóa trang, hát dân ca, thi cờ, nhạc, họa, điêu khắc, múa tứ linh, thả đèn trên sông, hát tuồng... các hoạt động văn hóa như triển lãm thư pháp và tranh thủy mặc, hội thi thuyết minh về danh thắng Ngũ Hành Sơn, hội thi nấu ăn chay...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 19 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đức Bác

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd