Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem tướng qua tư thế nằm –

Nằm đương nhiên cho ta thông tin về tâm trạng và tâm thế. Tướng nằm là “duy biến” và thể hiện ở hai trạng thái: - Tướng nằm khi thức - nằm nghỉ ngơi. - Tướng nằm khi ngủ. Dù khi ngủ hay khi nghỉ thì bao giờ cũng có thế cố hữu của cách nằm phù hợp với

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nằm đương nhiên cho ta thông tin về tâm trạng và tâm thế. Tướng nằm là “duy biến” và thể hiện ở hai trạng thái:
– Tướng nằm khi thức – nằm nghỉ ngơi.
– Tướng nằm khi ngủ.
Dù khi ngủ hay khi nghỉ thì bao giờ cũng có thế cố hữu của cách nằm phù hợp với cá thể.

co gai nam ngu

I. TƯỚNG NẰM KHI THỨC – NAM NGHỈ NGƠI.
Khi thức thì người ta hay nằm tùy tiện. Nhưng rồi người nằm sẽ trở về thế quen thuộc của mình.
1. Nằm như thế núi, vững trãi (đầu cao, người nghiêng, chân hơi co, chân kia thẳng) thế nằm của Phật A Di lặc.
Tướng: Phúc thọ, giầu có, mưu mô, túc trí.
2. Nằm ngửa duỗi tay, duỗi chân: Không thọ.
3. Nằm nghiêng: Người kín đáo, kép nép.

II. TƯỚNG NẰM KHI NGỦ.
Sau khi ngủ say, người ta sẽ trở về thế nằm “bất biến” vì vậy mà khái quát tướng nằm là: Nằm yên tĩnh, tự nhiên thì phúc thọ, giầu sang. Nằm mà không yên tư thế gò bó thì xấu: khổ ải.

1. Nằm ngủ mà giang tay, giang chân: Tướng ngang tàng, phóng túng, tham vọng lớn. Không sự hãi, là người dũng lược.
2. Nằm co quắp: Tướng yếu, hèn không có dũng khí, người mồm mép.
3. Nằm nghiêng, duỗi tay chân thoải mãi: Tướng giầu có, sang trọng, sống lâu.
4. Nằm ngủ mà nghiến răng ken két: Tướng chết vì tai họa binh đao, chiến tranh.
5. Nằm ngủ mà miệng há hốc: Tướng chết non.
6. Nằm ngủ mà mở mắt (như Trương Phi): Tướng chết vì kíp nạn giữa đường.
7. Nằm ngủ mà nói mê sảng lung tung: Tướng hèn mọn, thân phận tôi đòi, làm thuê làm mướn.
8. Nằm ngủ úp mặt xuống gối: Tướng đói khát, khổ ải.
9. Nằm ngủ mà xoay tứ phía không định hướng: Tướng bần hàn, luôn lo lắng sinh nhai.
10. Nằm ngủ mà thở ra hôi hám: Tướng ngu đần.
11. Nằm ngủ mà thở ra ngắt quãng: Tướng chết non, đoản mệnh.
12. Nằm ngủ mà thoát ra tiếng “hừ hừ”: Tướng tử nạn.
13. Nằm ành ành (như lợn nằm): Tướng nghèo.
14. Ngủ mà thần thái sợ hãi: Tâm không an, trí suy kiệt.
15. Ngủ mà thở điều hòa thần thái bình lặng: Tướng thanh cao, thư thái, hiền lương.
16. Nằm ngủ mà nét mặt cau có: Tướng thô bạo, đời bất hạnh.
17. Nằm ngủ mà nét mặt dữ tợn: Tướng sát nhân và đoản mệnh.
18. Nằm ngủ mà thần thái bất an: Tướng yếu hèn, kinh khiếp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua tư thế nằm –

Tại sao đi chùa lễ Phật lại thường thắp 3 nén nhang, lạy 3 lạy?

Rất nhiều người thường đến chùa thắp hương và cúi đầu bái Phật để cầu phúc, cầu tuổi thọ, cầu con đàn cháu đống.. Họ đều thành tâm thiện ý gửi gắm nơi cửa Phật, thế nhưng ý nghĩa của 3 nén nhang, 3 cái vái lạy lại không mang ý nghĩa như vậy. 3 nén nhang, 3 cái vái lạy trước Phật là một hành động thể hiện sự tôn kính, hành vi tự nguyện đối với đấng bề trên sáng suốt, và cũng đại diện cho luật nhân quả
Tại sao đi chùa lễ Phật lại thường thắp 3 nén nhang, lạy 3 lạy?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2017 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2017 mới nhất nhé!

Chúng ta thường nghe nói thắp 3 nén nhang mà không được thắp 2 hoặc 4, thế nhưng ít ai hiểu được nó tượng trưng cho điều này.

Rất nhiều người thường đến chùa thắp hương và cúi đầu bái Phật để cầu phúc, cầu tuổi thọ, cầu con đàn cháu đống, vợ chồng hạnh phúc, cầu thăng quan tiến chức, cầu phát tài phát lộc, tình duyên mỹ mãn, vạn sự như ý. Họ đều thành tâm thiện ý gửi gắm nơi cửa Phật, thế nhưng ý nghĩa của 3 nén nhang, 3 cái vái lạy lại không mang ý nghĩa như vậy. 3 nén nhang, 3 cái vái lạy trước Phật là một hành động thể hiện sự tôn kính, hành vi tự nguyện đối với đấng bề trên sáng suốt, và cũng đại diện cho luật nhân quả

Đi chùa lễ phật là nét đẹp của người Việt

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2017 mới nhất>>>

Tại sao lại thắp 3 nén nhang?

Theo tín ngưỡng của người Việt, thắp nhang cho bàn thờ Phật, ông bà, tổ tiên là một lòng thành tâm mong muốn những điều tốt đẹp, cầu mong sức khỏe, sự bình an, hạnh phúc và tài lộc đến với gia đình. 3 nén nhang và 3 lạy có ý nghĩa rất sâu xa, liên quan mật thiết đến văn hóa và niềm tin của người Việt Nam.

Theo ngôn ngữ Phật học, 3 nén nhang lạy trước tượng Phật có ý nghĩa tương ứng với " giới hương, định hương và huệ hương. ".

- Nén nhang thứ nhất được gọi là "giới hương" nghĩa là trước mặt Phật biểu đạt lòng quyết tâm của mình, từ bỏ thói quen xấu, từ bỏ suy nghĩ xấu.

- Nén nhang thứ hai gọi là "định hương" có ý nghĩa là dù có điều gì xảy ra trong cuộc sống, tinh thần cũng sẽ bình tĩnh, cầu mong luôn suy nghĩ sáng suốt, hành động theo lí trí.

- Nén nhang thứ ba là "tuệ hương" (hay "huệ hương") có ý cầu khẩn bản thân được có trí tuệ, thông minh, sáng suốt để gặp được Phật tâm. 

Theo kinh Phật, "giới, định, huệ" là phương pháp "khai mê khai ngộ" bỏ qua những suy nghĩ sai lầm, một tấm lòng chân chính, lương thiện, hướng về đức Phật. Chỉ khi còn người từ bỏ được cách nghĩ xấu, hành động xấu thì nhân quả của bản thân mới được trở nên tốt đẹp hơn. Giới, Định, Huệ là cách để con người thoát khỏi sự mê muội và đi đến con đường tỉnh ngộ và đó cũng là một loại quan hệ nhân quả. Chỉ có vứt bỏ đi thói quen và những quan niệm xấu của bản thân, tâm mới yên và sau đó mới xuất hiện “yên mới sinh huệ”.

Tại sao lại lạy 3 lạy?

Vậy tại sao lại lạy 3 lạy? Lạy thứ nhất thể hiện lòng thành tâm hướng Phật. Lạy thứ hai thể hiện ước vọng muốn được giác ngộ, muốn được quy về chốn cửa Phật. Lạy thứ ba là trang nghiêm sám hối lỗi lầm của mình trước Phật. 

Như vậy, thắp 3 nén nhang, lạy 3 lạy là một hành động không phải chỉ theo thói quen mà là một nghi lễ có truyền thống lâu đời, thể hiện cái tâm ấm áp, tín ngưỡng cao đẹp của dân tộc hướng tới những điều lương thiện. 

>> Đã có VẬN HẠN 2017 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao đi chùa lễ Phật lại thường thắp 3 nén nhang, lạy 3 lạy?

Con giáp nào dễ trở thành 'kẻ thứ ba phá đám'

Trong chuyện tình cảm, khi đã thực sự rơi vào lưới tình, người tuổi Tỵ sẽ chủ động chinh phục đối phương bất chấp
Con giáp nào dễ trở thành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Tỵ

Họ không quan tâm đến kết quả cuối cùng ra sao mà chỉ lao mình đi tìm cơ hội tiếp cận trái tim đối phương.

ty-9616-1405878996.jpg

Dù có mang tiếng là kẻ thứ ba phá đám, họ vẫn kiên quyết tới cùng. Chỉ khi nào đối phương chính thức kết hôn, người tuổi Tỵ mới buông tay.

No2: Tuổi Sửu

Người tuổi  này làm việc gì cũng chắc chắn nhưng lại không thể kiểm soát được tình cảm và tham vọng của bản thân. Nếu đã dính vào chuyện tình yêu, họ tham vọng có được tình cảm của đối phương bằng mọi giá. Dường như không điều gì có thể cản trở họ dừng lại.

suu-6265-1405878996.jpg

Họ dễ rơi vào tình huống là kẻ thứ ba "phá đám" chuyện tình của người khác. Bởi lẽ tình cảm sướt mướt trong trái tim họ đã lấn át hết lý chí rồi.

No3: Tuổi Mão

Người tuổi Mão có bản tính ôn hòa và thích dựa dẫm vào người khác. Nếu ai đó đưa tay giúp đỡ họ trong hoàn cảnh khó khăn, họ sẽ khắc cốt ghi tâm và dành tình cảm yêu mến chân thành.

tuat-5554-1405878996.jpg

Thậm chí, nếu có tình cảm đặc biệt với người ấy, họ sẽ chủ động tán tỉnh và tạo cơ hội độc chiếm trái tim đối phương bất kể người đó đã có "gấu" hay chưa.

Mr.Bull

tuoiti2-1404770519-1404770532-7889-1135-

Con số mang lại điều tốt lành cho 12 con giáp

1 và 6 là số may mắn của người tuổi Hợi, Tý; 5 và 0 là số may mắn của người tuổi Tuất, Thìn...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào dễ trở thành 'kẻ thứ ba phá đám'

Đặc điểm của lá số tử vi có tứ trụ thuần dương (P2)

Xem tử vi có tứ trụ thuần dương thì lợi có mà hại cũng có. Người này cần kiềm chế, giữ thân, ít đôi co với người khác.
Đặc điểm của lá số tử vi có tứ trụ thuần dương (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi có tứ trụ thuần dương thì lợi có mà hại cũng có. Người này cần kiềm chế, giữ thân, ít đôi co với người khác.


Dac diem cua la so tu vi co tu tru thuan duong P2 hinh anh 2
 
Lá số tử vi có thiên can và địa chi ở tứ trụ đều thuộc dương thì là tứ trụ thuần dương.   5. Cuộc đời nhiều thăng trầm   Bát tự thuần dương thì dương khí quá mạnh nên cuộc đời thăng trâm khó tránh, sự nghiệp dễ dàng thành công, tạo nên công trạng nhưng phải trả giá không ít. Nhất là nam mệnh thuần dương thì càng tăng thêm phụ trợ cho bản mệnh, sự nghiệp vang dội song thăng trầm cũng lớn hơn so với người bình thường do cục trung âm dương khí thế tương phản, hơn nữa lại mà vận thế ảnh hưởng.   Phương pháp để đón cát tránh hung cho người có tứ trụ thuần dương là mang theo vật phẩm phong thủy thuộc ngũ hành Thủy. Ví dụ như hắc diệu thạch, vật màu đen, màu xanh lam, nên mang vồng trang sức có hình chuột, rắn, nuôi thằn lằn làm thú cưng. Dẫu vậy, cũng đừng quá lo lắng, vì suy cho cùng, vận mệnh ở trong tay mình, tốt hay xấu đều có thể suy chuyển. Lá số tử vi của phụ nữ lấy chồng giàu sang Luận giải lá số tử vi Phá Quân lâm cung Điền Trạch, Phúc Đức, Phụ Mẫu Luận giải lá số tử vi Phá Quân lâm cung Quan Lộc
6. Lợi và hại của bát tự thuần dương
  Bát tự thuần dương thì tính cách như ánh mặt trời buổi sớm, quang minh lỗi lạc, hào sảng. Người nữ thì khí phách, trượng nghĩa có điều vất vả. Người nam vừa mạnh mẽ vừa táo bạo nhưng quá vội vàng, dễ xao động, sự nghiệp thành công nhưng trả giá không ít vì võ đoán.   Tựu chung lại, lá số tử vi này có 2 lợi 3 hại. Lợi ở sự nghiệp rộng rãi, mệnh cục Thân vượng, đều là nữ cường nhân, nam bản lĩnh, mạnh dạn đi đầu, dám mạo hiểm, hiệu suất cao, tinh lực tràn đầy, không ngại thử thách, thành công là sớm muộn. Lợi ở sức khỏe, tố chất thân thể hơn người, nếu có thể tiêu tai giải nạn tì trường thọ.
Dac diem cua la so tu vi co tu tru thuan duong P2 hinh anh 2
 
Nhưng hại ở tính cách, hấp tấp vội vàng, mạnh mẽ cứng rắn nên không viết tiến lui, mềm dẻo, uyển chuyển, làm việc cực đoan, không chú ý chi tiết. hại ở  hôn nhân, khó thòa hợp với bạn đời, thường xuyên bất hòa, không tới cuối đường, dẫn tới ly hôn hoặc phải tái hôn. Hại ở khỏe mạnh, độc dương không lâu, tuy rằng người có bát tự thuần dương thì ít ốm đau nhưng đã bệnh là nan y, dễ dàng vì bạo bệnh mà bỏ mình hoặc đột tử.

Lá số tử vi Phá Quân lâm Thê cung bất lợi đủ đường Xa rời anh em vì lá số tử vi Phá Quân tọa cung Huynh Đệ Sự nghiệp trắc trở với lá số tử vi Phá Quân lâm cung Tài Bạch
Tâm Lan

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc điểm của lá số tử vi có tứ trụ thuần dương (P2)

Vì sao nói cửa lớn là miệng nạp khí? –

Nạp khí là quan niệm phong thủy dùng để điều hòa giữa Thiên - Địa - Nhân (trời, đất và người), nó cũng là một nguyên tắc khá quan trọng trong phong thủy học. Trong phong thủy học, cửa lớn đối với người cư trú có quan hệ rất quan trọng, được coi là mi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nạp khí là quan niệm phong thủy dùng để điều hòa giữa Thiên – Địa – Nhân (trời, đất và người), nó cũng là một nguyên tắc khá quan trọng trong phong thủy học.

av

Trong phong thủy học, cửa lớn đối với người cư trú có quan hệ rất quan trọng, được coi là miệng nạp khí vì:

–   Cửa lớn là lôi đi chính để mọi người ra vào ngôi nhà, là biểu trưng bộ mặt hưng suy của gia đình và cũng là con đường để khí ra vào.

–   Điềm lành dữ của ngôi nhà đều tại nơi cửa lớn, nhà nhận khí từ cửa, nên cửa lớn được gọi là miệng nạp khí, trên thì tiếp khí trời, dưới thì nhận khí đất.

–   Cửa lớn đặt đúng vị trí, có thể tiếp nhận năng lượng tự nhiên, có lợi cho sức khỏe và sự nghiệp của gia chủ.

Để cửa lớn có thể nạp được vượng khí thì phải xem vị trí của cửa lớn cùng hướng nhìn ra, kích cỡ cửa, cảm quan, vật liệu làm cửa và môi trường xung quanh. Cụ thể như sau:

–   Cửa ra vào nên đặt lệch sang phía bên tay trái của người đứng trong nhà nhìn ra cửa lớn, hoặc bên tay phải của người đứng từ ngoài sân nhìn vào mặt tiền ngôi nhà. Chuẩn mực để tìm ra phương vị tôi ưu cho cửa lớn và cửa sổ là lấy cả ngôi nhà làm nền tảng.

–   Kích cỡ của cửa chính cần vừa phải, còn với cửa hàng và công sở thì cửa chính cần to rộng.

–  Không nên trang trí rườm rà, nhiều góc cạnh, lồi lõm phần nhìn từ ngoài chính diện cửa lớn.

–    Chọn vật liệu dày, chắc, khỏe để làm cửa lớn. Khung cửa không nên dùng tấm kim loại hàn hoặc bắt ốc vít thành trụ, quá giang rỗng ruột, nếu khung cửa vẹo lệch phải sửa chữa ngang bằng sổ thẳng.

–   Khi chọn vị trí cho cửa lớn, phải chú ý đến cảnh quan môi trường xung quanh. Nếu về mặt phong thủy có khuyết điểm không thể khắc phục thì phải chọn vị trí khác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao nói cửa lớn là miệng nạp khí? –

Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa dâu?

Thời nay hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau kết hôn trên cơ sở tình yêu đôi lứa. Có nên duy trì tục lệ không nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu không?
Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa dâu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong chế độ phong kiến cũ, hôn nhân cưỡng ép, thường là cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Thực ra, trong nhiều gia đình, người cha quyết định mọi việc, người mẹ chỉ biết tuân theo.

Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái oăm: Ngày con gái vu quy đáng lẽ là ngày vui nhất trong đời nhưng người thì khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc, người thì lo sợ cảnh làm dâu, làm vợ, từ tấm bé chưa rời mẹ, nay tự nhiên mẹ con xa nhau; Mẹ thương con còn thơ dại, cũng mủi lòng sụt sùi khóc. Thế là, trong khi hai họ đang vui mừng yến ẩm ở nhà ngoài thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về. Tan tiệc, nhà trai chẳng tìm thấy cô dâu đâu nữa. Qua một vài đám như vậy người ta rút kinh nghiệm không nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu, dần dần trở thành tục lệ.

Một vài địa phương, cả bố cô dâu cũng không đi đưa dâu với lý do con mình đã gả bán cho người. Tuy rằng trong văn sách có ghi “Giá thú bất luận tài” nghĩa là không bàn đến tiền tài trong việc cưới hỏi, nhưng không hiểu vì sao trong ngôn ngữ Việt Nam lại kết hợp “Gả bán” liền nhau.

Thời nay hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau kết hôn trên cơ sở tình yêu đôi lứa, cha mẹ chỉ tham gia góp ý, hướng dẫn, vậy thì cha mẹ có nên đến dự lễ vui của hai con không? Đã có nhiều đám cưới ngày nay bỏ tục kiêng này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa dâu?

Xem tướng mũi đoán vận số con người sang giàu hay nghèo –

Chóp mũi hay là Chuẩn Đầu. Nếu chóp mũi không cân xứng với các bộ phận khác trên khuôn mặt thì chủ nhân sống cô độc, bần hàn, nên chú ý giữ gìn sức khỏe,… Chóp mũi, nhân tướng học gọi là Chuẩn Đầu, có thể giúp phán đoán phần nào vận số của con người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chóp mũi hay là Chuẩn Đầu. Nếu chóp mũi không cân xứng với các bộ phận khác trên khuôn mặt thì chủ nhân sống cô độc, bần hàn, nên chú ý giữ gìn sức khỏe,…

Chóp mũi, nhân tướng học gọi là Chuẩn Đầu, có thể giúp phán đoán phần nào vận số của con người.
Chuẩn đầu tròn và bệu, Sơn Căn (khoảng cách giữa 2 đầu mắt) thấp và nhỏ, 2 cánh mũi nở, gọi là “mũi sư tử”, chủ nhân tinh lực dồi dào, tài vận tốt. Nếu trán lại cao và rộng thì chủ nhân cũng có thể trở thành người quyền quý.
Chóp mũi có nốt ruồi hoặc vết lõm sâu, sự nghiệp của chủ nhân thành bại song hành.
Chóp mũi nhọn và khoằm giống như mỏ chim ưng, gọi là “mũi chim ưng”, chủ nhân từ 44 – 48 tuổi sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong sự nghiệp hoặc xảy ra chuyện kiện tụng, kinh tế gia đình sa sút.

images742985_tuongmui1

Chóp mũi nhọn và nhỏ, chủ nhân thường phải sống trong cảnh nghèo khổ.
Chóp mũi sệ xuống dưới miệng, môi trên không có ria, chủ nhân không có khả năng lãnh đạo, ít thành công trong công việc kinh doanh và ít có khả năng thăng tiến trên quan trường.
Chóp mũi tuy tròn và dày nhưng Sơn Căn (khoảng cách giữa 2 đầu mắt) bị gãy, chủ nhân phải chịu cảnh khốn khó.
Khí sắc tại chóp mũi thường có màu đỏ tía, chủ nhân cả đời khó dành dụm được tiền của, cuộc sống cuối đời rất vất vả.
Chóp mũi bỗng dưng xuất hiện vết chàm đen, trong năm đó chủ nhân bị mất mát tiền của, tổn hại về đường công danh.

060410mui21

Chóp mũi bỗng dưng xuất hiện vết chàm màu đỏ, trong năm đó chủ nhân sẽ gặp chuyện kiện tụng.
Chóp mũi có chấm đen hoặc có cáu bẩn, chủ nhân cả đời vất vả vì tiền bạc, ít được tài lộc, ngoài ra vào năm 48 tuổi sẽ xảy ra chuyện tranh cãi về tiền bạc.
Chóp mũi có nhiều chấm nhỏ, chủ nhân gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống.
Chóp mũi dù mùa đông hay mùa hè cũng đều ra mồ hôi, chủ nhân phải vất vả tới già, khó tích góp tiền của, đồng thời phải sống bơ vơ phiêu bạt, tính cách thất thường.
Chóp mũi lệch sang trái, chủ nhân hoặc khắc vợ, hoặc khắc chồng, hôn nhân không tốt đẹp.
Chính giữa chóp mũi có vết thương hoặc vết sẹo, chủ nhân hình khắc con cái hoặc làm cản trở đến con cái. Nếu chóp mũi không cân xứng với các bộ phận khác trên khuôn mặt thì chủ nhân sống cô độc, bần hàn, nên chú ý giữ gìn sức khỏe.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mũi đoán vận số con người sang giàu hay nghèo –

Đặt bảo vật phong thủy ở đâu trong nhà để tài lộc vượng phát

Có lẽ tác dụng của bảo vật phong thủy ai ai cũng biết, nhưng đặt bảo vật phong thủy ở đâu trong nhà để kích hoạt vận trình tài lộc thì nhiều người lại chưa hay
Đặt bảo vật phong thủy ở đâu trong nhà để tài lộc vượng phát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có lẽ tác dụng của bảo vật phong thủy ai ai cũng biết, nhưng đặt bảo vật phong thủy ở đâu trong nhà để có thể kích hoạt vận trình tài lộc thì có lẽ nhiều người chưa hay. Cùng Lịch ngày tốt khám phá những vị trí đắc địa đó trong nhà nhé.
Trong cuộc sống, có khi chúng ta vô tình bỏ qua rất nhiều chi tiết về phong thủy. Đặc biệt, với những nơi trong nhà ẩn chứa bí mật về vận tài lộc thì có lẽ không nhiều người hay biết. Kì thực, đó là những nơi mà chúng ta phải cực kì chú ý đến, bởi nếu làm tốt phong thủy thì tài lộc không mời cũng tự đến, mà làm không tốt thì tiền tài trong nhà cứ thế tiêu tan, có kiếm được tiền nhưng cũng chẳng giữ nổi trong tay.


bao vat phong thuy
 
  Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ tiết lộ với các bạn những vị trí ẩn giấu tiền tài theo phong thủy, là nơi được coi là nơi đắc địa để tụ tài vượng vận trong nhà. Bạn có bảo vật phong thủy mà không đặt ở những vị trí này thì quả là uổng phí, bởi chỉ cần nơi này có sự xuất hiện của bảo vật phong thủy thì tiền bạc sẽ ào ào đổ về nhà.  

Phòng khách

  Trong phong thủy nhà ở, phòng khách là nơi phong thủy cực vượng, bởi lẽ phòng khách thường là nơi có diện tích khá lớn trong nhà nên nguồn năng lượng phong thủy ở đây cũng lớn mạnh hơn so với các vị trí khác trong nhà. Tác dụng chính của phòng khách chính là tụ khí, cũng chính là vị trí tài lộc theo phong thủy. Phòng khách cũng là nơi mà cả gia đình sum họp, là không gian sinh hoạt chung nên có tác động tới tất cả các thành viên trong nhà.


dat bao vat phong thuy o phong khach
 
  Phong thủy phòng khách không những có thể tăng cường vận trình tài lộc của gia chủ mà thậm chí còn có thể thúc đẩy các mối quan hệ xã giao cũng như chuyện tình duyên của gia chủ thêm phần tốt đẹp hơn. Nếu bảo vật phong thủy được bày ở phòng khách thì có thể hình thành một trường khí rất mạnh, biến phòng khách thành nơi đắc địa tụ khí, tăng cường hết mức khả năng tích tài tụ lộc vào nhà. Các thành viên trong gia đình tụ họp ở phòng khách, nhờ đó mà tiếp thu được luồng khí tốt, vận trình tài lộc cũng được hưởng lợi theo, tài lộc dồi dào, tiền bạc dư dả.  

Huyền quan

  Tác dụng chính của cửa ra vào chính là hút khí vào nhà, nó như cái miệng hút tài lộc, đưa luồng khí từ bên ngoài vào qua cửa lớn phân tán đến các phòng trong nhà, từ đó tăng cường vận khí của cả căn nhà. Nơi này mà phong thủy không tốt, phạm đại kị thì sẽ gây ra rất nhiều tác hại, chẳng những ảnh hưởng đến sức khỏe của những người sống trong nhà mà cả vận trình sự nghiệp, tài lộc hay tình duyên cũng sẽ đều dần sa sút. 


dat bao vat phong thuy o huyen quan
 
  Với tác dụng phong thủy lớn như vậy, nếu huyền quan được bài trí thêm vật phẩm phong thủy thì sẽ công dụng sẽ càng lớn mạnh hơn. Nó sẽ đảm bảo cho chất lượng của trường khí vào nhà cũng như phân bổ đến các phòng trong nhà được tốt hơn, giữ khí xấu bên ngoài, chỉ mở cửa cho khí tốt vào nhà. Đương nhiên khi đó tài khí cũng sẽ tăng thêm, giúp cho vận trình tài lộc của những người sống trong nhà càng thêm vượng phát.

Có thể bạn quan tâm: 10 lưu ý giúp bạn tự tin bố trí huyền quan hợp phong thủy.
 

Thư phòng, phòng sách, phòng học

  Do điều kiện kinh tế mà ngày nay không phải gia đình nào cũng có thể bố trí thư phòng trong nhà. Tuy nhiên, theo phong thủy nhà ở thì phong thủy thư phòng có tác động rất lớn để vận thế công danh sự nghiệp của gia chủ. Đương nhiên khi sự nghiệp tăng tiến thì tài lộc không thể nào quá sa sút mà cũng theo đó tăng tiến không ngừng.

Mời bạn đọc thêm: Vài điều hợp và kị trong phòng đọc sách.


dat bao vat phong thuy o thu phong
 
  Bảo vật phong thủy xuất hiện trong thư phòng sẽ xua đuổi những trường khí xấu, giúp gia chủ được minh mẫn, thông tuệ, tỉnh táo và bình tĩnh giải quyết vấn đề. Năng lực cũng được tăng cường không ít, nhờ thế mà con đường công danh sự nghiệp ngày càng thêm rộng mở, thành công cũng gặt hái được không ít, tài lộc vượng phát, tiền bạc đổ về nhà không biết bao nhiêu mà kể.   An An
Sai lầm phong thủy nhà ở xua đuổi tài lộc Ánh sáng trong phong thủy: Sử dụng hợp lý sẽ đón tài lộc miễn phí Phòng bếp phạm những lỗi này, bảo sao tiền đâu chẳng thấy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt bảo vật phong thủy ở đâu trong nhà để tài lộc vượng phát

Nhận diện tướng mặt đàn bà dễ ngoại tình

Theo nhân tướng học, đàn bà dễ ngoại tình thường có một số nét nhận biết, dưới đây là một số đặc điểm gương mặt phụ nữ dễ ngoại tình nhất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Da mặt trắng hơi pha màu hồng Đàn bà trời phú cho sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng nhạt gọi là đào hoa sắc, hoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm. Điều đó thể hiện đây là người phụ nữ đa “phu”.

Phụ nữ có bờ môi mỏng Người có kiểu môi này là người thiếu điềm tĩnh, phản ứng nhanh lẹ với ngoại cảnh, về tình cảm thiếu thủy chung, chân thật. Chưa nói mà môi đã vọng động là tướng tà dâm. Có thói quen lấy đầu lưỡi khoa động nước răng, hoặc cận răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng là người có ham mê nhục dục.

Nhân trung phụ nữ có tía đỏ Phía trên Nhân trung là mũi, phía dưới là miệng, mũi và miệng có hình dạng tương tự như bộ phận sinh dục của nam và nữ giới. Tướng học căn cứ vào đó để phát hiện ra rằng phần lớn phụ nữ chìm đắm trong hoan lạc nhục dục đều có một đường vạch ngang màu đỏ hoặc hồng (tuỳ theo truy hoan nhiều hay ít), nhỏ như sợi tơ nhện, phải tinh mắt lắm mới thấy. Nếu như ta thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có thể biết là người phụ nữ đó quả là đã có gì rồi. Người có nhân trung gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên không vì bệnh tật cũng là dấu hiệu của người háo dâm.




Trán nhọn, chân nhún nhảy
Những người phụ nữ trán nhỏ, dáng đi nhún nhảy là những người bản tính thích bay nhảy, thích sự mới mẻ, vì thế thường hay vướng vào những chuyện tình cảm ngoài luồng.

Mông cao, ngực mẩy Phụ nữ có mông cao, ngực mẩy là những người phụ nữ có nhu cầu tình dục rất cao, hơn nữa lại thường thu hút sự chú ý cái nhìn của người khác giới, chính vì thế, khả năng ngoại tình rất cao.

Phụ nữ có mắt tam bạch Bình thường nếu người đàn bà đó không có loại mắt này nhưng vì đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực xung quanh lòng đen bị thu hẹp dần nhường lại chỗ cho lòng trắng khiến lòng đen đều bị lòng trắng bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn tạm thời. Còn như nếu bình thường vẫn là hạ tam bạch nhãn, thì nếu có thông gian ta sẽ thấy Nhân trung có vạch hồng hoặc đỏ như trên vừa nói.

Phía dưới mắt có gân xanh xám Phía dưới mắt có lằn xếp hay gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía đuôi mắt (ngư vĩ), phụ nữ có nét này thường có khuynh hướng ân ái vụng trộm. Mắt đào hoa thì khi thấy người đàn ông xa lạ, ưa nhìn, thường hay cười tình liếc xéo. Phía dưới mắt có nốt ruồi đen nổi rõ, hoặc mắt không khóc mà vẫn ướt và nhìn cặp mắt không rõ cười hay khóc: Phụ nữ loại này bị xem là tiện dâm.

Ngoài ra, phụ nữ đam mê nhục dục còn biểu hiện bằng một số đặc điểm sau: Mặt ngăm đen, đầu tóc rậm, ánh mắt ướt và sắc, da bóng bẩy Trường hợp phụ nữ hút thuốc lá, người nào thở khói rất mạnh chính là kẻ háo dâm. Ngồi hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau bó lấy gối, hoặc hay rung gối là tướng phụ nữ trong đời ít ra cũng vài ba bận thông dâm.

Eo lệch, rốn quá sâu, lòng mắt trắng pha hồng, tiếng nói liến thoắng… là những người dễ bị quyến rũ vào đường sắc dục. Bước đi uốn éo như rắn, nhún nhẩy như chim sẻ và thường ngoảnh lại là tướng háo dâm. Tất cả các dấu hiệu về màu sắc ở bộ vị nói trên là các bằng chứng cụ thể của kẻ lặn hụp trong tình dục. Những đàn ông chưa từng ân ái với tình nhân, những đấng phu quân xa nhà một thời gian dài khi gặp mặt vợ hoặc người tình mà đã thấy có hầu hết các dấu hiệu dẫn thượng thì quả là đáng ngại.

Theo Khỏe và Đẹp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận diện tướng mặt đàn bà dễ ngoại tình

Hiện tượng thường thấy về ô nhiễm không khí nhà ở –

Ô nhiễm do hoàn thiện nhà là một trong những nguồn gốc chủ yếu dẫn đến ô nhiễm trong nhà ở. Trong những vật liệu dùng để hoàn thiện nhà ở như sơn, vật liệu sơn, tấm gỗ dán, nilon dán tường, đá lát... đều có chứa các chất có hại như Formaldehvde (Meta

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ô nhiễm do hoàn thiện nhà là một trong những nguồn gốc chủ yếu dẫn đến ô nhiễm trong nhà ở. Trong những vật liệu dùng để hoàn thiện nhà ở như sơn, vật liệu sơn, tấm gỗ dán, nilon dán tường, đá lát… đều có chứa các chất có hại như Formaldehvde (Metal), benzen. Radon. Những chất độc hại này chính là “sát thủ vô hình” tiềm ẩn trong không khí, có mùi làm cay mũi, cay mắt, có mùi dẫn đến đau đầu, tức ngực, thậm chí trúng độc mãn tính.

p33382

Là một người dân bình thường, ô nhiễm không khí nhà ở của mình có vượt quá chỉ tiêu hay không chúng ta cũng khó biết chính xác, nhưng chúng ta có thể thông qua một số hiện tượng thường thấv để bước đầu phán đoán có phải không khí trong nhà mình đã ô nhiễm hay không. Những hiện tượng thường gặp này được chia thành:

Vào mỗi buổi sáng sớm, sau khi thức dậy bạn cảm thấy ngột ngạt khó chịu, buồn nôn, thậm chí hoa mắt chóng mặt.

Sau khi mới chuyển nhà, bỗng nhiên con vật cưng bị chét.Tất cả mọi người trong nhà đều mắc chứng một căn bệnh, nhưng sau khi rời khỏi môi trường đó, triệu chứng bệnh tật sẽ có chuyển biến rõ rệt và tốt lên.

Người trong nhà thường có triệu chứng dị ứng trên da, hơn nữa dị ứng còn có tính phát tán rộng theo từng cụm.

Tuy không hút thuốc lá, cũng rất ít khi tiếp xúc với môi trường có khói thuốc, nhưng lại thường xuyên cảm thấy khó chịu nơi cổ họng, cảm giác có dị vật trong họng, hô hấp không thông suốt.

Vợ chồng mới cưới sống với nhau thời gian khá dài mà vẫn chưa có con, hơn nửa tìm không ra nguyên nhân, hoặc phụ nữ mang thai trong tình trạng mang thai bình thường nhưng lại phát hiện ra thai nhi dị hình.

Trồng cây trong nhà không dễ sóng, lá dễ bị vàng, khô héo, đặc biệt là một số loài thực vật có sức sống rất mạnh cũng khó sinh trường bình thường.

Người trong nhà đặc biệt là trẻ nhỏ rất dễ bị cảm mạo, ho, hăt hơi, khả năng miễn dịch kém, trẻ con không chịu về nhà.

Vật nuôi trong nhà như chó, mèo, thậm chí là loài cá nhiệt đới cũng chết một cách vô lý.

Nhà mới xây hoặc vật dụng mới mua có dị mùi gây khó chịu cho mũi, hơn nữa sau hơn một năm mà những mùi đó vẫn không bay hết.

Dương nhiên, nếu muốn đưa ra đánh giá chính xác xem không khí môi trường trong nhà mình ô nhiễm vượt quá chỉ tiêu hay không thì cần phải thông qua cơ quan kiểm định môi trường do kiểm định mới có thể biết được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hiện tượng thường thấy về ô nhiễm không khí nhà ở –

Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Tuất năm 2014 –

Dậu/Tuất - Ít hiểu nhau Dậu Tuất không có khả năng giao lưu trong năm 2014, và kể cả nếu có thể, hai người sẽ như đang đi trên những đường thẳng song song, rất ít sự hiểu biết. Năm nay Tuất gây hại cho Dậu. Vì lợi ích của cả hai, tốt nhất là không nê
Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Tuất năm 2014 –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Tuất năm 2014 –

Tự xem tứ trụ một người

Những thông tin cần thiết để xem tứ trụ một người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Địa Chi tàng độn còn gọi là Nhân nguyên, nghĩa là mỗi một Địa Chi có thể chứa các Thiên Can. Trong dự báo theo 4 cột thời gian hay Tứ trụ, chỉ qua các Can năm tháng ngày giờ mới xác định được Thập thần, khi dự báo theo Tứ trụ, người ta căn cứ vào các thần trong từng cột thời gian để dự báo. Từng cột thời gian có các Địa Chi, từ Địa Chi có thể xác định đầy đủ các Thần để dự báo chính xác (điều này đã trình bày ở phần mở đầu). Sau đây là các Chi tàng trữ các Can:

Bảng 1: Địa Chi tàng độn (các Chi tàng trữ các Can):



Ví dụ: người sinh năm Bính Tuất, tháng Qúy Mão, ngày Nhâm Thìn, giờ Bính Ngọ.

Xem Tứ trụ người này, trước hết xem họ có bao nhiêu Can trong mỗi cột thời gian. Để làm được điều này, ta tách từng Chi của từng cột thời gian ra để xét.

Như: cột năm sinh có Chi Tuất, tra bảng 1: Tuất có: Mậu, Đinh, Tân; Chi tháng sinh Mão, tra bảng 1: Mão có: Ất; Chi ngày sinh Thìn, tra bảng Thìn có: Mậu, Ất, Qúy; Chi giờ sinh Ngọ, tra bảng Ngọ có: Đinh và Kỷ. Ta sắp xếp vào từng cột thời gian như sau:

Cách xác định các thần như sau:từ Can ngày sinh (gọi là Nhật chủ), đối chiếu với các Can được tìm ra từ các Chi của năm, tháng, ngày, giờ mà tìm ra các thần (xem lại phần mở đầu).

Bảng 2: Can Ngày sinh (Nhật chủ) tìm 10 Thần:



Ví dụ: Sinh ngày Giáp Tý, tháng Đinh Dậu, giờ Mậu Thìn, năm Bính Tuất (2006).

Ta lập Tứ trụ như sau: từ Tứ trụ hay 4 cột thời gian tách ra các Chi mà xác định Can chứa trong từng Chi trong từng cột thời gian. Lấy Can ngày sinh hay Nhật chủ đối chiếu với từng Can trong từng cột thời gian qua bảng “Can Ngày sinh” trên mà xác định các thần. Từ ví dụ trên, ta làm như sau:

Thứ nhất ở cột Năm sinh Bính Tuất: ta thấy Tuất có chứa 3 Can: Mậu, Đinh, Tân (xem bảng Địa Chi tàng độn trên)

Lấy Giáp là Can ngày sinh: đối chiếu với Bính (Can năm sinh) ở bảng 2, ta có: Thực thần; đối chiếu với Mậu: ta có Thiên tài; đối chiếu với Đinh, ta có Thương quan; đối chiếu với Tân ta có Chính quan.

Thứ hai: ở cột Tháng sinh:lấy Giáp là Can ngày sinh đối chiếu với Đinh tháng sinh, ta có Thương quan; với Tân, ta có Chính quan.

Thứ ba: ở cột ngày sinh hay Nhật chủ, lấy Giáp Can ngày sinh đối chiếu với Quý: ta có Chính ấn.

Thứ tư: ở cột giờ sinh: lấy Giáp Nhật chủ đối chiếu với Mậu ta có Thiên tài; với Mậu ta có Thiên tài, với Ất ta có Chính ấn, với Quý ta có Kiếp tài. Từ đây ta có sơ đồ 4 cột thời gian để xem xét về tính cách và số phận người Bính Tuất đó như sau:



Sau khi xác định được các thần trong từng cột thời gian của sơ đồ dự đoán, ta sẽ xem và đoán tínhcách cũng như diễntrình cuộc đời của một người. Cách xét đoán xin xem mục: Tính chất của Thập thần và xem Tứ trụ qua 10 Thần sau đây.

II. Tự xem qua tính chất các loại thần

Có tất cả 10 Thần. Mỗi Thần cho biết thông tin riêng về số phận hay tính cách của một người. Các Thần được an trong Tứ trụ như ở ngày, tháng, năm và giờ. Các Thần trong tứ trụ có thể có sau đây:

a. Thuộc tính của 10 thần

1. Chính quan:biểu thị cho quan chức, địa vị, thi cử, bầu cử, học vị, danh dự. Tâm tính chính trực, có tinh thần trách nhiệm, đoan trang, nghiêm túc, nhưng dễ bảo thủ, cứng nhắc, nhưng đôi khi thiếu kiên nghị.

2. Thiên quan hay Thất sát: hào hiệp, năng động, có chí tiến thủ, uy nghiêm nhanh nhẹn, nhưng dễ bị kích động, dễ thành người ngang ngược, truỵ lạc.

Nữ giới biểu thị tình cảm với vợ chồng con, nam giới là tình cảm với con cái.

3. Chính ấn:biểu thị thông minh, nhân ái, không màng danh lợi, sự chịu đựng, nhưng chí tiến thủ kém, trì trệ, chậm chạp. Biểu thị cho chức vụ, học thuật, bằng cấp, sự nghiệp, danh dự, địa vị, phúc thọ, tình mẹ con.

4. Thiên ấn:tinh thông nghề nghiệp, ứng phó nhanh, nhiều tài, nhưng dễ cô độc, tàn nhẫn, ích kỷ.

Biểu thị cho quyền uy trong nghề nghiệp, những thành tích trong nghề dịch vụ, cho người mẹ kế.

5. Tỷ kiên:biểu thị cho nhân viên cấp dưới, đệ tử, bạn bè, đồng nghiệp, cùng phe, tranh tài đoạt lợi, khắc vợ khắc cha. Nữ biểu thị cho tình chị em, nam cho tình anh em. Tâm tính: cương nghị, mạo hiểm, dũng cảm, tiến thủ, nhưng dễ bị cô độc, dễ bị cô lập, cô đơn.

6. Kiếp tài:biểu thị cho tay chân, cấp dưới, bạn bè, cho sự hao tổn, cho bị đoạt vợ khắc cha, tranh đoạt, lang thang, nữ biểu thị cho tình anh em, nam cho tình chị em. Tâm tính thẳng thắn, kiên định, sự phấn đấu không mệt mỏi, nhưng dễ bị mù quáng, thiếu lý trí, manh động liều lĩnh.

7. Thực thần:biểu thị cho phúc thọ, người béo tốt, có lộc, về hưu. Tâm tính ôn hoà, phóng khoáng, hiền lành, thân mật, nhưng dễ không thật lòng, giả tạo và nhút nhát.

8. Thương quan,biểu thị sự mất chức, bỏ học, mất quyền, mất ngôi, không trúng tuyển, không đỗ. Tâm tính thông minh, tài hoa, hoạt bát, hiếu thắng, dễ tuỳ tiện, thích không bị ràng buộc, có khi tự do vô chính phủ.

9. Chính tài:biểu thị cho tài lộc, sản nghiệp, tài vận, lương bổng, tình cảm với vợ. Tâm tính: cần cù, tiết kiệm, chắc chắn, thật thà, nhưng dễ cẩu thả, thiếu chí tiến thủ, nhu nhược, không có tài năng.

10. Thiên tài:biểu thị phát đạt nhanh, hay cờ bạc, tình cảm với vợ thứ của nam giới. Tâm tính thông minh, khảng khái, nhạy bén, lạc quan, phóng khoáng, nhưng dễ thiên bề khoác lác ba hoa, thiếu sự kiềm chế, dễ phù phiếm.

b. Ý nghĩa của lục thần

*Chính quan: biểu thị sự nghiệp về văn chương, địa vị. Nam giới mệnh Chính quan là chồng, nữ giới là con.

*Thiên quan (Thất sát): địa vị và sự nghiệp, uy quyền về võ nghiệp...

* Chính ấn, Thiên ấn: văn chương, danh vọng.

* Chính tài: tiền của, tài năng, danh vọng.

* Thiên tài: Tiền của, tài năng, mưu trí, tài thao lược.

* Thực thần:sự nghiệp về văn, về quản lý xã hội, tính thuần hậu, chủ về thực lộc, y lộc và tuổi thọ.

* Thương quan: sự nghiệp về võ, mưu lược, tính cương cường, cao ngạo.

* Tỷ kiên: sự trợ giúp, quý nhân.

* Kiếp tài: sự hoang phí tiền của, tính thoáng đãng tiền của, lãng phí thời gian.

c. Lục thần sinh khắc

Các nhà mệnh lý căn cứ vào ngũ hành sinh khắc mà suy ra sự sinh khắc của lục thần như sau:

Về sự sinh:

* Chính tài, Thiên tài sinh Thiên quan (Thất sát), Chính quan.

* Chính quan, Thất Sát sinh Chính ấn, Thiên ấn.

* Thiên ấn, Chính ấn sinh ta (Nhật chủ lấy theo ngày sinh) và đồng loại (là Tỷ, Kiếp).

* Đồng loại (Tỷ kiên, Kiếp tài) và ta sinh Thực thần, Thương quan.

* Thực Thương sinh Thiên tài, Chính tài.



Về sự khắc:

* Tài khắc Ấn thụ (Chính ấn, Thiên ấn).

* Ấn thụ (Thiên ấn, Chính ấn) khắc Thực Thương.

* Thực Thương khắc Quan, Sát.

* Quan, Sát khắc ta (nhật chủ lấy theo ngày) và đồng loại là Tỷ, Kiếp.

* Đồng loại (Tỷ, Kiếp) và ta (nhật chủ) khắc Tài.

III. Xem tứ trụ qua 10 thần

1. Chính quan

Chính quan biểu thị cho quan chức, chức vụ, thi cử, bầu cử, học vị, danh vọng. Chính quan còn cho biết tình cảm với chồng con, đối với nam giới là tình cảm đối với vợ.

Một mặt chính quan phản ánh sự chính trực, tinh thần trách nhiệm, đoan trang nghiêm túc, mặt khác lại biểu thị sự bảo thủ cứng nhắc, không kiên nghị.

Chính quan lộ ra không có Thiên quan (Thất sát) mà có thân vượng thì rất tốt. Nếu chính quan quá nhiều trong tứ trụ thì có sự khắc chế trói buộc trở thành nhu nhược, năng lực yếu. Mặt khác báo việc gia đình không đầy đủ, tiền đồ học hành có cản trở, nếu không có ấn mạnh hoá giải cứu trợ thì không hay. Chính quan không nên gặp Thương quan, vì hoạ có thể đến. Nhưng có trường hợp Chính quan nhiều mà gặp Thương quan thì lại hay.

Chính quan gặp (ở) cột tháng mà có : trường sinh, hoặc mộc dục, quan đới lâm quan, đế vượng, lại không có hình xung phá thì chức quan cao, rất thích hợp đối với công chức. Chính quan gặp lệnh tháng suy, bệnh, tử, mộ tuyệt thì rất không hay, nhưng nếu gặp tháng có thai dưỡng thì không ngại. Những người làm công chức không nên có tình huống này.

Chính quan toạ Trường sinh, Đế vượng, Quan đới, Kiến lộc, Đế vượng, mà không có hình xung không vong phá bại thì quan chức cao, thích hợp làm công chức.

Chính quan toạ Tử: khó có con; toạ Suy, Bệnh, Tử, Mộ nên tránh làm công chức (gọi là thất địa).

Nêu trong tứ trụ có 1 Chính quan, không có Thiên quan và Thương quan thì mệnh cực quý.

Nếu Can cột có Chính quan hợp với Can cột ngày, hoặc với Can cột có Chính ấn hợp mệnh cục thì học giỏi, đỗ đạt cao. (xem mục hợp hóa của Thiên Can nêu trên).

Can tháng có Chính quan: người trọng tín nghĩa, tận tuỵ với công việc.

Chính quan gặp Thương quan ở mệnh cục: nam dễ có tính bất mãn, công việc hay bị trở ngại, hay bị hạ chức.

Nếu trong 4 cột thời gian có:

Chính quan ở cột thời gian năm:được hưởng phúc tổ tiên, có ý chí từ nhỏ, con đường học hành thuận lợi. Chính quan không gặp kỵ hay hoá hợp mà mất tính thì báo người xuất thân từ gia đình quan chức hoặc có địa vị cao, là người có địa vị.

Chính quan ở cột tháng, là người con út được nuông chiều, cuộc đời hanh thông, trọng tín nghĩa.

Ví dụ trên: người sinh năm Bính Tuất có Chính quan ở cột tháng là người con thứ, được hưởng phúc tổ tiên, có ý chí từ nhỏ, học hành thuận lơi, cuộc đời hanh thông



Có ở cột ngày: thông minh, mưu lược, tài ứng biến. Nếu thân (mệnh cung) vượng thì phát đại phúc. Nam giới có vợ hiền đoan trang, nữ giới có chồng tốt.

Có ở cột giờ: con cái hiếu thảo, bản thân cuối đời hưởng phúc.

Mệnh nữ có Chính quan cho biết:

* Đối với nữ, Chính quan là sao biểu thị cho chồng, nếu bị hình, xung, khắc, phá, hoặc là kỵ thần thì nhân duyên không thuận, dễ bị oan khuất.

* Nếu ngày chi có Chính Quan, lại toạ Thiên đức, Nguyệt đức: là người hiền thục, đảm đang, chồng tốt.

* Nếu Chính quan toạ Trường sinh, Kiến lộc, Quan đới, Đế vượng: lấy chồng tốt, chồng có quan lộc cao; nếu toạ Tử, Mộ, Tuyệt: duyên vợ chồng chưa đẹp, có thể khắc chồng.

* Tứ trụ Chính Quan nhiều lại hợp: yểu điệu đa tình, tình ý không ngay chính.

* Chính quan và sao Tài cùng cột: chồng giàu có.

* Chính quan và Đào hoa cùng cột: sống rất dai.

* Chính quan và Dịch mã cùng một ngày chi: đẹp mà duyên bạc.

* Toạ cùng cột với Mộc dục: chồng hiếu sắc, đa tình.

* Chính Quan gặp Không vong: hôn nhân thường thay đổi, có tái hôn.

* Chính quan và Thiên quan ở mệnh cục đều có: hôn nhân phức tạp, nếu Chính quan và Thiên quan có can hợp hoặc chi hợp: dễ hai lần đò.

* Chính quan gặp Thương quan ở mệnh cục: vợ chồng hay xa cách hoặc khó thành vợ chính thức.

* Nếu Chính quan nhược hoặc mệnh cục không có thì:

- Khi Tỷ kiếp mạnh: vợ chồng tình cảm vợ chồng không sâu đậm.

- Không có Tài, có Thương quan: sớm khắc tiện chồng.

- Nhiều Ấn, không có Tài: sẽ khắc chồng.

- Nhiều Quan mà không có ấn: mệnh hạ tiện.

- Chính quan toạ Dương nhẫn: gặp việc trở ngại dễ bị cản phá.

2. Thiên quan (Thất sát)

Thiên ở đây có nghĩa là không chính, quan là quản (lý), gộp lại là sự quản lý không chính thống hoặc cũng có nghĩa là không chính thức.

Là biểu tượng của việc quân sự, nghề pháp lý, sự thi cử và bầu cử. Khi sao này ứng với nữ giới thì đó là tình cảm của họ đối với chồng con, nam giới là tình cảm với con cái. Thiên quan cũng phản ánh sự hào hiệp, tính năng động, chí tiến thủ, sự uy nghiêm, nhanh nhẹn. Nhưng lại phản ánh sự không bền vững về thần kinh mà dễ bị kích động, khi vào thế tiêu cực thì thành người ngang ngược, chơi bời quá độ.

Nếu trong mệnh cục có Thực thần và Thương quan sẽ khắc chế Thiên quan. Nếu không có sự khắc chế này thì gọi là Thất sát. Trong 4 cột thời gian, nếu có Thực thần và Thương quan chế ngự Thiên quan là người túc trí đa mưu, có quyền uy trong xã hội. Nhưng nếu Thực thần chế Sát, Thương quan khắc sát cùng lúc nhiều thì không phải là người cao sang mà thấp hèn. Do vậy, các nhà mệnh lý cho rằng, trong 4 cột thời gian có Thất sát mà thần và sát tương đương nhau, lại có chế thì mệnh mới tốt. Thân vượng, sát nhược, Tài vượng mới là mệnh tốt. Ngược lại Sát vượng, thân nhược mà lại gặp Tài tinh thì người nghèo, gặp nhiều tai ách. Đã có Thiên quan thì không nên có Chính quan, nếu không dễ phạm tai hoạ lao tù, kiện tụng mọi việc khó thành, trở thành người hạ đẳng... Tốt nhất là có Thực thần, Thương quan chế ngự, hoặc hợp mất một quan, hoặc gặp một Sát để giảm tai họa.

Nếu Thân nhược sát vượng thì phải dựa vào ấn để hoá giải. Nếu trong tứ trụ Thân và Sát tương đương nhau, Sát ấn tướng sinh sẽ báo công danh sự nghiệp phát triển. Có Sát mà không có ấn là không có oai vũ, người chỉ trung hậu đa tình, buồn nhiều vui ít.

Sát hoặc Quan nhiều thì quá khắc nhật chủ (cột ngày) thì cho biết là có sự nhu nhược, năng lực kém nhưng lại dê manh động.

Thiên quan gặp trường sinh, mộc dục, quan đối, lâm quan, đế vượng thì vinh hoa phú quý; nếu gặp tử, mộ, tuyệt thì tiền đồ, học hành trắc trở, quan lộc bị tổn thất.

Nhật chủ vượng mà có Thất sát, Dương nhận cùng cột là người mệnh cực quý, có quyền uy.

Thiên quan gặp Không vong mà không có giải cứu: không nên làm công chức vì dễ mất quyền mất chức; mệnh nam hếm con, mệnh nữ vô duyên với chồng.

Nếu trong 4 cột thời gian mà:

Thiên quan ở cột năm: con đầu lòng là trai, bản thân xuất thân từ gia đình nghèo. Nếu thương bị chế thì người đó đi vào binh nghiệp có địa vị nổi tiếng.

Thiên quan ở cột tháng: can năm và can giờ có Thực thần mà thương chế ngự thì mệnh rất quý.

Thiên quan ở cột ngày: vợ hoặc chồng là người chính trực, cương nghị. Nếu không có Thực thần chế ngự (khắc) thì vợ chồng bất hoà, nếu gặp xung thì có thể bị hoạ, cần đề phòng hay bị bệnh. Nếu khi có Thực khắc hoặc gặp được hợp để biến khác đi thì mọi sự dở được hoá giải.

Thiên quan ở cột giờ: con cái thường không hiền thục. Trong tứ trụ có thần khắc Thiên quan ở giờ thì lại sinh con quý tử.

Mệnh nữ có Thiên quan cho biết

* Tứ trụ nhiều Thiên quan mà không có chế: dễ bị ngưới khác giới ăn hiếp mất trinh tiết, hoặc ý chí không kiên cường, tính tình không ổn định.

* Từ Can Chi đều có Thiên quan lại có Chính quan: mệnh tái giá.

* Chính quan, Thiên quan cùng trụ lại có Tỷ kiếp: chị em tranh một chồng.

* Quan, Sát hỗn tạp, không có Thực Thương chế: làm ca kỹ, vợ lẽ; nếu có chế làm vợ chính.

* Thiên quan gặp không vong mà không có giải cứu: vợ chồng duyên bạc.

* Thiên quan toạ trường sinh, Quan đới, Kiến lộc, Đế vượng: chồng vinh hiển. Nếu toạ Tử, Mộ, Tuyệt thì duyên bạc với chồng.

* Thiên quan toạ Mộc dục: chồng đa tình, thích phong lưu.

* Nhật chủ yếu, Thiên quan vượng: người cô độc.

* Địa chi có Thiên quan gặp Hình: vợ chồng bất hoà.

* Thiên quan một sao, có Thực thần Dương nhận chế phục: vợ đoạt quyền chồng.

* Giờ trụ có Thất sát, ngày toạ Dương nhận: khắc chồng, làm kỹ nữ, có trợ giúp hoá giải thì tốt.

* Thiên quan toạ Đào hoa: bạc mệnh.

* Thất sát và Chính ấn đều một vị: mệnh tốt.

3. Chính ấn

Sao biểu thị cho chức vụ, quyền lợi, học hành, nghề nghiệp, học vấn, sự nghiệp, địa vị, phúc thọ, tình mẹ. Chính ấn lâm trường sinh (cùng cột thời gian với trường sinh) cho biết người mẹ đoan chính, nhân từ trường thọ; lâm Mộc dục thì có nhiều biến đổi trong nghề nghiệp, lâm quan đới là người xuất thân từ gia đình danh giá hiển đạt; lâm đế vượng là người đứng đầu một vùng; lâm suy cuộc đời bình thường nhưng gia phong nề nếp.

Nếu cột ngày vượng, ấn nhiều mà không bị khắc chế là sự thái quá, báo đây là người cô đơn, nghèo, hình khắc. Còn Chính ấn quá vượng là người không trung thực, ít con, song gặp Tài tinh thì lại nhiều con.

Chính ấn lâm Trường sinh chủ về có mẹ đoan chính, nhân từ, trường thọ; lâm Mộc dục là người hay thay đổi nghề nghiệp; lâm Quan đới là xuất xứ từ gia đình danh tiếng, cuộc đời hiển đạt; vượng ở Lâm quan là có cuộc sống bình ổn; lâm Đế vượng là người đứng đầu một vùng; lâm suy là có cuộc sống bình thường, gia đình nề nếp. Lâm, Bệnh, Mộ, Tử, Tuyệt chủ về tình mẹ đạm bạc, hoặc xuất thân từ một gia đình bình thường, Suy thì một đời bình thường.

Chính ấn toạ: Hoa cái, mẹ thông minh; toạ Dịch mã thì xa mẹ; toạ Thiên ất quý nhân thì mẹ có danh tiếng, toạ Thiên, Nguyệt đức thì mẹ nhân từ.

Nếu trong 4 cột thờigian mà:

Chính ấn ở cột năm:tiền đồ học hành tốt.

Chinh ấn ở cột tháng:người nhân từ hiền hậu, không bệnh tật, Trong tứ trụ có Thiên quan, Chính quan sinh ấn là người phúc hậu, phúc lớn. Tứ trụ không có Thiên tài thì ấn không bị khắc báo con đường khoa cử thành công.

Chính ấn ở cột ngày:lấy được vợ (hay chồng) nhân hậu hiền từ, cả hai trường hợp đều được nhờ vào vợ (hay chồng).

Ví dụ trên, người nam Bính Tuất có Chính ấn ở cột ngày, nên có vợ hiền thục, vợ chổng nhờ dựa được vào nhau



Chính ấn ở cột giờ: là tốt, con cái thông minh thành đạt.

Mệnh nữ có Chính ấn cho biết:

* Thân vượng mà nhiều Chính ấn: khắc chồng, chồng hay ốm yếu, ít con.

* Có Chính ấn gặp Chính quan là hỷ thần: dung mạo đẹp, sinh ở gia đình giàu có.

* Chính ấn gặp Thiên đức, Nguyệt đức: là vợ hiền.

* Chính ấn với Thương quan Dương nhận cùng trụ: dễ đi tu.

* Tài nhiều mà vượng, Chính ấn bạc nhược: khó giữ đạo làm vợ.

4. Thiên ấn

Biểu thị cho quyền uy, nghề nghiệp, tinh thông nghề nghiệp, đa tài, ứng phó nhanh, cô đơn, lạnh lùng. Thiên ấn không gặp Thực thần thì gọi là Thực, Thiên ấn Gặp Thực thần gọi là kiêu thần, gọi tắt là Kiêu. Mệnh cung có Thiên ấn có thể vất vả, nhưng nếu có Thương quan thì hay. Nếu nhiều Thiên ấn mà không được giải thì phúc không đẹp, tật bệnh, con cái khó khăn. Nhưng nếu có Thiên tài thì hoá giải được. Thiên ấn và Tỷ kiên cùng cột thì một đời vất vả.

Có Chính ấn, Thiên ấn là người có nhiều nghề. Trong tứ trụ thân vượng (cột ngày) mà có Tài, Quan là người phú quý. Thiên ấn lâm trường sinh là người ít gắn với cha mẹ, lâm mộc dục làm ra tiền cho người khác tiêu, lâm quan đới, đế vượng sẽ phát đạt ở nghề tay trái. Lâm suy bệnh tử tuyệt là người tha hương bôn phương kiếm sống, lâm mộ thì việc gì cũng đầu voi đuôi chuột, lâm thai đã xa cha mẹ từ nhỏ.

Nếu trong 4 cột thờigian có:

Thiên ấn ở cột năm:phá hoại tổ nghiệp, làm mất thanh danh gia đình, thiếu giáo dục.

Thiên ấn cột thang:thích hợp với các nghề y học, nghệ thuật, diễn viên, nghề tự do, làm dịch vụ. Nếu cùng cột tháng có Thiên đức Nguyệt đức thì là người số mệnh đẹp, tính ôn hoà.

Thiên ấn cột ngày:lấy vợ (hoặc chồng) khi là kỵ thần không hay.

Thiên ấn cột giờ:khi là kỵ thần không lợi cho con cái, con khó thành tài.

Mệnh nữ có Thiên ấn cho biết:

* Nếu nhiều Thiên ấn : chửa đẻ khó khăn.

* Thiên ấn và Thực thần cùng trụ: đẻ bị bệnh sản phụ.

* Can Chi đều có Thiên ấn: khắc chồng phúc mỏng.

* Thiên ấn nhiều quá: phúc bạc, nếu gặp cô thần dễ sống độc thân.

5. Tỷ kiên

Biểu thị cho tay chân, cấp dưới, bạn bè, đồng nghiệp, cùng phe, tranh đoạt, khắc cha, quan hệ anh chị em. Tính chắc chắn, cương nghị, cô đơn, dũng cảm, tiến thủ, không hoà nhập.

Nếu can ngày nhược mà gặp được Tỷ kiên sẽ được trợ giúp thân, Tài Quan nhiều nhờ Tỷ kiên giúp cho thân khỏi mất của. Can ngày vượng mà trong tứ trụ có có Tỷ kiên, lại gặp Quan Sát, Thực, Thương, Tài tinh thì không có sự hao tán, không có Quan thì ít con cái.

Tứ trụ nhiều Tỷ kiên mà không có sao chế: anh em tranh chấp, bạn bè bất hoà, tính thô bạo, khắc cha, vất vả mà tài không tụ.

Lâm trường sinh, đế vượng, lâm quan đới... thì đông anh em, hiếu thắng, không khuất phục, nhưng không lợi cho hôn nhân, cho cha. Lâm tử mộ tuyệt thì xa anh em.

Tỷ kiên gặp Không vong: anh em ít hoặc bất hoà; nếu có hội, hợp thì có thể hoá giải.

Nếutrong 4 cột thờigian có:

Tỷ kiên ở cột năm:xu hướng sống độc lập, nhà nghèo vất vả từ nhỏ.

Có ở cột tháng:có tính lý tài, hay có ý nắm gọn của cải, sống độc lập.

Có ở cột ngày:hôn nhân muộn hay tái hôn, dễ thay đổi hôn nhân, không lợi cho đi xa.

Có ở cột giờ:ít con, dễ làm con nuôi.

Mệnh nữ có Tỷ kiên cho biết:

* Nhật chủ vượng, nhiều Tỷ kiên lại không có Quan: ít con cái.

* Tỷ kiên hợp Quan: chồng bị tranh đoạt.

* Tỷ kiên quá nhiều: vợ chồng, gia đình bất hoà, có chuyện trai gái lôi thôi.

* Tỷ kiên và Kiếp Tài cùng trụ: vợ chồng hay tranh chấp nhau.

* Tỷ kiên trong tứ trụ mạnh: theo chủ nghĩa sống độc thân.

* Tỷ kiên mạnh, Quan yếu: vợ chồng duyên mỏng.

* Thiên can có Tỷ, Kiếp: đa tình tranh chồng.

* Có Tỷ kiên Dương nhận hình xung phá hại: đề phòng tai nạn.

* Trong tứ trụ nhiều Tỷ, Kiếp: có người đố kỵ ganh ghét.

6. Kiếp tài

Biểu thị cho tay chân, cấp dưới, bạn bè, hao tổn tài lộc, bị đoạt tài, bị đoạt vợ, tranh giành, khắc cha, lang thang, tình anh chị em. Tâm tính thẳng thắn, ý chí kiên cường, phấn đấu mạnh mẽ, dễ mù quáng, thiếu lý trí, dễ manh động, liều lĩnh.

Trong tứ trụ nhiều Kiếp tài nam thì khắc vợ, vợ nhiều bệnh; nữ thì mất chồng, tranh chồng hoặc hao tổn tài, khó giàu, anh em không hoà thuận, hay bị phản. Tính tình ngoan cố, không phân biệt phải trái, hay bị người đời chán ghét đối địch.

Kiếp tài và Thiên tài cùng một cột thời gian thì không có lợi cho cha, dễ tái hôn. Trong mệnh cục mà hỷ tài nhưng bị Kiếp tài khắc phá thì dễ bị hao mòn tài sản, không lợi cho vợ; trong mệnh hỷ Kiếp nếu bị Quan đến phá thì chủ về con cái ngỗ ngược hoặc không hay.

Kiếp tài, Thương quan, Dương nhẫn cùng trụ: dễ tù đày, không thọ, mất danh dự, nghèo khổ.

Kiếp tài, Thiên tài cùng trụ: dễ tái hôn hay nhân duyên trắc trở.

Cùng Can Chi đều có Kiếp tài: cha có thể mất sớm, vợ chồng xa cách.

Nếu trong 4 cộtthời gian mà:

Kiếp tài ở cột năm:người hãm tài, thiếu nghĩa khí, hay thay đổi hôn nhân, bị cấp dưới thiếu trung thành.

Kiếp tài ở cột tháng:ham cờ bạc, khó có của cải, lòng tự trọng cao, ham tạo ra hình thức bề ngoài, hay bất bình với xung quanh, hay xung đột với mọi người.

Kiếp tài ở cột ngày:hôn nhân chậm, có thể tái hôn, nam có thể đoạt vợ người.

Kiếp tài ở cột giờ:đường con cái khó khăn, khắc con.

Ví dụ trên: người Bính Tuất có Kiếp tài ở cột giờ, lý ra hiếm con. Tuy vậy Kiếp tải Suy, nên có con nhưng không nhiều.

7. Thực thần

Biểu thị cho phúc thọ, người đậm đà, có lộc, nữ là tình cảm với con gái, nam là tình cảm với con trai. Tính cách ôn hoà, rộng rãi, thân mật, có chút giả tạo, thiếu chân thật.

Tác dụng của Thực thần làm nhẹ đi thân mệnh, sinh tài, áp chế quan sát. Nếu cột ngày có chính quan cùng thực thần là phú quý. Đối với những người không phải là công chức, can chi (chi tàng can qua đó để xác định thực thần có hay không) đều có thực thần thì phúc lộc dồi dào. Mệnh cung nữ giới có Thực thần không tôn trọng chồng. Trong tứ trụ nhiều thực thần thì nghèo, người yếu đuối, nữ giới dễ sa cơ, nhưng nếu có Thiên ấn thì hoá giải được những cái dở như vậy. Nếu Thực thần và Thất sát cùng cột thời gian là người có thời cơ nắm quyền hành, nhưng thường rất vất vả, hiếm con. Can mà từ đó có thực thần, chi mà từ đó tìm ra can sinh ra Tỷ kiên là báo về già có thân thích hay bạn hữu giúp đỡ. Nếu Thực thần có cả Kiếp tài, Thiên ấn đi kèm là người có thể không thọ. Thực thần lâm trường sinh vượng địa hoặc cát thần thì phúc lộc nhiều. Thực thần lâm tử, tuyệt , bệnh thì bạc mệnh, lâm mộ thì người khó thọ.

Thực thần gặp hình xung: nhỏ tuổi sớm đã xa mẹ.

Thực thần toạ Trường sinh, Quan đới, Kiến lộc, Đế vượng hoặc cát thần: tài lộc song toàn.

Thực thần toạ Mộ: khó thọ; toạ Tử, Tuyệt, Bệnh hoặc gặp Không vong hay hung sát thì phúc mỏng, dễ bạc mệnh.

Can Chi đều sinh Thực thần thì phúc lộc đầy đủ.

Tứ trụ có 1 Thực thần, cột ngày có Chính quan thì phú quý; nếu cột tháng có Kiến lộc thì càng phát; cột giờ có Kiến lộc thì trung niên và về già phát đạt.

Tứ trụ có 4 Thực thần: bần hàn; mệnh nữ gặp phong trần, nhưng gặp Thiên ấn thì có hoá giải.

Nhiều Thực thần, ít Thiên quan: hiếm con.

Can sinh Thực thần, Chi sinh Kiếp tài: có phúc lớn, gặp nguy hoá an.

Can sinh thực thần, Chi sinh Tỷ kiên: anh em giúp lẫn nhau.

Thực thần Thiên ấn cùng trụ: ở một mình.

Nếutrong 4 cột thờigian có:

Thực thần có ở cột năm:được hưởng âm đức của tổ tiên, sự nghiệp phát triển, sống an bình.

Thực thần ở cột tháng:can tháng từ đó sinh ra Thực thần, chi tháng tàng can mà từ đó sinh ra Quan (Thương quan hay Chính quan) thì đó là người tài phát đạt, nếu là công chức thì càng phát.

Thực thần ở cột ngày,nhưng Thực do chi tàng can mà từ đó sinh Thực là lấy được vợ hay chồng tốt.

Thực thần ở cột giờ:cuối đời có phúc, nhưng Thực và Thiên ấn cùng một cột thì có thể cô đơn.

Mệnh nữ Thực thần trong trụ cho biết:

* Tứ trụ nhiều Thực thần: đa tình, làm lẽ, phong trần, vợ goá. Nếu Nhật chủ yếu thì càng rõ.

* Ngày Can dương nhiều Thực thần: mệnh phong trần.

* Ngày Can âm nhiều Thực thần: làm nghề tạp vụ, phục vụ viên.

* Thực thần và Thiên quan cùng trụ: sinh nở khó khăn, nếu ở cột giờ thì khó lấy chồng.

* Thực thần toạ Mộc dục, Đào hoa: con cái phong lưu, hiếu sắc.

* Thực thần toạ Dịch mã: con cái xa cha mẹ.

* Thực thần toạ cát thần, Quý nhân: con cái thông minh trí tuệ.

* Thực thần gặp Không vong: ít con cái.

8. Chính tài

Tài là hay, nhưng không phải ai tài đến cũng hay. Người thân nhược thì không hay vì khả năng không kham nổi Tài thì sợ Tài nhiều vì Tài mà “mệt”! Người thân mạnh có khả năng thì có thể không chế được Tài nhưng lại sợ không có Tài để mà không chế. Do vậy Thân và Tài cân bằng mới tốt, điều này có thể phát hiện qua 4 cột thời gian: Tài và Mệnh cùng cân bằng sức. Người trong tứ trụ Can ngày vượng (theo vòng trường sinh) mà Tài cũng vượng là giàu có, nêu có cả Chính quan là phú quý, nam hay nữ đều có vợ hay chồng tốt. Nhưng thân mệnh (mệnh cung) nhược, tài vượng thì nghèo, trong gia đình vợ nắm quyền. Trong tứ trụ nhiều tài đều phá tài không hay, đồng thời tài nhiều còn khắc ấn sẽ không lợi cho mẹ. Tài nhiều mà không thuần khiết (có vượng, có suy, bệnh...) thì học hành không giỏi. Địa chi tàng can mà từ đó xác định được tài là người chính trực nhưng không giàu. Mệnh cung vượng có Chính tài lại gặp thực thần là có vợ hiền trợ giúp. Chính tài và Kiếp tài cùng xuất hiện trong cuộc đời thì dễ gặp tiểu nhân nên tài bị tổn thất. Nếu Chính tài gặp Quan vượng, Sát vượng là chồng bị lép vế, vợ lấn át chồng.

Nếu Chính tài từ Chi mà có thì tốt, còn từ Can mà sinh ra thì đời sống không ổn định, tính thích khoe khoang.

Chính tài nhập Mộ gọi là “nhập kho”, nếu gặp xung thì phát tài lớn làm giàu.

Nhật chủ vượng, mệnh cục Chính tài vượng: làm phú ông; có Chính quan lại càng phú quý, nam có vợ hiền giúp chồng.

Tứ trụ nhiều Chính tài: vì tình mà phá tài, Tài nhiều khắc ấn thì mẹ bất lợi.

Chi ngày sinh Chính tài mà lại gặp Không vong: nam kết hôn muộn, dễ tái hôn.

Thân nhược Chính tài nhiều, ấn nhẹ: có học nhưng không thành đạt.

Chính tài toạ Mộc dục hoặc Đào hoa: vợ dễ ngoại tình.

Chính tài toạ Dịch mã: vợ hiền, toạ Mộ, Tử, Tuyệt: vợ chồng lạnh nhạt; toạ Dương nhẫn: vợ chồng bất hoà; toạ Hoa cái: vợ thông minh nhưng thích cô độc; toạ Thiên ất quý nhân: vợ đẹp thông minh nhanh nhẹn.

Chính tài và Chi ngày hội hợp: vợ chồng yêu nhau hoà thuận; không hợp với Chi ngày mà hội hợp với chi khác: vợ bất chính.

Mệnh cục Chính tài, Kiếp tài đều có: cuộc đời dễ gặp tiểu nhân phá hoại làm tổn tài.

Tứ trụ có Chính tài nhưng Quan sát vượng: vợ chán chồng, chồng sợ vợ.

Mệnh nam trong tứ trụ Chính tài hợp Can ngày: thường có hai vợ, hưởng phúc người khác, hai vợ dễ tranh chấp, gia đình sóng gió.

Nếu trong4 cột thờigian có:

Chính tài ở cột năm:thân vượng là cha ông giàu có.

Chính tài ở cột tháng:là người cần cù tiết kiệm, sống nhờ cha mẹ, cha mẹ có của.

Chính tài ở cột ngày:nhờ vợ mà thành giàu có, nếu gặp hình xung khắc hại thì vợ chồng bất hoà.

Chính tài ở cột giờ:con cái sẽ giàu có.

Mệnh nữ Chính tài trong trụ cho biết:

*Nếu thân yếu, Chính tài nhiều lại vượng hoặc hội, hợp thành cục: lẳng lơ hay vụng trộm trong tình ái.

*Chính tài quá vượng: không hợp với nhà chồng, vợ chồng nên ở riêng.

*Chính tài Quan lộ thiên Can: tính ôn hoà; Chính tài, Quan không lộ thiên Can: tính ương ngạnh.

*Chính tài quá nhiều mà phá ấn: bất hoà với bà cô em chồng.

9. Thiên tài

Về nghĩa, thiên tài là nguồn nuôi sống, biểu thị là vợ thứ, cha mẹ hoặc nguồn của cải do nghề tay trái làm ra. Nếu trong tứ trụ có Thân vượng, Quan vượng, Tài vượng thì danh lợi đều đạt cả. Nếu Thân vượng lại có Thiên tài, không có hình xung Tỷ kiếp là người giàu có sống lâu. Can và chi (tàng can mà có thiên tài) đều có thiên tài là người xa quê tay không lập nghiệp mà giàu có, tình duyên đẹp. Đối với phụ nữ nếu thân nhược mà gặp tài thì ảnh hưởng không tốt đối với cha mẹ.

Thiên tài lâm trường sinh, vượng địa là gia đình lớn, gia đình vợ con hoà thuận, mọi người sống lâu vinh hiển. Thiên tài lâm mộc dục là người háo sắc phong lưu, lâm mộ địa là sớm xa cha và có thể là xa vợ.

Thiên tài lâm tử tuyệt hình xung không lợi cho cha hoặc vợ.

Thân vượng có Thiên tài mà không hình xung và Tỷ kiếp: gặp tài vận tất phát đại phúc, rất thọ, làm thương nhân thành đạt, quản lý xí nghiệp, nếu có Chính quan lại càng phú quý; nhưng kỵ vận Tỷ kiếp, nếu gặp danh lợi tiêu ma.

Thiên tài do Can sinh: thích rượu và háo sắc, khinh tài trọng nghĩa. Từ thiên Can lộ ra (sinh ra) 2 Thiên tài: không yêu vợ chính mà yêu vợ bé.

Thân, Thiên tài, Quan vượng, gặp năm là Quan: danh lợi bội thu.

Nếu trong 4 cột thờigian có:

Thiên tài ở cột năm:sẽ xa quê, long đong lận đận. Can năm có thiên tài, chi năm (từ đó tàng can mà có Tỷ kiếp) có Tỷ kiếp là cha xa quê, mất nơi đất khách quê người.

Thiên tài ở cột tháng:can năm can tháng đều có thiên tài là trong gia đình cha nắm quyền, hoặc bản thân làm con nuôi.

Cột thángcó thiên tài, cột giờ có Tỷ kiếp trước giàu sau nghèo. Chi giờ tàng can mà từ đó có thiên tài, vợ thứ đoạt quyền vợ cả hoặc chồng thiên lệch vợ lẽ.

Cột ngày cột giờcó thiên tài, nếu không bị hình xung, gặp tỷ kiếp thì trung niên và cuối đời giàu có phát đạt.

Mệnh nữ Thiên tài trong trụ cho biết:

Thiên tài nhiều lại quá vượng, Thân nhược lại kỵ Tài: phần lớn vì bố mẹ mà bị liên lụỵ.

10. Thương quan

Thương quan và Thực thần đều làm hao Nhật chủ, đối với mệnh nữ là sao chỉ con gái, còn Thực thần là con trai.

Nếu trong tứ trụ Nhật chủ vượng, nhiều Thương quan: báo thành công trong tôn giáo, trong nghệ thuật cũng như trong biểu diễn nghệ thuật... Nếu Thân vượng có Thương quan gặp sao Tài: báo sẽ phát phúc, vinh hiển; nhưng nếu không có sao Tài thì vận mệnh nghèo khó.

Nếu Thân nhược mà Thương quan gặp Thiên quan: báo sẽ tai ách, thường gặp chuyện sóng gió.

Trong mệnh cục có Thương quan mà không có Tài: thì tuy có trí tuệ nhưng phú quý không lâu bền; không có ấn thì vì lợi mà làm liều.

Thương toạ Dương nhận: đi làm người ở; toạ Tử thì tâm đố kỵ.

Nếu trụ: tháng, giờ có Thương quan không có Chính quan, mệnh cục có Thiên quan mà tứ trụ không có hình xung phá hoại gọi là Thương quan thương tận. Trong trường hợp này nếu mà Nhật chủ vương, Tài vượng, ấn vượng là mệnh đại phú đại quý. Nhưng nếu không có Tài thì lại bần cùng khó khăn.

Tứ trụ nhiều Thương quan sẽ tương khắc con cái. Năm vận lại gặp Thương quan thì sẽ tai ách đoản thọ; gặp vận ấn hoá Thương quan thành tốt.

Nếu trong 4 cột thời gian có:

Thương quan ở cột Năm:tổ nghiệp xưa tha hương phiêu tán. Can Chi đều có Thương quan: phúc mỏng.

Thương quan ở cột Tháng: anh em bất hoà, xa cách. Can Chi đều có Thương quan: anh em vợ chồng xa cách.

Ví dụ người Bính Tuất trên: Thương quan ở cột năm và ngày, nên: đời cha ông sống tha hương, anh em không hòa thuận.





Thương quan ở cột Ngày:nam thương con, nữ khắc chồng.

Thương quan ở cột giờ:con duyên bạc, bất hiếu, con gái nhiều con trai ít.

Cột năm và cột giờ có Thương quan sẽ khắc con. Nếu chi ngày có Thương, cột giờ có Thiên tài: ngay lúc thiếu niên đã vinh hiển.

Mệnh nữ trụ có Thương quan cho biết:

* Thương quan vượng sẽ khắc chồng, nếu có Tài sẽ hoá giải.

* Cột ngày có Thương quan và Dương nhận: chồng đề phòng tai nạn. Thân vượng có Thương quan, có Kiếp Tài: mệnh nghèo. Thương quan và Thiên ấn cùng cột: phá chồng hại con.

* Chính quan gặp Thương quan: khắc chồng hoặc có nhân tình. Trong tứ trụ có Thương quan, Chính quan và Thực thần: tính hay đố kỵ, phức tạp trong quan hệ nam nữ. Nếu Chi ngày có Thương quan là người táo tợn đanh đá.

* Nữ kỵ có Thương quan, nhưng nếu mệnh có Chính tài, Chính ấn thì mệnh phú quý. Không có Chính tài, Chính ấn thì nghèo khó, vợ chồng duyên bạc.

* Cột năm có Thương quan: sinh nở khó khăn.

* Thương quan toạ Thiên Nguyệt đức: con cái có hiếu; toạ cát thần quý nhân: con cái nối dõi phú quý.

* Thương quan gặp không vong: đề phòng nửa chừng hôn nhân có biến động.

Tổng hợp lại qua ví dụ trên xem qua 10 Thần và sao Trường sinh: người nam sinh năm Bính Tuất là người con thứ, được hưởng phúc tổ tiên nhưng không thừa hưởng gì từ cha mẹ, có ý chí từ nhỏ và tự lập, học hành thuận lợi, cuộc đời hanh thông, đến tuổi trung niên thay đổi công việc, về gia thất: vợ hiền thục và nhờ vợ, có ít con cái; anh em ruột thịt nếu không xa cách thì cũng không thuận hòa. Tổ tiên đã sống xa quê quán (tha hương).

Trên đây chỉ là nét khái quát khi xem một người qua 10 Thần, chi tiết hơn nữa còn xem qua mạnh yếu của Nhật chủ, Thần và Sát, Mệnh cung, Đại vận... sẽ trình bày tiếp sau đây.

IV. Xem tứ trụ qua vòng trường sinh

1. Cách tính vòng trường sinh của tứ trụ

Các Thần mà chúng ta sẽ bắt gặp khi tự xem Tứ trụ có sức mạnh với cuộc đời một người tùy theo rơi vào thời điểm nào: suy hay vượng, mạnh hay yếu... Để dự luận dự đoán chính xác, xin bạn đọc xem và sử dụng bảng 3 sau đây:

Bảng 3: Vòng Trường sinh sử dụng trong nhiều trường hợp dự đoán:



Cách sử dụng bảng 3 để tìm vòng Trường sinh như sau: lây Can ngày sinh (Nhật chủ) đối chiếu với các Chi của 4 cột thời gian sinh (như trong bảng), từ đó chuyển sang dòng ngang để tìm mức độ Sinh hay Vượng, hoặc Suy...Ví dụ. Can ngày sinh là Bính, chi năm sinh là Dần, chi giờ sinh là Thìn... thì (cột): năm sinh là Trường sinh; giờ sinh là Quan đới.... Cụ thể như ví dụ trên như sau: lấy Can giáp Nhật chủ hay ngày sinh đối chiếu với Tuất năm, có Dưỡng, với Dậu tháng có Thai, với Tý ngày có Mộc dục, với Thìn giờ có Suy.Ghi chú: Q. Đới: là quan đới; Đ.Vượng là Đế vượng.



2. Xem qua các sao vòng trường sinh

Trường sinh: Cho thông tin về phúc thọ, bác ái, phát triển, tăng tiến, vĩnh cửu, thịnh vượng, phát đạt, được trọng vọng.

o. Có ở Nhật chủ: phúc thọ, tăng tiến, hạnh phúc, thịnh vượng, phát đạt, được trọng vọng, ngưòi nhân ái.

o. Cột năm có trường sinh thường về già mới phát đạt.

o. Cột ngày có trường sinh báo sớm đã hiển đạt, gia đình hạnh phúc, anh em thuận hoà, mọi người quý mến, trường thọ. Nhưng trường hợp đặc biệt: nếu sinh vào ngày Mậu Dần, Đinh Dậu thì phúc phận kém, ít được hưởng điều tốt trên.

o. Cột giờ có trường sinh: con cái hiển đạt làm rạng rỡ tổ tông.

o. Cột giờ và ngày đều có trường sinh: người tài giỏi, hiển đạt sớm, cha mẹ anh em xum họp thuận hoà, hưởng nhiều phúc đức do tổ tiên để lại.

o. Nữ nếu cột ngày có trường sinh, không bị các hàng Chi khác hình xung phá hại thì một đòi hạnh phúc, con cái thành đạt, nếu sinh ngày Bính Dần, Nhâm Thân thì lại càng tốt đẹp.

Mộcdục: cho thông tin về sự mê hoặc, duyên phận không bền, nửa đường đứt gánh, sống thụ động, không quyết đoán, có gian khổ, vì sắc đẹp mà thân bại danh liệt.

o. Có ở cột ngày (Nhật chủ): xa cha mẹ, thiếu niên lao khổ, không được hưởng phúc của cha mẹ để lại, tha hương lập nghiệp, khó lấy vợ. Trong tứ trụ có Tỷ kiên, Kiếp tài tính hay thiên vị, bảo thủ, xa xỉ, hiếu sắc, không hoà thuận với anh em, cha mẹ.

o. Có ở cột năm: cha mẹ tha hương, bản thân về già không như ý, gia đình khó vẹn toàn.

o. Có ở cột tháng: sự nghiệp vẫn chưa yên khi đã quá nửa đời người, hôn nhân có thể thay đổi.

o. Có ở cột giờ: gần về già không như ý, nếu có các chi khác xung hình hại phá, suốt đời không gặp may. Nếu sinh ngày Ất Tỵ lại có đức vọng, được mọi người tôn kính, nhưng phúc phận không dày, hay bệnh.

o. Nữ mệnh cột ngày có Mộc dục suốt đời bất mãn bất bình, hay gặp sự không may. Nếu sinh ngày Giáp Tý hoặc Tân Hợi, tính tình cứng rắn như nam giới.

o. Cột ngày và giờ đều có Mộc dục sống cô độc, khắc vợ con. Theo các nhà mệnh lý, bất cứ cột nào có Mộc dục, công việc làm ăn khó khăn, hay gặp thất bại. Phụ nữ tứ trụ có Mộc dục, phá hại tiền của, hại chồng hại con.

Quan đới:cho thông tin có địa vị cao, phát triển, sự thành công, được tôn kính, có đức, hướng đi lên, thịnh vượng, từ bi, sự uy nghiêm và có danh vọng.

o. Cột năm có Quan đới càng về già càng hạnh phúc, hưởng phúc về già.

o. Cột tháng có quan đới lúc nhỏ gian khó, đến trung niên từ 40 tuổi trở đi tự nhiên phú quý.

o. Cột ngày có quan đới lúc nhỏ không như ý, lớn lên phát vận như cá gặp nước gặp may, nếu có Thiên (ấn, hoặc tài) là người có từ tâm và tài năng xuất chúng, danh vọng cao, anh em hoà thuận, được trọng vọng trong xã hội.

Nữ nhân cột này có quan đới dung mạo đoan trang, lấy được chồng quý. Nếu sinh vào ngày Nhâm Tuất, Quý Sửu, hoặc gặp các sao xấu, vợ chồng sớm xa cách.

o. Cột giờ có quan đới: con cái phát đạt.

o. Song nếu Quan đới bị hình xung hoặc trong tứ trụ có Thương quan, Kiếp tài, Thực thần, Thiên ấn ở sát bên cột Quan đới mà lại không có sao tốt giải cứu sẽ cho biết người này hay làm việc bất chính, thích đầu cơ, khinh đời, cuối đời phá gia bại sản, mang tiếng cho gia đình họ hàng.

o. Nữ mệnh cột ngày có Quan đới, dung mạo đoan trang, lấy được chồng như ý. Song nếu sinh vào ngày Nhâm Tuất, Quý Sửu, hoặc gặp sao xấu, vợ chồng sớm xa cách.

Lâm quan:cho thông tin về sự lương thiện, cung kính, khiêm nhường, cao thượng, thịnh phát, danh vọng tài lộc, phong lưu, sông lâu , hạnh phúc.

o. Cột năm có lâm quan báo về già hiển đạt.

o. Cột tháng có, báo nửa đời người sự nghiệp hưng vượng, nhưng ở quê người.

o. Cột ngày có lâm quan: báo thay trưởng của tổ nghiệp, hoặc xa quê lập nghiệp, hoặc làm con nuôi người khác được hưởng thừa tự; địa vị trong gia đình hơn các anh em khác, có đức, thân ái với tất cả mọi người, có tài văn chương, nhưng khi phát đạt vợ thường mất sớm. Nếu lúc thiếu thanh niên hay gặp may thì lúc về già bị suy đồi. Nếu thiếu niên gian khổ thì trung niên lại khai vận làm ăn phát đạt.

Đối với nữ giới, cột ngày có lâm quan sẽ làm vợ chính, nhưng thường phá hại vận tốt của chồng, họ lại hay lấn át chồng, nếu lấy làm lẽ sau sẽ đoạt quyền làm vợ chính.

o. Cột giờ có lâm quan, con cái hiển đạt. Nhưng có kiếp tài kèm theo, là người ham mê tửu sắc.

Đế vượng:cho thông tin vượng phát, lớn mạnh, luôn đi một mình và làm chủ, có quyền uy, danh vọng, mưu trí, tài học, hay nay đây mai đó.

o. Cột năm có đế vượng cho biết con nhà danh giá lương thiện, giàu có, có danh vọng, tính hay tự ái.

o. Cột tháng có đế vượng báo có nghiêm trang, tính cương cường không khuất ai.

o. Cột ngày có đế vượng báo vị thế số phận quá vượng, nên có sao khác chế ngự đi, nếu không dễ bị người khác hãm hại. Nếu cột năm và tháng gặp Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, là con trưởng cũng không được hưởng tổ nghiệp để lại, tha hương lập nghiệp hoặc làm con nuôi người khác, vợ chồng khắc nhau.

Nữ giới ngày sinh có đế vượng, tính khí giống đàn ông, khắc chồng hoặc có nhiều bệnh. Nhưng nếu tứ trụ có Thiên quan hoặc chính quan thì không khắc chồng con, Nếu sinh ngày Bính Ngọ, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Nhâm Tý, Quý Hợi: vợ chồng sẽ ly biệt, sống cô đơn.

o. Cột giờ có đế vượng, con cái có danh vọng.

Suy:cho thông tin sự ôn thuận, đạm bạc, yếu đuối, bạc nhược, phá tài sản, tai ách, lương duyên lỡ dở, sự bất định.

o. Cột năm có suy, sinh ở gia đình suy bại, xa lánh họ hàng, về già làm ăn càng suy giảm.

o. Cột tháng có suy, trung niên làm ăn cũng khá, tiền bạc hao tán.

o. Cột ngày có suy, sớm xa cha mẹ, vợ chồng xung khắc, nửa đời người xa quê, lập nghiệp nơi khác nhưng vẫn lao khổ. Nhưng nêu cột năm, tháng có Đế vượng, Lâm quan thì làm ăn tạm được, không đến nỗi khốn cùng. Nếu trong tứ trụ có nhiều Bệnh, Tử ,Tuyệt thì buôn bán hay bị thua lỗ.

Nữ giới cột ngày có suy, ngoài mặt hiền lành nhưng trong bụng khinh người, không tử tế đối với mẹ cha chồng. Nếu sinh ngày Giáp Thân, Canh Tuất, Tân Mùi, vợ chồng sớm ly biệt.

o. Cột giờ có suy, con cái bất hiếu, khổ vì con.

Bệnh:cho thông tin hư nhược, xa lánh họ hàng, lao khổ, bệnh tật.

o. Cột năm có Bệnh: về già gia đạo bất hoà, ốm đau luôn.

o. Cột tháng có bệnh: nửa đời người làm ăn không đạt, lo buồn bệnh tật.

o. Cột ngày có Bệnh: lúc nhỏ có bệnh, sớm xa cha mẹ, duyên lần đầu không thành, lần hai mới được, nếu Can ngày sinh âm (như Ất, Đinh...) là người không hoạt bát, chậm chạp.

Nữ giới cột ngày có Bệnh, tinh thần ôn thuận, nhưng vợ chồng ly biệt lâu năm, hoặc chồng làm ăn thất bại, dễ bị chồng ruồng bỏ.

o. Cột giờ có bệnh, ít con, con hay đau ốm.

Tử:cho thông tin không quyết đoán, bệnh hoạn, thiếu khí phách, vợ chồng dễ chia lìa.

o. Cột năm có tử: xa cách cha mẹ.

o. Cột tháng có tử: ít anh em hoặc xa cách anh em.

o. Cột ngày có tử: thiếu thời hay mắc bệnh, khó có con, vợ ốm đau, vợ chồng dễ chia ly, làm việc không bao giờ vừa ý, hay bỏ dở giữa chừng, suốt đòi lao khổ. Nữ giới cột ngày có tử: dễ có 2 hay 3 đời chồng. Nếu sinh ngày Ất Hợi, Canh Tý hay gặp tai hoạ, con cái hư hỏng.

o. Cột giờ có tử: con ít, không giúp cha mẹ, có con nuôi.

Mộ:cho thông tin xa gia đình, duyên phận bạc, bần hàn, lo buồn, lao khổ.

o. Cột năm có mộ: thường ở quê hương giữ gìn hương hoả.

o. Cột tháng có mộ: cha mẹ anh em vợ chồng bất hoà, hao tài tốn của. Nếu chi này và chi tháng xung nhau được hưởng của ông cha để lại, sinh làm con nhà giàu.

o. Cột ngày có mộ: xa gia đình từ nhỏ, hay thay đổi chỗ ở, bất hoà với cha mẹ anh em, nghèo hèn, trung niên và về già làm ăn có tiến, nhưng trong lòng không đắc ý, lấy vợ đến hai lần. Nữ giới cột ngày có mộ vợ chồng bất hoà. Nếu sinh ngày Đinh Sửu hoặc Nhâm Thìn, vợ chồng dễ bỏ nhau.

o. Cột giờ có mộ: hay ôm đau, con cái ít, khổ vì con.

Nếu trong tứ trụ có chi hình xung với chi cột an mộ sẽ dùng được (cũng tốt). Nếu không có chi hình xung mà gặp Tài là người keo kiệt, coi tiền của hơn cả tính mệnh, suốt đời làm nô lệ cho đồng tiền.

Tuyệt: nói lên sự thăng trầm, đoạn tuyệt, không giữ lời hứa, hiếu sắc, xa lánh người thân, sống cô độc, phá sản.

o. Cột năm có tuyệt: phải xa quê hương mới lập nghiệp.

o. Cột tháng có tuyệt: hay thất bại trong công việc, sống cô độc.

o. Cột ngày có tuyệt: họ hàng bị ly tán, tha hương mưu sinh, vì gái đẹp mà bại, người thất tín. Nữ giới có tuyệt ở ngày sinh, vợ chồng xung khắc bất hoà, không thực bụng yêu chồng. Nếu sinh ngày Giáp Thân hay Tân Mão tính hay kèn cựa, bới móc người khác.

o. Cột giờ có tuyệt: ít con, hiếm con.

Thai:cho biết khắc hãm vợ, hay bị thay đổi công việc, không quyết đoán, trí tuệ kém, dễ bị mê hoặc.

o. Cột năm có thai: họ hàng không hoà thuận, hay tranh chấp, thân tộc lạnh lùng.

o. Cột tháng có thai: đến trung niên thay đổi công việc.

o. Cột ngày có thai: thiếu thời thường ôm đau khổ cực, trung niên sức khoẻ tăng tiến. Có khắc cha mẹ anh em, công việc làm ăn thay đổi luôn, về già an nhàn. Nữ giới cột ngày có thai xung đột với cha mẹ chồng, nếu sinh ngày Bính Tý hoặc Kỷ Hợi sẽ đối nghịch với cha mẹ chồng, nội trợ kém.

o. Cột giờ có thai: con cái không nối nghiệp cha, ăn chơi phóng đãng.

Dưỡng:nói lên khắc vợ khắc con, ham sắc dục, làm con nuôi người, xa nhà.

o. Cột năm có dưỡng: mình hoặc cha là con trưởng, sống xa quê nhà hoặc xa cha mẹ.

o. Cột tháng có dưỡng: dễ phá sản vì ham mê sắc dục.

o. Cột ngày có dưỡng: khắc cha mẹ, khó sống chung với cha mẹ, hiếu sắc, hiếm khi một vợ một chồng, hiếm con, khắc vợ. Nếu từ lúc nhỏ làm con nuôi người khác hoặc được người khác nuôi dưỡng thì tốt. Nữ giới cột ngày có dưỡng, trong tứ trụ có trường sinh là làm lẽ, nhưng con cái tốt đẹp. Nếu sinh ngày Canh Thìn thì xấu, hại chồng.

o. Cột giờ có dưỡng về già nhờ được vào con cái, hoặc được nhờ con nuôi.

3. Luận tốt xấu qua sao vòng trường sinh

Các nhà mệnh lý còn cho rằng, sau khi xác định được vòng Trường sinh trong Tứ trụ, có thể xảy ra các trường hợp sau, nếu:

- Nếu có Thai, Trường sinh, Đế vượng, Mộ là có Tứ quý. Đây là cách phản ánh số người có số phận tốt đẹp.

- Nếu có Quan đới, Lâm quan, Dưỡng, Suy là có Tứ bình, người có số phận khá.

- Nếu có Tử, Tuyệt, Bệnh, Mộc dục là Tứ kỵ, số không hay lắm.

- Nếu trong Tứ trụ có sao Tứ quý là tốt, lại thêm sao Thiên ất, Quý nhân thì lại càng quý, nếu có Chính tài, Chính quan, Chính ấn thì đây là người số quý hiển.

- Nếu trong Tứ trụ mà cột tháng có sao Tứ kỵ, cột ngày có sao Tứ quý; hoặc nêu cột ngày có sao Tứ kỵ, cột giờ có sao Tứ quý, cả hai ngược lại: đó là số người cuộc sống dần khá lên, vì quý kỵ gặp nhau sẽ hoà và bình nhau.

4. Dự đoán qua vượng suy cường nhược

a. Vượng suy qua thời gian sinh

Sự vượng suy (hưng thịnh hay lụn bại) trong cuộc đời của một người cũng có thể xác định qua thời gian sinh. Được thời thì vượng, không hợp thời thì suy. Từ quan điểm này mà người xưa khi thất cơ hay không toại nguyện trong cuộc đời thường thốt lên: “sinh không gặp thời”, thời ở đây không phải là thời thế, mà đó là thời gian sinh trong năm có rơi vào mùa Tráng (phát triển mạnh mẽ), Sinh (lớn mạnh) là vượng, nếu vào lão (đang suy), tù (bế tắc), tử (bại) là suy. Thời sinh theo quy luật này, được người xưa khái quát lại như sau:

- Mùa Xuân Hạ: dương khí tăng trưởng, âm khí tiêu giảm nên đây là mùa của dương khí.

- Mùa Thu Đông: âm khí gia tăng, dươn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tự xem tứ trụ một người

Thiền Viện Trúc Lâm Tuệ Đức - Vĩnh Phúc

Thiền viện Trúc Lâm Tuệ Đức được xây dựng trên di tích chùa Kim Tôn - một ngôi Chùa. Thiền Viện Trúc Lâm Tuệ Đức tọa lạc Vĩnh Phúc
Thiền Viện Trúc Lâm Tuệ Đức​ - Vĩnh Phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiền viện trúc lâm Tuệ Đức tọa lạc tại xã Đồng Quế, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc do Thượng tọa Thích Tỉnh Thuần trụ trì. Thiền viện Trúc Lâm Tuệ Đức được xây dựng trên di tích chùa Kim Tôn – một ngôi Chùa cổ đã có trên 700 năm tuổi, với công đức vô lượng của Quí Phật tử gần xa. Chùa cổ Kim Tôn được xây dựng vào cuối thời Lý, đầu thời Trần, trải qua thời gian dài, cùng sự tàn phá của chiến tranh nên toàn bộ kiến trúc chùa Kim Tôn đã trở thành phế tích.

Năm 2009, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, kết hợp cùng Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc đã tiến hành khai quật nền của ngôi Chùa Kim Tôn cổ và đã tìm thấy những di vật có niên đại từ hàng trăm năm tại đây, minh chứng cho sự tồn tại của ngôi chùa thiêng hàng trăm năm tuổi là những di vật gốm sứ với họa tiết hoa văn cổ.

Thiện Viện Trúc lâm Tuệ Đức thuộc dòng thiền viện chính tông được được sáng lập bởi Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Thiền viện Trúc lâm Tuệ Đức được xây dựng trên một địa thế đẹp tựa núi nhìn sông, xung quanh ngôi chính điện của Thiền viện được 03 quả núi bao quanh giống như chiếc ngai vàng bao bọc, từ ngôi chính điện này ta có thể nhìn thẳng ra Sông lô, và một chiếc Hồ lớn hình một ông Rùa đang cõng cả quả núi trên lưng.

Với giá trị lịch sử, văn hoá của di tích và thể theo nguyện vọng của đông đảo nhân dân địa phương, tháng 4/2010, Thiền viện Trúc Lâm Tuệ Đức được khởi công xây dựng. Được sự ủng hộ, phát tâm công đức của các tăng ni phật tử xa gần và nhân dân địa phương, ngôi chính điện – Đại Hùng Bảo Điện Thiền viện Trúc Lâm Tuệ Đức đã được hoàn thành với quy mô rộng trên 700m2.

Thiền Viện Trúc Lâm Tuệ Đức
Cổng Tam Quan – Thiền Viện Trúc Lâm Tuệ Đức

Từ một ngôi chùa đã bị đổ nát theo tháng năm, ngày nay một ngôi Thiền viện khang trang đã dần được hình thành trên nền chùa Kim tôn – Thiền việc Trúc lâm Tuệ Đức. Trong tương lai, Thiền viện Trúc Lâm Tuệ Đức sẽ là trung tâm Phật học của khu vực và là trọng điểm về du lịch tâm linh gắn với du lịch sinh thái của huyện Sông Lô.

Thiền Viện Trúc Lâm Tuệ Đức là một công trình kiến trúc đẹp trách lệ với không gian cao xanh, tĩnh mịch, u huyền… dưới chân núi có hồ Bò lạc xanh biếc lung linh bóng núi ẩn chứa nhiều sự tích xa xưa, làm cho Sáng Sơn trở nên thắng cảnh có sức mời gọi. Nơi đây đang hình thành một khu di tích văn hóa, tâm linh, sinh thái hấp dẫn hàng vạn du khách, phật tử.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiền Viện Trúc Lâm Tuệ Đức - Vĩnh Phúc

Loại đá mắt hổ kỵ tà khí hàng đầu –

Đá mắt hổ là một thành viên quan trọng của gia tộc Thạch anh. Nó hàm chứa nhiều chất amiăng xếp thành những dãy song song, thành phần cấu tạo hóa học của đá mắt hổ (cọp) là Silicon dioxidie, trong đó có oxít sắt cho các dải màu vàng và nâu vàng, dễ p

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đá mắt hổ là một thành viên quan trọng của gia tộc Thạch anh. Nó hàm chứa nhiều chất amiăng xếp thành những dãy song song, thành phần cấu tạo hóa học của đá mắt hổ (cọp) là Silicon dioxidie, trong đó có oxít sắt cho các dải màu vàng và nâu vàng, dễ phản ứng với ánh sáng, tạo nên những vệt sáng lấp lánh, tạo hiệu ứng mắt cọp, cho nên có tên gọi là đá mắt hổ (cọp). Từ trường của nó rất lớn và mạnh mẽ, phù hợp với nam giới.

Đá mắt hổ (cọp) có vẻ đẹp thu hút nhờ ánh vàng óng ánh, vân sáng rực rỡ khi đặt chúng ngoài ánh sáng mặt trời hoặc dưới ánh đèn huỳnh quang (nhờ các chất gây hiệu ứng ánh sáng).

Đá mắt hổ là một trong những loại thạch anh có cấu trúc độc đáo trong thiên nhiên, cấu trúc dạng sợi khiến đá có các ánh phản quang đẹp lung linh như mắt của loài mèo. Với những công dụng đặc biệt của nó trong đó có trừ tà, chữa bệnh… khiến cho loại đá này rất được ưa chuộng. Tuy nhiên rất nhiều người không biết loại đá mắt hổ nào kỵ tà nhất? loại đá nó có công hiệu nhất. Hôm nay chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn về loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu để chúng ta có một sự lựa chọn hợp lý.

Nội dung

  • 1 Loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu
    • 1.1 Mục đích chính khi sử dụng đá mắt hổ
      • 1.1.1 Nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên
      • 1.1.2 Mắt hổ tự nhiên có 3 màu
    • 1.2 Tác dụng khác của đá Mắt Hổ
      • 1.2.1 Về phong thủy
      • 1.2.2 Về mặt sinh lý
  • 2 Chú ý khi sử dụng

Loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu

Mục đích chính khi sử dụng đá mắt hổ

Đá mắt hổ được sử dụng ở khắp nơi trên thế giới với cùng một mục đích đó là trục trừ ma quỷ, không phải ngẫu nhiên khi loại đá này được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới với 1 mục đích chính như vậy.

Nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên

Những nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên: Nam Phi, Trung Quốc, Brasil, Nam Mỹ đều sử dụng trong trang sức hoặc treo những mặt đá trong nhà ( có hoặc không điêu khắc) với mục đích xua đuổi tà ma và đem may mắn đến.

Đá mắt hổ là một loại thánh thạch ( đá thần) của người Ấn Độ, họ quan niệm đá mắt hổ đem lại sự tự kiểm soát, ý chí vượt qua mọi khó khăn đạt đến thành công, những ánh sáng lấp lánh của đá thần mang lại sinh lực thần thánh cho họ.

 

Ngoài ra thạch anh mắt hổ còn có tác dụng nâng cao khí chất và sự tự tin ở người sử dụng, do có ánh Kim (Kim sinh Thủy) nên có tác dụng khai mở trí tuệ và năng lực tự thân.

Mắt hổ tự nhiên có 3 màu

Mắt Hổ tự nhiên các bạn chú ý là chỉ có 3 màu chính: Vàng/ Xanh Đỏ( ít thấy hơn) mắt hổ nhiều màu như màu hồng, xanh lá mạ, tím vv tuyệt đại đa số là do sử dụng các công nghệ xử lý để đạt được hiệu quả màu sắc.

Tác dụng khác của đá Mắt Hổ

Về phong thủy

Về mặt Phong Thủy tác dụng đặc biệt của đá Mắt Hổ là khiến mọi việc diễn ra với tốc độ nhanh hơn, giúp chúng ta đạt được kết quả sớm hơn. Sử dụng đá mắt hổ hình tròn đeo bên mình để nhập Thiền có thể thực hiện điều này.

Về mặt sinh lý

Tác dụng sinh lý: màu xanh lam tác động đến Luân Xa cổ họng, Đỏ tác dụng đến luân xa vùng ngực, đen tác dụng luân xa tầng đáy biển ( bàng quang), vàng tác động đến luân xa vùng bụng.

Chú ý khi sử dụng

Khi đeo đá mắt hổ không sử dụng các hình tượng đeo trên người sau:
Không đeo Phật
Không đeo gương Bát Quái
Long Quy
Thần Tài
Ưng
Bắp Cải tài lộc
Tháp Văn Xương
Bồn tụ tài
Đá Thái Sơn

Do ngũ hành nên khi đeo đá mắt hổ tác dụng của các vật trang sức ở trên sẽ bị giảm đi đáng kể

Ngoài ra trong nhà không nên có Ngà Voi, răng hổ, da cá sấu, xương hổ, báo, sói, khỉ vv vì Thú Tính trong các vật trên một khi cảm nhiễm vào đá sẽ có tác dụng giảm đi.

Chúc các bạn sử dụng đá mắt hổ hiệu quả đem lại bình an và may mắn cho gia đình và bản thân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Loại đá mắt hổ kỵ tà khí hàng đầu –

Nguồn gốc của Âm lịch và Tử vi

Hầu như dân ở các nước Việt, Hàn, Nhật, và Trungquốc nơi khai sinh ra khoa lịch số, đều biết nhiều hay nghe nói về Âm lịch, dù có đang dùng Dương lịch như một tiêu chuẩn chung cho cả thế giới hiện nay. Thích hay không thì ít nhất đa số cũng đều chấp nhận chuyện ăn mừng tết Nguyên Ðán theo truyền thống dựa vào Âm lịch. Bởi vậy nên phần đông các cuốn lịch in ra trong các nước nói trên đều có phần ghi chú thêm ngày "Ta" đi kèm. Riêng đối với người Việt thì hình như nhà nào cũng thích có cuốn lịch thuộc loại tam tông miếu để treo tường, ngay cả trong những gia đình sống ở hải ngọai. Mục đích chính không phải vì thích coi theo ngày ta, mà nguyên nhân có lẽ là do từ tôn giáo và tín ngưỡng, biết ngày nào rằm hay mùng một để ăn chay (theo Phật gíao).

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chỉ có một thiểu số ít hơn là dùng âm lịch thường xuyên để nghiên cứu hay áp dụng vào các bộ môn khoa học huyền bí, như lấy số tử vi hay coi ngày lành tháng tốt cho chuyện làm đám cưới hỏi, khai trương công việc làm ăn v.v. 

Hiện nay nghề làm lịch số của Trung Quốc không còn giữ được bí mật theo kiểu cha truyền con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi dào từ sách vở ghi chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không còn thực dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức dùng Dương lịch. Dù vậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm trướcđây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về sau này của Trung Quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ, trước Âu châu ít nhất là vài trăm năm!

Nếu tình cờ mỗi năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ quen thuộc gọi theo tên âm lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, 2003 là Quý-Mùi, hay năm tới 2004 Giáp-Thân, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc, bằng cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra những từ ngữ trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12) Ðịa Chi. Xin nhắc lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Bài viết này sẽ dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để truy tìm lại phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinh gia Trung hoa thời xưa có thể đã xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin minh xác là những gì được trìnhbày sau đây có thể chưa được chính xác đúng hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi đầu, hay nếu có thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho những vị có nhiều năng khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để cùng làm sáng tỏ những gì đã bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí. 

Nội dung chính của bài viết này sẽ trình bày và giải thích tại sao, chỉ bằng mắt thường quan sát với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các chiêm tinh gia Trung hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và LụcTuần Hoa Gíap, hay khái niệm về vận hành 60 năm trong âm lịch. Phần cuối của bài viết sẽ giải thích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.

Nguồn gốc Lịch số

Âm lịch (lunar calendar) hay việc soạn thảo lịch số dựa vào vận hành của mặt trăng không phải bắt đầu từ Trung hoa như nhiều người lầm tưởng. Theo dữ kiện cóđược từ các nhà khảo cổ với bằng chứng rõ rệt, thì nền văn minh Sumerian, phát triển bên cạnh con sông Tigris cách đây hơn 6000 năm (khoảng từ năm 5000-4000 BC, để sau này thành trung tâm của xứ ngàn lẻ một đêm, hay ngày nay còn gọi là Baghdad, thủ đô của Iraq) đã biết làm lịch dựa vào vận hành của mặt trăng. Ðế quốc La mã ngay trong thời trước Julius Cesar ( 40 BC ) cũng dùng loại Âm lịch này. Chọn mặt trăng để làm lịch có thể bởi hai lý do: Dễ nhìn vì ánh trăng ban đêm không nóng gay gắt và khó nhìn như mặt trời ban ngày. Thay đổi hình dạng thường xuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơn là mặt trời hầu như ít khi thay đổi. Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ đến, là do yếu tố thiên nhiên. Xứ Ai cập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều người đã thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa là trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhất là trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đường xíchđạo và Bắc bán cầu trong khoảng Vĩ tuyến từ 0 - 23°27 mới thấy được hiện tượng trên. Ngược lại, trong vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện tượng đó, dân Ai cập cách đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày trong năm (365 thay vì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch theo mặt trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ! 

Các thủ đô của Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm trong vùng ôn đới cách xa trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy được hiện tượng nói trên, cũng như khôngcó ấn tượng nhiều về mặt trời, và cũng là lý do dể hiểu tại sao họ đã dùng mặt trăng để làm lịch. 

Theo đúng như trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã có từ thời Hoàng Ðế, cách đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra (nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiên văn hay chuyên gia coi sao trên trời, không phải bị biến nghĩa ra thành "thầy bói toán" như về sau này!) chiêm tinh gia biên soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh và cai trị của triều đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều cho nghề nông trongviệc tiên đóan thời iết hay thu hoạch mùa màng. Chắc chắn trong giai đoạn đầu khi mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ, âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng chứng là trong thời kỳ phát triển của Chu Dịch (1150 - 500 BC) cũng chưa nghe nói đến. Phải đến thời "Tam Quốc" của Khổng Minh (Gia cát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mới có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất hiện các khoa lý số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại Ðộn v.v. Hầu hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà Hán, sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền văn minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ đầu tiên (0 -1000 AD). 

Theo chínhsử ghi lại, những nghiên cứu và phát minh của Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi nhưng tàn bạo này, có thể động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là khoa học gia theo tiêu chuẩn thời đó), trong việc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ hoa dược thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhận xét bình thường thì cho rằng đó là việclàm xa xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay, Tần Thủy Hoàng rất xứng đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu Hàn lâm Viện khoa học đầu tiên cho nhân lọai! Những chi phí trong việc chiêu đãi hay thưởng công cho các đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là phung phí, nhưng so với tỷ lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gìcả, dù là của một nước đang phát triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập thể với nhau đó, đã vô tình tạo ra môi trường tốt đẹp cho những sáng kiến mới, thi đua học hỏi, trao đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã là cơ sở đóng góp cho nhiều phá minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật sau này của Trung quốc. Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn ính (abacus), v.v. có thể đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thờ kỳ này. Thí dụ về những huyền thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng đặc biệt từ các hoá chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài dược thảo trộn chung với nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối phương bị gây mê, mất trí hay mạng vong trong những vùng gọi là bát qúai trận đồ. Nhưng một trong những thành quả tốt đẹp hơn hết chính là bộ môn xem thiên văn khí tượng bắt đầu xuất hiện được nhiều người biết đến. Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng hơn cho tới bây giờ! 

Phương pháp soạn Âm lịch

Có thể chia ra làm hai giai đọan phát triển chính cho việc soạn thảo âm lịch.

Giai đoạn I: Kéo dài khoảng gần 2000 năm từ thời Hoàng đế cho đến thời Khổng tử. Trong giai đoạn này chỉ có ngày, tháng và năm. Chưa có chia ra giờ cũng như chưacó thiên can và địa chi. Công việc soạn lịch vào thời sơ khai này rất là dễ hiểu, không có gì phức tạp như nhiều người thường lầm tưởng. Những chiêm tinh gia thời đó chỉ dựa vào khoảng cách giữa hai tuần trăng tròn để tính số ngày cho một tháng. Khoảng cách của một năm thì được định bằng thời điểm vào lúc Trăng tròn nhất, khoảng ngày rằm tháng 8 (sau này thành ra tết Trungthu), và một phần dựa vào thời tiết thay đổi của 4 mùa. 

Khó khăn duy nhất lúc ban đầu là cứ cách khoảng chừng hai năm thì tháng có trăng tròn nhất bị kéo dài thêm một tháng. Ðó là những tháng nhuận, và cách giả iquyết thực tế đơn giản lúcbấy giờ là thêm nguyên một tháng vào những năm nhuận. Còn làm sao họ biết được năm nào nhuận là do phỏngchừng và dựa vào kinh nghiệm riêng của những đời trước theo kiểu cha truyền con nối. Chính cách làm theo lối thuận tiện như trên, nên âm lịch thường bị thành kiến cho là thiếu chính xác! Có thể trong thời kỳ này, tháng nhuận chỉ được thêm vào trong tháng trước tháng có trăng tròn nhất là tết Trung thu(?) Chỉ sau này khi bắt đầu ăn mừng ngày tết Nguyên đán và để không bị sai ngày quá xa, nên những nhà soạn lịch phải chia ra cho đều, thêm tháng nhuận vào các tháng khác. 

Ngoài ra có vài chi tiết cần được để ý là hệ thống Âm lịch dựa vào thiên can và địa chi chỉ có phân biệt tối đa là 60 năm, nên nếu muốn viết lịchsử, họ thường dùng năm cai trị của Vua hay triều đại làm chuẩn. Thí dụ như trong sách thường viết là năm thứ mấy đời Vua nào đó gặp thiên tai bão lụt v.v. Lâu dần trở thành thói quen dùng luôn cho đến khi bị ảnh hưởng của nền văn minh Tây phương thay đổi.

Về giờ giấc, lịch số ở thời kỳ đầu cũng chưa chia ra 12 giờ như sau này. Ðể định giờ, họ dùng cách nói phỏng phừng theo vị trí của mặt trời, mà mãi cho đến bây giờ, nông dân ít học ở các vùng quê vẫncòn dùng, như khi nói mặt trời vừa lên quá ngọncây (khoảng 8 đến 9 giờ sáng mùa hạ), hay mặt trời đứng bóng giữa trưa khoảng 12 giờ v.v. 

Những gì vừa trình bày có thể kiểm chứng bằng bộ sách Chu dịch đã được soạn ra khoảng từ thời nhà Chu (1150 BC) cho đến thời Khổng tử (550 BC). Cụ thể là việc lập quẻ Dịch. Trong bộ Chu Dịch chính bản chỉ ghi cách lập quẻ duy nhất là dùng cỏ Thi, còn gọi là phép bói cỏ Thi, mà không dùng đến giờ nào như Khổng Minh dùng để bấm độn sau này. Các lời bàn của 64 quẻ trong bộ Chu Dịch nguyên thuỷ hoàn toàn không có nói rõ về giờ giấc.

Giai Ðoạn II: Từ thời Khổngtử cho tới nhà Ðường khoảng chừng 1000 năm. Thời kỳ này văn minh Trung Hoa bắt đầu khởi sắc đi lên. Các Ðạo sĩ hay Chiêm tinh gia làm việc có phương pháp và khoa học hơn. Nhờ vậy, họ đã tìm ra hay khám phá được chu kỳ vận chuyển của các hành tinh trong Thái Dương hệ, và từ đó âm lịch mới được thay đổi để thêm vào Thiên can, Ðịa chi, Lục tuần Hoa giáp (hay chu kỳ 60 năm). Trướckhi đi sâu vào chi tiết, và để quý đọc giả dễ theo dõi vấn đề hơn, người viết xin nhắc lại một vài dữ kiện căn bản như sau:

Trong những đêm tốt trời không mây, nếu dùng mắt thường chúng ta có thể đếm được cả vài trăm ngôi sao là chuyện thường. Tuy nhiên, tất cả đều thấy gần như cố định không thay đổi theo năm tháng, vì không phụ thuộc vào một hệ thống vệ tinh như Thái dương hệ, hoặ cgiả có chu kỳ di chuyển quá lớn đến cả ngàn vạn năm. Còn lại, trừ trường hợp đặc biệt như sao chổi (Comet) và sao băng (Asteroid), chúng ta chỉ thấy được những hành tinh thuộc Thái dương hệ dic huyển mà thôi. Trong tám (8) hành tinh chính, trừ mặt trời và mặt trăng, mắt thường của chúng ta chỉ thấy được có năm(5) hành tinh. Ðó là Thủy tinh(Mercury), Kim tinh(Venus), Hỏa tinh(Mars), Mộc tinh(Jupiter), và chót là Thổ tinh(Saturn). Ba(3) hành tinh không thấy được bằng mắt thường là Diêm vương tinh (Uranus), Hải vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh(Pluto). Không biết có phải là trùng hợp ngẫu nhiên của tạo hóa, hay sắp đặt khéo léo của con người, trong 8 quái (Bát quái hay 8 hành?) của Dịch lý, các "Khoa học gia" thời đó chỉ thấy được có 5 quái: Ðịa, Sơn, Thủy, Lôi, và Hỏa, nên phát minh ra Ngũ hành (Ngườ viết đã trình bày trong bài "Những khám phá mới về Dịch lý và Ngũ hành" cách đây hơn hai năm.) .

Ðể tìm hiểu về 5 hành tinh thấy được chuyển động như thế nào, các Chiêm tinh gia thời đó đã dùng một phương pháp đơn giản nhưng rất khoa học, là ghi chép lại vị trí của các hành tinh sau một thời khoảng nhất định. Thời điểm tốt nhất để xem thiên văn là mỗi tháng một lần vào cuối hay đầu tháng, lúc trăng hoàn toàn bị che mất (đêm 29, 30 hay 1). Muốn định rõ vị trí của cácsao, có lẽ họ cũng biết dùng theo phương pháp chấm tọa độ, nhưng kém chính xác rất nhiều. Dùng sao Bắc đẩu làm chuẩn và theo đồ hình Bát quái, họ có thể định phương vị (hay khẩu độ) của một sao, và kế đến là cũng theo lối ước chừng độ cao của mặt trời để định khoảng cách từ đường chân trời. Thí dụ như để định vị ngôi sao ở 220 độ từ hướng Bắc (theo chiều kim đồng hồ) và 25 độ cách chân trời nằm ngang, họ có thể nói là nằm ở giữa cung Khôn (hướng Tây-Nam) cách chân trời khoảng một gang tay chẳng hạn. Về sau để được chính xác hơn, có thể các chiêm tinh gia đã dùng đến các tên của quẻ dịch để phân chia thành 64 cung trên vòng tròn. Ðó chính là lý do tạisao các nhà nghiên cứu về sau cóthể hiểu lầm vì bị nạn "tam sao thất bổn", nên tưởng là môn lịch số có nguồn gốc từ Dịch lý mà ra. 

Dù bằng cách nào thì cũng nhờ khái niệm tuần hoàn và chu kỳ âm dương của Dịch lý, chiêm tinh gia thời đó có thể tin chắc là các vì sao đều chuyển động theo một chu kỳ nhất định nào đó. Nếu không thì có lẽ họ không bỏ thì giờ quá lâu cho cả một đời người để tìm ra gần đúng chu kỳ của 5 hành tinh trong Thái dương hệ, trước Âu châu cả hơn ngàn năm!

Kết quả công trình nghiên cứu và ghi chép vị trí sao của các Chiêm tinh gia Trung hoa nói trên cho thấy là cứ mỗi 60 năm thì cả 5 hành tinh đều quay trở về lại gần vị trí cũ! Ðặc biệt hơn hết, là vào khoảng cuối năm Quý Hợi và đầu năm GiápTý thì cả 5 hành tinh đều hội tụ lại, và nằm sát với nhau chung một hướng. Xin nhắc lại đây để tránh hiểu nhầm, nhờ tìnhcờ ngẫu nhiên quan sát thấy hiện tượng 5 sao tụ hội về một chỗ trước khi phân tán ra, nên có thể các nhà lịch số cho rằng đó là khởi điểm đầu tiên cho chu kỳ 60 năm, và họ đặt tên cho năm có hiện tượng đó là GiápTý, đứng đầu trong bảng lục tuần hoa giáp. 

Sau đây là bảng tóm lược số vòng chu kỳ quay quanh mặt trời của 5 hành tinh, dựa theo thời gian một (1) năm của trái đất làm chuẩn:


Dựa vào bảng tính toán chu kỳ ở trên cho thấy có một vài chi tiết cần chú ý: Sau khoảng chừng 20 năm thì các sao tụ về tại một vị trí khác, và phải sau gần 60 năm của trái đất, thì cả bốn(4) sao Thủy tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, và Thổ tinh mới quay về gần đúng vị trí đầu tiên hay xê xích một chút. Khoảng cách sai số sau 60 năm là từ 10 đến 30 cung độ (arc), do các số lẻ thứ nhất của số chu kỳ trong 60 năm đều nằm trong giới hạn của 0 - 0.1 hay 0.9 - 1.0 theo vòng tròn (360 độ) của mặt trời. Ðối với người quan sát các hành tinh đứng từ vị trí trên trái đất và ở một gốc độ chéo, thì chắc sẽ nhìn thấy khoảng cách hay độ xê xích nhỏ hơn rất nhiều, hoặc có thể không thấy được độ sai biệt bằng mắt thường! Riêng trường hợp của Kim tinh (Venus) tuy nằm gần như đối diện với vị trí cũ (số lẻ 0.54), nhưng chu kỳ quay chung quanh mặt trời chỉ có chừng hơn 7 tháng, nên chỉ cần thêm khoảng 4 tháng (cũng còn trong 1 năm của trái đất) là quay vòng trở lại để hội tụ cùng các sao. 

Như vậy, với một vài bằng chứng ở trên có thể tạm kết luận rằng: Chuyện các chiêm tinh gia Trung hoa cách đây hơn 1000 năm đã tìm ra chu kỳ gần đúng của 5 hành tinh là sự thật hiển nhiên rất dễ hiểu theo khoa học. Hình vẽ thứ hai sau đây cũng để minh chứng cụ thể cho thấy vị trí của 5 hành tinh vào tháng 2 năm 1984 (dương lịch, âm lịch là 30 tháng Chạp năm Quý Hợi, gần tết Nguyên đán) theo cách tính đúng qũy đạo chính xác của khoa học ngày nay. 

Tuy nhiên cũng xin lưu ý và nhấn mạnh một lần nữa là do sự trùng hợp ngẫu nhiên đưa đến, không phải cứ 60 năm là các sao phải tụ về ở cùng một phương vị giống như vậy. Lý do là vì các sai số khoảng 0.06 cho Mộc tinh và 0.037 cho Thổ tinh như đã nói, nên phương vị của các sao tụ hội lại cũng thay đổi xê xích mộtchút sau khoảng 60 năm. Muốn các sao tụ hội về cùng phương vị gần giống như cũ phải mất khoảng 1600 năm, hay gần 27 lần của chu kỳ 60 năm! Nhưng dù vậy cũng chỉ gần đúng mà thôi. Nghĩa là trong thực tế không hề có sự trùng nhập lại giống y hệt như cũ được!

(Chú thích: Mercury bị che bởi Venus và Mars nên không thấy trong hình)

Nhân đây cũng nên nhắc đến một sự kiện lịch sử có ảnh hưởng rất nhiều đến vận mệnh của cả nước Việt nam. Do bởi các vua chúa Trung hoa thời bấy giờ vì quá tin vào lập thuyết của các chiêm tinh gia, cho rằng một khi các tinh tú đều chầu về một phương nào thì nơi đó tụ hội được nhiều linh khí, nghĩa là có "Thánh nhân" hay bậc đế vương sinh ra đời! Bởi vậy nên tính ra trong khoảng 400 năm ( 400 - 800 AD) vào thời nhà Ðường, các Sao đều chầu về phương Nam (gần giống như hình vẽ trên), làm cho họ phải lo sợ. Từ nguyên nhân đó, mới có việc sai phái đạo sĩ Cao Biền làm Thái thú để tìm cách trấn yểm phương Nam. Ngoài ra sau này họ cũng thường gởi các "Gián điệp" giả dạng đội lốt tu sĩ hay thầy Ðịa lý và thầy thuốc bắc để dò tìm nhân tài của Việ nam. Một khi phát hiện được nơi nào có "thần đồng" hay thiếu niên giỏi chữ là họ tìm đến để thử tài và tìm hiểu. Nếu đúng thì bằng nhiều cách như dụ dỗ, mua chuộc nếu cha mẹ nghèo, xin cho làm con nuôi để "dạy dỗ và huấn luyện chữ nghĩa v.v. Ðó là lý do tại sao trong những câu chuyện kể về các vị thần đồng Nho học của Việt nam thời xưa, thường nói tới việc có những người "khách lạ" tìm đến để ra câu đối và thử tài thông minh!

Nếu những gì nói trên đúng theo thuyết của các chiêm tinh gia Trung hoa, thì trong số những đứa trẻ sinh năm 1984-85 ở Việt nam sẽ cho ra nhiều thiên tài xuấtchúng ngoại hạng trong tương lai (!?) Ðúng hay sai thì chưa biết, nhưng ứng nghiệm vào các quốc gia thuộc vùng Ðông nam A¨ thịnh vượng giầu có hơn trong vòng 20 năm qua, và dĩ nhiên kết qủa là sẽ cho ra nhiều trẻ em thần đồng nhờ được nuôi dưỡng huấn luyện và giáo dục trong môi trường tốt hơn! 

Nói chung với cách tính phỏng chừng và đơn giản dựa vào ba sao là: Hỏa tinh (Mars) có chu kỳ gần 2 năm, Mộc tinh (Jupiter) có chu kỳ khoảng 12 năm, và Thổ tinh có chu kỳ gần 30 năm, các nhà làm Lịch số đã tìm ra mẫu số chung gần đúng là 60 năm để cả ba sao tụ hội lại gần nhau, và có cùng chung một cung, hay cùng phương vị theo bát quái (mỗi cung khoảng 45°.) 

Ðiều cần biết thêm ở đây chính là chu kỳ gần 2 năm của sao Hỏa (Mars), nghĩa là cách khoảng một năm thì các chiêm tinh gia thấy sao Hỏa nằm ở vị trí hướng đối ngược lại. Do hiện tượng trên trùng hợp với lý thuyết về Dịch hay luật âm dương, nên có thể các nhà lịch số tin rằng thời gian cũng giống như vậy là cứ một năm Dương một năm Âm thay đổi đều nhau! 

Mộc tinh (Jupiter) là sao quan trọng nhất có chu kỳ gần đúng 12 năm. Quan trọng theo các nhà Lịch số thời bấy giờ có thể từ hai lý do. Thứ nhất, đó là sao duy nhất để phân biệt và chuẩn định sự khác biệt của các năm. Thổ tinh (Saturn) vì xa và khó thấy hơn, nhất là chu kỳ đầu tiên quá lâu và có tới gần 30 năm không chính xác bằng Mộc tinh. Riêng Hỏa tinh thì lại càng không chính xác vì chu kỳ quá ngắn chỉ có khoảng gần 2 năm. Thứ hai, dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ quan sát và thực nghịêm của các chiêm tinh gia theo lối cha truyền con nối có thể đã kéo dài trong vài trăm năm, sau Mặt trời và Mặt trăng, Mộc tinh có ảnhh ưởng nhiều nhất đối với con người và Trái đất (sẽ giải thích thêm ở mục Tử Vi). Chính vì vậy, họ đã dùng chu kỳ 12 năm của Mộc tinh để đặt tên cho 12 năm, còn gọi là Thập nhị Ðịa chi. Dám chắc mới đầu chỉ có tên bằng con số 1, 2, 3, 4,...12. (Nếu để ý thì thấy các số lẻ 1, 3, 5...thuộc số Dương, số chẳn 2, 4, 6... là số Âm, phù hợp với Dịch lý đã nói ở trên). Còn tại sao sau này lại có tên của 12 con vật là Tý, Sửu, Dần...v.v, thì lại thuộc một vài lý do khác không nằm trong phạm vi bài viết này, nên xin miễn bàn ở đây. Nói chung, yếu tố quan trọng là nhờ vào quan sát thực nghịêm, một phương pháp thông dụng trong nghiên cứu khoa học.

Sau cùng, có lẽ các chiêm tinh gia cũng chỉ thấy có sao Thổ tinh là có chu kỳ lâu nhất trong 5 hành tinh, nên theo trình độ hiểu biết thời bấy giờ, họ cho rằng đó là vị thần chính của nhà Trời ảnh hưởng đến mọi sự sắp đặt và thay đổi của "Thượng đế", nên gọi là Thiên Can (?). Nhưng tại sao là 10 mà không là 5, vì 5 nhân 12 mới bằng 60? Hỏi vậy là xem thường khả năng về Toán của chiêm tinh gia! Nếu chỉ dùng 5 số Thiên can ghép với 12 Ðịa chi sẽ bị trở ngại ngay, nhất là không giải quyết được nguyên tắc Âm Dương, một năm Dương và một năm Âm đi liền với nhau như đã giải thích về chu kỳ của sao Hỏa ở trên. Ðể giải tỏa vấn nạn đó, các chiêm tinh gia buộc phải dùng gấp đôi con số 5 lên thành 10, tuy vẫn duy trì 5 đặc tính Ngũ hành của Thiên can. Bởi vậy cho nên bây giờ chúng ta mới có hai Can đi liền với nhau có cùng chung một Hành (theo thuyết Ngũ hành), và có một Dương và một Âm. Thí dụ như Giáp với Ất (hành Mộc), Bính với Ðinh (Hỏa), Mậu với Kỷ (Thổ), Canh với Tân (Kim) và Nhâm với Quý (Thủy). 

Ngoài ra, do ảnh hưởng của thuyết Ngũ hành, việc đặt hay gọi tên 5 hành tinh theo Ngũ hành là hoàn tòan dựa vào màu sắc khi nhìn bằng mắt thường, và không có liên hệ gì với đặc tính vật lý. Theo lý thuyết của Ngũ hành về màu sắc, gọi là Mộc tinh vì có sắc xanh. Hỏa tinh vì có sắc đỏ như lửa. Thổ tinh vì có sắc vàng, Kim tinh (Venus) vì có sắc trắng do có độ sáng mạnh, và Thủy tinh (Mercury) có sắc đen vì quá gần mặt trời nên không thấy được sáng lắm!

Tóm lại hệ thống Âm lịch dựa vào các hành tinh chính sau: Mặt trời để định Giờ và Ngày, Mặt trăng dùng cho Tháng, Mộc tinh (Jupiter) dùng cho Năm hay 12 Ðịa chi, và sau cùng Thổ tinh (Saturn) và Hoả tinh (Mars) dùng để định Thiên can (Âm hoặc Dương) và Ðại Chu kỳ 60 năm hay LụcTuần Hoa Giáp. Ghi nhận thêm ở đây là theo âm lịch, mỗi tháng chia ra làm 3 tuần, có khoảng từ 9 đến 10 ngày, gồm: Thượng, Trung, và Hạ tuần. Về sau này thì các nhà soạn lịch tính và thêm vào các ngày đặc biệt như Ðại hàn, Tiểu hàn, Lập Đông, Hạ chí v.v 

Những Bí ẩn của khoa Tử vi 

Trong suốt hơn một ngàn năm, bộ môn Tử vi được coi như là khoa học huyền bí bởi tất cả các yếu tố an sao và giải đóan đều dựa theo một vài công thức định trước, mà không có sự giải thích hay chứng minh lý do tại sao. Dù tin hay không tin, thực tế cho thấy khoa tử vi cũng đã được lưu truyền trong dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một số người chấp nhận, nghĩ rằng có thể dùng để đoán được phần nào vận mệnh tương lai của con người! Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúng theo dữ kiện cho thấy, khoa Tử vi hiện tại này chỉ còn có Việt nam là đất dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung hoa. Ngay cả các sách viết về Tử vi ở TrungHoa cũng có nhiều, nhưng họ không thích xài Tử vi mà lại chọn các môn khác thông dụng hơn như Tử Bình (gọi tắt là Bát tự có 8 chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một lý do có thể giải thích là vì sau này họ đã khám phá và thấy được rằng, vận hành của các sao không được chính xác như đã tin tưởng lúc ban đầu!

Những gì được người viết phát hiện và trình bày sau đây cho thấy vài đặc tính khoa học của bộ môn Tử vi. Trần Ðoàn (được coi như ôngTổ sángchế ra Tử vi) hay các vị thầy tiền bối của ông vào khoảng thời nhà Ðường, có thể đã tiến xa hơn và biết khá nhiều về vận hành của các hành tinh. Nhưng tiếc rằng vì các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa xã hội thời bấygiờ, nên họ đã dấu kín và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay viết sách để lại lưu truyền cho hậu thế. 

Cung An mệnh. Theo quan niệm về triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịu ảnh hưởng ít nhiều đạo Lão, mỗi người sinh ra đều có một số phận được an bài trước gọi là thiên mệnh. Các nhà lý số hay tử vi gia Trung hoa dựa vào lý thuyết trên nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh hưởng định đoạt cho số phận bởi các tinh tú hiện diện trên trời ngay thời điểm đó. Câu văn nổi tiếng thường nghe là "...sinh ra đời dưới một ngô isao..." phản ánh niềm tin trên. Nói cách khác, khi một đứa trẻ sinh ra đời tại một địa điểm nào trên trái đất, sẽ chịu ảnh hưởng của tất cả các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định đoạt số mệnh luôn cả đời cho đứa bé vừa sinh!

Không phải tự nhiên mà các Tử vi gia (TVG) bày đặt ra cách an mệnh trong Tử vi như sau: Khởi từ cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiều thuận (kim đồng hồ) đến tháng sinh, rồi từ đó lại đếm ngược cho tới giờ sinh để an cung mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng cách an cung mệnh cho thấy, các TVG thời đó đã khám phá ra được hai đặ ttính vận hành của trái đất và mặt trời, một đúng và một sai! 

Thứ nhất, đúng là họ đã biết trái đất tự xoay vòng quanh lấy chính nó theo chiều ngược với kim đồng hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là đèn kéo quân hay đèn cù) rất thịnh hành vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG lúc bấy giờ có thể đã có khái niệm về trái đất tròn và xoay. Nhưng như đã viết ở trên, họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và nhất là sợ nguy hiểm cho chính bản thân và gia đình do quan niệm "Thiên cơ bất khả lậu" hoặc vì những người cầm quyền như Vua Chúa không tin (giống như trường hợp của Gallileo). Một lý do khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu và không giải thích được hiện tượng tại sao con người không bị rơi ra ngoài nếu trái đất xoay tròn! Thêm vào, các hiện tượng thiên nhiên như nhật thực hay nguyệt thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu ánh sáng từ mặt trăng là do từ ánh sáng mặt trời chiếu vào và thỉnh thoảng lại bị trái đất che (cho trường hợp nguyệt thực). Có thể với cách suy luận tầm thường và đơn giản theo lối chứng minh "phản đề" là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa vào quan sát hàng ngày cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hành tinh và đa số các tinh tú thấy được, phải "chạy" xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều này cho thấy hoàn tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Cụ thể như nhờ có hiện tượng nhật thực toàn phần giữa ban ngày, các TVG đã thấy được các ngôi sao và các hành tinh hiện ra, dù trong chốclát. Nghĩa là không phải vào ban ngày, các tinh tú chạy xuống dưới đất rồi đến tối mới hiện lên! 

Thứ hai, các TVG đã hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt trời quay chung quanh trái đất mỗi năm một lần theo chiều thuận kim đồng hồ! Nhưng thật là may mắn cho khoa Tử vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng trên thựctế! Lý do là nhờ luật tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu các TVG đang đứng trên trái đất nhìn mặt trời, trong khi trá iđất di chuyển xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ, thì cũng giống như các TVG đứng trên trái đất nằm yên, và nhìn mặt trời di chuyển xung quanh trái đất theo chiều thuận kim đồng hồ!.

Những bằng chứng trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã theo gần đúng nguyên tắc vận hành của trái đất và mặt trời, xác định vị trí tương đối lúc đứa bé sinh ra đời trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh và giải thích rõ ở đây thêm một chút để tránh sự hiểu lầm. Ðúng ra, phần nào là do ảnh hưởng thể xác của người mẹ, do tính di truyền hay phù hợp với môi trường vào thời điểm đó, nên "chuyển bụng" mà sinh ra đứa bé, hơn là do cơ thể đứa bé sinh ra chịu ảnh hưởng của các hành tinh! 

Vòng Tử vi và Thiên Phủ: Coi như quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào tất cả bốn yếu tố là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể sau khi định vị trí của đứa rẻ khi mới sinh ra đời dựa vào tháng và giờ, các TVG còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành tinh hay thiên can, và vị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm sao họ biết sao Tử vi phải được an ở đâu dựa vào ngày sinh (?), và đây vẫn còn là một bí ẩn cần được nghiên cứu thêm. Câu trả lời tạm thời là có thể các TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm hình ạng và khuôn mặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian kéo dài cả mấy trăm năm. KhoaTướng số cũng cóthể nhờ đó mà phát sinh ra. Nên nhớ là ngày nay các nhà coi Tử vi chuyên nghiệp cũng cần phải dựa vào hình dạng hay tướng mạo để "điều chỉnh" và kiểm chứng lại trước khi bàn tới lá số của người nào.

Vòng Thái tuế: Trong số những người Việt nổi tiếng một thời nghiên cứu về khoa Tử vi, có thể TVG Thiên lương (bút hiệu) là người đã khám phá ra những yếu tố quan trọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái tuế theo quan niệm của nhóm nghiên cứu TVG Thiên Lương, có ảnh hưởng nhiều đến thái độ sống và cách ứng xử của con người đối với xã hội. Tại sao vòng Thái tuế lại đóng một vai trò chính trong khoa Tử vi? Câu trả lời là vì đã dựa vào sao Mộc tinh (Jupiter). Các chiêm tinh gia từ xưa đã quan sát và biết chu kỳ đặc biệt duy nhất gần 12 năm của Mộc tinh trong Thái dương hệ. Nhưng yếu tố chính quan trọng ở đây là họ đã cảm nhận được ảnh hưởng của Mộc tinh đối với các sinh vật đang sống trên trái đất, nhất là con người theo từng năm (bởi vậy nên SaoThái tuế bao giờ cũng an theo năm sinh, nghĩa là sinh năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung đó). 

Theo dữ kiện khoa học tìm thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay saoThái tuế có hai đặc tính nổi bật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành tinh lớn thứ hai chỉ nhỏ hơn Mặt trời, với đường bán kính trung bình khoảng chừng 70 ngàn cây số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấp dẫn (gravity) của Mộc tinh lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt trăng quá gần với Trái đất). Thứ hai, và đây mới chính là điều đáng nói, ảnh hưởng từ trường của Mộc tinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần của Trái đất. Yếu tố sóng từ trường như các phát hiện gần đây cho thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não bộ của con người nhất là cho các trẻ em! Thí dụ cụ thể là cách đây mấy năm, đã xảy ra hiện tượng một số các trẻ em Nhật bị ói mửa và bất tỉnh vì coi một chương trình truyền hình! Hay giới y học càng ngày càng có khuynh hướng tin và công nhận các loại sóng từ trường, từ các dụng cụ điện tử hay các đường dây điện cao thế, có thể gây nguy hại cho não bộ con người nếu hấp thu quá nhiều!

Trở lại chuyện tử vi, theo lý giải của phái TVG Thiên lương nếu người nào an mệnh tại cung có sao Tuế phá, xung chiếu với cung thiên di có sao Thái tuế, thì người đó thường hay bất mãn chống đối, sinh bất phùng thời, v.v. Ðể kiểm chứng hiện tượng trên, người viết chọn một lá số thí dụ để cho cung mệnh có được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ Tý, mệnh an ở cung tuất. Sauđó, dùng cách định vị trí của các hành tinh vào thời điểm nói trên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào giờ đó đối diện thẳng với sao Mộctinh, và ở vị trí gần nhất, theo hình vẽ sau: 


Dựa vào hình vẽ trên cho thấy người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh tháng ba giờ Ngọ đều an mệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuế phá tại mệnh. Khác biệt duy nhất của hai trường hợp trên là chỉ có người sinh tháng 9 mới chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong khi người sinh tháng 3 thì ngược lại không ảnh hưởng tí nào vì nhờ mặt trời che hoàn tòan! Một yếu tố có thể là do ảnh hưởng của sóng từ trường quá nhiều từ mộc tinh, nên não bộ của đứa bé lớn lên sẽ có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc loại thông minh hơn người, và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện chướng tai gai mắt, nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người được (trường hợp của Cao Bá Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do thiếu giáo dục và hướng dẫn, dễ kết bè đảng với kẻ xấu (Kiếp, Không, Sát Phá Tham hãm địa) thành tay đạo tặc gian hùng v.v. Nên nhớ là những tay đạo tặc gian hùng có tiếng tăm phần đông đều thuộc loại thông minh hơn người rất nhiều !

Hai hành tinh gần mặt trời nhất cũng có thể làm cơ sở để an một số sao trong Tử vi. Kimtinh (Venus) có chu kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3 năm tròn của trái đất, nên có một số sao trong Tử vi chỉ an theo ba (3) nhóm gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu.

Ðặc biệt Thủy tinh (Mercury) quay quanh mặt trời quá mau, cứ mỗi ba tháng làm 1 vòng, trong khi trái đất cứ ba tháng lại di chuyển một phần tư (1/4) vòng chung quanh mặt trời, nên theo vị trí tương đối của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy như Thủy tinh chỉ di chuyển trong 4 vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn quan sát bị gián đoạn không liên tục, do vị trí của Thủy tinh quá gần mặt trời). Phải chăng vì vậy mà sao Thiên Mã và một số sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc trong 3 nhóm trên (?)

Những gì vừa được trình bày cho thấy mặc dù khoa Tử vi đẩu số không được hoàn hảo và còn nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại, nhưng dám chắc rằng đó chính là biểutượng cho tinh hoa của nền văn minh Ðông phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của nhân loại, và hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên niên kỷ thứ ba này. 

Nguyễn Cường

Sacto 1/ 2003


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc của Âm lịch và Tử vi

Rằm tháng Giêng: 10 điều đại kỵ truyền đời không nghe bảo sao xui xẻo, nghèo nàn

Trẻ con khóc hay làm vỡ đồ ngày Rằm tháng Giêng có thể mang đến cho gia đình bạn nhiều xui xẻo.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rằm tháng Giêng là một trong những ngày lễ quan trọng trong năm của người Việt, cũng là ngày trăng tròn đầu tiên của năm. Vào ngày này, mọi người thường lên chùa cúng sao giải hạn, ước nguyện điều lành cho gia đình.

Rằm tháng Giêng năm nay rơi vào ngày 12 tháng 1 Dương lịch. Ngày này thích hợp cho việc đính hôn, cúng tế, cầu phúc, cầu tự, tắm gội, nhận con nuôi, thăm hỏi người thân bạn bè, nhập học, chữa bệnh, đào giếng, xây đắp ao hồ, mua gia súc. Kị kết hôn, nhập trạch, tang lễ, an táng. Tuy nhiên, nếu cần làm việc gì bạn nên xem kĩ để chọn giờ cho phù hợp.

Ngoài ra vào ngày này hàng năm còn có một số kiêng kị mọi người nên biết để có một năm thuận lợi, nếu tránh được sẽ tốt cho vận khí của bạn và gia đình.

1. Trẻ con khóc sẽ làm gia đình không may mắn, dễ xảy ra một số việc không mong muốn, vào ngày này cha mẹ không nên để con cái khóc nhiễu.

2. Tránh đánh vỡ, làm hỏng đồ đạc trong nhà, bởi vì điều đó đồng nghĩa với việc năm tới tài phúc hao tổn.


ram thang gieng: 10 dieu dai ky truyen doi khong nghe bao sao xui xeo, ngheo nan - 1

Làm vỡ đồ ngày Rằm tháng Giêng có thể đem đến nhiều xui xẻo. Ảnh minh họa

3. Kiêng đi đến những nơi âm khí nặng như mồ mả, nơi hoang vu hoặc bệnh viện, nhất là những người sức khỏe yếu kém.

4. Mang ít tiền bạc, đồ vật có giá trị bên người. Nếu mất mát tài sản vào ngày này thì năm nay tài vận của bạn sẽ kém đi.

5. Rằm tháng Giêng không được cho người khác mượn tiền, nếu bạn cho mượn nghĩa là bạn cũng cho đi tài khí của mình.

6. Không được để thùng gạo trong nhà lộ đáy, thùng gạo trống rỗng chẳng khác gì nhà bạn sẽ đói kém.

7. Chú ý không để quần áo bị rách, theo quan niệm xưa thì nếu quần áo rách, năm tới bạn sẽ bị vận rủi đeo bám.

8. Ngày này không được sát sinh, nếu không tài vận suy giảm, gặp tai nạn, bệnh tật.

9. Tránh mặc đồ màu trắng và màu đen vì hai màu này liên quan đến người đã mất. Người mặc hai màu đen trắng vào ngày này làm việc gì cũng khó thành.

10. Họa từ miệng mà ra, lời đã nói ra không thu lại được. Vì vậy không nói lời hạ tiện và nói “sạch“ bạn nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rằm tháng Giêng: 10 điều đại kỵ truyền đời không nghe bảo sao xui xẻo, nghèo nàn

Trả lời mẫu 1

XEM MỘT SỐ CÂU TRẢ LỜI GIẢI QUẺ CHU DỊCH MẪU (1)
Trả lời mẫu 1

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

XEM MỘT SỐ CÂU TRẢ LỜI MẪU
(CHO PHẦN ĐẶT CÂU HỎI "Chu Dịch hỏi đáp")

Vì lí do riêng tư, nên Tên họ trong các bài viết dưới đây đã được Ban Quản Trị thay đổi.

Câu Hỏi 1: Tôi sẽ chuyển đổi cơ sở làm ăn của tôi sang một nơi khác vào tháng tới, tôi có nên làm như vậy không? và bao giờ tôi mới có thể mua thêm một cơ sở nữa như lòng tôi mong muốn. Thành thật cám ơn.

Trả lời:
Tiết (6) --> Di --> Trung Phu (6)
Tiết (2) Di --> Truân (2)
Vận khí năm Ất Dậu 2005:
Tuỵ (4) & Quán (6)
Vận khí năm Bính Tuất 2006:
Khôn (5) & Truân (1)

Giải:
Tiết chế mà không chuyển, không đi thì dù lý đúng tình dung thì vẫn ẩn tàng điều bất toàn ở phía trước. Nên chuyển ! Do việc di chuyển có quẻ Khảm (2) cho nên: Sau khi chuyển sang cơ sở mới xong chớ thực hiện ngay việc khuếch trương thanh thế. Hãy đợi 1 tháng sau.

Vận khí năm 2005 cho thấy chưa có cơ hội mua thêm cơ sở mới.
Vận khí năm 2006 & đầu năm 2007 có Thuần Khôn (5): Có cơ hội để mua thêm cơ sở mới. Trường hợp không thực hiện việc mua thêm vào năm 2006, phải đợi đến cơ hội lần sau vào năm 2012.

Câu hỏi 2: Tôi có nên bán căn nhà đang ở và mua căn nhà lớn hơn (sẽ bắt đầu xây) trong tháng 9 sắp tới hay không?

Lôi Phong Hằng (3) --> Quải --> Lôi Thủy Giải (3)
Lôi Phong Hằng (5) --> Quải --> Đại Quá (5)

Giải:
Căn nhà lớn hơn căn nhà hiện chị Kim Hồng đang trú ngụ có một khiếm khuyết nằm ngoài khả năng chỉnh sửa của chị, nơi đó nằm trong phạm vi địa bàn hoạt động của bọn trộm cướp.
Khi so sánh căn nhà nơi chị đang ở với ngôi nhà lớn hơn sẽ bắt đầu xây trong tháng 9 tới, quẻ cho thấy dù căn nhà chưa được ổn và tốt cho SINH KHÍ đàn ông, nhưng nó vẫn còn tốt hơn ngôi nhà lớn kia.
Như vậy, chị Kim Hồng không nên nghĩ đến việc mua bán, trao đổi với ngôi nhà lớn kia.

Câu hỏi 3: Ngày mai tôi sẽ đi thực tập tại một cơ sở mà tôi định sang lại từ một người bạn, mọi dự tính của tôi có được thuận bườm xuôi gió không và nếu có đến tháng nào tôi mới có thể sang lại đươc cơ sở đó?.

Trả lời :
Truân (2) --> Bóc --> Tiết (2)
Truân (2) --> Bóc --> Tuỳ (4)
Vận Khí năm 2005:
Trạch Địa Tuỵ (4) & Phong Địa Quán (6)
Giải:
Quyết định nhận sang cửa hàng này là hoàn toàn đúng. Mọi việc sẽ thuận buồm xuôi gió. Nếu có chuẩn bị được điều gì tốt nhất cho công cuộc kinh doanh, thì cô hãy thực thi với toàn bộ khả năng sẵn có hiện nay của mình. Vì sao như vậy ? Bởi năm sau, năm 2006, là năm “Hốt Bạc” cho vận khí của Cô.
Từ nay cho tới tháng 9 âm lịch, sẽ có vài lần cô nhận được sự gợi ý sang tiệm cụ thể là vào tháng 5, 7. Nếu có thể lần lữa được hãy nên nhận tiệm vào tháng 9 là tốt nhất.

Câu hỏi 4: Tôi đã vừa dứt khoát chia tay với người bạn trai, tôi muốn biết trong tương lai người đàn ông này có còn quấy rầy và liên lạc với tôi nữa không và tôi có thực sự đã hết cảm giác với người này? Xin thành thật cảm ơn.

Trả lời :
Truân (2) --> Bóc -->Tiết (2)
Truân (2) --> Bóc --> Tuỳ (4)
Giải:
Bạn có thể yên tâm về khả năng tỉnh táo ở người bạn trai. Trong mọi tình huống, sẽ không xảy đến điều gì bất lợi cho bạn.
Thật là khó khi quẻ có sự xuất hiện của Trạch Lôi Tuỳ để có thể cho rằng bạn sẽ mất hoàn toàn cảm giác với người này. Thật khó lắm !
Ngoài điều trên, trong quẻ Chu Dịch này còn cung cấp cho bạn một lời khuyên thật rõ ràng : “Nếu khi đi theo sự quyết tâm xoá bỏ toàn bộ cảm giác, sẽ xuất hiện tình trạng xấu. Điều xấu sẽ thể hiện theo chiều hướng cô độc, khô khan, tự cô lập bản thân.”

Câu hỏi 5: Tôi vớI cô bạn tên là Nguyễn Ngọc Nga (sinh vào ngày 31 tháng 12 năm 1987 vào lúc 6h00 sáng), tôi muốn hỏI xem tôi và cô bạn gái đó có đi đến vấn đề hôn nhân được không ? Hiện tạI thì cô ta đang có ngườI bạn trai mới.

Trả lời :
Minh Di (1) --> Giải --> Khiêm (1)
Minh Di (3) --> Giải --> Phục (3)
Vận Khí năm 2005, của bạn:
Đại Hữu (4) & Thái (6)
Vận Khí năm 2005, cô Nguyễn Ngọc Nga::
Hằng (1) & Qui Muội (3)

Bản mệnh của bạn:
Lữ (1) --> Đại Quá --> Ly (1)
Tiết (4) --> Di --> Đoài (4)
Bản mệnh, của cô Nguyễn Ngọc Nga::
Khốn (6) --> Gia Nhân --> Tụng (6)

Giải:
Căn cứ vào tính cách của cô Nguyễn Ngọc Nga được thể hiện qua Bản Mệnh Chu Dịch thấy rất rõ rằng cô Nguyễn Ngọc Nga là người dễ thu hút bởi phái mạnh, và dễ bị chinh phục bởi lời nói đôi khi chỉ cần một chút tình cảm.
Vận khí Chu Dịch cũng cho thấy trong năm nay có 2 người đàn ông cùng theo đuổi cô ấy, tuy nhiên, cái cách theo đuổi thật khác nhau. Người thứ nhất là bạn, người thứ hai là người hiện cô Nguyễn Ngọc Nga đang quan tâm đến, người ấy chỉ xem cô Nguyễn Ngọc Nga như một trong những bóng hồng lướt qua ... Tôi nói rằng cô Nguyễn Ngọc Nga đang “quan tâm đến” là đã sử dụng từ ngữ chính xác trong trường hợp này.

Vì sao lại xảy ra tình trạng này ? Vì bực bội ? Vì muốn thử lòng ? Hay ở điều gì khác ? Câu trả lời là: Cô Nguyễn Ngọc Nga bị lôi cuốn bởi lời nói ngọt ngào ở người đàn ông kia… Gia cảnh của cô Nguyễn Ngọc Nga không được thuận hoà, các mối quan hệ trong gia đình thường hay căng thẳng, đây chính là cái gốc của vấn đề vì sao cô Nguyễn Ngọc Nga thường dễ vướng vào sợi dây chằng chịt của tình cảm như vậy.
Bạn là người bạn trẻ có tâm tánh rất tốt, phải nói rằng quá tốt khi xem qua Bản Mệnh Chu Dịch! Người tốt thường hay gặp kiếp nạn. Điều này cũng đúng cho bạn trong những năm gần đây.
Bạn cùng cô Nguyễn Ngọc Nga sẽ đi đến hôn nhân sau sự cố này. Tuy nhiên, để giải quyết sự cố này cho tạm ổn cần phải hết năm nay.

Câu hỏi 6: Tôi muốn hỏi về chuyện tình cảm giữa tôi và ngườI tên Lery sanh năm 1964. Hiện giờ tôi và người đó đang giận nhau không biết rồI chuyện tình cảm của tôi và người đó sẽ như thế nào ? có thể hòa lạI hay là chia tay ? Tôi muốn biết là tình cảm giữa tôi vớI Lery dứt khóat hay tiếp tục ?


Nội Dung trả lời:
Hiện giờ tôi và người đó đang giận nhau không biết rồI chuyện tình cảm của tôi và người đó sẽ như thế nào ? có thể hòa lạI hay là chia tay ?
Tụng ra kết quả là Gia Nhân, Bỉ & Hoán
Vận khí: Hoả Thuỷ Vị Tế (2) & Lôi Địa Dự (6)

Giải nghĩa:
Lery hiện đang ở thế bế tắc của tự ái nơi người đàn ông.
Lery muốn rằng cô Ái Như phải là người đầu tiên giải quyết vấn đề đang bế tắc này.
Lery đang chờ đợi.
Về phần cô Ái Như, cô không thể chấp nhận được thế bế tắc như hiện nay.
Cô cần có 1 lối ra mà phần giải quyết hay lên tiếng phải là từ Lery.
Bế tắc là từ chỗ này: Suy nghĩ của 2 bên nghịch nhau.
Cô Ái Như sẵn sang chấp nhận cách giải quyết rằng không thể tiến tới thì vẫn duy trì ở mức độ tình thân bạn bè.
Đồng nghĩa với điều này là trái banh đang ở về phía cô Ái Như.
Hoà hay chia tay là ở nơi cô Ái Như.

Tôi muốn biết là tình cảm giữa tôi vớI Lery dứt khóat hay tiếp tục ?
Thuần Tốn ra kết quả Khuê, Hoán & Cổ (5)
Vào thời điểm này (15-08) Lery hiện mang tâm trạng gần như tan vỡ.
Với cô Ái Như, nếu tiếp tục mối quan hệ này ở mức độ tình cảm như trước đây hay mong muốn tiến xa hơn là rất khó khăn. Hoàn toàn không có lối ra.

Câu hỏi 7: Thời gian tới vợ chồng tôi muốn mở cửa hàng kinh doanh nhưng không biết phải chọn ngành nào để mang lại thành công và thuận lợi. Được biết chúng tôi có 1 số hướng như sau: mở cửa hàng ăn uống, cửa hàng kinh doanh quần áo trẻ em, cửa hàng điện thọai di động,…hoặc chúng tôi phải chuyển hướng kinh doanh mặt hàng khác, đó là mặt hàng gì ?

Nội Dung trả lời:
Hỏi: Chọn ngành hàng gì để mang lại thành công & thuận lợi ?

Trả lời:
Thời vận: quẻ Truân qua quẻ Tiết (2) & Tuỳ (4)
Vận Khí người chồng: quẻ Phệ Hạp qua quẻ Khuê (2) & Di (4)
Vận Khí người vợ: quẻ Tấn qua quẻ Dự (6) & Vị Tế (2)
Giải:
Việc chọn ngành hàng kinh doanh định ở quẻ Tiết & quẻ Tuỳ.
Hai quẻ này mang nội dung: ăn uống & phục vụ.

Vận khí người chồng có Di (4): Dạn dĩ kinh doanh & thực hiện việc kinh doanh gai góc được.
Thời vận cho thấy: Việc kinh doanh trong năm nay sẽ có cơ hội được thu hoạch rất tốt khi chọn ngành hàng: ăn uống & phục vụ.
Tuy vậy, trong vận khí người chồng & thời vận có tiềm ẩn mối nguy: “Mắt hổ nhìn đăm đăm” & “Có cơ nguy” khi phục vụ rốt ráo mang tính “Hương Xuân”.
Cơ nguy đến đâu? Ta xem vận khí người vợ.
Vận khí người vợ có Vị Tế (2): “Gắng sức trì kéo lại. Trì kéo được”. Như vậy, vận khí năm nay ở người vợ bổ sung & hỗ trợ tốt cho vận khí người chồng.

Kết luận:
Ngành hàng kinh doanh nên chọn:
Cửa hàng ăn uống có phục vụ bia rượu & có thêm 1 chút “Hương Xuân” ở độ vừa phải.
Cửa hàng quán café, giải khát có thêm 1 chút “Hương Xuân” ở độ vừa phải.

Câu hỏi 8: Quan Lộc (công danh sự nghiệp) từ năm 2004 trở lên?
Câu hỏi 9:Tiền tài (tài bạch) năm 2004 trở lên? (người này hỏi gồm 2 câu).

Nội Dung trả lời:

Giải đáp:
Đây là mẫu người có cá tính mạnh.
Sẽ nói về công danh sự nghiệp & tiền tài đến tuổi về hưu.
Câu hỏi 1: Công danh sự nghiệp từ năm 2004 trở lên?


Trả lời 1: Có 2 ý:

  • Ý thứ nhất: Tính từ năm 36 tuổi trở đi, công danh sự nghiệp khởi đi lên. Sự đi lên này có được là từ cá tính… Nói năng thẳng thắn, khẩu khí dạn dĩ phù hợp với vai trò quản lý, chỉ huy, lãnh đạo. Tuy nhiên, do “CÁCH” Tứ trụ của người này là Trung Bình, nên không thể làm lớn. Cụ thể, nếu làm cho công ty nhỏ thì quản lý cấp trưởng; cho công ty cỡ trung bình chỉ cấp Phó; ở công ty tầm cỡ lớn chỉ là nhân viên giỏi.
  • Ý thứ hai: Công danh sự nghiệp là ổn định cho đến tuổi về hưu.

Câu hỏI 2: Tiền tài năm 2004 trở lên?
Trả lời 2:  Có 2 ý:

  • Ý thứ nhất: Cung Tài Bạch gặp Tuần, vì thế, khả năng của bản thân không thể tạo nên của cải lớn. Cách ở Tứ Trụ, cho thấy giai đoạn trung niên bản thân làm ra tiền khá dồi dào (so với trước đó) cho đến trước 49t.
  • Ý thứ hai: Năm Giáp Thìn (2024) & năm Ất Tỵ (2025) Là vào năm 52t & 53t sẽ gặp Đại nạn khiến tinh thần suy sụp, nhưng không gây nguy hại đến tính mạng. Hai năm này, công việc bị trì trệ, tiền bạc phải tiêu tốn khá nhiều…

Kết luận:

Từ 2004 đến tuổi về hưu:
      • Công danh là đi lên. Tầm cỡ trung bình.
      • Tiền bạc do bản thân làm ra không dẫn đến giàu có, nhưng ổn định.

      Câu hỏi 10: Tôi dự định nghỉ việc làm hiện tại để mở một cơ sở thương mại (Tiệm giặt ủi). Vậy công việc làm ăn này có khả quan không ?, trong năm nay và trong tương lai (dài hạn)?

      Trả Lời:
      Xem xét 3 mặt: Đánh giá quyết định mở cơ sở, Vận khí của vợ chồng trong năm Giáp Thân (2004) & Bản mệnh vợ chồng có phù hợp với tiệm giặt ủi.

      Đánh giá quyết định mở tiệm:
      Quyết định này nằm trong Phong Địa Quán (3) &  Thuần Cấn (5)
      Quán cho rằng: Chuẩn bị chưa chu đáo. Chớ nên tiến.
      Cấn cho rằng: Đi tới phía trước sẽ không thấy người.
      Như vậy: Quyết định mở tiệm vào thời điểm này là chưa phù hợp do chuẩn bị chưa chu đáo. Và khách hàng sẽ đến rất ít so với dự kiến.

      Vận khí vợ chồng:
      Đức Sang:
      Vận khí năm Giáp Thân (2004) là Cách (3) & Tuỵ (1)
      Cách cho rằng: Tiến ngay vào thời điểm này là xấu.
      Tuỵ cho rằng: Tạo lập nhóm mới là tự phá hỏng.

      Như vậy: Người chồng mở cơ sở trong năm nay, thu nhập sẽ rất thấp không đủ trang trải chi phí vận hành cơ sở.
      Nguyễn Mai Thảo:
      Vận khí năm Giáp Thân (2004) là Tổn (3) & Tiểu Súc (5)
      Tổn cho rằng: Hao phí đấy, nhưng có thêm bạn.
      Tiểu Súc: Có khả năng điều tiết, cảm hoá được nhiều người.

      Như vậy: Người vợ mở cơ sở trong năm nay sẽ có thu nhập đủ trang trải chi phí & có tích luỹ.
      Bản mệnh vợ chồng có phù hợp với tiệm giặt ủi ?
      Đức Sang: Mang bản mệnh Trạch Lôi Tuỳ.
      Nguyễn Mai Thảo: Mang bản mệnh Sơn Thiên Đại Súc.
      Như vậy: Người chồng có bản mệnh phù hợp với các công việc của cơ sở giặt ủi. Người vợ do có Đại Súc nên công việc giao tiếp phải có sự tiếp sức của người chồng (Do có Tuỳ) mới có kết quả tốt.

      Kết luận:
      Người chồng có khả năng phù hợp với cơ sở thương mại giặt ủi, tuy nhiên, nếu chồng là người quản lý điều hành chính năm nay sẽ cho kết quả kinh doanh xấu, và đến năm 2006 sẽ phải thay đổi công việc.
      Người vợ là người quản lý điều hành chính sẽ cho kết quả kinh doanh tốt năm Giáp Thân (2004). Trong tương lai (lâu dài) một mình người vợ quản lý điều hành, kết quả kinh doanh sẽ rất khó khăn. Có sự giúp sức của chồng mới bền vững.

      Xem tiếp trả lời mẫu 2.

      Mời bạn tham gia dịch vụ ĐẶT CÂU HỎI CHU DỊCH.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trả lời mẫu 1

7 vật phẩm phong thủy đem lại tài vận, may mắn cho gia đình –

Trong phong thủy, có rất nhiều vật nhỏ trưng bày trong nhà có thể mang lại may mắn, tài vận, sự giàu sang phú quý cho gia chủ. Đó là những vật phẩm phong thủy nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết những vật phẩm phong thủy mang lại may mắn tài l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, có rất nhiều vật nhỏ trưng bày trong nhà có thể mang lại may mắn, tài vận, sự giàu sang phú quý cho gia chủ. Đó là những vật phẩm phong thủy nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết những vật phẩm phong thủy mang lại may mắn tài lộc cho gia chủ nhé!

Nội dung

  • 1 Những vật phẩm phong thủy mang lại may mắn và tài lộc
    • 1.1 Bể cá
    • 1.2 Thần Tài
    • 1.3 Vận tài đồng tử
    • 1.4 Pha lê, thạch anh
    • 1.5 Rồng
    • 1.6 Sư tử đồng
    • 1.7 Cóc vàng

Những vật phẩm phong thủy mang lại may mắn và tài lộc

Bể cá

file.248294

Theo phong thủy, việc đặt bể cá sẽ giúp điều chỉnh được nguồn tài chính, điều hòa âm dương trong nhà. Nếu đặt bể cá ở hướng Bắc và Đông Nam sẽ mang lại nhiều may mắn, tài lộc đến cho gia đình.

Thần Tài

Rất nhiều gia đình và nhiều công ty hiện nay đặt tượng thần Tài (quan Công) trong nhà. Tượng thần Tài được xem là pháp khí mang lại tài lộc và phú quý trong phong thủy. Tượng thần Tài thường được đặt trong phòng khách hoặc trên bàn làm việc với hy vọng đón nhiều vận khí mới tốt lành vào nhà.

Vận tài đồng tử

7-vat-pham-phong-thuy-mang-lai-tai-van-va-may-man-cho-gia-dinh3

Vận tài đồng tử (tượng đứa trẻ mang lại tài lộc) được xem là tiểu thần của quan Công (tức thần Tài). Đây cũng là một vật phẩm mang lại nhiều may mắn cho gia chủ. Đặc biệt đối với những gia đình kinh doanh không được may mắn, nếu đặt Vận tài đồng tử trong nhà sẽ giúp vận chuyển sự may mắn, tài lộc, sự sung túc đến cho gia đình.

Vận tài đồng tử còn có ý nghĩa cho lời chúc vừa có con trai nối dõi vừa được hưởng lộc phát tài.

Pha lê, thạch anh

Pha lê và thạch anh không chỉ là vật trang trí làm tăng vẻ đẹp sang trọng, quý phái cho ngôi nhà mà còn là vật mang đến sự thịnh vượng và tiền tài cho gia chủ.

Pha lê mang vận khí dương, hành Thổ được xem là vật trang trí không thể thiếu cho những người kinh doanh, mưu cầu danh tài, học hành thi cử.

Thạch anh không chỉ được xem như một biểu tượng tốt đẹp, mang đến tiền tài và may mắn mà nó còn mang đến sức khỏe cho gia chủ.

Rồng

Nếu trong nhà có trang trí tượng hình rồng sẽ mang đến nguồn sinh khí mạnh mẽ đến với gia đình. Rồng là con vật linh thiêng, đại diện cho sức mạnh và quyền uy của vũ trụ. Vì thế, nếu đặt tượng rồng hướng ra cửa chính hoặc cửa sổ sẽ mang lại nhiều tài lộc cho gia đình, giúp công việc thuận buồm xuôi gió.

Sư tử đồng

Sư tử cũng là một trong những linh vật trong phong thủy. Đặt tượng sư tử trong nhà có thể phù trợ sức khỏe, tài lộc cho gia chủ. Với tượng sư tử bằng đồng có thể giúp gia đình xua đuổi tà ma và những điều không hay. Đặc biệt, đối với những người mệnh Thủy, đặt sư tử đồng sẽ tăng thêm vượng tài bởi Kim sinh Thủy. Lưu ý, cần đặt tượng sư tử đồng hướng ra ngoài, không nên đặt tượng quay vào nhà.

Cóc vàng

Theo dân gian, cóc luôn là sinh vật mang lại điềm tốt lành. Màu vàng là màu thuộc hành Hỏa, là màu sắc mang lại sinh khí và sự an lành cho gia đình. Vì vậy, cóc vàng được xem là vật mang lại tiền của cho gia đình. Cóc vàng hay còn gọi là cóc ba chân, và đặt tượng cóc vàng trong nhà cũng có 3 tác dụng: chiêu tài (mời gọi tiền tài ), tịch tà (tránh tà), hộ gia (bảo vệ cho gia chủ).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 vật phẩm phong thủy đem lại tài vận, may mắn cho gia đình –

Chim khách tới nhà, đón khách từ xa

Người xưa quan niệm chim khách đến nhà là có khách tới thăm. Nhưng thực ra, chim khách chỉ đến vào lúc ban ngày, từ nhiều phương hướng nên tiếng kêu của chim
Chim khách tới nhà, đón khách từ xa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

khách cũng cần theo phương hướng mà định giá trị.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

Chim khach toi nha, don khach tu xa hinh anh
 

Hướng Đông
Chim khách đến nhà từ 7 giờ đến 11 giờlà có tài lộc của khách xa mang đến. Từ 11 giờ đến 13 giờ là có sự tranh giành quyền lợi trong gia đình. Từ 13 giờ đến 17 giờ à có kẻ mưu hại mình, đề phòng kẻ dưới.
 

Hướng Đông Nam
Từ 7 giờ đến 13 giờ mà chim khách tới nhà tức là có người mời đi du lịch.Từ 13 giờ đến 17 giờ thì sắp có tin từ xa về, hung nhiều hơn cát.
 

Hướng Nam
Chim khách tới nhà từ 7 giờ đến 11 giờ là sắp có tiệc tùng. Từ 11 giờ đến 13 giờ là có sự tranh giành quyền lợi trong gia đình. Từ 13 giờ đến 17 giờ thì nhà tin vui từ xa đưa về.
 

Hướng Tây Nam
Chim khách tới nhà từ 7 giờ đến 11 giờ là báo hiệu có người đến cầu thân. Từ 11 giờ đến 13 giờ ắt nhà có chuyện buồn bực. Từ 13 giờ đến 17 giờ mà chim khách tới nhà thì nhớ đề phòng hoả hoạn.
 

Hướng Tây
Từ 7 giờ đến 11 giờ thấy chim khách tới nhà thì cãi vã trong gia đình. Từ 11 giờ đến 13 giờ là có người mang quà tặng. Từ 13 đến 17 giờ ắt có tin lành.
 

Hướng Tây Bắc
Từ 7 giờ đến 11 giờ chim khách tới nhà là sắp có khách quý đến thăm. Từ 11 giờ đến 13 giờ thì sẽ có người mời ăn uống. Từ 13 giờ đến 15 giờ ắt là khách cũ đến thăm và giúp đỡ.
 

Hướng Bắc
Có chim khách tơi nhà từ 7 giờ đến 11 giờ là có khách đến viếng nhà, cầu hôn. Từ 11 giờ đến 13 giờ có người đem đồ vật đến tặng. Từ 13 giờ đến 17 giờ súc vật nuôi bị hao tổn.
 

Hướng Đông Bắc
Từ 7 giờ đến 11 giờ mà chim khách tới nhà thì có người trong thân đến thăm. Từ 11 giờ đến 13 giờ có người cũ mang quà đến biếu. Từ 13 giờ đến 17 giờ có khách quý đến nhà.
 

Không có cơ sở khoa học nào chứng minh điều này đúng hay sai nhưng hầu như mọi người đều tin vào nó như một kinh nghiệm dân gian. Khi có chim khách ghé nhà, hãy thử so với trên để kiểm chứng xem sao nhé.

 ST


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chim khách tới nhà, đón khách từ xa

Lựa chọn tên theo Ngũ hành

Một cái tên được coi là tên hay, tên đẹp, khi âm dương hòa hợp, ngũ hành tương sinh đem lại may mắn, thuận lợi, cho người mang tên đó. Dưới đây là những phương pháp đặt tên theo ngũ hành được thịnh hành nhất hiện nay.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Lý luận ngũ hành

Trong cuốn “Khổng Tử gia ngữ – Ngũ đế” có viết: “Trời có ngũ hành, Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ. Chia thời hóa dục, để thành vạn vật”. Ngũ hành là từ để chỉ năm loại nguyên tố vật chất, tức Thủy (nước), Hỏa (lửa), Mộc (cây), Kim (kim loại), Thổ (đất). Các nhà âm dương theo chủ nghĩa duy vật chất phác (giản đơn) cổ đại Trung Quốc cho rằng, năm loại vật chất này là khởi nguồn và căn cứ để tạo nên vạn vật.

lua-chon-ten-theo-ngu-hanh

Thời kỳ Chiến Quốc, học thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc (còn gọi là tương sinh tương thắng, ngũ hành sinh thũng) rất thịnh hành. Chủ nghĩa duy vật đơn giản cho rằng, một vật có tác dụng thúc đẩy một vật khác hoặc thúc đẩy lẫn nhau gọi là “tương sinh”, còn một vật có tác dụng ức chế một vật khác hoặc bài xích lẫn nhau gọi là “tương khắc” (cũng gọi là tương thắng).

Ngũ hành tương sinh có: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Ngũ hành tương khắc có: Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy.

Cuốn “Thuyết văn – Bộ Ngũ” của Đoàn Ngọc Tài có phê chú: “Thủy Hỏa Kim Mộc Thổ, tương sinh tương khắc, âm dương giao ngọ dã”. Lý luận ngũ hành tương sinh tương khắc bao hàm các nhân tố của chủ nghĩa duy vật chất phác và phép biện chứng, có tác dụng rất lớn đối với sự phát triển của thiên văn, lịch sử, y học Trung Quốc.

Đến nay, y học Trung Quốc vẫn lấy học thuyết ngũ hành để nói về thuộc tính của các tạng phủ và quan hệ tương hỗ của chúng. Ví dụ, Trung y cho rằng gan thuộc Mộc, tim thuộc Hỏa, tỳ thuộc Thổ, phổi thuộc Kim, thận thuộc Thủy…Ngoài ra, Trung y vẫn lấy lý luận ngũ hành tương sinh tương khắc trong lâm sàng để giải thích mối quan hệ hỗ trợ sinh trưởng và khắc chế nhau giữa các nội tạng. Ví dụ như gan có thể khắc chế tỳ, gọi là Mộc khắc Thổ; Tỳ có thể dưỡng phổi vì Thổ sinh Kim…Về phương diện điều trị, như bệnh gan phạm tỳ, thì áp dụng phương pháp điều trị ức chế gan, hỗ trợ tỳ, gọi là ức Mộc phù Thổ.

2.Tại sao lấy lý luận ngũ hành để đặt tên?

Tư tưởng của con người là sản phẩm của xã hội. Hình thái ý thức của xã hội không lúc nào ngừng khắc dấu ấn vào trong não người. Mà tư tưởng con người có quan hệ mật thiết với nhận thức về tự nhiên, xã hội. Sự thịnh hành của học thuyết âm dương ngũ hành khiến cho người ta ràng buộc vinh nhục, phúc họa trong cuộc đời vào ngũ hành sinh khắc.

Cho nên, khi đặt tên, đều hết sức mong cầu được âm dương điều hòa, cương nhu tương tế. Họ cho rằng như thế trong cuộc sống có thể gặp hung hóa cát, thuận buồm xuôi gió. Đây có lẽ là nguyên do mà mấy ngàn năm nay, mọi người vẫn luôn lấy lý luận ngũ hành làm căn cứ để đặt tên.

3. Đặt tên theo lý luận ngũ hành như thế nào?

Đặt tên theo lý luận ngũ hành có lẽ bắt đầu từ thời Tần Hán. Khi đó, người ta chủ yếu đem phép đặt tên theo can chi từ thời Thương Ân lồng ghép với quan điểm ngũ hành để đặt tên. Ở thời đại Chu Tần, người ta ngoài cái “Tên” còn đặt thêm “Tự”. Do đó, chủ yếu phối hợp thiên can với ngũ hành, đặt ra “Tên” và “Tự”. Như công tử nước Sở tên là Nhâm Phu, tự là Tử Thiên Tân, tức là lấy Thủy phối hợp với Kim, tức là lấy Thủy sinh Kim, cương nhu tương trợ cho nhau.

Đến đời Tống, phép đặt tên theo ngũ hành càng trở nên thịnh hành. Tuy nhiên, thời đó có khiếm khuyết là không coi trọng bát tự, chỉ lấy ý nghĩa của ngũ hành tương sinh để đặt tên.

4. Ngũ hành tương sinh đặt tên từ Đời Tống

– Mộc sinh Hỏa: Tên cha thuộc Mộc thì tên con phải thuộc Hỏa.

– Hỏa sinh Thổ: Tên cha thuộc Hỏa thì tên con phải thuộc Thổ.

– Thổ sinh Kim: Tên cha thuộc Thổ thì tên con phải thuộc Kim.

– Kim sinh Thủy: Tên cha thuộc Kim thì tên con phải thuộc Thủy.

– Thủy sinh Mộc: Tên cha thuộc Thủy thì tên con phải thuộc Mộc.

Đến nay, trải qua ngàn năm ứng dụng, phương pháp đặt tên theo ngũ hành đã được hoàn thiện rất nhiều, phối hợp chặt chẽ với 81 linh số và giờ ngày tháng năm sinh…để đạt hiệu quả đặt tên ở mức cao nhất.

Lựa chọn tên cho con theo Ngũ Hành tương sinh như thế nào 

Ngoài ý nghĩa lựa chọn tên theo ngũ hành, bạn có thể xem tuổi và bản mệnh của con để đặt tên cho phù hợp. Một cái tên hay và hợp tuổi, mệnh sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho con bạn trong suốt đường đời.

lua-chon-ten-theo-ngu-hanh1

Đặt tên theo tuổi

Để đặt tên theo tuổi, bạn cần xem xét tuổi Tam Hợp với con bạn. Những con giáp hợp với nhau như sau:

* Thân – Tí – Thìn

* Tỵ – Dậu – Sửu

* Hợi – Mão – Mùi

* Dần – Ngọ – Tuất

Dựa trên những con giáp phù hợp bạn có thể chọn tên có ý nghĩa đẹp và gắn với con giáp Tam Hợp. Ngoài ra cần phải tránh Tứ Hành Xung:

* Tí – Dậu – Mão – Ngọ

* Thìn – Tuất – Sửu – Mùi

* Dần – Thân – Tỵ – Hợi

Đặt tên theo bản mệnh

Bản mệnh được xem xét dựa theo lá số tử vi và theo năm sinh, tùy theo bản mệnh của con bạn có thể đặt tên phù hợp theo nguyên tắc Ngũ Hành tương sinh tương khắc:

Dựa theo Tử Vi, các tuổi tương ứng sẽ như sau:

* Thìn, Tuất, Sửu, Mùi cung Thổ

* Dần, Mão cung Mộc

* Tỵ, Ngọ cung Hỏa

* Thân, Dậu cung Kim

* Tí, Hợi cung Thủy

Bạn có thể kết hợp theo từng năm sinh để lựa chọn tên theo bản mệnh phù hợp nhất, ví dụ:

* Canh Dần (2010), Tân Mão (2011): Tòng Bá Mộc (cây tòng, cây bá)

* Nhâm Thìn (2012), Quý Tỵ (2013): Trường Lưu Thủy (nước chảy dài)

* Giáp Ngọ (2014), Ất Mùi (2015): Sa Trung Kim (vàng trong cát)

* Bính Thân (2016), Đinh Dậu (2017): Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi)

* Mậu Tuất (2018), Kỷ Hợi (2019): Bình Địa Mộc (cây mọc đất bằng)

Như vậy, nếu con bạn mệnh Mộc thì bạn có thể chọn tên liên quan tới Thủy (nước), Mộc (cây) hay Hỏa (lửa) để đặt tên cho con bởi Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa… Các tuổi khác cũng tương tự, dựa vào Ngũ Hành tương sinh, tránh tương khắc sẽ giúp mọi sự hạnh thông, vạn sự như ý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lựa chọn tên theo Ngũ hành

Cách xem tướng móng tay người có phúc –

Cách xem tướng móng tay. Móng ngắn, rộng, chè bè: Nóng nảy. Móng dày, cứng: ích kỷ. Móng dài, rộng:hoang tưởng. Móng tay bằng phẳng: dễ tổn thương - Móng dài bầu dục: người có tạng yếu, thiếu máu, có bệnh phổi. Nếu sắc xanh là thiếu máu nặng. – Nếu m
Cách xem tướng móng tay người có phúc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem tướng móng tay người có phúc –

Lễ hội chùa Keo - Thái Bình tháng 9 âm lịch

Vào khoảng thời gian từ ngày 13 tới ngày 15 tháng 9 Âm lịch hàng năm, người dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình lại mở hội chùa Keo, lễ hội gắn liền với sự tích
Lễ hội chùa Keo - Thái Bình tháng 9 âm lịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

của Không Lộ Thiền Sư.


► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Le hoi chua Keo - Thai Binh thang 9 am lich hinh anh
Lễ hội chùa Keo gắn liền với sự tích Không Lộ thiền sư
Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng trù phú, chùa Keo với gác chuông như một đóa hoa sen vươn lên giữa biển lúa xanh ngút ngàn. Chùa Keo thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, từ thành phố Nam Định, qua cầu Tân Đệ, rẽ phải, theo đê sông Hồng, đi khoảng 10km là đến chùa.     Chùa Keo Thái Bình một năm mở hội hai lần, một lần là Hội Xuân, còn một lần là Hội Thu. Hội Xuân mở vào ngày 4 Tết Nguyên Đán còn Hội mùa Thu kéo dài từ ngày 13 tới ngày 15 tháng 9 Âm lịch. Hội mùa Thu gắn liền với sự tích của Không Lộ Thiền Sư (1016-1094), người sáng lập ra ngôi chùa (13-9 là 100 ngày mất của ngài, còn 14 tháng 9 là ngày sinh). Trong ngày 13 sẽ có rước kiệu kỷ niệm ngày tịch của thiền sư, các cuộc đua trải và hội thi kèn trống.    Ngày 14 là ngày kỷ niệm ngày sinh của Không Lộ thiền sư, trong ngày cũng sẽ diễn ra lễ dâng hương, lễ rước kiệu, lễ chầu thánh, “múa ếch vồ”… Ngày 15, mọi nghi lễ diễn ra như ngày 14 nhưng có thêm một số trò diễn sau khi rước kiệu hoàn cung.   Theo sách Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục, chùa ban đầu có tên là Nghiêm Quang, được thiền sư Không Lộ xây dựng từ năm 1067 tại làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng. Sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là Thần Quang Tự. Theo thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa và đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa. Vì trận thiên tai này mà dân làng Keo phải bỏ quê cha đất tổ ra đi: một nửa dời về đông nam hữu ngạn sông Hồng, về sau dựng lên chùa Keo - Hành Thiện (nay thuộc tỉnh Nam Định); một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông Hồng, về sau dựng lên chùa Keo - Thái Bình. Việc dựng chùa mới được bắt đầu từ năm 1630, hoàn thành năm 1632, chùa được dựng theo phong cách kiến trúc thời Lê, nhờ sự vận động của bà Lại Thị Ngọc, vợ Tuần Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng, và Đông Cung Vương phi Trịnh Thị Ngọc Thọ. Chùa được trùng tu nhiều lần vào các thế kỷ 17, 18 và năm 1941.   Chùa là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng bậc nhất ở Việt Nam. Chùa có quy mô kiến trúc rộng lớn trên một khu đất khoảng 58.000m². Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 công trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc". Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa chạm rồng chầu (thế kỷ 16). Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Sau chùa Phật có đền thờ Thiền sư Không Lộ, người khai sơn ngôi chùa vào thời Lý.   Gác chuông ở chùa Keo cũng là một công trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo, tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời hậu Lê. Được dựng trên một nền gạch xây vuông vắn, gác chuông cao 11,04m, có 3 tầng mái, kết cầu bằng những con sơn chồng lên nhau. Tầng một có treo một khánh đá dài 1,20m, tầng hai có quả chuông đồng cao 1,30m đường kính 1m đúc vào thời Lê Hy Tông năm 1686, tầng ba và tầng thượng treo chuông nhỏ cao 0,62m, đường kính 0,69m đúc năm 1796.
 
Le hoi chua Keo - Thai Binh thang 9 am lich hinh anh
Chùa Keo là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  Hội chùa Keo diễn ra đông vui tấp nập suốt 3 ngày, 3 đêm bằng nghi lễ tôn giáo và một số tập tục cổ truyền để tưởng nhớ vị thiền sư đã có công với nước và qua hình thức biểu diễn nghệ thuật dân gian đã phản ánh được lối sống của vùng dân cư ven sông mang màu sắc văn hoá nông nghiệp của đồng bằng Bắc Bộ. Đến thăm chùa, du khách có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như một bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà người ta kể lại rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.    Chùa Keo – Thái Bình hiện đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
 
T.H Đôi nét về lễ hội Phật giáo lớn nhất tại Lào Lễ hội Bon Om Thook tại Campuchia Lễ hội cố đô Hoa Lư
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội chùa Keo - Thái Bình tháng 9 âm lịch

Bệnh thương hàn với giấc mơ về gió, mưa –

Thương hàn là bệnh gây ra do bị nhiễm khuẩn thương hàn, nhiệt độ trong người tăng cao dần; tì, tạng, lá lách sưng to, bạch huyết cầu giảm, bụng cứng, gọi là thương hàn đường ruột. Tạp chí Y học Giang Tô - Trung Quốc có viết: Một phụ nữ họ Cao được ch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thương hàn là bệnh gây ra do bị nhiễm khuẩn thương hàn, nhiệt độ trong người tăng cao dần; tì, tạng, lá lách sưng to, bạch huyết cầu giảm, bụng cứng, gọi là thương hàn đường ruột.

Tạp chí Y học Giang Tô – Trung Quốc có viết: Một phụ nữ họ Cao được chẩn đoán là bị bệnh thương hàn, trong thời gian cách ly điều trị nhớ lại một giấc mơ trước khi có bệnh như sau:

mơ về gió, mưa

“Ban ngày có gió. Có nhiều máy bay trên bầu trời. Mọi người hầu như không đi làm, đều ở nhà. Ai đó nói một câu gì đó, mọi người đều tụ lại, nói chuyện gì đó.

Bấy giờ có gió to, nước rơi xuống ngày càng dày. Quần áo mọi người đều bị ướt cả. Nhưng kỳ quái thay, quần áo của tôi chẳng ướt chút nào.

Nơi tôi đứng cũng không mưa, tôi gọi mọi người đến để tránh mưa, nhưng chẳng có ai. Tôi cho rằng mưa to gió lớn, mọi người không nghe thấy nên đi gọi mọi người. Nào ngờ tôi vừa đến, bốn phía đều chạy tản ra.

Tôi ngẩn người đứng đó không biết có chuyện gì.”

Về sau một thầy thuốc chuyên ngành đã lấy giấc mơ này làm đề tài nghiên cứu bệnh thương hàn.

Các số liên quan đến giấc mơ:

Cứt bê bết đi mưa: 14 – 41

Đi về gặp mưa: 08 – 70 – 07

Mưa bão: 29 – 69

Mưa nhỏ: 68 – 08 – 78

Mưa rào: 07 – 67 – 87

Mưa: 07 – 47 – 67 – 82

Ra suối mưa to: 35 – 53


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bệnh thương hàn với giấc mơ về gió, mưa –

Phật nói kinh đại báo phụ mẫu trọng ân

Qua những lời Phật nói kinh đại báo cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy. Thế nên, ví có Thiện nam hay là Tín nữ đều phải trả nghĩa mẹ cha
Phật nói kinh đại báo phụ mẫu trọng ân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.

Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:

Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.

Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.

Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.

ÐÂY LÀ LỜI PHẬT

Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.

Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:

Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.

Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :

  • Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
  • Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
  • Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
  • Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
  • Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
  • Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
  • Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
  • Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
  • Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.

Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.

Phật bảo A-Nan : công ơn cha mẹ, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .

  1. Những gì là mười điều?
  2. Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
  3. Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
  4. Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
  5. Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
  6. Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
  7. Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
  8. Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
  9. Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
  10. Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
  11. Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.

ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC

Bao kiếp, duyên cùng nợ;

Ngày nay, mới vào thai

Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;

Bảy bảy, sáu tinh khai

Thân trọng, như non Thái

Ðộng tĩnh, sợ phong tai

Áo the, đành xốc-xếch,

Gương lược, biếng trang đài.

ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ

Khi gần ngày sanh nở

Nặng nhọc, khổ vô cùng,

Cưu mang, trong mười tháng

Sanh nở, sắp đến ngày

Ðứng ngồi coi nặng nhọc;

Dáng vẻ, tựa ngô ngây,

Sợ hãi lo, cùng lắng;

Tử sanh giờ phút nầy!

ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ

Mẹ ta, khi sanh nở,

Thân thể đều mở toang!

Tâm hồn như mê mẩn,

Máu me chan hòa đầy,

Chờ nghe, thấy con khóc;

Lòng mẹ mừng rỡ thay!

Ðương mừng lại lo đến

Rầu rĩ ruột gan nầy.

Đức Thế Tộn
Cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .

ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT

Mẹ ta lòng thành thực,

Thương con chẳng chút ngơi

Nhả ngọt nào có tiếc!

Ăn đắng nói cùng ai?

Yêu dấu như vàng ngọc.

Nâng niu tay chẳng rời

Những mong con ấm no;

Mẹ đói rách cũng vui .

ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP

Tự mình nằm chỗ ướt,

Chỗ ráo để xê con,

Hai vú phòng đói khát;

Hai tay ủ gió sương.

Thâu đêm nằm chẳng ngủ;

Nâng niu tựa ngọc vàng

Những mong con vui vẻ;

Lòng mẹ mới được yên.

ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG

Ðức mẹ dày như đất;

Công cha thẳm tựa trời

Chở che coi bình đẳng;

Cha mẹ cũng thế thôi!

Chẳng quản, câm mù, điếc!

Chẳng hiềm, quắt tay chân!

Bởi vì con ruột thịt,

Trọn đời dạ chẳng khuây.

ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ

Từ biệt, lòng khôn nhẫn;

Sanh ly dạ đáng thương;

Con đi đường xa cách

Mẹ ở chốn tha hương,

Ngày đêm thường tưởng nhớ;

Sớm tối vẩn vấn vương

Như vượn thương con đỏ

Khúc khúc đoạn can trường?

ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP

Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,

Công lao tựa vực trời

Bồng bế cùng nuôi nấng;

Mong sao con ăn chơi

Nhường cơm cùng xẻ áo;

Mẹ đói rách dũng vui!

Khôn lớn tìm đôi lứa

Gây dựng cho nên người

ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON

Công cha cùng đức mẹ

Cao sâu tựa vưc Trời

Mẹ già, hơn trăm tuổi,

Vẫn thương con tám mươi!

Bao giờ ân oán hết?

Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…

Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.

Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.

Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!

Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….

Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.

Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !

Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .

Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.

Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .

Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :

  • Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.

Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?

Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.

Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.

Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.

Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !

Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :

Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.

Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ

Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.

Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ

Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :

Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.

Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân

Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.

Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.

Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.

Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.

Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.

Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.

Kính lạy chư vị Bồ Tát đã đền ân cha mẹ.

Kính lạy Phật Từ Di mẫu, Kiều Ðàm Di đại Bồ Tát.

Kính lạy Thầy Cưu Ma La Thập dịch kinh này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phật nói kinh đại báo phụ mẫu trọng ân

Luận giải vận số của người tuổi Hợi theo ngày sinh

Căn cứ vào việc quy đổi ngày dương lịch sang ngày âm lịch - theo lịch vạn niên, bạn có thể biết được ngày sinh của mình theo 12 con giáp.
Luận giải vận số của người tuổi Hợi theo ngày sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh ngày Tý: Người tuổi Hợi sinh ngày này được sao Thái Dương chiếu mệnh nên có số phong lưu, vận đen được hóa giải. Tuy vậy, số vẫn không tránh khỏi ưu phiền.

Sinh ngày Sửu: Là người may mắn được sao Thái Dương chiếu mệnh nên trong đời tuy có lúc gặp rủi ro nhưng đều được hóa giải.

Sinh ngày Dần: Người tuổi Hợi sinh vào ngày này trong đời khó tránh khỏi chuyện cãi cọ, phiền toái.

(Hình minh họa)

 

 

Sinh ngày Mão: Sinh ngày này là người có chức vụ lớn, tiền của dồi dào. Tuy vậy, cần đề phòng tiểu nhân quấy phá.

 

Sinh ngày Thìn: Nhờ có sao tốt Nguyệt Đức chiếu mệnh nên mọi việc thành công. Tuy có lúc gặp họa nhưng đều được hóa giải.

Sinh ngày Tỵ: Do có sao Dịch Mã chiếu mệnh nên người này trong đời thường được đi nhiều nơi, số có cơ hội phát đạt nhưng cần đề phòng bị phá tài.

Sinh ngày Ngọ: Người tuổi Hợi sinh ngày này được sao Tử Vi, Long Đức cao chiếu nên mọi việc đều thành công tốt đẹp. Tuy có lúc gặp nạn nhưng vẫn được hóa giải.

Sinh ngày Mùi: Do có sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên người này tuy thông minh xuất chúng nhưng trong đời hay gặp việc xấu, tài vận dễ bị phá tán.

Sinh ngày Thân: Người sinh ngày này khó phát đạt trong kinh doanh, hay gặp chuyện thị phi. May nhờ có sao Thiên Đức chiếu mệnh nên cuộc sống được vui vẻ, bình yên.

Sinh giờ Dậu: Là người hay làm việc lạ đời, khó hiểu,  thường gặp phải chuyện cãi cọ, tranh giành.

Sinh ngày Tuất: Người tuổi Hợi sinh vào ngày này thường có số cô đơn, dễ mắc bệnh tật.

Sinh ngày Hợi: Là người có cuộc sống thăng trầm, trong đời hay gặp tai họa, sự nghiệp khó thành. Nên thận trọng trong việc kết giao bạn bè.

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)

 

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Hợi theo ngày sinh

Long mạch vua chúa Việt “phát” thế nào?

Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả. Riêng núi Tản Viên là Cao Biền không dám đụng tới vì cho rằng đó là chỗ thiêng liêng của chư thần thường ngự, không thể yểm được.
Long mạch vua chúa Việt “phát” thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong những nơi mà Biền nhắm đến có một điểm khá quan trọng, đó là làng Cổ Pháp – nơi sẽ sinh ra bậc đế vương của trời Nam. Vì thế, sau nhiều ngày chú tâm xem xét về cuộc đất toàn vùng, Cao Biền cùng các thầy pháp và thầy địa lý của Trung Quốc đã ra tay “cắt đứt long mạch” bằng cách đục đứt sông Điềm và 19 điểm ở Phù Chấn để yểm.

La Quý nối chỗ đứt long mạch

Nhưng mưu thâm độc của vua Đường và Cao Biền trong việc phá hủy thế phong thủy và làm tan khí tượng đế vương ở nước ta đã bị một thiền sư thời ấy là ngài La Quý phá tan.

Ngài La Quý là trưởng lão tu ở chùa Song Lâm, thuở nhỏ du phương tham vấn khắp nơi, sau đến gặp pháp hội của thiền sư Thông Thiện liền khai ngộ. Khi đắc pháp, ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai.

Trước khi mất, vào năm 85 tuổi (năm 936), ngài gọi đệ tử truyền pháp là Thiền Ông đến căn dặn: “Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn. Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa”.

“Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo. Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật”.

Vị hoàng đế mà ngài La Quý báo trước là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn mồ côi từ nhỏ, được sư Khánh Vân đem về chùa nuôi, lớn lên Lý Công Uẩn được thiền sư Vạn Hạnh nuôi dạy và sau này lên ngôi tức vua Lý Thái Tổ, mở ra thời đại hộ pháp hưng thịnh trong lịch sử Việt Nam… Như vậy, thuật phong thủy với khí tượng đế vương của các vùng đất đã liên quan nhiều đến lịch sử Việt Nam từ xa xưa.

Đến đời Lê, có ngài Nguyễn Đức Huyên sinh tại làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, là người lặn lội học khoa địa lý phong thủy tận nơi khai sáng của khoa này trên đất Trung Hoa và cũng là người Việt Nam đầu tiên viết sách địa lý lưu truyền đến nay. Ngài là danh nhân có tên gọi quen thuộc không những trong dân gian mà cả giới nghiên cứu nữa: Tả Ao.

Tả Ao đã phân tích, nêu rõ hình các cuộc đất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cũng như việc tìm long mạch ra sao. Xin nêu ra đây đoạn nhỏ trong sách “Tả Ao địa lý toàn thư” do Cao Trung biên dịch, đại ý nêu hai mạch: Mạch dương cơ và Mạch âm phần. Mạch dương cơ nếu nhỏ thì dùng làm nhà, nếu lớn hơn làm doanh trại, hoặc rộng và tốt có thể dùng làm thị trấn, xây kinh đô. Còn Mạch âm phần dùng chôn cất.

Đại cương là vậy, về chi tiết còn có nhiều loại mạch khác, như Mạch mã tích tức mạch chạy như vết chân ngựa, lúc cạn lúc sâu; Mạch hạc tất tức mạch ở giữa nhỏ, hai đầu to ra dần, như gối của con hạc; Mạch phong yếu tức mạch nhỏ nhắn, phình ra to dần như lưng con ong; Mạch qua đằng tức mạch không chạy thẳng mà ngoằn ngoèo như các thân cây bí cây bầu, có khả năng kết được bên trái hoặc bên phải đường đi của mạch nên được xem là loại mạch quý. Đất kết có hai loại: một loại dùng chôn xương người chết và một loại để người sống ở đều tốt.

Riêng đất để người sống ở, sách Tả Ao địa lý toàn thư đã đề cập đến đất dương cơ liên quan tới lịch sử nước ta: Trừ nhà Hùng Vương được đất quá lớn ra, thì sau đó, nhà Đinh và tiền Lê trở về trước, những triều đại thịnh trị thật ngắn ngủi, không được tới ba đời, nên quốc sư Vạn Hạnh phải tìm một đại địa khác làm kinh đô. Đó là Thăng Long hay Hà Nội. Lý Công Uẩn nghe theo, dời kinh đô về Thăng Long nên nhà Lý làm vua được tám đời; và sau đó nhà Trần và hậu Lê (Lê Lợi) cũng nhờ có đại địa đó làm kinh đô, nên bền vững lâu dài hơn”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Long mạch vua chúa Việt “phát” thế nào?

Kỳ bí ngọn núi thiêng xứ Nghệ

Núi Hai Vai là một di tích lịch sử cấp quốc gia, nằm trên địa phận ba xã Diễn Minh, Diễn Bình, Diễn Thắng của huyện Diễn Châu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Núi Hai Vai là một di tích lịch sử cấp quốc gia, nằm trên địa phận ba xã Diễn Minh, Diễn Bình, Diễn Thắng của huyện Diễn Châu. Nhìn từ xa, hình dáng núi giống như một ông tướng cụt đầu có hai vai nhô lên nên được gọi là núi Hai Vai. Núi cao 141m, dài 800m, rộng 120m.

Trong cuốn “Du lịch Đông Dương” của một tác giả người Pháp, đã xếp núi Hai Vai là một trong những danh thắng đẹp của miền Trung Việt Nam.

Trước đây trên núi có rừng cây rậm rạp với nhiều chim muông, thú rừng. Mùa xuân khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi, muôn hoa khoe sắc. Thấp thoáng dưới tán cây trên núi là các hang động có cấu trúc độc đáo với nhiều tên gọi khác nhau, gắn liền với những truyền thuyết ly kỳ.

Trong đó, hang Thần Đồng (hay hang Tiên Động) được người dân xưng tụng là nơi tỏa linh khí giúp mảnh đất này sinh ra nhiều nhân tài.

Ông Lê Đình Minh (65 tuổi, ngụ xã Diễn Bình) cho biết, hang Thần Đồng gắn liền với một nhân vật lịch sử nổi tiếng của nước ta là ông Nguyễn Trung Mậu, một vị quan tài giỏi dưới thời nhà Nguyễn.

Cha của Nguyễn Trung Mậu từng tham gia đội quân thần tốc của vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Sau khi vua Quang Trung mất, triều đình Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh lên ngôi đã thực hiện chính sách trả thù khốc liệt đối với hậu duệ và tướng lĩnh của Quang Trung. Cha của Nguyễn Trung Mậu phải trốn vào ở trong núi Hai Vai.

Nhận thấy hang Thần Đồng là nơi có linh khí khác thường nên ông đưa con trai lúc đó mới 10 tuổi vào ở trong hang để dạy dỗ, nuôi chí phục thù. Nguyễn Trung Mậu thông minh nên sớm nổi tiếng là thần đồng, sau này đỗ đạt và được giao phó nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình. Cái tên hang Thần Đồng từ đó mà có.

Suốt cuộc đời làm quan, Nguyễn Trung Mậu đã để lại nhiều dấu ấn với các công trình văn hoá, lịch sử triều Nguyễn như: Ngọ Môn, điện Thái Hoà, Cửu Đỉnh…Những công trình do ông làm có giá trị vô giá. Đến ngày nay chúng vẫn là các điểm hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách tham quan chiêm ngưỡng.

Quốc sử quán triều Nguyễn đã đánh giá về ông như sau: “…làm quan đến 40 năm, giữ mình trong sạch khác người. Khi chết được tặng Hiệp biện Đại học sĩ và được nhà vua cho tế một tuần…”.

Người dân địa phương đều cho rằng nhờ linh khí trong hang Thần Đồng nên Nguyễn Trung Mậu mới trở thành một người tài giỏi như vậy. Để tưởng nhớ công lao của ông người dân xã Diễn Bình đã lập một đền thờ ngay tại quê hương.

Hang Thần Đồng được người dân địa phương khá tôn kính. Hang nằm phía trên đỉnh của núi Hai Vai, địa hình hiểm trở khó đi lại, nhưng bên trong lại rộng rãi thoáng mát, diện tích khoảng 30m2. Theo truyền thuyết, ngoài cửa hang Thần Đồng có một tảng đá hình tháp bút. Tháp hướng về đâu thì nơi đó có nhiều người tài giỏi đỗ đạt cao.

Ngày xưa tháp bút hướng về làng Văn Tập (xã Diễn Bình ngày nay) nên trong làng có rất nhiều người học giỏi đỗ đạt. Truyền thuyết cho rằng sau này làng Trung Phường (nay là xã Diễn Minh) đã lên núi “yểm” tháp bút quay về phía làng mình. Từ đó làng Trung Phường có nhiều người đậu cao trong các kì thi và làm quan to trong triều.

Dải đất khoa cử

Trên thực tế, cả hai làng Trung Phường và Văn Tập xưa kia đều nổi tiếng có nhiều người tài giỏi và đỗ đạt. Làng Trung Phường có tới 2 người đậu tiến sỹ, 44 người đậu hương cống, cử nhân, 116 vị tú tài. Làng Văn Tập cũng không thua kém, có gần 100 vị đậu cử nhân, tú tài và 2 tiến sỹ.

Hiện nay truyền thống hiếu học của hai làng vẫn còn được thế hệ sau tiếp nối. Đây là hai mảnh đất có nhiều tiến sĩ, thạc sĩ và đậu đại học cao nhất huyện. Đặc biệt nơi đây có rất nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, tiêu biểu như nhà thơ Trần Hữu Thung …

Ngoài ra trong hang còn có một số di vật của ông Nguyễn Trung Mậu như nghiên mực, bút lông, tảng đá nơi ông ngồi đọc sách… Trước đây nhiều người vào hang đã tự ý mang các đồ vật này về nhà, nhưng sau khi một số người gặp chuyện xui xẻo kỳ lạ, mọi người sợ hãi bảo nhau mang các vật trên trả lại hang. Hàng năm cứ đến mùa thi cử, học sinh khắp vùng lại leo lên núi vào hang Thần Đồng thắp hương cầu xin thần linh phù hộ làm bài tốt.

Người dân xung quanh cho biết, hang Thần Đồng rất linh thiêng. Ngày xưa có một người đàn ông lên núi kiếm củi đi ngang qua đã nhổ một bãi nước bọt trước cửa hang. Về nhà miệng người này tự dưng sưng vù không nói năng gì được. Người nhà đã đưa anh ta đi chạy chữa khắp nơi nhưng các thầy thuốc đều bó tay trước căn bệnh lạ. Sau đó anh này nhớ đến việc mạo phạm hang Thần Đồng nên lên thắp hương tạ tội, từ đó mới khỏi bệnh.

Năm 1988 có nhóm công nhân đến khai thác đá ở lèn Hai Vai. Họ đặt thuốc nổ trên núi khiến cho rất nhiều hang động bị tàn phá. Hang Thần Đồng cũng bị hư hỏng nặng. Tháp bút trước cửa hang bị mìn làm đánh sập, thậm chí cửa hang còn bị đất đá vùi lấp.

Thật trùng hợp là năm đó các xã Diễn Minh, Diễn Bình vốn là hai vùng nổi tiếng học giỏi lại không có ai đỗ đại học. Dân làng lo lắng cùng nhau lên đào đất đá thông cửa hang. Sự lạ là năm tiếp theo, các sĩ tử của hai địa phương lại đỗ đạt như thường.

Người dân nơi đây cho biết, trong những năm công nhân khai thác đá ở núi Hai Vai, không năm nào không có người bị tai nạn chết. Có năm chết đến 3 người. Dân làng đều cho rằng do những công nhân này tàn phá hang Thần Đồng linh thiêng nên mới bị thần linh quở phạt.

Cũng từ đây xuất hiện những lời đồn thổi về oan hồn lẩn khuất quanh núi khiến ai cũng sợ hãi. Vào những đêm khuya khoắt mưa gió không người nào dám đến gần ngọn núi vì nghe thấy những tiếng khóc than. Dần dần những người công nhân cũng sợ hãi không dám khai thác đá tại đây và từ đó cũng không còn ai phải bỏ mạng ở núi Hai Vai.

Trong tâm tưởng người Diễn Châu từ xưa luôn coi hang Thần Đồng là biểu tượng của tinh thần hiếu học. Tuy nhiên do thời gian và tác động của con người, hang Thần Đồng nói riêng và núi Hai Vai nói chung đã bị phá hủy nhiều. Người dân địa phương đã nỗ lực tìm các biện pháp để “cứu” di tích và trông mong các cơ quan chức năng có biện pháp hữu hiệu để bảo vệ di tích này.

Theo Pháp luật VN


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kỳ bí ngọn núi thiêng xứ Nghệ

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd