Đường chỉ ngón tay trỏ tiết lộ điều gì về bạn
A | B | C | D |
Mộc Trà (theo Buzz)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
A | B | C | D |
Mộc Trà (theo Buzz)
Hành Kim tượng trưng cho Kim loại khắc với Hỏa (vì lửa nung cháy Kim loại). Hành kim hợp với Thổ (đất sinh kim)
Hành Kim chỉ về mùa Thu và sức mạnh. Đại diện cho thể rắn và khả năng chứa đựng. Mặt khác, Kim còn là vật dẫn. Khi tích cực, Kim là sự truyền đạt thông tin, ý tưởng sắc sảo và sự công minh. Khi tiêu cực, Kim có thể là sự hủy hoại, là hiểm họa và phiền muộn.
1. Màu sắc thích hợp cho mạng Kim
+Màu tương sinh: Hãy chọn cho mình những bộ cánh hoặc phụ kiện có màu vàng rực rỡ hoặc màu trắng tinh khiết. Vì Thổ (màu vàng) sinh Kim và chủ nhân mệnh Kim nên màu trắng là màu sở hữu của bản mệnh. Màu sắc những phụ kiện này rất hợp với mệnh Kim
+Màu tương khắc: Nếu bạn thuộc mệnh Kim, thì tốt nhất là nên tránh những màu như màu hồng, màu đỏ, vì những màu này ứng với hành Hỏa, mà Hỏa thì khắc Kim.
2. Công việc phù hợp cho người mệnh Kim
Các ngành nghề phù hợp vói hành Kim gồm có Vàng bạc,khai thác mỏ, kỹ thuật, lắp ráp xe hơi.
Bạn có thể chiêu cầu may mắn trong công việc bằng cách dùng các đồng tiền hoa mai để trang trí nơi làm việc
3. Tình duyên cho người mệnh Kim
Nếu mệnh là Kiếm Phong Kim và Sa Trung Kim cùng người mệnh Hỏa trong hôn nhân sẽ đẹp vô cùng.
Kiếm Phong Kim (vàng trong kiếm) và Sa Trung Kim (vàng trong cát), nếu không có lửa (Hỏa) thì không thành vật dụng. Nhưng cả hai khắc với Mộc (Kim khắc Mộc) vì hình kỵ, dù Mộc hao Kim lợi (Kim được khắc xuất, mất phần khắc) nhưng vẫn chịu thế tiền cát hậu hung (trước tốt sau xấu), do Kim chưa tinh chế nên không hại được Mộc vượng, không chém được cây lại thêm tổn hại .
Bốn hành Kim còn lại là Hải Trung Kim (vàng trong biển), Bạch Lạp Kim (vàng trong sáp), Thoa Xuyến Kim (vàng trang sức) và Kim Bạch Kim (kim loại màu) đều kỵ hành Hỏa.
Phong thuỷ học truyền thống cho rằng, trong phòng ngủ nhất định “tàng phong tụ khí”, điều này cũng trùng khớp với nghiên cứu khoa học hiện đại, kết quả nghiên cứu cho thấy rõ, trên bề mặt cơ thể người có tồn tại một lớp trường khí, nó được hình thành bởi sự lưu động không ngừng của dòng năng lượng do bản thân cơ thể người sinh ra. Khi con người ta ngủ, nghỉ, nếu vi trí giường kê thoả đáng, thì khí trường của cơ thể người và từ trường của trái đất sẽ trùng khớp nhau.
Bởi vậy, giường nằm phải được kê nơi yên ổn nhất, sáng sủa nhất và nhìn được bao quát cả gian phòng ngủ. Nói một cách cụ thể, kê giường trong phòng ngủ phải chú trọng những điểm sau đây:
1. Giường không được chiếu thẳng ra cửa lớn. Giường chiếu thắng ra cửa lớn thì dễ bị người ngoài nhìn thông thống, chả còn ý nghĩa kín đáo riêng tư và người nằm luôn có cảm giác nơm nớp không an toàn, ảnh hưởng tới sự nghỉ ngơi của chủ nhân. Hơn nữa, là miệng khí (khí khẩu) và cũng là miệng gió (phong khẩu). Giường thông miệng gió, thì cơ thể người sẽ chịu ảnh hưởng, khiến cho chủ nhân dễ sinh bệnh tật hoặc tình cảm luôn bất an.
Kê giường ngủ dựa vào tường cảm giác vững trãi, tạo cho bạn giấc ngủ sâu.
2. Đầu giường không nên kề ngay cửa ra vào. Nếu như phòng ngủ bị hạn chế bởi diện tích, kê giường ngủ để đầu giường kề ngay với cửa ra vào, thì đó là điều đại kị trong việc kê giường nằm. Bởi, nếu như có người đột nhiên đóng mở cửa, người nằm dễ bị quấy rầy, giật mình, không có lợi cho sự nghỉ ngơi và giấc ngủ sâu.
3. Vị trí giường tốt nhất là chọn hướng Nam Bắc. Nói theo khoa học hiện đại, thì hướng Nam Bắc thuận theo lực hấp dẫn của từ trường trái đất, nằm ngủ quay đầu hướng Bắc hoặc Nam đều có lợi cho sức khoẻ. Bởi trong hệ thống tuần hoàn máu của con người, động mạch chủ và tĩnh mạch lớn là quan trọng nhất, hướng lưu động của nó đồng nhất với phương hướng đầu chân của cơ thể. Cơ thể người khi nằm ngủ dọc theo phương Bắc Nam, làm cho phương hướng tuần hoàn máu của cơ thể trùng hợp với phương tuyến từ lực của trái đất, như vậy con người dễ bước vào giấc ngủ.
4. Giường ngủ không được kê ngay phía dưới xà ngang, để tránh cảm giác bị đè nén, ảnh hưởng tới sức khoẻ cả về thể chất và tinh thần. Nhất là phần ngực và đầu của cơ thể bị đè, nếu không dễ bị mắc bệnh.
5. Phía trên giường ngủ không nên mắc đèn treo hoặc quạt treo. Giường nằm nên kê hơi xa những thứ treo này, nếu không dễ gây cho ta cảm giác bị ức chế, đè nén, tâm tình luôn bức rức, thấp thỏm.
6. Gương soi không nên đối chiếu với giường, ấy bởi vì gương có ánh sáng phản xạ, nằm ngủ trước gương sẽ làm cho thần kinh bị suy nhược, chất lượng giấc ngủ sẽ rất kém.
7. Cửa phòng vệ sinh càng không nên thông thẳng với giường ngủ. Bởi mùi xú uế, ẩm ướt xộc thẳng tới giường nằm, có hại cho sức khoẻ, ngoài ra tiếng ồn, ánh đèn từ buồng vệ sinh cũng xộc thẳng tới giường, ảnh hưởng tới sự nghỉ ngơi của chủ nhân.
8. Phía dưới cầu thang không nên kê giường ngủ bởi như vậy sẽ không hợp với phong thủy cầu thang trong nhà. Phong thuỷ truyền thống cho rằng, kê giường dưới gầm cầu thang chẳng khác chi kê dưới xà ngang, dễ tạo nên cảm giác bị đè nén, cũng gây tổng thương tới sức khoả thể chất và tinh thần.
9. Đầu giường phải thực (có bửng chắn), không hư (không thông thống) kiểu phản, chõng. Ổn định là chủ thể của phong thuỷ phòng ngủ. Giường kê sát dựa vào vách tường sẽ rất ổn định (vững chãi). Cuối giường nếu trống không phong thuỷ truyền thống gọi là “Thái dương bất trước tinh” (mặt trời không chạm ao), dễ khiến ta có cảm giác chống chếnh. Ngoài ra, cuối giường là cột, giường nằm chỉ dựa một nửa, vẫn có cảm giác chống chếnh.
10. Giường ngủ cũng không nên đặt tại gian bếp. Bếp là nơi khói dầu mỡ nồng nặc, các ống dẫn khí đốt, nước, dây dẫn điện … Chằng chịt, rõ ràng là bất tiện cho người nằm.
Bởi vậy, trong căn phòng ngủ không gian có hạn, ta kê giường một cách thích hợp, mới giúp ta khi ngủ, nghỉ một cách yên ổn, có lợi cho sức khoẻ sau một đêm ngủ, nghỉ.
(Theo 100 câu hỏi về phong thuỷ nhà ở)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh |
Tả Ao hay Tả Ao tiên sinh là thầy phong thủy địa lý cao tay nổi tiếng nhất nhì Việt Nam. Những giai thoại về Tả Ao được lưu truyền rộng rãi cho đến tận ngày nay, trở thành những câu chuyện hết sức li kì.
Dạy dỗ kẻ tham lam
Một hôm Tả Ao đang đi đến vùng đất nọ. Thấy ngôi đình làng ở đây đặt hướng bị thất cách, ông đứng ngắm mãi rồi đến gần để xem cho rõ. Các vị chức sắc trong làng biết danh Tả Ao nên khẩn khoản nhờ ông đổi lại hướng đình làng để cả làng phát khoa bảng rầm rầm, nhằm đè đầu cưỡi cổ thiên hạ một phen cho họ biết tay.
Tả Ao nghe xong chỉ cười, sau đó ra trước sân đình đặt tróc long định hướng, rồi cắm hướng mới cho ngôi đình. Xong cáo biệt đi thẳng. Mấy tháng sau khi đình đã được xoay ngôi đổi hướng, các vị chức sắc kỳ mục không nói cho dân làng nghe chuyện, mà chỉ dặn con cháu ra công đèn sách nay mai ứng thí.
Phong tục cưới xin tùy thuộc vào từng vùng, từng dân tộc. Tuy nhiên, nếu tổ chức đám cưới theo phong tục cưới hỏi miền Nam, bạn cần lưu ý những điều sau đây:
Thường thì ngay từ khi chàng trai, cô gái dắt người yêu của mình về ra mắt gia đình là bố mẹ hai nhà đã tìm cách để biết chàng trai, cô gái đó tuổi gì, mạng gì. Cũng có những đôi, khi thầy phán là kỵ tuổi, mạng can xung khắc, nếu lấy nhau thì làm ăn không nên, có thể tan vỡ, thậm chí người con trai, con gái mai sau sẽ yểu mệnh… thì bố mẹ của họ phần lớn là sẽ cản.
Không ít cặp đôi, không vượt qua được trở ngại đầu tiên này, dẫn đến việc không đến được với nhau. Nhưng cũng có những cặp đôi, hoặc là thuyết phục, dùng lý lẽ, dùng những trường hợp cụ thể để chứng minh cho bố mẹ hai bên thấy rằng không hợp tuổi, mạng, can xung khắc vẫn sống hạnh phúc trọn đời bên nhau. Nếu bố mẹ hai bên hiểu, thông cảm, chấp nhận thì cũng có một số cách mà theo họ cho là “hóa giải” chuyện kỵ tuổi. Thậm chí, nếu không thuyết phục bố mẹ ngay vào thời điểm đó thì một số cặp đôi vẫn quyết tâm đến với nhau và tự chứng minh cho bố mẹ thấy bằng chính cuộc sống đầm ấm của mình.
Ngày giờ ăn hỏi, rước dâu, cử hành hôn lễ đều phải tốt. Bởi thế cho nên, trước đám cưới, việc xem ngày giờ luôn được đặt vào hàng quan trọng. Ngày giờ tốt cho đám cưới còn phụ thuộc vào tuổi của cô dâu chú rể, năm tổ chức đám cưới và nguyện vọng của hai bên gia đình.
Hiện nay, việc chọn ngày cưới, ngày đãi tiệc còn phụ thuộc vào lịch của nhà hàng đặt tiệc hay phụ thuộc vào công việc, ngày giờ của bạn bè, quan khách của hai bên. Quan niệm của người xưa cho rằng, nếu hôn lễ cử hành vào ngày giờ đẹp thì cuộc sống sau này sẽ yên ả, con đàn cháu đống, đầu bạc răng long.
Điểm qua một số điều mà cô dâu, chú rể cần tránh trong đám cưới miền Nam:
Người đang có tang không được dự đám cưới. Đồng thời, các cụ còn kiêng kỵ chuyện có bà bầu đi đến đám cưới. Nhưng hiện nay, dường như chuyện bà bầu đi đám cưới đã trở thành chuyện bình thường.
Khi làm lễ trong tiệc cưới, cô dâu phải để chú rể cầm chai champagne và cắt bánh cưới, chứ cô dâu không được giành làm. Như vậy thì về sau người đàn ông mới có quyền làm chủ, gia đình hạnh phúc, không xào xáo.
Mới cưới về không được ngủ giường cũ mà phải mua giường mới. Thêm đó, phải nhờ người tốt vận (người phụ nữ trung niên, có gia đình ấm êm hạnh phúc, có cả con trai, con gái) trải chiếu hoa giúp, như thế thì mới mong sinh con đàn cháu đống và dễ nuôi.
Thực ra, trong đám cưới hiện đại ngày nay, nhiều bạn trẻ vẫn thường nghĩ rằng những điều kiêng kỵ là lạc hậu, mê tín. Thế nhưng nhiều điều kiêng kỵ (không phải là tất cả) là có cơ sở. Các cụ ta thường nói, “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Khi kiêng kỵ, tâm trạng mọi người đều vui vẻ, hạnh phúc, còn không, nếu xảy ra chuyện không may thì lại nói ý rằng “Tại vì lúc đám cưới không biết kiêng kỵ”… Thế nhưng, đối với một số điều không hợp lý và mang tính mê tín thì không nên mù quáng thực hiện.
Một cuộc hôn nhân bền vững hay không chủ yếu là do hai vợ chồng. Họ có thật sự hiểu nhau, yêu nhau và có những kỹ năng sống chung hay không chứ không hề phụ thuộc vào những điều kiêng kỵ. Những bậc cha mẹ cũng nên cân nhắc lựa chọn những nét đẹp của những điều kiêng kỵ trong ngày cưới mà truyền lại cho thế hệ sau.
Người tuổi Mùi
Cụm từ có thể đại diện cho tuổi Mùi chính là “sự ôn hòa”. Thật vậy, con giáp này sở hữu những phẩm chất đáng quý là nhã nhặn, ôn hòa, trọng lễ nghĩa và có trái tim hiếu thuận. Họ luôn dành tặng nụ cười nhẹ nhàng cho bất cứ ai họ tiếp xúc.
Tuy biểu hiện bên ngoài khá nhẹ nhàng, thực chất bên trong họ là sự kiên trì bền bỉ đáng ngưỡng mộ. Khi yêu, họ rất nhẫn nại, không dễ dàng bỏ cuộc. Họ có thể là một người yêu hơi lặng lẽ nhưng không ngại cho đi. Đôi lúc rơi vào khó khăn hay mệt mỏi, họ vẫn sẵn sàng ở bên cạnh đối phương, vì vậy mà họ tạo được sự tin cậy tuyệt đối cho nửa kia.
Người tuổi Dần
Cầm tinh bậc vua chúa trong rừng, con giáp này bẩm sinh đã có tài lãnh đạo. Với tính cách kiên cường, thích mạo hiểm, ý chí mạnh mẽ, trong tình yêu, họ luôn tràn đầy tự tin, có khí phách của bậc nam nhân. Thái độ nhiệt tình lại thông minh giúp họ dám bày tỏ tình cảm mà không do dự, ngần ngại.
Sự thẳng thắn, cởi mở giúp họ tạo cảm giác cực kỳ đáng tin cậy với người khác phái. Trong mối quan hệ tình cảm, một khi đã hứa, họ sẽ cố hết sức để thực hiện lời hứa với đối phương. Khi tập trung một chuyện gì đó, họ sẽ toàn tâm toàn ý dốc hết sức mình. Dù xảy ra mâu thuẫn, họ vẫn biết bình tĩnh tự suy xét lại bản thân và tìm mọi cách thắp lại ngọn lửa yêu.
Người tuổi Hợi
Đây là con người rất chín chắn và chân thật, vẻ ngoài có chút thận trọng, bên trong rất cương nghị. Vì vậy, họ cũng là người bền bỉ và trung thành trong tình yêu.
Họ là kiểu người yêu đơn giản, không thích xa hoa và có một trái tim ấm áp, lương thiện, không thích che đậy nên luôn đem lại cảm giác an toàn cho đối phương. Trong tình yêu, con người này cực kỳ tinh tế, nhẫn nại và chân thành, không có mưu mô hay toan tính, luôn hết lòng cho đi và vun đắp tình yêu của mình, dù đứng trước sóng gió cũng không dễ dàng nói bỏ cuộc.
Khang Ninh (theo Meiguoshenpo)
Sau ta gặp một cụ già tại chùa Từ Vân, cụ râu dài oai nghi, phơi phới như tiên. Ta do đó cung kính chào hỏi. Cụ thấy ta bèn nói: « Tướng ngươi có mạng làm quan, năm tới sẽ đậu Tú Tài, sao giờ này còn lang thang ở đây không lo học ? » Ta trình bày nguyên do và đồng thời xin cụ cho biết tên họ và quê quán. Cụ nói: « Ta họ Khổng, người Vân Nam. Ta được chân truyền quyển Hoàng-Cực-Số (3) của ông Thiệu. Ta biết môn này sau này sẽ truyền lại cho ngươi. » Ta mời cụ về nhà và kể lại cho mẹ. Mẹ dặn phải tiếp đãi tử tế và xem cụ đoán số ra sao. Cụ bói cho ta từ việc lớn đến việc nhỏ đều chính xác vô cùng. Làm ta ước mơ trở lại học văn và bàn giấy với ông anh họ Thẩm Xứng. Ông anh nói : « Thầy Úc Hải Cốc đang mở lớp học tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, anh sẽ gởi em đến đó học không thành vấn đề. » Ta bèn bái lạy thầy Úc làm thầy.
Cụ Khổng lấy số cho ta như sau : Lúc còn là đồng sinh (4), sẽ thi ở Huyện đậu hạng 14, thi ở Phủ hạng 71 và thi ở Đề Đốc (5) hạng 9. Năm tới đi thi, quả thật cả ba nơi đều đậu hạng đúng y như tiên đoán của cụ.
Cụ Khổng lấy thêm số tốt xấu suốt cuộc đời cho ta. Tiên đoán rằng, năm nào sẽ thi đậu hạng mấy, năm nào sẽ thi vào dự bị lẫm sinh (6), năm nào sẽ lên cống sinh. Sau khi lên cống sinh, đến năm nào sẽ được bổ nhiệm làm huyện trưởng của tỉnh Tứ-Xuyên, nhưng chỉ làm được ba năm rưỡi rồi sẽ xin về hưu. Năm 53 tuổi, ngày 14 tháng 8, giờ Sửu, sẽ mất tại nhà. Tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả.
Từ đó về sau, mỗi lần thi cử đều đậu hạng không ngoài sự tiên đoán của cụ Khổng. Chỉ có một lần, cụ tiên đoán chừng nào phụ cấp lẫm sinh ta lên đến 91,5 thạch (7) gạo mới được lên cống sinh. Nhưng đến khi phụ cấp ta lên đến 70 thạch, quan Tông-Sư họ Đồ trong Đề-đốc-học-viện đã xin cho ta lên dự bị cống sinh. Ta thầm nghi trong bụng rằng cách bói của cụ Khổng chưa chắc chính xác hoàn toàn.
Nhưng sau đó quả thật vì cấp trên vắng mặt, quan thay thế tạm thời lúc đó là ông Dương, bác bỏ đơn xin này. Mãi cho đến năm Đinh Mão (1627), quan Tông-Sư Ân Thu Minh tình cờ xem lại những bài thi tuyển (8) còn sót lại nơi trường thi, thấy bài thi của ta xuất sắc mà tiếc rằng : « Năm bài thi vấn đáp này đâu có thua những bài tấu nghị (9) trong triều đình. Ta nỡ nào để những học trò tài giỏi như thế mãibị chôn vùi trong phòng học. » Bèn chiếu theo đơn xin cũ, phê chuẩn cho ta lên dự bị cống sinh. Nếu tính luôn những trợ cấp từ trước đến giờ, vừa đúng 91,5 thạch.
Kể từ đó ta càng tin theo số mạng an bài; mọi việc thăng quan tiến chức, giàu sang phú quý đều có thời có lúc của nó. Vì vậy ta an phận mặc đời đẩy đưa, chẳng mong cầu gì cả.
(còn tiếp)
Chú thích:
(1) Liễu Phàm : họ Viên, hiệu Liễu Phàm, tên Huỳnh, tự Khôn Nghị. Người Giang Nam sông Ngô, đời Minh. Sanh năm 1535, mất năm 1609, hưởng 74 tuổi. Sống tại quê vợ ở tỉnh Triết Giang, huyện Gia Thiện. Lúc 16 tuổi đậu Tú tài, 33 tuổi đậu Cử nhân và 52 tuổi đậu Tiến sĩ. Ông viết lại 4 bài để dạy con của ông là Thiên Khải, sau này cũng đậu tiến sĩ.
(2) Thi cử : Ngày xưa Trung Hoa lập chế độ thi cử để tuyển lựa người tài giỏi làm quan.
(3) Hoàng Cực số : Sách Hoàng Cực Kinh Thế Thư , tác giả là Thiệu Khang Thiết. Sách này căn cứ trên Kinh Dịch và số học để bói về thời thế đất nước cũng như vận mệnh của con người.
(4) Đồng sinh : học sinh chưa thi đậu lần nào. Đồng sinh theo học ở trường tư thục (tiểu học tư nhân do một người thầy tổ chức tại địa phương). Sau đó đồng sinh sẽ thi tú tài. Tú tài phải thi ba nơi; huyện, phủ và Đề đốc (tỉnh). Cả 3 nơi đều đậu mới được gọi là đậu tú tài.
(5) Đề đốc học viện : là bộ giáo dục cấp tỉnh. Các kỳ thi cử tú tài và cử nhân đều tổ chức tại đó.
(6) Lẫm sinh : Học sinh sau khi đậu tú tài sẽ học ở Học-Cung (trường trung học công lập địa phương) gọi là tiến học. Trong vòng 3 năm đầu phải trải qua 2 kỳ thi : Tuế khảo và Khoa khảo. Nếu thi đậu sẽ được liệt vào danh sách dự bị lẫm sinh gọi là bổ lẫm. Đợi cho đến khi nào có chỗ trống sẽ được đôn lên làm lẫm sinh. Kể từ lẫm sinh trở đi có thể hưởng phụ cấp gạo theo tiêu chuẩn. Lẫm sinh phải thi nhiều lần để lên cõng sinh. Các kỳ thi đều tổ chức tại Đề đốc học viện. Thi đậu cống sinh sẽ coi như mãn khoá Học-Cung, gọi là xuất học hay xuất cõng. Rồi lại phải lên thủ đô, vào Quốc Tử Giám để học tiếp và thi lên tiến sĩ.
(7) 1 thạch = 100 lít (gao)
(8) Bài thi tuyển : Những giám khảo trong Đề đốc học viện đều do triều đình bổ nhiệm xuống. Trong đó có một chánh chủ khảo, một phó chủ khảo và nhiều giám khảo phòng thi. Mỗi phòng thi có khoảng từ 8 đến 18 thí sinh. Lúc chấm bài, giám khảo phòng thi tuyển lựa những bài xuất sắc cho chủ khảo chấm. Ngoài những bài chủ khảo đã chấm đậu, phần còn lại gọi là bài thi tuyển, trong đó có bài của ông Liễu Phàm.
(9) Tấu nghị : Các quan trong triều đình mỗi khi muốn đề nghị chính sách đều phải viết trên giấy để trình lên vua xét duyệt gọi là tấu nghị.
Quá trình “tam sao thất bản” và biến đổi theo các yếu tố kinh tế – xã hội khiến có lúc Phong Thủy có vẻ rất phức tạp và bị một số yếu tố mê tín làm thiên lệch.
Nước chảy có nguồn
Thực ra Phong Thủy cũng như các ngành khoa học khác, đều xuất phát từ những yếu tố rất cơ bản, đơn giản và thiết thực. Nếu không thiết thực cho đời sống người dân và vu vơ mê tín thì khoa phong thủy đã không tồn tại được cho đến ngày nay vì người ta chỉ tin và thực hành theo những gì có lợi cho mình, gia đình mình và cộng đồng.
Ví dụ, việc treo một tấm gương nhỏ trước cửa thực ra chỉ là động tác mang tính bình ổn tâm lý, còn ngôi nhà đó tốt hay xấu phải xét rất toàn diện. Những bài “thuốc an thần” như vậy cũng không hề có trong cội nguồn xuất phát của phong thủy, nhưng có lẽ… vô thưởng vô phạt nên người ta cứ treo gương!
Vì vậy, các gia chủ cần phân biệt đâu là giải pháp Phong Thủy, đâu là tín ngưỡng dân gian. Việc sắp xếp một ngôi nhà sao cho thoáng mát, thuận tiện sinh hoạt, hợp lý đối với các thành viên cư trú luôn là điều cần làm; nhưng việc cúng bái, dán bùa… lại thuộc về tín ngưỡng dân gian, tùy theo tập tục và đức tin của mỗi vùng, mỗi người. Chúng ta tôn trọng nhưng không lẫn lộn với các giải pháp Phong Thủy đích thực.
Có lẽ cũng nên lần về cội nguồn phát sinh ra Phong Thủy để hiểu rõ bản chất của khoa học này. Sự phát sinh của Phong Thủy liên quan đến nhiều nguyên nhân xã hội, trong đó tập trung vào ba vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất là sự xét đoán hình thế – một thái độ tự nhiên của con người trong quá trình vận động, giao tiếp với môi trường thiên nhiên và xã hội. Gặp một ai, sự vật gì người ta cũng thường xem xét để chọn lựa cái tốt nhất trong khả năng có thể.
Thứ nhì là đạo hiếu của người sống muốn tưởng niệm người chết, muốn cân bằng tâm lý và phần nào răn dạy người khác, cũng là một ước muốn cho bản thân mình mai sau. Do đó trong Phong Thủy cổ xưa có rất nhiều cách xem Thủy Khẩu, Long Mạch… cho mồ mả (âm phần) mà việc áp dụng cho thực tế hiện nay còn nhiều mơ hồ, nặng về cảm tính. Rồi những yếu tố này bị một số sách vở trộn lẫn với Phong Thủy Dương Trạch (nhà cửa cho người sống) làm tăng thêm tính kỳ bí, phức tạp.
Thứ ba là các truyền tụng và thuật số tính toán mang tính tập tục, được đúc kết qua nhiều thời kỳ, mong muốn gặp lành tránh dữ, mang tính dân tộc học và văn hóa địa phương. Vì vậy các nước Á Đông như Việt Nam, Hồng Kông, Nhật Bản đều có các nguyên tắc phong thủy riêng.
Những tiêu chí cơ bản
Để làm nhà theo một tiến trình Phong Thủy bài bản, đòi hỏi gia chủ phải có những kiến thức nhất định và sự chọn lựa các giải pháp sao cho phù hợp hoàn cảnh mỗi gia đình, mỗi ngôi nhà. Các giải pháp Phong Thủy luôn phải được tiến hành trên nền tảng 5 tiêu chí, cũng là 5 tính chất cơ bản của Phong Thủy:
– Tính Tổng hợp: Xem xét rất nhiều phương diện để tạo lập môi trường sống tốt nhất. Xét về chữ nghĩa: Phong là gió, tính Động, thuộc dương. Thủy là nước mang tính Tĩnh, thuộc âm. Gió – nước, âm – dương phải tương giao thì Thổ Trạch mới hài hòa.
– Tính Linh hoạt: Không có ngôi nhà hay cuộc đất nào là tốt hoặc xấu hoàn toàn mà phải tùy thuộc vào truờng hợp cụ thể, thậm chí có thể xấu với người này nhưng người khác lại thấy tốt, thấy phù hợp với mình. Khi gặp tình huống bất lợi, luôn có các giải pháp khắc phục sao cho ít tàn phá môi trường, dựa vào thiên nhiên, giảm thiểu công sức, chi phí.
– Tính Quân bình: Luôn giữ tỷ lệ hợp lý của các thành phần không gian, không quá thiên lệch, đảm bảo cân bằng âm dương, động tĩnh trong môi trường ở. Cần xác định cân bằng chứ không phải cào bằng, phải có chính phụ.
– Tính Ổn định: Phong Thủy vốn xuất phát từ đời sống định cư của dân làm nông nghiệp, do đó chọn đất cất nhà cha ông ta luôn nhắm đến tương lai xa, mong con cháu được phát triển vững bền. Sự ổn định trong Phong Thủy hiện đại cần hiểu là: giảm thiểu biến cố, phát triển lâu dài.
– Tính Tâm linh: Xem trọng yếu tố tín ngưỡng và đời sống tinh thần. Hướng nội và luôn tưởng nhớ tiền nhân (thờ cúng, giáo dục truyền thống). Phong Thủy cũng là một “liệu pháp” tâm lý hiệu quả nên vẫn có một số thủ pháp mang tính “ an thần “nhằm tạo tâm lý thoải mái cho người cư ngụ.
Điều nên nhớ trước khi yêu Xử Nữ đó là họ sống sạch sẽ, gọn gàng và sẽ nổi nóng nếu bạn để nhà cửa bừa bộn |
Tình hình nghiên cứu Tử vi Đẩu Số trong giai đoạn cuối thế kỷ 20, có thể nói là rất nhiều nhân tài, danh gia đua nhau xuất hiện. Hơn nữa, đã thoát ly phương pháp luận đoán đơn giản của giai đoạn trước, tiến vào một thời kỳ mới, phương pháp luận đoán đã dần dần hướng vào hoàn thiện chỉnh thể, phức tạp mà chu đáo, không chỉ phân khoa tỉ mỉ, mà còn rất nhiều Môn phái bổ khuyết chỗ sở trường, sở đoản cho nhau.
Do phương pháp luận đoán của Tử Vi Đẩu Số thường dựa vào "kinh nghiệm" để suy diễn, không như khoa mệnh lý Tứ Trụ có những nguyên tắc rõ ràng để noi theo, vì vậy khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số nó không có khuôn khổ giới hạn nội dung luận đoán một cách rõ nét. Nhưng, nói một cách khái quát về các xu hướng luận đoán, thông thường được phân thành hai xu hướng lớn, hai dòng chảy lớn khi luận đoán. Đó là khuynh hướng luận đoán của phái Chủ Tinh và khuynh hướng luận đoán của phái Lưu Tinh. Trong phái Lưu Tinh, lại phân thành hai chi phái, đó là phái Thái Tuế và phái Tiểu Hạn.
Phái Chủ Tinh
Phái Chủ Tinh xem trọng hiệu lực của các sao Chính và tính chất cách cục tình lý của sao. Mang tác dụng của các sao lớn suy diễn đến mức độ tinh tế, và được phối hợp với các sao nhỏ, để luận đoán sự phát sinh biến hóa tăng lên hay giảm đi. Phái luận đoán theo cách này rất chú trọng các hiện tượng trong Mệnh bàn gốc, căn cứ vào đây để luận đoán vận mệnh đời người, có độ chính xác khá cao. Đây là lưu phái Tử Vi Đẩu Số thuộc loại rất cơ bản.
Phái Thái Tuế
Ngoại trừ việc xem trọng sự ứng nghiệm của các sao Chính và Mệnh bàn, phái này còn một bí kíp một bộ phận về "hành vận", có khuynh hướng tu chính bộ phận Mệnh Cục gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn Lưu niên, thì lấy cung vị Thái Tuế làm chủ, mang tinh diệu Lưu niên của bản phái bày bố vào 12 cung Địa chi theo từng năm, để luận đoán cát hung, hưng suy của niên vận đó. Nếu phân chia tỉ mỉ hơn về phương thức luận đoán, thì lại có hai loại biến hóa khác, một môn phái chủ trương Sao động mà Cung bất động, tức 12 cung bản mệnh bất động, còn Lưu tinh thì "Phi động". Và môn phái thứ hai thì chủ trương Sao động mà Cung đồng thời cũng động, tức 12 cung bản mệnh "Phi động" theo từng năm, Lưu tinh cũng biến động theo Năm.
Phải Tiểu Hạn
Ngoại trừ việc xem trọng "hiện tượng" vốn có của các sao Chính và Mệnh bàn, phái này còn chú trọng bộ phận Đại hạn - Tiểu hạn, có khuynh hướng tu chính quan điểm của Mệnh gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn Lưu niên, thì lấy Cụng vị của Tiểu hạn làm chủ, mang tinh diệu Lưu niên của bản phái xem trọng để bài bố "Phi động" vào 12 cung địa chi theo từng Năm, lấy cung vị Tiểu hạn làm chủ yếu, theo nguyên tắc "Cung động" và "Sao động", biến hóa theo chiều nghịch lần lượt 12 cung, vì vậy có thể luận đoán rất tỉ mỉ những thay đổi, những biến động trong đời sống của con người.
Tam Hợp phái và Tứ Hóa pháp
Các phái hệ có thêm vào Tử Vi Đẩu Số các phương thức luận đoán, như Ngũ hành, Bát quái, Thần sát, Quan sát, Trung hạn, hoặc Lục Nhâm,... hay không, nói chung, phần lớn các hệ phái đều không tách rời phương thức lý luận truyền thống. Chẳng hạn như, vận dụng cục tính và tình lý của các sao, tinh hệ hỗ động (các hệ thống sao dẫn động lẫn nhau), và phương pháp "Tam phương Tứ chính". Theo dòng chảy, các Môn phái lấy phương pháp luận cung Mệnh theo Tam phương làm chủ yếu, thì được gọi chung là phái Tam Hợp.
Khoảng thập nhiên 80 ~ 90 của thế kỷ trước, các thuyết Phi Tinh Tử Vi Đẩu Số kế tiếp nhau ra đời ở Đài Loan, hay nói theo bình diện xã hội đó là công khai xiển dương Môn phái. Nhóm Môn phái này, được một số người gọi là phái "Tứ Hóa". Về sau theo đà càng lúc càng nhiều người phát biểu sự truyền thừa Học thuyết Phi tinh của môn phái mình, nên mọi người đổi lại gọi là phái "Phi Tinh". Theo truyền thuyết, các phái "Phi Tinh" có nguồn gốc lâu đời, lấy Quái khí luận của Đạo gia làm xương sống lập thuyết, chú trọng vận dụng Cung vị trùng điệp, Thái cực điểm, Thể Dụng, và Quỹ tích của Phi tinh hóa.
Cái gọi là "Đồ Hóa Tứ tượng", hay còn được gọi là "Tứ tượng Hóa đồ", mà gọi tắt là "Tứ Hóa". Tứ tượng là quy luật tự nhiên của Trời Đất, giống như bốn Mùa thay đổi không ngừng. Bản chất của các sao (tinh, thần, đẩu, diệu) gọi là "tinh tính" (tính của sao); các Sao gặp gỡ nhau sẽ nảy sinh ra sự ưa - ghét, hợp Cách hay không hợp Cách, đó gọi là "tinh tình" (tình của sao), và các Sao luôn biến hóa thay đổi, bản chất luôn biến hóa thay đổi này của các Sao được gọi là "hóa diệu" (sao biến hóa). Tử Vi Đẩu Số vận dụng 18 sao chính để luận đoán cát - hung. Các sao này, vốn chỉ là biểu tượng, là phù hiệu đại biểu cho "Số". Cho nên, Tử Vi Đẩu Số chỉ là sự vận dụng của "Số", mà không còn là "tinh chiêm" như đã luận thuật từ trước.
Các Sao theo một quy luật nhất định bay vào các Cung, nhưng sự cát - hung của một Cung cá biệt, không thể chỉ lấy Sao ở một vị trí Cung mà đoán định. Bởi vì, vị trí các Sao tuy đều là cố định, nhưng sẽ thay đổi theo thời gian, chịu ảnh hưởng bởi sự biến hóa của Tứ tượng. Các Tinh và Cung phối hợp với nhau, sẽ cho ra 144 loại Mệnh cách này. Vì vậy, các tổ hợp Sao theo quy luật Tứ tượng mà "phi" (bay), đó gọi là "Phi tinh".
Do đó, "Phi tinh Tứ hóa" là mượn Can để độn Tinh (sao), lấy giả tượng phối hợp với Chi để ứng thời, làm căn bản cho Phi tinh Tử Vi Đẩu Số!
Trước kia, các phái Tam Hợp đều được gọi chung là "Nam phái", còn các phái Tứ Hóa thì được gọi chung là "Bắc phái".
Căn cứ trên phương diện lấy Cung vị làm Tượng để luận đoán mà phân loại, thì Tử Vi Đẩu Số có hai Đại pháp môn: "Tam hợp pháp" và "Tứ Hóa pháp" (hay còn gọi là Tứ tượng pháp).
"Tam hợp pháp" là lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm "Tam hợp", thêm vào cung Thiên di làm "Tứ chính" hợp thành "Tam phương Tứ chính". Theo địa chi tam hợp mà đoán việc của người, là cơ sở của học thuyết Đẩu Số.
"Tứ hóa pháp" cũng lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm "Tam hội", nhưng "Tứ chính" thì lấy "cung vị tứ tượng" để quy chiếu, tức là lấy cung Mệnh, cung Tử nữ, cung Thiên di và cung Điền trạch làm "Tứ chính", khác với "tam hợp pháp" ở chỗ là, Tứ hóa pháp lấy thiên can của sáu cung này để làm tượng luận đoán, chứ không chỉ dựa vào tính của các Sao. Nếu không, sao của sáu cung sẽ hỗn loạn, khó mà đoán việc.
Tam hợp pháp gặp trường hợp cung vị không có chính diệu, thì mượn chính diệu của đối cung để dùng.
Tứ hóa pháp gặp trường hợp ở cung vị không có chính diệu, lại không mượn chính diệu ở xung cung để dùng, vì nguyên do nó dùng tượng ở can của Cung.
Ngoài ra, Tam hợp pháp theo thuyết Ngũ hành, chú trọng Tinh đẩu, cho nên tinh diệu mới có thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm". Còn Tứ hóa pháp thì phối hợp với Quẻ và Lý Số, chú trọng Tượng Số, cho nên Tinh diệu không có thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm".
Nói về sự biến hóa của Tử Vi Đẩu Số, ngoại trừ các lưu phái chính như đã nói trên, có một số lưu phái trong quá trình luận đoán, còn dẫn dụng một cách ít công khai các tác dụng đặc thù khác, chẳng hạn như tứ trụ, phong thủy, chiêm bốc, quái tượng, thậm chí cả đến số mục hay mầu sắc của các sao... trong đó sự phân chia khoa mục luận đoán rất tỉ mỉ, không kém sự phân loại của khoa học hiện đại, khiến cho người học đời sau, có lẽ phải mất tinh lực của cả đời người, mới có thể nghiệm một cách hoàn bị và sâu sắc khoa Tử Vi Đẩu Số.
1) Phái Trung Châu
- Khởi nguồn: Khởi nguồn ở Lạc Dương, tổ sư là Bạch Ngọc Thiền và Ngô Cảnh Loan, theo truyền thuyết, phái này mỗi đời chỉ thu nhận một đệ tử và truyền miệng khẩu quyết cho nhau. Mãi cho đến khi Vương Đình Chi công khai sở học, mới gọi là phái Trung Châu. Trước Vương Đình Chi, có một phân chi là Lục Bân Triệu.
Ở Hương Cảng hai chi phái Tử Vi Đẩu Số mà người ta rất quen thuộc, đó là chi phái Lục Bân Triệu và chi phái Vương Đình Chi. Tuy Vương Đình Chi từng phát biểu các nghiên cứu của mình và trước tác khá nhiều, nhưng hiếm ai tự xưng mình là truyền nhân của phái Trung Châu Vương Đình Chi.
Ngược lại, truyền nhân của phân chi Lục Triệu Bân thì có rất nhiều phân chi. Nhưng bất luận thế nào, đối với giới nghiên cứu Tử vi Đẩu Số ở Hương Cảng và Đài Loan, phần lớn đều không xa lạ gì học thuyết của phái Trung Châu Vương Đình Chi.
- Đặc điểm: Lục Bân Triệu thì được chân truyền Khâm Thiên Giáp bí cấp, còn Vương Đình Chi thì nổi danh với Tử Vi tinh quyết. Nhưng vì chưa có ai trực tiếp nhìn thấy hai bản bí kíp được gọi là "khẩu khẩu tương truyền" này, cho nên người ta chỉ có thể lần dấu vết của chúng trong các trước tác của họ.
Phái Trung Châu chú trọng tính chất các sao và cách - cục tình của sao, khi luận vận mệnh yêu cầu người ta phải có năng lực suy lý. Thí dụ như, một hệ thống sao gặp một hệ thống sao khác thì sẽ sinh ra biến hóa; phương pháp luận vận mệnh là phải từ những biến hóa này mà suy diễn ra.
Nói một cách khái quát, lý luận của phái Trung Châu khá gần với lý thuyết trong thư tịch truyền thống là Tử Vi Đẩu Số toàn thư và Tử Vi Đẩu Số toàn tập. Nhưng phái Vương Đình Chi ngoài việc nghiên cứu sâu cách - cục tình của sao, còn vận dụng Tứ Hóa đa dạng hơn so với phương pháp truyền thống.
Ngoại trừ lý luận "các hệ thống sao liên quan mật thiết với nhau", bộ sao Tứ Hóa của các can Canh, Mậu và Nhâm cũng khác với truyền thống. Còn các sao lưu niên như: Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Kình dương, Đà la và Lộc tồn, Thiên mã,.v.v... cách vận dụng cũng khác nhiều.
2) Phái Tử Vân
- Khởi nguồn: Tử Vân trước bái lão sư họ Hà làm thầy, về sau dựa vào các thư tịch mà tự nghiên cứu, sau 30 năm nỗ lực nghiền ngẫm, rồi tự lập thành môn phái. Các trước tác nghiên cứu của ông cũng được giới nghiên cứu Đẩu Số hoan nghênh.
- Đặc điểm: Tử Vân tự sáng tạo lý luận như "Tam đại luận", "Thái tuế nhập quái luận", "Thái tuế cung vị luận". Trong đó "Tinh bàn hỗ động" của "Thái tuế nhập quái" là chưa từng xuất hiện trong khoa Tử Vi Đẩu Số truyền thống, nhưng có lưu truyền trong hệ phái Phi tinh. Cho nên, lý luận của hệ phái Tử Vân, có thuyết là do ông tự sáng tạo, có thuyết là do ông mượn bí truyền của phái khác rồi cải biên lại. Bất luận là như thế nào, lý luận của ông đều được xây dựng trên cơ sở của phái Tam Hợp truyền thống, tức là Tử Ví Đẩu Số toàn thư và Tử Vi Đẩu Số toàn tập.
3) Phái Hiện Đại
- Khởi nguồn: Nhân vật đại biểu của phái hiện đại là Liễu Vô cư sỹ. Liễu Vô cư sỹ vốn là đệ tử của Tử Vân, nhưng vì ông kiên trì với lý luận của mình, nên tự sáng lập thành một phái riêng. Từ tháng 4/1985, ông cùng với nhóm 8 người, gồm Hứa Hưng Trí, Tuệ Canh thuật sỹ, Lạc Đà Sinh, Quách tiên sinh, Thái Quân Siêu, Phổ Giang Đăng Chi, Nam Ngư, và Phi Vân cư sỹ xuất bản cuốn Hiện Đại Tử Vi, từ đó tiếng tăm của phái Hiện Đại Tử Vi không ngừng lan rộng.
- Đặc điểm: Liễu Vô cư sỹ phản đối phương pháp gộp Tử Vi và Tử Bình lại với nhau để cùng tham chiếu, đề xướng trả Tử Bình về với Tử Bình, trả Tử Vi về với Tử Vi, phản đối mang "Thần sát" và "Quan sát" vào Đẩu Số, rất khác với quan niệm "tập đại thành các nhà" của sư phụ ông là Tử Vân. Do ông giữ vững quan niệm của mình, cho nên được nhiều người ủng hộ. Cũng giống như Vương Đình Chi, Liễu Vô cư sỹ rất thích bình chú cổ tịch, cho rằng Tử Vi Đẩu Số là nằm hết trong các trước tác của tiền nhân.
4) Phái Thiên Cơ
- Khởi nguồn: Thiên Cơ thượng nhân Hoàng Xuân Lâm là người sáng lập ra tuyệt học của phái Thiên Cơ, đó là thuyết Đẩu Số hỷ kị thần, của Mật Tông Bí Truyền và lý luận về "Hỷ Khí". Chỉ dựa vào tên của môn phái, thì có thể liên quan tới thuật tinh chiêm của Mật Tông đã lưu truyền cả ngàn năm. Nếu quả thật như vậy, thì sự truyền thừa của Thiên cơ thượng nhân có thể nói là đã có một lịch sử lâu đời.
- Đặc điểm: Lấy lý luận Tam hợp truyền thống làm cơ sở, tinh yếu của Đẩu Số hỷ kị thần cũng tương tự như phương pháp dùng Ngũ hành sinh khắc, để lấy dụng thần trong khoa mệnh lý Tử Bình. Ngoại trừ việc xem xét khí của sao, cung vị thiên can, ngũ hành của địa chi ra, phái này còn xét tới Ngũ hành nạp âm của can chi hợp lại. Về điểm này, trong các điển tịch của lý luận Tam hợp truyền thống đều có ghi chép, nhưng rất khó hiểu. Có thể nói phái Thiên Cơ đã giải thích tường tận chỗ thiếu xót này.
5) Phái Tinh Hóa
- Khởi nguồn: Phái Tinh Hóa do Thẩm Bình Sơn sáng lập, cũng giống như Tử Vân, ông tập đại thành các nhà, rồi sáng tạo ra phương pháp luận mệnh vận độc đáo của riêng mình.
- Đặc điểm: Thẩm Bình Sơn tổng hợp lý thuyết như Phi tinh, Tinh hóa, Quá cung luận, Biến cục, Tam hạn pháp để sáng tạo ra phương pháp luận đoán của riêng mình, khá mới mẻ. Nhưng xét về phương diện nội dung, có thể nói Phi tinh pháp của phái này cũng tương tự như lý luận "các hệ thống sao liên quan mạt thiết với nhau" của Vương Đình Chi. Tinh hoa pháp thì lấy các chính diệu Tứ Hóa mà biến hóa ra. Còn phương pháp luận đoán đại hạn, trung hạn, và tiểu hạn, thì lấy Đại hạn phân chia tỉ mỉ thành các "trung hạn", để tính toán chuẩn xác thời gian và sự việc cát hung ứng nghiệm của các tổ hợp sao. Có thể nói đây là một phái hệ rất đặc biệt trong hệ phái Tam Hợp truyền thống.
6) Phái Chiêm Nghiệm
- Khởi nguồn: theo truyền thuyết phái Chiêm Nghiệm có hai nhân vật đại biểu: một người là Thiết bản đạo nhân Trần Nhạc Kỳ, tự xưng là truyền nhân duy nhất đời thứ 41 của Trần Hi Di, một người khác là Thiên Ất trượng nhân, được cho là truyền nhân đời thứ 54 của phái Chiêm Nghiệm.
- Đặc điểm: Phái Chiêm Nghiệm có truyền thống vận dụng cách - cục tình sao, lại dung hợp với Kỳ môn Độn Giáp, thêm vào lý luận phi hóa 12 cung của phái Phi tinh, nội dung rất rộng. Về phương diện đoán lưu vận, ngoại trừ bản mệnh cơ bản, địa bàn, Thái tuế bàn, còn thêm Tiểu hạn và Đẩu quân, tổng cộng là 5 bàn.
7) Phái Thấu Thiên
- Khởi nguồn: Phái Thấu Thiên còn gọi là phái Minh Đăng, xuất phát ở Mân Việt (Phúc kiến), có thời gian chưởng môn các đời của phái Thấu Thiên sang Nhật Bản, về sau lại trở về Đài Loan. Theo truyền thuyết, phái Thấu Thiên truyền thừa cho nhau đến nay đã 13 đời, trưởng môn đương đại là Trương Diệu Văn, từng du học ở Nhật.
- Đặc điểm: Ngoại trừ sự khác biệt về cách an cung Mệnh và cung Thân, thì Mệnh bàn không an cung can, nội dung còn lại so với thư tích cổ đại đồng tiểu dị.
8) Phái Thiên Vận Hợp Tham
- Khởi nguồn: Sở Hoàng là người sáng lập phái Thiên Vận
- Đặc điểm: Ngoại trừ việc vận dụng lý luận truyền thống theo Tử Vi Đẩu Số toàn thư, đây là người hiện đại đầu tiên của trào lưu mang Tử Vi Đẩu Số dung hợp với Tứ Trụ, lấy "cung khí", "hỷ kị thần", và "Tử Kiếp" để luận đoán.
9) Phái Tân Thuyên
- Khởi nguồn: Tuệ Tâm Trai chủ là người sáng lập.
- Đặc điểm: Phái Tân Thuyên của Tuệ Tâm trai chủ, cũng là một trong phái hệ trung thành với lý luận truyền thống. Giống như Liễu Vô cư sỹ và Vương Đình Chi, ông trước tác vô số, cống hiến khá nhiều.
10) Phái Tam Hợp
- Khởi nguồn: Người sáng lập là Cung Giám lão nhân
- Đặc điểm: Thực ra đây là một môn phái Phong thủy. Trên thực tế, phái Trung Châu cũng có Huyền Không tam quyết, nhưng môn phái này có quan hệ với Phong thủy rất mật thiết. Tuy đã thu nhập không ít lý luận phi hóa của phái Phi Tinh, nhưng về kết cấu cơ bản, vẫn không rời lý luận truyền thống và cách - cục tình của sao.
1) Phái Hà Lạc
- Khởi nguồn: Phái Hà Lạc do Tăng Quốc Hùng người Đài Loan sáng lập.
- Đặc điểm: Lấy Hà Lạc Lý Số và lý luận Hóa Kị làm cơ sở. Chú trọng nghiệm chứng thực bàn, là một môn phái Phi tinh khá thực tế.
2) Phái Khâm Thiên môn
- Khởi nguồn: Phái Khâm Thiên môn do Mai Huyện Tố Tâm lão nhân người Quảng Đông sáng lập ra.
- Đặc điểm: Bí kíp của môn phái Khâm Thiên môn là Hoa Sơn Khâm thiên Tứ hóa Tử vi Đẩu số Phi tinh bí nghi. Nội dung gồm có
+ "Phi sách",
+ "Phi tinh",
+ "Phi cung",
+ "Phi vận",
+ "Cửu tinh bố thập nhị cung thất tinh quyết"
+ "Tứ phụng Tam kỳ lưỡng nghi tiêu"
+ "Tiên thiên Tứ hóa Phi tinh kỳ phổ"
+ "Thập can bộ thiên quyết"
Đây là một môn phái rất chú trọng lý luận Phi Tinh, có ảnh hưởng sâu xa trong hệ phái Phi tinh Tử vi Đẩu số. Các nhân vật đại biểu kế tục gồm có Phương Ngoại Nhân tiên sinh, Pháp Đường chủ nhân, và Phương Vô Kị
3) Phái Tiên Tông
- Khởi nguồn: Người sáng lập phái Tiên tông là Chính Huyền Sơn Nhân, pháp hiệu là Huyền Chân Tử, người Miêu Lật, Đài Loan. Tương truyền ông được thần tiên truyền thụ cho môn Tử Vi Đẩu Số của đạo trưởng Lư Sơn Tiên Tông, trước tác có Thiên Địa Nhân Tử vi Đẩu số gồm 13 tập
- Đặc điểm: Chủ chương Tử vi và Tử bình cung tham chiếu, nạp âm ngũ hành. Phương pháp tính tháng Nhuận cũng rất độc đáo. Tuy hệ thống cơ bản của phái Tiên Tông vẫn không trái với phái Phi Tinh, nhưng về lai lịch chi hệ thì không khảo chứng được, vì do thần tiên truyền thụ!
Các Môn phái khác
1) Nhất Diệp Tri Thu Thuật
- Khởi nguồn: Đây là môn phái do Phan Tử Ngư sáng lập, là một đại sư rất nổi tiếng ở Phả Lập, ông sinh năm Dân quốc thứ 19 tại Phúc Châu, lúc còn nhỏ đã bái Hòa thượng Nhất Trần ở chùa Cổ Sơn Dũng Tuyền làm thầy. Các cách luận mệnh số của Nhất Diệp Tri Thu khác với những môn phái khác. Tự nhận tổ sư của Môn phái mình là Tôn Tư Mạc mà không phải là Trần Hi di
- Đặc điểm: Nhật Diệp Tri Thu thuật đề xướng "Thiết khẩu trực đoán" (tức đoán định một cách trực tiếp). Phan Tử Ngư xem trọng hoàn cảnh của từng Cung, có nét hơi giống với Phật môn nhất trưởng Kinh. Thực ra, khi còn trẻ, Phan Tử Ngư đã được học phương pháp "Phi Yến Quỳnh Lâm", cũng chính là "Phi tinh chuyển yến quan quyết", hoặc cũng là "Thập bát Phi tinh Dịch yến quỳnh lâm" trong Bắc phái Phi tinh.
2) Phái Khoa Kỹ
- Khởi nguồn: Đổng sự trưởng môn của phái Khoa Kỹ Tử Vi là Trương Thịnh Như
- Đặc điểm: Trương Thịnh Như muốn mang khoa học vào môn Tử vi Đẩu Số, và phổ cập hóa khoa Tử Vi Đẩu Số giống như môn chiêm tinh của Tây phương. Lý tưởng thì rất cao, nhưng phương pháp lại không được mọi người công nhận là truyền thống.
(Sưu tầm)
tránh rước họa vào thân.
1. Loại cây xanh nên chọn
Nếu muốn bài trí cây xanh trong bếp, gia chủ có thể lựa chọn các loại cây nhỏ gọn, cành lá không rộng sẽ gây vướng. Nên chọn các loại cây có khả năng khử mùi và hấp thụ các chất độc như dương xỉ hoặc các loại cây xanh, cây hoa có màu sắc bắt mắt, tươi vui giúp tăng cảm giác thèm ăn như tía tô cảnh, đỗ quyên…
Sau phòng khách, nhà bếp là nơi cũng cần bài trí cây xanh vừa có tác dụng trang trí lại mang giá trị phong thủy cao. Hơn nữa, nhiệt độ môi trường trong phòng bếp cũng không ảnh hưởng nhiều đến các loại thực vật phong thủy, nên có thể tận dụng không gian này để bài trí cây xanh.
Ảnh minh họa |
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Một nữ công nhân làm việc tại nhà máy chế biến đông lạnh. Ngày hôm ấy, sau khi hoàn thành công việc, như thường lệ cô đi vào kho đông lạnh để kiểm tra một chút. Đột nhiên, cửa phòng lại bị đóng và khóa lại, cô bị nhốt ở bên trong mà không một ai biết.
Cô vừa hét khản cổ họng vừa đập cửa với hy vọng có người nghe được tiếng mình mà đến cứu nhưng vẫn không có ai nghe thấy. Lúc này tất cả công nhân đã tan ca, toàn bộ nhà máy đều yên tĩnh.
Sau 6 giờ chiều hôm ấy, nữ công nhân lạnh cóng người, tuyệt vọng và đau khổ… Đang lúc cô tưởng như không chịu đựng được nữa thì bất ngờ được người bảo vệ đến mở cửa cứu ra ngoài.
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
Hôm sau, cô gái hỏi người bảo vệ tại sao lại biết mình ở trong đó để đến mở cửa, mặc dù đây không phải khu vực mà ông ấy quản lý. Người bảo vệ trả lời: “Tôi làm việc ở nhà máy này đã 35 năm rồi. Mỗi ngày đều có mấy trăm công nhân ra ra vào vào. Nhưng cô là người duy nhất mà ngày nào sáng sớm đi làm cũng chào hỏi tôi và buổi tối tan làm lại chào tạm biệt tôi trong khi có rất nhiều người xem như không nhìn thấy tôi vậy! Hôm nay, tôi biết rõ ràng buổi sáng cô có đi làm bởi vì sáng sớm cô còn nói “cháu chào bác!” Nhưng sau khi tan làm buổi chiều, tôi lại không nghe thấy tiếng cô chào: “Tạm biệt bác, hẹn ngày mai gặp lại!” Thế là tôi quyết định đi vào trong nhà xưởng tìm xem xem thế nào. Tôi đi đến những chỗ góc hẻo lánh tìm cô và cuối cùng lại nghe thấy tiếng khóc và tìm thấy cô ở trong kho đông lạnh…“
Hãy luôn khiêm tốn nhã nhặn, yêu thương và tôn trọng những người xung quanh mình bởi vì bạn không thể biết được sự tình gì sẽ xuất hiện vào ngày mai!
Đọc lại câu chuyện chúng ta cũng thấy, nếu như cô gái không ngày ngày chào hỏi chú bảo vệ, thì chú ấy đã không biết tới cô. Mà nếu không có chú thì coi như cô đã chết cóng trong phòng đông lạnh. Khi trao yêu thương cho một người nào đó thì chẳng có gì là uổng phí cả, vì con người cốt yếu cũng chỉ là yêu thương lẫn nhau. Mong là xã hội sau này sẽ có nhiều người quan tâm đến nhau hơn, chứ không hời hợt, vô cảm như cái vấn nạn mà hiện nay ai cũng lên án. Chỉ vài câu chào hỏi, chỉ vài lời quan tâm nhau cũng đã thấy cuộc sống chúng ta trở nên vui tươi biết chừng nào.
>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>
Ảnh minh họa |
► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Hành: HỏaLoại: Ác TinhĐặc Tính: Cô độc, khó tánh, ngăn nắp, giữ của lâu bền
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Đẩu Quân có nghĩa là nghiêm nghị, chặt chẽ, khắc kỷ. Người có Đẩu Quân thủ Mệnh thường cô độc, ít bạn do sự khó tính hoặc câu chấp. Về điểm này, Đẩu Quân giống đặc tính của Cô Thần, Quả Tú. Nếu gặp sát tinh thì gian xảo, quỉ quyệt.
Công Danh Tài Lộc
Đẩu Quân chủ sự gìn giữ của cải lâu bền. Do đó, sao này rất đắc dụng ở cung Tài, Điền và biểu tượng cho sự cầm của, giữ của.
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Quan Lộc
Thường làm việc cố định, ít dời chỗ, làm chỗ nào rất lâu. Duy trì được chức vụ, quyền hành. Tuy nhiên, vì Đẩu Quân là sao cô độc nên đóng ở Quan sẽ ít được người giúp việc.
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Thiên Di Hay Nô Bộc
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
► Xem thêm: Tính cách 12 chòm sao và trắc nghiệm vui những điều liên quan đến bạn |
Hiện tượng: Nếu mở cửa trên đường quỷ môn Đông Bắc và Tây Nam hoặc hướng mở cửa không tốt hoặc cửa mở chéo, như vậy sẽ làm cho người khác cho rằng người trong nhà sống quái dị, độc hành, khó giao tiếp, tính tình khép kín, cô lập, tiếp nữa là ảnh hưởng đến mối quan hệ giao tiếp và cơ hội được người khác giúp đỡ.
Phương pháp hóa giải:
Phương thức hóa giải triệt để nhất là đổi hướng cửa, nếu không thể đổi hướng cửa thì bạn có thể sơn loại sơn màu đỏ lên ngưỡng cửa với ý nghĩa là “nạp cát” (thu nạp những điều tốt lành), hoặc cũng có thể treo một tấm la bàn trên cửa để hóa giải.
NAM: Cung Cấn, sao Thái-Bạch, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người có tài năng thích lãnh đạo chỉ huy, có anh hùng tính, thấy chuyện bất bình ra tay can thiệp. Đôi khi võ đoán chuyên quyền. Chữ “ tân” là cay đắng nên khi thì công danh tột đỉnh, có lúc phải trắng tay. Phải sớm ly hương hay xa gia đình cha mẹ anh chị em thì tốt hơn. Hậu vận thích triết, thích đạo lý và có khuynh hướng tu hành hướng thượng. Người sinh mùa Xuân, Thu rất dễ thành công. Hạp màu vàng, trắng, kỵ màu đỏ. Ở đời có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này bê tha. Một người dù tài giỏi thông minh tới đâu mà không chịu học, sẽ phải hối hận suốt đời. Thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài mà thôi. Chỉ cần chăm chỉ tốt nghiệp 4 năm đại học thôi, có thể sẽ thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.
“Tuổi trẻ hôm nay ráng học hành
Ngày mai rạng rỡ bước công khanh
Dùi mài khó nhọc công đèn sách
Hiếu thảo làm vui đấng sinh thành”
Nếu đang chơi soccer hay football, phải cẩn thận, đề phòng thương tích tay chân. Xấu nhứt là tháng 5.
NỮ: Cung Đoài, sao Thái-Am, hạn Tam-Kheo: Mẫu người biết lo xa, có tinh thần trách nhiệm, nhiều mưu cơ, giỏi ứng biến. Tiền vận rất gian nan, công danh thăng trầm, đường chồng con cũng nhiều trắc trở khó khăn. Tuy nhiên ly hương hay xa gia đình thì lại thành danh. Tuổi già thích làm công ích xã hội và tạo nhiều thiện nghiệp. Cho nên đời đạo thong dong, tiền tài súc tích. Chẳng những chỉ có bàn tay và khối óc mà dễ dàng thành tựu, còn phải nhờ ở phước đức do chính mình vun bồi. Hạp màu vàng, trắng. Kỵ màu đỏ. Ở đời có ba điều đáng trách: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là ngay hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh lỗi lạc tới đâu mà không chịu học, thì phải ân hận suốt đời. Thiên tài cũng nhờ ở cố gắng bền bỉ mà thành danh. Chỉ cần hoàn tất 4 năm đại học thôi, có khi được thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này:
Cơm cha áo mẹ công thầy
Ráng công học tập tháng ngày chăm lo
Tương lai giàu có ấm no
Yêu cuồng sống vội, hẹn hò không nên”
Nếu chơi game nhiều hay lạm dụng internet, computer sẽ bị cận hay viễn thị ngay năm nay!
KỶ-TỴ 25 TUỔI: ( Sinh từ 6/2/1989 đến 27/1/1990)
Mệnh: Đại-Lâm-Mộc ( cây trong rừng lớn).
NAM: Cung Khôn, sao Kế-Đô, hạn Địa-Võng: Thông minh, có tài năng, sắc sảo, có lý tưởng, nhạy bén nhưng hơi chủ quan. Đôi khi nuôi nhiều tham vọng, tự phụ. Trước 30 tuổi thường gặp nghịch cảnh. Nếu có vì học vấn mà xa gia đình sẽ may mắn, nên tự lập sớm. Hướng nhà ở và thương mại là Tây và Tây-Bắc. Lấy vợ hợp với những tuổi Bính-Tý (1996), Đinh-Sửu ( 1997), At-Hợi (1995) và Tân-Mùi (1991).
“Đời trai học vấn làm đầu
Siêng năng chăm chỉ ngày sau đạt thành
Hôn nhân sự nghiệp công danh
Thảnh thơi mai hậu: học hành hôm nay !”
Năm nay thi cử đỗ đạt, tốt nghiệp ra trường sẽ có việc làm vừa ý. Nếu muốn thay đổi chỗ làm, chỗ ở hay đi xa xuất ngoại sẽ gặp cơ hội thuận lợi. Muốn đi xa xuất ngoại cũng thành công. Bạn nào đã làm hãng xưởng dễ được lên chức, lên lương. Bạn nào kinh doanh thương mại sẽ thành công trên thương trường. Tuy nhiên lái xe phải cẩn thận đề phòng rủi ro về xe cộ trong tháng 3 và 9.
NỮ: Cung Tốn, sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Mẫu người sáng trí thông minh, nhanh nhẹn tháo vát, tự tin. Nhưng tiền vận thường phải phấn đấu với nghịch cảnh và sống nhiều về nội tâm. Bạn nào sinh ban đêm vào mùa Thu, Đông tình duyên rất thuận lợi.
“Tuổi trẻ miệt mài học hôm nay
Ngày mai danh lợi sáng tương lai
Siêng năng tiến bước đường học vấn
Hạnh phúc công danh sẽ an bài”
Hôn nhân hợp với tuổi Qúi-Hợi (1983), Tân-Dậu (1981), Bính-Dần (1986) và Đinh-Mão (1987). Lấy chồng bất luận năm nào, luôn luôn chọn ngày giờ trong tháng 3, và 9 âm lịch là tốt nhất. Kinh doanh thương mãi, chọn hướng Bắc, Nam và Đông Nam. Năm nay thi cử đỗ đạt. Bạn nào tốt nghiệp ra trường sẽ có việc làm như ý. Bạn nào muốn thay đổi trường học, chỗ ở, chỗ làm hay đi xa xuất ngoại đều được mãn nguyện. Bạn nào khởi đầu thương mãi cũng đầy may mắn. Muốn sinh con, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.
ĐINH-TỴ 37 TUỔI: (Sinh từ 18/2/1977 đến 6/2/1978).
Mệnh: Sa Trung Thổ (Đất lẫn trong cát).
NAM: Cung Khôn, sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Tính tình cương trực, nhưng hay sợ trách nhiệm, không dám đương đầu với khó khăn nên việc lớn khó thành. Vừa muốn yên thân lại không biết lo xa nên dễ thất bại trong buổi thiếu thời. Từ tình duyên đến công danh sự nghiệp đều có trở ngại ban đầu. Tuy nhiên, nhờ tích lũy kinh nghiệm, biết cần cù, nhẫn nại, sau 30 tuổi việc làm ăn lại thành công. Chọn vợ hạp nhất trong các tuổi Đinh-Tị (1977), Mậu-Ngọ (1978), Quý-Hợi (1983 ) và Đinh-Mão (1987). Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây-Bắc.
“ Tiền vận đôi khi lắm chuyện buồn
Tình duyên sự nghiệp chẳng mấy suông
Qua nhiều thử thách nhờ kiên nhẫn
Công thành danh toại thẳng tiến luôn”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn Tài” nên tận dụng vận may để xây cất nhà cửa, cơ sở thương mãi. Nhờ đó, việc làm ăn sẽ phát đạt lên. Tuy nhiên trước khi lái xe đi xa phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, tránh nằm đường. Đồng thời phải cẩn thận đề phòng tai nạn rủi ro về xe cộ. Nếu say rượu lái xe thì thảm họa khó tránh. Không nên đầu tư chứng khoán. Mọi việc đều xấu trong tháng 1, 7.
NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh : Mẫu người tài năng thông minh nên thích tự lập. Rất tự tin nên khó thuyết phục. Do đó lúc gặp nghịch cảnh phải chịu thành bại bất thường. Người sinh ban đêm vào mùa Hạ,Thu sẽ dễ thành công hơn. Lúc nhỏ hay đau ốm lặt vặt. Tiền vận thường gặp nhiều trắc trở về tình duyên. Tuổi chồng hợp nhất là Bính-Thìn (1976), Đinh-Tị (1977), Tân-Hợi (1971), Quý-Sửu (1973), Ất-Tị (1965), Tân-Dậu(1981) và Mậu-Thân (1968). Tối kỵ tuổi Giáp-Dần (1974). Hạp màu đỏ. Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc.
“Tình duyên trắc trở buổi ban đầu
Nhu mì uyển chuyển mới bền lâu
Thông minh tài đức, năng thắng số
Duyên phận nhẫn hòa khỏi lo âu“
Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm“Tứ Tấn Tài” rất thích hợp cho việc xây cất nhà cửa chỉnh trang cơ sở thương mại. Hy vọng nhờ đó mà công việc làm ăn phát đạt, thành công hơn. Tuy nhiên gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con. Xấu nhất là tháng 3, 9. Lái xe cũng phải cẩn thận đề phòng những rủi ro trong 2 tháng này. Nếu muốn đẻ con út, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.
ẤT-TỴ 49 TUỔI: (Sinh từ 2/2/1965 đến 20/1/1966).
Mệnh: Phú Đăng Hỏa (Lửa ngọn đèn).
NAM: Cung Cấn, sao Thái-Bạch, hạn Tán-Tận: Mẫu người ngay thẳng, trọng lời hứa, có tinh thần trách nhiệm, thích giúp người nhưng ít khi được người đền đáp. Tiền vận gian nan, vất vả, thăng trầm. Tình duyên cách trở đổi thay. Nhiều khi có tài mà không gặp thời. Người sinh ban đêm mùa Xuân, Hạ dễ thành công hơn. Người ly hương tự lập thường tạo nên sự nghiệp. Vợ là cánh tay phải rất đắc lực nếu nhằm vào các tuổi Nhâm-Tí (1972), Quý-Sửu (1973), Ất-Tị (1965), Giáp-Thìn (1964), Canh-Tí (1960), Tân-Sửu (1961) và Nhâm-Dần (1962). Rất kỵ tuổi Bính-Ngọ (1966). Hạp màu đỏ, tối kỵ màu đen, đi xe đen. Nhà cửa và kinh doanh tốt nhất trên hướng Tây Bắc và chánh Tây.
“ Có tài mà chẳng gặp thời
Tánh tình ngay thẳng giúp người quản chi
Gian nan vất vả lắm khi
Đức năng thắng số lo gì tương lai”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết” nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh, có thể thực hiện được. Tháng 5, kỵ mặc đồ trắng, gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con, tài lộc hao tán. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại. Tất cả công việc làm ăn cứ theo đường xưa lối cũ, tránh mở mang rộng lớn, chẳng những lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không; mà còn gây nên tình trạng bế tắc về tài chánh.
NỮ: Cung Đoài, sao Thái-Am, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người đoan chính, bền tâm kiên nhẫn, cần cù nhẫn nại, vượng phu ích tử, rất năng nỗ quán xuyến đảm đang. Tình đầu trắc trở. Xuất ngoại ly hương dựng nên sự nghiệp lớn lao. Người sinh ban đêm vào mùa Xuân, Hạ rất thành công. Đại kỵ màu đen, đi xe đen. Hạp màu đỏ. Tuổi chồng hạp nhất là Ất-Tị (1965), Tân-Sửu (1961), Đinh-Dậu (1957), Bính-Thân (1956), Tân-Mão (1951) hoặc Đinh-Mùi (1967), Bính-Ngọ (1966) và Quý-Tị (1953). Hướng làm ăn tốt nhất là Tây Nam, Đông Bắc và Tây Bắc.
“Vượng phu ích tử số người
Đảm đang quán xuyến tuyệt vời vợ ngoan
Duyên lành gặp được chồng sang
Trọn đời hạnh phúc huy hoàng trăm năm”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết”, nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Tuy nhiên tránh mở mang rộng lớn, chẳng những lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không; mà còn gây ra tình trạng bế tắc về tài chánh. Nếu làm việc nhiều bằng computer, sẽ bị đau mắt. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại gây nhiều hao tán.
QUÝ-TỴ 61 TUỔI: (Sinh từ 14/2/1953 đến 2/2/1954).
Mệnh: Trường Lưu Thủy ( Nước chảy thành dòng lớn).
NAM: Cung Khôn, sao Kế-Đô, hạn Địa-Võng: Người thông minh lanh lợi, thích bạn bè náo nhiệt. Tánh tình cẩn thận, biết tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng và hay xa gia đình. Tình duyên lận đận trong hồi tiền vận. Người sinh tháng 6, 7, 11 dễ thành công hơn những tháng khác. Nhờ lo xa mà cuộc sống gia đình được sung túc an nhàn. Xuất ngoại sớm thành công danh sự nghiệp. Nếu hiền nội nhằm tuổi Giáp-Ngọ (1954) thì rồng mây tương hội, công danh hiển hách, phú quí giàu sang. Nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“ Cuộc đời vốn được an nhàn
Rồng mây tương hội giàu sang mấy hồi
Gia đình dầu có xa xôi
Cửa nhà tốt đẹp hạ hồi thuận duyên”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu trúng vào “Nhứt Kiết”; nếu muốn xây cất nhà cửa, chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Tháng 3, tháng 9, gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hay tang chế bà con. Tuy nhiên việc làm ăn rất thắng lợi và thành công. Qúy ông làm công chức được thăng quan tấn chức. Qúy ông kinh doanh thương mãi cũng vững bền tài lộc. Đồng thời nhiều cơ hội đi xa xuất ngoại vui vẻ sẽ tới trong năm.
NỮ: Cung Tốn, sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Người thông minh nhiều sáng kiến, dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh và luôn gặp qúi nhân trong đời. Số hơi vất vả buổi đầu, nhưng trung và hậu vận lại phát đạt thành công. Hồng nhan đa truân, tình duyên thường có trắc trở chia ly rồi lại tái hợp vững bền. Sẽ nhờ chồng nếu gặp tuổi Ất-Mùi (1955), Tân-Mão (1951), At-Dậu (1945). Đời sống khỏi lo lắng nhiều, chỉ nhờ cần cù nhẫn nại mà vẫn sung túc an nhàn. Rất hạp màu trắng. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam và Đông Nam.
“ Quý-Tỵ hậu vận thành công
Qua bao thử thách vợ chồng đẹp đôi
Làm ăn phát đạt thảnh thơi
Thăng quan tiến chức cứ ngồi hưởng thôi”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết”, nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Mặc dù tháng 1, tháng 7 gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con. Tuy nhiên muốn thay đổi chỗ ở, chỗ làm hay đi xa xuất ngoại sẽ gặp hoàn cảnh thuận lợi vui vẻ.
TÂN-TỴ 73 TUỔI : (Sinh từ 27/1/1941 đến 14/2/1942).
Mệnh: Bạch Lạp Kim (Vàng ở chân đèn).
NAM: Cung Khôn, sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Mẫu người có tài năng thích lãnh đạo chỉ huy, thích làm việc cộng đồng, nhưng đôi khi hơi võ đoán chuyên quyền. Chữ “Tân” là cay đắng khổ sở nên khi thì công danh tột đỉnh, có lúc lại trắng tay. Phải sớm ly hương xa cha mẹ anh em mới khỏi bị mồ côi. Hậu vận thích triết, thích đạo lý và có khuynh hướng tu hành hướng thượng. Người sinh mùa Xuân, Thu rất thành công. Kỵ màu đỏ. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“Tài trai ngang dọc uy nghi
Dang tay gánh vác sá chi thân mình
Hy sinh vì nghĩa chân tình
Nặng lòng chung thủy hiển vinh an nhàn.”
“ Thất thập cổ lai hi”. Vậy đã 73 tuổi, qúy ông nên tính chuyện về hưu “ rửa tay gác kiếm”, qui ẩn giang hồ may ra có thể tránh được bệnh hoạn ốm đau. Xấu nhất là tháng 1, 7 trong gia đình có người phát bệnh hoặc tang chế bà con. Qúy ông còn lái xe, cũng phải cẩn thận đề phòng rủi ro về xe cộ trong 2 tháng này. Không nên đầu tư chứng khoán, may ít rủi nhiều trong năm nay. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại vì nhiều bất trắc.
NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người biết lo xa, có tinh thần trách nhiệm, nhiều mưu cơ, giỏi ứng biến. Tiền vận rất gian nan thăng trầm về công danh, đường chồng con cũng nhiều trở ngại khó khăn. Tuy nhiên khi ly hương thì lại đạt nhiều mơ ước. Tuổi già thích đạo lý và tu hành, giúp đỡ người, làm điều phước thiện. Vật chất tiền tài sung túc thì nên tiếp tục làm phước. Sự giàu sang phú quí hiện tại, một phần là do bàn tay và khối óc, một phần là nhờ ở phúc đức của chính mình. Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc
“Công danh dầu dãi khó khăn
Tạo nhiều phước đức công bằng Trời ban
Qua hồi vất vả gian nan
Trăm năm hạnh phúc vẻ vang một đời”
Năm nay tháng 3, tháng 9 gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hoặc tang chế bà con. Cổ nhân nói “Thất thập cổ lai hi”. (Được sống tới 70 cũng ít). Vậy năm nay qúy bà đã 73 tuổi, nên về hưu, “rửa tay gác kiếm, qui ẩn giang hồ” may ra có thể tránh được bệnh hoạn, ốm đau. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại vì nhiều bất trắc khó lường!
Nguồn Vietstar
Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.
>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!
Không biết từ bao giờ người Hà Thành lại gắn cho chùa Hà một niềm tin tha thiết vào hai chữ “tình duyên”. Nếu như các ngôi chùa khác thì người đến thắp hương đông nhất là các cụ cao niên và trung niên thì ở chùa Hà, đông nhất lại là các bạn trẻ, các nam thanh nữ tú đến đây cầu duyên. Chùa Hà là một trong những quần thể chùa đẹp và thu hút rất nhiều phật tử, du khách và ngay cả các bạn trẻ Hà Thành.
Đến với chùa Hà, du khách không chỉ được ngắm nhìn vẻ đẹp truyền thống, một vẻ đẹp cổ đậm chất Việt Nam mà còn biết thêm những giá trị lịch sử của dân tộc. Với khuôn viên rộng và có ghế đá cho du khách dừng chân, ta có thể tìm ở nơi đây một cảm giác yên tĩnh, thanh tịnh giữa lòng Thủ đô.
Chùa Hà có tên chữ là Thánh Đức Tự, cùng với Đình Bối Hà, lập thành cụm di tích Đình - Chùa Hà nằm trên một mảnh đất, trước kia thuộc làng Dịch Vọng (tên nôm là làng Vòng), huyện Từ Liêm, nay thuộc phố Chùa Hà, thôn Trung, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Về lí do xây dựng chùa Hà có hai truyền thuyết đều gắn với vua Lý Thánh Tông
Truyền thuyết thứ nhất:
Vào thời Lý vùng Dịch Vọng đã có nhiều danh thắng nổi tiếng. Vua Lý Thánh Tông (trị vì 1054 - 1072) lúc 42 tuổi vẫn chưa có con nên đã cầu tự ở một ngôi chùa mà sinh ra Thái tử Càn Đức, do đó ngôi chùa này gọi là chùa Thánh Chúa để kỷ niệm sự kiện này. Trên đường đi vua còn ghé qua một ngôi chùa khác và ban tiền bạc cho chùa để trùng tu lại, vì vậy chùa này còn có tên là Thánh Đức tự. Vua Lý Thánh Tông đột ngột mất năm 50 tuổi, thái tử Càn Đức lên ngôi lúc 7 tuổi, tức là Lý Nhân Tông.
Truyền thuyết thứ hai:
Chùa Hà được xây dựng lên để vua Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) bày tỏ lòng nhớ ơn các đại thần Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã cưu mang mình và phế bỏ Lê Nghi Dân để đưa mình lên ngôi vua vào năm 1460.
Trải qua bao phen binh hỏa, chùa Thánh Đức đã bị phá hủy nhiều lần. Đến năm 1680 chùa vẫn còn lợp lá gồi, tường xây bằng gạch vồ nên người dân gọi là chùa Vồi. Đến đời vua Lê Hy Tông (1675-1705) có hai người quê làng Thổ Hà tỉnh Bắc Giang sang ở chùa để bán các đồ gốm sứ ở chợ trong và ngoài thành Thăng Long. Nhờ buôn bán phát đạt, hai gia đình này tình nguyện công đức số tiền lớn cùng nhân dân trong xóm xây dựng lại chùa với quy mô lớn bằng gạch ngói vào năm Chính Hòa (1680). Từ đó hai làng Thổ Hà và Dịch Vọng Trung kết nghĩa, đặt tên xóm có ngôi chùa là Bối Hà và chùa có tên nôm là chùa Hà.
Qua nhiều thăng trầm với thời gian, ngày nay rất đẹp và bề thế. Ngoài cùng là cổng Tam quan xây hai tầng có hệ thống cầu thang lên ở phía trái. Chùa chính kết cấu kiểu chữ Đinh có Tiền đường và Thượng điện, tam bảo năm gian rộng. Tòa phật điện của chùa được bố trí theo nhiều lớp. Đức Ông chùa Hà rất linh thiêng nên dân quanh vùng có câu "Đức Ông chùa Hà, Đức Bà chùa Hương”. Phía sau chính điện của chùa là Điện Mẫu. Kiến trúc Điện Mẫu bao gồm phía trước là phương đình, phía sau là Thần điện. Gian chính giữa đặt Mẫu Thượng Thiên trang phục màu đỏ, bên trái là tượng Mẫu Thượng Ngàn trang phục màu xanh, bên phải là tượng Mẫu Thủy trang phục màu trắng, ngoài ra còn có tượng các ông hoàng, bà chúa, tượng cô cậu khác.
Như vậy, từ khi xây đến nay, chùa không hề có truyền thuyết nào liên quan đến việc tình yêu đôi lứa.
Nhưng chùa Hà lại là ngôi chùa cầu duyên rất linh thiêng. Lý do tại sao?
“Có người yêu chưa? Chưa có á, thật không? Xinh thế này mà chưa có thì vô lý nhỉ. Thôi đi chùa Hà đi, đảm bảo sang năm cưới ngay”.
Đó là lí do chùa Hà quanh năm đông khách viếng thăm, chủ yếu là các bạn trẻ.
Không giống các di tích lịch sử có tích gắn liền với những câu chuyện liên quan, việc cầu duyên ở chùa Hà hoàn toàn là tự phát, do "rỉ tai” mà nên. Người nọ mách người kia, người kia lại mách người kia nữa với những ví dụ, minh chứng rất hùng hồn về việc thiêng liêng, ứng nghiệm khi cầu khấn nơi đây.
Các diễn đàn trên mạng còn có nhiều trang về chủ đề này, để các bạn trẻ hỏi han kinh nghiệm của nhau. Có người khoe: "Tớ đến đây cầu duyên, mấy tháng sau có liền. Được chàng ưng ý lắm”. Có người khẳng định: "Phòng không mấy năm trời, tớ vừa đến chùa Hà khấn nguyện, gặp ngay người yêu, giờ sắp cưới rồi nhé”. Cũng có người "chắc như đinh đóng cột” rằng mình đã cưới được mấy năm, có con cái, sống rất hạnh phúc.
Người ta còn mách nhau đến đó phải mua lễ như thế nào, muốn cầu tài lộc thì đặt lễ ở chính điện, còn nếu cầu duyên thì dâng hương ban thờ Mẫu mới linh nghiệm. Khách thập phương, trong đó nhiều nhất là thanh niên nam nữ không chỉ ngày rằm, mùng một hay đầu năm mới mới đến chùa thắp hương cầu xin mà dường như quanh năm, chùa lúc nào cũng đông khách.
Có thể nói trong số các chùa lớn nhỏ ở Hà Nội thì chùa Hà là nơi thu hút được đông người trẻ đến lễ nhất. Đến chùa Hà, nữ có phần đông hơn nam và tất cả các bạn nữ đến đây đều không hề giấu giếm ý định cầu duyên của mình. Các chàng trai thì có phần kín đáo hơn một chút. Vào chùa, người ta có thể bắt gặp nhiều thiếu nữ chắp tay khấn với một vẻ vô cùng thành kính, khấn rất lâu, ánh mắt đăm đăm nhìn Phật như muốn thổ lộ cả gan ruột.
Tuy vậy, ngoài tin đồn cầu duyên linh thiêng, chùa Hà cũng được cho là nơi chỉ cầu được duyên chưa đến, chứ nếu duyên đến rồi, cầu thì chỉ có… tan mà thôi. Nếu mà thật sự muốn đi cầu thì cũng nên tìm hiểu tập tục của nó trước khi làm.
Nếu một cặp đã yêu nhau lên chùa mà lại cầu tình duyên tức là cặp đó chia tay luôn mỗi người muốn một duyên mới. Hay là đến chùa hà cầu duyên đã thành thì đừng bao giờ quay lại trả ơn nhé,họ bảo là trả ơn là trả lại duyên đó,ai mà trả duyên mai này vợ chồng sẽ trục trặc.
Nghe nói mình nợ ơn chùa cũng là mình nợ ơn người bạn đời suốt đời đó, vì thế để để trả ơn chùa thì hãy yêu thương bạn đời của mình. Cũng không rõ có bằng chứng gì về việc các đôi yêu nhau cùng lên chùa cầu duyên rồi trở về đều chia tay nhau hay không, song việc này cũng trở thành một kinh nghiệm “xương máu” mà các bạn trẻ tuyệt nhiên tránh.
Dọc con phố dẫn vào chùa Hà bán chỉ một loại hoa hồng, hoa của tình yêu. Những người viết sớ thuê thì luôn sẵn sàng viết những lá sớ cầu xin trời Phật gắn kết người này với người kia, xin mặn nồng, bền lâu theo ý của những người đến cầu duyên. Các hàng lưu niệm quanh chùa cũng bán rất nhiều vòng, nhẫn… mà cái nào cũng đi theo đôi, theo cặp…
>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!
>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!
► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh |
Ảnh minh họa |
Trong Lục Thập Hoa Giáp, Bính Dần có tính cách như lửa, trong nháy mắt thiêu đốt tiêu diệt mọi thứ. Ngoài ra, bởi tự nhận tài trí hơn người nên thành lười biếng, coi rằng mình đã ngập tràn nhiệt tình rồi, không cần phải tiếp tục nỗ lực nữa. Còn điều gì về tử vi của người tuổi Bính Dần, xin mời độc giả cùng theo dõi.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Quy tắc bói bài:
1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.
2. Tự hỏi thầm bản thân "Làm thế nào để giữ lửa cho tình yêu xa?".
3. Chọn một lá bài theo trực giác và xem đáp án.
Mr.Bull (theo Dyxz)
Tất cả chúng ta đều biết rằng, khi xây dựng một ngôi nhà trước hết phải đào móng làm nền vững chắc, sau đó xây phòng ở, rồi đến các phòng khác và cuối cùng mới đến cửa và các công trình phụ, tường rào… và không ai làm ngược lại như vậy.
Phong thuỷ học giải thích rằng, nếu xây dựng từ ngoài vào trong sẽ làm cho uế khí luôn ám trong nhà, không thông thoáng, ảnh hưởng tới sinh hoạt thường nhật của chủ nhà. Còn theo thực tiễn thì khi thi công công trình nhà ở, nếu như hoàn tất công trình ngoài nhà trước rồi mới làm các công trình phía trong, thì khi vận chuyển vật liệu, rất dễ làm bẩn, sứt mẻ các công trình đã hoàn thành.
Nếu thi công từ trong ra ngoài, bạn không những khắc phục được tình trạng trên, mà còn tránh được hiện tượng chồng chéo giữa các tốp thợ do họ làm đi làm lại cùng một công việc, tiến độ sẽ nhanh, chắc, sớm hoàn thành và cũng tiết kiệm được chi phí xây dựng.