Mơ thấy sát hại người khác: Đang chịu đựng áp lực tình cảm –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Kế: Kiến thức uyên bác, đối xử công bằng, có số xuất ngoại.
Kết: Đa tài, cuộc đời thanh nhàn, trung niên yên ổn, cuối đời gặp chuyện buồn.
Khả: Thông minh, số đào hoa, cuối đời hưởng phúc lộc.
Tên bắt đầu bằng chữ cái K: trí dũng song toàn |
Khách: Phúc lộc song toàn, trung niên vất vả, cuối đời thanh nhàn, cát tường.
Khải: Trí dũng song toàn, đi xa gặp may, trung niên hưng vượng, gia cảnh tốt.
Khản: Có tài năng song không gặp thời, trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời cát tường.
Khán: Đa tài, lanh lợi, trung niên thanh nhàn, cát tường, cuối đời vất vả.
Kháng: Thuở nhỏ vất vả, kỵ sông nước, cuối đời cát tường.
Khang: Trí dũng song toàn, hay giúp đỡ người, trung niên bôn ba, cuối đời cát tường.
Khánh: Anh minh, đa tài, danh lợi vẹn toàn, phú quý.
Khanh: Có số làm quan, xuất ngoại, trung niên thành đạt.
Khảo: Cả đời thanh bạch, bình dị, nếu xuất ngoại sẽ cát tường; trung niên vất vả nhưng cuối đời thành công.
Khao: Có số xuất ngoại, cả đời bình an, khắc cha mẹ.
Khẩu: Có tài ăn nói, trung niên vất vả nhưng cuối đời cát tường.
Khích: Đi xa gặp quý nhân phù trợ, có số làm quan, nên kết hôn muộn sẽ đại cát, cả đời hưng vượng.
Khiếm: Hay lo lắng, cuộc sống khốn khó, khắc bạn đời và con cái.
Khiêm: Thông minh, nhanh nhẹn, có tài giao tiếp, trung niên sống bình dị, cát tường.
Khiêu: Thanh tú, lanh lợi, trắc trở tình duyên, trung niên đề phòng có họa, cuối đời cát tường, phú quý.
Khoa: Anh tú, trung niên thành công, thịnh vượng, xuất ngoại sẽ cát tường.
Khóa: Thuở nhỏ gian khó, trung niên bình dị, cuối đời cát tường.
Khoái: Bản tính thông minh, đa tài, tình duyên trắc trở, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Khoan: Thanh nhàn, đa tài, phú quý, trung niên cát tường, gia cảnh tốt, nếu là con gái thì không nên đặt tên này.
Khoáng: Mẫn tuệ, gia cảnh tốt, cả đời cát tường.
Khôi: Cuộc đời thanh nhàn, bình dị, cẩn thận lời ăn tiếng nói, cuối đời cát tường.
Khởi: Khắc bạn đời hoặc con cái, xuất ngoại sẽ gặp phúc, số có 2 vợ, trung niên vất vả, cuối đời phát tài, phát lộc.
Khôn: Thanh tú, lanh lợi, con cái thông minh, trung niên có tai họa, kết hôn muộn sẽ hạnh phúc.
Khổng: Ưu tư, lo nghĩ nhiều, trung niên vất vả, cuối đời hưởng sung sướng.
Khuất: Thuở nhỏ gian nan, trung niên thành công rộng mở, có số đào hoa; một số người lo nghĩ nhiều.
Khuê: Cả đời phúc lộc, trí dũng song toàn, trung niên cát tường.
Khung: Có tài song không gặp thời hoặc vất vả cả đời, tính tình cương trực.
Khương: Đa tài, nhanh trí, tính tình ôn hòa, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Khuyên: Sống thanh nhàn, trọng tín nghĩa, trung niên cát tường, gia cảnh tốt.
Kiếm: Tính tình quyết đoán, cẩn thận gặp họa dao kiếm, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Kiến: Tính tình quyết đoán, có tài, xuất ngoại gặp phúc, xa quê lập nghiệp thành công, trung niên vất vả, nếu kết hôn và sinh con muộn thì sẽ đại cát, phúc lợi song toàn.
Kiện: Ưu tư, vất vả, khó được hạnh phúc, cuộc sống gặp nhiều trắc trở, tai ương.
Kiệt: Xuất ngoại đại cát, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng.
Kiều: Đa tài, đức hạnh, trí dũng song toàn, có số làm quan hoặc xuất ngoại.
Kính: Đa tài, đức hạnh, gặp nhiều may mắn, có số làm quan, gia cảnh tốt.
Kỵ: Gia đình không hạnh phúc, lắm bệnh tật, cuối đời vui vẻ.
Kỳ: Học vấn uyên thâm, trí dũng song toàn, có số làm quan, có 2 con sẽ đại cát, cả đời vinh hoa phú quý.
Kỷ: Thời trai trẻ bôn ba, vất vả, lận đận chuyện tình cảm, cuối đời hưởng hạnh phúc.
Theo Tên hay thời vận tốt
Không nên kê giường đối diện với cửa chính của phòng ngủ hay quá gần cửa sổ. Vì trong phong thủy tránh những kết cấu trực xung, những luồng sát khí có thể xâm nhiễm trực tiếp và ảnh hưởng tới sức khỏe. Kê giường sát cửa sổ sẽ bị ảnh hưởng bởi ánh sáng mạnh và những âm thanh ồn ào từ môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới quá trình nghỉ ngơi. Hơn nữa, kê giường gần cửa sổ, khi trẻ nhỏ chơi đùa, đá bóng, ném đá hay kẻ xấu phá hoại thì có thể gây nguy hiểm, nhất là cửa sổ có kính.
Tránh vị trí kê giường ở dưới dầm nhà, xà ngang. Vì bố cục này gây ra trường khí đè nén, áp lực. Dù là phòng ăn, phòng đọc sách hay phòng ngủ cũng đều không nên có kết cấu này. Khi gặp bốt cảnh đó, ta có thể thiết kế trần giả để che dầm nhà, xà ngang đó đi.
Giường ngủ dưới dầm nhà
Không được kê giường với bên kia tường là nơi thờ tự tâm linh. Lại càng không nên kê giường ở tường bên kia là bồn cầu vệ sinh. Những nơi tâm linh thờ tự tượng phật, bàn thờ tổ tiên, bàn thờ thần phật có trường khí đặc biệt linh thiêng, nằm ngủ đối đầu với những nơi thờ tự ảnh hưởng tới thần kinh, và có tính bất kính, khiếm nhã với các đấng tối cao (về lĩnh vực tâm linh thì là như vậy).
Giường ngủ sau bàn thờ
Đối với bồn cầu, bên kia tường, dòng khí ô trọc dơ đục, vi khuẩn, mầm bệnh nhiều, dù đã cách bức tường nhưng vẫn là một luồng sát khí khá đáng kể lợi hại, hậu quả mà gây ra khi ngủ ở một chiếc giường như vậy lâu dài sẽ khiến trí tuệ kém minh mẫn sáng suốt, ảnh hướng rất tệ tới công danh sự nghiệp.
Đầu giường ngủ đối đầu với bồn cầu vệ sinh
Phương vị
Phương vị kê giường bấy lâu nay vẫn trở thành tâm điểm tranh luận của nhiều người nghiên cứu phong thủy, tử vi. Nhiều người cho rằng phải quay đầu về phương vị cát lợi như Thiên y, Phục vị, Sinh khí, Phúc đức theo quái mệnh của người ở. Nhưng nếu như hai vợ chồng thì sẽ làm thế nào đây?
Người theo Phật giáo cho rằng Phương Tây là quê hương của đất Phật đó là phương vị an toàn về mặt tâm linh, có tác dụng bảo vệ độ trì cho con người, vì thế nên quay đầu về hướng đó.
Dưới góc độ khoa học thì phương vị lý tướng nhất để kê giường đó chính là phương vị Bắc – Nam, vì Trái đất có từ trường, tại hai phương vị Bắc Nam, và từ phổ tán xạ ra các phương vị khác. Trái đất cũng luôn tự quay theo hướng từ Tây sang Đông. Nếu đặt giường ngủ theo phương vị Bắc – Nam vừa tránh được đường sức của từ phổ Trái đất, vừa tránh được lực tự quay của Trái đất, tạo nên giấc ngủ sâu, an lành, đặt biệt là những người có thần kinh nhạy cảm, mất ngủ, khó ngủ.
Từ trường của Trái đất
Nơi tựa
Đầu giường ngủ nhất thiết phải có kháo sơn vững chắc, vì thế nên phải kê đầu giường sát tường. Theo nguyên lý của phong thủy thì “nhất vị, nhì hướng” phương tọa phải vững chắc ổn định rồi mới bàn tới chuyện hướng trước mặt.
Đầu giường không sát tường mà có khoảng trống tạo nên một cảm giác hụt hẫng, thiếu an toàn. Bởi thế cho nên nhất thiết phải kê đầu giường sát tường có kháo sơn vững chắc.
Gầm giường
Khoảng cách gầm giường cao 50 centimet là lý tưởng nhất. Ngoài ra, nên giữ gầm giường sạch sẽ, thoáng mát khô ráo, tránh chất chứa những đồ linh tinh và lộn xộn. Vì nếu không để thoáng đãng, thường xuyên vệ sinh sạch sẽ thì đó là nơi trú ẩn của các loài vật gây hại như chuột, gián, kiến, vi khuẩn và nấm mốc, có thể gây ảnh hưởng tới sức khỏe.
Những đồ vật khác
Thú bông: Có nhiều người thường chơi thú bông, nhưng đối với thú vui này ta cũng nên thận trọng, nên thường xuyên giữ vệ sinh, giặt tẩy cẩn thận, vì nếu để lâu ngày, bụi bặm, hơi ẩm, nấm mốc, vi khuẩn ký sinh, không tốt con người.
Bình hoa: Khi cắm hoa tươi trong phòng nên thay nước hàng ngày, và loại bỏ khi hoa héo, nếu không, thân cành hoa phân hủy, gây ra những mùi khó chịu, khiến dơ trọc không khí, nhiễu loạn trường khí trong căn phòng.
Hải Triều
► Xem thêm: Mật ngữ 12 chòm sao, Horoscope được cập nhật mới nhất |
Một số sao rất có tiềm năng kinh doanh, nhưng kiếm được thì cũng chi được. Họ có thói quen tiêu tiền mà không suy nghĩ, chỉ cần là món đồ họ thích thì họ sẵn sàng chi tiền để có thể sở hữu được chúng.
Ảnh minh họa |
► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất |
Các chuyên gia phong thủy dự đoán năm 2014 Giáp Ngọ sắp tới thế giới sẽ hứng chịu ít bão lũ nhưng nhiều hỏa hoạn hơn. Cùng ## xem kiến thức phong thủy và khám phá xem phong thủy năm 2014 có thực sự may mắn không nhé!
Jean Sy, nhà phong thủy ở Manila, Philippines, nói rằng năm 2014 là một năm thành công và thuận lợi về mặt tiền bạc cho những người tuổi Tí, Ngọ, Mão, Dậu, tuy nhiên lại không thuận lợi về mặt sức khỏe và các mối quan hệ.
Theo ## thì đối với những người sinh ra vào năm Dần, Hợi, Thìn, Tỵ và Tuất, nhà phong thủy cho rằng năm 2014 sẽ không thật sự được suôn sẻ bởi có “sao hạn” gây ra những tiêu cực và trở ngại cho họ. Tình trạng tài chính của những người này không ổn định và họ cũng phải chú ý giữ gìn sức khỏe.
Đây lại là năm may mắn cho những người tuổi Thân, Mùi và Sửu khi họ có một sự nghiệp thịnh vượng. Về mặt nghề nghiệp, những người trong ba tuổi kể trên sẽ nhận được những điều bất ngờ tốt đẹp mà họ không hề ngờ tới. Sẽ có những khó khăn nhất định nhưng họ sẽ dễ dàng vượt qua bởi có những cát tinh, hay ngôi sao may mắn, giúp đỡ họ.
Bà Sy có bằng chứng nhận về phong thủy ở Malaysia 4 năm trước và nghiên cứu, thực hành phong thủy trong 7 năm qua. Bà cũng cho biết rằng màu may mắn cho năm 2014 là màu xanh nước biển và màu vàng, những màu đại diện cho các yếu tố thủy và thổ. Màu xanh và vàng sẽ cân bằng những yếu tố còn thiếu của năm Ngọ.
“Các nguyên tố của năm Giáp Ngọ là Kim, Hỏa và Mộc, vì vậy Thủy và Thổ là những nguyên tố cân bằng”, bà nói với tờ SunStar.
Màu xanh sẽ tăng cường nguyên tố Thủy, tốt cho các mối quan hệ và sự giao thiệp, trao đổi thông tin, trong khi màu vàng sẽ cân bằng các yếu tố tiền tài, sức khỏe và sự thành công.
Trong lĩnh vực chính trị, nhà phong thủy Philippines dự đoán các nhà lãnh đạo tài năng sẽ xuất hiện năm nay từ những cá nhân tuổi Hợi, Mão và Mùi, bởi họ được sinh ra để làm lãnh đạo và có các kĩ năng về ngoại giao.
Về tình hình thiên tai, Sy dự đoán năm Giáp Ngọ này sẽ có nhiều hỏa hoạn, núi lửa phun trào, động đất và hạn hán nhiều hơn, nhưng sẽ ít phải hứng chịu các cơn bão hơn.
## thấy năm 2014 cũng được dự đoán là một năm nhiều cạnh tranh, ganh tị, bất an và nhiều âm mưu, nhưng đồng thời cũng có những niềm vui và những mối quan hệ tốt.
Chuyên gia phong thủy khác của trang Chinese Astrology cũng cho biết 2014 là năm Giáp Ngọ mang tính dương, trong khi bản thân ngựa lại bao gồm chủ yếu là nguyên tố hỏa. Vì vậy, năm 2014 là năm gỗ gặp lửa, biểu đồ tương sinh này có quá nhiều lửa và mất cân bằng, gây nhiều yếu tố tiêu cực.
Ngọn lửa làm bùng cháy cả những người điềm đạm nhất, còn những người nóng nảy hơn cũng sẽ gặp một số khó chịu trong các mối quan hệ và làm ăn. Những người mang mệnh Thổ, Hỏa sẽ có một năm rất tốt, người mang mệnh Mộc và Thủy sẽ tạm ổn và những người mang mệnh Kim thì gặp khó khăn một chút.
Ngoài ra, con ngựa là biểu tượng của sức mạnh, sự ổn định, sự kiên trì, độc lập, nhưng cũng có bướng bỉnh, hạn hẹp và sự thù địch. Vì thế các nhà phong thủy khuyên sử dụng đồ trang sức màu xanh nước biển để giảm bớt những tác động tiêu cực trong năm 2014.
Vì Thiên can Địa chi nguyên lấy ý nghĩa từ cây cối, cho nên ý nghĩa nguyên thủy của nó còn có cách nói rất thú vị. Trong văn hóa Ngũ hành cổ đại đã từng dùng vòng Giáp Tý để biểu thị quy luật sinh trưởng của muôn loài.
Phương pháp xác định loại Ngũ hành dựa vào năm sinh là nội dung trọng yếu của thuật bói toán cổ đại. Nhưng khi sử dụng nó, cũng không phải cô độc một mình nó mà phải xem xét tới quy luật của 12 Chu kì của Ngũ hành và tổng thể Ngũ hành can chi của năm. Theo can chi năm sinh khác nhau thì có diễn giải khác nhau:
Hải Trung Kim: Vàng che đây khí ấp ủ ở trong nước, ở kho báu long quan, bảo vật trong bụng của con giao long. Giáp Tý thuộc Hải trung Kim: Kim sinh Thủy, Thủy sinh mộc, khi gặp việc có thể rất thô lỗ; Ất Sửu cũng là mệnh Hải trung Kim nhưng đây lại là vàng ở trong kho, có tính nết rất đặc thù.
Kim Bạc Kim: là vàng mềm yếu, chén bát sáng sủa, tăng sang trọng trong cung vua. Nhâm Dần là Kim bạc Kim: Thủy sinh Mộc, Kim khắc Mộc, Quý Mão Kim bạc kim: tương tự như Nhâm Dần.
Bạch lạp Kim: vàng nằm trong mỏ, vàng vừa mới thu chính khí, ngọc miếng ở Côn Sơn, vàng ở Lạc Phố lưu lại. Canh Thìn thuộc Bạch lạp Kim: vàng tụ lại từ khí, thân thể có vượng tướng, chú ý làm việc có chừng mực; Tân Tị Bạch Lap Kim: Vàng tự sinh, Kim trường sinh tại Tị, có sức sáng tạo.
Sa Trung Kim:Vàng ở trong cát nhưng khác xa với cát, mới hình thành trên đất, chất quý hiếm ẩn trong cát. Giáp Ngọ thuộc sat rung kim là vàng cứng rắn, sự nghiệp có tiền đồ. Kỷ Mùi sa trung kim: thuận lợi trong thăng quan tiến chức.
Kiếm phong Kim: Vàng ở mũi kiếm đã tuốt khỏi vỏ, bạch để ty quyền, vừa ra lò qua tôi luyện. Nhâm Thân thuộc Kiếm phong Kim: là vàng trước của quan cực vượng, có tiền dồ phát triển, chú ý khi còn nhỏ thương tật ốm đau. Quý Dâu Kiếm phong kim: Có cơ hội làm nghề thương mại.
Thoa xuyến Kim: Vàng để luyện trang sức, làm cho bộ mặt thêm đẹp, tăng hào quang. Canh tuất thuộc Thoa xuyến Kim: vàng tự trưởng thành, hành sự cần chú ý lòng tin. Tân Hợi thuộc thoai xuyến Kim: trung niên cần đề phòng bệnh tật.
Tang thác Mộc: Hình dáng của công còn cong chưa vươn ra, âm thinh, gốc rễ đẹp đẽ. Nhâm Tý thuộc Tang thác mộc: Cha mẹ đối với mình thật là quan trọng. Quý Sửu thuộc tang thác mộc: Dễ công tác trong nhành thương nghiệp.
Tùng Bá Lộc: Cây thu ánh mặt trời mà lớn, gom tuyết nhặt sương, giúp trời che đất. Canh Dần thuộc Tùng bá Lộc: là cây trong gió rét, có phát triển những phải gánh vác nhiều việc nặng nề. Tân Mão thuộc Tùng bá Lộc: tương tự như Canh Dần.
Đại Lâm Mộc: Cành lá rậm rạp, tất nhiên sẽ thành rừng, cành cây với tới trăng, chắn mây che mặt trời. Những mệnh thuộc Đại Lâm Mộc: Mậu Thìn ( có tài thương nghiệp), Kỷ Tị (Vì là cây củi nên luôn đề phòng tai biến bởi bệnh tật).
Dương Liễu Mộc: Cây thịnh về mùa hạ tính hơi mềm yếu, lòng thong uyển chuyển, tơ bò nhằng nhịt. Nhâm ngọ thuộc Dương liễu mộc: Con cái rất tốt, bản thân tính tình thẳng thắn. Quý Mùi: Có năng lực kinh doanh thương mại.
Thạch Lựu Mộc: Cây mọc ở đất vàng vị, có tính cay, cay như gừng, hoa đỏ như lửa vì là Kim nên mài làm thành khí cụ.Canh Thân thuộc Thạch lựu mộc: Mộc tuyệt ư thân, lúc còn nhỏ phải giữ gìn đề phòng tai nạn. Tân Dậu: Dễ bị dày vò, nên tìm việc thiện mà làm được thì vui vẻ.
Bình Địa Mộc: Cây ẩn trong đất, bắt đầu ra cành lá, cần có sương mưa. Mậu tuất thuộc Bình Địa Mộc: cây lúc mới mọc không cần có sức mạnh, phải đối mới. Kỷ Hợi: Có người giúp đỡ, hào nhà với người nên thành thân.
Giản hạ Thủy: Đất ẩm ướt, nước chảy trong đất, quanh núi có sóng nước nhỏ, tuyết sương mờ ảo. Bính tý thuộc Giản hạ Thủy: bạn bè tương đối nhiều. Đinh Sửu: Nước được tích tụ lại cho phúc, cần cận trọng trong khi hành sự.
Đại khuê thủy: Nước có thế mạnh cuồn cuộn chảy về đông, sóng to đập vào bờ kinh khủng, sóng nổi dữ dội. Giáp Dần, Ất Mão thuộc Đại khuê thủy.
Trường Lưu Thủy: Thế nước từ hướng đông nam đổ về kho đầy ăm ắp, cuồn cuộn vô biên, dạt dào bất tận, dạt dào bất tận. Nhâm Thìn thuộc trường lưu thủy: là nước không bao giờ cạn, Thìn là cái kho, dễ lên nhanh xuống nhanh. Quý Tị: Thích hợp nhiều nơi, yêu mến sự nghiệp.
Thiên Hà Thủy: Khí đang thăng giáng, mưa nước nóng, loại nước chỉ có độc nhất ở trên trời, tung tóe mọi nơi, tràn đầy khắp chốn. Bính Ngọ thuộc thiên hà thủy: nữ đa tình. Đinh Mùi: Chịu khó làm việc nên thường có thành quả lao động xứng đáng.
Tuyền trung Thủy: Nước yên tĩnh chảy ra không hết, hút cũng không tận, nguồn lạnh sạch sẽ, lấy để nuôi sự sống mãi mãi không cạn. Giáp Thân thuộc Tuyền trung thủy: Có thành tựu. Kỷ Dậu: Công việc có thể thay đổi.
Đại hải Thủy: nước biển lớn, nước nạp vào không đầy, lấy đi không cạn, chứa đựng nước của mọi sông đổ dồn về, mênh mông vô bờ. Nhâm Tuất, Quý Hợi thuộc Đại hải Thủy.
Tích lịch Hỏa: Hình ở Thủy vị, lửa rồng thần, một tia hào quang, chớp đả kim xà. Mậu Tý thuộc Tịch lịch hỏa: lửa ở trong nước, nhờ nước mà thành lửa, sự nghiệp thành đạt. Kỷ Sửu thuộc Tích nịch Hỏa: chú ý phòng tai nạn.
Lưu trung Hỏa: Lửa trong lò, lửa gặp củi thì bốc, thiên hạ làm lò, rực sáng vũ trụ, tôi luyện càn khôn. Các năm thuộc lưu trung hỏa: làm văn thư tương đối khá, nghiên cứu cũng có kết quả. Đinh Mão: nội tâm phức tạp, tổng thể như ý.
Phúc Đăng Hỏa: lửa chiếu sáng tránh sự tối tăm, ngọc đài sán lạn, không có mắt trời mà bẫn sáng sủa. Các năm thuộc phúc đăng hỏa: Giáp Thìn có thành đạt được người khác tôn trọng, Ất Tị : thời trung niên phát đạt.
Thiên thượng Hỏa: Lửa ở trên trời, lửa thông minh ở trên trời, làm ấm áp sông biển, rực rỡ vũ trụ. Mậu Ngọ và Kỷ Mùi thuộc thiên thượng hỏa.
Sơn hạ Hỏa: lửa ở trên núi, lửa nhỏ chiếu sáng gần, cây cỏ gặp được thì tốt tươi, hoa quả rực rỡ.Bính Thân thuộc sơn hạ hỏa: thời niên thiếu có hung, cuộc sống có thể theo ngành thương mại, Đinh Dậu: Có thể thay đổi ngành nghề.
Sơn Đầu hỏa: lửa trong sáng ngoài tối, cháy xém, thiêu mãi hoa mắt. Giáp Tuất Sơn Đầu hỏa: Thời trung niên phát đạt. Kỷ Hợi Làm nhiều việc thiện.
Bích tượng Thổ: Đất dấu hình che thể, ở trong phòng không ưa đối ngoại, dựa dẫm vào rường cột, vui nhà cửa riêng. Canh Tý thuộc Bích tượng Thổ: Sự nghiệp phát triển, Tân Sửu: Tích đất cho phúc, làm thiện cho người.
Thành đầu Thổ: Đất có thể thành vật, vì dân lập quốc, xây dựng đê điều, lũy ngọc nhà trời, thành vàng nhà vua. Mậu Dần: có tai ương phải giải trừ. Kỷ Mão: Theo nghề hành chính hoặc kinh doanh thương mại cũng tốt.
Sa trung Thổ: Đất pha cát đến cùng dương khí, sóng nhỏ tích lũy dần lại, sóng lớn dồn bồi lên mà thành. Bính Thìn: bạn bè nhiều, trung niên phát đạt. Đinh Tị: Tổ tiên có đức để lại.
Lộ bàng Thổ: Đất có hình có chất, trồng cấy mọi thứ cây, đất rộng liên tiếp nhau, đồng bằng rộng lớn. Canh Ngọ: Đa mưu túc trí, Tân Mùi: Có nhiều thành đạt.
Đại Dịch Thổ: Đất thông đi mọi hướng, vật lớn đã thành, đường cái thênh thang, bao la bằng phẳng. Mậu Thân: Thời thanh niên khấm khá, Kỷ Dậu: Sự nghiệp phát đạt.
Ốc thượng Thổ: Đất được thế thành công, sự nghiệp mỹ mãn. Bính Tuất: Đất vì phúc hậu, người vì chính trực, Đinh Hợi: Hưng vượng phát đạt.
Lấy được một người vợ tốt là may mắn lớn nhất của người đàn ông. Người vợ có đức tính này sẽ giúp đàn ông trọn đời viên mãn.
Có câu nói rằng: Nhất đại vô hảo thê, thập đại vô hảo tử, tức là một đời vợ không tốt, mười đời con kém cỏi. Danh từ “hiền thê” (người vợ tốt) này không biết đã biến mất từ khi nào, không có mấy ai định nghĩa được nữa.
Ngày xưa, một người “hiền thê” phải gánh vác trên mình 5 thế hệ: trên hiếu với tổ tông, cha mẹ chồng, hỗ trợ chồng, dạy con cái, dạy dâu con làm vợ, làm mẹ chồng như thế nào, và cuối cùng là dạy cháu dâu. Người vợ khi về nhà chồng được xem như học trò đến lớp, sinh con ra thì trở thành cô giáo, đến lúc dạy dỗ dâu còn lại là bậc thầy, đến khi dạy cháu dâu thì đích thị chính là tổ sư gia.
Chỉ là một người, tại sao lại quan trọng đến như vậy? Ngày nay, những “hiền thê” thời hiện đại lại có một suy nghĩ rất khác biệt, họ tự đặt mình ở vị trí là những đứa con, luôn muốn tất cả mọi người phải luôn che chở cho “tôi”. Vì thế mới nói người mẹ mà không trưởng thành, con cái sẽ trở nên kém cỏi, tiếc rằng sự thật chính là như vậy.
Phụ nữ yêu một người và sẽ cưới người đó. Đàn ông yêu một người nhưng sẽ cưới người khác”.
Khi quyết định yêu ai, hầu hết phụ nữ đã quyết định đi đến hôn nhân với người đàn ông đó, được chung sống bên cạnh anh ta, được sinh cho anh ta những đứa con kháu khỉnh.
Với đàn ông, bạn đừng thấy lạ khi đa số hầu hết họ yêu chết mê chết mệt một cô nhưng lại cưới một cô khác dù rằng trong tim anh ta vẫn luôn yêu người mình ko cưới. Đơn giản, người đàn ông chọn bạn đời còn dựa vào nhiều yếu tố khác, trong đó tính cách người phụ nữ đóng vai trò quan trọng.
1. Tình yêu:
Một tình yêu sâu sắc, chân thành, chung thủy là tỏ bày cảm xúc tự nhiên về mong ước và tự làm bổn phận mà người chồng mong mỏi nơi người vợ. Thực vậy, đó là cơ sở của mối quan hệ qua lại mật thiết lâu dài và là những phương tiện sanh con đẻ cái mà vợ chồng thương yêu, trìu mến chúng khi còn sống. Nơi đây tình yêu không chỉ giới hạn vào sự gắn bó do luyến chấp (prema) mà đó là đức tính mong muốn hạnh phúc cho người chồng.
Bao giờ cũng chăm chú, lưu tâm, chuyên cần cũng như quan tâm không ngăn ngại tới nhu cầu của người chồng.
Ngoài bổn phận chu toàn nhiệm vụ và trách nhiệm trong gia đình, người vợ cũng phải trân trọng gia đình thân quyến bên chồng, coi gia đình bên chồng cũng như gia đình của chính cha mẹ mình.
Trung thành và quyết tâm kết hợp với sự trong trắng của người vợ. Điều nay cũng bao hàm lòng tin cẩn và người vợ luôn luôn tận tâm với người chồng.
Tình mẫu tử là nền móng của tất cả tình yêu trên thế giới. Là một người mẹ tận tâm, người vợ do bản năng làm mẹ, không nề nguy hiểm để bảo vệ đứa con duy nhất của mình.
Được giao trọng trách quản lý gia đình, người vợ phải xem việc tiêu pha trong gia đình để bảo vệ ngân quỹ gia đình do người chồng kiếm được. Để làm tròn nhiệm vụ này, người vợ phải tiết kiệm chi tiêu và thực hành cần kiệm, thậm chí đến mức tần tiện.
Là người chủ trong gia đình, bổn phận người vợ là phải sửa soạn thức ăn bổ dưỡng cho gia đình. Bữa cơm hàng ngày trong gia đình rất quan trọng vì nó phát triển thiện chí và tình đoàn kết.
Khi người chồng trở về gia đình trong tình trạng bị khích động, người vợ phải biết tỏ ra dịu dàng để đem an lạc, an ủi cho người chồng. Điều này sẽ làm dịu tình thế.
Ngoài việc chứng tỏ cảm nghĩ thân ái, dịu dàng của mình, người vợ nên có một tính tình duyên dáng, lúc nào cũng vui tươi, hớn hở và dễ thương.
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất |
Việc bố trí giường ngủ rất quan trọng trong phong thủy. Nó không chỉ ảnh hưởng đến giấc ngủ mỗi ngày mà còn tác động tâm linh, đến con đường công danh, sự nghiệp và cả sức khỏe của mỗi người.
Để có cuộc sống khỏe mạnh và hạnh phúc, người tuổi Hợi nên cố gắng kiêng kị những điều sau khi sắp xếp phòng ngủ:
- Tránh đặt gương đối diện giường ngủ, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe, tài lộc, tình cảm.
- Tránh kê giường dưới xà ngang. Nếu phạm phải lỗi này, rất có thể khi ngủ bạn sẽ có cảm giác bị đè nén, nhức đầu, bất an, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe.
- Tránh đặt giường ngủ gần bếp vì điều này dễ làm nảy sinh các bệnh về tim, gan, tính tình hay cáu gắt.
- Tránh đặt đầu giường ngủ gần cửa sổ, nó sẽ gây cảm giác bất an.
- Tránh để đầu giường hướng thẳng ra hướng mở cửa phòng vì nó dễ làm mất ngủ, trí tuệ sụt giảm.
- Tránh để đầu giường hướng vào toilet, điều này gây khó ngủ, ảnh hưởng không tốt tới hệ thần kinh.
Hướng kê giường hợp phong thủy cho những người tuổi Hợi.
Xem hướng giường ngủ cho người sinh năm 1959 (Kỷ Hợi), 1995 (Ất Hợi)
Quẻ mệnh: Khảm Thủy. Thuộc Đông tứ mệnh, ở nhà hướng Đông tứ trạch.
Các hướng giường tốt:
Hướng Đông Nam: đặc biệt tốt cho tài lộc, công danh, sự nghiệp.
Hướng Nam: tốt cho tình cảm, tình duyên may mắn, vợ chồng, con cái hòa thuận.
Hướng Đông: tốt cho sức khỏe.
Màu sắc chăn ga gối, rèm cửa nên dùng gam sáng màu hơi lạnh hoặc sáng tối xen kẽ như hoa văn kẻ caro. Đặc biệt, các quý cô sinh năm 1959 và 1995 nên tránh màu đỏ, vàng.
Hướng giường ngủ cho các bạn sinh năm 1971 (Tân Hợi), 2007 (Đinh Hợi)
Quẻ mệnh: Tốn Mộc. Thuộc Đông tứ mệnh, ở nhà Đông tứ trạch
Các hướng giường tốt:
Hướng Bắc: đặc biệt tốt cho tài lộc, công danh, sự nghiệp, thuận lợi cho việc học tập.
Hướng Đông: tốt cho tình cảm, tình duyên may mắn, vợ chồng và con cái đều hòa thuận, vui vẻ.
Hướng Nam: tốt cho sức khỏe.
Màu sắc chăn ga gối, rèm cửa… nên dùng màu xanh mát nhẹ nhàng, màu ghi tối, màu đậm. Tránh màu trắng, vàng, sáng. Màu đỏ, hồng cũng không tốt cho sức khỏe.
Hướng giường ngủ cho quý cô tuổi Quý Hợi (1983)
Quẻ mệnh: Đoài Kim. Thuộc Tây tứ mệnh, ở nhà Tây tứ trạch
Các hướng giường tốt:
Hướng Tây Bắc: đặc biệt tốt cho tài lộc, công danh, sự nghiệp.
Hướng Đông Bắc: tốt cho tình cảm, tình duyên may mắn.
Hướng Tây Nam: tốt cho sức khỏe.
Màu sắc chăn ga gối, rèm cửa… nên dùng màu vàng, nâu, trắng. Tránh màu đỏ, hồng, tím, các màu xanh, màu lạnh.
Khoảng rằm tháng 7, một mùa lễ Phật giáo được tổ chức khắp Đông Nam Á. Ở Nhật gọi là lễ Obon. Chữ Bon này tức là Urabon, do Nhật phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana; Trung Quốc phiên âm từ Phạn ra Hán là Vu Lan Bồn hoặc Ô Lam Bà Na; Việt Nam gọi tắt là Vu Lan.
Vu Lan chính là cái chậu (hoặc bồn để đựng hoa quả, phẩm vật dâng cúng chư tăng nhằm cầu siêu cho những vong hồn thoát khỏi nơi địa ngục). Tích xưa kể lại rằng, khi Đức Phật còn ở Dương thế, trong những người theo hầu có ngài Mục Kiền Liên, ông là một vị tôn giả tu luyện được nhiều phép thần thông. Một lần, Mục Kiền Liên dùng đôi mắt thần nhìn xuống địa ngục thấy mẹ đang bị Diêm Vương đày làm quỷ đói. Thương mẹ quá, Mục Kiền Liên dùng phép thuật xuống địa ngục để mang cơm dâng mẹ, nhưng mỗi khi mẹ Mục Kiền Liên đưa tay ra để nhận cơm của con thì cơm bỗng biến thành lửa không sao ăn được, Mục Kiền Liên đau xót vô cùng.
Ngài bèn cầu xin Đức Phật giúp mình. Đức Phật nghe thấy dạy rằng: cứ vào ngày rằm tháng bảy, nhân lúc chư tăng mãn hạn thì sửa một cái lễ đặt vào trong chiếc chậu để dâng cúng chư tăng, cầu xin uy đức của Người mới có thể cứu rỗi vong nhan khỏi địa ngục tăm tối. Mục Kiền Liên thành tâm làm theo và cứu được mẹ thoát khỏi âm cung. Từ đó về sau, các phật tử theo lời Đức Phật cử hành lễ Vu Lan cầu phá địa ngục cho những vong hồn.
Trong đời sống tinh thần của người Việt, sự tích hay nguồn gốc của Rằm tháng bảy dường như không quan trọng, điều linh thiêng là vào ngày đó, một cái cầu vô hình dường như được bắc giữa hai bờ của thế giới Dương (người sống) và thế giới Âm (người chết). Ngay từ đầu Công nguyên, đạo Phật được ghi nhận là đã có mặt trên đất nước Việt Nam chúng ta. Giáo lý Phật-đà đã sớm được tiếp nhận và từ đó hội nhập vào đời sống văn hóa của người Việt một cách ôn hòa, sâu sắc.
Gần 20 thế kỷ qua, đạo Phật như luôn hòa quyện vào vận mệnh dân tộc và không ngừng khởi sắc tạo cho nền văn hóa Việt Nam một đặc trưng riêng biệt đậm nét dân tộc và Phật giáo. Một trong những ngày lễ lớn của Phật giáo đã sớm chuyển mình thành ngày lễ có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam, đó là ngày lễ Vu Lan.
Lễ Vu Lan mang một ý nghĩ lớn là báo ân cha me, đồng thời còn bao hàm ý nghĩa tìm về cội nguồn, là biết ơn và báo ơn. Tư tưởng ấy hoàn toàn phù hợp với tư duy hiền hậu chất phác của người Việt Nam: "Uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Nếu người Tây Phương tự hào về ngày "Mother"s Day", "Father"s Day"" truyền thống của họ thì người Việt Nam nói chung, cũng có niềm tự hào không kém về ngày lễ Vu Lan của mình.
Chùa Bà Đá tọa lạc tại số 3 phố Nhà Thờ, Hà Nội còn có các tên: Linh Quang tự, Sùng Khánh tự. Chùa được xây năm 1056 dưới đời Lý Thánh Tông. Chùa được dựng trên nền tháp Báo Thiên nổi tiếng của kinh thành Thăng Long xưa.
Chùa có tiền đường xây theo kiểu chữ nhất, trung đường xây theo kiểu chữ đinh, được nối liền với nhau, tạo nên một khối kiến trúc vuông vắn. Trong chùa có nhiều tượng gỗ. Chùa nằm trên một con phố nhỏ và dài chỉ vài trăm mét nhưng hiện diện cả hai hệ ý thức tín ngưỡng Phật giáo và Thiên chúa giáo.
Chùa vốn là trường sở của Lâm Tế tông; hiện nay chùa là trụ sở chính Thành hội Phật giáo Hà Nội. Trong chùa có Trường Trung cấp Phật học Hà Nội. Tại chùa hàng năm vẫn thường xuyên là nơi tổ chức các buổi lễ của Thành hội Phật giáo Hà Nội. Trước kia trong chùa có Tượng Phát Lâm (tượng có nụ cười yêu đời) được coi là một trong tứ khí của Hà Nội.
Truyền rằng khi đào đất đắp thành Thăng Long vào đời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) ở làng Báo Thiên Tự Tháp (khu vực Nhà thờ Lớn ngày nay) thì phát hiện được một pho tượng bằng đá hình dáng một phụ nữ . Dân chúng cho là thánh mẫu nên đã lập đền thờ ngay tại nơi đào được tượng và gọi là đền Bà Đá. Sau người làng thấy linh thiêng mới góp công, góp của xây thành chùa lớn, đón sư về trụ trì và thờ Phật. Vì vậy chùa có tên là chùa Bà Đá và tên chữ là “Linh Quang tự”.
Sang thời Pháp thuộc, đền bị cháy và pho tượng đá nguyên thủy bị hủy mất. Dân làng cho xây lại, rước một pho tượng Phật Thích Ca bằng đá về thờ, thay thế tượng Bà Đá cũ. Vì đã qua mấy đợt tu sửa, Chùa Bà Đá không còn giữ được nhiều cổ vật. Lưu lại là một số di vật như hai quả chuông đúc vào triều Tự Đức Nguyễn năm 1873 và năm 1881, và một tấm khánh đồng đúc năm 1842.
Ngày 5 tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh có đến thăm chùa Bà Đá và nói chuyện với các thượng tọa, tăng ni, Phật tử. Trong cuộc gặp, ông đã nói “Việc Phật không xa rời việc thế gian, phải tham gia vào các công việc cách mạng, cứu đói, cứu dốt”.
Chùa Bà Đá nay bị vây quanh tứ phía. Mặt tiền của chùa chỉ là ngõ hẻm nhỏ thông ra phố Nhà thờ, chen giữa nhà của tư nhân. Phía sau chùa là cao ốc nên diện tích đất chùa khiêm nhường. Dù vậy chùa đã được trùng tu, mái ngói lợp lại và một dãy nhà phụ thuộc bên cánh hữu được cất lại theo kiểu cổ.
► ## cập nhật thông tin Tử vi hàng ngày, Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất gửi tới bạn đọc |
Biết địa hình sẽ thắng, chọn địa hình sinh tài
Trong binh pháp có viết: “Địa hình hỗ trợ cho việc binh, biết địch mới mong cầu thắng, tính đến lúc hiểm nguy, xa gần là đạo của người làm tướng. Biết đạo lý đó ắt sẽ thắng, kẻ không biết điều đó ắt thua”. Điều này chứng tỏ địa hình từ xưa rất quan trọng đối với chiến đấu, là người tướng không thể không quan sát địa hình để bày binh bố trận. Thương trường cũng như chiến trường, người chủ kinh doanh cũng giống như đang điều khiển hàng ngàn quân mã. Người tướng có trí tuệ, mưu lược luôn chiếm giữ vị trí địa hình có lợi, cuối cùng mới giành được thắng lợi.
Phạm Lãi – Một nhà mưu lược đầy tài ba thời Xuân Thu chiến quốc là một người như vậy. Với con mắt của nhà chiến lược, ông cho rằng: Đào địa là phần đất trong thiên hạ, thông với các chư hầu, là nơi lý tường để giao dịch hàng hóa. Vì thế ông đã chọn Đào địa làm nơi kinh doanh. Quả nhiên, trong vòng 10 năm tiền ông kiếm được nhiều vô số kể. Cái tên Đào Chu Công được mọi người yêu mến truyền tụng đến ngày nay.
Trong “Sử ký” có ghi chép: Sau khi diệt được nước Triệu, nước Tần tiến hành chính sách di dân. Khi đó có rất nhiều người hối lộ quan lại để không phải di dời đi nơi khác, họ muốn ở lại vùng đất cũ vì sợ phải thay đổi. Duy chỉ có phú thương họ Trác yêu cầu được chuyển đến vùng Văn Sơn xa xôi. Ông nhìn thấy ở đó đất đai phì nhiêu, sản vật phong phú, dân cư sống thanh bình, nồng hậu, họ rất thích buôn bán, thương nghiệp sẽ dễ dàng phát triển.
Mấy năm sau, Trác thị trở thành phú ông gần xa đểu biết tên, quan niệm chọn đất của ông cũng được các thương nhân coi là cẩm nang. Dương Châu – Giang Tô là một nơi giao thông phát triển, vận chuyển bằng đường thủy cũng thuận tiện, hàng hóa phong phú, thương nhân từ các nơi khác đến đây sinh cơ lập nghiệp, có người chỉ từ hai bàn tay trắng mà làm tạo nên gia nghiệp khổng lồ, tiếng tăm lừng lẫy bốn phương.
Hàng rẻ mua vào, hàng lên nhanh chóng bán ra
Phạm Lãi và Bạch Giai – ông tồ nghề thương nghiệp cho rằng hàng rẻ mua vào, tuy quý nhưng rẻ; hàng đắt bán ra, tuy rẻ nhưng quý. Điều này nhấn mạnh người kinh doanh giỏi về cách nắm bắt thời cơ để mua vào bán ra. Lợi nhuận kinh doanh có được từ khoản lãi chênh lệch. Một khi thấy thời cơ đến, bằng mọi giá phải hành động ngay, nếu không sẽ không kiếm được tiền thậm chí còn lỗ vốn.
Thời Ngụy Ván Hầu, người dân chỉ chú trọng nghề nông, thế mà Bạch Giai lại rất vui với điều này. Khi lương thực phong phú, được mùa, ông ta cho người thu mua hết ngũ cốc, bán ra tơ, sơn. Đợi khi tơ tằm được tung ra thị trường, ông ta lại thu mua số lượng lớn, bán hết lương thực. Ỏng từng nói: Người nào làm ăn buôn bán có mưu kế giỏi như Y Doãn và Khương Thái Công, giỏi phán đoán như Tôn Tẫn và Ngô Khởi thì mới có thể nói được làm được.
Có một số người đầu óc của họ không thể ứng phó thời cơ một cách nhanh nhẹn được, lại có người dũng cảm nhưng cứ đâm đầu kinh doanh mà không biết lựa chọn thời cơ, có người lại nhu nhược không kiên định nguyên tắc. Những loại ngưòi như vậy mà đi theo ta học kinh doanh, ta cũng không dạy họ. Những kinh nghiệm và nguyên tắc kinh doanh của Bạch Giai được những nhà kinh doanh đời sau dùng làm cẩm nang. Ông tận dụng hết khả năng mưu lược của mình để kinh doanh và gặt hái được thành công vô cùng vang dội.
Thấy ngắn mà biết tương lai, dự báo sinh tài sinh lộc
Việt Vương Câu Tiễn thời Xuân Thu khi biết được nước Ngô đang bị đại hạn đã ngầm thu mua hết lương thực của nước Ngô. Hai năm sau, nước Ngô thiếu lương thực, nhân dân đói khổ, tiếng than oán hận khắp nơi. Nước Việt nhân cơ hội đó đem quan sang tiêu diệt Ngô, cuối cùng Việt Vương đã thành bá nghiệp, trờ thành một trong ngũ bá thời Xuân Thu.
Điều Việt Vương Câu Tiễn làm ở đây chính là làm một cuộc mua bán lớn. Thứ ông đạt được không phải là vàng bạc châu báu mà có được một đất nước, xưng hùng xưng bá thiên hạ. Đây là một thành công điển hình trong cách vận dụng kinh doanh để làm chính trị.
“Di kiên trí” đã ghi chép: Vào thời Tống, có một lần thành Lâm An bị cháy rất to, cửa hàng của một người họ Bùi cũng bị bắt lửa, nhưng ông ta không vội chạy đi chữa cháy mà sai người cầm ngân lượng ra ngoài thành mua những vật liệu xây dựng như gỗ, tre, ngói…Sau khi lửa đã dược dập tắt, tất cả trờ thành đống đổ nát hoang tàn, thị trường vật liệu xây dựng trở nên khan hiếm. Lúc này người họ Bùi kia nhân thòi cơ tung hàng ra bán, tiền kiếm được gấp hàng chục lần giá trị cửa hàng đã bị cháy kia, đồng thời cùng đáp ứng được nhu cẩu của thị trường và nhân dân.
Hay quan sát, nhạy bén và phán đoán chính xác là khởi nguồn của người kinh doanh giỏi và đó cũng là một trong những năng lực cần phải có của các nhà kinh doanh.
Lợi ít nhưng bán được nhiều
Kế Nhiên – Một nhà lý luận kinh tế thời Tiên Tần đã cho rằng: “Quý thượng cực tắc phản tiện, tiện hạ cực tắc phản quý” (đắt hết mức lại thành rẻ, rẻ hết mức lại thành đắt). Tư Mã Thiên đã nói: “Tham mua 3 đồng, rẻ mua 5 đồng”. Nghĩa là người kinh doanh tham lợi nhuận chỉ có thể lãi được 30% còn người lấy lãi ít nhưng bán được nhiều thì có thế lãi 50%. “Úc li tử” ghi chép: Có ba thương nhân cùng kinh doanh một loại hàng hóa giống nhau trong một chợ, trong đó có một người bán hàng với giá thấp nhất, người mua đông như kiến cỏ, trong một năm đã phát tài. Hai người còn lại không muốn giảm giá, kết quả lợi nhuận không bằng người kia.
Trương Lương – mưu sĩ của Hán Cao Tổ Lưu Bang khi còn nhỏ theo Hoàng Thạch Công học chữ. Ban ngày ông phải đi bán dao kéo, tối về học bài, sau này ông thấy thời gian học không đủ, cần tranh thủ bán hàng xong để về học. Vì vậy ông liền chia dao kéo thành ba loại tiền khác nhau: loại đắt, loại vừa và loại rẻ. Loại đắt giá vẫn không đổi, loại vừa giá rẻ hơn một chinh, loại rẻ giá rẻ hơn hai chinh. Kết quả, chỉ trong vòng nửa ngày số lượng dao kéo bán ra gấp ba lần, tiền kiếm được gấp đôi ngày thường. Vì thế dân gian có câu: “Trương Lương bán dao kéo, hàng đắt rẻ như nhau”.
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
Đây là điển cố thứ Sáu trong quẻ Quan Âm, mang tên Nhân Quý Ngộ Chủ (còn gọi là quẻ Nhân Quý Gặp Chủ). Quẻ Quan Âm Nhân Quý Ngộ Chủ có bắt nguồn như sau:
Tiết Nhân Quý (614 – 683) là hậu duệ của vị tướng tài Tiết An Đô thời kỳ Nam Bắc Triều, là người của gia tộc họ Tiết ở Hà Đông, nhưng đến đời Nhân Quý thì gia tộc đã sa sút. Cha của Nhân Quý mất sớm, tuy từ nhỏ gia cảnh nghèo khó, nhưng Nhân Quý rất chịu khó tập luyện văn võ, bẩm sinh sức khỏe hơn người, sức ăn cũng lớn.
Tiết Nhân Quý sinh ra trong thời loạn, chăm chỉ làm nông để sinh sống, chưa có gì nổi tiếng. Đến năm ba mươi tuổi, Nhân Quý muốn di dời phần mộ tổ tiên, để mong đem đến vận tốt, nhưng vợ của Nhân Quý nói rằng: “Người có tài năng cần phải biết nắm bắt thời cơ. Nay hoàng đế ngự giá thân chinh đến Liêu Đông, chính là lúc cần có tướng mạnh, chàng có tài năng lớn, sao chàng không tòng quân để lập công danh? Đợi đến khi chàng phú quý trở về quê hương, thì cải táng cha mẹ cũng chưa muộn!” Tiết Nhân Quý nghe có lý, bèn từ biệt vợ, xin gia nhập quân đội, bắt đầu chặng đường suốt bốn mươi năm tung hoành nơi sa trường đầy kỳ tích.
Năm Trinh Quán thứ 19 (năm 643), Đường Thái Tông xuất phát từ Lạc Dương, đem quân đánh Cao Cú Lệ . Tháng ba năm ấy, ở chiến trường An Địa thuộc Liêu Đông, tướng lĩnh Lưu Quân Cùng của quân đội nhà Đường bị quân địch bao vây, không có cách nào thoát thân, cũng không ai có thể giải cứu. Trong thời khắc nguy nan đó, Tiết Nhân Quý đơn thương độc mã, dũng cảm đương đầu với gian nguy, lấy đầu tướng lĩnh của Cao Cú Lệ, lại đem treo lên mình ngựa, quân địch nhìn thấy khiếp sợ, liền thoái lui, Lưu Quân Cùng được giải cứu. Sau việc đó, Tiết Nhân Quý trở nên nổi danh trong quân đội.
Sau đó không lâu, trong trận chiến An Thị (nay là thôn Thành Tử, xã Nam Doanh, huyện Hải Thành, tỉnh Liêu Ninh), Tiết Nhân Quý đã phát huy được tài năng võ nghệ của mình. Qua trận chiến này, ông đã trở thành vị tướng mạnh nhất của nhà Đường lúc đó. Tháng tư năm Trinh Quán thứ 19, đội quân tiên phong của nhà Đường tiến đánh Cao Cú Lệ, liên tiếp đánh bại quân đội của Cao Cú Lệ. Tháng sáu, quân đội nhà Đường tiến đến An Thị, quan Mạc ly chi sai đại tướng Cao Diên Thọ và Cao Huệ Chân thống lĩnh hai mươi lăm vạn đại quân đóng đòn trên núi, chống lại quân đội nhà Đường. Sau khi Đường Thái Tông thị sát địa hình, lệnh cho các tướng chia nhau tiến đánh.
Tiết Nhân Quý thân mang áo bào trắng khác hẳn với các binh sĩ khác, tay cầm phương thiên họa kích, lưng đeo hai cây cung, một mình một ngựa xung trận, thâm nhập vào hàng ngũ hai mươi lăm vạn quân trong trận địa của địch, làm rối loạn trận thế của kẻ địch, khiến cho quân địch không có cách nào ứng chiến. Cao Diên Thọ, Cao Huệ Chân nhiều lần muốn chấn chỉnh lại hàng ngũ tố chức để phản kích, nhưng đều bị Tiết Nhân Quý tấn công khiến cho hàng ngũ rối loạn. Quân đội nhà Đường ồ ạt tiến lên, quân Cao Cú Lệ đại bại. Lúc này, Lý Thế Dân ở xa quan sát trận đánh, trông thấy vị tướng trẻ mặc áo bào trắng chiến đấu vô cùng dũng mãnh giữa biển người, cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Sau trận chiến, Lý Thế Dân lập tức triệu kiến Tiết Nhân Quý, ban cho hai con ngựa, bốn mươi tấm lụa, cho mười tù binh làm người hầu, lại thăng chức làm tướng quân du kích, Quả Nghị Đô úy của phủ Vân Tuyền.
Sau đó quân đội nhà Đường đánh mãi mà không thắng, lại gặp phải mùa đông mưa tuyết lớn, lương thực và cỏ không đủ, bèn lui quân. Giữa đường, Lý Thế Dân nói với Tiết Nhân Quý rằng: “Các tướng lĩnh của trẫm đều đã già rồi, nay gặp chiến sự đã không thể đảm nhận nối trọng trách này nữa, trẫm muốn lựa chọn một vị tướng quân trẻ tuổi có tài, không ai có thể hơn được khanh. Chuyến chinh phạt lần này, cho dù có thu phục được Liêu Đông trẫm cũng không vui, mà điều vui nhất chính là có được nhân tài như khanh!”
Câu nói “Trẫm không vui vì có được Liêu Đông, mà vui vì có được khanh” đã trở thành một câu nói nối tiếng; dùng hàng trăm vạn dặm lãnh thổ của vùng đất Liêu Đông rộng lớn để đánh giá về Tiết Nhân Quý, đủ để thấy được tài năng của ông. Sau khi Đường Thái Tông qua đời, con trai là Đường Cao Tông tiếp tục trọng dụng Tiết Nhân Quý, khiến ông trờ thành vị tướng nổi tiếng một thời.
► Tham khảo thêm: Giải mã việc mơ thấy cá, mơ thấy máu theo thế giới tâm linh |
Ảnh minh họa |
6 nẻo luân hồi trong Phật giáo |
Nhìn bàn tay đoán tính cách
Bàn tay nhọn:
Bàn tay có hình dáng xinh xắn, mảnh mai, các ngón tay thon dài như búp măng là người đa cảm đa sầu nhưng lại rất khoan dung, nhân từ. Người có bàn tay nhọn yêu thơ văn, hội họa và sự thẩm mỹ. Đây cũng là người rất đa tình, khi đã yêu thì sẽ yêu hết mình, không tính toán, vụ lợi trong tình yêu.
Người có kiểu tay này thì trực giác rất nhạy bén. Linh cảm có thể mách bảo cho họ nhiều điều và mang đến cho cuộc sống của họ không ít sự bất ngờ thú vị. Họ có ngoại hình ưa nhìn và là người luôn vươn tới cái đẹp và sự hoàn mỹ trong cuộc sống.
Bàn tay hình nón:
Chủ nhân của bàn tay tròn trịa và mềm mại này có đôi mắt rất tinh tường cùng khả năng quan sát tinh tế và nhạy bén. Mang trong mình tố chất nghệ sĩ, họ khát khao tìm kiếm cái đẹp của cuộc sống và cả trong tâm hồn con người. Đây cũng là những con người duy cảm.
Bàn tay hình vuông:
Là bàn tay có hình dáng thô kệch, da dày, xù xì, to và ngắn. Đây là bàn tay của người lao động, thuộc dạng người kém thông minh, ít suy nghĩ, biết hôm nay và không lo ngày mai. Những người có bàn tay này thường thật thà, chất phác, nhân hậu và thủy chung trong tình yêu.
Họ khá chăm chỉ, yêu lao động, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Tư duy logic giúp họ giải quyết công việc một cách dễ dàng.
Bàn tay có hình thìa (hình lá):
Đặc điểm nổi bật là lòng bàn tay mở rộng ra từ gốc tay. Chủ nhân là người cầu toàn, thông minh và giàu tính kiên trì. Họ có thể đạt được nhiều thành công trong cuộc sống. Họ tận dụng mọi khoảng thời gian có được để làm việc và ít khi để nó trôi qua một cách vô ích.
Bàn tay hình chiếc quạt:
Những người sở hữu bàn tay có hình dáng như chiếc quạt xòe với những ngón tay cũng xòe ra là người trực tính, nóng nảy và liều lĩnh. Họ thường hay quan tâm đến bạn bè, người thân, thẳng thắn và thành thật. Tính tình không đa nghi, không hay can thiệp vào chuyện của người khác.
Nhìn hình dáng bàn tay cho biết cách nàng làm "chuyện ấy"
Độ dài các đốt của ngón cái
Yếu tố đầu tiên cần quan sát là ngón cái. Cụ thể hơn là quan sát đốt trên và dưới của ngón cái. Đốt trên tượng trưng cho "ham muốn" và đốt dưới tượng trưng cho "lý trí".
Nếu đốt trên dài hơn đốt dưới, đây là kiểu phụ nữ có ham muốn rất mạnh mẽ. Cô nàng này thích kiểm soát và quyết định mọi chuyện.
Tính cách này thoạt đầu có thể khiến "chuyện ấy" hấp dẫn hơn, tuy nhiên, về lâu dài sẽ khiến bạn cảm thấy khó chịu. Suy cho cùng, bạn phải ép bản thân mình chiều lòng nàng dù không muốn.
Trong khi đó, nếu đốt dưới dài hơn, trước mặt bạn là một người phụ nữ luôn hành động theo lý trí. Nhược điểm của cô nàng này là thiếu sự liều lĩnh. Điều mà bạn thấy hài hước và thú vị có thể sẽ bị nàng cho là phi lý hoặc ngớ ngẩn.
Đầu ngón tay
Sau khi đã khám phá "ham muốn" và "lý trí" của nàng, mục tiêu tiếp theo chính là hình dạng của đầu ngón tay. Có nhiều cách phân loại khác nhau nhưng nhìn chung, cách phân loại đơn giản nhất là đầu ngón tay nhọn và vuông.
Đầu ngón tay nhọn cho biết bạn đang gặp gỡ một cô nàng mơ mộng, luôn nhìn thế giới bằng màu hồng. Nàng biết thưởng thức cái đẹp và luôn giữ thái độ lạc quan với mọi chuyện. Kiểu phụ nữ này thường không có dự tính lâu dài cho tương lai và muốn tìm kiếm một người đàn ông có cùng tư tưởng sống với mình.
Ngược lại, đầu ngón tay vuông là một dấu hiệu rõ nét cho thấy nàng thuộc mẫu phụ nữ thực tế. Đừng cố chơi trò "mèo vờn chuột" với họ. Ngoài ra, những chiêu trò lãng mạn với nàng cũng chỉ là một sự nhạt nhẽo và lố bịch.
Đường chỉ tay
Đường trái tim (đường nằm ngang cao nhất trong lòng bàn tay) tiết lộ chiều sâu cảm xúc và ham muốn tình dục của một người. Phụ nữ với đường trái tim dài và đậm có xu hướng trải nghiệm những cung bậc cảm xúc cao nhất của "yêu" và "hận", trong khi người có đường trái tim ngắn hoặc gãy lại biết cách kiểm soát cảm xúc của mình và kiềm chế tình cảm rất tốt.
Người với đường trái tim ngắn và thẳng có ham muốn tình dục cao và đặc biệt hứng thú với "tình một đêm", thay vì gắn bó với một mối quan hệ lâu dài.
Cảm giác khi chạm vào bàn tay
Yếu tố cuối cùng cần để tâm chính là cảm giác khi chạm vào bàn tay của nàng. Có hai loại cảm giác chính là mềm mại và thô ráp.
Bàn tay mềm mại cho biết trước mặt bạn là một tín đồ của nghệ thuật. Nói đến đây chắc hẳn trong đầu bạn đang nghĩ có thể lấy lòng nàng bằng một bữa tối lãng mạn và một bộ phim tình cảm đằm thắm.
Tuy nhiên, sự thật là cô nàng sẽ ấn tượng hơn với một chuyến đi tham quan quanh viện bảo tàng, nhất là những viện bảo tàng đẹp. Để chiều lòng mẫu phụ nữ này, đàn ông phải có tính sáng tạo cao.
Nếu bàn tay bạn đang chạm vào cho cảm giác thô ráp, bạn cần phải tiếp cận nàng một cách thận trọng. Đây là kiểu phụ nữ có cá tính hết sức mạnh mẽ. Khi yêu, họ sẽ yêu hết mình, yêu điên cuồng nhưng đến lúc tức giận cũng sẽ hết sức khủng khiếp.
Ngoài ra, bạn sẽ thấy cô nàng thiếu sự khéo léo, tinh tế trong cách cư xử, thậm chí khiến bạn suốt ngày phải lạy trời mong cô ấy đừng thẳng tính quá như vậy. Nhìn chung, sự thẳng thắn, trung thực của cô nàng sẽ khiến bạn choáng ngợp.
Ngọc Anh (tổng hợp)
► Tra cứu ngày âm lich hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Theo tạp chí Nhật báo kinh tế Đài Loan, mỗi người đàn ông thành công đều có ý thức tự rèn luyện cho mình những thói quen tốt. Đặc biệt, những thói quen lành mạnh vào buổi sáng là chìa khóa giúp họ làm chủ lối sống lành mạnh và gặt hái thành công trong công việc. Nhiều khảo sát cho thấy: Dậy sớm là đặc điểm chung của các giám đốc công ty, quan chức chính phủ và những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới.
Chẳng hạn, cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher thức dậy lúc 5h mỗi ngày. Kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ Wright dậy lúc 4h. Giám đốc điều hành Disney Iger đặt đồng hồ báo thức vào 4h30. Hầu hết mọi người nghĩ rằng hiệu suất làm việc tốt nhất vào ban đêm, nhưng theo khảo sát, những người dậy sớm luôn làm việc tích cực và hiệu quả hơn. Ngoài ra, họ có "đời sống trước khi đi làm" tốt cho sức khỏe hơn.
Dưới đây là 5 thói quen những người thành công thường làm trước 8h sáng:
Vận động |
Ăn sáng |
Thiền định |
Lên lịch trình cho một ngày |
|
Người tuổi Mão nên thờ Phật nào? Vị thần hộ mệnh, bảo vệ và che chở cho người tuổi Mão là Văn Thù Bồ Tát. Mỗi con giáo đều có một bản mệnh Phật, một vị thủ hộ thần ở bên soi đường chỉ lối, dẫn dắt và khai thông, đồng thời hộ thân, tăng phúc tăng may. Vị Phật nào độ mệnh cho người tuổi Mão?
Hành: Thủy
Loại: Tùy Tinh
Đặc Tính: Sạch sẽ vệ sinh, giỏi về nghề thuốc, y dược, cứu giải bệnh tật.
Tên gọi tắt thường gặp: Y
Thiên Y: Hay đau yếu, hay dùng thuốc, thích dùng thuốc, có khi lạm dụng thuốc.
Thiên Tướng, Thiên Y, Thiên Quan, Thiên Phúc: Lương y, thầy thuốc giỏi, mát tay như Biển Thước.
Thiên Tướng, Thiên Y, Thiên Hình (hay Kiếp Sát): Bác sĩ giải phẫu như Hoa Đà.
Nhật hay Nguyệt, Thiên Y, Thiên Quan, Thiên Phúc: Bác sĩ chiếu điện hay bác sĩ nhãn khoa hoặc thần kinh.
Thiên Tướng, Thiên Y, Thai: Bác sĩ trị bệnh đàn bà, đẻ chửa.
Tùy theo bộ sao y khoa đi liền với bộ phận cơ thể nào thì y sĩ sẽ chuyên khoa về bộ phận đó nhiều hơn hết.
Ý Nghĩa sao Thiên Y Ở Cung Quan Lộc:
Nếu có các bộ sao trên thì càng chắc chắn có hành nghề. Ngoài ra, Thiên Y cùng với Cơ Nguyệt Đồng Lương cũng chủ về y sĩ giỏi.
Nếu Thiên Y đắc địa ở Mão, Dậu thì nghề nghiệp cành hiển vinh, được người đời biết tiếng.
Nếu bộ sao y khoa đi cùng với Địa Kiếp, Địa Không thì trong đời y sĩ phải có lần sơ suất chết người.
Khi vào hạn gặp Thiên Y thì ốm đau, phải chạy chữa thầy thuốc. Vì Thiên Riêu bao giờ cũng đi đôi với Thiên Y nếu có khi gặp phải bệnh về bộ phận sinh dục (tiểu tiện, phong tình, bệnh đàn bà).
Có câu “cứu vật vật trả ơn”, điều này quả thật đúng, rất nhiều người đã từng gặp trường hợp như thế. Câu chuyện về chú voọc cứu mạng cả thôn làng tại vùng núi sâu Kim Phật khiến người ta phải cảm động.
Vương Chí Thành sống ở dưới chân núi Bắc Cơ, khi đang hái thuốc trong rừng thì bắt gặp một chú voọc đầu đen má trắng khoảng trên 2 tuổi đang bị thương ở tay trái. Anh Vương ôm chú chú voọc này về nhà, rửa vết thương cho nó, đắp thảo dược, giữ lại trong nhà mà chữa trị.
Một tuần sau, vết thương của chú voọc đã khá lên nhiều, nhưng có vẻ con vật không muốn rời đi, hàng ngày vẫn đi quanh quẩn ở nhà của Vương, thậm chí còn giúp đỡ công việc nhà. Lúc có lợn rừng, khỉ vàng, nhím đến ăn trộm hoa màu, chú voọc liền xông ra hù dọa xua đuổi bọn chúng. Cứ như vậy, sau khi sống ở nhà Vương Chí Thành hơn một tháng, một buổi sáng nọ chú voọc đã lặng lẽ rời khỏi nhà anh.
Một ngày, vào lúc 3 giờ sáng cuối tháng 9, thôn làng nơi Vương Chí Thành đang ở vẫn còn chìm sâu trong giấc ngủ.
Đột nhiên một tràng tiếng gõ cửa dữ dội cùng với tiếng la hét thảm thiết, khiến Vương bừng tỉnh. Vương chạy ra cửa xem thử, thì ra là chú voọc đã quay về!
Vương đang định tiến lên ôm nó, chú voọc bỗng tỏ thái độ khác thường, giãy giụa khỏi tay anh, lo lắng kêu to. Thấy Vương Chí Thành không hiểu ý mình, chú voọc đưa ngón tay chỉ về phía dãy núi đằng sau. Vương quay đầu lại nhìn, thì phát hiện dãy núi lớn đang sạt lở, những tảng đá lớn trên núi đang không ngừng lăn xuống.
Chú voọc duỗi thẳng tay ra, gắng sức kéo Vương, ngụ ý là bảo anh hãy chạy cho mau. Vương Chí Thành cuối cùng đã hiểu rõ tính nguy hiểm, anh vội chạy về phòng đánh thức vợ, tay bế con thơ, chạy ra khỏi nhà. Tiếp đó, lại đến từng nhà từng nhà một mà hô lớn lên.
Toàn thôn có năm hộ gia đình với tổng cộng hơn hai mươi người vừa chạy ra khỏi nhà, thì những tảng đá to lớn liền lăn xuống, phá hủy hết toàn bộ thôn làng. Rất nhiều người trong làng đã khóc: Nguy hiểm quá, nếu như không phải chú voọc đến cứu, thì cả thôn đã cầm chắc cái chết.
Thôn dân đã được cứu sống, tìm kiếm “ân nhân” cứu mạng mình. Họ chỉ thấy chú vọoc đầu đen má trắng đứng trên tàng cây nhìn mọi người, miệng phát ra tiếng kêu mừng rỡ “Ô…. ô….”. Dường như, chú muốn chúc phúc cho những người đã thoát khỏi Tử thần, cũng là chúc phúc cho tất cả các loài vật vì từ nay con người sẽ yêu thương động vật hơn.
Chỉ khuyên con người thế gian khôi phục lòng lương thiện, từ bỏ nghiệp sát. Hãy phóng sinh, bởi vì phóng sinh động vật vốn cũng là phóng sinh con người, cứu mạng người khác chẳng khác nào cứu mạng của mình, phóng sinh, lợi ích vô cùng, công đức không thể nào tưởng tượng nổi.
THÁNG GIÊNG: Cửu tiêu tại Thìn, Thiên hoả tại Tý, Địa hoả tại Tuất, Hoang vu tại Tỵ
NGÀY LẬP XUÂN Trong sáng ít mây, trong năm tốt, âm u thời có sâu phá hoại. Ngày ấy giớ từ hướng Tây Bắc về, có nhiều sương gió hại vật. Gió theo hướng chính Tây về, rét to. Theo hướng chính Đông về, sấm sét dữ dội. Theo Đông Nam về nhiều sâu bệnh phá hại. Theo chính Nam về, nhiều nắng hại muôn vật. Theo hướng Tây Nam về là "Sung phương vi nghịch khí" Rét to, tháng 6 có nước lớn. Ngày ấy yên gió người yên, vật bội thu. Có mây đỏ tại phương Đông, mùa xuân hạn. Mây đen xuân mưa nhiều. Mây đỏ tại phương Nam mùa hè hạn. Cầu vồng phương Đông xuân mưa nhiều. Hè có thuỷ tai, Thu nhiều nước. Mưa xuống qua loa, tuyết trước xuân một ngày, năm ấy tốt.
NGÀY NGUYÊN ĐÁN: Mồng 1 tết gặp Bính, tháng 4 hạn. Gặp Tuất xuân xuân hạn 15 ngày. Gặp Kỷ, Quí gió mưa nhiều. Gặp Tân chủ hạn. Đầu năm gió Đông Bắc, trong năm tốt. Gó Tây Bắc nước lớn. Bốn phương có mây vàng tốt lành. Trong xanh nhiều sâu bệnh. Đỏ chủ hạn. Phương Đông gồm có mây, năm úng thuỷ. Mưa chủ xuân hạn. Cầu vồng xuất hiện hạn nhiều. Mây đỏ chủ hoàng trùng, rau quả vượng. Trời có khí xanh, nhiều sâu. Mây lưỡi chai đỏ chủ hạn. Đen chủ nước lớn. Sương tháng7 hạn. Có chớp người nhiều bệnh. Sấm động thì tháng 7 có sương, chủ nước lớn, rau hại. Có tuyết lớn trong năm tốt, mùa Thu nhiều nước. Ngày 03 gặp Giáp là trên năm (hoặc đầu năm). Ngày 03 được Mão chủ nước lớn, được Thìn khô ráo, mưa gió điều hoà. Trong sáng trên dưới đều yên ổn. Trong tháng mặt trời quầng thành thục ít.
Gió từ Đông Bắc về hạn, Tây Bắc về chủ thuỷ. Ngày 04 gặp Giáp là giữa năm. Ngày 05 ấy trong sáng người yên ổn. Mưa nhỏ ruộng nương tốt, tằm kén thu. Sương mù hại ngũ cốc.
Ngày 08 được Thìn thu hoạch bội. Trong sáng rất tốt. Ngày 07 được Mão xuân ẩm uwowts nhưng thu hoạch tốt. Là Thìn trước hạn sau thuỷ khô nống ngũ cốc được, ruộng cao tốt. Mây u ám trắng thì mùa xuân mưa nhiều. Ngày ấy mà chẳng thấy sao sâm, nữa thángxem thấy đèn hồng. Thục tục lấy là nhật đập thành. Ngày 09 được Thìn, chủ giữa Hè có thuỷ tai. Ngày 20 được Thìn chủ thuỷ. Ngày 12 được Thìn, chủ mùa Đông tuyết lớn, là Dậu rất tốt. Trăng quầng chủ côn trùng bay (có cánh) chết nhiều. Rét lạnh lắm.
NGÀY THƯỢNG NGUYÊN 15-1: Khô tạnh 3 tháng Xuân ít mưa, trăm quả tốt. Gió làm đèn suy yếu (tắt) xung quanh tiết Hàn thực mưa. Ngày ấy có mây mù chủ thuỷ. Mưa làm tắt đèn Thượng nguyên (mưa đêm rằn tháng giêng) mùa Thu kém (gió làm đèn suy yếu). Nửa đêm dựng đứng một cột hình như cái trụ cao 6,7 thước thì tốt mùa màng. Nếu 8,9 thước chủ thuỷ, 3,5 thước thì hạn nhiều (hiệu mống)
NGÀY VŨ THUỶ: Âm thầm nhiều, ít nước, cao thấp đều tốt. Ngày 16 đêm khô tạnh chủ hạn. Gió Tây Bắc về rất lành, có mưa cả năm thu hoạch tốt. Ngày 17 là triệu thu hoạch vụ thu, khô tạnh mùa thu thành, trăm hoa đua nở. Sáng 30-1 mưa gió trong năm phức tạp.
Phân trong tháng có ba ngày Hợi chủ nước nhiều. Mặt trời quầng, ngày Bín Đinh chủ hạn, ngày Canh Tân chủ binh đao. Ngày Nhâm Quý sông nước đầy rẫy. Ngày 23, 24 mặt trời quang ngũ cốc chẳng thành. Ngày 25 mặt trời quầng cam đường đắt. Thượng tuần trăng quầng (1 đến mùng 10) Cây cối sinh sâu. Trung tuần (10 đến 20) trăng quầng ngũ cốc sinh sâu. Hạ tuần trăng quầng (21 đến 30) sấm động vật nhiều. Đến 6,7 đường (vòng) người chết nhiều.
Mùa xuân nhiều tuyết, ứng tại 120 ngày tới có nước lớn.
(còn tiếp)
THÁNG 2: Cửu tiêu tại Sửu, Thiên hoả tịa Mão, Địa hoả tại Dậu, Hoang vu tại Dậu
NGÀY XUÂN PHÂN: Khô tạnh oi bức vạn vật chảng lành. Trăng không sáng có tai hại.
Gió từ Tây Bắc về rét nhiều
Gió từ Đông Bắc về phương Đông Nam sẽ có nước dữ sinh ra
Gió từ Đông Nam về chủ hạn, cây cối sinh sâu, đến tháng 04 còn rét đậm
Giớ từ Tây Nam về nước nhiều.
Gió từ chính Tây phương Bắc nghịch khí, chủ Xuân rét.
Ngày ấy có mây xanh năm tốt lành, có sương hay hạn.
NGÀY 01: Gặp Xuân phân (tuế hiểm) năm ấy nhiều khó khăn. Gặp Kinh trập thì hay bị sâu lúa phá hoại. Ngày 01 ấy có mưa gió thì người tai hại, năm nhiều khó khăn.
NGÀY 02 thấng băng giá chủ hạn. Tục nước Mân gọi là dầy xéo thanh tiết (mầu xanh)
NGÀY 08 gió Đông Nam chủ thuỷ. Gió Tây Bắc chủ hạn. Đêm mưa dâu tằm đắt.
NGÀY 12 gọi là "Hoa sớm" khô lạnh trăm quả kết. Rất kỵ đêm mưa, nếu được đêm ấy khô tạnh, thì cả năm khô ráo mưa phân bố điều hoà.
NGÀY 13: Gọi là "Ngày thu hoa" nên cũng cần trong sáng
HOA SỚM: Một nói rằng 15: Lại là ngày "KHUYẾN NÔNG" Khô tạnh trong sáng trăm hoa thành, mưa gió thì có khó khăn cả năm. Trăng không sáng có tai biến. Nếu đêm ấy mà hình trăng méo như cái tai thì ngô thóc hỏng, người đói. Cầu vồng hay xuất hiện ở phương Đông, mùa Thu thóc kém, hay xuất hiện ở phương Tây, tơ gai đắt người hại. Cú sương hay hạn.
NGÀY XUÂN XÃ: (Sau Lập xuân ngày Mậu thứ 5 là ngày Xuân xã)
Xuân xã trước Xuân phân thì tốt. Sau Xuân phân thì xấu (làm ruộng kém) Ngày Xuân xã khô tạnh sáng sủa trăm hoa đua nở. Chăn nuôi lục súc thịnh vượng
THÁNG 3: Cửu tiêu tại Tuất, Thiên hoả tại Ngọ, Địa hoả tịa Thân, Hoang vu tại Sửu.
NGÀY THANH MINH: Khô tạnh thì mừng, mưa thì trăm quả kém, ít. Gió Tây nam ít dâu tằm. Sấm động lúa mạch hư.
NGÀY 01: Gặp Thanh minh cây cỏ phát triên. Gặp Cốc vũ cả năm tốt mưa gió cây quả nhiều bị sâu hại. Sấm động chủ hạn.
NGÀY 03: Khô tạnh lá dâu tằm đắt. Mưa thì thuỷ hạn chẳng thường. Có sấm chớp tiểu mạch quý.
NGÀY 04: Nếu thấy sương rét lạnh mưa chủ ẩm ướt. NGÀY 06: Đại hoại tường ốc
NGÀY 07: Gió Nam năm ấy nhiều khó khăn cần đề phòng nhiều mặt
NGÀY 11: Là ngày Mạch (lúa mạch) sinh, nên khô tạnh
NGÀY VŨ CỐC: Hôm trước có sương trong năm hạn.
NGÀY 16: Là ngày Hoàng cô tẩm chủng (Hoàn cô thấm tẩm mọi giống) không nên có gió. Nếu gió Tây Nam chủ hạn.
NGÀY 30: Mà có mưa lúa mạch chẳng tốt.
Phàm trong tháng 3 có 3 ngày Mão mọi thứ đậu đỗ tốt. Không thì mạch kém thu. Gặp nhật thực tơ, gạo đắt, gió chẳng suy yếu thì tháng 09 chẳng có sương xuống. Mây kéo dầy, nặng thì mưa dữ sẽ đến. Mưa dũ đến giọi tên là Đào hoa thuỷ. Chủ mưa mai (bay) nhiều, nên đề phòng, chăm sóc cây hoa kẻo úng. Tuyến xuống 3 ngày chẳng rứt thì tháng 09 sương chẳng xuống. Năm Hoang vu - Chớp nhiều năm được mùa.
THÁNG 4: Cửu tiêu tại Mùi, Thiên hoả tại Dậu, Địa hoả tại Mùi, Hoang vu tại Thân.
NGÀY LẬP HẠ: Lập Hạ khô tạnh chủ hạn. Mặt trời quầng chủ thuỷ. Có mưa tốt. Có gió chủ oi nóng. Gió Tây Bắc chủ sương. Gió chính Bắc mưa nhiều. Động đất, nhiều cua các. Gió Đông Bắc lở đất Đông. Gió Nam, hè hạn. Gió Tây mạnh người chẳng yên, cây cỏ hại. Gió chính Tây, sâu. Phương Nam có mây năm tốt lành. Cầu vồng phương Nam hạn lớn có tai. Có sương mù dâu đắt.
NGÀY 01: Gặp Lập hạ, chủ đất động người chẳng yên. Gặp Tiểu mãn cỏ cây tai hại. Ngày ấy khô tạnh trong sáng trong năm tốt. Khô nóng chủ hạn. Mặt trời sinh quầng chủ thuỷ. Gió chủ nhiệt, mà phải lo cho một số giống cây bị mưa hại. Mưa gió lớn, hay có nước lớn. Ngày 01 là ngày Lúa nếp sinh nên tạnh ráo.
NGÀY 08: Đêm có mưa kết quả ít
NGÀY 13: Có mưa lúa mạch không thu.
NGAY 14: Khô tạnh năm được mùa. Gió Đông Nam tốt.
NGÀY TIỂU MÃN: Có mưa năm được mùa lớn.
NGÀY 16: Cũng nên có mưa mới tốt.
Như mặt trời mặt trăng đối chiếu, chủ mùa Thu hạn. Đầu tháng buổi sớm có sắc hồng chủ địa hạn. Chậm mà trắng chủ thuỷ.
NGÀY 20: Tục gọi là ngày "Tiểu phân long" khô tạnh, hạn. Mưa chủ thuỷ.
NGÀY 28: cũng thế. Gió Đông Nam nổi bảo là "Điểu nhi phong tín" chủ nhiệt. Phàm tron tháng có 3 ngày Mão.
Ngày mặt trời quầng mà gặp Nhâm, Quý chủ sông nước đầy dẫy. Nếu rét chủ hạn, ngạn ngữ nói rằng "Hoàng mai hàn tinh để kiêm". Rét Hoàn mai ắt để khô hạn là thế vậy.
THÁNG 5: Cửu tiêu tại Mão. Thiên hoả tịa Tý. Địa hoả tại Dậu. Hang vu tại Tỵ.
NGÀY MANG CHỦNG: Khô tạnh, năm được mùa. Nên mưa tức Hoàng mai vũ (Mưa bay vừa vừa chậm chậm, muộn). Trong nửa tháng không nên có sấm.
NGÀY 01: Gặp Mang chủng lục súc tai hại. Gặp Hạ chí lúa mùa quí không tạnh năm ấy tốt. Mưa thì rất khó khăn. Tuần đầu tháng gió lớn mà không mưa chủ đại hạn. Nước Ngô mướn nước Sở lấy sau ngày mang chuỷ mà gặp Bính (hàng can) thì tiến tới cây gỗ mọc nấm (tiểu My, My là nấm mọc ở cây gỗ mục nát, ngụ ý nước mưa nhầy nhợt gỗ mục mọc nấm). Tiểu thử mà gặp ngày Mùi thì xuất My. Người nước Mân lại lấy ngày Nhâm là tiến My. Ngày Thìn xuất My. Nếu My vũ thì giữa mùa Đông hoa xanh còn nở nghĩa là mùa Đông mưa ấm cây hoa nở tự nhiên như mùa Xuân nhưng chủ hạn là bởi vì mùa Đông mà thanh hoa chẳng lạc (mất đất thấp cố chủ hạn.
NGÀY 02: Mưa nước giếng sâu cũng khô.
NGÀY 03: Mưa thì chủ thuỷ.
NGÀY ĐOAN NGỌ 5-5: Khí trời khô tạnh chủ thuỷ. Trăng không sáng thì chủ hạn, có hoả tai. Mưa chủ tơ vải quý, năm sau được mùa. Mây mù chủ nước lớn. Mưa đá chru cầm thú chết, cây cỏ hại.
NGÀY 12: Gặp Thìn thì ngũ cốc thất thu
NGÀY HẠ CHÍ: Trước tết Đoan ngọ mưa gió điều hoà, nếu ở cuối tuần (21-30) gặp khó khăn lớn. Mặt trời quầng chủ nước lớn. Đêm ấy trời đầy sao ở bên thiên hà (sông ngân Hà) thì ít mưa, sao thưa thì mưa nhiều. Gió Tây Bắc rét nhiều. Gió Bắc nắng rét chẳng phải thời, sống núi nóng nực phát ra. Gió Đông Bắc sông nước có băng giá. Gió Đông Nam tháng 09 nhiều gió to cây cỏ ít ảnh hưởng. Gió Tây Nam chủ tháng 06 nhiều nước. Gió Tây mùa thu có nhiều sương. Ngày Hạ chí mưa gọi là Lâm thừi vũ (thời kỳ mưa dội xuống) chủ mưa nhiều. Sau nửa tháng là tham thời, ngày đầu là thời kỳ đầu, tiếp 5 ngày là trung thời (thời kỳ giữa) tiếp bảy ngày là thời kỳ cuối. Gió phát ra tại 2 ngày trước thời kỳ giữa, xấu lắm. Ngày ấy có sương, mưa lại dai (lâu). Sau 10 ngày có sấm gọi là thời kỳ Tống lôi (tống thời lôi) chủ hạn dai (lâu). Có nhiều mây tiếp "tam phục" oi nóng.
Này ấy phương Đông Nam có khí xanh trong năm tốt. Nếu không ứng ở tháng 10 có tai.
NGÀY 20: là "Đại phân long", hôm sau có mưa (21) trong năm tốt. Ngày 20 không mưa người nhiều bệnh.
Phàm trong tháng có Nguyệt thực chủ hạn. Mây hình pháo xe mọc lên chủ gió lớn gẫy cây. Ngày Thìn, ngày Tỵ hành thổ có mưa, thì sâu trùng phát sinh. Sau Hạ chí 46 ngày trong đó cầu vồng xuất ở Tây Nam (Quán khôn vị) chủ nước lớn, sâu phát inh, cá ít. Thời kỳ ấy không có sấm loài ngũ cốc giảm thu một nửa.
THÁNG 6: Cửu tiêu tại Tý, Thiên hoả tại Mão, Địa hoả tại Tỵ, Hoang vu tại Thìn
NGÀY TIỂU THỬ: Gió Đông Nam nổi mà kiêm cả mây trắng thành từng khối chủ có gió đẩy thuyền bè, liền nửa tháng như thế thì hạn.
NGÀY 01: Mà gặp Hạ chí thì đại hung. Gặp Tiểu thử thì nước lớn. Gặp Đại thử thì người nhiều bệnh. Gặp can Giáp thì đói.
Gió Đông Nam chủ sau hại trăm hoa. Mưa, được mùa.
NGÀY 03: Khô tạnh chủ hạn, cỏ khô. Mù tốt lắm.
NGÀY 06: Tạnh khô chủ có thu hoạch. Mưa thì thu nhiều nước.
NGÀY 30: Gặp Lập thu nếp sớm chậm. Gió nam, sâu phá hại. Chẳng mưa người nhiều bệnh
Phàm trong tháng gặp Nhật, Nguyệt thực thì chủ hạn. Trong vòng tam phục có gó Tây Bắc thì mùa Đông băng giá bền. Khí trời gió mát thì ngũ cốc chẳng kết quả. Cầu vồng hiện nhanh chủ gạo gai quí. Ban đêm chớp ở phương Nam thì khô tạnh lâu lâu. Ở phương Bắc chóng mưa. Tháng bảy cũng như thế.
THÁNG 7: Cửu tiêu tại Dậu, Thiên hoả tại Ngọ, Địa hoả tại Thìn, Hoang vu tại Hợi.
NGÀY LẬP THU: Khô tạnh muôn hoa ít thành thực. Gió mát tốt, nóng bức năm sau hạn lớn.
Lập thu nhiều mây mọc lên thì không có gió ắt không mưa. Gió Tây Bắc rét dữ mưa nhiều. Gió Bắc mùa Đông nhiều tuyết. Gió Đông mùa thu nhiều mưa dữ, cỏ cây mọc lại (tái vinh) . Từ Đông Nam xuaaus. Từ chính Nam hạn. Từ Tây Nam thu hoạch tốt. Từ chính Tây mùa thu nhiều sương.
Phương Tây có mây mưa bay tốt. Phương Nam có mây như đàn dê, tức là "Khôn khí chí dã" chủ ngũ cốc rau rưa tốt, thành. Mây đen tạp nhạp, dâu, gai được. Nếu không có khí sắc ấy chủ năm có nhiều sương. Mây đỏ năm sau hạn. Phương Tây Nam có mây đỏ được ngô. Sau Lập thu trong vòng 16 ngày có cầu vồng xuất hiện chính Tây chủ hạn. Có sấm lúa muộn kém.
NGÀY 01: Gặp Lập thu hoặc Xửa thử, người nhiều bệnh. Nguyệt thực chủ hạn. Cầu vồng hiện ngày 01 ruộng vườn không thu hoạch. Có sương lúa muộn kém.
NGÀY 03: Có mây mù năm tốt lành cây có vinh thịnh.
NGÀY 07: Tối ngày 07 có mưa gọi là Tẩy sa thuỷ (nước rửa xe) rất tốt.
NGÀY 08: Đêm đầy sao mùa thu tốt lắm.
XỬ THỬ: Mưa thì không tốt. Ngày Bạch lộ chẳng phí công, có mưa tốt.
NGÀY 16: Trăng tỏ từ tối tốt. Trăng lên chậm mùa thu mưa. Ngày ấy có mưa năm ấy kém lắm. Ngày ấy là Tẩy bát vũ (mưa rửa bát) Các tăng (sư) tháng 4 ngày 15 kết hạ thượng đường, tháng 07 ngày 15 gải hạ táng đường (Nghĩa là các sư lên đường mùa hè 15-4 đến 15-7 thì tan hè (vào hội lễ hè) nên ngày 16 gọi là mưa rửa bát vậy. Trên đây cũng nói để cùng biết, nếu không có nước rửa bát thì năm sau ắt việc ấy sẽ khó khăn gọi là Hoang đình đường nghiệm lắm.
Phàm trong tháng ngặp Nhật Nguyệt thực, người tai biến mà nước lớn. Mặt trời thường không tỏ chủ sau phá hại. Có 3 ngày Mão được mùa. Mưa nhỏ tốt, mưa lớn hại thóc lúa
THÁNG 8: Cửu tiêu tại Ngọ, Thiên hoả tại Dậu, Địa hảo tại Mão, Hoang vu tại Mão
NGÀY BẠCH LỘ: Trời khô tạnh nhiều sâu. Mưa hại cỏ cây. Ngày ấy gọi là Thiên thu nhật (ngày trời thu). Nếu nạp âm thuộc hoả thì hoàng trùng phát sinh mà hại vật.
NGÀY 01: Gặp Bạch lộ hoả quả, lúa thóc chẳng lên, gặp Thu phân vật quý, khô tạnh mùa Đông hạn. Có mưa lúa mạch tốt. Mưa gió lớn, người chẳng yên. Gió nam, lúa tốt. Nửa đêm ngày 11 tạnh sáng tốt. Ngày ấy xem nước nông sâu mà biết năm sau thuỷ hạn.
NGÀY TRUNG THU 15: Khô tạnh chủ năm tới nhiều nước. Không thấy trăng, chai không đẻ (Bạng vô thai- Bạng là con chai) mà kiều, mạch không thành. Trăng tỏ ít cá. Mưa thì năm sau ruộng thấp được tốt, mà ngày Thượng nguyên không đen.
NGÀY THU PHÂN: Khô tạnh thu hoạch tốt, mưa bay hoặc u ám rất tốt, năm sau càng tốt.
Gió Tây Bắc thì năm sau u ám mưa, Gió Bắc rét nhiều. Gió Đông Bắc gấp gấp chủ tháng 12 u ám rét. Gió Đông trăm hoa kém phát triển. Đông Nam tháng 10 nhiều khí dữ. Gió Nam rất xấu. Gió Tây tốt lắm.
Giờ Dậu phương Tây có mây trắng chủ được mủa to. Mây đen tạp nhập được gai, đậu đỗ. Mây đỏ năm sau hạn. Sau Thu phân 46 ngày trong khoảng ấy có cầu vồng xuất hiện Tây Bắc thì nhiều nước mà người hại. Có sương người nhiều bệnh.
NGÀY 18: Là tràm sinh nhật trước sau ắt có mưa lớn. gọi là Hoạng quyện thuỷ (nước chảy xoáy tròn) . Phàm trong tháng có Nhật thực người hay mắc bện nở ngứa. Có Nguyệt thực đói kém, cá đắt (quý), người có tai. Có 3 ngày Mão hoặc 3 ngày Canh ruộng thấp cây cỏ tốt.
Mây nổi chẳng về, tháng 2 tới không có sấm. Tháng 08 cũng không có sấm. Nếu có sấm, tuyết nhiều mà người hay ốm đau. Từ ngày 13 đến ngày 23 là Chiêm gia thiên (nhà giời đến xét) tối kỵ gieo trồng các giống.
THÁNG 9: Cửu tiêu tại Dần, Thiên hoả tại Tý, Địa hoả tại Tỵ, Hoang vu tại Mùi
NGÀY 01: Gặp Hàn lộ mùa Đông lạnh lắm, gặp Sương giáng thì mưa nhiều, năm sau được mùa. Trong sáng, tạnh muôn vật chẳng thành, mưa gió năm sau hạn, mùa hè mưa nhiều, mưa bay tốt, mưa lớn lúa hại. Cầu vồng hiện gai quí, người tai hại.
NGÀY TRÙNG DƯƠNG 9-9: Khô tạnh ắt ngày Nguyên đán 01-01 và ngày Thượng nguyên 15-01, ngày Thanh minh đều tạnh ráo.
Gió Đông Bắc thì năm sau tốt. Nếu gió Tây Bắc năm sau khó khăn. Ngày ấy là ngày Vũ quy lộ (đường mưa về) có mưa lúa tốt, mạ năm sau càng tốt.
NGÀY 13: Khô tạnh, chủ mùa Đông khô tạnh. Trăng không sáng thì sau phá hại cây cỏ. Phàm trong tháng có Nhật thực thì đói mà dịch bệnh sinh. Có Nguyệt thực chết trâu ngựa. Trong tháng trăng thường không sáng thì sâu bệnh sinh mà vải vóc quí, cây cỏ chẳng rơi dụng (điêu rơi rụng). Năm sau tháng 03 hại nát. Cầu vồng phương Tây các loại đậu đỗ quí, có mưa đá trâu ngựa chẳng lợi. Không có sương sang năm tháng 03 còn rét. Cây cỏ đều hại. Có sấm thì thóc lúa kém đắt.
THÁNG 10: Cửu tiêu tại Hợi, Thiên hoả tại Mão, Địa hoả tại Sửu, Hoang vu tại Dần.
NGÀY LẬP ĐÔNG: Tạnh ráo mùa đông ấm. cá nhiều. Gió Tây Bắc năm tốt lành. Gió Bắc nhiều sương Gió Đông tuyết dầy rét ác liệt. Gió Đông Nam ấm nhiều, mà mùa Hè sang năm hạn. Gió Nam năm sau nữa tháng 05 có dịch lớn. Gió Tây Nam nước to. Gó Đông muôn vật chẳng thành.
Lập đông trong 40 ngày cầu vổng hiện ở phương Bắc mùa đông ít mưa. Mùa Xuân nhiều thuỷ tai. Ba tháng mùa Đông cầu vồng hiện ở phương Tây có mây trắng kèm theo mùa Xuân mưa nhiều. Có mây mù là mộc lộ chủ năm sau nước lớn. Trước mùa Đông mà sớm có sương lúa tốt. Sau mùa Đông sương muộn lúa có thu.
NGÀY 01: Gặp Lập đông có tai dị. Gặp Tiểu tuyết có gió Đông, gạo tốt. Gió tây gạo đắt. Trời tạnh chủ Đông tạnh, mưa gió thì năm sau mùa Hè hạn. Sấm đông người tai hại.
NGÀY 02: Mưa cỏ chi, gai chẳng kết.
NGÀY 15: Tức là ngày Nguyệt vọng, là tháng 5 thứ gió sinh ra. Ngày ấy có gió thì suốt năm mưa gió có hẹn kỳ. Gói là tim của năm thứ gió (Ngũ phong tín) Ngày ấy khô tạnh chủ ấm áp. Nguyệt thực cá quý
NGÀY 16: Khô tạnh mùa Đông ấm.
NGÀY 03: Gió Nam chủ có tuyết, có mưa chủ rét.
Phàm trong thán có Nhật thực mùa Đông hạn. Nguyệt thực thì mùa Thu thóc, cá quý. Trăng không sáng lục súc quí. Có 2 ngày Mão giá gạo bình thường. Lại trong tháng không có ngày Nhâm tý thì sang Xuân còn rét (Thập nguyệt vô Nhâm tý lưu hạn đái hậu xuân). Sấm động người tai hại. Trục nước Mã "Sau Lập đông 10 ngày là nhập dịch đến Tiểu tuyết là xuất dịch trong kỳ mà mưa, muan trùng uống nước ấy mà nở (Chí dịch là nước bọt) nên bảo là Địch dịch vũ. Trong khi sấm mà có mù thì năm sau tháng 05 có nước lớn.
THÁNG 11: Cửu tiêu tại Thân, Thiên hoả tại Ngọ, Địa hoả tại Tý, Hoang vu tại Ngọ
NGÀY ĐÔNG CHÍ: Tạnh ráo chủ năm tốt lành. Mưa lớn muôn vật chẳng thành. Gió rét tốt lắm. Năm mới đầu hè hạn. Gió Đông bắc năm mới thán riêng âm u. Gió Đông sấm lớn, mưa có sấu nhiều chẳng thôi. Gió Đông Nam mọi thứ sâu chại cây cỏ. Gió Bắc tên là tặc phong (gió dữ như giặc) người nên tránh thì tốt. Gió Tây Nam nhiều nước. Gió chính Tây mưa nhiều.
Sau Đông chí trong vòng 16 ngày cầu vồng hiện ở Đông Bắc thì Xuân tới hạn nhiều. Hè có hoả tai, mây xanh phương Bắc dậy thời năm được mùa người yên ổn, mây đỏ thì chủ hạn, mây đen chủ thuỷ, mây trắng tai hại, mây vàng tốt lắm. Không mây năm ác liệt. Có mây mù năm sau hạn. Có khí đỏ chủ hạn khí đen chủ thuỷ. Khí trắng người nhiều bệnh.
Tuyết lớn năm sau tốt, ít thì năm sau hạn. Trước và sau ngày Đông chí có tuyết thì sang năm nhiều nước.
NGÀY 01: Gặp Đông chí năm hoang vu có mưa gió lúa mạch được. Đại tuyết chủ năm sau xaatus.
NGÀY 02, 03: Gặp Nhâm chủ hạn.
NGÀY 04: Gặp Nhâm tốt lắm
NGÀY 05 đến 08: Gặp Nhâm nước lớn.
NGÀY 09: Gặp Nhâm tốt lắm
NGÀY 10: Gặp Nhâm kém thu hoạch
Phàm trong tháng có Nhật thực, người và gia súc đều hại. Gạo cá đắt. Có Nguyệt thực gạo quí. Có mưa sấm mùa Xuân tới gạo quí, mưa nhiều, trong năm khô tạnh. Sau Đông chí 3 ngày tàn là nhập lạp có nghĩa là sau Đông chí đến ngày Tân thứ 3 là bắt đầu tháng Chạp.
THÁNG 12: Cửu tiêu tại Tỵ, Thiên Hoả tại Dậu, Địa hoả tại Hợi, Hoang vu tại Tuất.
NGÀY 01: Gặp Tiểu hàn chủ bạch thỏ kiếm trường ý nói tháng 2 tới tốt. Gặp Đại hàn hổ thương nhân ý nói tháng giêng người hay ốm hại. Có mưa gió xuân tới hạn, có gió đông lục súc tai hại.
NGÀY ĐẠI HÀN: Có mưa gió hại loại chim và thú có cánh. Đêm đến mà gió Đông Bắc chủ năm sau mọi việc tốt. Đên chó cắn năm mới không có dịch. Mưa lạnh dữ dội năm sau tháng 6 tháng 7 có nước lớn đầy dẫy.
Trong tháng có Nhật Nguyệt hực sang năm có thuỷ tai. Trăng thường không sáng ngũ cốc quý. Có mây mù năm sau hạn, ngày Dậu mà như vậy cũng nghiệm. Cầu vồng hiện thóc ngô quý. Sấm động năm sau hạn úng chẳng, phân đều. Tuyết băng mà có sấm thì âm u mưa suốt trăm ngày. Nếu mưa thì Đông xuân. mưa âm u liền 2 tháng. Trước 4 ngày có tuyết năm sau hỏng. Băng giá sau thuỷ dài thì năm sau nhiều nước. Băng giá sau nước lũ thì năm sau hạn. Trong tháng mà các loài mầm mống cỏ cây chẳng thấy thì năm sau ngũ cốc chẳng được. Cây Liễu có xanh thì năm sau rất tốt hoa quả mới thành. Mây mù xuống thì chủ hạn.
người đông rất khó để tránh được việc hai nhà có cửa đối diện nhau vậy làm sao để hạn chế cũng như tránh vận xấu khi có nhà có cửa đối diện nhau. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây của Tuvikhoahoc.com để có cách hóa giải phù hợp nhất cho căn nhà của mình nhé.
“Kinh Lỗ Ban” ghi rằng: “Hai nhà không thể đối diện nhau vì như thế sẽ có một chủ bị suy. Hai nhà không thể đối nhau vì như thế sẽ có một nhà bị dữ”.
Có không ít người quan tâm tới điều này, có người treo gương: Tam xoa, bát quái, bạch hổ để hóa giải, nhưng làm như vậy lại gây lo lắng cho nhà đối diện nên cần hai bên cùng tìm cách hóa giải.
Cũng có một số gia đình, vì cố muốn nhà được tốt mà làm ảnh hưởng tới nhà đối diện, gia chủ không nên dùng các cách hóa giải như: dùng bùa ngải, dùng gương phản, tượng đá, treo đầu thú… vì các cách trên đều làm cho việc hóa giải của hai gia đình không bao giờ kết thúc, hai bên cùng tìm cách hóa giải, không ai chịu kém ai, gây nên bất hòa. Ví dụ, một nhà dùng đầu sư tử để hóa giải, nhà đối diện lại dùng hai thanh kiếm đan chéo nhau hóa giải. Như thế sẽ có một nhà bị lụi. Bởi thanh kiếm có nguy cơ gây hại cho chiếc đầu sư tử. Vì thế mà việc hóa giải của hai gia đình sẽ kéo dài mãi.
Tuy nhiên, việc hai cửa đối nhau không quá nghiêm trọng và khó hóa giải như vậy. Do đó gia chủ không nên quá lo lắng nếu chẳng may ngôi nhà bị rơi vào thế cửa xấu này.
Muốn xóa bỏ sự uy hiếp về tâm lý “Hai cửa đối nhau” lại vừa không để hàng xóm có cửa đối cửa với mình bị mặc cảm, cách làm tốt nhất để giải quyết là trên dạ cửa treo 4 chữ “Thiên Quan Tứ Phúc” (Ông trời ban phúc bốn phương). Có thể bàn với nhà hàng xóm cùng treo bốn chữ này lên cửa chính là điều vô cùng lý tưởng. Như thế cả hai nhà cùng có phúc lớn trời ban.
Với cửa chính 2 nhà đối diện nhau làm sao để hóa giải phong thủy xấu trên đây hy vọng các bạn sẽ hóa giải được điều xấu khi nhà mình có cửa chính đối diện với nhà hàng xóm. Tuy đơn giản nhưng chắc chắn mang lại hiệu quả cao trong thuật phong thủy giúp hạn chế điều xấu mang lại tài lộc niềm vui cho cả gia đình đấy.