Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cách giàu và những sao hữu sản

Mỗi người chúng ta sinh ra đều đã được an mệnh, có kẻ giàu người nghèo. Hãy tìm hiểu xem lá số của bạn có thuộc cách giàu và sao hữu sản không nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách giàu và những sao hữu sản

Cách giàu và những sao hữu sản

A. Cách Giàu Qua Các Cung:

Phú là một cách quan trọng cho đời người. Vì vậy, la số Tử Vi dành rất nhiều cách, cục để nói về phú, qua các cung và rất nhiều sao. Mặt khác, thường khi phải xem cả lá số nhười phối ngẫu, vợ hay chồng, để biết tình trạng giàu nghèo nói chung của gia đình.

Về các cung, có những cung mô tả cách giàu của mình. Có cung chỉ cách giàu tiền, có cung chỉ cách giàu ruộng đất.

1. Cung Phúc đức:

Cung này chỉ tài sản của dòng họ, thường là của ông bà, xa hơn là tổ phụ

Cung Phúc tốt là điềm có di sản. Di sản mà lớn lao thì mới bảo đảm được sinh kế dễ thở lúc thiếu niên, giúp cho tuổi trẻ khỏi bị bận tâm về vấn đề sinh nhai. Mặt khác, cung Phúc tốt sẽ giúp con người có của ngay từ lúc mới chào đời. Khéo giữ của thì của đó bành trướng thêm và là yếu tố căn bản cho việc làm giàu. Người giàu nhờ di sản chẳng bao giờ bắt đầu bằng con số không. Tài sản thụ hưởng đó có ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản do mình tạo lập về sau vì cung Phúc chiếu thẳng vào cung Tài. Vì vậy người ta nói cung phúc tốt là có của Trời cho.

2. Cung Phụ Mẫu:

 

Cung này chỉ tài sản của cha mẹ. Nếu có nhiều sao tốt, nhất là sao tài thì cha mẹ dư dả, có thể giúp đỡ cho mình một cách đáng kể, nhất là trong giai đoạn lập nghiệp buổi đầu. Sỡ dĩ như thế là vì cung Phụ mẫu bao giờ cũng tiếp giáp cung Mệnh, ngụ ý rằng, đương sự vốn phải sống nhờ cha mẹ, ít nhất là trong buổi thiếu thời. Nếu cung Phụ mẫu tốt thì nếp sống đó hạnh thông, giúp con người bước vào đời bằng một số vốn nào đó chứ không phải bằng hai bàn tay trắng. Mặt khác, liên hệ giữa hai cung Phụ mẫu và Mệnh còn rõ ràng hơn nếu cung Mệnh được nhị hợp với cung Phụ mẫu.

3. Cung Mệnh:

Về mặt tài sản, cung này chỉ khả năng thụ hưởng và khả năng tạo sản của mình. Nếu Mệnh tốt, đương số có triển vọng thụ hưởng sản nghiệp thừa tự và nhờ đó bành trướng thêm của cải khác.

Duy cung Mệnh không mấy quan trọng về mặt tạo sản bởi lẽ cung này ứng vào lúc thiếu niên, lúc con người đang tập sự vào nghề, đang đầu tư vào nghề nghiệp sau này, chưa đến lúc thụ hưởng lợi lộc của nghề nghiệp mang lại. Tuổi niên thiếu là tuổi tiền tiêu nhiều hơn là làm ra tiền.

Dù sao, nếu cung Mệnh có sao tốt, thì sự đầu tư có triển vọng đắc lợi về sau, hoặc là sẽ sớm có được của cải trong thời gian đang học nghề.

4. Cung Thân:

Cung Thân tượng trưng cho hậu vận, tức từ khoảng 30 tuổi trở đi. Đây mới là giai đoạn tạo sản, là thời kỳ mà nhân đắc dụng và sáng tạo nhất. Nếu Thân tốt thì tạo và hưởng được sản nghiệp, đủ nuôi thân và có thể nuôi gia đình, thân thuộc. Hơn nữa, Thân còn có thể xem là cung Tài thứ hai, vì cung Thân có ý nghĩa đa diên, bao hàm công danh, tài sản, gia đạo v..v..

Trong trường hợp Thân cư Tài, sự tạo sản sẽ tích cực hơn: con người nỗ lực xây dựng của cải, ha, kiếm tiền, bị chi phối nhiều bởi xu hướng làm giàu, thích tiền của, điền sản hơn là quyền tước, công danh. Bấy giờ, nếu cung Tài tốt, đương số dễ thành đại phú.

Trong trường hợp Thân đóng ở cung khác , những hay dở của cung này sẽ có tiếng dội trên của cải. Nếu ở cung Phu Thê, cái hay của cung này nhất định có lợi cho việc tạo của, bằng sức lực, công lao hay di sản của vợ chồng. Nếu cung Di tốt đẹp, thì bấy giờ thời thế sẽ thuận lợi cho việc làm ăn nhất là ở phương xa.

Tóm lại, cung Phúc và cung Phụ là tài sản thiên định cung Thân là tài sản nhân tạo của hiện kiếp và báo hiệu tài sản của hậu kiếp trong đời con cháu . Vì vậy cung Tài mới tiếp giáp và ảnh hưởng vào cung Tử. 

5. Cung Tài:

Tài ở đây chỉ tiền bạc, bất đọng sản, quí kim, cổ phẩn, trương mục, tiền tích trong tủ, trong ngân hàng, tiền để dành và tiền đầu tư.

Nếu hai cung Mệnh và Thân mô tả nếp sống tổng quát của con người trong hai đoạn tiền vận và hậu vận, thì cung Tài mô tả chi tiết tình trạng tài chính, nhất là trong giai đoạn hậu vận (khả năng kiếm tiền, giữ tiền, mức độ giàu nghèo, nguyên nhân hao phí...). vì tiền bạc thường tích tụ vào lúc con người lập thân, cho nên cung Tài và cung Thân có nhiều liên hệ mật thiết, đặc biệt khi Thân cư Tài.

Một điểm cần lưu ý là ngày nay, cung Tài chứa một nội dung và nhiều hình thái phong phú hơn ngày xưa. Thủa xưa, tài chỉ tiền bạc, vàng mà thôi. Còn ngày nay, nhờ sự phát triển ngành ngân hàng và nới rộng mậu dịch, cung Tài còn chỉ cả trương mục, cổ phần, mà giá trị còn hẳn cao hơn hiệu kim tích trữ.

6. Cung Điền:

Theo quan niệm xưa, nặng vè nông nghiệp, chữ Điền TRạch chỉ nhà và đất (ruộng, vườn), do di sản hay do mua sắm. Nhưng ngày nay, nhờ sự bành trướng của kỹ nghệ và tiện nghi vật chất, cung Điền còn chỉ luôn xí nghiệp, sản phẩm biến chế, hoa mầu trên mặt đất và khoáng sản dưới lòng đất, đồng thời chỉ cả máy móc, xe cộ dính liền với các bất động sản đó. Cho nên chữ Điền ngày nay phong phú hơn chữ Điền ngày xưa.

Cung Điền tốt chỉ có nhiều bất động sản và động sản liên hệ. Thông thường cái tốt của Điền phản ánh hoăc ảnh hưởng đến cái tốt ở cung Tài. Lý do là có tiền mới sắm được bất động sản lớn. Tài là yếu tố của Điền, Điền là thể hiện của Tài, theo một hàm số liên hệ nhân quả. Nếu cả hai cung đều tốt thì là phú gia địch quốc. 

7. Cung Quan:

Cung này bao gồm bổng lộc do chức tước hay nghề nghiệp tạo ra, cho nên bổ túc cho hai cung Tài và Điền. Cung Quan càng có thêm ý nghĩa tài sản nếu Thân cư Quan.

Theo quan niệm xưa, cung này chỉ quan trọng cho phái nam. Duy quan niêm này đang thay đổi vì trong xã hội hiện nay, phụ nữ ngày càng có nhiều địa vị xã hội, có nghề nghiệp và sinh kế riêng, bổ túc cho sinh kế của chồng. Vì vậy, xem số phụ nữ có địa vị, phải để ý thêm cung Quan. Mặt khác, cung Thê của nam số cũng góp phần bổ túc ý nghĩa tài sản của vợ, trong trường hợp người vợ có nghề nghiệp riêng.

8. Cung Di:

Phần lớn những nhà giàu có của nhờ gặp thời. Vì thế cung Di góp phần khá quan trọng cho việc lập nghiệp.

Trong trường hợp Thân cư Di mà được cung Di tốt đẹp, ý nghĩa này càng rõ rệt. Đặc biệt là cung này có tài tinh, sao may mắn, sao trợ tài. Bấy giờ, khả năng của đương số sẽ không quan trọng bằng sự hên may của thời vân.

9. Các cung Hạn:

Trong lá số, bất cứ cung nào cũng có thể là cug hạn (đại hạn 10 năm, tiểu hạn từng năm một). Các cung hạn ghi nhận những biến cố, những thay đổi về mọi phương diên trong đó có phương diện tài sản. Tuy cung hạn bị đóng cung trong cung Thân, cung Mệnh, cung Tài, song nếu gặp cung hạn tôt, tài vận vẫn có thể khá lên được, dù cung Mệnh, Thân hay Tài, Điền tầm thường.

Trong khi bốn cung Tài, Điền, Quan, Phúc nói lên tình trạng tổng quat thì các cung Hạn đi vào chi tiết của vấn đề tài sản. Cụ thể như cung Hạn cho biết năm đắc tài, năm nào hao của, nguyên nhân của việc thủ đắc hay hao tán v.v...

B. Cách Giàu Qua Các Sao:

Cách giàu phải có các điều kiện sau đây:

- phải có chính tinh miếu, vương địa đóng ở các cung liên hệ đến tài sản, nhất là Tài và Điền. Nếu đó là tài tinh thì càng hay. Nếu có nhiều tài tinh đồng cung ở đấy càng tốt đẹp nữa. Đó là hai trường hợp gọi là thuận vị.

- phải được Âm, Dương sáng sủa chiếu vào hai cung Tài, Điền;

_ phải có phụ tinh tốt, nhất là tài tinh đóng ở hai cung Tài, Điền hay ít ra ở những cung Mệnh, Thân, Phúc, Quan. Nếu tài tinh hay cát tinh đắc địa thì càng tốt thêm;

- phải có sao giữ của đóng ở những cung Tài, Điền, Quan, Di, Mện, Thân;

- phải có sao hưởng của ở những cung tài sản hay ở Mênh, Thân, Phúc, Quan;

- phải có sao di sản ở những cung này;

- phải tránh các hao tinh, sát tinh, hung tinh, hình tinh. Nếu không các loại sao này phải đắc địa hoặc có sao giải đi kèm thì sức phá sẽ giảm nhẹ;

- cát và tài tinh phải tránh hai sao Tuần, Triệt mới bảo toàn hiệu lực cho cát tinh và tài tinh được.

Trong trường hợp cung Tài, Điền không có chính tinh thì phải có những điều kiện dưới đây bổ túc:

- có tứ Không, tam Không hay ít ra nhị Không, tức là các sao Tuần, Triệt, Địa Không và Thiên Không. Bốn sao này một phần tọa thủ, một phần họi chiếu;

- có Thái Âm, Thái Dương sáng sủa chiếu vào cung vô chính diện: đây gọi là trường hợp Nhật Nguyệt chiếu hư vô, mặt trời mặt trăng chiếu vào cõi vô cực;

- nếu khong được Âm Dương chiếu thì tối thiểu cung Tài, Điền vô chính diện phải có chính tinh miếu, vương địa xung chiếu vào.

* Các sao giàu cần được chia làm bốn loại:

- tài tinh, nghĩa là các sao trực tiếp chỉ tiền bạc và điền sản;

- sao trợ tài, nghĩa là các sao giúp đỡ thêm mãnh lực cho các tài tinh;

- sao may mắn nói chung;

- một số sao giữ của, giúp cho sự cầm của được chắc chắn và lâu bền, tránh hao tán, phá sản.

Phải đủ điều kiện kể trên, mới đủ phú cách và phú cách đó mới dồi dào và lâu dai. 

1. Những sao tài:

Nói chung bất cứ chính tinh nào miếu và vương địa đều lợi cho tài sản. Nếu chính tinh lại là sao tài dưới đây càng hay:

Vũ khúc miếu và vương địa:

Chỉ sự giàu có, dư dả nói chung, thông thường là giàu về tiền bạc. Nhưng, nếu đóng ở cung Điền thì sẽ giàu về nhà đất.

Vũ Khúc không phân biệt nguyên nhân việc có của: bằng buôn bán, bằng quan tước, bằng kỹ nghệ, bằng ngân hàng, kinh tế v.v..Thiết tưởng ta không nên xác định cụ thể nghề nghiệp nào của Vũ Khúc, chỉ có thể nói rằng sao này liên hệ rất nhiều đến kinh tế, tài chính. Nếu làm việc công thì là quan coi kho, phụ trách ngân khố cho chính phủ hay phủ trách kinh tế quốc gia (thuế vụ, ngân hàng ngoại thương, nội thương). Ngày nay vì ngành xí nghiệp tư phát triển mạnh cho nên Vũ Khúc chỉ cả tư chức làm việc trong ngành kinh tế, tài chính (quản trị xí nghiệp, ngân hàng tư, xuất nhập cảng, thương gia, kỹ nghệ gia, xuất nhập cảng, hối đoái, nghiên cứu kinh tế tài chính v.v..)

Vũ Khúc sáng sủa báo hiệu một thế lực tài phiệt lớn, tức là người nhờ đồng tiền mà có thế lực, đặc biệt là khi đi đôi với Thiên Phủ, Lộc Tồn hay Hóa Lộc. 

Thiên phủ:

Chỉ cái kho lớn của trời đât, nghĩa bóng là tài nguyên quốc gia, tất cả những gì sinh lợi cho nhà nước, bất luận lãnh vực nào (thuế má, kinh doanh, thương mại, ngân hàng, ngân khố, quan thuế, coi kho, thủ quỹ, phát lương, tồn trữ sản phẩm...). Đây là một tài tinh quan trọng tương tự như Vũ Khúc.

Nếu cả hai sao đồng cung và đặc biệt có thêm Hóa Lộc, Thiên Mã hay Lộc Tồn thì tài sản càng dồi dào, miễn là không bị sát, hung, hao tinh xâm phạm. Giữa Vũ và Phủ, rất khó phân biệt sao nào mạnh hơn. Có người cho rằng Phủ là đệ nhị chính tinh, đứng sau Tử Vi, thế tất phải mạnh hơn Vũ...Có quan niệm thì cho rằng Phủ là sao tầm thường và không chế nổi hung tinh hạng nhẹ như Kinh, Đà, Linh, Hỏa nên kém hơn Vũ.

Thái âm, Thái dương sáng sủa:

Biểu tượng cho hai nguyên lý âm, dương của trời đất. Nhật, Nguyệt có nghĩa bóng là phước của trời đất dành cho mình. Về phương diện tài sản, phước đó cụ thể bằng sự giàu có.

Nếu dựa vào nguyên nghĩa nói trên mà suy luận thì sự thịnh vượng của Âm Dương bắt nguồn từ việc đắc thời, từ vận hội tốt đẹp của đất nước, phù hợp với năng khiếu làm giàu của mình, trong thời bình hoặc trong thời loạn. Điều này được thể hiện qua việc hai sao này thường hội chiếu lẫn nhau. Nếu cả hai sao này gia tăng tài lộc dồi dào, đặc biệt cho những người có giờ sinh tương hợp. Nếu đồng cung thì phải có thêm Hóa Kỵ hay Tuần ha Triệt mới hay.

Ngoài ra, có thể nói sự thịnh vượng đó do cha mẹ để phúc lại vì Thái Âm tượng trưng cho mẹ, Thái Dương cho cha. Nếu cả hai sao cùng sáng thì cha mẹ giàu có, thường để lại di sản cho con cháu. Nếu không giàu thì ít ra cũng thọ.

Riêng Thái Âm trực tiếp có nghĩa điền sản. Đây là sao điển hình cho ai hành nghề bất động sản (chủ điền, chủ phố, chủ đồn điền, xí nghiệp, mua bán nhà đất ...). Cho nên, nếu đóng ở Điền thì rất hợp vị. Vì vậy, người ta cho rằng, về mặt của cải, Thái Âm lợi hơn Thái Dương. Ngay cả trong trường hợp Âm, Dương đồng cung (ở Sửu hay Mùi), nếu được Tuần, Triệt án ngữ (hay có Hóa Kỵ đồng đi kèm) thì Âm vẫn thịnh hơn Dương vì Sửu và Mùi là 2 cung Âm.

Riêng Thái Dương đi với Thiên Lương ở Mão với Cự Môn ở Dần, hoặc Thái Âm đi với Thiên Đồng ở Tý cũng rất giàu có.

Việc cung Tài giáp được Âm, Dương sáng sủa cũng chỉ dấu hiệu của sự dư dả. Về mặt nghề nghiệp, đó là nghề dính dáng đến tiền bạc. 

Tử vi :

Tử Vi là đế tinh, có ý nghĩa tốt toàn diện, cả về mặt tài sản. Nhưng, Tử Vi không phải là sao tài đúng nghĩa. Đóng ở cung Tài, Điền vẫn lợi lộc, nhất là ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Tại bốn vị trí này, Tử Vi hội với Thiên Phủ là tài tinh, nhất là ở hai cung Dần và Thân, Tử Vi và Thiên Phủ đồng cung cho nên hiệu lực về tài chính cũng thêm nhiều.

Nếu Tử Vi ở Ngọ thì rất rực rỡ, tài lực càng sung mãn.

Cự môn, Thiên cơ đồng cung:

Hai vị trí đồng cung của Cự, Cơ là Mão và Dậu, song ở Mão đẹp hơn ở Dậu. Hai sao kết hợp thì tạo được tài lộc dồi dào, nhờ tài năng cạnh tranh, óc tính toán, đa mưu, biết người biết việc, biết phương pháp, mánh khóe, chiến lược kinh doanh, biết tường tận môi trường tài chính, rất thích hợp cho các ngành nghiên cứu về kinh tài. Cự, Cơ là sao của các nhà đại kinh doanh, tư bản lớn, làm ăn trên các môi trường lớn, các gút kinh tế hoặc của các chiến lược gia kinh tế. Đi chung với tài tinh khác như Hóa Lộc, Song Hao, ý nghĩa trên càng chắc chắn.

Riêng Cự Môn đơn thủ ở Tý Ngọ cũng giàu có tự lập từ tay trắng rồi bộc phát lẹ làng, nhất là trong lúc loạn, cạnh tranh.

Thiên cơ, Thiên lương đồng cung:

Thế đồng cung của hai sao này chỉ có ở hai cung Thìn và Tuất. Tại đây Cơ, Lương chỉ sự giàu có dễ dàng. Thiên Cơ chỉ mưu trí, xảo thuật kiếm tiền, Thiên Lương chỉ cơ hội tốt đẹp và may mắn, đồng thời cũng chỉ thiện tính của nhà buôn bán, kinh doanh.

Nếu Lương chỉ đơn thủ ở Tý, Ngọ thì cũng giàu có. Đồng cung với Thái Dương ở Mão, với Thiên Đồng ở Dần Thân thì cũng đắc phú như vậy.

Cách giàu của các sao đi chung với Thiên Lương đều lương thiện, có tinh thần xã hội, cứu độ, tạo công ăn việc làm cho kẻ khác. 

Vũ khúc, Tham lang đồng cung:

Hai sao này kết hợp điển hình cho ngành kinh doanh thương mại. Tham lang chỉ sự hám lợi, mưu tìm cái lợi tối đa. Vũ Khúc chỉ tiền bạc. Cả hai sao kết hợp là người tham tiền, ham lợi, đặc điểm của doanh thương. Vì có sự hiện diện của Tham Lang, nên sự buôn bán này không lương thiện, thành thật bằng Cơ, Lương.

Ngoài ra, vì cùng là bắc đẩu tinh hết cho nên Vũ, Tham đắc tài lúc hậu vận.

Riêng Tham Lang đơn ở Thìn, Tuất cũng rất giàu, nhất là về già. Cách giàu này rất nhanh, có tính cách hoạch phát. Hình chất khả hữu là sự kinh doanh táo bạo, tốc chiến tốc thắng, phù hợp với đặc tính của Tham Lang. Duy Tham Lang là sao tham lam, trục lợi, cho nên cách doanh thác này không mấy chính đáng. Hình thái đầu cơ tích trữ, cầm giá, kìm giá, thao túng thị trường, độc quyền mại bản có thể rất thông dụng

Thiên đồng miếu địa:

Sao này không phải là phú tinh mà là phúc stinh. Vì phúc tinh bao hàm cả lĩnh vực tiền bạc cho nên Thiên Đồng đắc địa cũng là đắc phú: đó là trường hợp Thiên Đồng ở Mão, chỉ người tay trắng lập nghiệp, chắc chắn nhờ may mắn, phúc đức. Duy cách giàu của Thiên Đồng phải nhọc sức, đi đây đi đó buôn bán mới có của, kiểu như các nhà môi giới, các đại diện thương mại, các người giao hàng, trình dược viên, quảng cáo lưu động, tùy viên thương mại ở nước ngoài hoặc ở xa trụ sở kinh doanh.

Đồng đi chung với Thiên Lương ở Dần Thân cũng rất thịnh vượng và lương thiện, thông thường kinh doanh trên các nghề nghiệp hợp pháp và có khuynh hướng bố thí, hào sảng, có của, làm ra của đông thời cũng làm cho ngươi khác có của theo. 

Thiên tướng:

Tướng không phải là tài tinh, nhưng nếu ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi hoặc đồng cung với Liêm Trinh ở Tý, Ngọ, với Tử Vi ở Thìn, Tuất thì cũng làm giàu dễ dàng mà lại lâu bền, chắc chắn và chính trực.

Phá quân miếu địa:

Cũng không phải là sao tài, nhưng nếu miếu địa ở Tý, Ngọ thì cũng phong phú. Tuy nhiên, cách giàu của Phá Quân, dù có nhanh chóng dễ dàng nhờ mạo hiểm, liều lĩnh, bạo dạn, nhưng đồng thời cũng có nhiều bất trắc vì tính mạo hiểm. Dù sao, Phá Quân vẫn giữ bản chất hao tán, cho nên cái giàu rất mong manh. Cũng vì đó cho nên Phá Quân dù kết hợp với chính tinh nào cũng không chắc duy trì lâu dài sự giàu có.

Thất sát miếu địa:

Cũng không phải là tài tinh, nên chỉ có của khi nào miếu địa ở Dần Thân và Tý Ngọ. Duy cái giàu của Thất Sát rất bất thường, thường là chậm, chỉ phát sau giai đoạn lập thân, phát lúc bất ngờ, cho nên có tính cách hoạch tài.

Đi chung với Tử Vi thì kiếm tiền dễ, nhanh vì Thất Sat hỗ trợ cho Tư Vi, trong khi Phá Quân làm suy bại Tử Vi.

Nói tóm lại, cách giàu phải có tài tinh chinh cống và miếu địa. Những phúc tinh, quyền tinh, võ tinh chỉ có ý nghĩa giàu khi nào miếu địa. Những sao giàu kể trên đây có thêm trung tinh trợ lực mới mạnh thêm. Lẽ dĩ nhiên, các sao trên phải tránh các sao phá tán của cách nghèo. 

Đối với trung tính, cũng có loại sao tài, cũng có loại sao may mắn, loại sao giữ của.

Lộc tồn:

- Là một tài tinh quan trọng, báo hiệu dư ăn dư để, khả dĩ gọi là giàu có. Tồn có hai ý nghĩa, tích cực và tiêu cực.

Về mặt tiêu cực. Tồn chỉ "lộc ăn", nghĩa là có nhiều cơ hội được tiền bạc, điền sản, lợi lộc nói chung. Sự lợi lộc này thường do hai nguyên nhân:

- di sản tổ phụ, cha mẹ: người có Tồn ở Phúc, Mệnh thường được hưởng ít nhiều của cải của thân tộc;

- do người khác biếu xén, tặng, giúp đỡ.

Với hai khía cạnh này, Tồn đắc lợi từ kẻ khác. Tuy nhiên, đây chỉ là khía cạnh tiêu cực.

Về mặt tích cực, sao này chỉ người tháo vác, có tài tổ chức, có tính toán và quyền biến theo hoàn cảnh, những đức tính cần thiết cho việc tạo của cho người biết làm của cải sinh lợi. Nói khác đi, đó là năng khiếu buôn bán, tính chất của nhà buôn, đó là khả năng của các ủy viên tổ chức, của giám đốc thương mại, của trưởng cơ quan tài chính, kinh tế. Trong lĩnh vực tư, Tồn rất thích hợp với thương gia, nhất là nhà kinh doanh lớn, hiểu biết và lợi dụng được thị trường. Nếu không hành nghề buôn bán, thì ý nghĩa tiêu cực sẽ nội bật hơn.

Mức độ ảnh hưởng của Lộc Tồn nhiều ít tùy theo tuổi. Theo cụ Thiên Lương, một nhà lý số đương thời, nguyên tắc chính để hưởng thiên lộc của sao này là cung Mệnh phải tọa thủ hay tam chiếu với cung có Lộc Tồn trấn đóng. * Đây là một lý đương nhiên. Duy cụ Thiên Lương đã có công chi tiết hóa và lượng giá mức độ, hoàn cảnh hưởng thụ. Theo cụ:

Mệnh có Lộc tồn tọa thủ hay tam chiếu thì hưởng lộc.

Nếu tọa thủ thì hưởng nhiều, tam chiếu thì hưởng ít hơn thế tọa thủ

Nếu nhị hợp thì ít hơn nữa.

Điều đáng chú ý là theo cụ Thiên Lương. Lộc Tồn ở thế xung chiếu Mệnh lại không được kể. 

Hóa lộc:

Nói chung, sao này đồng nghĩa với Lộc Tồn. Tuy nhiên, Hóa Lộc ngay thẳng, thành thật, không mưu cơ như Lộc Tồn. Hóa Lộc làm giàu một cách chính đáng, cạnh tranh ngay thẳng hơn, óc con buôn tương đối vừa phải, không mấy hám tài, tham lợi như Lộc Tồn.

Dường như cái giàu của Hóa Lộc dẽ dàng hơn, không đua chen, lăn lộn nhiều với sinh kế, phần ý nghĩa tích cực của Lộc Tồn ứng dụng nhiều cho Hóa Lộc. Trong khi Lộc Tồn tha thiết giữ của thì Hóa Lộc tương đối hào sảng, biết hưởng thụ chứ không phải chỉ biết lo chắt mót: đây là người có tiền, chịu ăn chơi và chịu chi tiêu. Tâm lý của Hóa Lộc không chặt chẽ xài kỹ như Lộc Tồn. Hóa Lộc có thể là một Mạnh Thường Quân dám bố thí, hiến của trong khi Lộc Tồn hãy còn tính toán hơn thiệt, nếu không nói là ích kỷ. Vì vậy, Hóa Lộc cầm của kém hơn Lộc Tồn, dù cả hai sao đều dư ăn dư để.

Ở vị thế hội chiếu, hai sao này đảm bảo giàu có. Tuy nhiên nếu đồng cung lại kém vì Tồn thuộc Thổ. Lộc thuộc Mộc, hai hành xung khắc, có thể lụy vì tiền, có lẽ vì quá tham kiếm tiền.

Hóa Lộc hay Lộc Tồn kết hợp với Thiên Mã càng thêm giàu có. 

Thiên mã :

Đắc địa ở Dần, Tỵ và phần nào ở Thân, Thiên Mã cũng có ý nghĩa tài lộc, phần lớn nhờ tháo vác, lanh lợi, khôn ngoan, xoay trở khéo, quán xuyến, chịu khó, chí thú làm ăn, tương ứng với các đức tinh của ngựa hay, chạy nhanh và bền. Duy cái giàu của Thiên Mã do tự lực, tay làm hàm nhai, cho nên cực. Mặt khác, đó cũng là cái giàu ở tha phương, càng làm ăn xa càng có lợi.

Mã chỉ dễ làm giàu khi nào hội tụ nhiều cách tốt như Mã Tử Phủ, Mã Nhật Nguyệt sáng, Mã Lộc Tồn, Mã Hóa Lộc, Mã Tràng Sinh, Mã Khốc Khách, Mã và Lưu Mã. Các cách này chỉ sự may mắn, đắc thời, hợp cảnh. Ngoài ra, hành của Mã còn phải phù hợp với hành của Bản Mệnh thì mới phát tài dễ dàng. Ví dụ Mã ở Dần với người mạng Mộc, ở Tỵ với người mạng Hỏa, ở Thân với người mạng Kim, ở Hợi với người mạng Thủy. Nếu Mã gặp Hình, hay Tuyệt, hay Tuần Triệt hoặc Mã ở Hợi (trừ khi mạng Thủy) thì bất lợi, hung hiểm hoặc chật vật.

Mã đắc địa ở cung Điền có ý nghĩa là có nhà cửa, ruộng đất, xí nghiệp ở nơi xa. Nếu có thêm Tả Hữu thì có nghĩa là song mã, tam mã, ngụ ý có thêm nhiều điền lộc: có thể có hai nhà, hoặc một nhà và một miếng đất hay một xí nghiệp, trong đó có một nhà ở xa.

Về phương diện nghề nghiệp, nghề của Thiên Mã hợp vơi ngành vận tải hàng hoá hay hành khách, hoặc môi giới, giao dịch với bên ngoài, ký hợp đồng ở xa, với người ngoại quốc hoặc lập văn phòng đại diện thương mại xứ người. Nếu là nghề công thì đây có thể là tùy viên sứ quán về kinh tế, thương mại. 

Đại hao, Tiểu hao ở Mão và Dậu:

Hai sao này là hao tinh, nghĩa là hao tán tài sản. Nhưng, chỉ riêng ở Mão và Dậu, Đại và Tiểu lại giàu có. Thuộc hành hỏa (có người cho là hành Thủy), nhị Hao ở Mão đắc lợi là vì cung Mão thuộc Mộc phù sinh cho sao Hỏa. Do đó, nếu Đại Hao ở Mão, Tiểu Hao ở Dậu thì tốt hơn Đại ở Dậu, Tiểu ở Mão.

Tại hai cung này, nhị Hao rất thịnh về tiền bạc: đó là người thông minh, lanh lợi, biết xoay trở làm ăn, có chí làm giàu lớn, dám bỏ tiền ra kinh doanh đại sự, dám gánh bất trắc của thời cuộc để mưu lợi tối đa. Óc mạo hiểm của nhị Hao ở Mão Dậu rất lớn, được thời thì trở thành đại phú, gặp vận xui thì có thể sạt nghiệp. Đại, Tiểu Hao không chắt mót giữ tiền mà luân chuyển vốn liếng làm ăn rất linh hoạt, tiêu pha lớn trong việc kinh doanh cũng như trong việc ăn chơi. Tính tình nhị Hao còn hào phóng hơn Hóa Lộc rất nhiều.

Mặt khác, do đặc tính linh động, nhị Hao ám chỉ người có nhiều ngành buôn bán, kinh doanh một lần trên nhiều cơ sở thương mại, đầu tư vào nhiều lãnh vực khác nhau, dễ chuyển ngành thương mại từ địa hạt này sang địa hạt khác. Do đó, nhị Hao tượng trưng cho những nhà đại tư bản có cả dây chuyền xí nghiệp hoạt động có tổ chức và liện hoàn. Xí nghiệp có ở nhiều chỗ, phải lưu động đi kiểm soát, đôn đốc, xuất ngoại rất thường để tìm thị trường thương mại. Nền kinh tế nhà nước có phồn thịnh hay không hẳn là do những nhà kinh doanh loại này. Nếu tài sản của Lộc Tồn tương đối bất động, thì tài sản của nhị Hao lại luân lưu. Nếu dùng ví dụ để mô tả, thì Lộc Tồn đọng vốn trong việc kinh doanh bất động sản (như cho vay bạc lấy lời, cất cửa nhà cho thuê, tạo điền sản cho mướn lấy địa tô...) còn nhị Hao thì chế biến sản phẩm, phân phối hàng hóa, vận tải hành khách hay hàng hóa bằng đường bộ, đường thủy (nếu có Lưu Hà) hay hàng không (nếu có phi Liêm).

Long trì, Phượng các:

Hai sao này không rõ rệt lắm về cách giàu. Long Phượng là hai sao tốt một cách tổng quát (đẹp về nhan sắc, hay về văn học nghệ thuật, đoan trang về phẩm hạnh, may mắn về hôn nhân, sang cả về phương diện tiện nghi vật chất). Ý nghĩa tài sản chỉ là một khía cạnh trong số các ý nghĩa tốt dẹp đa diện đó.

Về tài sản, Long Trì ở cung Điền chỉ cái nhà khang trang, đài các, có canht trí xinh xắn, có thể có ao hồ, non bộ. Đây có thể chỉ là cách phong lưu, tư sản chứ khong hẳn là tư bản, giàu có. Mặt khác, Long Phượng đi với Mộ có nghĩa là được hưởng di sản.

Về mặt nghề nghiệp, Long Phượng có thể là kiến trúc sư, thầu khoán, những người sống bằng nghề buôn bán bất dộng sản, đặc biệt là khi tọa thủ ở Điền hay đồng cung với Thái Âm.

Tam thai, Bát tọa:

Chỉ khi nào hai sao này đóng ở Tài và Điền thì ý nghĩa tài sản mới rõ ràng. Mặt khác, nếu bộ sao này gặp Mộ ở bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì tài sản càng nhiều thêm. Hai sao Thai, Tọa ở Tài, Điền tốt đẹp thường chỉ sự hạnh thông về tiền bạc, sự may mắn trong việc tạo sản, không phải đấu tranh chật vật: tiền bạc tương đối dễ kiếm, hoặc có người bao bọc nuôi dưỡng, kiểu như trời sinh voi trời sinh cỏ. Cho dù kế sinh nhai có thanh đạm, đương số cũng không vì thế tự cho là khốn khổ. Tâm lý của Thai Tọa về mặt của cải rất lạ lùng: đó là sự vô tư trước tiền của, dù là giàu hay nghèo. Vì vậy, Thai Tọa thiếu óc đầu tư, đầu cơ trục lợi của người buôn. 

Thiên khốc, Thiên hư ở Tý, Ngọ:

chỉ riêng hai vi trí này, Khốc Hư chỉ sự giàu có trong hậu vận, lúc về già. Người xưa gọi là "tiền bần hậu phú".

Ở những cung khác, Khốc Hư chỉ sự lo âu triền miên về tiền bạc. Trong các vị trí này, Khốc Hư là hai sao phản nghĩa với Thai Tọa.

Tử ở Tài, Điền:

Tử chỉ sự kín đáo, bí mật. Đóng ở Tài, Điền, đương số có tài sản chôn giấu hoặc nhờ người thân tín đứng tên. Riêng ở cung Điền tốt, sao Tử có thể có nghĩa quặng mỏ, quí kim, dầu hỏa...ở dưới lòng đất của mình, hoặc một trương mục vô ký danh ở ngân hàng. Về mặt nghề nghiệp, đây có thể là nhà khai thác khoáng sản, nếu sao Tử ở Tài, Điền và đi chung với các sao tài khác.

Tất cả tài tinh kể trên càng qui tụ nhiều vào các cung tài sản thì càng giàu, hoặc nếu giáp các cung tài sản thì cũng khá. Dĩ nhiên phải tránh các sao tán tài, các hung sát tinh, hao bại tinh và Tuần Triệt. Nếu gặp các sao này, tài sản sẽ chậm có, tiêu tán, hoặc phải cực nhọc mới thủ đắc được. Ngược lại, nếu tài tinh được phù trợ bởi các sao trợ tài thì sự giàu có càng dễ dàng, phong phú và lâu bền hơn. 

Những sao trợ tài:

Những sao này không trực tiếp có nghĩa giàu có, phải đi chung với tài tinh thì tài lực mới hưng vượng được.

Tả phù, Hữu bật:

Tả, Hữu tượng trưng cho sự phò tá, sự giúp đỡ, sự cộng sức chung vốn của người đời. Đi chung với các sao tài, Tả Hữu có nghĩa là được bằng hữu giúp đỡ trong việc làm ăn, kiếm tiền dễ dàng nhờ những cộng sự viên đắc lực. Hai sao này chỉ những cổ đông, những người góp vốn hùn hạp, môi giới, trong thương hội, hợp tác xã. Cung Tài có Tả Hữu thì không có kinh doanh riêng rẽ trái lại được sự hợp doanh, hợp tư, chung của góp công, chia lời.

Đứng về mặt cơ sở thương mại, có Tả Hữu thì công ty sẽ có cơ sở rộng lớn hơn, có chi nhánh, có đại diện thương mại ở nhiều chỗ: đó là những xí nghiệp lớn.

Nếu tọa thủ tai một cung Điền tốt đẹp, Tả Hữu ngụ ý có hai nhà hoặc nhà, một đất hay xí nghiệp làm ăn. Còn ở cung Tài, đương số vừa có tiền để ở nhà, vừa có trương mục ở ngân hàng.

Nếu không bị sát tinh xâm phạm thì sự hợp tác chân thành tích cực và lương thiện. Trái lại, nếu có sát tinh, ám tinh đi kèm thì sự hợp tác có nghi kỵ, cạnh tranh, gian lận, lường gạt, hoặc giả có sự hợp tác để làm ăn ám muội và táo bạo kiểu như buôn lậu phi pháp, có thể đi đến sự thanh toán, giành giựt, phá sản, bị họa vì tiền bạc, vì quản lý kém phân minh. 

Thiên quan, Thiên phúc:

Ý nghĩa tương tự như Tả, Hữu: có sự giúp đỡ của quí nhân trong việc làm ăn. Hai sao này vốn là cát tinh cho nên sự hợp tác có tính cách lương thiện, chân thành bất vụ lợi, tín nghĩa. 

Mặt khác, Quan và Phúc cũng có nghĩa hay giúp đỡ kẻ khác, hay dùng tài sản làm việc phước thiện, làm việc văn hóa...

Tràng sinh, Đế vượng:

Sinh và Vượng chỉ sự phong phú, thừa thãi, đi với tài tinh, sẽ làm cho của cải thêm nhiều. Có thể ví hai sao này như hai hệ số, làm gia tăng tài lộc, mặc dù không tạo ra tài lộc: Sinh và Vượng chỉ số nhiều, chỉ lượng. Nói khác đi, cung Taì có sao tài đồng cung với Sinh hay Vượng thì tiền bạc có sinh lợi, vốn để ra lời hoặc vốn được tích lũy thêm mãi. Ngoài ra, Sinh Vượng còn có nghĩa như một tổ hợp thương mại chứ không phải một sự kinh thương đơn lẻ.

Ân quang, Thiên quý:

Ở cung Tài, Điền Quang Quý chỉ di sản, nhiều hay ít còn tùy số lượng tài tinh thủ hay chiếu. Nếu có nhiều sao đi kèm, di sản đó có thể quan trọng.

Mặt khác, Quang Quý còn có nghĩa là những cổ đông bỏ vốn, thường là người thân thuộc, tín nhiệm: thương hội vì vậy nên có tính cách gia tộc.

Ngược lại, nếu gặp cả Không, Kiếp hội chiếu, di sản đó có thể tiêu cực (có nợ nần của cha mẹ để lại) hoặc không được hưởng di sản, hoặc phải bị hao tán nhiều. 

Đào, Hồng, Hóa, Lộc:

Lộc đi với Đào hay Hồng là cách làm giàu nhờ phái đẹp, vợ hay nhân tình có của. Sự may mắn thường do phái nữ mang đến. Đối với phái nữ, thì do phái nam cung cấp.

Hóa quyền:

Đóng ở cung Tài tốt đẹp, Hóa Quyền không hẳn có nghĩa quyền quí, mà có thể có nghĩa như một thế lực tài phiệt nếu Quyền đi cùng với tài tinh rực rỡ.

Đóng ở cung Điền, Hóa Quyền là bổng lộc do nhà nước ban cấp, dưới hình thức hiện vật, như được cấp đất khai khẩn, được ở nhà chính phủ, được sử dụng công xa, nói chung là những tiện nghi vật chất do quyền tước mà có. Đây chỉ là những ý nghĩa khả hữu mà thôi, không nhất thiết phải có như vậy, bởi lẽ Hóa Quyền chủ về quan lộc hơn là điền sản. Những lợi lộc trên chỉ rõ rệt đối với những lá số có quí cách, có quyền cách, nghĩa là những lá số làm quan to, văn hay võ.

Thiên khôi, Thiên việt:

Đây không phải là sao tài đúng nghĩa, cho dù Khôi, Việt có đóng ở Tài hay Điền. Hai sao này chủ yếu chỉ khoa giáp, bằng cấp.

Nhưng, Khôi Việt là những sao trợ tài vì làm sáng lạng thêm cho Tài Điền, nếu hai cung này xấu. Nếu thêm tài tinh thì của cải nhiều thêm. Sự hội tụ của nhiều tài tinh với Khôi Việt báo hiệu một thế lực tài phiệt có thể nói là xuất chúng, chính cũng vì Khôi Việt chỉ sự độc nhất trong lãnh vực nhất định nào đó. Trong trường hợp này, đương sự có thể là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, Chủ Tịch Hợp Tác Xã hay một xí nghiệp kinh tế tài chính, công hay tư. Bằng không thì là sở hữu chủ, chủ nhân.

Nếu hai cung Tài và Điền tương đối xấu thì sự hiện diện của Khôi Việt tại đó sẽ làm vượng cho hai cung: đương số không đến nỗi nghèo túng, có thể đủ ăn, đủ mặc. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách giàu và những sao hữu sản

Nghệ thuật xem tướng miệng đẹp và xấu –

Xem tướng miệng rộng: người hay nói, miệng hở: người thiếu can đảm, miệng kín: người ít nói, Miệng hình trái tim: người nhẹ dạ, nông nổi, nữ tính, … Khi xem tướng miệng càng mở, việc giao dịch càng lợi; miệng càng khép, người càng vắng lặng trong việ
Nghệ thuật xem tướng miệng đẹp và xấu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghệ thuật xem tướng miệng đẹp và xấu –

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1961 –

Hướng kê giường tuổi Tân Sửu 1961 - Năm sinh dương lịch: 1961 - Năm sinh âm lịch: Tân Sửu - Quẻ mệnh: Chấn Mộc - Ngũ hành: Bích Thượng Thổ (Đất tò vò) - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh - Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng kê giường tuổi Tân Sửu 1961

– Năm sinh dương lịch: 1961

– Năm sinh âm lịch: Tân Sửu

– Quẻ mệnh: Chấn Mộc

– Ngũ hành: Bích Thượng Thổ (Đất tò vò)

– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh

– Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Ngũ Quỷ); Đông Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Hoạ Hại); Tây (Tuyệt Mệnh);

giuongsat

Phòng ngủ:

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Thổ, Hỏa sinh Thổ, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Hỏa, là hướng Nam;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Cam, Đỏ, đây là màu đại diện cho hành Hỏa, rất tốt cho người hành Thổ.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1961 –

Nhìn tủ quần áo, biết tính cách của một phụ nữ

Nếu trong tủ đồ của bạn có đầy những bộ cánh còn nguyên nhãn mác, bạn có vẻ là người biết mình muốn gì cho tương lai nhưng chưa nỗ lực thực hiện.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thường, những thứ chúng ta thấy trong tủ đồ của một người phụ nữ tiết lộ khá nhiều về tính cách, trạng thái cảm xúc, những nỗi sợ và khao khát của họ. Dưới đây là lý giải của Tracy DiNunzio - người sáng lập trang web chuyên bán lại quần áo Tradesy về những điều bạn có thể phát hiện khi nhìn vào tủ đồ của phái đẹp:

Tủ quần áo toàn những đồ hàng hiệu: Có thể bạn là người luôn cố gắng giấu tính cách thật của mình.

Nhiều phụ nữ chỉ mua đồ có lô gô thiết kế trên đó. Đây là kiểu người có cá tính thú vị bởi họ biết điều gì cần phô ra cho thế giới thấy và điều gì nên cất giấu cho riêng mình. Tuy nhiên, nếu bạn chỉ mặc toàn đồ hiệu mà từ chối tất cả những thứ khác, có vẻ như bạn đang cực kỳ muốn giấu diếm bản thân. Có thể có chuyện gì đó xảy ra với bạn trong giai đoạn quá độ chuyển từ thời thiếu niên sang người lớn chăng?

nhin-tu-quan-ao-biet-tinh-cach-cua-mot-phu-nu

Ảnh minh họa: Scarymommy.

Tủ quần áo đầy những đồ chưa mặc (không còn tag): Một người không dễ dàng quên đi những chuyện cũ.

Trong tủ đồ của bạn có thể là những bộ quần áo bạn mua từ lúc trước khi sinh con và giờ không mặc lại được nữa nhưng bạn không có ý định cho hay bỏ đi. Cũng có thể đó là những món đồ mà bạn nghĩ rồi mình sẽ mặc lại phong cách đó hoặc có lúc có thể mặc vừa chúng. Chủ nhân của những tủ quần áo này là những người dễ lo âu, nhìn chung là khó "buông bỏ" và không dễ giải tỏa nỗi sợ hãi và sự tức giận của họ.

Tủ quần áo còn đầy những đồ chưa bao giờ mặc đến (còn nguyên tag): Bạn biết mình muốn gì cho tương lai nhưng chưa nỗ lực xây đắp.

Người phụ nữ này không hay giữ mãi những điều trong quá khứ mà có lý tưởng về những gì mình muốn cho cuộc sống tương lai của bản thân. Tuy nhiên, thực tế lại không phù hợp. Thay vì làm điều gì đó xây dựng cho nó, cô ấy mua quần áo cho tương lai và không mặc tới. Tất cả những việc bạn cần làm là hãy hành động vì những điều bạn muốn, hãy mua món đồ bạn có thể sử dụng ngay ở hiện tại. 

Tủ quần áo toàn những đồ màu trung tính: Bạn dường như muốn trở nên "vô hình" trước mọi người.

Tủ quần áo của bạn chỉ toàn các đồ màu đen và trắng. Điều này có liên quan tới vài vấn đề. Có thể bạn là người hướng nội, chỉ cảm thấy thoải mái khi ở trong khu vực an toàn mình tạo ra, ngại giao tiếp xã hội. Hoặc cũng có khi lòng tự trong của bạn từng bị tổn thương và bạn không muốn lộ diện trước mọi người.

Trong tủ đồ chỉ toàn quần: Người phụ nữ cá tính mạnh.

Người phụ nữ không bao giờ mặc váy mà chỉ gắn với những chiếc quần thường là tuýp người thú vị. Nhưng, có vẻ như đôi khi họ cũng cần điều chỉnh bản thân để phù hợp hơn trong công việc và đời sống xã hội. 

Tủ quần áo toàn những đồ giống nhau: Có thể bạn là người ngại thay đổi.

Nếu trong tủ của bạn có 10 chiếc áo len kiểu giống nhau, chỉ khác màu hoặc bạn luôn trung thành với kiểu áo trắng quần đen thì có vẻ bạn là người ngại thay đổi trong công việc hay các mối quan hệ. 

Những người phụ nữ này hay nói: "Vì tôi không muốn phải bận tâm tới việc ăn mặc nên tôi mua những thứ giống nhau" nhưng khi tìm hiểu kỹ hơn về họ, bạn sẽ thấy họ có đầy những vấn đề chưa được giải quyết trong công việc và cả chuyện tình cảm. Có hai lý do chính: Họ sợ sự thay đổi hoặc khao khát thay đổi nhưng không dám thực hiện. 

Hãy làm mới tủ quần áo để làm mới chính mình

Tất nhiên điều này không có nghĩa bạn phải sắm một chiếc tủ hay các đồ mới hoàn toàn. Thật khó cho chúng ta khi nhìn lại chính mình, vì vậy có một người bạn tin cậy - người có thể đưa ra những ý kiến khách quan là tốt nhất nếu bạn muốn sắp xếp lại tủ đồ - hay chính cuộc sống của mình. Hãy chia số đồ bạn có thành hai nhóm: "Những đồ tôi thường xuyên mặc" và "Những đồ tôi không mặc". Ở nhóm thứ hai, hãy đem thanh lý, cho hay ủng hộ. Sau đó, hãy nghĩ xem bạn muốn trở thành người thế nào - không phải một ai đó cụ thể mà là hình mẫu bạn muốn hướng tới - và bắt đầu mặc như vậy. 

Vương Linh (Theo Marieclaire)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tủ quần áo, biết tính cách của một phụ nữ

Lễ lại mặt có ý nghĩa gì ?

Lễ thành hôn, tơ hồng, hợp cẩn xong xuôi, hai vợ chồng tân hôn trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên ông bà cha mẹ, đi chào họ hàng thân nhân bên nhà gái sau đó đón bố mẹ và vài thân nhân sang nhà chú rể. Kể từ buổi đó, mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà chú rể và nhà thông gia, vì trong lễ cưới, mẹ cô dâu (có nơi cả bố) không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau ngày cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ) tuỳ theo khoảng cách xa gần và hoàn cảnh cụ thể mà định ngày.
Lễ lại mặt có ý nghĩa gì ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thành phần chủ khách rất hẹp, chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình. Phỏng theo tục cổ Trung Quốc: nếu trong lễ lại mặt, có cái thủ lợn cắt lỗ tai tức là ngầm báo với nhà gái rằng nhà trai trả lại, vì con gái ông bà đã mất trinh (Đêm tân hôn có lót giấy bản, gọi là giấy thám trinh, để xem người con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì trên giấy bản sẽ có mấy giọt máu.
Mã Giám Sinh sau khi cưỡng ép phá trinh nàng Kiều xong dùng "Nước vỏ Lựu", "Máu mào gà" hòng lường gạt làng chơi tưởng nhầm là Kiều vẫn còn trinh).Trường hợp hai nhà xa xôi cách trở, ông già bà lão thì nên miễn cho nhau, cô dâu chú rể nếu bận ông tác cũng nên được miễn thứ. Nếu điều kiện cho phép thì nên duy trì, vì lễ này mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp:
-Nhắc nhủ con đạo hiếu, biết tạ ơn sinh thành, coi bố mẹ vợ cũng như bố mẹ mình.-Thắt chặt và mở rộng mối quan hệ thông gia, họ hàng ngay từ buổi đầu, tình cảm được nhân đôi. - Hai gia đình cùng trao đổi rút kinh nghiệm về việc tổ chức hôn lễ và bàn bạc về trách nhiệm của hai bên bố mẹ trong việc tác thành cuộc sống cho đôi trẻ trong tương lai.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ lại mặt có ý nghĩa gì ?

Bếp ăn gần phòng vệ sinh: Kiêng kị và cách hóa giải

Trong phong thủy, bếp ăn tượng trưng cho người phụ nữ và cũng là nguồn tài lộc trong nhà. Vì vậy, bếp luôn luôn phải sạch sẽ, thơm tho, không được để dơ bẩn, xú uế dễ gây mất vệ sinh, vi trùng yếm khí.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà anh Đặng Bá Phong (Thanh Xuân, Hà Nội) đang trong giai đoạn hoàn thiện. Vì diện tích chật nên anh dự định bố trí bếp ăn bên dưới nhà vệ sinh. Tuy nhiên, nhiều người quen lại khuyên anh không nên bố trí vị trí bếp ăn như vậy để tránh xui xẻo.  

Không nên cho bếp cạnh vòi nước.


Giải đáp băn khoăn này của anh Phong, chuyên gia phong thủy Bùi Nghiệp, Công ty Cổ phần Nhà Xuân cho biết: Trong phong thủy, bếp ăn tượng trưng cho người phụ nữ và cũng là nguồn tài lộc trong nhà. Vì vậy, bếp luôn luôn phải sạch sẽ, thơm tho, không được để dơ bẩn, xú uế dễ gây mất vệ sinh, vi trùng yếm khí.

Về mặt bố cục, bếp ăn không được đặt dưới nhà vệ sinh. Bên cạnh đó nếu đặt bếp áp lưng vào phòng vệ sinh cũng như đối diện với cửa phòng vệ sinh cũng không tốt. Điều này dễ làm cho người trong nhà hay ốm đau bệnh tật, sức khoẻ kém.

Để tiết kiệm không gian, có một số gia đình còn thiết kế bếp và phòng vệ sinh cùng một cửa ra vào. Làm như vậy có nghĩa là mọi người trong nhà phải đi qua bếp rồi mới đến nhà vệ sinh hoặc ngược lại. Điều này rất bất hợp lý. Bếp là nơi cần đảm bảo vệ sinh nên được thiết kế riêng biệt và cách xa khu vực vệ sinh.

Với các căn hộ chung cư do diện tích chật hẹp nên nhà vệ sinh thường được bố trí gần bếp. Nếu không thể thay đổi được bố cục này trong nhà, bạn có thể hóa giải phần nào sự rắc rối này bằng cách: Cửa nhà vệ sinh phải luôn đóng; không để bếp đối mặt với nhà vệ sinh; giữ cho nhà bếp luôn khô ráo, sạch sẽ. Bạn cũng có thể  thiết kế thêm một chiếc cửa nữa để ngăn cách giữa nhà bếp và phòng vệ sinh, hoặc có thể dùng bức bình phong hoặc mành treo để che hai bên lại.

(Theo Kienthuc)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bếp ăn gần phòng vệ sinh: Kiêng kị và cách hóa giải

Bên trong nơi ở của gia đình ông Obama

Ngoài giờ làm việc, vợ chồng Tổng thống Mỹ, hai con gái cùng chú chó Bo có nhiều phút thư giãn bên nhau trong Nhà Trắng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà Trắng (Washington, Mỹ) là nơi ở và làm việc của Tổng thống Mỹ cùng gia đình. Công trình này mang phong cách tân cổ điển do James Hoban thiết kế, có 132 phòng, 35 WC, 6 tầng ở, 28 lò sưởi, 8 cầu thang và 3 thang máy. Chú chó Bo của gia đình ông Obama chụp trong khuôn viên tòa nhà.

  bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Thỉnh thoảng, ông Obama cũng có những phút vui đùa với con cái của nhân viên trong phòng Bầu Dục, nơi làm việc chính của ông.

 
bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Ông bà Obama và hai con gái trong trang phục lộng lẫy đi dự tiệc được tổ chức tại chính nơi ở của mình. Sảnh của tòa nhà có đèn chùm lộng lẫy được trang trí thêm hoa.

 
bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Vợ chồng ông Obama đãi tiệc tại phòng ăn lớn trong Nhà trắng. Các Tổng thống Mỹ chuyển vào Nhà Trắng đều có những chỉnh sửa nội thất cho phù hợp với mình.

 
bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Cậu bé Nicholas Tamarin (3 tuổi), con trai một cố vấn của Obama, đóng vai Người Nhện chơi đùa bên ngoài phòng Bầu dục.

 
bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Người dẫn chương trình nổi tiếng Jimmy Fallon có cơ hội chơi trò nhảy bao bố trong phòng Phía Đông.

 
bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Cả gia đình Tổng thống Mỹ dành thời gian vừa thưởng thức đồ ăn vừa xem một trận đấu bóng trong phòng Hiệp Ước.

 
bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Ông Obama cùng vợ tiếp đón những người tới thăm Nhà trắng tại phòng Xanh.

 
bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Chú chó Bo vui đùa cùng ông Obama ở những dãy hành lang dài nhưng nhiều ánh sáng của khu nhà.

 
bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Trong khuôn viên Nhà trắng có cả sân tenis, bóng rổ, bể bơi. Ông Obama thường tranh thủ những phút rảnh rỗi hiếm hoi để chơi thể thao và giao lưu với mọi người.

 
bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Gia đình cùng khách mời xem Siêu cúp bóng bầu dục Mỹ Super Bowl với kính 3D trong phòng chiếu phim.

 
bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Nhiều khu vườn được xây dựng trong suốt lịch sử của Nhà Trắng trong đó có Vườn Hồng nổi tiếng.

 
bên trong nơi ở của gia đình ông obama  

Phu nhân Tổng thống để lại dấu ấn với vườn rau xanh rộng 100 m2. Buổi tiệc chiêu đãi lãnh đạo các nước thường có đồ ăn chế biến từ rau quả gia đình tự trồng được.

 
Lam Huyền
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bên trong nơi ở của gia đình ông Obama

Phong thủy quầy tiếp tân trong văn phòng

Trong phong thủy, quầy lễ tân thuộc khu vực minh đường. Đây cũng chính là nơi tụ khí. Nếu bố trí phong thủy quầy tiếp tân hợp lý, công việc kinh doanh
Phong thủy quầy tiếp tân trong văn phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, quầy lễ tân thuộc khu vực minh đường. Đây cũng chính là nơi tụ khí. Nếu bố trí hợp lý, công việc kinh doanh sẽ phát triển, hưng thịnh.

Quầy lễ tân nên đặt ở phía Nam - hướng tượng trưng cho cái đẹp và sự sáng sủa. Khi trang trí, nên dùng màu đỏ hoặc tím để tạo không gian bắt mắt và mang lại may mắn, thuận lợi cho việc kinh doanh của công ty.

Trong phong thủy nhà ở - văn phòng, quầy lễ tân kỵ không đặt các đồ vật trang trí có hình tam giác.

Quầy tiếp tân hợp phong thủy sẽ mang lại may mắn cho công việc kinh doanh

Phong thủy quầy tiếp tân - Lối ra vào


Cửa ở lối ra vào chính hay các cửa ra vào khác cần tương xứng với tòa nhà. Nếu dùng cửa 2 cánh, cả hai phải được mở rộng để dòng khí di chuyển vào tòa nhà. Loại cửa xoay giúp luân chuyển năng lượng ở lối ra vào, nhưng chỉ thích hợp với những tòa nhà văn phòng lớn.

Cửa chính phải dễ mở và không được quá nặng nếu không chúng sẽ làm tiêu hao năng lượng cá nhân.

Nếu có cửa sổ đặt đối diện ngay với cửa chính, cần đặt một số cây cảnh để ngăn chặn dòng khí đi vào tòa nhà rồi qua cửa sổ đi thẳng ra ngoài, không kịp luân chuyển bên trong tòa nhà. Ngoài ra, để hóa  giải thế cửa đối cửa, bạn cũng có thể tham khảo thêm bài viết: Cách hóa giải đơn giản và hiệu quả cho thế "cửa đối cửa".

Phong thủy quầy tiếp tân - Bàn tiếp khách


Khách đến công ty, khi bước qua cửa chính, phải nhìn thấy ngay bàn tiếp khách. Nhưng tránh đặt bàn quá gần hoặc đối diện ngay cửa chính, vì tạp âm có thể gây ảnh hưởng không tốt đến các nhân viên trực tại bàn lễ tân. Ghế ngồi của nhân viên tiếp tân thoải mái, vững chãi, phía sau có tường che chắn.  

Phong thủy quầy tiếp tân - Khu vực tiếp khách


Luồng khí ở khu vực này được coi là rất quan trọng. Nó luôn phải trong lành và có sự luân chuyển tốt. Vì vậy, quạt máy, cây xanh và những vật trang trí từ nước đóng vai trò khá quan trọng ở đây.

Ở khu vực tiếp khách người ta thường đặt hồ cá. Những con cá nhỏ, linh hoạt, tạo năng lượng tích cực, rất phù hợp với các công ty thương mại. Trong khi những con to, bơi chậm chạp tạo cảm giác an bình lại thích hợp cho các bệnh viện hay phòng mạch. Bạn có thể tham khảo thêm bài viết:  Chọn hình dáng bể cá để đón nhận tài lộc

Những bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:

Áp dụng phong thủy để công việc lên như diều gặp gió Treo tranh hợp nghề, phong thủy văn phòng tốt đẹp rực rỡ Đại kỵ phong thủy khiến dân văn phòng gặp trắc trở trong sự nghiệp Phong thủy phòng làm việc cho sếp nữ mau thành công
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy quầy tiếp tân trong văn phòng

Đặc tính cơ bản của sao Giải Thần trong Tử Vi

Tìm hiểu về đặc tính của sao Giải Thần trong Tử vi, sao Giải Thần nằm trong bộ ba sao hóa giải đó là thiên giải, địa giải và giải thần.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính cơ bản của sao Giải Thần trong Tử Vi

Đặc tính cơ bản của sao Giải Thần trong Tử Vi

Tìm hiểu về đặc tính của sao Giải Thần trong Tử Vi

sao Giải Thần chủ hóa về hung cát, tiêu trừ tai ách, gặp dữ hóa lành. Nhưng đối với các hung tinh thuộc hệ thống sao cấp 1 như Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Hóa Kị thì sao Giải Thần chỉ có thể giảm bớt hung hại, chứ không thể giải trừ hết.

Sao Giải Thần chủ về linh cảm có trực giác hết sức đặc biệt, thường trước khi xảy ra nguy hiểm, thì trong lòng đã có cảm ứng mà tránh được nguy hiểm. Khi công việc gặp phải phiền não, sao Giải Thần cũng có thể tự giải quyết, biến mọi trở ngại thành động lực tích cực.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính cơ bản của sao Giải Thần trong Tử Vi

Xem tử vi tháng Hai âm lịch năm Bính Thân của người tuổi Dậu

Tử vi tháng Hai của người tuổi Dậu có quan hệ Lục Xung bất hòa, vận trình cần đề cao cảnh giác. Công việc bất ổn, bên ngoài có nhiều lời mời gọi khiến lãnh đạo nghĩ bạn không chuyên tâm, thay lòng đổi dạ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Người tuổi Dậu bước vào tháng Tân Mão quan hệ Lục Xung bất hòa, vận trình cần đề cao cảnh giác. Công việc bất ổn, bên ngoài có nhiều lời mời gọi khiến lãnh đạo nghĩ bạn không chuyên tâm, thay lòng đổi dạ.

Lời khuyên: Nếu có điều kiện, bạn nên dùng đồ phong thủy may mắn cát tường để hưng thịnh vận trình, phối hợp với vị Bồ Tát, Chư Phật tọa mệnh để cầu bình an, gia trạch, sự nghiệp thuận lợi. Bạn nên tập trung xử lý công việc của mình, không nên quá coi trọng đồng tiền, thu nhập, càng nên tránh để tâm tới các trò giải trí vô bổ. Tháng bản mệnh rơi vào quan hệ Lục Xung nên sự nghiệp, gia trạch đều sẽ xuất hiện biến động, tuy vậy mọi chuyện không quá hung hiểm.

BIỂU ĐỒ TỬ VI THÁNG 2

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Dau hinh anh goc 2
 
CÔNG VIỆC

Theo tử vi tháng Hai của người tuổi Dậu, mặt công việc phát sinh nhiều yếu tố bất ngờ, nếu bạn không xử lý khéo lẽo rất dễ gặp phải rắc rối. Có nhiều việc bạn không nên chỉ nghĩ mà không làm, chần chừ sẽ mất đi cơ hội của mình. Thời gian rảnh thì nên học tập các kỹ năng mới làm nền tảng cho sự nghiệp phát triển sau này.

Người làm ăn dù dám dũng cảm đương đầu khó khăn nhưng không được hấp tấp. Nhưng vì nên tảng sự nghiệp chuẩn bị chưa chắc, lại phát sinh nhiều biến động bất ngờ nên dễ gặp thất bại.

TÀI LỘC


Mặt tài lộc, nhờ Bính Hỏa khắc Tân Kim mà tình hình tài chính của người tuổi Dậu rất khả quan. Chính tài ổn định, chi tiêu không bị phát sinh nên có thể coi khá cân bằng. Bệnh Phù hung tinh khiến bạn chi tiêu nhiều tiền vào mặt sức khỏe. Tốt nhất bạn lên lịch đi khám sức khỏe định kỳ, đừng để tới lúc bệnh tình nặng mới đi chữa thì tài lộc còn bị thất thoát nhiều hơn.

TÌNH CẢM


Vận đào hoa đáng để hi vọng, đặc biệt trong thời gian nghỉ ngơi Tết cổ truyền, những người tuổi Dậu độc thân về thăm nhà còn gặp gỡ được nhiều mối nhân duyên mới mẻ. Sự mạnh dạn của bạn sẽ đem tới nhiều buổi gặp gỡ hẹn hò. Tuy vậy quan hệ Lục Xung làm bạn không được thoải mái. Người đã có gia đình nên xem lại quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Bạn nên dành thời gian bên con hơn là chìm đắm vào mối quan hệ hai người.

SỨC KHỎE

Theo tử vi tháng Hai của người tuổi Dậu, sức khỏe không được tốt, quan hệ Lục Xung tiềm tàng nhiều hiểm nguy đe dọa. Đặc biệt dân văn phòng vì dùng quá nhiều thời gian vào màn hình máy tính nên nguy cơ cận thị hoặc tăng độ cận rất cao. Ngoài ra, do thường xuyên ăn uống thất thường, giờ giấc làm việc quá khuya cũng khiến cơ thể mệt mỏi. Bệnh Phù tinh cũng là lý do để bạn đi lại cẩn thận trên đường, tránh va chạm không đáng có và đề phòng bệnh cũ tái phát.

Nhìn chung, trong tháng Tân Mão vận trình của bản mệnh Dậu lên xuống bất định, lại thiếu cát tinh trong cung mệnh nên mọi việc không thông suốt, công việc khó khăn khiến bạn chỉ biết than vãn. Một bộ phận tuổi Dậu sẽ có sự thay đổi trong công việc, môi trường làm việc và đồng nghiệp mới khiến bạn đau đầu trong việc thích ứng.


Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng Hai âm lịch năm Bính Thân của người tuổi Dậu

Mơ thấy phụ nữ sinh con –

Giấc mơ thấy chính mình sinh em bé là điềm báo cuộc sống gia đình bạn rất êm ấm, hạnh phúc. Mơ thấy sinh con trai là tin tốt lành Bạn mơ thấy mình sinh con trai, đó là tin rất tốt lành. Giấc mơ này có ý nghĩa rằng chồng bạn sắp được thăng qua
Mơ thấy phụ nữ sinh con –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy phụ nữ sinh con –

Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Hợi

Nam nữ tuổi Hợi được xem là cặp trời sinh. Hai người có sự thấu hiểu lẫn nhau, tương lai hẳn sẽ vô cùng hạnh phúc.
Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Hợi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bang-vo-chong-tuong-sinh-tuong-khac-cua-nguoi-tuoi-hoi
Hợi - Tý  Hợi - Sửu Hợi - Dần Hợi - Mão
Hợi - Thìn Hợi - Tỵ Hợi - Ngọ Hợi - Mùi
Hợi - Thân Hợi - Dậu Hợi - Tuất Hợi - Hợi

Maruko (theo Sohu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Hợi

Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp (24/5/2015)

Tử vi Chủ nhật: Dù là ngày nghỉ nhưng người tuổi Sửu vẫn lên kế hoạch cho công việc tuần tới, người tuổi Tỵ cần đề phòng có kẻ thứ ba phá đám tình cảm,...
Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp (24/5/2015)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp: Dù là ngày nghỉ nhưng người tuổi Sửu vẫn lên kế hoạch cho công việc tuần tới, người tuổi Tỵ cần đề phòng có kẻ thứ ba phá đám tình cảm của bạn và người ấy...
 

Tuổi Tý
 
Mọi sự nỗ lực và cố gắng trong công việc của người tuổi Tý tuần qua đã phần nào được ghi nhận. Chủ nhật là thời gian bạn nên nghỉ ngơi, lấy lại tinh thần làm việc cho đầu tuần tới. Thay vì nằm dài ở nhà, người tuổi Tý nên đi gặp gỡ bạn bè để giải tỏa tâm lí. Đồng thời, chuyện tình cảm của người tuổi Tý khá thuận lợi vì cả hai đều cố gắng dành thời gian bên nhau lâu nhất.
 
Con số may mắn: 1 và 4 Giờ tốt nhất trong ngày: 16h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Tý, tuổi Sửu và tuổi Dần   Tuổi Sửu
 
Dù là ngày nghỉ, nhưng người tuổi Sửu vẫn lên kế hoạch công việc một cách rõ ràng trong đầu. Tuần tới hứa hẹn sẽ có nhiều bước tiến triển tốt trong sự nghiệp của bạn. Tuy nhiên, bạn nên gạt bỏ suy nghĩ công việc sang một bên để tận hưởng ngày nghỉ trọn vẹn.
 
Người tuổi Sửu đã sẵn sàng cho một mối quan hệ tình cảm tốt đẹp, hãy mạnh dạn thổ lộ tình cảm để kết thúc cuộc sống đơn thân của bạn.
 
Con số may mắn: 2 và 8 Giờ tốt nhất trong ngày: 20h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Dần   Tuổi Dần   Nguồn tài chính ổn định do vận thế tốt giúp người tuổi Dần có thể mạnh tay chi tiêu vào dịp cuối tuần. Một khoản tiền bất ngờ sẽ đến và cho phép bạn có thể thực hiện sở thích hoặc thú vui đã ao ước từ lâu. 
 
Nửa kia của bạn đang cảm thấy ngột ngạt, khó chịu vì sự “quản lí” quá sát sao của bạn. Người tuổi Dần nên tạo không gian tự do cho đối phương, thực hiện chiến dịch “nạt mềm buộc chặt”.
 
Con số may mắn: 0 và 6 Giờ tốt nhất trong ngày: 17h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Tý, Thìn và Tỵ
Tuổi Mão
Vận thế của người tuổi Mão có chiều hướng tăng, theo đó bạn dễ dàng đạt được các mục tiêu trong công việc hơn. Vì quá căng thẳng do phải làm lượng công việc lớn trong tuần, người tuổi Mão nên tận dụng thời gian nghỉ ngơi để chăm sóc bản thân mình.    Chuyện tình cảm của người tuổi Mão khá thuận lợi. Tuy nhiên, bạn nên cân nhắc kĩ việc nhận lời tỏ tình của người cùng cơ quan. Điều đó sẽ gây cho bạn không ít điều bất tiện trong tương lai.    Con số may mắn: 2 và 9 Giờ tốt nhất trong ngày: 16h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Sửu và Mão
Tuổi Thìn
 
Nhìn lại thành quả công việc đạt được, không chỉ có bạn hài lòng mà cấp trên và đồng nghiệp đều ghi nhận. Tài vận của bạn có xu hướng tăng, nhân đà này bạn hãy khẳng định năng lực của mình hơn nữa, tạo bước tiến mới trong sự nghiệp. 
 
Tình yêu của người tuổi Thìn đang trong giai đoạn thử thách. Hai người cần phải tin tưởng nhau hơn và cùng nhau vượt qua mọi trở ngại cuộc sống, tiến tới hạnh phúc lâu bền.   Con số may mắn: 0 và 2 Giờ tốt nhất trong ngày: 21h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Mão và Mùi

Tu vi Chu nhat cua 12 con giap 2452015 hinh anh
Ảnh minh họa
  Tuổi Tỵ
 
Người tuổi Tỵ có thể tạm hài lòng với những tiến triển trong công việc tuần qua. Bạn nên toàn tâm toàn ý nghỉ ngơi, lấy lại sức khỏe và tinh thần. Tuy nhiên, nên cẩn thận hơn trong mối quan hệ bạn bè và gia đình, tránh những mâu thuẫn không đáng có xảy ra.   Hôm nay bạn cần lưu ý có kẻ thứ ba muốn chen ngang phá đám tình cảm của hai người. Thay vì cả giận mất khôn, người tuổi Tỵ nên bình tĩnh và cư xử khéo léo, không được gây mất hòa khí đôi bên, bởi khi đó tình cảm dễ bị rạn nứt.   Con số may mắn: 3 và 5 Giờ tốt nhất trong ngày: 19h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Sửu và Tỵ   Tuổi Ngọ
 
Một vài ý tưởng lãng mạn cho cuộc hẹn hò ngày cuối tuần đã chiếm hết tâm trí của bạn. Điều đó giúp hai bên cảm nhận được niềm hạnh phúc ngọt ngào. Nếu ai đó cho rằng bạn hơi bốc đồng hoặc thái quá, bạn cũng đừng buồn bởi mọi điều bạn làm đều nhằm mục đích tốt đẹp.
 
Có ai đó đang mong chờ câu trả lời từ bạn. Người tuổi Ngọ cần nhanh chóng đưa ra quyết định, tránh làm tổn thương người khác.   Con số may mắn: 2 và 3 Giờ tốt nhất trong ngày: 10h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Sửu và Ngọ   Tuổi Mùi   Mặc dù là ngày nghỉ, nhưng do vận thế tốt kéo theo những cơ hội tài chính tuyệt vời sẽ đến với người tuổi Mùi trong ngày hôm nay. Rất có thể sang tuần mới bạn sẽ thấy khoản đầu tư của mình có dấu  hiệu sinh lời. 
 
Tuy nhiên, chuyện tình cảm của người tuổi Mùi lại gặp chút rắc rối. Vì mọi người xung quanh, thậm chí cả đối phương cũng chưa thực sự hiểu điều bạn nghĩ, do đó một vài mâu thuẫn phát sinh. Tuy nhiên, mọi chuyện đều nằm trong tầm kiểm soát của bạn.   Con số may mắn: 5 và 8 Giờ tốt nhất trong ngày: 8h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Thìn, Mùi và Thân
Tuổi Thân   Hôm nay là thời điểm tốt để người tuổi Thân rà soát lại tình hình tài chính của mình, tránh tình trạng rỗng túi ngay đầu tuần mới. Bạn nên đi đâu đó hít thở không khí trong lành để tìm lại nguồn cảm hứng cho công việc sắp tới.   Người tuổi Thân sẽ nhận ra điều bất ngờ trong những mối quan hệ bạn bè cũ của mình. Tình cảm của bạn sẽ có sự biến động lớn vào tuần tới. Bạn cần chuẩn bị tâm lí sẵn sàng đón nhận.
 
Con số may mắn: 1 và 6 Giờ tốt nhất trong ngày: 13h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Thìn   Tuổi Dậu   Người tuổi Dậu nên tự thưởng cho mình một ngày cuối tuần hoàn toàn thư giãn. Nếu có cuộc gọi liên quan đến công việc, bạn có thể từ chối trả lời. Với vận thế đang khởi sắc, công việc của bạn sẽ thuận lợi, không cần phải lo lắng.   Tình cảm của người tuổi Dậu trong ngày hôm nay không có nhiều biến động. Tuy nhiên, cần chú ý hơn về ngoại hình để thu hút ánh nhìn của những người khác giới, tạo cơ hội kết thúc cuộc sống độc thân của bạn. Nếu đã có gia đình, một bữa tối lãng mạn là điều cần thiết cho bạn trong hôm nay.   Con số may mắn: 0 và 8 Giờ tốt nhất trong ngày: 15h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Dần   Tuổi Tuất   Hôm nay người tuổi Tuất nên lưu ý các mối quan hệ trong gia đình, vì nhiều khả năng sẽ có mâu thuẫn với bố mẹ hoặc anh chị em. Đồng thời, tình cảm giữa bạn và nửa kia cũng gặp trục trặc do bất đồng quan điểm. Người tuổi Tuất nên kiểm soát tốt cảm xúc của mình, tránh gây mất hòa khí hoặc rạn nứt tình cảm.
 
Con số may mắn: 6 và 9 Giờ tốt nhất trong ngày: 14h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Mão và Tỵ   Tuổi Hợi   Người tuổi Hợi có thể nghỉ ngơi hoàn toàn trong ngày cuối tuần này. Khi đã lấy lại tinh thần, sang tuần tới bạn sẽ thêm động lực làm việc và tiến thêm bước xa trong sự nghiệp của mình.   Tình cảm của bạn và người ấy đang thiếu đi yếu tố lãng mạn vì cả hai quá bận rộn trong công việc. Hai bạn nên tận dụng thời gian của ngày nghỉ để sắp xếp một buổi tối lãng mạn và thú vị.   Con số may mắn: 3 và 5 Giờ tốt nhất trong ngày: 14h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Dần và Mùi
 
Việt Hoàng (Theo Astrology)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp (24/5/2015)

Tướng mặt của người cô đơn

Tướng cách cô độc: Lông mày có hình chữ “bát”, tiếng nói như sấm,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng cách cô độc: Lông mày có hình chữ “bát”, tiếng nói như sấm

tuong-menh-yeu

Nếu như xương to nặng, đó là người cô đơn.

Dái tai quá to, lông mày giao nhau, lông mao dày, tóc mai dày, đó là người cô đơn.

Nếu vành tai lật ngược người đó thường sống một mình.

Lông mày rậm dày, chủ cô đơn.

Nếu như tiếng nói như tiếng sấm, đó cũng là người cô đơn.

Nếu như nách có mùi, cằm lệch cũng là mệnh cô đơn.

Xương gò má cao chủ về người đơn độc, cô lẻ.

Nếu như khóe miệng hướng xuống cũng chủ người cô đơn.

Tướng cô quả: Xương gò má cao, dưới mắt không có thịt 

Người có xương gò má cao, một đời cô độc, không có con nối dõi hoặc phải nhận con nuôi.

Người dái tai mỏng, sống xa cha mẹ vợ con, nhà cửa gia nghiệp phá tán, không bảo vệ được cơ nghiệp tổ tông.

Xương lông mày cao, nhiều vợ nhưng vợ phá hoại, bạc bẽo. Những người có hình tướng như thế còn lắm bệnh nhiều tật, tính khí bạo ngược, nóng nảy.

Người mà dưới mắt mỏng thịt, con gái gặp tai họa, ít khi giúp người khác, không được người ngoài quý mến.

Tướng yểu: Mặt như hoa đào, dáng đi nghiêng ngả

Người béo như không xương là tướng đoản mệnh.

Nếu người có hình tướng sau: 2 mắt không có thần, tai nhỏ vẹo, người mệt mỏi như vô thần vô khí, thân dài nhưng mặt ngắn, da mặt mỏng, lưng lõm xuống, sắc mặt giống như hoa đào, dáng đi nghiêng ngả là tướng đoản mệnh.

Tướng tản mạn: Tướng mệnh không thọ

Nếu người có hình tướng sau thì tuổi thọ không dài: Đuôi lông mày tản mạn, dái tai mỏng, khuôn mặt không hài hòa, mũi hếch, lỗ mũi lộ, trán nhọn, cằm nhọn, sống mũi lệch vẹo, da mặt lạnh, khí sắc ảm đạm, các bộ vị đều có nếp nhăn lại có nốt ruồi đen, 3 bộ vị là trán, mũi, cằm đều bằng phẳng và rộng, vẻ mặt sáng láng rạng rỡ thì người đó làm việc gì cũng thành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt của người cô đơn

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

1001 Chuyện vui Tử Vi

* Tham Lang cư Thê * Liêm, Tham Tị, Hợi * Đào, Hồng, Hình, Riêu Phong Nguyên
1001 Chuyện vui Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong KHHB Xuân Quý Sửu tôi đã có dịp kể vài câu chuyện về tử vi và nay nhân dịp Xuân Giáp Dần, tôi xin tiếp tục đưa ra một số kinh nghiệm về tử vi dưới hình thức những mẫu chuyện có thực để quý bạn vừa giải trí vừa ôn luyện tử vi

1. Tham Lang cư Thê

Tối phải thú thựa với quý bạn là tôi luôn luôn thành kiến xấu về cung Thê có Tham Lang, và do đó ôi đã chê sao này trong bài “Tìm hiểu phụ nữ qua tử vi”, đang trên KHHB mới đây, mặc dầu tôi vẫn hiểu rằng, về tử vi không bao giờ nên đặt ra một định lệ cố định. Đó cũng chỉ vì tôi đã gặp quá nhiều trường hợp rõ rệt mà sau đây tôi xin nêu ra hai “ca” điển hình

a- Một lần có người bạn giới thiệu một sĩ quan (hiện là đại úy trong QLVNCH) để nhờ tôi coi dùm về công danh, sự nghiệp. Thường thường dù lá số có giờ sinh chính xác tôi vẫn nêu ra vài chi tiết nổi bật nhất để xem xét có đúng giờ sinh hay không? Cho nên đối với lá số của vị sĩ quan này vì tôi thấy cung Thê dễ đóan nhất (có Tham Lang cư Dần hội Địa Kiếp, Lộc tồn), tôi liền hỏi thẳng đương số có phải có người vợ chỉ nghĩ đến tiền trước hết chứ chẳng có tình nghĩa gì phải không? Vị sĩ quan đó tỏ vẻ khó chịu và nói rằng chỉ cần hỏi tôi về công danh sự nghiệp chứ còn vấn đề vợ con chẳng có gì thắc mắc. nhưng tôi vẫn cứ nhấn mạnh điểm đó để kiểm sóat giờ sinh, và lúc đó đương sự bảo rằng chắc giờ sinh trật , như vậy khỏi cần coi tiếp. rồi sau vài ba câu xã giao, đương sự cùng người bạn tôi ra về, còn tôi cũng chẳng thắc mắc gì nữa vì yên trí giờ sinh sai rồi. thế rồi ngay tối hôm đó đương sự mò tới nhà tôi một mình và vội vàng thú thực với tôi qua vẻ mặt đau buồn là vợ đương sự, quả thực bê bối như tôi đã đóan. Hơn nữa đương sự còn cho biết là đương sự đang muốn li dị với vợ mà không dám thổ lộ tâm sự cùng ai, vì cho đó là điều nhục nhã xấu xa, do đó trước mặt người bạn tôi dù là thân thiết, đương sự vẫn không chịu nói thật (có lẽ vì phải giữ uy tín trong vấn đề làm ăn chăng) và ngay đối với cả tôi đương sự cũng còn giấu diếm luôn, nhưng về sau suy nghĩ thấy cần phải dựa vào tử vi để tìm phương pháp giải quyết nên đương sự mới tìm đến tôi. Đương sự còn tâm sự thêm là người vợ tuy làm ăn khá giả mà mỗi tháng cho mẹ ruột một hai ngàn đồng còn thấy tiếc, chỉ muốn rút bớt đi khiến cho đương sự phải can ngăn. Ngòai ra, đương sự có tiền phải giấu riêng hoặc phải gửi vào trương mục riêng của mình vì sợ vợ chiếm đọat hết. vì vậy đương sự chỉ muốn xin li dị và do đó phải nhờ đến tử vi. Thực ra đương sự không có chủ đích hỏi về công danh sự nghiệp mà chính ra chỉ thắc mắc về vấn đề hôn nhân, hạnh phúc vợ chồng nhưng vì tự ái và danh dự đương sự phải nói tránh ra như vậy đó thôi. Và khi đương sự gặng hỏi có thể li dị được không? Tôi không dám trả lời dứt khóat ngay mà đành bảo đương sự cho coi lá số của người vợ và của một người con rồi mới dám quyết đóan. Sau khi xem kỹ lá số này rồi, tôi quả quyết là không thể li dị được, và cho tới bây giờ đương sự vẫn chưa thực hiện được, chẳng biết về sau này ra sao. Vì danh dự của đương sự tôi giấu ngày giờ, năm tháng sanh của đương sự.

Qua mẫu chuyện trên đây quý bạn thấy Tham Lang cư Thê (nhất là ở Dần Thân) ứng với câu “Gái bạc tình Tham Sát Dần Thân” (có sách nói là nhàn cung), lại còn có Địa Kiếp thành ra xài hết nổi. Còn Lộc Tồn tuy gọi là chân nhân chi tú, nhưng đi với Tham Lang, Địa Kiếp lại trở nên quá lý tài, vụ lợi, ích kỷ, tuy kiếm ra tiền được khá giả do khả năng. Ngòai ra, tại sao tôi quả quyết là không li dị nổi? Đó chỉ vì lá số của người vợ lại quá truyền tin với người chồng (nhất là các sao xấu như Tham Lang, Địa Kiếp) và các con cái cũng truyền tin với cha lẫn mẹ cho nên mới có sự ràng buộc chặt chẽ. Thành ra người vợ trở thành “của nợ” đeo đẳng mình suốt đời.

b- Đây là trường hợp thứ nhì về Tham Lang cư Thê:Tôi chỉ xin nói sơ qua về lá số của đương sự là Mệnh cư Dần có Vũ Tướng đồng cung. “Thân” cư Quan có Tử Vi cư Ngọ. Thê có Tham Lang cư Tý hội Đào Hồng, Thiên Không. Đương số là một người hàng xóm rất thân thiết với gia đình tôi nen tôi có dịp theo dõi cuộc sống của đương sự cũng như biết rõ đời tư của đương sự. Sauk hi đương sự lập gia đình là tôi bắt đầu theo dõi hạnh phúc của đương sự có bị Tham Lang “hành” không? Chính đương sự cũng biết về tử vi nên đương sự cũng e ngại về cung Thê có Tham Lang và để tự an ủi đương sự bảo rằng ‘Tham Lang cư Thê, nghi cầu trưởng nữ” chứ đâu có gì đáng sợ (đương sự có lấy người con gái lớn nhất trong gia đình thật). Thế rồi độ năm sau năm sau, người vợ bắt đầu “đổ đốn” tới mức không thể tưởng tượng được vừa hại chồng, vừa lăng loan ngọai tình, mà tôi không tiện nêu ra chi tiết để khỏi làm buồn lòng đương số. Vì vậy đương số đã thương một người con gái khác và đi tới sống chung thực sự, có con với người này nữa. Nhưng khổ thay chỉ độ một thời gian ngắn, về sau đương số cho tôi biết là vợ sau còn tệ hại hơn nữa. Và hiện nay đương số đã có một ‘bà” thứ ba rất nết na, thùy mị, đoan trang được nhiều thầy tướng coi mặt và khen hết mình.

Đọc đến đây chắc quý bạn hơi thắc mắc là tại sao cung Thê như vậy mà cuối cùng lại có vợ tốt. Tôi xin trả lời ngay rằng nhờ cung Nô bộc rất tốt (vì cư ngay cung tuổi và có Tả Hữu hội chiếu nhiều sao tốt) cho nên ứng vào thứ thiếp đàng hòang, nết na, đắc lực, đảm đang. Nhưng tôi nghĩ rằng người vợ thứ ba này chỉ tốt khi hai người chung sống với nhau bán chính thức, nghĩa là chưa có hôn thú, chứ còn khi đã chính thức hóa cuộc hôn nhân thì sao Tham Lang tại cung Thê lại có dịp họat động. Tuy nhiên, điều này thuộc về tương lai chưa thể biết có ứng nghiệm hay không.

Nói tóm lại qua hai mẫu chuyện trên đây, mỗi khi quý bạn gặp trường hợp cung Thê có Tham Lang, Địa Kiếp, Đào Hồng… (là một trong những cách tôi chê nhất), quý bạn cần chú trọng tới cung Nô Bộc để xem có vớt vát được vấn đề hạnh phúc hôn nhân hay không? Ngòai ra nếu có thể được cầm xem có truyền tin hay không để quyết đóan về vấn đề có thay đổi được cuộc sống vợ chồng không. Trường hợp trên nếu không truyền tinh là may, còn ngược lại ráng mà … chịu.

2. Liêm-Tham Tỵ Hợi

Ai học tử vi mà chẳng biết câu “Liêm Tham Tỵ Hợi hình ngục nan đào”, cũng chỉ vì câu này khiến tôi phải chú tâm nghiên cứu tử vi và đã thắc mắc nhiều nhất về sự chính xác của khoa tử vi. Tôi còn nhớ hồi tôi mới biết sơ qua về tử vi, tôi có được coi khá nhiều lá số có Liêm-Tham Tỵ, Hợi và nghiệm thấy có vài trường hợp rất đúng, nhưng lại có nhiều trường hợp sai hẳn, mặc ầu giờ sinh đúng, vì có người bị tù lên tù xuống nhưng có người chẳng bao giờ biết một ngày giam giữ. Vì vậy tôi rất bực mình và bèn làm mộ “collection” riêng về các lá số có Liêm Tham Tỵ Hợi, rồi khi thấy ai bị tù tội, giam cầm là tôi viết ngay một chữ “Tù’ duy nhất thật to trên lá số của đương số, để chiêm nghiệm riêng về khía cạnh đó chứ chẳng hề chú ý với điểm khác. Thế rồi một hôm, vì sơ ý để “râu ông này cắm cằm ba kia”, tôi đã viết chữ “Tù” lên trên một lá số của người bạn thân chưa hề bị giam giữ. Và nếu chỉ có thế thôi thì đâu có sao, nưng khổ một nỗi là tôi đã để người bạn đó thấy khi anh ta đến chơi, khiến anh ta cứ tưởng tôi biết chắc là anh thế nào cũng bị tù nên mới viết chữ to như thế trên lá số. Phải chi anh hỏi tôi thì cũng dễ giải thích, nhưng anh đã làm thinh để trong lòng và từ đó vẻ mặt luôn đăm chiêu, chẳng dám họat động, làm gì cả mặc dù anh ta có bằng cấp cao, có tài năng đến nỗi sau một năm trông anh già hẳn đi và đùng một hôm tôi được tin anh ta bị giam giữ vì bị nghi oan gì đó. Khi ấy tôi vội vàng mở lá số của anh tar a coi thì thấy đã có sẵn một chữ “Tù” to tướng ghi trên lá số anh ta. Tuy tôi biết mình đã biên lộn nhưng thấy ngẫu nhiên ứng nghiệm, tôi đâm ra mê tín cho rằng đó là cái điềm xấu cho anh.

Nhờ sư tập nhiều lá số Liêm-Tham Tỵ, Hợi và sau khi tham khảo nhiều vị tử vi cao thâm, tôi xin trình bày cùng quý bạn về khía cạnh này:

- Trước hết tôi cần nói rằng Liêm-Tham Tỵ, Hợi chủ về người ưa thích mạo hiểm, ưa làm liều, rất can đảm, thích đảm trách hoặc hay phải đảm trách những chuyện bí mật rắc rối, làm việc gì cũng mau mắn lanh lẹ, quả quyết, và những đặc tính này người có Liêm-Tham Tỵ, Hợi dễ bị vướng vào vòng pháp luật, hoặc nghi oan, liên lụy, nhưng còn phải tùy thuộc các sao phụ mới có thể quyết đóan như vậy được. Ngòai ra tôi xin nói thêm (điểm này không ăn nhằm gì với tù tội) để quý bạn tùy nghi áp dụng, là người Liêm – Tham Tỵ, Hợi còn hay có năng khiếu về máy móc, điện khí hoặc về ngành tư pháp (như Luật sư, thẩm phán) nếu có thêm các sao khác bổ túc.

- Vì những đặc tính trên, muốn tránh được tù tội. Liêm-Tham cần xa lánh được Cô Thần, Quả Tú, Thiên Hình, Không Kiếp, Kình Đà, Tuế Phục. Nếu gặp đủ hết các sao này thì quả thực câu phú trên rất đúng. Có nhà tử vi sợ Hóa Kỵ, Thiên Không đồng cung với Liêm Tham nhưng thực ra hai sao này đồng cung lại giải được hết sự xấu xa, tù tội. Ngòai ra, nếu Liêm Tham lại gặp được Tả Hữu, Lộc Tồn thì thực là rất hay (chưa cần thêm các sao tốt khác), nghĩa là sẽ trở thành một người nổi bật trong quần chúng về tài năng, chứ không hẳn về bằng cấp, văn hóa.

- Nếu chỉ có Liêm-Tham Tỵ Hợi không thôi, nghĩa là tránh được các sao xấu kể trên và cũng không có cách nào tốt phụ thêm, thì người đó chỉ làm được những chuyện về chân tay như thợ máy, thợ mộc … và không đảm đương được việc quy mô, rộng lớn, còn việc tù tội, tuyệt nhiên không có gì ứng nghiệm.

3. Đào Hồng, Hình, Riêu

Qua câu chuyện tôi sắp kể dưới đây, tôi nhận thấy rằng, về tử vi nếu chỉ biết lơ mơ không những chẳng có ích gì mà có khi còn bất lợi cho mình. Đó là trường hợp một anh bạn tôi như sau:

Anh ta mới học tử vi được vài tháng nhưng lúc nào cũng tự cho mình là thấu triệt về tử vi vì của đáng tội anh rất thong minh và nhớ dai, các câu phú anh thuộc làu làu, nhưng về phần kinh nghiệm thì đương nhiên chưa có gì. Khi anh ta tới tuổi lập gia đình (đây tôi nói hồi anh còn niên thiếu trẻ trung) anh rất kén chọn ý trung nhân vì dù sao anh cũng nhiều tài năng, bằng cấp cao lại đẹp trai thì thiếu gì gái theo đuổi, ưng chịu. Thế rồi anh để ý một thiếu nữ còn đang đi học (Trung Học) rất duyên dáng, dễ thương và đoan trang nết hạnh, và anh đi tới chỗ yêu thương say đắm, nhưng khổ một nỗi khi xem tử vi cho nàng anh lại đâm ra thất vọng và lần lần đi tới chỗ chán chường. Tôi lấy làm lạ hỏi anh và anh tâm sự rằng anh không dám tiến tới hôn nhân với cô ta, vì thấy cung Mạng “Thân” (cư Tài) có đủ cả Đào Hồng Hình Riêu lại thêm Xương Khúc, Tả Hữu thì chắc là hư đốn lắm. Anh còn lý luận thêm rằng nếu không chạm vào câu phú “Hình Riêu phận gái long đong” thì cũng vướng vào câu “Đào Riêu số gái ai hay, chồng ra khỏi cửa, dắt tay trai vào”, tuy các sao ấy không đồng cung thì ảnh hưởng nhẹ đi.

Sau khi nghe anh bạn tôi lý luận về tử vi như vậy, tôi cũng e dè vì hồi đó tôi cũng chỉ là tay “ăn dong” về khoa này, cho nên tôi đành làm thinh tuy trong thâm tâm chưa đồng ý mà còn nghĩ rằng cô ấy không hư hỏng mà còn có thể giúp ích cho chồng bằng khả năng của mình. Hơn nữa cứ theo cách thức ăn nói và hình dáng của cô ta, dù cho người không biết coi tướng mặt cũng phải công nhận cô ta đoan trang nết hạnh. Tuy vậy tôi vẫn không dám khuyên anh bạn tôi tiến tới, vì sợ có chuyện gì ngang trái, đổ vỡ xảy ra thì mình đâm ra ân hận.

Độ chừng 5 năm sau, tình cờ tôi gặp lại người vợ hụt của anh bạn tôi và được biết cô ta học được dở dang rồi xoay sang học giải phẫu thẫm mỹ và sửa sắc đẹp. Ngòai ra cô còn cho biết đã lập gia đình, chồng làm bác sĩ và rất hạnh phúc, gián tiếp chứng tỏ cô ta không có gì trắc nết hoặc hại chồng: trái lại cô ta rất đắc lực với chồng về phương diện tài chính, cũng như quán xuyến việc nội trợ. Và sau khi gặp cô, tôi vội đến nhà của anh bạn tôi để nói rõ sự thực cho anh ta tha hồ tiếc rẻ, nhưng ai ngờ chính anh bạn tôi cũng mới gặp cô ta và định chạy lại nhà tôi tâm sự về chuyện đó, đồng thời thảo luận với tôi về tử vi trên khía cạnh đó. Với gương mặt thơ thẩn anh tỏ ý hối hận và luyến tíêc người đẹp thủa xưa đồng thời mạt sát khoa tử vi quá cỡ.

Khi ấy tôi đã tiến bộ nhiều về tử vi và hơn nữa thấy được thực tế đã bày tỏ trước mắt, nên tôi liền lên tiếng bênh vực tử vi và nói với anh ta rằng Đào Hoa, Hồng Loan cư Tài Bạch (có cả “Thân” đóng ở đó) ứng vào việc mưu sinh bằng mỹ thuật như họa sĩ, giải phẫu thẫm mỹ, hoặc sửa sắc đẹp; Xương-Khúc chứng tỏ có ăn có học đàng hòang về ngành chuyên môn chứ không phải chỉ làm quen tay; Tả - Hữu thì chủ về giúp ích cho đời và nếu phụ trách về sửa sắc đẹp thì cũng là một cách giúp đời: Thiên Hình ứng cho dao kéo, giải phẫu; Thiên Riêu-Thiên Y tượng trưng cho thuốc men dùng trong khi giải phẫu hoặc sửa sắc đẹp. Ngòai ra tôi còn nhớ lá số của cô ta có Khoa, Quyền, Lộc nữa thì làm sao bê bối được, chỉ khổ một nỗi là sự việc đã xảy ra rồi mà có lý luận hay cách mấy, cũng bị bạn tôi cho là nói dựa. Nhưng dù sao đó cũng là một cách học tử vi, phải không quý bạn ?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 1001 Chuyện vui Tử Vi

Thay đổi phong thủy để tìm được công việc tốt

Một công việc không chỉ đem lại cho bạn thu nhập mà caonf là cách hòa nhập xã hội và khẳng định năng lực bản thân. Những mẹo phong thủy dưới đây có thể giúp
Thay đổi phong thủy để tìm được công việc tốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Bạn đang tìm một công việc mới? Bạn đang căng thẳng để bắt đầu sự nghiệp? Một công việc không chỉ đem lại thu nhập mà còn là hình thức hòa nhập xã hội và sự khẳng định khả năng của một cá nhân. Một công việc làm cho bạn hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu, tình cảm và tài chính. Có thể những mẹo phong thủy nho nhỏ dưới đây sẽ giúp bạn tìm được nó.  


1. Đặt ảnh những người có sự nghiệp và thành tựu nghề nghiệp mà bạn ngưỡng mộ ở khu vực phía Bắc của căn phòng. Khu vực này kết nối với dòng chảy năng lượng trong cuộc sống nghề nghiệp của bạn, cũng được gọi là đường dẫn tới cuộc sống. 

Thay doi phong thuy de tim duoc cong viec tot hinh anh
Những người có sự nghiệp thành công sẽ là nguồn cảm hứng cho bạn
 
2. Bạn cũng có thể treo những hình ảnh tươi sáng, rạng rỡ ở phía Tây Bắc để kích hoạt năng lượng hỗ trợ vận may khi có sự điều chuyển hoặc bắt đầu, đẩy nhanh tiến độ tìm được công việc của bạn.
 
3. Phía Tây Bắc treo một chiếc chuông bằng kim loại hoặc một khung ảnh viền kim loại. Phía Bắc đặt đồ vật thuộc yếu tố Thủy (gương, bể cá, vật trang trí màu xanh, đen). Đây là khu vực tượng trưng cho sự nghiệp của bạn. Cũng đừng quên chú ý tới phía Đông Nam – vị trí của tiền tài và sự giàu có. 

Thay doi phong thuy de tim duoc cong viec tot hinh anh 2
Đặt gương hoặc đồ vật viền kim loại ở phía Bắc căn phòng

4. Hãy chắc chắn rằng trong phòng bạn cửa trước không bị chặn, tủ quần áo không tồn trữ quá nhiều, có không gian mở dưới giường và không quá lộn xộn. 

Thay doi phong thuy de tim duoc cong viec tot hinh anh 3
Sắp xếp phòng ở gọn gàng 
 
Treo chuông quanh nhà thay vì gửi hồ sơ xin việc hay gặp gỡ với những người phù hợp sẽ là sự lãng phí lớn về thời gian. Phong thủy nên được sử dụng hợp lý trong những nỗ lực tìm kiếm công việc của bạn. Chăm sóc tốt năng lượng của mình bằng cách tập thể dục, ăn uống đầy đủ, sống trong môi trường phong thủy tốt và giữ thái độ tích cực, lạc quan; bạn sẽ có được công việc xứng đáng. Nó có thể đến rất bất ngờ, vì vậy hãy kiên trì và tỉnh táo.    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thay đổi phong thủy để tìm được công việc tốt

Tử vi Nhâm Ngọ phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

NHÂM NGỌ: DƯƠNG LIỄU MỘC Trong tử vi Nhâm Ngọ là ngựa chinh chiến, cá tính cương cường nóng nảy, tâm tính lương thiện, có phong thái của bậc quân tử, không có hành vi của kẻ tiểu nhân. Dương liễu Mộc thướt tha dịu dàng ở sườn đê, mềm mại ỏ trong vườn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NHÂM NGỌ: DƯƠNG LIỄU MỘC

Trong tử vi Nhâm Ngọ là ngựa chinh chiến, cá tính cương cường nóng nảy, tâm tính lương thiện, có phong thái của bậc quân tử, không có hành vi của kẻ tiểu nhân.

Dương liễu Mộc thướt tha dịu dàng ở sườn đê, mềm mại ỏ trong vườn, lá liễu mảnh mai, cành liễu buông rủ.

Mộc nhu hòa, cành nhỏ mềm. Mộc có thể sinh Hỏa, nhưng Hỏa nhiều là tượng thiêu rụi. Tuy Kim sinh vượng cũng không thể làm thương hại, đắc Kim chủ về quý.

Thủy, Thổ thịnh cũng chủ về quý, duy kỵ Giáp Ngọ Sa trung Kim. Vì có thể làm thương hại Mộc này.

tuoi.ngo_.2

Trong tử vi Nhâm Ngọ Mộc tự tử, hồn bay mà thần khí linh tú. Người bẩm thụ được nó có đức sáng vượt trội, là người nhân nghĩa, dũng mãnh, lập được công trạng, chủ về trường thọ.

Mộc này ưa Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ. Không ưa Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ. Nếu như có Đinh Hợi ốc thượng Thổ, Đinh Nhâm hợp hóa là tượng cát lợi.

Thủy gặp Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy; Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy, Đinh Sửu Giản hạ Thủy đều cát lợi, sẽ có thành tựu.

Mộc này tự có Hỏa, cho nên không nên lại gặp Hỏa khác, phạm phải chủ về thương hại đến tuổi thọ.Vì vậy, ngũ trụ không ưa gặp Bính Ngọ, Đinh Mùi, chủ về đại hung, e khó tránh họa hỏa hoạn.

Gặp Đinh Mão Lư trung Hỏa chủ cát lợi. Bởi vì Đinh lộc tại Ngọ, Nhâm quý tại Mão. Nếu như gặp Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa, lại có Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ làm nền tảng, chủ về sang quý.

Kỵ gặp Tý xung, phạm phải chủ về con cái duyên bạc, cả đời không yên ôn.

Gặp Kim không tốt, duy Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim; Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim trợ giúp có thể thành công.

Ưa gặp Canh Dần, Tân Mão Tùng bách Mộc, chủ phú quý, trước nghèo sau giàu, hơn nữa chủ về sang quý, có thành tựu, mệnh tốt.

Cũng ưa Quý Sửu Tang đố Mộc làm núi, làm chỗ dựa thành rừng, chủ cát lợi. Không ưa có Canh Thân, Tân Dậu Thạch lựu Mộc, chủ nghèo hèn, phú quý không được dài lâu. Trong tác phẩm Thuật Đăng hạ lại nhấn mạnh: “Trước tiên phải xem ngũ trụ, sau mối kết hôn” là chỉ ý này vậy. Nếu lấy người có ngũ trụ không tốt e rằng gia đạo suy bại, muôn sự trắc trở

Nếu như gặp Canh Thân, Tân Dậu Thạch lựu Mộc thì sinh vào mùa xuân và mùa hạ là quý cách, Không luận là nghèo hèn, gọi là Hoa hồng liễu lục cách.

Sinh vào 3 tháng mùa xuân, thời trụ đắc Kim, ví dụ như Tân Hợi Thoa xuyến Kim, At Sửu Hải trung Kim, Quý Mão Kim bạc Kim, Tân Tỵ Bạch lạp Kim, chủ cát lợi, gọi là Dương liễu đà Kim cách.

Nhâm Ngọ không vong tại Thân, Dậu, Địa chi của các trụ khác không ưa gặp Thân, Dậu. Nếu như nhật trụ gặp Thân, Dậu, chủ về bạn đời mất trước. Thai trụ gặp Thân, Dậu, là người ngu muội, cả đời phiêu dạt, cuối cùng tay trắng vẫn hoàn trắng tay.

Nhâm quý tại Mão, Địa chi của các trụ khác gặp Mão, chủ cát lợi.

Nhâm lộc tại Hợi, cát lợi nhưng trong cát ẩn tàng hung họa. Vì người sinh năm Ngọ có Hợi phạm Kiếp sát. Nếu như tọa nhật trụ, bạn đòi mất trước. Nếu như tọa thời trụ, không được con cái hiếu thuận phụng dưỡng, chủ về con cháu nghèo khô, ngu dốt.

Nếu như gặp 2 Hợi, cả đòi nghèo khổ, là người cố chấp bảo thủ, làm việc không đến nơi đến chốn.

Bạn đời không nên lấy người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh.

Địa chi của các trụ khác có Ngọ, là người cố chấp bảo thủ, tầm nhìn nông cạn,  vợ chồng duyên bạc.

Nhật chi có Tuất, chủ về khắc chết 2 hoặc trên 2 bạn đời.

Nhật chi có Tuất, nên theo tôn giáo.

Gặp năm Ngọ, năm Tý, phạm Phục ngâm, Phản ngâm, trong nhà không yên. Nếu như không thương hại đến bản thân cũng thương hại đến người nhà.

Nhật chi có Thìn, chủ về phá tướng.

Ngọ mã tại Thân, khi đi máy bay nên mua bảo hiểm du lịch.

Địa chi của các trụ khác có Dần, mã bị hình bị xung, cả đời vất vả, bỏ mạng nơi  đất khách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Nhâm Ngọ phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Những điều cấm kị trong 15 ngày đầu năm mới

Theo quan niệm xưa, ăn nói, hành động trong suốt những ngày đầu năm phải cẩn trọng để cả năm được sung túc, đủ đầy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Nguyên đán là ngày lễ quan trọng nhất trong năm. Thời điểm đất trời giao hòa là lúc gia đình sum họp đón một năm mới đã sang. Theo tục lệ truyền thống, trong những ngày này, mọi người cần có những chú ý trong hành động, lời nói để lấy 'hên' cho cả năm rực rỡ.

Chuẩn bị trước Tết

- Trang trí nhà đón Tết

Mỗi đường phố, công trình và ngôi nhà ngày Tết hay được trang trí bằng màu đỏ chủ đạo. Màu đỏ được coi là đem đến may mắn. Mọi người quét dọn, lau chùi sạch sẽ bụi bẩn, mạng nhện - đại diện cho sự xui xẻo trong năm cũ, từ trong ra ngoài. Sau đó, trang trí thêm bằng câu đối đỏ, hoa tươi để mang không khí xuân vào nhà. Năm 2016 là năm Bính Thân, mệnh Hỏa hạ sơn nên hầu hết đồ trang trí đều liên quan đến chú khỉ đỏ.

Công việc trang trí nhà đón Tết sẽ được hoàn thành trước thời điểm giao thừa bước sang năm mới.

- Bữa cơm Tất niên

Bữa ăn tối trước đêm giao thừa năm mới được gọi là "bữa cơm Tất niên", và được cho là bữa ăn quan trọng nhất trong năm. Tất cả mọi người trong đại gia đình, thuộc nhiều thế hệ, sẽ ngồi quanh mâm cơm và thưởng thức các món ăn bên nhau.

Những việc nên và không nên làm trong ngày đầu năm mới

Người Việt Nam tin rằng sự khởi đầu ảnh hưởng đến cả năm. Vì vậy, mọi người có rất nhiều những điều cấm kị không được làm trong những ngày đầu năm mới, thường là từ mùng 1 cho đến 15 Âm.

 nhung dieu cam ki trong 15 ngay dau nam moi - 1

 nhung dieu cam ki trong 15 ngay dau nam moi - 2


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cấm kị trong 15 ngày đầu năm mới

Những kiêng kỵ Rằm tháng Giêng để tránh vận đen đủi

Không riêng gì kiêng kỵ rằm tháng Giêng, các ngày Tết, ngày mùng 1, ngày rằm thường, bạn nên kiêng khem một số điều sau để tránh đen đủi.
Những kiêng kỵ Rằm tháng Giêng để tránh vận đen đủi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người quan niệm, không riêng gì kiêng kỵ Rằm tháng Giêng mà các ngày Tết, ngày mùng 1 hay ngày rằm thường, bạn nên kiêng khem một số điều sau để tránh vận hạn đen đủi, điều không may mắn.

 

Đối với ngày Rằm, theo quan niệm phương Đông thì có một số điều kiêng kỵ rằm tháng Giêng để tránh vận hạn đen đủi, điều không may mắn như sau:

Kiêng câu cá ngày trăng tròn

 
Nhung kieng ky Ram thang Gieng de tranh van den dui hinh anh
 
Theo quan niệm tâm linh của người Việt, hành động câu cá vào ngày rằm sẽ mang lại cho người đó vận hạn đen đủi. Chính vì điều này, vào ngày rằm người ta thường không đi câu cá.

Kiêng nói bậy, chửi tục

  Nói bậy chửi tục chắc chắn cũng phản ánh một phần nào đó văn hóa của mỗi người. Đây cũng là điều mà rất nhiều người kiêng kỵ để không xuất hiện trong những ngày đầu tháng.   Nhiều người quan niệm nếu đầu tháng, rằm mà nói bậy chửi tục thì cả tháng sẽ gặp những chuyện thị phi.  

Kiêng quan hệ nam nữ

 
Nhung kieng ky Ram thang Gieng de tranh van den dui hinh anh 2
 
Trong ngày Tết, mùng 1, ngày rằm, người phương Đông có quan niệm kiêng khem, tránh việc gần gũi nam nữ. Bởi lẽ, theo quan niệm cổ xưa, việc quan hệ nam nữ vào những ngày này sẽ dẫn đến những điều vận hạn đen đủi, không may mắn, thậm chí là đại hạn.   Hiện nay, quan niệm này tuy đã không còn nặng nề như trước nhưng trên thực tế, không ít cặp vợ chồng vẫn khiêng khem và đại kỵ chuyện ấy trong những thời khắc nhạy cảm. Xem thêm: Lý giải vì sao kiêng kị “mây mưa” vào ngày rằm, mùng một  

Kiêng sinh con gái vào ngày rằm

  Dân gian vẫn có câu "trai mồng một, gái ngày rằm" ý muốn chỉ những bé trai sinh ngày mùng 1 và bé gái sinh ngày rằm thường rất "khó nuôi". Vì vậy nên tránh sinh con vào những ngày này.   Đã có nhiều cách lý giải khác nhau về tục kiêng kỵ này nhưng không phải lý giải nào cũng thực sự thuyết phục.   Dưới góc độ lý học Đông Phương, mỗi người sinh ra đều chịu ảnh hưởng của không gian và thời gian (tượng trưng là các chòm sao). Theo đó, Mặt Trăng tượng trưng bởi sao Thái Âm mang năng lượng âm.   Vì vậy, vào ngày rằm khi trăng tròn, Thái Âm sẽ vượng nhất, năng lượng âm đạt cực đại, con gái sinh vào ngày này sẽ là cực âm thành ra cá tính, khó dạy dỗ.   Tuy nhiên hiện nay, quan niệm này không còn mấy ai tin tưởng và thực hành theo. Vì con cái trời sinh, sinh con ra dù trai hay gái và vào ngày nào nếu khỏe mạnh cũng đều đáng quý.

Tìm hiểu thêm: Tục kiêng kỵ sinh con “Trai mồng một, gái ngày rằm”
  * Trên đây chỉ là những quan niệm dân gian, được truyền miệng từ xa xưa, nên chỉ mang tính chất tham khảo. Cuộc sống là do chúng ta quyết định, không phải chỉ vài điều kiêng kỵ mà ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày. 


Infographic: Bí quyết gia tăng vận đào hoa tuyệt diệu nhất ngày Rằm Tháng Giêng
Rằm Tháng Giêng ở Việt Nam còn gọi là ngày vía Phật Tổ, nhưng ít ai biết rằng Rằm Tháng Giêng còn được coi là mùa Valentine phương Đông. Thơ Đường xưa đã viết:
Rằm tháng Giêng: Cúng vào ngày 14 hay 15 và giờ nào tốt nhất?
Vào ngày rằm tháng Giêng (Tết Nguyên Tiêu), mọi gia đình thường đi lễ chùa đồng thời làm lễ cúng Phật và gia tiên để cầu mong những điều tốt lành cho bản thân
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kỵ Rằm tháng Giêng để tránh vận đen đủi

Vị trí nốt ruồi trên cơ thể nói gì về bạn

Một cuộc sống giàu sang đang chờ bạn trong tương lai với đầy danh vọng, thành công và tiền bạc nếu bạn có nốt ruồi bên phải trán.
Vị trí nốt ruồi trên cơ thể nói gì về bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nốt ruồi ở cằm

vi-tri-not-ruoi-tren-co-the-noi-gi-ve-ban

Bạn biết tự cân bằng, điều hòa cuộc sống. Đặc biệt, bạn khiến người khác khó cưỡng lại được sức hút của bản thân.

2. Nốt ruồi bên phải trán

vi-tri-not-ruoi-tren-co-the-noi-gi-ve-ban-1

Một cuộc sống giàu sang đang chờ bạn trong tương lai với đầy danh vọng, thành công và tiền bạc.

3. Nốt ruồi bên má phải

vi-tri-not-ruoi-tren-co-the-noi-gi-ve-ban-2

Sự lạc quan, vui vẻ với tâm hồn lãng mạn là những từ rất phù hợp để nói về bạn.

4. Nốt ruồi bên má trái

vi-tri-not-ruoi-tren-co-the-noi-gi-ve-ban-3

Bạn sống nội tâm, khép kín và luôn bí ẩn trong mắt người khác.

5. Nốt ruồi ở ngực

vi-tri-not-ruoi-tren-co-the-noi-gi-ve-ban-4

Bạn thích những thứ đồ xa xỉ và sự nhàn hạ trong cuộc sống.

6. Nốt ruồi ở mũi

vi-tri-not-ruoi-tren-co-the-noi-gi-ve-ban-5

Bạn nóng tính nên xử lý nhiều vấn đề rất vội vàng . Dù vậy, bạn lại là một tay chơi chính hiệu trên tình trường đấy nhé.

7. Nốt ruồi trong lòng bàn tay

vi-tri-not-ruoi-tren-co-the-noi-gi-ve-ban-6

Nốt ruồi ở lòng bàn tay phải cho thấy bạn có số giàu sang trong tương lai, không cần lo đến cái ăn mặc. Còn nếu ở lòng bàn tay trái, bạn có tính cách bốc đồng, nóng nảy.

Xem tiếp

                                                        Dung Nguyen (theo Diply)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị trí nốt ruồi trên cơ thể nói gì về bạn

Tuần - Triết và những dấu hỏi

Sao Tuần Không và Sao Triệt Lộ (Tuần và Triệt) là hai sao đặc biệt quan trọng trong lá số tử vi, nó ảnh hưởng tới cung, chi phối các sao, thay đổi cường độ mạnh yếu, tốt xấu của mỗi sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Trích trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến)

Trong Tử Vi, khi luận bàn về ảnh hưởng của các sao, người luận giải thường lúng túng khi gặp 2 sao Tuần - Triệt bởi lẽ quan điểm của cổ nhân về 2 sao này bất nhất về ngũ hành và cường độ, thời gian ảnh hưởng nên còn rất nhiều tranh cãi và nghi vấn khi luận giải lá số. Chính vì sự bất nhất đó mà người coi số phải lưỡng lự rất nhiều khi đưa ra lời kết luận trong nhiều trường hợp.

Dù sao thì đây cũng là hai sao đặc biệt quan trọng trong các sao của Tử Vi vì Triệt - Tuần không chỉ chi phối các cung mà còn chi phối các sao, biến tốt thành tương đối xấu, xấu thành bớt xấu... nên Triệt - Tuần cần được cân nhắc cẩn trọng khi đưa ra lời luận giải.

sao tuần triệt trong tử vi

Có 4 quan điểm về ngũ hành của Triệt - Tuần:

  • Quan điểm thứ nhất cho rằng: Triệt hành Kim (đới Thủy), Tuần hành Hỏa (đới Mộc)
  • Quan điểm thứ hai cho rằng: Triệt - Tuần không mang hành cố định mà phụ thuộc vào hành của cung mà Triệt - Tuần án ngữ.
  • Quan điểm thứ ba cho rằng: Triệt hành Kim, Tuần hành Thủy.
  • Quan điểm thứ tư cho rằng: Triệt hành Hỏa, Tuần hành Thổ.

Trong 4 quan điểm trên thì phần nhiều người xem số chọn quan điểm thứ nhất cho Triệt hành Kim, Tuần hành Hỏa, sau đó là quan điểm thứ hai cho rằng Triệt - Tuần mang hành của cung án ngữ, còn quan điểm thứ ba, thứ tư rất ít người chọn (nhất là quan điểm thứ tư).

Trong phạm vi bài viết này, người viết trình bày sơ lược một số điểm về Triệt - Tuần mà người học Tử Vi cần lưu ý.

1. ẢNH HƯỞNG CHUNG CỦA TUẦN - TRỆT

Tuần, Triệt án ngữ hai cung và có cường độ ảnh hưởng lên hai cung khác nhau theo nguyên tắc được ước lượng như sau:

Người Dương Nam, Dương Nữ thì cung Dương bị ảnh hưởng hơn cung Âm, cụ thể cung Dương chịu 70%, cung Âm chịu 30% cường độ.

Người Âm Nam, Âm Nữ thì cung Âm bị ảnh hưởng nhiều hơn cung Dương, cụ thể ước lượng cung Âm chịu 70%, cung Dương chịu 30% cường độ.

Khi bị ảnh hưởng mạnh thì ta thường nói bị đương đầu, bị ảnh hưởng yếu thì ta nói bị chận (chặn) đuôi.

Triệt ảnh hưởng mạnh mẽ trong thời gian 30 năm đầu, tùy theo Cục mà có khác biệt (như Thủy nhị cục thì 32 năm đầu), sau đó thì từ từ yếu đi nhưng không thể coì là không có ảnh hưởng. Tại các cung Kim, Triệt có tác động mạnh nhất.

Tuần thì ngược lại, ảnh hưởng không đáng kể vào khoảng 30 năm đầu, nhưng sau 30 tuổi sẽ mạnh dần lên nhưng không ảnh hưởng mạnh mẽ bằng ảnh hưởng của Triệt khi Triệt ở 30 năm đầu. Tại các cung Hỏa, Tuần có tác động mạnh nhất.

Cường độ ảnh hưởng của Tuần Triệt tạm sắp xếp theo thời gian như sau:

- Dưới khoảng 30 tuổi:

  1. Triệt đương đầu: Mạnh nhất
  2. Triệt chặn đuôi: Mạnh nhì
  3. Tuần đương đầu: Yếu nhì
  4. Tuần chặn đuôi: Yếu nhất

- Trên khoảng 30 tuổi:

  1. Tuần đương đầu: Mạnh nhất
  2. Tuần chặn đuôi: Mạnh nhì
  3. Triệt đương đầu: Yếu nhì
  4. Triệt chặn đuôi: Yếu nhất

Trong từng trường hợp trên cũng có biến động riêng, bởi quá trình thay đổi của Tuần Triệt là quá trình biến đổi: Tuần thì từ từ mạnh lên, Triệt thì từ từ giảm xuống. Như vậy trong trường hợp nếu Tuần chặn đuôi thì nhẹ nhất vào lúc 1 tuổi và mạnh nhất vào khoảng 30 tuổi, còn Triệt đương đầu thì mạnh nhất vào lúc 1 tuổi và giảm dần ảnh hưởng theo thời gian, đến ngoài 30 tuổi thì ảnh hưởng của Triệt giảm đáng kể.

2. ẢNH HƯỞNG CỦA TUẦN - TRIỆT VỚI CÁC CUNG

Thông thường khi đóng tại cung nào thì Tuần - Triệt sẽ gây trục trặc cho cung đó bất kể là đương đầu hay chặn đuôi, trừ khi đóng tại cung Vô chính Diệu trong trường hợp không có hung tinh đắc địa hoặc tại cung Tật Ách thì lại tốt. Chưa cần coi các sao trong cung, chỉ cần căn cứ vào sự án ngữ của Triệt - Tuần người coi số cũng có thể nêu sơ lược được vài điểm trong cuộc sống của đương số.

MỆNH: Tuần - Triệt đóng tại Mệnh thì thuở nhỏ cực khổ gian nan (nhưng nếu gặp chính tinh lạc hãm thì sẽ đỡ hơn), Tuần - Triệt đóng tại Thân (cung an Thân) thì khi lập nghiệp sẽ gặp khó khăn ban đầu, nhưng nếu chặn đuôi thì đỡ hơn. Thân Mệnh đồng cung gặp Tuần - Triệt đương đầu thì nếu trước 30 tuổi đã có sự nghiệp thì tất sự nghiệp đó bị gãy đổ rồi mới bắt đầu lại trong giai đoạn lập thân.

Nhìn chung khi Tuần - Triệt đóng tại Mệnh (Thân) thì đương số là người chật vật trong cuộc sống (hoàn cảnh sống không may mắn, công lao được hưởng không xứng đáng...), hoặc lúc sinh ra mình cha mẹ thường làm ăn vất vả, nghèo hèn (nhất là lá số có Tuần - Triệt liên cung tại Mệnh - Phụ Mẫu). Đồng thời đây cũng là mẫu người lười biếng, kém thông minh, yếm thế, thiếu tự tin, không có ý chí vươn lên trong cuộc sống... nếu không được nhiều cát tinh, văn tinh hội chiếu về Mệnh (Thân) hóa giải.

QUAN: Tuần Triệt đóng tại Quan thì gây trục trặc cho quan trường, nghề nghiệp như lận đận, hay phải thay đổi, không bền vững, thăng giáng thất thường... Tùy theo bị chặn đuôi hay đương đầu và gặp Tuần hay Triệt mà lận đận nhiều hay ít.

Vì quan trường có ý nghĩa nổi bật trong giai đoạn lập thân nên cần chú ý phân biệt giữa Tuần và Triệt vì Tuần có tác dụng mạnh hơn về hậu vận còn Triệt chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ giai đoạn trước 30 tuổi nên khi cung Quan gặp Triệt sẽ đỡ hơn gặp Tuần khá nhiều.

TÀI BẠCH: Tuần - Triệt đóng tại cung Tài thì tiền bạc tụ tán, lúc có lúc không (trừ khi vào đại vận tốt) và thường bị gặp khó khăn khi kiếm tiền. Cho dù sự hội tụ của các sao thế nào (ngoại trừ trường hợp cung Tài vô chính diệu, được Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu về) thì Tuần - Triệt đóng tại cung Tài cũng khẳng định đương số không thể giàu có lớn được, nhất là khi cung tài bị Tuần án ngữ.

THIÊN DI: Tuần - Triệt đóng tại cung Thiên Di thì đương số ra ngoài thường không được lợi, tuy nhiên nếu ly hương thì lại tốt hơn nhiều.

ĐIỀN TRẠCH: Tuần - Triệt đóng tại cung Điền thì không được hưởng di sản của cha mẹ để lại, phải tự lập và thường bị trục trặc trong vấn đề mua bán điền sản. Cũng như cung Tài, nếu tại cung Điền có Tuần Triệt án ngữ thì chắc chắn đương số không thể có nhiều điền sản lớn được, ngoại trừ trường hợp cung Điền vô chính diệu được Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu về.

PHÚC ĐỨC: Tuần - Triệt đóng tại cung Phúc thì khiến họ hàng ly tán, không ở gần nhau, thường phải ly hương

PHU THÊ: Tuần - Triệt đóng tại cung Phu Thê thì gây trục trặc cho tình duyên hôn nhân như tình đầu tan vỡ, lập gia đình trễ... Nếu lập gia đình sớm thì gia đạo bất hòa dễ đưa đến chia ly. Tuần - Triệt đóng tại cung Phu Thê cũng là yếu tố đưa đến số phận không chồng không vợ nếu cung Phúc vô chính diệu và hội tụ nhiều sao xấu.

Cung Phu Thê xấu xa mờ ám thì nên gặp Tuần hơn là gặp Triệt vì nếu gặp Tuần thì về sau gia đạo dễ hạnh phúc hơn gặp Triệt, còn cung Phu Thê đẹp đẽ nếu gặp Triệt thì tuy có bị trục trặc ban đầu nhưng về sau thì vợ chồng cũng sống được với nhau đến đầu bạc răng long ...

NÔ BỘC: Tuần - Triệt đóng tại cung Nô thì bạn bè, người giúp việc lúc tụ lúc tán, không bền, khó kiếm được người giúp việc trung thành, cũng khó có được những người bạn tri âm tri kỷ.

TỬ TỨC: Tuần - Triệt đóng tại cung Tử thì gây trục trặc cho đương số về vấn đề con cái như không có con, muộn có con, hoặc sinh con đầu lòng khó nuôi, hoặc con không hợp với cha mẹ…

HUYNH ĐỆ: Tuần - Triệt đóng tại cung Huynh Đệ thì anh (chị) trưởng nếu không đoản thọ thì cũng là người cùng khổ cô đơn, hoặc anh chị em không sống gần nhau, hoặc bất hòa, không giúp được nhau mà còn hại nhau...

TẬT ÁCH: Tuần - Triệt đóng tại cung Tật Ách bất kể là đương đầu hay chặn đuôi thì đương số suốt đời mạnh khoẻ, ít bệnh tật, ít gặp tai họa, nếu có tai hoạ cũng tránh được họa lớn... Trừ khi có sao kỵ Tuần - Triệt như Thiên Tướng, Tướng Quân thì nếu Đại vận xấu sẽ dễ đưa đến cái chết bất ngờ nhanh chóng.

PHỤ MẪU: Tuần Triệt đóng tại cung Phụ Mẫu thì chắc chắn đương số không hợp với cha hay mẹ, hoặc dễ sớm xa cách cha mẹ do: Hoặc cha (mẹ) mất sớm, hoặc cha mẹ ly hôn, hoặc làm con nuôi nhà khác... Vì Phụ Mẫu có ảnh hưởng trong giai đoạn thiếu niên nên gặp Triệt có khác biệt khi gặp Tuần vì lúc đó Triệt đang mạnh mẽ còn Tuần thì sự ảnh hưởng hầu như không đáng kể.

HẠN: Tuần Triệt đóng tại cung hạn thì phải có khó khăn trong hạn đó, nhưng cần phải xét kỹ về thời gian và tỷ lệ ảnh hưởng, nhất là khi Tuần, Triệt đồng cung thì phải nhớ ảnh hưởng tăng gấp đôi và kéo dài hơn chứ không thể suy luận theo quan điểm là Tuần và Triệt tháo gỡ cho nhau trong trường hợp này.

3. ẢNH HƯỞNG CỦA TUẦN-TRIỆT TỚI CÁC SAO

Theo lý thuyết của Tử Vi thì hai sao Tuần, Triệt sẽ làm thay đổi giá trị ảnh hưởng của các sao đồng cung mà Tuần, Triệt án ngữ. Nhưng cũng cần lưu ý rằng: Tuần - Triệt không làm thay đổi tính chất các sao, mà chỉ làm tăng lên hoặc giảm đi ảnh hưởng của các sao. Thực chất Tuần - Triệt chỉ làm thay đổi cường độ hành khí của sao, sự sáng tối của sao tức là thay đổi tính đắc hãm của sao. Tuy nhiên cho dù sao hãm địa có được sáng lại do ảnh hưởng của Tuần - Triệt thì cũng không được toàn vẹn như một sao bản chất là sáng sủa và ngược lại một sao bị tối đi do ảnh hưởng của Tuần - Triệt cũng không tối tăm như một sao bản chất là tối hãm.

Sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt như thế nào tới các sao ở các cung xung chiếu, tam hợp chiếu vẫn là tranh cãi chưa có lời kết của các tác giả, các nhà nghiên cứu Tử Vi.

Có quan điểm cho rằng Tuần, Triệt chỉ làm thay đổi sự sáng, tối của các sao đồng cung chứ không đủ sức ảnh hưởng tới các sao ở các cung xung chiếu hoặc tam hợp chiếu, như thế là không tưởng, phi lý (đại diện là tác giả Nguyễn Phát Lộc). Còn quan điểm thứ 2 (đại diện là tác giả Việt Viêm Tử) thì rộng hơn, cho rằng hai sao này còn ảnh hưởng tới cả các cung trong thế hợp chiếu và mức độ ảnh hưởng của Triệt-Tuần còn phụ thuộc vào tuổi Âm hay Dương của đương số. Quan điểm này không nhận được sự ủng hộ của một số tác giả, tiêu biểu là ông Nguyễn Phát Lộc nhưng lại nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà nghiên cứu, “thầy Tử Vi”, chẳng hạn như nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm (Ông là nhà nghiên cứu, cũng là người hành nghề coi lá

 số Tử Vi) nhận xét: Triệt - Tuần là 2 sao đặc biệt trong hệ thống các sao của Tử Vi, nhưng vẫn tuân thủ theo nguyên tắc: Ảnh hưởng tới các cung khác ngoài cung án ngữ và cũng chịu ảnh hưởng lại của các sao, các cung mà Triệt - Tuần trấn thủ.

Qua những tranh luận của các tác giả, và từ thực tiễn kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu về Tử Vi, đặc biệt là kinh nghiệm của những người hành nghề coi lá số Tử Vi.. thì Triệt - Tuần không những ảnh hưởng mạnh tới các sao ở 2 cung án ngữ mà còn ảnh hưởng tới các sao ở cung xung chiếu, tam hợp chiếu. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó chỉ có ảnh hưởng gián tiếp chứ không trực tiếp như ở hai cung án ngữ.

Cũng cần lưu ý thêm rằng: Sao tại cung bị Tuần - Triệt án ngữ bị thay đổi tính chất nên khi chiếu về cung khác cũng khác khi không bị Tuần - Triệt án ngữ. Vì thế khi luận giải phải gia giảm sự tốt, xấu của sao tùy theo sự án ngữ của Tuần hay Triệt và Triệt - Tuần ở thế đương đầu hay chặn đuôi.

Sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt tới các tinh đẩu cũng không giống nhau. Thường thì các chính tinh bị ảnh hưởng mạnh hơn các phụ tinh khi gặp Tuần - Triệt, trong đó Sát - Phá - Liêm - Tham bị ảnh hưởng mạnh nhất

Về tính chất thì hung sát bại tinh (như Sát, Phá, Liêm, Tham, Không, Kiếp, Kình, Đà, Hỏa Linh, Kiếp Sát, Thiên Không, Kiếp Sát...), tài tinh (Vũ Khúc, Thiên Phủ, Lộc Tồn, Hóa Lộc), quí tinh, quyền tinh (Thiên Tướng, Hóa Quyền, Quốc Ấn...), đào hoa tinh hay dâm tinh (Hồng, Đào, Riêu, Thai...) bị ảnh hưởng mạnh mẽ hơn các tinh đẩu khác như phúc thiện tinh (Quang Quí, Quan Phúc...), trợ tinh (Tả Hữu)...lục bại tinh (Song Hao, Tang Hổ, Khốc Hư)

Xét về phương diện Ngũ hành thì nhìn chung hành Kim, Hỏa và Mộc bị ảnh hưởng nặng nhất, hành Mộc bị ảnh hưởng của Triệt hơn Tuần (vì Triệt (Kim) khắc Mộc trong khi đó Mộc sinh (Tuần) Hỏa) và hành Kim chịu ảnh hưởng của Tuần hơn Triệt (vì Tuần (Hỏa )khắc Kim trong khi đó Triệt (Kim) và Kim đồng hành), hành Thủy ít bị ảnh hưởng hơn (vì Triệt (Kim) sinh Thủy và Thủy khắc (Hỏa) Tuần), hành Thổ bị ảnh hưởng ít nhất (vì Tuần (Hỏa) sinh Thổ và Thổ sinh (Kim) Triệt).

4. NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT CỦA TUẦN-TRIỆT

1. Chính tinh hoặc hung tinh đắc địa tối kỵ gặp Tuần - Triệt vì gặp Tuần - Triệt làm cho các tinh đẩu bị giảm hết ý nghĩa tốt đẹp hoặc đôi khi trở thành hãm địa. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, rất cần có Tuần Triệt án ngữ, chẳng hạn như cung Vô chính Diệu hoặc Chính Diệu tọa thủ lạc hãm, xấu xa, ví như trường hợp Liêm - Tham hãm địa tại Tỵ, Hợi nếu gặp Tuần - Triệt án ngữ lại trở nên tốt đẹp, trường hợp này còn được gọi là Phản vi kỳ cách hay Bộ Âm Duơng lạc hãm rất cần gặp Tuần, Triệt để trở thành sáng sủa, thông minh học giỏi. (Trường hợp này nếu thêm Hóa Kỵ đắc địa đồng cung thì thật hoàn mỹ.)

Hoặc Cung gặp nhiều sát tinh hội chiếu nếu được Tuần - Triệt án ngữ sẽ trở thành yên ổn rất nhiều!

2. Chính tinh sáng sủa hợp Mệnh thì không nên gặp Tuần - Triệt vì sẽ đưa đến phá cách nặng, ví dụ như cung sinh sao, sao sinh Mệnh mà gặp Tuần, Triệt thì càng xấu vì sao sinh Mệnh khiến Mệnh tốt lên hẳn mà lại bị Tuần, Triệt phá hỏng. Trong trường hợp này nếu Mệnh không hợp với sao thì gặp Tuần, Triệt cũng đỡ xấu hơn trường hợp trên.

Chính tinh lạc hãm khắc Mệnh thì lại cần được Tuần - Triệt án ngữ, trường hợp này lại hay hơn là được chính tinh lạc hãm hợp Mệnh gặp Tuần, Triệt. Nói chung là nếu càng xấu về vị trí (bị hãm) và tương quan Ngũ hành (bị khắc) thì gặp Tuần, Triệt càng tốt, hễ càng tốt về vị trí và tương quan Ngũ hành thì gặp Tuần, Triệt càng xấu.

3. Thiên Tướng, Tướng Quân tối kỵ gặp Tuần, Triệt cho dù là đắc địa hay hãm địa.

4. Thiên Phủ kỵ gặp Tuần hơn gặp Triệt, vì gặp Tuần ví như kho trống không, trong khi gặp Triệt thì chỉ bị hao hụt. Thiên Khôi kỵ gặp Triệt hơn gặp Tuần nhưng cần phối hợp các yếu tố khác khi luận đoán sự tốt xấu của cung đó.

5. Bộ Cự Nhật ở Dần gặp Tuần, Triệt không sợ, vì bản thân Thái Dương miếu vượng ít ngại Tuần, Triệt, trong khi đó Cự Môn vượng lại rất cần gặp Tuần, Triệt để cho Cự Môn được ánh sáng của Thái Dương chiếu vào mà tỏa sáng (Tuần Triệt như sấm sét làm vỡ đá ra).

Bộ Nhật Lương gặp Tuần, Triệt cũng không đáng ngại lắm, tuy nhiên khi gặp Tuần, Triệt rất cần có Tả Hữu Xương Khúc phù trì thì mới vượt qua được sự ngăn cản phá hoại của Tuần, Triệt.

Bộ Ân Quang Thiên Quý đồng cung (Sửu, Mùi) chiếu về Mệnh hoặc thủ Mệnh thì Tuần, Triệt không còn tác dụng nữa, chỉ là sự cản trở nho nhỏ không đáng kể.

6. Tuần, Triệt đứng bất cứ đâu nếu bản Mệnh là hành kim thì không đáng ngại (hành Hoả cũng đỡ hơn, nếu Triệt lâm Hỏa địa). Ví dụ mệnh gặp Thiên Tướng + Tuần Triệt án ngữ rất xấu xa mờ ám chủ tai nạn hình thương nhưng nếu bản Mệnh thuộc Kim thì không đáng ngại những nguy hiểm do Tuần, Triệt gây ra.

7. Tuần, Triệt giải họa Không Kiếp hãm rất mạnh, họa tuy có xảy ra nhưng cũng qua được. Triệt tại bản cung thì không sợ tai họa do Không Kiếp chiếu về. Tuần cũng có tác dụng như vậy nhưng yếu hơn.

Mệnh (Thân) có Không, Kiếp thủ chiếu mà gặp Triệt - Tuần thì không sợ tai nguy.

8. Mệnh Tuần hay Triệt thì khi đến đại hạn gặp Tuần hay Triệt sẽ tháo dỡ ảnh hưởng của Tuần hay Triệt.

Tuần, Triệt đồng cung tại tiểu hạn gặp Lưu Tuần, Triệt thì ảnh hưởng của Tuần, Triệt đồng cung sẽ giảm đi.

Triệt tại tiểu hạn gặp Lưu Triệt thì ảnh hưởng của Triệt tăng lên, Tuần tại tiểu hạn gặp Lưu Tuần thì ảnh hưởng của Tuần giảm đi.

5. NHỮNG CÂU PHÚ VỀ TUẦN - TRIỆT

- Mệnh Triệt Thân Tuần, tu cần vô hữu chính tinh, vãn niên vạn sự hoàn thành khả đãi.

Có nghĩa: Cung Mệnh có Triệt án ngữ, cung Thân cũng ngộ Tuần thì không nên có chính diệu mới được xứng ý toại lòng, về già mới được an nhàn, sung sướng và tăng thêm tuổi thọ.

- Mệnh Tuần Thân Triệt, hỷ đắc vân đoàn tương hội, phú quý văn tài cách phát trung niên.

Có nghĩa: Mệnh có Tuần án ngữ, Thân có Triệt trấn thủ, lại vô chính diệu, rất mừng gặp được văn tinh như Khôi, Việt, Xương, Khúc, Long, Phượng, gặp như vậy là người có văn tài, học vấn và khi đứng tuổi tất sẽ được an nhàn, phú quý.

- Mệnh Tuần Thân Triệt, tối cần Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương miếu vượng, phú quý vinh hoa đến vãn niên.

Có nghĩa: Mệnh có Tuần, Thân có Triệt án ngữ, rất cần có Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa, tốt đẹp hội họp thì cuộc đời mới được xứng ý toại lòng, nhất là khi về già mới được an nhàn, sung sướng.

- Phúc vô chính diệu, tu cần Không tý, kỵ ngộ Triệt Tinh.

Có nghĩa: Cung Phúc đức vô chính diệu rất cần có sao Tuần án ngữ nhưng lại rất kỵ sao Triệt trấn đóng.

- Phúc tại Tý cung. Đồng Âm Kiếp Tử, Triệt Tuần xâm, hữu học vô lương, tiện yểu cách.

Có nghĩa: Cung Phúc đức cư tại Tý, có các sao Đồng, Nguyệt, Kiếp, Tử gặp Tuần, Triệt thì đương số là người có học nhưng bất thành danh và là người bất chính, thường là người đa hư tiểu thực, nghèo hèn và chết non.

- Thân cư Phúc vô chính diệu, tối kỵ Kiếp Dương Triệt Sát. Cái ngộ Đà Không thi vị cứu cánh chi tinh.

Có nghĩa: Cung Thân cư Phúc vô chính diệu mà gặp các sao Kiếp, Kình, Triệt, Sát thì rất lo ngại. Nhưng nếu gặp được Đà La, Tuần lại hay, ví như hai vị cứu khổ phò nguy, giải tỏa được các tai biến.

- Tử Phủ đồng cung, Đế vô quyền sở, nan giải tai ương do như Tuần Không xâm nhập.

Có nghĩa: Tử Phủ lâm Mệnh tại Dần, Thân là 2 sao giải cứu được hung nguy khi đáo nhị hạn. Nhưng nếu bị Tuần Không án ngữ, ví như 2 ông vua bị mất hết quyền hành nên không giảm thiểu được tai kiếp khi hạn ngộ sát tinh, cũng như trường hợp Tử Vi đóng ở cung Tý vậy.

- Sát tinh hung diệu, Triệt đầu cư lai bất cập a hành, nan phùng tai ách vận lai.

Có nghĩa: Cung Mệnh dù có tứ sát, tứ hung, lục bại đi nữa, nhưng nếu được Triệt án ngữ tại bản cung cũng không e sợ lũ sát tinh hoành hành vì sao Triệt đủ ảnh hưởng khắc chế được mọi hung nguy.

- Thân cư Thê vị, Tuần Triệt lai xâm, thiếu niên ai lệ nãi thất tình. Nhược gia cát tú, lương duyên mãn kiếp dữ phụ nhân.

Có nghĩa: Thân cư Thê mà bị Tuần, Triệt xâm phạm tất là người tuổi thiếu niên bị tình phụ mà nước mắt buồn rơi khi nhớ tới người xưa. Nếu gia hội cát tinh cũng được mãn kiếp xum vầy với người góa phụ.

- Kiếp Kình Đế Cự suy Triệt lâm Mệnh, Tý hương, ác nhân đãng tử mãn kiếp nan toàn.

Có nghĩa: Cung Mệnh an tại Tý, 2 sao Tử Vi hay Cự Môn nếu hội với các sao Kiếp, Kình, Suy, Triệt là người phải chết bởi tai nạn nhưng khi chết rồi thể xác vẫn phải bị mổ xẻ.

- Thân cư Quan, kiến Triệt Tuần Kiếp Kỵ nam nhân phong vân vị tế, hựu phùng cát diệu, vũ lộ thừa ân, khả đãi vãn niên dĩ hậu.

Có nghĩa: Nam nhân có Thân cư Quan, nếu gặp Triệt, Tuần, Kiếp, Kỵ đồng cung, tất phải lận đận, bôn ba thủa thiếu thời vì không gặp thời cơ. Nếu như được cát tinh củng chiếu, cũng phải đợi tới vãn niên mới được hưởng phúc lộc và tạo thành cơ nghiệp.

- Phản Hữu Hồng Loan sắc Không giác ngộ.

Có ngĩa: Thiên tướng nếu hội họp đầy đủ với 2 loại sao là sắc (Đào, Hồng, Hỷ) và Không (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không) là người ví như kẻ lạc giữa bụi trần nhơ nhuốc mà tâm tư trong sáng, thường có duyên với cảnh tu hành.

- Quý tinh Tướng Phủ Tuần Triệt lao đao.

Có nghĩa: Thiên Phủ, Thiên Tướng là quý tinh, cư Mệnh rất đẹp, nếu độc thủ cũng không đáng lo ngại lắm khi gặp lũ Kình, Đà, Hỏa, Linh vì tính dung hòa của 2 quý tinh này. Nhưng nếu Phủ, Tướng ở cung âm, gặp Tuần, Triệt (Thiên Không, Địa Không cũng vậy) thì cách đẹp bị phá hết, thành kẻ lao đao, lận đận giữa đời.

- Thân cư Quan Lộc hội sát diệu Triệt Tuần, nữ Mệnh nan bảo thân danh. Gia kiến Tang Bạch cô thân chi nhảnh, chi gia vãn tuế tất thành.

Có nghĩa: Nữ nhân Thân cư Quan Loock, ngộ Triệt, Tuần và sát tinh là người khó bảo toàn được danh tiết. Nếu lại gặp 2 sao Tang Môn, Bách Hổ tất bị phòng loan gối chiếc, phải đến tuổi xế chiều mới thành được gia thất.

- Nhật, Nguyệt Sửu Mùi tối cần Kỵ, Không phả vi đại cát.

Có nghĩa: Nhật Nguyệt đồng cung tại Sửu Mùi là thế hỗn độn, nếu gặp được Không Vong (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không) sẽ tạo thành một cách đẹp, nếu thêm cả Hóa Kỵ nữa thì thật là một kỳ cách.

- Thân hội Di cung, Triệt Tuần hãm nhập, vãn tuế hồi hương phương cát. Nhược hữu kiến sát tinh, sự nghiệp viên thành ư ngoại xứ.

Có nghĩa: Người có Thân cư cung Thiên Di gặp Tuần, Triệt hãm địa, tất phải tha hương lập nghiệp cho tới khi tuổi già mới được về quê và hưởng phúc lộc dồi dào. Nhưng nếu Di cung lại bị sát tinh củng chiếu thì chỉ có thể thành cơ nghiệp nơi đất khách quê người.

- Thìn Tuất Không Vong Cơ Lương tăng đạo.

Có nghĩa: Cơ Lương ở Thìn Tuất là rất đẹp nhưng nếu Mệnh ở đấy mà gặp một trong các sao Không (Tuần, Triệt, Địa Không, Thiên Không) thì lại là người thất chí, dễ chán đời đi tu.

- Nhật Nguyệt Tật Ách Mệnh phùng Không yểu dà mục cổ.

Có nghĩa: Mệnh hoặc cung Tật Ách có Nhật, Nguyệt gặp Không Vong (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không), tất phải mang tật lưng vẹo, mắt hư.

6. TUẦN - TRIỆT VÀ NHỮNG DẤU HỎI

Khi coi số, người luận giải sợ nhất trường hợp các cung cường gặp Tuần, Triệt án ngữ bởi lẽ lý thuyết Tử Vi về Tuần, Triệt còn nhiều mơ hồ, chưa có sự thống nhất (thậm chí còn nhiều nghi vấn, nhiều tranh cãi gay gắt)… để làm căn cứ cho việc xem số nên lời luận giải đưa ra thường thiếu cơ sở để khẳng định. Vì thế, người học Tử Vi, người muốn tìm hiểu về Tử Vi đều bất lực trong nhiều trường hợp khi gặp Tuần, Triệt án ngữ, quy tụ lại bởi một số nghi vấn sau:

1. Tuần, Triệt ảnh hưởng tới các sao như thế nào?

Theo lý thuyết thì Tuần, Triệt sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các sao đồng cung: Biến tốt thành kém tốt, biến xấu thành bớt xấu nhưng thực tế thì có những trường hợp chỉ chính tinh bị ảnh hưởng còn phụ tinh lại không bị tác động bởi Tuần, Triệt hoặc phụ tinh bị đảo nghĩa khi gặp Tuần, Triệt trong khi chính tinh lại không thay đổi về cường độ, hoặc chỉ một số tinh đẩu bị đảo nghĩa chứ không hẳn tất cả các tinh đẩu đồng cung đều chịu sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt...

Để trả lời cho câu hỏi này, chưa có sách Tử Vi nào đề cập đến nên sự luận giải đôi khi trở nên mơ hồ, võ đoán.

Đấy là nói về các sao đồng cung, còn những sao ở tam hợp chiếu, xung chiếu thì sao?

Về vấn đề này vẫn còn nhiều tranh cãi, chưa có sự thống nhất hoặc quan điểm vẫn còn mơ hồ, không cụ thể.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tuần, Triệt chỉ ảnh hưởng tới các sao đồng cung chứ không đủ sức để ảnh hưởng tới các sao ở các cung xung chiếu, tam hợp chiếu.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Tuần, Triệt không những ảnh hưởng trực tiếp tới các sao đồng cung mà còn ảnh hưởng gián tiếp tới các sao ở các cung khác như xung chiếu, tam hợp chiếu... nhưng lại không chỉ ra sự ảnh hưởng gián tiếp ấy cụ thể như thế nào? Và đây cũng là điểm mơ hồ cố hữu trong hệ thống lý thuyết của Tử Vi.

2. Tuần, Triệt có chịu sự khắc chế, ảnh hưởng của các sao khác không?

Lý thuyết Tử Vi không đề cập đến sự ảnh hưởng hay khắc chế của các sao khác tới cường độ của Tuần, Triệt như thế nào nên vô hình chung đã đẩy Tuần, Triệt lên vị trí tối quan trọng, cao hơn tất cả các tinh đẩu trong hệ thống các sao của Tử Vi, khiến người coi số như xuống biển mò kim mà trở nên lúng túng, bế tắc khi đưa ra lời luận giải.

Trong thực tế, không phải mọi tinh đẩu đều chịu ảnh hưởng của Tuần, Triệt như nhau: Có sao chịu ảnh hưởng nhiều, có sao chịu ảnh hưởng ít và thậm chí có sao không hề bị ảnh hưởng ... Vậy thì tại sao lại có sự khác biệt đó? Phải chăng do Tuần, Triệt cũng chịu ảnh hưởng của các tinh đẩu khác mà sức ảnh hưởng của Tuần, Triệt mới không đồng đều, không đủ mạnh? Sách Tử Vi không đưa ra lời giải đáp khiến người coi số bị hụt hững, phân vân vì thiếu cơ sở lý thuyết nên dễ đưa ra những lời luận giải rơi vào ngộ nhận, không chính xác.

Một số nhà nghiên cứu Tử Vi, hoặc những người coi số Tử Vi cho rằng Tuần, Triệt cũng chịu sự ảnh hưởng, tác động của các sao khác như những sao khác nhưng không chỉ ra được Tuần, Triệt chịu ảnh hưởng từ các sao khác như thế nào? Những sao nào sẽ vô hại khi gặp Tuần, Triệt, thậm chí còn tác động, làm thay đổi cường độ ảnh hưởng của Tuần, Triệt? Đây chính là nghi vấn, dễ gây ra sự ngộ nhận khi luận giải lá số.

3. Tuần, Triệt có làm thay đổi được cung an Mệnh khi ở thế bại địa, tuyệt địa?

Chúng ta đều biết lý thuyết Tử Vi cho rằng Tuần, Triệt làm thay đổi cường độ ảnh hưởng của các sao chứ không làm thay đổi tính chất của các sao, có nghĩa một sao thể hiện sự gian tà, độc ác thì khi gặp Triệt, Tuần sẽ vẫn là kẻ gian tà, độc ác nhưng ở mức độ thấp hơn, nhẹ đi chứ không thể trở thành người nhân hậu, bác ái. Hay một cát tinh khi hãm địa được Tuần, Triệt án ngữ cũng chỉ làm cho cát tinh đó tốt hơn lên chứ không thể biến cát tinh hãm địa đó đẹp bằng cát tinh khi đắc địa được.

Chúng ta cũng biết lý thuyết Tử Vi chỉ rằng: Tuần, Triệt chỉ gây trục trặc, cản trở cho cung Tuần, Triệt án ngữ chứ không thể làm thay đổi tính chất ngũ hành của cung, càng không làm thay đổi bản chất của cung: Sinh - khắc hay bình hoà với hành bản Mệnh (Thân)? Phù trợ như thế nào cho Mệnh (Thân)?...

Nhưng khi coi số, nếu gặp trường hợp cung an Mệnh ở vào thế lợi địa, tuyệt địa…mà gặp Tuần, Triệt án ngữ ở đó thì luận giải sao đây? Không thể đưa ra lời khẳng định nếu cung an Mệnh ở thế lợi địa mà gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ trở thành bại địa, hoặc cung an Mệnh ở thế bại địa khi gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ trở nên vượng địa vì thực tế ngay cả các sao đồng cung Tuần, Triệt còn không đủ sức ảnh hưởng đồng đều thì làm sao ảnh hưởng, thay đổi tính chất lợi địa hay tuyệt địa của cung an Mệnh được. Hơn nữa, lý thuyết của Tử Vi về Tuần, Triệt cho rằng Tuần, Triệt chỉ gây trục trặc, cản trở một phần, một giai đoạn cho cung án ngữ nên càng khó đưa ra lời luận giải cho những trường hợp như thế này.

Đây chính là khó khăn và thách đố với những ai muốn tìm hiểu, ứng dụng kiến thức của Tử Vi vào cuộc sống.

4. Thời gian và cường độ ảnh hưởng của Tuần, Triệt như thế nào?

Mặc dù lý thuyết Tử Vi cho rằng: Tuần ảnh hưởng nhẹ hơn Triệt và mạnh dần ảnh hưởng sau 30 tuổi, còn Triệt ảnh hưởng mạnh những năm đầu đời và giảm dần hiệu lực sau 30 tuổi. Nhưng Tử Vi không chỉ ra sự mạnh dần (Tuần) hay giảm dần (Triệt) diến ra như thế nào? Cường độ nặng nhẹ là bao? Nên người coi số rất khó đưa ra lời phán đoán. Hơn nữa, những khái niệm về cường độ ảnh hưởng của Tuần, Triệt tưởng như rất cụ thể mà lại rất mơ hồ, trừu tượng nên người coi số thật khó luận giải. Chẳng hạn, sách Tử Vi nói: Người Dương nam, Dương nữ khi gặp Tuần, Triệt thì ở cung Dương sẽ chịu 70%, còn cung Âm chịu 30% cường độ, nhưng 100% cường độ được thể hiện như thế nào? Ảnh hưởng ra làm sao? Để qua đó hiểu được

 mức nặng nhẹ của 70% hoặc 30% cường độ thì rất tiếc không thấy sách Tử Vi nào đề cập đến.

Hoặc bàn về sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt tới số phận con người cũng nhiều ý kiến trái chiều, bất nhất. Ví dụ ở người Mệnh Kim, có 3 quan điểm:

  1. Quan điểm 1: Mệnh Kim không sợ Tuần, Triệt.
  2. Quan điểm 2: Mệnh Kim vô hại khi gặp Triệt, còn gặp Tuần thì vẫn bị ảnh hưởng như các tuổi khác, tuy nhiên cũng không đáng lo ngại lắm.
  3. Quan điểm 3: Mệnh Kim nên tránh xa Tuần, Triệt vì nếu gặp sẽ thiệt thòi nặng hơn so với các tuổi khác.

Trong 3 quan điểm trên thì phần lớn những người coi số Tử Vi đồng nhất với quan điểm thứ nhất: Mệnh Kim không sợ gặp Tuần, Triệt nhưng sự bất nhất về lý thuyết, đặc biệt khi sự bất nhất đó lại có nội dung đối lập 100% như quan điểm 3 với quan điểm 1, thì vẫn gây khó khăn, nghi vấn cho người luận giải lá số.

5. Vấn đề Tuần, Triệt đồng cung thì thế nào?

Đây cũng là vấn đề còn nhiều tranh cãi trong lý thuyết của khoa Tử Vi.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tuần, Triệt đồng cung không tháo gỡ nhau mà cộng hưởng cả mặt tốt, mặt xấu và ảnh hưởng sâu rộng hơn tới cuộc đời của đương số.

Quan điểm thứ hai lại cho Tuần, Triệt tháo gỡ nhau nếu khi đồng cung, làm giảm cái xấu và tăng cái tốt cho đương số.

Mặc dù quan điểm thứ nhất là quan điểm của số đông, được nhiều người chấp nhận vì tính thực tiễn nhưng sự không đồng nhất về quan điểm như thế trong hệ thống lý thuyết của Tử Vi sẽ gây khó khăn rất lớn cho người tiếp cận.

LỜI KẾT

Tuần - Triệt là hai sao còn rất nhiều nghi vấn về giá trị, phạm vi và mức độ ảnh hưởng tới số phận con người mà người nghiên cứu Tử Vi khó tìm được câu trả lời thỏa đáng, càng đặc biệt và thách đố với những người muốn ứng dụng kiến thức Tử Vi vào cuộc sống.

Khi biên soạn về ảnh hưởng của Tuần - Triệt tới lá số (cung, sao), người viết rất băn khoăn, lo lắng vì kiến thức và kinh nghiệm về Tử Vi của người viết chỉ ở mức mày mò tự học trong khi môn học Tử Vi đòi hỏi người tiếp cận phải có kiến thức uyên bác về Dịch lý, về Âm - Dương Ngũ hành... mới có thể truyền tải được những cốt lõi mà linh hoạt và thỏa đáng về hiệu lực của Tuần, Triệt nên những kiến giải của người viết trong bài sẽ không tránh khỏi sự phiến diện, chủ quan và nông cạn, khiến những bậc cao minh sẽ cau mày vì phải đọc những kiến giải “ngây ngô” của kẻ “ếch ngồi đáy giếng”...

Dù thế nào thì người viết vẫn hy vọng bằng những cố gắng của mình sẽ giúp ích ít nhiều cho những ai lần đầu làm quen và tiếp cận với kiến thức mênh mông mà tinh tế, linh hoạt đến phức tạp... của khoa Tử Vi sẽ bớt khó khăn và thời gian tìm hiểu.

Nếu được vậy, người viết mãn nguyện lắm rồi.

* * *

Viết tại Đỗ Hạ, Quang Vinh, Ân Thi, Hưng Yên.
Tháng 07 năm 2006
ĐẶNG XUÂN XUYẾN


(Trích trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến, nxb Thanh Hóa)

tử vi kiến giải

Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 7 năm 2015

Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:

  • Tử Vi Kiến Giải - nxb Thanh Hóa
  • Tử Vi Vấn Đáp - nxb Thanh Hóa
  • Vào chùa lễ Phật, những điều cần biết - nxb Văn Hóa Thông Tin
  • Tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng trong dân gian - nxb Thanh Hóa
  • Điềm báo và kiêng kỵ trong dân gian - nxb Lao Động - Xã Hội
  • Khám phá bí ẩn con người qua bàn tay - nxb Thanh Hóa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuần - Triết và những dấu hỏi

Tướng người đàn ông giàu có –

1. Tướng đàn ông mũi to, thẳng, đầy đặn. Tướng người đàn ông có mũi không hếch, không lệch, đầu mũi đầy đặn là tướng mũi đẹp. Đặc biệt, đàn ông có mũi cao và cánh mũi đầy đặn rất có khả năng kiếm tiềm, việc làm ăn kinh doanh rất thuận lợi. Họ cũng là
Tướng người đàn ông giàu có –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người đàn ông giàu có –

phong thủy cho hôn nhân

Hạnh phúc luôn là mục đích lớn nhất của con người ở bất cứ thời đại nào. Ứngg dụng phong thủy trong hôn nhân ngày nay rất được mọi người quan tâm.
phong thủy cho hôn nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hạnh phúc luôn là mục đích lớn nhất của con người ở bất cứ thời đại nào. Hạnh phúc không chỉ là sự thành công trong sự nghiệp, sung túc của cải vật chất mà còn là cảm xúc được sống trong tình yêu thương. Và người ta cho rằng phong thuỷ có tác động không nhỏ tới đời sống của con người cũng như có khả năng làm cho cuộc sống của bạn trở nên hạnh phúc hơn.

phong thuy cho hon nhan hinh anh
Khi phong thuỷ của ngôi nhà không có sự cân bằng năng lượng âm dương, thì cuộc sống của các thành viên trong gia đình sẽ bị ảnh hưởng và họ hầu như không thể có những mối quan hệ tốt đẹp. Vợ chồng sống trong ngôi nhà này cũng ít được hạnh phúc.

Một gia đình hay cuộc hôn nhân hạnh phúc phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng phong thuỷ có khả năng tạo ra sự hài hoà về năng lượng, từ đó giảm bớt những mâu thuẫn, xung đột không đáng có trong gia đình. Người ta cho rằng không khí trong nhà sẽ trở nên hòa thuận và hạnh phúc hơn khi dòng khí lưu thông được cân bằng. Điều này thường diễn ra khi bản thân ngôi nhà có được khung cảnh thuận lợi về mặt phong thuỷ. Và dù bạn sống trong một ngôi nhà rộng lớn hay nhỏ bé thì việc áp dụng phong thuỷ cũng có hiệu quả tương tự. Để tránh gây ra những ảnh hưởng xấu đến hạnh phúc gia đình, bạn cần phải bảo đảm rằng mọi thứ trong nhà không bị đặt sai vị trí. Và nếu có vẫn có thể điều chỉnh để hoá giải nguồn năng lượng không tốt đang ảnh hưởng đến tình yêu thương giữa các thành viên. 

Tăng cường năng lượng Thổ

Trong Bát quái dương, mỗi khu vực trong nhà đều mang một yếu tố trong ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Màu sắc của những khu vực này cũng mang ý nghĩa nhất định. Hướng Tây Nam của bát quái đồ, thuộc hành Thổ, chủ về tình yêu.

Theo chu kỳ tương tác ngũ hành thì Mộc khắc Thổ. Cho nên bạn không nên để các vật thuộc hành Mộc như đồ nội thất bằng gỗ nặng nề ở hướng Tây - Nam vì nó sẽ làm tiêu hao năng lượng Thổ. Đặt bàn có mặt làm bằng kính ở khu vực này sẽ giúp tăng cường năng lượng Thổ. Đồng thời cần giảm thiểu việc trang trí các màu xanh lá cây và màu nâu ở hướng Tây - Nam.

Vì Kim khắc Mộc, nên bạn cần giảm bớt sự hiện hữu của các màu thuộc Kim như màu trắng, bạc, vàng kim. Không đặt bất cứ vật gì thuộc hành Kim ở khu vực Tây – Nam, như tivi, dàn âm thanh, máy vi tính, đồ đạc trang trí bằng đồng… sẽ tạo ra năng lượng dương, dễ gây ứ đọng năng lượng dương ở khu vực này.

Vận dụng biểu tượng thuộc hành Thuỷ đúng vị trí

Theo các chuyên gia phong thủy, biểu tượng thuộc hành Thuỷ là yếu tố tốt nhất để kích hoạt vận may về tài sản, thu hút tiền bạc vào nhà nhưng lại ảnh hưởng xấu đến quan hệ hôn nhân. Vì thế, việc bài trí các biểu tượng thuộc hành Thuỷ không đúng vị trí sẽ khiến ngũ hành tương khắc, dễ dẫn đến những ảnh hưởng không tốt đến hôn nhân. Quá nhiều năng lượng Thuỷ sẽ sinh ra những mối nguy hiểm cho nhà bạn. Điều này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi xây dựng hồ bơi trong nhà hoặc đặt hồ bơi hay bể nước ở bên phải cửa chính (phía tay phải từ trong nhà nhìn ra). Cũng không nên đặt các biểu tượng thuộc hành Thuỷ trong phòng ngủ như treo tranh ảnh có hình thác nước, sông, hồ… vì khi đặt trong phòng ngủ, nước kích hoạt khi chú về sự mất mát và gây ra những rắc rối trong quan hệ vợ chồng. Và dù các biểu tượng thuộc hành Thuỷ được bài trí bên trong hay bên ngoài ngôi nhà cũng cần bảo đảm chúng được đặt về phía bên trái (từ trong nhà nhìn ra).

phong thuy cho hon nhan hinh anh 2
Các biểu tượng thủy cần bảo đảm chúng được đặt về phía bên trái (từ trong nhà nhìn ra).


Khi phong thuỷ của ngôi nhà không có sự cân bằng năng lượng âm dương, thì cuộc sống của các thành viên trong gia đình sẽ bị ảnh hưởng và họ hầu như không thể có những mối quan hệ tốt đẹp. Vợ chồng sống trong ngôi nhà này cũng ít được hạnh phúc.

Cân bằng âm - dương hài hoà

Không nên sử dụng quá nhiều tranh ảnh tối màu và loại ánh sáng mờ nhạt trong nhà bạn. Trong những căn phòng lạnh lẽo, vắng lặng, không có vật nuôi, hoặc không có âm nhạc thì năng lượng âm sẽ chế ngự và lấn át năng lượng dương.

Nếu năng lượng âm thống trị, người phụ nữ sống trong ngôi nhà đó sẽ gặp khó khăn về tình duyên. Tương tự, người đàn ông độc thân sống trong ngôi nhà này cũng khó gặp được người phụ nữ thích hợp với mình. Cho nên, khi phong thuỷ của ngôi nhà không có sự cân bằng năng lượng âm dương, thì cuộc sống của các thành viên trong gia đình sẽ bị ảnh hưởng và họ hầu như không thể có những mối quan hệ tốt đẹp. Vợ chồng sống trong ngôi nhà này cũng ít được hạnh phúc.

Vì vậy, điều quan trọng là ngôi nhà của bạn, đặc biệt là phòng ngủ, phải được trang trí và sắp xếp để có sự kết hợp hài hoà giữa âm và dương. Phòng ngủ là nơi cần nhiều năng lượng âm hơn năng lượng dương, vì vậy tốt nhất là giữ cho không gian này được yên tĩnh cùng với một số lưu ý dưới đây:

Việc đầu tiên bạn cần làm là sắp xếp phòng ngủ ngăn nắp, loại bỏ những thứ lộn xộn không cần thiết. Góc Tây Nam của phòng ngủ đại diện cho tình yêu và sự lãng mạn trong đời sống vợ chồng. Vì vậy, góc này cần được kích hoạt để thu hút sự may mắn. Trước hết bạn cần xác định khu vực Tây Nam trong phòng ngủ, và luôn để góc này được sáng sủa và gọn gàng.

phong thuy cho hon nhan hinh anh 3
Phòng ngủ phải được trang trí và sắp xếp để có sự kết hợp hài hoà giữa âm và dương. 

Hướng đặt giường ngủ đặc biệt quan trọng đối với hạnh phúc của đời sống vợ chồng. Không nên đặt đầu giường ngủ ngay bên cạnh cửa ra vào. Theo phong thuỷ, điều này ảnh hưởng không tốt đến giấc ngủ. Nếu giường ngủ không được kê sát tường thì nguồn năng lượng âm càng gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Quan hệ giữa 2 vợ chồng sẽ không được bền vững.

Không nên đặt giường thẳng hướng với cửa ra vào (đầu giường hoặc chân giường thẳng hướng với cửa). Điều này sẽ khiến cho vợ hoặc chồng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi luồng khí luân chuyển nhanh, mạnh. Vị trí nằm ngủ có đầu chỉ thẳng ra cửa là vị trí chết chóc.

Không nên đặt giường ngay bên dưới xà nhà bởi vì theo phong thuỷ, sát khí từ xà nhà sẽ phóng xuống người nằm bên dưới. Xà nhà ở trên đầu thường gây ra những mâu thuẫn trong các mối quan hệ tình cảm. Giải pháp tốt nhất là lắp đặt trần nhà để che khuất xà nhà.

Không đặt gương đối diện với giường ngủ, bạn sẽ khó gặp được may mắn và thuận lợi về mặt hôn nhân. Cách sắp xếp này còn dẫn đến tình trạng có người thứ ba chen vào quan hệ hôn nhân của hai vợ chồng. Nếu bạn không thể dời bàn trang điểm ra khỏi phòng ngủ, thì hãy kê bàn sao cho gương không trực tiếp phản chiếu giường ngủ. Để gương sát với bức tường cùng phía với đầu giường sẽ ít nguy hiểm hơn.

Cây xanh và hoa tươi thuộc hành Mộc, phát ra năng lượng dương, không tốt cho giấc ngủ và việc đặt hoa tươi trong phòng ngủ bị coi là điều cấm kị, dễ khiến cho người chồng có thói trăng hoa. Vì vậy, tốt nhất bạn nên để hoa tươi và cây xanh bên ngoài phòng ngủ. Điều này đặc biệt quan trọng khi hoa màu đỏ, vì màu đỏ gợi nhắc đến sự mất mát, không thích hợp trong không gian phòng ngủ.

Ti - vi phát ra năng lượng dương rất mạnh dễ gây ra sự ngăn cách hay căng thẳng trong cuộc sống vợ chồng, thậm chí có thể dẫn đến tình trạng không thuỷ chung của người bạn đời. Vì vậy, bạn không nên đặt ti - vi trong phòng ngủ của mình.

Kệ sách hoặc những cấu trúc có góc cạnh bố trí trong phòng ngủ sẽ phát ra những tia sát khí, khiến cho chủ nhân cảm thấy stress và các mối quan hệ tình cảm trở nên căng thẳng hơn. Đặt biệt, kệ sách mở đặt trong phòng ngủ bị xem là một trong những nguyên nhân gây đau khổ, bất hoà và xung đột trong tình cảm.

Cửa tủ có quá nhiều đường nét chạm khắc cũng không tốt, vì những đường chéo, chữ thập và các góc cạnh rất dễ phát ra các tia sát khí về phía người nằm trên giường. Tốt nhất là dùng cửa phẳng, có kiểu thiết kế đơn giản. Tương tự như vậy, đồ nội thất có đường nét trang trí hình vòng cung đem lại hiệu quả tốt hơn về mặt phong thuỷ.

Phong thuỷ cho rằng, toilet có thể làm cạn kiệt vận may của bạn nếu như nó nằm thẳng hàng với giường ngủ và hướng nằm ngủ. Hầu hết các ngôi nhà và căn hộ hiện nay đều được thiết kế có toilet trong phòng ngủ. Khi đó bạn cần phải đặc biệt chú ý đến vị trí của giường ngủ trong tương quan với toilet.

Một số vật trang trí giúp hôn nhân hạnh phúc


Từ góc độ phong thủy, một số vật trang trí trong nhà cũng có thể mang đến sự hòa thuận, yên ấm cho đời sống vợ chồng và đặc biệt việc bài trí vật phẩm trong phòng ngủ hợp lý giúp đem lại hôn nhân mỹ mãn, hạnh phúc. Trong phòng ngủ nên sử dụng những biểu tượng theo đôi như đôi chim, vịt, ngỗng… và tránh các biểu tượng của Thủy như bể cá, tranh về sông, biển, thác nước…

Ngoài những vật phẩm tương đối phổ biến nêu trên thì miếng Ngọc bội long phượng treo ở đầu giường hai vợ chồng cũng là loại vật phẩm tượng trưng cho hạnh phúc. Theo văn hóa phương Đông, Ngọc bội long phượng thường được tặng cho những đôi vợ chồng mới cưới hay món quà kỷ niệm ngày cưới với mong ước hạnh phúc bền lâu.

Tổng hợp
 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: phong thủy cho hôn nhân

Cách sử dụng màu đen mang lại may mắn

Trong phong thủy, màu đen tượng trưng cho nước (hành Thủy) và là màu ẩn chứa nguồn năng lượng được xem là có thể đem lại tài lộc cho người sử dụng.
Cách sử dụng màu đen mang lại may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu đen thường gợi sự tối tăm, thiếu sinh khí và gây cảm giác ngột ngạt. Tuy nhiên trong phong thủy, màu đen tượng trưng cho nước (hành Thủy) và là màu ẩn chứa nguồn năng lượng được xem là có thể đem lại tài lộc cho người sử dụng. Muốn phát huy tối đa nguồn năng lượng này, tốt nhất nên sử dụng màu đen ở hướng Bắc, Đông và Đông Bắc.

Mảng trần oval nền đen họa tiết trắng như nét chấm phá độc đáo

Trong thiết kế nội thất, nếu biết kết hợp khéo léo, màu đen sẽ tôn thêm vẻ đẹp của các màu khác. Ngày nay, màu đen được sử dụng để tạo phong cách hiện đại cho không gian sống. Những bộ bàn ghế, tủ kệ hay những mảng tường màu đen sẽ tạo nên nét chấm phá sang trọng và trang nhã cho căn phòng. Nên sử dụng màu đen cho sảnh đón, phòng khách, phòng làm việc để thu hút những năng lượng chủ về tiền tài và danh vọng.

Hạn chế sử dụng màu đen trong trang trí phòng trẻ em và phòng ngủ. Không nên dùng nhiều màu đen trong việc trang trí những không gian nhỏ hẹp hoặc tường, trần cao… Nếu căn nhà đã được trang trí nhiều mảng màu đen, bạn có thể trổ thêm cửa sổ hoặc bố trí thêm nhiều đèn để tăng ánh sáng và sức sống cho căn phòng.

Hiệu ứng tương phản màu sắc sẽ tạo ra nhiều yếu tố bất ngờ khi kết hợp màu đen với những gam màu khác. Tuy nhiên, không nên kết hợp quá nhiều màu đen với màu đỏ hoặc màu vàng vì chúng là những màu xung khắc. Ngoài ra, tránh dùng màu đen ở hướng Nam (hành Hỏa) vì điều này sẽ gây bất lợi cho gia chủ.

(Theo Afamily)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách sử dụng màu đen mang lại may mắn

Doanh nhân tuổi Ngọ chọn đối tác

Đối với doanh nhân tuổi Nhâm Ngọ (1942), nam giới nên hợp tác với người tuổi Giáp Thân (1944), Bính Tuất (1946), Canh Thìn (1940). Nữ giới nên hợp tác với
Doanh nhân tuổi Ngọ chọn đối tác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Đối với doanh nhân tuổi Nhâm Ngọ (1942), nam giới nên hợp tác với người tuổi Giáp Thân (1944), Bính Tuất (1946), Canh Thìn (1940). Nữ giới nên hợp tác với người tuổi Giáp Thân, tuổi Bính Tuất và tuổi Canh Dần (1950).

Đối với doanh nhân tuổi Giáp Ngọ (1954), nam giới nên hợp tác với người cùng tuổi Giáp Ngọ, Bính Thân (1956), Kỷ Hợi (1959). Nữ doanh nhân tuổi Giáp Ngọ nên hợp tác với người cùng tuổi Giáp Ngọ, tuổi Bính Thân, tuổi Nhâm Dần (1962).

Đối với doanh nhân Bính Ngọ (1966), nam giới nên hợp tác với người cùng tuổi Bính Ngọ, tuổi Tân Hợi (1971), tuổi Ất Mão (1975). Nữ doanh nhân tuổi Bính Ngọ nên hợp tác với người cùng tuổi Bính Ngọ, tuổi Tân Hợi, tuổi Nhâm Tý (1972).

Đối với doanh nhân Mậu Ngọ (1978), nam giới nên hợp tác với người tuổi Kỷ Mùi (1979), tuổi Quý Hợi (1983), tuổi Ất Sửu (1985), tuổi Đinh Mão (1987), tuổi Đinh Tỵ (1977), tuổi Ất Mão. Nữ giới nên hợp tác với người tuổi Kỷ Mùi, tuổi Quý Hợi, tuổi Ất Sửu.

(Theo Việt Báo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Doanh nhân tuổi Ngọ chọn đối tác

Đối tượng của khoa Tử Vi

Cách đây mười thế kỷ, ngay từ lúc được sánglập cho đến nay khoa Tử-Vi vẫn giữ nguyên đối tượng: khoa này chú mục tien đoánvận mệnh con người, nghiã là tìm cách biết trước, ngay từ lúc trẻ mới sinh, cátính và cuộc đời sau này của nó.
Đối tượng của khoa Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Như vậy, đối tượng của khoa Tử-Vi bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhu: thứ nhất là con người, thứ hai là đời người.

Con người cuả Tử-Vi có những đặc tính gì?

Đời người trong lá số Tử-Vi có những yếu tố nào?

1.      – Con người trong khoa Tử-Vi

Khoa Tử-Vi phân tích sây rộng đặc tính của con người, nhưng thật sự chú ý nghiên cứu con người còn sống, con người toàn diện và con người thế tục mà thôi.

a)  Con người còn sống

Con người còn sống ở đây là cn người lúc sinh thời, tức là từ lúc đứa bé chào đời cho đến khi ó quá vãng. Nói như thế có nghiã là lúc cá nhân chết đi thì khoa Tử-Vi không lý tới nữa. Khoa này không ngiên cứu âm hồn, không hề nói đến sự tái sinh dưới một kiếp khác, không đề cập luân hồi như trong phật học. Khoa Tử-Vi đứng trong phạm vi của hình nhi hạ học, gạt bỏ cái gì siêu hình, không bàn đến hậu kiếp cá nhân trên thiên đàng hay âm thế. Trái lại, cái gì thuộc cõi dương, bao giờ cá nhân còn sống thì khoa Tử-Vi mới khảo sát.

Tuy thế, cũng cần đặt thêm một giới hạn khác trong đối tượng của khoa Tử-Vi. Lúc nào con người nghiên cứu. Thành thử, cái bào thai dù là tiền thân của con người sống, không phải là đối tượng của khoa.

Có quan điểm chặt chẽ hơn cho rằng, lá số Tử-Vi chỉ thật sự ứng dụng cho con người từ 13 tuổi trở đi. Lý do đưa ra là trước tuổi này, kiếp sống của trẻ rất bấp bênh, lệ thuộc vào thời tiết, vào bệnh tật, sống hay chết tuỳ sự chăm sóc của cha mẹ, đứa trẻ cũng chưa chín mùi về nhân tính, chưa hội đủ điều kiện để sinh tồn như một con người toàn vẹm: tri thức, thể xác, tình cả, lương tri của nó chưa nảy nở đầy đặn, nó cũng chưa có một sự nghiệp theo đúng nhiã của danh từ vì, trước tuổi 13, trẻ con chỉ mới tập sự vào đời.

Quan điểm này xét  khả chấp vì khoa Tử-Vi khi chọn người làm đề tài đã quan niệm cuộc sống đó theo một nhaĩa toàn vẹn: con người sống phải là một cá nân trưởng thành ít nhiều về thể xác, tinh thần, tình cảm, lương tri, đạo đức, có một khởi đầu sự ngiệp, một khởi đầu vận mệnh. Đó là con người tự lập, tự túc, tương đối lam2 chủ ít nhiều hành động của mình, nó khác đi đó là con ngừơi toàn vẹn về nhân tính. Dy có điều cần lưu ý rằng, đối với trẻ con dưới 13 tuổi, việc xem Tử-Vi cho nó chỉ chuyên chú vào khả năng tồn tạ của nó, cụ thể là xét xem nó có sống được hay không, bệnh tật như thế naò. Như vậy, khía cạnh phải cứu xét là khiá cạnh thọ, yểu bệnh, tật nói chung là sức khỏe. Còn những khía cạnh khác như quan trường, tài lộc, điền sản, gia đạo, con cái chưa ứng dụng.

Nói tóm lại, khoa Tử-Vi là con người toàn diện. Điều này co nghĩa là khoa Tử-Vi khảo sát con người  dưới mọi khía cạnh, bao hàm cả phần xác lẫn phần hồn, trí tuệ và tình cảm, sinh lý và tâm lý, ý thức và tiềm thức v.v … Không  bao giờ con người bị bẻ mẻ, hoặc bị chiết nhỏ ra từng mảnh biệt lập. Khoa Tử-Vi đã tổng hợp con người một cách đầy đủ và phong phú, kết tinh hết yếu tố phối trí toàn thể các thành phần, chớ không đánh giá cn người qua một bộ vị, một giác quan hoặc một cơ năng.

Điều này phản ánh rõ rệt trong bố cục của lá số Tử-Vi. Mặc dù là số này có phân tích co người qua 12 cung, nhưng mỗi cung riêng rẽ không hề được xem là đầy đủ để diễn tả toàn thể cá nhân. Cá nhân chỉ được thể hiện qua toà thể lá số, trên một loạt 12 cung. Đó là con người nhất trí trong một lá số nhất trí. Việc giải đoán Tử-Vi vì thế không thể bỏ qua sự tổng hợp để chỉ đứng trong thế phân tích. Trái lại, phải phân tích để tìm sự tổng hợp.

Sở dĩ khoa Tử-Vi xem con người như một tổng thể toàn diện là vì, nếu chiết nhỏ ra từng bộ phận riêng, con người sẽ không còn sống như một đơn vị toàn vẹn: làm như thế là giết chết một đối tượng sống phủ nhận đắc tính sinh động trong đặc tính toàn diện của con người.

Vì khảo sát con người toàn diện, cho nên cái gì của con người cũng được khoa Tử-Vi để ý tìm tòi. Khoa này lưu tâm nghiên cứu, từ những yếu tố lớn như ảnh hưởng của vật chất, của xã hội, của huyết thống trên cá nhân, cho đến các yếu tố nhỏ hơn như cơ thể, bệnh trạng, trí tuệ, tình cảm, bản năng, ký ức, nguyện vọng, phản ứng, bản ngã, nhân cách trong các môi trường sinh hoạt. Những phạm vi cuả nhân học Tây phương đều được Tử-Vi  học tìm hiểu, từ cơ thể học (anatomie), bệnh lý học (pathologe) cho đến tâm tính học (carac-térologle), tướng mạo học (morphonlogie). Lẽ dĩ nhiên, với một địa hạt khảo cứu rỗng rải như thế, Tử-Vi học không thể đi vào chuyên khoa. Những ý nghĩa cơ thể, bệnh lý, tính tình, tướng mạo … Trong Tử-Vi chỉ có tính cách tổng quát, hoặc niều lắm là chỉ đạt đến một trình độ cụ thể nào mà thôi. Nhưng chính khảo hướng đại cương đó nói lên quan niệm con người toàn diện của khoa này.

b)  Con người thế tục

Khoa Tử-Vi chọn con người ở đời làm đối tượng, nghĩa là con người phàm tục, có cá tính phàm tục và cuộc đời phàm tục.

Cá tính phàm tục đây là cá tính của trung bình nhân loại (I’homme moyen), của đại đồng chứng sinh (I’homme universel). Đó là loại người có đầy đủ thất tình lục dục, bị chi phối bởi nó cũng như bị chi phối bởi bản năng: con người trong Tử-Vi không tiêu diệt dục vọng, không chống đối bản năng, vị kỷ hơn là vị tha, tham sống và không chống lại sự sống, dù phải chịu nhiều khổ cực. Họ tìm cách né tránh khổ cực chớ không tìm cái chết để đoạn tuyệt với gian truân.

Cuộc đời của con người trong Tử-Vi cũng là cuộc đời đầy tục lụy. Họ chạy theo nhu cầu cá nhân, của gia đình, của xã hội, tham danh, hám lợi, theo đuổi hạnh phúc vật chất và phú qý vinh hoa đến cùng cực. Đa số sợ chết, sợ khổ, sợ nghèo, sợ họa, sợ bệnh và chỉ nhận các bất hạnh này khi đối cùng. Vì tính cách tụclụy của kiếp sống cho nên nhân sinh quan của con người trong Tử-Vi rất thường tình, thiên về hiện sinh. Và trong kiếp này, họ là con người tại thế xu thời chớ không xuất thế thoát thời. Con người trong Tử-Vi không đi tu. Tu sĩ là người trốn đời, thoát phàm và siêu phàm, lấy niết bàn làm hạnh phúc, tự đặt mình ra khỏi cuộc đời, xem cuộc đời như tạm bợ. Con người trng Tư-Vi cũng không phải là thuật sĩ(fakir). Thuật sĩ là kẻ cay61p nhận khổ nh5c, ép xác, hành xác, chống lại bản năng, tiêu diệt cảm xúc, chế ngự cảm giác để mong vượt khỏi thường tình.

Con người torng Tử-Vi không cao siêu như vậy. Nhãn quan Tử-Vi là nhãn quan thế tục. Điểm này được minh chứng rõ rệt trong quan niệm phúc đức, trong quan niệm gia đạo, tong quan niệm Mệnh Thân và trong ý nghĩa các vì sao.

Quan niệm phúc đức thế tục

Khoa Tử-Vi chỉ chú ý đến hạnh phúc của con người trần gian. Hạnh phúc này lệ thuộc vào tiền bạc, gia đạo và thời thế. Trong lá số Tử-Vi, cung Phúc bao giờ cũng được hội chiếu với 3 cung Tài, Phu Thê và Thiên Di.

Cung Tài chỉ tiền bạc, gia sản hoặc nói rộng ra là yếu tố vật chất của một cuộc sống vật chất. Vì cung Tài trực ciếu vào cung húc cho nên có nghĩa là tiền bạc, sinh kế là yếu tố quan trọng của hạnh phúc. Nói khác đi, cái phúc của cá nhân được đo bằng tiền tài. Những ai có nhiều tiền, nhiều điền, nhiều xe, nhiều hoa màu thì tốt phúc.

Cung Phu Thê chỉ gia đạo. Trong lá số, cung này cũng chiếu vào cung Phúc. Điều này phản ảnh quan niệm cho rằng hạnh phúc cá nhân tuỳ thuộc vào một gia đạo tốt. Vì có cung PhuThê cho nên con người coi như phải sống chung với gia đình. Noí khác đi, đó là phàm nhân, có nhu cầu sinh lý, có ái tình, có vợ, có chồng, chớ không phải con người tiệt dục, xa lánh chuyện nam nữ, tách rời với vợ con. Văn hóa thời đại nhà Tống còn chấp nhận cả đa thê, xem việc có nhiều con cái là phúc lộc.

Cung Thiên Di chỉ thời thế, hoàn cảnh xã hội, được coi như yếu tố của hạnh phúc. Ai sinh phùng thời, được xã hội ưu đãi thì tốt phúc. Vì có cung Thiên Di nên có thể nói rằng con người của khoa Tử-Vi là con người sống ở đời, chung đụng với xã ội, nhập thế và tại thế chớ không xuất thế, không thoát tục. Bối cảnh môi sinh là điều kiện ngoại tại có ảnh hưởng đến hạnh phúc thế tục.

Tóm lại, nhìn vào cách cấu tạo phúc đức trong lá số, ai ai cũng thấy rằng đây là loại hạnh phúc trần gian, đo bằng tiền bạc, bằng lợi điểm của gia đạo và của xã hội ban cho mình. Không có phần phúc đức duylinh, siêu thoát của linh hồn. Tử-Vi quan là một nhân sinh quan, cụ thểlà nhân sinh quan thế tục. Đối tượng của khoa Tử-Vi là con người và đời người trần thế, không phải là người đạo, cõi đạo hay phúc đạo. Phạm vi khảo sát của Tử-Vi học chỉ là Đời.

Quan niệm gia đạo

Lá số Tử-Vi nào cũng có hai cung Phu Thê và Tử Tức để chỉ gia cảnh. Điểm này ngụ ý rằng đây là lá số của người ở đời, có vợ, có chồng, có con, co đời sống gối chăn, có tình nghiã phụ tử. Con người trong lá số không chối bỏ cõi trần, vẫn bị chi phối bởi nợ trần và tạo thêm nợ trần bằng bầu đoàn thê tử.

Lẽ dĩ nhiên, cũng có những người không có gia đình, không có con cái. Nhưng, nếu họ còn ở đời, chia xẻ khát vọng, xu hướng người đời thì họ vẫn là đối tượng của khoa Tử-Vi. Bao giờ họ thoát đời đi tu, bấy giờ họ không thuộc phạm vi khảo sát của Tử-Vi nưã. Nhãn quan Tử-Vi phân biệt rất rõ hai phạm vi đạo và đời.

Quan niệm Mệnh – Thân

Cơ cấu của Mệnh và Thân thể hiện rất rõ quan niệm thế tục của khoa Tử-Vi. Mệnh hay Thân, bao giờ cũng được xét chung với 3 cung Thiên Di, Tài Bạch và Qan Lộc.

Cung Thiên Di chỉ thời thế, hoàn cảnh xã hội. Cung Tài Bạch chỉ tiền bạc, sinh kế. Cung Quan Lộc chỉ sự nghiệp, quan trường. Đã l2 con người thế tục, vị tất phải sống với xã hội, phải có phương tiện sinh nhai, phải có nghề nghiệp. Chí hướng con người lúc nào cũng vọng về 3 mục tiêu đó. Hạnh phúc thế tục của họ được đo bằng mức độ giàu nghèo, sang hèn, phùng thời thế. Đó là 3 yếu tố của vinh hoa, vật chất, giúp đánh giá sự thành bại của người đời

Quan niệm thế tục của các vì sao

Trong Tử-Vi, có rất nhiều sao noí lên cuộc sống thế tục, chẳng h5n như sao phú, sao quý, sao họa, sao bệnh, sao phúc. Những sao này hiển nhiên không có ích lợi gì cho tu sĩ vì người đạo không màng đến phú quý, bệnh họa. Như vậy các sao đó chỉ để áp dụng vào vận mệnh đời người.

Nhiều sao kết hợp thành cục và cách. Khoa Tử-Vi chia các cục thành nhiều loại: phú cục, quý cục, bần tiện cục. Cách cũng có thượng cách, trung cách, hạ cách và phi thường cách. Trong cục cũng như trong cách, đã hàm chứa ý nghĩa thế tục của sinh hoạt cá nhân.

Tất cả dẫn chứng trên đây giúp ta tổng kết được quan niệm và con người của khoa Tử-Vi và thế giới Tử-Vi.

Con người trong Tử-Vi là con người trong gia đình, không thoát ly gia đình, là con người trong xã hội, không xa lánh xã hội, là con người trong môi trường sinh hoạt vật chất, không từ bỏ tiền bặt, danh quyền: là con người bằng xương bằng thịt, không chối bỏ sinh lý. Đó là con người lấy đức Sinh của vũ trữ làm lẽ sống, thụ nhận sự sinh tử cha mẹ và tạo sinh thế hệ mới con cái.

Còn thế giới Tử-Vi là thế giới trần gian, là nhân thê, không phải là thiên đàng hay niết bàn, tiên cảnh. Đó là khung cảnh sống của nhân loại chớ không phải của thần linh.

Còn thế giới Tư-Vi là nhân sinh quan chứ không phải là vũ trụ quan, cũng không phải là phật tử quan. Khoa Tử-Vi là một bộ môn của hình nhi hạ học, không phải là siêu hình học. Đối tượng của khoa Tử-Vi là người đời chớ không phải người đạo. Tinh thần Tử-Vi là tinh thần nhân bản thế tục, không phải nhân bản thoát tục.

Đời người trong khoa Tử-Vi

Học về con người, khoa Tử-Vi còn học về đời người, nói khác đi là vận mệnh, kiếp số, hạnh phúc, hoạn nạn, hên xui, các biến cố xảy ra. Về điểm này, ta thấy khoa Tử-Vi đã chọn một đối tượng rất táo bạo. Trong khi nhân học Tây Phương dừng lại trên cá tính con người thì khoa Tử-Vi Đông phương lại đi xa hơn, khảo cứu luôn định mệnh, tức là kết quả của sự va chạm và của cá tính với môi sinh.

Khoa này khảo sát rất nhiều về môi trường sinh sống của nhân loại, khung sinh hoạt của cá nhân. Làm sao Tử-Vi có rất nhiều cung mô tả ngoại cảnh.

Trước hết, ngoại cảnh của đại gia đình nằm trong ba cung Phúc, Phụ, Bào, mô tả lần lượt ông bà, cha mẹ, anh em, tức là mối liên hệ huyết thống trong dòng họ, ảnh hưởng của huyết thống đó trên con người và kiếp sống thiếu niên.

Kế đến là ngoại cảnh tiểu gia đình qua hai cung Phu Thê và Tử Tức, noí lên tình chảnh vợ chồng, con cái và ảnh hưởng của gia đạo trên con người, trong đời người.

Khung cảnh ngoại gia đình cũng không bị bỏ qua. Cung Nô, cung Di mô tả đời sống ngoại hôn với nhân tình bồ bịch.

Khung cảnh xã hội được khảo sát trong cung Thiên Di, chỉ hoàn cảnh, thời thế.

Môi trường nghề nghiệp thì do cung Quan phô diễn.

Môi trường sinh kế thì do hai cung Tài và Điền.

Như vậy, đời người được mô tả rất phong phú qua ngoại cảnh, được coi như khuôn khổ hoạt động và yếu tố chi phối kiếp sống. Con người vừa bị đóng khung trong bối cảnh sinh hoạt, vừa biến dịch trong khuôn khổ ngoại cảnh đó. Khoa Tử-Vi không tách con người rời khỏi cảnh sống, mà đặt con người trong kiếp sống, trong chỗ đứng cố hữu của nó. Tử-Vi học ví con người như con cá phải sống chung với nước và khảo cứu con cá trong nước. Vớt con cá ra khỏi nước là nghênh cứu không thực tiễn, từ đó những kết luận về con cá hẳn phải sai lệnh. Khoa Tử-Vi đặt con người trong bối cảnh thiên nhiên, không sửa đổi con người, không sửa đổi bối cảnh. Đây là một phương pháp nhên cứu rất thực tế, rất thích đáng và rất sống động: nhìn một động vật trong bối cảnh động.

Khảo hướng động này đòi hỏi khoa Tử-Vi phải xét kiếp sống con người qua thời gian. Về điểm này, cuộc đời con người cũng đưọc hân tích rất tỷ mĩ, trong từng chu kỳ ngắn và dài hạn.

Ngắn hạn thì có chu kỳ từng ngày, từng tháng, từng năm với những biến cố, hên, xui, họa phúc liên hệ.

Dài hạn thì có chu kỳ từng 10 năm, chu kỳ tiền vận (30 năm đầu) và chu kỳ hậu vận (30 năm sau).

Con người được khảo sát trong toàn đời, trên những bước sống lần lượt, torng những lúc thành bại, thăng trầm, qua các biến cố khác nhau, lúc phúc, lúc họa, lúc bệnh, lúc may, lúc rủi, lúc chết, qua những khúc quanh khác nhau trong nghề nghiệp, trong gia đạo, trong sinh kế …

Lấy đời người làm đối tượng, khoa Tử-Vi có một tham vọng hết sức lớn lao và táo bạo. Lớn lao vì tham vọng đó muốn tiên đoán tương lai một cách khẳng định, không phải cho cá nhân mà cho cả mọi người thế tục. Khoa Tử-Vi cố gắng giải quyết tham vọng đó qua hai phương pháp phân tích và tổng hợp. Điều này sẽ được bày trong chương kế tiếp của khoa Tư-Vi.

Riêng về các đối tượng của khoa Tử-Vi, ta thấy vì khoa này quan niệm con người sống, toàn diện và thế tục cho nên sẽ không ứng dụng được cho vài loại người. Nói như thế là có một số ngoại lệ trong đối tượng, khiến cho phạm vi áp dụng bị thu hẹp.

Ngoài ra, vì có một số người quá ư đặc biệt, vì cách lấy số Tử-Vi rất đặc thù, cho nên, ngay cả với các đối tượng thật sự của khoa Tử-Vi, ta thấy sự áp dụng cũng bị hạn chế đi nhiều.

Ta sẽ lần lượt khảo sát những ngoại lệ và những giới hạn của đối tượng Tử-Vi.

Lược trích "Tử vi tổng hợp" của Nguyễn Phát Lộc
Hiện sách E-book có bán tại  đây.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đối tượng của khoa Tử Vi

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd