Mơ thấy phụ nữ sinh con –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
► Mời bạn đọc: Những câu nói hay về tình yêu và suy ngẫm |
tăng thêm tính Hỏa của người ấy.
Một chiếc xe màu xanh đậm hoặc đen sẽ làm dịu bớt Hỏa, và Kim – màu trắng hay xám – thì thích hợp hơn, và an toàn hơn, vì làm Hỏa suy yếu đi. Mặt khác nếu người lái xe nào dễ bị mất tập trung và là người tuổi Hợi mạng Thủy thì nên chọn màu xe thuộc hành Mộc (màu xanh lá). Màu thuộc hành Kim (trắng hoặc bạc) cũng có tác dụng hỗ trợ những người này. Tuy vậy, việc chọn màu sắc hợp phong thủy cho xe cũng tùy thuộc vào sở thích của chủ xe.
Nếu chọn được màu xe hợp mạng, tuổi, nhưng chủ xe lại không thích màu đó, thì điều đó cũng không tạo nên luồng khí giao hòa tốt đẹp giữa chủ xe và chiếc xe. Nên cân nhắc kĩ về vấn đề này.
Nhiều người cho rằng, việc chọn màu xe phù hợp với tuổi sẽ khiến chiếc xe gặp ít trục trặc hơn và người sở hữu sẽ cảm thấy may mắn, an toàn hơn khi tham gia giao thông.
Đã từ lâu việc cưới hỏi, xây nhà, sơn nhà hay mua sắm đồ đạc dựa vào ngũ hành trở thành một việc quen thuộc. Về mặt tâm linh, những màu sắc hợp với mệnh của chủ nhân sẽ khiến bạn cảm thấy may mắn hơn, tự tin hơn và có tâm lý thoải mái hơn.
Dưới đây là những kiến thức cơ bản về ngũ hành và màu sắc, xem tuổi mua xe cũng những kinh nghiệm chọn màu xe hợp với mệnh của bạn.
Nội dung
Ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, tồn tại theo quy luật tương sinh và tương khắc. Quy luật của Ngũ hành hoàn toàn phù hợp với quy luật của tự nhiên, vì vậy từ khi được biết đến, Ngũ hành luôn thể hiện một sự chính xác cho những người tin vào. Mỗi người sinh ra đều có mệnh của mình theo quy luật xoay vòng của Ngũ hành 2 năm 1 lần, qua đó ứng với quy luật tương sinh tương khắc với mệnh khác.
Trong ngũ hành, tương sinh là vòng tròn phía ngoài, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy và Thủy sinh Mộc. Ứng với tự nhiên là cây khô dễ cháy sinh lửa – lửa đốt mọi vật ra tro, thành đất – đất tạo nên quặng trở thành kim loại – kim loại nung nóng chảy thành dạng lỏng như nước – nước nuôi cây lớn. Vòng tròn tương sinh cũng ứng với sự hỗ trợ, làm tốt lên, tạo sự may mắn, yên ổn.
Tương khắc là những đường bên trong vòng tròn tương sinh, tạo thành hình ngôi sao 5 cánh. Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ và Thổ khắc Thủy. Ứng với tự nhiên là nước dập tắt lửa, lửa làm chảy kim loại, kim loại cắt được cây, cây hút chất màu của đất, đất ngăn nước chảy. Tương khắc ngược lại với tương sinh, tức là có thể sẽ gây là những điều không tốt, đối lập.
Bảng màu cũng có sự chuyển động tương ứng như ngũ hành, và bảng màu cũng rất phù hợp với quy luật của tự nhiên.
Theo đó, Mộc ứng với màu xanh lá cây; Hỏa ứng với màu đỏ, hồng, da cam; Thổ ứng với màu nâu, vàng đậm; Kim ứng với màu vàng sáng, bạc, trắng; Thủy ứng với màu xanh nước biển, đen, tím.
Theo ngũ hành tương sinh tương khắc, có nghĩa là việc chọn màu cũng nên chọn theo quy luật tương sinh tương khắc với chủ nhân.
Chọn màu tương sinh với mệnh sẽ khiến bạn cảm thấy tự tin, may mắn, thoải mái thanh thản. Bản thân màu tương sinh cũng khiến bạn cảm thấy rất phù hợp.
Chọn màu mà mệnh của bạn tương sinh cũng hợp lý, khiến chiếc xe bền hơn và hợp với chủ nhân.
Bạn có thể chọn màu cùng mệnh, nhưng đừng quá lạm dụng. Màu cũng mệnh sẽ khiến bạn yên ổn và an toàn nhưng nếu nhiều màu cùng mệnh quá sẽ sinh ra dư thừa, phản tác dụng.
Cần tránh những màu tương khắc với mệnh của bạn. Những màu tương khắc sẽ khiến sức khỏe của bạn bị ảnh hưởng, tâm trí bất định, mất tập trung, hay bực bội nóng giận, dễ gặp tai nạn hơn nếu lái xe, có thể bị thương tật.
Bạn cũng không nên lạm dụng những màu mà mệnh của bạn khắc, hay còn gọi là khắc xuất. Những màu ấy tuy không ảnh hưởng đến bạn nhưng sẽ khiến chiếc xe của bạn không ổn định, hay hỏng hóc khó sửa chữa và khó giữ chiếc xe lâu dài.
Người mệnh Hỏa nên chọn xe màu xanh lá cây. Có thể chọn xe màu da cam, đỏ, hồng cùng mệnh. Nếu bạn cảm thấy một chiếc xe màu xanh lá cây đôi khi quá nổi bật và không phù hợp, hãy chọn các màu như nâu, vàng đậm, trắng, bạc, vàng sáng. Cần tránh xe màu xanh nước biển, đen.
Giáp Tuất 1934 & Ất Hợi 1935
Mậu Tý 1948 & Kỷ Sửu 1949
Bính Thân 1956 & Đinh Dậu 1957
Giáp Thìn 1964 & Ất Tỵ 1965
Mậu Ngọ 1978 & Kỷ Mùi 1979
Bính Dần 1986 & Đinh Mão 1987.
Xanh lá cây rất hợp với người mệnh Hỏa.
Người mệnh Thổ nên chọn xe màu đỏ, da cam, hồng. Có thể chọn màu nâu, vàng đậm, vàng nhạt, bạc, trắng. Nên tránh màu xanh lá cây và nhớ đừng lạm dụng màu xanh da trời, đen.
Mậu Dần 1938 & Kỷ Mão 1939
Bính Tuất 1946 & Đinh Hợi 1947
Canh Tý 1960 & Tân Sửu 1961
Mậu Thân 1968 & Kỷ Dậu 1969
Bính Thìn 1976 & Đinh Tỵ 1977
Canh Ngọ 1990 & Tân Mùi 1991
Màu đỏ hợp với người mệnh Thổ
Người mệnh Kim nên chọn xe màu nâu, vàng đậm. Bạn cũng có thể mua xe màu trắng, vàng nhạt, xanh nước biển. Cần cân nhắc khi mua xe màu xanh lá cây và thận trọng với màu đỏ, da cam, hồng.
Nhâm Thân 1932 & Quý Dậu 1933
Canh Thìn 1940 & Tân Tỵ 1941
Giáp Ngọ 1954 & Ất Mùi 1955
Nhâm Dần 1962 & Quý Mão 1963
Canh Tuất 1970 & Tân Hợi 1971
Giáp Tý 1984 & Ất Sửu 1985
Màu nâu lại phù hợp với người mệnh Kim
Người mệnh Thủy nên chọn xe màu trắng, vàng nhạt. Có thể sử dụng màu cùng mệnh như xanh nước biển, đen hay màu xanh lá cây. Bạn cần tránh những màu như nâu, vàng sẫm. Màu đỏ, da cam là màu khắc xuất cũng nên thận trọng khi lựa chọn.
Bính Tý 1936 & Đinh Sửu 1937;
Giáp Thân 1944 & Ất Dậu 1945;
Nhâm Thìn 1952 & Quý Tỵ 1953;
Bính Ngọ 1966 & Đinh Mùi 1967;
Giáp Dần 1974 & Ất Mão 1975;
Nhâm Tuất 1982 & Quý Hợi 1983.
Người mệnh Thủy nên chọn xe màu trắng.
Người mệnh Mộc nên sử dụng xe có màu xanh nước biển, đen, tím. Có thể sử dụng màu xanh lá cây, nâu, đỏ, hồng, da cam và cần tránh các màu kim như bạc, trắng, vàng ánh kim.
Nhâm Ngọ 1942 & Quý Mùi 1943;
Canh Dần 1950 & Tân Mão 1951;
Mậu Tuất 1958 & Kỷ Hợi 1959;
Nhâm Tý 1972 & Quý Sửu 1973;
Canh Thân 1980 & Tân Dậu 1981;
Mậu Thìn 1988 & Kỷ Tỵ 1989.
Và người mệnh Mộc hợp với xe màu xanh nước biển, đen.
Nhìn chung, nên rất trận trọng khi sử dụng các màu tương khắc với mệnh của bạn để có thể an tâm khi sử dụng xe. Dù sao, quan trọng hơn vẫn là việc tập trung khi lái xe, không sử dụng rượu bia và lái xe đúng luật, còn nếu không thì dù có sử dụng xe có màu phù hợp đến mấy bạn cũng phải nhận những hậu quả đáng tiếc.
Bạn có thể xem ngày tốt mua xe sau khi đã chọn được xe ưng ý hoặc xem biển số xe hợp tuổi bạn không tại Xem Tướng Chấm Net.
Tuổi Canh Thân
1./ Nguyễn Trãi (1380-1442): hiệu là Ức Trai là đại thần nhà Hậu Lê, một nhà văn chữ Nôm. Ông là một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ mang tầm cỡ kiệt xuất, vĩ đại
Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Danh nhân văn hoá thế giới và tổ chức kỷ niệm 600 năm năm sinh của ông.
Nguyễn Trãi gốc làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sinh ra ở Thăng Long, sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây.
Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và có công lớn trong việc phò tá Lê Lợi đánh đuổi giặc ngoại xâm và lập lên triều Hậu Lê.
Năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án oan Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử.
Tháng 7 năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng NguyễnTrãi tước Tán Trù Bá
Hiện nay, ở Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương) có khu lưu niệm Nguyễn Trãi và gia tộc của ông. Các thế hệ giàu lòng ngưỡng mộ đối với tổ tiên, từ khắp mọi miền của đất nước, đã không ngớt kéo về Côn Sơn để tưởng nhớ Nguyễn Trãi - người con quang vinh của lịch sử nước nhà.
2./Lương Thế Vinh (1460–1497): Trạng nguyên, làm quan triều Lê Thánh Tông.
Danh sĩ Lương Thế Vinh tự Cảnh Nghị, hiệu Thụy Hiên, người quê xã Cao Hương, huyện Thiên Bản, tỉnh Nam Định nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Năm Quý Mùi 1463, ông đỗ trạng nguyên khi mới 23 tuổi.
Đền thờ Lương Thế Vinh xã Cao Hương, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Ông làm quan đến Thừa chỉ ở Viện Hàn lâm, có chân trong Tao đàn Nhị thập bát tú thời ấy. Bình sinh hiếu học, đọc rộng các sách, ông có soạn nhiều sách về đạo Phật và quyển Toán pháp đại thành. Các sĩ phu và nhân dân cảm phục tài đức ông, tục gọi ông là Trạng Lường (biểu dương ông về khoa toán pháp).
Lương Thế Vinh là một ông quan tài giỏi, thông thạo văn chương, giỏi giang âm nhạc, tinh tường toán pháp. Ông còn nổi tiếng về lòng mến dân và đức tính thẳng thắn, trung thực. Ngay đối với vua, ông cũng hay châm biếm khôi hài, không chịu câu thúc. Ông thường mượn việc để răn dạy từ vua đến quan.
Khi ông mất, được phong làm Phúc thần, nơi đình Cao Hương còn có bức vẽ chân dung ông.
3./ Phạm Vĩ Khiêm (1740-1787): Tên là Phạm Nguyễn Du, danh sĩ thời Lê Mạt.
4./Nguyễn Tri Phương (1800-1873): một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn.
Nguyễn Tri Phương tên cũ là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu là Đồng Xuyên, sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân 1800, quê làng Đường Long (Chí Long), xã Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.
Ông xuất thân trong một gia đình làm ruộng và nghề thợ mộc. Nhà nghèo lại không xuất thân từ khoa bảng nhưng nhờ ý chí tự lập ông đã làm nên công nghiệp lớn.
Năm Quý Mùi (1823), ra làm quan cho triều Nguyễn. Ông từng giữ các vị trí quan trọng trong triều đình và được chép công trạng vào bia đá ở Võ miếu (Huế).
Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873).
Trong trận chiến bảo vệ thành Hà Nội tháng 11 năm 1873, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương. Ông được lính Pháp cứu chữa, nhưng ông khảng khái từ chối và nói rằng: "Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa"Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất vào ngày 20 tháng 12 năm 1873 (1 tháng 11 Âm lịch), thọ 73 tuổi. Thi hài ông và Nguyễn Lâm được đưa về an táng tại quê nhà. Đích thân vua Tự Đức soạn bài văn tế cho ba vị công thần (Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm, Nguyễn Tri Phương) và cho lập đền thờ Nguyễn Tri Phương tại quê nhà.
5./Mai Xuân Thưởng (1860-1887): Lãnh tụ phong trào Cần Vương ở Bình Định.
Mai Xuân Thưởng lúc nhỏ tên là Phạm Văn Siêu, là sĩ phu và là lãnh tụ phong trào kháng Pháp cuối thế kỷ 19 ở Bình Định (Việt Nam).
Mai Xuân Thưởng là người thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tuy Viễn (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định).
Năm 1884, ông đỗ cử nhân ở trường thi Bình Định. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa quân phối hợp với nghĩa quân của Tổng đốc Đào Doãn Địch ốm chết, Mai Xuân Thưởng được tôn làm nguyên soái.
Tháng 9 năm Aát Dậu (1885), ông làm lễ tế cờ tại Lộc Đổng, rồi xuất quân diệt giặc, thanh thế của nghĩa quân lan rộng, lừng lẫy. Những trận đánh ở Cẩm Vân, Thủ Thiện đã gây cho địch nhiều tổn thất.
Không bắt được Mai Xuân Thưởng, thực dân Pháp đã bắt giam mẹ ông. Vì chữ hiếu theo quan niệm của người xưa, ông đã ra nộp mình tại đình Phú Phong. Khi được khuyên ra hàng, ông khẳng khái trả lời: "Chỉ có đoạn đầu tướng quân, chứ không có hàng đầu tướng quân!"
Bọn giặc giải ông về thành Bình Định và xử chém vào ngày rằm tháng tư năm Đinh Hợi (1887). Năm đó, ông 27 tuổi.
>> Đã có TỬ VI 2016 mới nhất. Xem ngay!
>> Đã có LỊCH VẠN NIÊN 2016 mới nhất. Xem ngay!
Tuổi Giáp Thân
1./Đồng Kiên Cương (1284-1330): Vị tổ thứ hai trong Trúc Lâm tam tổ
Đồng Kiên Cương sinh ngày 7 tháng 5 niên hiệu Thiệu Bảo thứ 4, tức năm 1284, quê ở làng Cửu La, huyện Chí Linh, lộ Lạng Giang (nay là huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). sau này đi tu mới đổi pháp hiệu là Pháp Loa.
Là một người lãnh đạo sáng suốt, dù tuổi đời còn rất trẻ nhưng Pháp Loa đã đưa Thiền phái Trúc Lâm phát triển tới một đỉnh cao mới. Ông cũng là người tổ chức ấn hành Đại Tạng Kinh, một cuốn sách quan trọng của Phật giáo tại Việt Nam…
Ông mất ngày 3 tháng 3 năm 1330, thọ 42 tuổi. Sau khi được tin Pháp Loa viên tịch, Thượng hoàng Trần Minh Tông ngự bút truy tặng ngài là Tịnh Trí Đại Tôn Giả.
Mặc dù qua đời khá sớm nhưng trong suốt 24 năm ròng rã, Pháp Loa đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh mà thầy mình là Trần Nhân Tông giao phó, trở thành vị tổ nổi tiếng của dòng thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
2./Nguyễn Đức Đạt (1824 -1887): Tức Thám Đạt, vị thầy học danh tiếng, quê Nghệ An.
Nguyễn Đức Đạt, tự Khoát Như, sinh năm 1824 tại làng Hoành Sơn, xã Nam Hoa Thượng, tổng Trung Cần, nay là xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn. Ông sinh ra trong một gia đình khoa bảng: cha là Nguyễn Đức Diện đỗ cử nhân năm 1824, con là Nguyễn Đức Hiển đỗ cử nhân năm 1912 và cháu là Nguyễn Đức Vân đỗ phó bảng năm 1906.
Từ thuở nhỏ Nguyễn Đức Đạt nổi tiếng thông minh, học giỏi và uyên bác về nhiều mặt. Ông đỗ cử nhân khoa Đinh Mùi (1847) đến khoa thi Quý Mão đời Tự Đức (1853), ông cùng Nguyễn Văn Giao, người làng Trung Cần đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ tam danh tức Thám hoa.
Buổi đầu Nguyễn Đức Đạt được bổ làm quan ở Viện Tập Hiện làm thị giảng rồi bổ làm Cấp sự trung. Được một thời gian ông xin triều đình về quê mở trường dạy học và phụng dưỡng cha mẹ già. Nghe tiếng về trình độ học vấn và đức độ của ông, sĩ tử gần xa đến xin học rất đông. Trường học không đủ chỗ ngồi, những buổi bình văn, thầy Đạt phải chuyển trường lên núi Nam Sơn, cách nhà khoảng 500m.
Thám Đạt, đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự nghiệp giáo dục, khoa cử triều Nguyễn
Nguyễn Đức Đạt đã có những phân tích, kiến giải khác thường, khá tích cực so với thời đại về Đạo Nho và có đóng gớp nhiều vào sự nghiệp giáo dục nước ta thời Nguyễn
3./Nguyễn Văn Tường (1824-1886): Phụ chính đại thần khi Tự Đức mất. Bị Pháp đày đi Tahiti.
Nguyễn Văn Tường là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Năm 1850, ông đậu cử nhân, được nhận chức huấn đạo (phụ trách việc dạy và học) tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1853, huyện Thành Hóa, thuộc tỉnh Quảng Trị được thành lập. Ông được bổ làm tri huyện ở đó cho đến 9 năm sau. Tại đây, ông đã xây dựng được một căn cứ địa tốt cho Huế. Ông lại chứng tỏ là một người rất có tâm và tài trong việc đoàn kết người Thượng với người Kinh.
Ngày 23 tháng 5 âm lịch, Ất Dậu (ngày 4 tháng 7, bước sang ngày 5 tháng 7 năm 1885) ông cùng Tôn Thất Thuyết chỉ huy cuộc tấn công một cách bất ngờ vào Sứ quán Pháp bên kia sông Hương và doanh trại Pháp tại Mang Cá (Huế), nhưng thất bại. Sau một thời gian ngắn ông bị Pháp bắt và đưa đi lưu đày. Ngày 30 tháng 7 năm 1886, tại Papeete, một làng trên quần đảo thuộc địa Tahiti của Pháp, Nguyễn Văn Tường mất vì bệnh ung thư cổ họng.
4./Dương Bá Trạc (1884-1944): Tham gia phong trào Duy Tân, tác giả Nét mực tình.
Dương Bá Trạc, biệt hiệu Tuyết Huy, sinh ngày 22 tháng 4 năm 1884, quê làng Phú Thị, nay thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Ông là con Dương Trọng Phổ (1862-1927), một nhà Nho có tư tưởng tiến bộ, là anh ruột Dương Quảng Hàm (1898-1946) và Dương Tụ Quán (1902 -1969), cả hai đều là nhà giáo tiến bộ thời cận đại.
Là người rất thông minh, mới 16 tuổi, Trạc đã thi đỗ cử nhân (khoa năm Canh Tý 1900)
Đỗ đạt rồi, Trạc không ra làm quan như thói thường. Ông ôm khát vọng thức tỉnh quốc dân khỏi cơn mê nô lệ, chống sự đô hộ của thực dân đế quốc. Ông từng cùng Phan Châu Trinh đi diễn thuyết nhiều nơi, cổ động chủ nghĩa duy tâm tự cường, cùng Tăng Bạt Hổ lên thăm Đề Thám ở Nhã Nam, đi suốt từ Bắc vào Nam để gặp gỡ bạn bè, chiêu mộ đồng chí.
Cả đời bôn ba, trong lòng ôm mối hận chưa thỏa được chí cứu nước, Dương Bá Trạc sinh bệnh và mất ngày 11 tháng 12 năm 1944 tại Singapore,
5./ Hồ Biểu Chánh (1884-1958): là một nhà văn tiên phong của miền Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ 20.
Hồ Biểu Chánh, tên thật là, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên, tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).
Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ. Ông là một công chức thanh liêm thời Pháp thuộc, làm Chủ quận (Quận trưởng) nhiều quận ở Nam Kỳ thuộc Pháp.
Với bút danh Hồ Biểu Chánh, ông viết nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, khảo luận, phê bình, kịch, và đã xuất bản hơn sáu mươi tiểu thuyết. Ông được xem là một trong những nhà văn góp phần khai phóng văn học miền Nam đầu thế kỷ 20.
Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi.
>> Xem VẬN HẠN 2016 mới nhất!
>> Xem TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhât!
Tuổi Bính Thân
1./Hứa Tam Tỉnh (1476-?): Tức Trạng Ngọt
Ông là văn thần đời vua Lê Uy Mục, quê làng Vọng Nguyệt, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Ông đẹp trai, nổi tiếng văn học, đi thi khoa Mậu thìn 1508, ông đỗ bảng nhãn, 32 tuổi. Bấy giờ, vị trạng nguyên khoa này là Nguyễn Giản Thanh, tướng mạo kém ông. Khi các vị tân khoa vào chầu, nhà vua khen tướng mạo ông và gọi đùa là "Mạo Trạng nguyên" (Trạng nguyên dáng đẹp).
Khi làm chức Thị thư, khoảng năm Quí dậu 1513, ông sung chức Phó sứ, sang nhà Minh. Về sau, ông lại làm quan nhà Mạc đến chức Thượng thư bộ Lại, tước Đôn giáo Hầu. Rồi cùng Nguyễn Văn Thái đi sứ nhà Minh, cầu phong cho họ Mạc. Lúc về, được tặng Thiếu bảo, lãnh việc dạy con vua Mạc.
2./Nguyễn Đôn Tiết (1836-?): Phó bảng, tham gia phong trào Cần Vương đánh Pháp.
Nguyễn Đôn Tiết là người làng Thọ Vực, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hóa.
Năm Kỷ Mão (1879), ông đỗ Phó bảng, làm Tri phủ một thời gian. Sau tháng 7 năm 1885, hưởng ứng dụ Cần vương, ông về quê chiêu mộ quân rồi tham gia chiến đấu trong cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình (thuộc Nga Sơn, Thanh Hóa).
Tháng 3 năm 1886, ông bị quân Pháp bắt được, đày đi Côn Đảo, rồi mất tại đấy (1887), hưởng dương 51 tuổi.
3./Hoàng Ngọc Phách (1896-1973): Nhà giáo, tác giả cuốn Tố Tâm.
Quê ở làng Đông Thái xã Yên Đường (nay là xã Tùng Ảnh) tổng Việt Yên, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh, hiệu là Song An.
Suốt 20 năm dạy học dưới chế độ thực dân do có liên quan xa gần đến phong trào yêu nước trong các trường đại học ông luôn bị chuyển đến hết nơi này đến nơi khác.
Năm 1935 về dạy học tại Bắc Ninh nhiều lần giữ chức Giám đốc học khu Bắc Ninh cho đến tận Tổng khởi nghĩa. Cách mạng tháng Tám thành công ông giữ những trọng trách trong ngành giáo dục, sau ngày hoà bình lập lại ông công tác ở Ban tu thư Bộ giáo dục, tham gia sưu tầm biên soạn các công trình về văn học cổ điển, cận đại dân gian Việt Nam.
Lịch sử văn học Việt Nam đã chọn Hoàng Ngọc Phách làm người thể hiện những bước chuyển về chất ấy - người mở cánh cửa đầu tiên cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Với tác phẩm “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách đã tạo nên một cuộc cách tân lớn trong nghệ thuật.
Hoàng Ngọc Phách không chỉ là một nhà văn có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học và sự trưởng thành của khoa học xã hội mà ông còn là một nhà giáo thế hệ của những người khai sinh ra nền giáo dục của chế độ mới.
4./Hồ Tùng Mậu (1896-1951): Chiến sĩ yêu nước hoạt động cách mạng nhiệt thành.
Hồ Tùng Mậu tên khai sinh là Hồ Bá Cự, khi xuất dương sang Thái Lan hoạt động mới mang tên Hồ Tùng Mậu và trở thành tên gọi chính thức đến khi qua đời.
Ông người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa cử, truyền thống yêu nước.
Hoàn cảnh gia đình, quê hương, xã hội đã sớm hun đúc tinh thần yêu nước cách mạng, căm thù đế quốc. Cuối tháng 4/1920, Hồ Bá Cự từ giã vợ, con nhỏ sang Thái Lan, rồi 3 tháng sau được sang Trung Quốc tìm gặp các nhà cách mạng tìm gặp các nhà cách mạng Xứ Nghệ đang hoạt động ở đây là Phan Bội Châu, Hồ Ngọc Lãm v.v... Tại đây, Hồ Tùng Mậu cùng Lê Hồng Sơn lập ra Tâm Tâm xã, tập hợp số thanh niên hăng hái kiên quyết cùng chí hướng, hy sinh quyền lợi cá nhân, cùng nhau mưu đồ giải phóng dân tộc.
Sau khởi nghĩa ông được giao nhiều nhiệm vụ: Phụ trách trường quân chính Nhượng Bạn, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Liên khu IV, Uỷ viên thường vụ Liên khu uỷ, Tổng thanh tra Ban thanh tra Chính phủ, Hội trưởng Hội Việt Hoa hữu nghị. Ở bất kỳ địa vị công tác nào, ông đều hăng hái, nhiệt tình và phát động được cán bộ, nhân dân tham gia. Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc tháng 2/1951, Hồ Tùng Mậu được bầu làm uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương và vẫn giữ các công tác cũ.
Ngày 23/7/1951 trên đường công tác , ông hy sinh do bị máy bay Pháp ném bom.
5./Phạm Hồng Thái (1896-1924): Tham gia hoạt động phong trào Đông Du và là người đặt bom ám sát toàn quyền Đông Dương.
Phạm Hồng Thái tên thật là Phạm Thành Tích, quê Nghệ An, là con quan Huấn đạo Phạm Thành Mỹ.
Là một người yêu nước, sớm tham gia các phong trào dân chủ, năm 1918 ông cùng với một nhóm thanh niên có tâm huyết theo Vương Thúc Oánh (thành viên Việt Nam Quang phục Hội) vượt biên qua Xiêm (Thái Lan) rồi sang Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 4 năm 1924, ông gia nhập Tâm Tâm Xã do Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn thành lập.
Chiều tối ngày 19 tháng 6 năm 1924, Phạm Hồng Thái đặt bom ám sát toàn quyền Đông Dương Meclanh. Vụ đặt bom thành công, bom nổ nhưng Mec-lanh thoát chết, chỉ bị thương. Bị cảnh sát phát hiện và truy đuổi ráo riết, Phạm Hồng Thái nhanh chóng thoát ra ngoài, nhảy xuống sông Châu Giang định bơi sang bên kia bờ. Nhưng dòng nước xoáy làm Phạm Hồng Thái không đến được điểm hẹn, ông đã anh dũng hy sinh. Sự kiện này đã được báo chí Trung Quốc và nhiều nước trên thế giới đưa tin nhiều ngày liền với tên gọi “Tiếng bom Sa Điện”.
Nhân dân Quảng Châu cho đó là hành vi nghĩa liệt, đưa thi thể Phạm Hồng Thái mai táng ở chân đồi Bạch Vân. Sau này mộ Liệt sỹ Phạm Hồng Thái được chuyển về xây tại Nghĩa trang Trung ương Hoàng Hoa Cương, bên cạnh các Liệt sĩ Trung Quốc, mộ chí ghi “Việt Nam Phạm Hồng Thái Liệt sĩ chi mộ”
6./Khải Hưng (1896-1947): nhân vật trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn với nhiều cuốn tiểu thuyết xuất sắc.
Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư, bút hiệu khác Nhị Linh, sinh năm 1896 tại làng Cổ Am, phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương.
Thuở nhỏ học chữ nho, rồi theo Tây học (lycée Albert Sarraut, có nơi ghi Paul Bert). Sau khi đậu tú tài Pháp, ban triết, Khái Hưng dậy ở tư thục Thăng Long, ở đây ông gặp Nhất Linh và thành lập nhóm Tự Lực Văn Đoàn với nhiều cuốn tiểu thuyết xuất sắc mở ra cả một phong trào sau này.
7./Vũ Đình Long (1896-1960):
Ông Vũ Đình Long là người làng Mục Xá, xã Cao Dương,huyện Thanh Oai, Hà Nội. Ông là người khai sinh ra nền kịch nói Việt Nam bằng vở kịch Chén thuốc độc (1921).
Ông là một người suốt đời phấn đấu cho một nền đạo đức trong sáng, giữ vững thuần phong mỹ tục của dân tộc. Ông là người có công lớn trong việc chấn hưng và phát triển nền văn học nước nhà. Ông mở Nhà xuất bản Tân Dân để tạo điều kiện cho các nhà văn phát triển tài năng. Dưới con mắt tinh đời của ông, nhiều nhà văn đã được khích lệ và trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Nhà xuất bản Tân Dân là một nhà xuất bản lớn vào loại nhất của Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8.1945.
Ông là người sống trong sạch, không vụ tiền tài, tiền công diễn các vở kịch của ông thời ấy, ông không nhận mà là để góp phần công đức nuôi dưỡng các trẻ em mồ côi.
>> Xem bói 12 CUNG HOÀNG ĐẠO 2016 mới nhất!
>> Xem bói 12 CON GIÁP 2016 mới nhất!
Tuổi Mậu Thân
1./ Nguyễn Ưng Lịch (1872-1943): Tức vua Hàm Nghi.
Hàm Nghi là vị vua thứ tám triều Nguyễn, con của Kiến thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai, em ruột vua Kiến Phúc.
Năm 1883 và 1884, triều đình Huế kí các Hiệp ước Hacmăng (Harmand) và Patơnôt (Patenôtre) đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chuyển sang một bước ngoặt.
Ngày 5.7.1885, Tôn Thất Thuyết thuộc phái chủ chiến bất ngờ tiến công quân Pháp ở Huế nhưng thất bại. Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi rút lên miền núi các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, ra chiếu Cần vương kêu gọi nhân dân ra sức giúp vua, cứu nước, được nhân dân cả nước tích cực hưởng ứng.
Ngày 1.1.1888, Hàm Nghi bị Trương Quang Ngọc phản bội, bắt và giao cho Pháp. Hàm Nghi bị đưa đi an trí ở Angiêri. Hàm Nghi vẫn giữ lối sống truyền thống của đất nước và dân tộc Việt Nam.
2./Thiếu Sơn (1908-1978):
Thiếu Sơn tên thật là Lê Sĩ Quý. Ông là nhà văn, nhà báo, nhà phê bình văn học Việt Nam. Ông sinh tại Hải Dương trong một gia đình có truyền thống Nho học.
Cả cuộc đời ông tham gia nghệ thuật, bắt đầu viết cho Nam Phong tạp chí và sau này còn viết cho nhiều báo khác nữa, như: Tiểu thuyết thứ Bảy, Đại Việt tạp chí, Nam Kỳ tuần báo... Với ngòi bút của mình ông đấu tranh không mệt mỏi chống Pháp, chống Mỹ đến nỗi hai lần bị bắt giam và đày ra nhà tù Côn Đảo (1972)
Năm 1973, ông được tự do và trở ra Bắc rồi sang Pháp để vận động Việt kiều ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cuối năm 1975, ông trở về nước, đoàn tụ với gia đình.
Tuy đau yếu luôn, nhưng ông vẫn viết bài cho báo Đại đoàn kết và Sài Gòn giải phóng, cho đến khi ông bị tai biến mạch máu não rồi qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 70 tuổi.
3./ Ngô Gia Tự (1908-1935): Nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông sinh ra ở làng Tam Sơn, phủ Từ Sơn (nay là xã Tam Sơn, huyện Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Ngô Gia Tự là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam.
Ngay từ trẻ ông đã tham gia hoạt động cách mạng và là một trong những người đặt nền móng, tham gia thành lập Đảng Cộng sản. Sau Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Ngô Gia Tự làm bí thư Chấp uỷ Lâm thời Nam Kỳ.
Tháng 6.1930, ông bị bắt tại Sài Gòn, bị toà đại hình ở Sài Gòn kết án khổ sai chung thân (5.1933) và đày ra Côn Đảo (giữa 1933).
Đầu 1935, ông vượt ngục Côn Đảo để về đất liền nhưng thuyền bị đắm trên biển. Ngô Gia Tự cùng với tất cả các đồng chí vượt biển đã hi sinh.
4./ Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932): Một chiến sĩ, một nhà hoạt động cách mạng kiên trung của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyễn Đức Cảnh sinh ngày 2/2/1908 tại thôn Diêm Điền, xã Thái Hà, huyện Thuỵ Anh, tỉnh Thái Bình.
Cùng với Ngô Gia Tự, ông là một trong bảy người tham gia thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở nước ta. Ông là người trực tiếp tổ chức, thành lập và chỉ đạo các hoạt động của Đảng ở Hải Phòng trong những năm đầu tiên.
Cuối năm 1930 phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ Tĩnh phát triển rầm rộ rộng khắp, nhằm tăng cường đội ngũ lãnh đạo cho phong trào miền Trung, Nguyễn Đức Cảnh được điều vào Trung kỳ chỉ đạo phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Tháng 4/1931 trên đường đi công tác trở về cơ sở Nguyễn Đức Cảnh giặc bắt, tại làng Yên Dũng Hạ, cách thành Vinh chừng vài cây số.
Ngày 17/11/1931 Nguyễn Đức Cảnh và Hồ Ngọc Lân bị đưa xuống Hải Phòng thi hành án tử hình.
5./Đoàn Trần Nghiệp (1908-1930): bí danh Ký Con, là nhà cách mạng Việt Nam, đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng.
Đoàn Trần Nghiệp sinh năm 1908 tại phố Hàng Sơn, Hà Nội. Ông quê ở làng Khúc Thủy, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội).
Đoàn Trần Nghiệp gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng từ rất sớm và hoạt đông rất năng nổ. Ông từng tham gia ám sát chuyên trừng trị các tên thực dân, kẻ phản bội. Sau khi cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân đảng không thành, ông và các đồng chí của mình bị thực dân Pháp truy nã ráo riết.
Tháng 6 năm 1930, ông bị mật thám bắt ở Nam Định và bị đưa về giam ở Hỏa Lò, Hà Nội. Khi được ký giả người Pháp Louis Roubaud phỏng vấn ông nói mục đích của ông là “ đánh đuổi người Pháp ra khỏi xứ An Nam”. Sau đó, Đoàn Trần Nghiệp bị kết án tử hình.
Cuối tháng 12 năm 1930, Đoàn Trần Nghiệp, tức Ký Con bình thản cùng 6 đồng chí bước lên máy chém tại cổng trước nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.
6./Hải Triều (1908-1954): nhà văn có nhiều đóng góp cho sự nghiệp văn chương Việt Nam.
Hải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh ở làng An Cựu ở ngoại thành Huế, quê ở xã Lê Lợi, huyện An Dương, Hải Phòng. Lớn lên, ông học ở trường Quốc Học Huế, sau đó bị đuổi khỏi trường do tham gia các phong trào thanh niên yêu nước.
Năm 1927, ông tham gia đảng Tân Việt sau đó vào hoạt động ở Sài Gòn. Ông bắt đầu tham gia viết báo với bút danh Nam Xích Tử. Ông hoạt động cách mạng rất hang hái và bị Pháp bắt năm 1930.
Đến năm 1932 ra tù, Nguyễn Khoa Văn mở hiệu sách báo Hương Giang ở Huế và đồng thời bắt đầu viết cho báo Đông Phương dưới bút danh mới - Hải Triều. Ông bắt đầu gây tiếng vang qua những cuộc tranh luận của Phan Khôi trên các báo Đông Phương, Phụ nữ tân tiến...: "Duy vật hay duy tâm", "Nước ta có chế độ phong kiến hay không". Ông hoạt động sôi nổi trong thời kì Mặt Trận Dân Chủ (1936-1939), viết bài cho các báo Nhành lúa, Dân, Đời mới, Kiến văn, Tiếng vang, Hồn trẻ, Tin tức, Tin mới... đặc biệt qua cuộc bút chiến về "Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh" (kéo dài từ 1935 - 1939) với Hoài Thanh, Thiếu Sơn, Lưu Trọng Lư...
7./ Nguyễn Văn Huyên (1908-1975): một Giáo sư, tiến sỹ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam trong suốt 28 năm.
Ông sinh ngày 16 tháng 11 năm 1905 tại Hà Nội, nguyên quán tại xã Kim Chung, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay thuộc huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội).
Năm 18 tuổi, ông và người em trai là Nguyễn Văn Hưởng được gia đình cho đi Pháp du học. Năm 1934 ông là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ văn khoa tại Đại học Sorbonne, Paris. Năm 1935 ông trở về nước, khước từ làm quan, dạy học tại Trường Bưởi (trường Bảo hộ).
Sau khi cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, ông được cử giữ chức Giám đốc Đại học vụ, Bộ Quốc gia giáo dục kiêm Giám đốc Viện Bác cổ.
Tháng 11 năm 1946, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục) của Chính phủ liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giữ chức vụ này trong 29 năm cho đến khi mất vào tháng 10 năm 1975 dù không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam từ khoá 2 đến khoá 7, ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ông qua đời ngày 19 tháng 10 năm 1975 tại Hà Nội.
Tuổi Nhâm Thân
1./Đàm Văn Lễ (1452-1505): Tiến sĩ làm quan triều Lê Thánh Tông.
Đàm Văn Lễ tự là Hoằng Kính, người xã Lam Sơn, huyện Quế Dương, nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng là thần đồng, thi Hương đỗ giải nguyên.
Năm 1469, mới 18 tuổi, ông đi thi lần đầu đã đỗ Đồng tiến sĩ. Sau đó ông ra làm quan cho triều Lê và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình.
Ông nổi tiếng là đại thần cương trực, trung trinh. Năm 1504, Lê Hiến Tông bệnh nặng. Nguyễn Kính phi là mẹ hoàng tử Lê Tuấn muốn con mình thay thái tử Thuần, nên mang vàng hối hộ ông. Đàm Văn Lễ không nhận rồi cùng Ngự sử Nguyễn Công Bật tuân theo di chiếu lập thái tử Thuần làm vua, tức là vua Lê Túc Tông sau này.
Ông mất năm 1502, thọ 53 tuổi.
2./Đào Duy Từ (1572-1639): nhà chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, người thầy, bậc khai quốc công thần số một của chín đời chúa Nguyễn và 13 đời vua nhà Nguyễn.
Đào Duy Từ làm quan với chúa Nguyễn Phúc Nguyên từ năm 1627 đến năm 1634, trong vòng tám năm (từ năm ông 54 tuổi đến năm 62 tuổi) ông đã kịp làm được năm việc lớn: (1) Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chặn được quân Trịnh ở Đàng Ngoài;
(2) Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh, nước lớn lên, người nhiều ra
(3) Xây dựng được một định chế chính quyền rất được lòng dân, đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn lưu truyền chín chúa mười ba đời vua
(4) Tác phẩm "Hổ trướng khu cơ"; nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc tuồng Sơn Hậu là những kiệt tác và di sản văn hóa vô giá cùng với giai thoại, ca dao, thơ văn truyền đời trong tâm thức dân tộc
(5) Đào Duy Từ là người thầy đức độ, tài năng, bậc kỳ tài muôn thuở, người khai sinh một dòng họ lớn với nhiều hiền tài và di sản.
Năm 1932, vua Bảo Đại sắc phong Đào Duy Từ làm Thần Hoàng làng Lạc Giao, đất "Hoàng triều cương thổ" ở Buôn Ma Thuột, Dăk Lăk. Ông mất năm 1639 thọ 67 tuổi.
3./Nguyễn Tông Khuê (1692-1766): Tiến sĩ thời Lê, nổi tiếng là một trong Trường An tứ hổ.
Ông còn được gọi là Nguyễn Tông Quai, hiệu Thư Hiên, quê ở Phúc Khê, huyện Ngự Thiên, nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Năm Tân sửu 1721 ông đỗ tiến sĩ lúc 29 tuổi. Thầy học là cụ Thám hoa Vũ Thạch vẫn thường khen ngợi tài ông. Quả nhiên về sau ông nổi tiếng văn chương, vượt xa đồng bạn, làm quan đến Thị lang bộ Hộ, tước Ngọ Đình Hầu. Ông hai lần đi sứ nhà Thanh. Lần đầu làm Phó sứ (1742), lần sau làm Chánh sứ (1748).
Tính ông khảng khái, cương trực, nên về sau bị Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc bức hại, giáng xuống chức Thị giảng rồi truất về làng.
Ông cùng với Đoàn Trác Luân, Ngô Tuấn Cảnh và Nguyễn Bá Lân là bốn danh sĩ được đương thời xưng tặng là "Trường An tứ hổ" (Bốn con cọp ở kinh đô).
Năm Bính tuất 1766 ông mất, thọ 74 tuổi.
4./Phan Chu Trinh (1872-1926): Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt Nam và là người chủ trì vận động Duy Tân dân chủ.
Phan Châu Trinh còn được gọi Phan Chu Trinh, hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam.
Ông nổi tiếng học giỏi, năm 27 tuổi, được tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Quang, và Phạm Liệu.
Năm sau 1901, triều đình mở ân khoa, ông đỗ phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Khoảng thời gian này ông ở nhà dạy học đến năm 1903 thì được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ.
Là một người yêu nước nồng nàn, nhìn đất nước lầm than, ông bôn ba khắp đất nước tổ chức các buổi diễn thuyết dân chủ và là người chủ trì vận động phong trào Duy Tân với mong muốn thay đổi suy nghĩ, thay đổi tình trạng đất nước.
Tiếc thay đại cuộc chưa thành, bệnh tình của Phan Chu Trinh mỗi ngày một thêm trầm trọng. Ngày 24 tháng 3 năm 1926 (nhằm ngày 12 tháng 2 âm lịch) nhà cách mạng ái quốc Phan Chu Trinh đã trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ được 55 tuổi.
Ngày 4-4-1926 khắp từ Nam chí Bắc đều tự động làm lễ bãi khóa và làm lễ quốc táng nhà chí sĩ Phan Chu Trinh rất trọng thể để chứng tọ tấm lòng ngưỡng mộ và mến tiếc nhà cách mạng đã suốt đời vì dân vì nước.
Trán hẹp gọi là Thiên không. Người có tướng mặt như thế, không thể làm quan, không giữ được cơ nghiệp tổ tông, sống cô quả, thậm chí còn khắc hại cha mẹ. Những người này trước 50 tuổi mọi việc đều rất bất lợi.
Cằm nhọn gọi là Địa không. Người mà các góc cạnh ở cằm không rõ ràng, vể già cô đơn, cuộc sông nghèo khổ, vợ con có cuộc sống vất vả, tình cảm vợ chồng cũng không bền chặt, quan hệ với họ hàng thân thích cũng không hòa thuận.
Bộ vị Thiên thương của góc bên ngoài mắt lệch gọi là Nhất không. Những người có tướng mặt như vậy thường là mệnh nghèo nàn. Tài sản trong nhà khó mà giữ được, cả đời khố’ sở bôn ba, đến cuối đời cũng không sung sướng.
Thành quách ở tai không rõ ràng là Nhất không. Người có tướng mặt như thế không những sự nghiệp mà còn cả danh lợi đều không thành công, đoản mệnh, làm việc gì cũng không suy tính, số nghèo túng.
Bộ vị Sơn căn xiên lệch cũng gọi là Nhất không. Ngưòi có tướng mặt như vậy phải sống xa quê hương, mưu sinh ở bên ngoài, không hay giúp đỡ họ hàng thân thích, quan hệ với người thân cũng không tốt, quan hệ với anh em cũng có cách trở, vì thế không thể giúp đỡ được họ.
Lỗ tai lộ gọi là Nhất không. Những người có tướng mặt như thế thường tài sản phá tán, quan hệ với họ hàng thân thích không tốt, quan hệ vợ chồng cũng không hòa thuận, tài sản của tổ tông không giữ được.
Râu mọc dưới cằm mà không có ở quanh miệng cũng gọi là Nhất không. Những người có tướng mặt như thế dù có cố gắng làm việc cũng khó mà thành công được, quan hệ với bạn bè không tốt, gia tài hao tổn, con cháu cũng không giàu có.
Không rõ dái tai cũng gọi là Nhất không. Những người có tướng mặt như thế thường phải sống xa quê hương, cuộc sống nghèo túng, cả đời không làm được việc gì lớn.
Râu ở quanh miệng không dài bằng râu ở cằm cũng gọi là Nhất không. Người có tướng mặt như vậy phải sống cô quả, cuối đời khổ sỏ, thiếu cơm ăn áo mặc.
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
Hà Anh Tuấn (17/12/1984) - Chàng trai Nhân Mã đầy cá tính |
Thanh Hằng (22/07/1983) - Cô gái Cự Giải đầy mạnh mẽ |
Có hay không mối duyên kì lạ giữa Nhân Mã và Cự Giải? |
Ngày nay người ta rất coi trọng vấn đề sạch sẽ, vệ sinh trong ăn uống, vì vậy cây xanh trong phòng ăn tốt nhất dùng đất dinh dưỡng không vi khuẩn để nuôi dưỡng.
Nếu số người ăn ít, bàn ăn cố định thì có thể bày một bồn hoặc một bình cây cảnh xanh tươi ở giữa bàn. Nhưng không nên dùng các loài hoa thường xuyên có hoa nở rồi tàn nhanh. Một góc của phòng ăn hoặc trên cửa sổ đặt thêm vài bồn hoa tươi tốt để khiến cho phòng ăn tràn trề sinh khí, giúp mở rộng khẩu vị của thực khách.
Việc đặt bồn cây, giỏ cây cảnh nhiều màu sắc phía trên các phân cách bằng gỗ để phân chia phòng ăn và các khu vực chức năng khác cũng là một cách hay để làm xanh không gian.
Vì vậy khi trang trí cây xanh trong phòng ăn còn cần phải chú ý đến tình trạng sinh trưởng của cây, hình dáng phải thấp nhỏ, như thế mới không gây trở ngại cho người ngồi đối diện trò chuyện giao lưu. Trong phòng ăn tránh để các loại cây có mùi hương quá đậm đà.
Nguyên tắc lựa chọn cây cảnh trang trí trong phòng ăn:
– Tùy vào nghề nghiệp, tính cách, sở thích của chủ nhà:
Do nhà ở chịu sự hạn chế của rất nhiều điều kiện khác nhau nên khi chọn cây cảnh đầu tiên phải xem xét những loại cây nào có thể thích nghi được không gian sinh tồn trong nhà mình, ví dụ ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, điều kiện gió…
Tiếp theo phải xem xét mình có thể chăm sóc nó ở mức độ nào. Nếu là những người bận rộn công việc mà lại trồng trọt một bồn cây yêu cầu phải chăm sóc tỉ mỉ thì kết quả chắc chắn không thể tốt được. Những người này nên chọn các loại cây có sức sống mạnh mẽ, không cần chăm sóc nhiều…
– Chọn cây chịu được bóng râm:
Do nhà ở thường là không gian kín nên lựa chọn cây cảnh tốt nhất là những cây ngắn lá, thích nghi được với râm hoặc bán bóng râm. Chú ý tránh những loại có hại.
– Tỉ lệ thích hợp:
Phải phù hợp với chiều cao và chiều rộng của căn phòng. Quá to hoặc quá nhỏ đều có thể ảnh hưởng đến mỹ quan. Thông thường, diện tích phần xanh nhiều nhất trong phòng không được vượt quá 10% diện tích phòng, như thế căn phòng mới có được cảm giác rộng rãi, tránh làm cho không gian bị chật hẹp.
– Màu sắc của cây phải hài hòa với không gian nội thất:
Tốt nhất là sử dụng phương án đối lập. Ví dụ không gian là màu sáng thì chọn cây thường lá màu thâm trầm. Bối cảnh không gian màu nhạt thì chọn hoa lá màu sặc sỡ là tốt nhất. Như thế mới có thể làm nổi bật cảm giác về không gian.
– Không nên đặt cây trong các căn phòng có giấy dán tường hoa văn:
Những loài cây leo, bò không nên trồng trong chậu ở trên bàn mà nên treo lên thành gò. Đồ đạc theo kiểu Tây thích hợp dùng cách loại lan hiếm. Đồ dùng theo kiểu phương Đông thì thích hợp dùng bồn cảnh. Phối hợp hài hòa có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả nghệ thuật, làm cho nó sáng sủa, mới mẻ và đẹp mắt hơn.
– Xem xét đến cả đặc trưng tính cách của cây cảnh.
Khí chất của cây phải phù hợp, hài hòa với tính cách của chủ nhân và không khí trong phòng. Ví dụ: các loại cây lá nhỏ đem lại cảm giác thân thiện, cây mây cảnh nhiều gai cứng cỏi khiến người ta tránh xa. Cây họ trúc có tính cách nhẫn nại chịu đựng, hoa làn kiều diễm ngát hương, cây thiết ngọc lan thanh cao thoát tục…
Nguồn: Tổng Hợp
Vân tay nói lên điều gì? Bạn có biết trên thế giới có hơn 7 tỷ người nhưng không có ai có vân tay giống nhau cả. Bởi thế bạn có thể bói vân tay để đoán vận mệnh và tính cách của một con người.
Để có thể xem bói tốt nhất, Nhân Trắc Học đã cố gắng thống kê và phân loại những được điểm chung của vân tay thành 4 nhóm chính cơ bản nhất. Hãy xem vân tay của bạn thuộc vào nhóm nào nhé.
Bạn là người có tiềm năng không giới hạn. Một người với hầu hết các ngón tay đều Arch: sẽ luôn nghi ngờ, luôn đặt câu hỏi và không tin vào bất cứ điều gì cho đến khi họ thấy được bằng chứng, chứng cứ rõ ràng,xác thực. Những người này rất giỏi trong các công việc thương mại.
Bạn là người theo chủ nghĩa an toàn và thiết thực, tiếp cận trực tiếp với các công việc, nhiệm vụ, có thể tin cậy được.
Bạn thích sự ổn định,yên bình. Chăm chỉ làm những công việc được lặp đi lặp lại hằng ngày.
Bạn luôn tuân thủ vào các quy tắc và các quy định. Bạn từng bước thăm dò để quyết định hành động, thích điều đơn giản,rõ ràng và cụ thể
Bạn là người có khả năng sáng tạo mạnh mẽ, có khả năng quan sát tinh vi, sắc bén. Bạn có khả năng lĩnh hội, nhận thức thấu đáo.
Bạn luôn cho mình là trọng tâm, bạn tự bước đi trên đôi chân của mình và có phương pháp cụ thể để làm thành công 1 việc nào đó. Bạn không thể chấp nhận những suy nghĩ đần độn hoặc chậm chạp. Bạn thích sử dụng những suy nghĩ trái ngược để suy luận và làm việc.
Bạn có óc phán đoán tốt nếu Radial Loop nằm ở ngón cái hoặc ngón trỏ.
Bạn luôn thích gây ấn tượng sâu sắc, sử dụng những phương pháp kì lạ để quản lý công việc, bạn có suy nghĩ rất khác với mọi người và bị xem như bất trị hoặc kì lạ. Bạn thường có những lí luận ngược đời. Bạn thường thích quan tâm đến các tôn giáo thần bí.
Bạn thích suy luận lại, nghiên cứu lại của tất cả tiến trình từ kết quả hiện có. Có khả năng làm và xử lý công việc khi “nước đã đến chân”.
Bạn thuộc tuýp người cổ hủ, không có nhiều sáng kiến hay sáng tạo mới, nhưng bạn có khả năng học hỏi và làm theo người khác rất nhanh.
Bạn thụ động trong giao tiếp. Mặc dù bạn rất thích hòa nhập với đám đông nhưng bạn không bao giờ chủ động thiết lập quan hệ. Nếu bạn cảm thấy không thích hoặc không thể hòa nhập với cộng đồng nào đó thì bạn đồng thời cũng không thể tiếp tục hoạt động hoặc làm việc với cộng đồng đó.
Bạn không thích xung đột, không có mục tiêu rõ ràng, không có tham vọng cao
Bạn thích làm việc 1 cách trình tự, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường kể cả cái tốt và cái xấu từ môi trường đó.
Bạn thường quan tâm tận tình những người thân, bạn bè xung quanh và giữ các mối quan hệ đó rất bền vững.
Bạn là người chỉ hành động khi có mục tiêu cụ thể, đồng ý làm việc khi chấp nhận được các điều kiện hợp lý và hoạch định chiến lược rõ ràng.
Bạn có tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, theo đuổi sự thành công của những việc mang tính khó khăn và thử thách cao. Đối với bạn thì không có gì là không thể.
Bạn tự đòi hỏi và thúc đẩy bản thân hoàn thành tốt công việc và đề cao mục tiêu để tiến bộ.
Nếu chủ quan, mọi người sẽ không dễ dàng giao tiếp với bạn khi người đó thiếu tính hợp lý và mang tính chiếm hữu. Không nên áp dụng phương pháp dạy dỗ độc đoán hoặc đối xử gia trưởng đối với bạn.
Cuộc đời: đổi, hay được quý nhân giúp đỡ, về già hưng vượng, sung sướng.
Những tuổi khó khăn nhất trong cuộc đời nam giới tuổi Tân Dậu, cần đề phòng tai họa, bệnh tật là: 23, 27, 33; ở nữ là: 24, 30, 40.
Tính cách: Là người hào hoa, phong nhã, nói năng khôn khéo rất được lòng người. Tân Dậu trời phú thông minh, lanh lợi, tự lập nên dễ làm nên việc lớn.
Nữ Tân Dậu tính tình ngay thẳng, cứng rắn, trung tín, cẩn thận, siêng năng nên được bạn bè tin tưởng. Tuy nhiên, cũng có đôi khi sốc nổi làm hỏng việc.
Tình duyên: Tuổi này tình duyên không thuận lợi, khó tránh khỏi chuyện đổ vỡ, buồn phiền. Phải từ 40 tuổi trở đi gia đình mới yên ổn, hạnh phúc.
Tuổi Tân Dậu không nên kết hôn với các tuổi: Nhâm Tuất, Mậu Thìn, Giáp Tuất sẽ không phải chịu cảnh xa vắng triền miên, bất hạnh.
Nữ Tân Dậu đường tình duyên thuận lợi, gia đình yên ổn.
Công danh sự nghiệp: Tuổi này đường công danh may mắn, tốt đẹp.
Nữ Tân Dậu gặp nhiều khó khăn trong sự nghiệp, phải đến năm 38 tuổi mới có triển vọng.
Tuổi này nên kết hợp với các tuổi Tân Dậu, Quý Hợi, Giáp Tý, Đinh Mão sẽ thu được nhiều thành công trong việc làm ăn.
Tiền bạc: Tuổi Tân Dậu tiền bạc trung bình, nếu kết hợp với người hợp tuổi và sinh giờ, ngày, tháng thuận lợi sẽ giàu có, sung túc.
(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh)
Chữ cái đầu tiên trong tên gọi một con người biểu hiện nhiều nét tính cách của người ấy. Ngay bản thân hình thù của từng mẫu tự đã chứa đựng điều đó. Mời bạn tham khảo công trình nghiên cứu vui dưới đây để khám phá tính cách của bạn.
A – Chữ A chứa đựng năng lực chỉ huy. Người có tên bắt đầu với nguyên âm này có khả năng đứng vững trên đôi chân của mình. Họ có nhiều tham vọng, thường rơi vào tình thế phải đưa ra những quyết định nhanh. Mặt tiêu cực: hơi bảo thủ và ích kỷ. Đặc biệt: dễ mắc bệnh về hô hấp.
B – Bạn có tính cách rụt rè, kín đáo, luôn khao khát tình cảm yêu thương. Bạn rất hay dồn nén những buồn vui cho riêng mình chịu đựng. Chớ nên quá cầu toàn đi tìm điều tốt đẹp hơn, một khi bạn đã chấp nhận những sự việc chung quanh mình. Mặt tiêu cực: bạn sống hơi cô lập và ủy mị.
C – Chữ C biểu thị sự cởi mở, tính thân thiện và năng lực sáng tạo. Bạn thích làm việc trong môi trường chuyên nghiệp, thích du lịch và chấp nhận rủi ro để kiếm tiền. Mặt tiêu cực: đôi khi bạn hay lãnh đạm, dửng dưng và tủn mủn.
D – Là một chữ cái có hình thù “đóng”. Nếu có tên bắt đầu bằng chữ D, bạn có thể là một quản trị gia tài ba. Bạn nặng tình yêu thương với gia đình và có tính tham công tiếc việc. Bạn là người rất bảo thủ. Mặt tiêu cực: khắt khe, bướng bỉnh và thích tranh cãi.
G – Tính cách không cởi mở, không thân thiện là người có tên bắt đầu bằng G. Bạn sống cô lập, bảo thủ. Bạn rất hay bị hiểu lầm, người khác nhìn bạn như một ốc đảo. Tuy nhiên, bạn có quyết tâm cao và luôn xem “chất lượng hơn số lượng”. Đặc biệt, bạn là người có tài diễn thuyết. Mặt trái của bạn là thích chỉ trích và dễ làm tổn thương người khác.
H – Ký tự H giống như một chiếc thang, biểu trưng cho sự thành công và những bước thăng trầm trong cuộc sống. Bạn tự kiểm soát tốt, có khát vọng mạnh mẽ đến thành công. Nếu có địa vị, bạn có thể là người lãnh đạo tốt, song cũng có thể rất tồi. Mặt tiêu cực: Hơi khắt khe trong cách nhìn nhận, đánh giá con người và sự việc. Bạn cũng nên cẩn thận với tiền bạc vì chữ H của bạn trống rỗng cả đầu lẫn đuôi.
K – Bạn hành động rất ngẫu hứng, lúc nào cũng khẳng khái, ung dung và cạn nghĩ. Các giác quan của bạn hơi kém. Tuy nhiên, đối với bạn, âm nhạc lại rất có tác dụng trong việc xoa dịu thần kinh. Nên lắng nghe những mối linh cảm của mình. Mặt tiêu cực của người có tên bắt đầu bằng phụ âm này: ít thật lòng và hay ủ dột.
L – Trầm tĩnh, thân thiện và yêu gia đình là tính cách của bạn. Đôi khi, bạn còn tỏ ra là người rất lãng mạn. Nghề giáo, hoặc các hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc rất thích hợp với bạn. Bạn hay có cảm giác bị người khác hiểu lầm. Chỉ cần rèn luyện thêm tính kiên nhẫn, bạn có thể trở thành một “quan tòa” tốt cho những rắc rối.
M – Bạn thuộc kiểu người trầm lặng và có suy nghĩ sâu sắc. Bạn siêng năng làm việc, cầu tiến và biết tổ chức tốt công việc. Mẫu người nội trợ giỏi cũng chính là bạn. Một khi đã vươn lên được một bậc, bạn biết cách giữ vững chỗ đứng của mình. Mặt tiêu cực của những người có tên bắt đầu bằng chữ M: hơi lạnh lùng, thiếu cảm thông và thiếu nhạy cảm.
N – Chữ N vốn có hình dạng “kết mở” ở cả 2 đầu. Vì thế, người có tên bắt đầu bằng chữ này có suy nghĩ cực kỳ phóng khoáng. Tuy nhiên, họ không phải là người ồn ào. Những người này có trực giác tốt, tư duy linh hoạt và thường đưa ra nhiều phát kiến hay. Họ có xu hướng đi đây đi đó rất nhiều trong suốt cuộc đời. Mặt tiêu cực: hơi độc đoán, dễ cáu gắt và ích kỷ.
O – Bảo thủ là tính cách dễ nhận thấy nhất ở bạn. Chính hình thù tròn trĩnh, khép kín của chữ O đã thể hiện sự “tự vệ” ấy. Tuy nhiên, bạn là người có tinh thần trách nhiệm và rất “có duyên” với tiền bạc. Đối với bạn, mái ấm gia đình rất quan trọng. Đó là nơi để bạn đi về sau một ngày làm việc mệt nhọc. Một ưu điểm nữa của bạn là sống rất thật lòng. Mặt tiêu cực: hay tự cho mình là đúng, hơi tự mãn và đa nghi.
P – Tên bắt đầu bằng chữ P là người uyên bác và có năng lực tập trung cao. Tính hay lo xa, vì thế, bạn luôn làm việc chăm chỉ, xử sự và chi tiêu luôn có cân nhắc. Điều đó không có nghĩa là suốt ngày bạn vùi đầu vào công việc. Bạn biết tận hưởng những giây phút thư giãn quý báu. Mặt tiêu cực: hay tự cao tự đại và thường ưu sầu.
Q – Tên bạn bắt đầu bằng chữ Q? Bạn là người đằm thắm, thủy chung và có hiểu biết. Bạn biết cách kiếm tiền, thích độc lập và giàu trí tưởng tượng. Tên bắt đầu bằng chữ Q khá hiếm (ở cả những nước khác). Những người này có thiên hướng hình thành tính cách, phẩm chất như tầng lớp quý tộc. Hãy cẩn thận, mặt tiêu cực của chữ cái bắt đầu này có thể rất nguy hiểm.
S – Là người thích làm việc độc lập và thường chỉ kết thúc đường công danh sự nghiệp khi đã làm ông, bà chủ. Người có tên bắt đầu bằng chữ S thường có trí nhớ tốt, thích kịch tính và có thể thành công trong nghề diễn viên. Bạn thường muốn đạt cho bằng được mục đích, nhưng đôi khi cũng hay bỏ dở nửa chừng. Khúc lượn ngay giữa chữ S chính là nguyên do của tính cách này. Mặt tiêu cực: hơi tự phụ.
T – Bạn là người luôn nghĩ đến hai mặt của một vấn đề. Bạn thường biết ngăn ngừa những điều xấu có thể xảy ra với mình. Tuy nhiên, bạn cũng rất dễ bị tổn thương. Những người có tên bắt đầu bằng chữ T có tinh thần hợp tác tốt, rất thích hợp với vai trò hòa giải. Mặt tiêu cực: nóng tính và thích mỉa mai.
U – Bạn có diện mạo dễ coi, tính cách cởi mở và thân thiện với tất cả mọi người. Ngoài ra, bạn còn là người có đầu óc sáng tạo, trí nhớ tốt đối với những vấn đề có liên quan đến ngôn từ, chữ nghĩa. Những người có tên bắt đầu bằng chữ U còn là người thật thà, rất đáng tin cậy. Mặt tiêu cực: bạn rất hay ghen. Đôi khi không kiềm chế được cảm xúc, bạn dễ nổi nóng, sẵn sàng gây gỗ với người khác. Rắc rối rất dễ xảy ra.
V – Suốt cuộc đời, bạn luôn phải xây dựng một sự cân bằng như 2 vế của chữ V. Chữ V thoải dốc, có đáy nhọn. Đây cũng là nét tính cách của bạn: biết đúc kết những suy nghĩ thành ý tưởng. Bạn cũng là người làm việc không biết mỏi mệt. Mặt tiêu cực trong tính cách của bạn là thực dụng, đôi khi hoang phí và thiếu cân nhắc.
X – Bạn coi trọng cả tinh thần lẫn vật chất. Bạn là người tuyệt vời nhất trong việc xây dựng sự cân bằng giữa hai lĩnh vực này. Những người có cái tên bắt đầu với chữ X luôn có được một tinh thần sáng suốt và lành mạnh. Chính nhờ ưu điểm này bạn luôn giúp ích được co bạn bè và người thân. Tuy nhiên, cuộc sống của bạn chứa đựng nhiều cay đắng và thù hận.
Y – Nếu tên của bạn bắt đầu bằng chữ Y, bạn là một người biết suy nghĩ sâu sắc. Bạn yêu thích tìm tòi, học hỏi và không thích ngồi lê đôi mách. Tuy nhiên trong cuộc sống thường ngày, bạn thường không dứt khoát khi đưa ra quyết định cuối cùng cho một vấn đề. Mặt tiêu cực của những người này: thường cảm thấy mình rất cô đơn, hơi nhiều dục vọng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Tỳ hưu là thần thủ phong thủy cát tường, mang đến may mắn, tài lộc và hóa giải sát khí. Nhưng không phải ai cũng có thể sử dụng tỳ hưu, mỗi người một khác, đừng vì ham thích mà dùng không đúng cách, rước họa vào thân. Dưới đây là những trường hợp không thể dùng tỳ hưu phong thủy.
Quay lại với người cũ là quyết định chẳng bao giờ dễ dàng, nhưng với 3 chòm sao nam lụy tình dưới đây thì họ sẵn sàng “làm lại từ đầu” bất cứ lúc nào, vì trong lòng vẫn còn vương vấn.
Thông thường, nếu nuôi cá vàng ngoài sân, người ta thường thả cá trong một bồn nước lớn bằng gốm. Trong bồn, ngoài cá vàng, còn có thể thả vài cây thủy sinh như bèo nước,… Trên miệng bồn phủ một tấm lưới sắt, phần thành bên trong bồn tốt nhất nên có màu nhạt và không có hoa văn.
Nếu nuôi cá trong nhà thì thông thường cá được thả trong một bể thủy tinh, có thể là bể hình tròn, bể hình chữ nhật hoặc bể treo tường. Nếu là bể hình tròn thì nên thả loại cá dài khoảng từ 4 đến 7 mm, khi nhìn nghiêng sẽ thấy những con cá như được phóng to. Trong khi đó, loại bể hình chữ nhật có dung tích lớn rất thích hợp để nuôi những con cá lớn với chiều dài khoảng 8 mm trở lên. Còn đốỉ với loại bể treo tưòng, có hình dáng giống hình tam giác, nên lắp một khung kính ở mặt ngoài của bể, như thế bể cá trông sẽ như một bức tranh sống động.
► Bói nốt ruồi trên mặt biết số mệnh, vận hạn chuẩn xác |
Phía Tây Nam có vũng nước
Phía Tây Nam có vũng nước sẽ phá hỏng bố cục phong thủy, địa vị của mẹ chồng – nàng dâu sẽ bị đảo ngược. Con dâu hà khắc, ghê gớm, mẹ chồng yếu đuối, bạc nhược. Tình thế này tồn tại càng lâu, quan hệ mẹ chồng – nàng dâu càng khó có thể hài hòa trở lại. Người chồng là lớp nhân bánh kẹp ở giữa, nghiêng về bên nào cũng không đúng. Gia đình nên đặt một quả cầu thủy tinh ở phía dưới vũng nước để cải thiện.
Phía Tây nam có cửa sổ
Nếu như phía này có cửa sổ, sẽ không có lợi cho sự phát triển mối quan hệ của mẹ chồng – con dâu. Cửa sổ là nơi thông gió, đồng thời cũng là nơi hao gió. Nơi này mở cửa, ngụ ý quan hệ giữa hai người xuất hiện lỗ hổng, rất dễ gây mâu thuẫn. Nếu muốn hóa giải, có thể đặt hòn non nước bên cạnh cửa sổ.
Phía Tây Nam đặt chân giường
Nếu phía Tây Nam đặt chân giường, thì mối quan hệ mẹ chồng, con dâu sẽ bị chèn ép một cách nghiêm trọng. Như vậy sẽ dẫn tới hai người mâu thuẫn, cãi cọ nhau nhiều hơn, đặc biệt nếu phía Tây Nam lại đúng là phòng ngủ, vấn đề sẽ càng thêm nghiêm trọng. Để hóa giải, đặt dưới chân giường một lớp đệm mềm hoặc dịch chuyển vị trí chân giường.
Phía Tây Nam có phòng chứa đồ
Phía Tây Nam không thích hợp làm phòng chứa đồ, nếu không sẽ dẫn tới “chiến tranh thế giới”. Như mọi người đã biết, phòng chứa đồ dùng để đựng các đồ cũ, đồ hỏng hoặc lâu không dùng đến, rất hỗn loạn, ám chỉ mối quan hệ không thể hòa hợp. Cùng cách lý giải đó, phòng vệ sinh nhiều uế khí cũng không nên đặt ở phương này. Nếu như không thể thay đổi, nên giữ cho căn phòng luôn sạch sẽ, gọn gàng.
Dùng phong thủy để cải thiện mối quan hệ mẹ chồng, nàng dâu
- Sau ghế sofa nên có chỗ tựa
Ghế sofa nên có có chỗ tựa, không nên lơ lửng giữa phòng khách.
Ghế sofa thường là nơi cả nhà ngồi xem tivi, nói chuyện, tụ tập… Ghế sofa tốt nhất nên tựa vào tường, không đặt dưới xà ngang, không tựa cửa sổ, không gần bể cá và tựa vào gương.
- Mẹ chồng và nàng dâu nên sống ở hai tầng khác nhau
Nếu như có thể, hãy sống tách riêng ở hai tầng. Còn nên chú ý phòng ngủ ở phòng dưới có đối diện với phòng vệ sinh ở tầng trên không. Nếu có thề nên dịch chuyển vị trí giường hoặc thay đổi phòng, nếu không sẽ rất dễ mâu thuẫn.
- Nội thất nên có góc tròn
Đồ nội thất có góc tròn có tác dụng thúc đẩy cuộc sống hòa hợp, tránh mâu thuẫn và cãi vã. Các đồ có thể dùng góc tròn tốt thì nên dùng, ví dụ như bàn ăn hình tròn, elip...
- Trồng nhiều cây xanh
Cây xanh có tác dụng tĩnh tâm, tu tưỡng tâm tính. Một số loài cây hợp phong thủy và có tác dụng hòa hợp quan hệ mẹ chồng nàng dâu như trúc phú quý, hoa bách hợp...
- Nên chọn màu nhạt cho tường và đồ đạc
Màu sắc nhẹ nhàng, trang nhã có thể cải thiện tâm trạng con người.
- Tránh các màu sắc chói mắt như đỏ, cam, vàng đậm... Những màu này dễ khiến tâm trạng con người nóng nảy; các màu quá lạnh như xanh nước biển đậm, xám, đen dễ khiến con người buồn bã. Ngoài ra, không nên dùng đèn thủy tinh nhiều màu lòe loẹt.
- Bàn ăn nên tránh xa phòng vệ sinh
Ăn cơm là lúc mọi người quây quần, bồi dưỡng tình cảm, nhưng nếu bàn ăn đặt dưới xà ngang hoặc đối diện phòng vệ sinh, đối diện gương... người trong nhà sẽ có cảm giác bị chèn ép, khiến mối quan hệ khó đầm ấm.
Căn cứ vào sự chuyển động của Mặt Trăng mà mỗi ngày đầu tháng, giữa tháng, cuối tháng được chia thành hối, sóc, huyền, vọng. Hối là cuối tháng, sóc là mùng 1, huyền phân thành thượng huyền (ngày 7, 8 của tháng) và hạ huyền (ngày 24, 25 của tháng), vọng là ngày Rằm. Trong ngày sóc và ngày vọng, người Việt thường có thói quen thắp hương lễ bái để cầu mong may mắn, tốt lành, bình an cho bản thân, gia đình. Nhưng đừng quá cẩu thả mà làm qua loa lấy lệ, hãy lưu ý những tập tục tâm linh ngày rằm mùng 1 sau: 1. Bước vào cửa chùa, khách nữ bước chân phải, khách nam bước chân trái, không nên giẫm vào bậc cửa hay đá vào cánh cửa, bước chân càng mềm mại, nhẹ nhàng càng tốt. 2. Thắp hương thì ba nén để cầu phúc cho mình, sáu nén để cầu phúc cho con cháu, chín nén để cầu phúc cho cha mẹ ông bà, mười ba nén là công đức viên mãn, giới hạn cao nhất của số lượng hương dâng lên.
3. Khi thắp hương, tay trái lấy hương, tay phải châm đèn, không được ngược lại vì con người thường dùng tay phải sát sinh, nếu chạm vào hương thì mất thiêng. 4. Khi thắp hương phải càng vượng càng tốt vì người xưa có câu, hương khói tràn đầy mới có phúc. Tay trái ở trên, tay phải ở dưới, giơ lên cao ngang trán. Cắm hướng vào lư rồi dập đầu, trong lòng hướng về Phật tổ, Bồ Tát hoặc La Hán. 5. Tư thế quỳ lạy phải hai gối song song, hai tay chắp lại. Tay giơ cao ngang trán thì dừng khấn, tay giơ tới miệng khì khán nguyện, tay giờ ngang ngực thì mặc niệm. Xong xuôi mở hai bàn tay, cúi sát người lạy, hai tay đặt hai bên người, thân quỳ trên chân, ba lần như vậy. Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nhiều khi người ta cứ mải miết đi tìm thứ gọi là hạnh phúc, nhưng lại không nhận ra rằng hạnh phúc thật sự rất giản đơn, không phải điều gì quá cao siêu huyền bí, chỉ là chưa có cơ hội để nhận ra thôi…
Hạnh phúc nhiều lúc thật giản đơn, chỉ là chưa có cơ hội để nhận ra nó
Có một phú ông vô cùng giàu có. Hễ thứ gì có thể dùng tiền mua được là ông mua về để hưởng thụ. Tuy nhiên, bản thân ông lại cảm thấy không vui, không hề hạnh phúc.
Một hôm, ông ta nảy ra một ý tưởng kỳ quặc, đó là đem tất cả những đồ vật quý giá, vàng bạc, châu báu cho vào một cái bao lớn rồi đi chu du khắp nơi. Ông ta tuyên bố chỉ cần ai có thể nói cho ông làm thế nào để hạnh phúc thì ông sẽ tặng cả bao của cải cho người đó.
Ông ta đi đến đâu cũng tìm và hỏi, rồi đến một ngôi làng có một người nông dân nói với ông rằng nên đi gặp một vị Đại sư, nếu như Đại sư cũng không có cách nào thì dù có đi khắp chân trời góc bể cũng không ai có thể giúp ông được.
Cuối cùng cũng tìm gặp được vị Đại sư đang ngồi thiền, ông ta vui mừng khôn xiết nói với Đại sư: “Tôi chỉ có một mục đích, tài sản cả đời tôi đều ở trong cái bao này. Chỉ cần ngài nói cho tôi cách nào để được hạnh phúc thì cái bao này sẽ là của ngài“.
Lúc ấy trời đã tối, màn đêm sắp buông xuống, vị Đại sư nhân lúc ấy liền tóm lấy cái túi chạy đi. Phú ông sợ quá, vừa khóc vừa gọi đuổi theo: “Tôi bị lừa rồi, tâm huyết của cả đời tôi"
Sau đó vị Đại sư quay lại và trả cái bao lại cho phú ông. Phú ông vui mừng ôm nó vào lòng mà nói: “Tốt quá rồi!”. Vị Đại sư điềm tĩnh đứng trước mặt ông ta hỏi: “Ông cảm thấy thế nào? Có hạnh phúc không?”
“Hạnh phúc! Tôi cảm thấy mình quá hạnh phúc rồi!“.
Lúc này, vị Đại sư cười và nói: “Thực ra, đó không phải là phương pháp gì đặc biệt, chỉ là con người đối với tất cả những thứ mình có đều cho rằng sự tồn tại của nó là đương nhiên cho nên không cảm thấy hạnh phúc, cái mà ông thiếu chính là một cơ hội mất đi. Ông đã biết thứ mình đang có quan trọng thế nào chưa? Bây giờ ông có còn muốn đem tặng nó cho tôi nữa không?“.
Liệu bạn có phát hiện ra rằng, khi mất đi hoặc thiếu thứ gì đó bạn sẽ luôn nhớ về nó, nhưng khi có được rồi thì lại dễ dàng coi nhẹ, thậm chí vứt nó vào một xó? Vì vậy, hãy luôn trân trọng những gì mình có được để sau này không phải hối tiếc.
Tuệ Tâm, sưu tầm
=> Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Tý | Sửu | Dần | Mão |
Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi |
Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Kunie
Soi mức độ toan tính của 12 con giáp Trong cuộc sống, bạn có hay toan tính? Tìm hiểu câu trả lời theo con giáp của mình nhé! |
Bạn nên:
Nếu bạn treo tranh ở vị trí cát trong nhà sẽ giúp cho vị trí đó thêm may mắn, còn nếu bạn treo tranh ở vị trí hung, tranh có khả năng áp chế hung khí, tránh sát khí sản sinh trong không gian sống nhà bạn. Vị trí ở phía trên ghế sofa được xem là thích hợp hơn cả.
Các vị trí hung và cát trong nhà theo phong thủy năm 2015 được phân bố lần lượt như sau:
Đại Cát |
Hướng Bắc, hướng Tây Nam |
Tiểu Cát |
Hướng Đông, hướng Đông Bắc |
Tiểu Hưng |
Hướng Nam, hướng Tây Bắc và chính giữa |
Đại Hung |
Hướng Tây, hướng Đông Nam |
Treo tranh cần lưu ý kĩ về phong thủy
Bạn nên chọn các loại tranh tương ứng với Ngũ Hành chứ không nên tương khắc với Ngũ Hành.
Chẳng hạn:
- Với gia chủ có Ngũ hành thiếu Mộc: Rất thích hợp để treo tranh liên quan đến cây cối như loại tranh "trúc báo bình an", vận thế của gia đình sẽ thêm hưng khi treo loại tranh này.
- Còn nếu gia chủ có Ngũ hành kỵ Mộc, thì không nên treo tranh Mẫu đơn và các loại tranh cây cối hoa cỏ, các loại tranh này không những đem đến phong thủy không tốt mà còn có thể áp chế vận thế của chủ nhân, khiến cho mọi việc trong nhà đều trở nên khó khăn hơn thường ngày.
Nếu bạn có Ngũ hành kỵ Mộc thì nên kiêng treo tranh Mẫu đơn và các loại tranh
cây cối hoa cỏ trong nhà
Tương tự:
- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Thủy: Nên treo tranh có liên quan đến yếu tố nước như Cửu Ngư quần hội, Hoàng Hà Trường Giang...
- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Kim: Nên treo tranh liên quan đến yếu tố vàng và kim loại như Chiêu tài tiến bảo...
- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Hỏa: Nên treo tranh có màu sắc mạnh như Mẫu đơn đỏ hoặc Bát tuấn đồ...
- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Thổ: Nên treo tranh liên quan đến các công trình kiến trúc như Vạn lý trường thành...
Bạn không nên:
1. Treo tranh ở dưới cửa sổ và điều hòa.
2. Treo quá nhiều tranh, nếu bạn làm vậy sẽ sẽ phản tác dụng, vận thế của gia đình sẽ bị ảnh hưởng, hơn nữa khi làm việc sẽ tự tạo áp lực cho bản thân trong học tập, công việc và cuộc sống.
Vận thế của những người trong gia đình bị ảnh hưởng nếu treo quá nhiều tranh
3. Bạn cũng không nên treo trong nhà các loại tranh có hình thù kỳ dị hoặc quá trừu tượng, các bức tranh này sẽ khiến cho các thành viên trong gia đình bị ám ảnh và căng thẳng về tinh thần, trừ khi gia đình bạn là gia đình họa sĩ.
Các thành viên trong gia đình sẽ có ảnh hưởng không tốt về tinh thần nếu trong nhà
treo tranh có hình thù kỳ dị hoặc quá trừu tượng
4. Về màu sắc của tranh, bạn lưu ý không nên dùng tranh có màu quá đậm hoặc sử dụng quá nhiều màu đen sẽ không tốt. Màu sắc của tranh như vậy có thể khiến cho người ta có cảm giác rất nặng nề, ngoài ra còn có thể khiến cho ý chí của con người bị giảm sút, làm việc hay học tập sẽ dễ dẫn đến thiếu quyết tâm.
Ý chí của bạn có thể bị ảnh hưởng nếu sử dụng tranh có quá nhiều màu đậm hoặc đen
Những lưu ý trên cũng có thể giúp bạn chọn được bức tranh hoàn hảo làm quà Tết cho người thân, bạn bè trong dịp Tết Nguyên đán.
(Theo Khám phá)
Một người Nhật Bản kể:
“Một hôm tôi nằm mơ thấy mình trở thành một cái túi da rất lớn. Đối với tôi, mơ như thế không có gì lạ. Tôi từng mơ trở thành cái kim của đĩa hát, nhưng tôi đã quên cái đĩa hát ấy là của ai. Chỉ biết đĩa hát đó quay thì gây được tiếng cười cho nhiều người. Lúc đó tôi tỉnh giấc.
Tôi đang nói về chuyện trong giấc mơ tôi trở thành một cái túi da, một cái túi da quá đẹp.
Nếu biến thành một cái túi da thì thật bất tiện. Trong giấc mơ tôi cứ suy nghĩ mãi đến nỗi trở thành một người tư lự.
Từ nhỏ tôi đã rất thích túi da. Mỗi lần đến cửa hàng bách hóa tôi đã mất hàng tiếng đồng hồ trước những chiếc túi da bày la liệt.
Vợ tôi vẫn thường ghé sát tai tôi nói:
– Anh vẫn cần túi da à? Mua túi da để làm gì? Trong nhà chỗ nào cũng thấy túi da!
Nếu không được nhắc nhở, có lẽ tôi lại mua thêm một chiếc túi da rồi!
Và có lẽ vì thế túi da đã trở thành đồ vật hiện ra trong giấc mơ, về điều này tôi chẳng kinh ngạc gì. Tôi nghĩ như Freud nói: “Mơ là cách bộc lộ những ẩn ức”, thế là tôi trở thành một cái túi da rất to.
Đó là lý do mà tôi nghĩ đến. Sau khi đàm đạo với Freud tôi mới thấy sự việc không đơn thuần như thế. Tôi nghĩ còn nhiều lý do khác để giấc mơ biến tôi thành một cái túi da.
Trong giấc mơ của tôi, Freud trở thành người tầm thường, ông bắt tôi phải đóng học phí rất cao.
Tôi nói:
– Đắt quá!
Freud nói:
– Đây là mơ, đối với anh đắt một chút có nghĩa lý gì.
Freud còn nói to:
– Các vị! Chú ý về sau những đoạn như thế này đều là mơ.
Freud cho tiền học phí của tôi vào túi.
Ông ta hỏi tôi:
– Có phải anh bí đại tiện không?
Tôi kinh ngạc trả lời:
– Đúng! (Vì sự thực đúng như thế!)
Freud nói tiếp:
– Bởi vì anh rất nhỏ nhen, anh vô ý thức cứ muôn có nhiều thứ cho vào túi, thậm chí đại tiện cũng ghét nữa là.
Tôi lắc đầu biểu thị không chấp nhận.
Freud nói tiếp:
– Không sai đâu! Sở dĩ anh nằm mơ thấy túi da là vì muốn nhặt thật nhiều tiền từ 5 đồng xèng đến 10 đồng bạc giấy rách để nhét hết vào túi, tiền nào anh cũng muốn…
Tôi trả lời:
– Thế thì đúng.
Trong giấc mơ khi tôi biến thành cái túi da thì cái túi đựng đầy tiền, hình như lúc đó tôi chuẩn bị đi du lịch, nói khác đi, tôi là người cần ra đi. Đương nhiên! Ai cũng bỏ tiền đi du lịch. Tôi cũng phải đi đu lịch.
Giấc mơ thật quái lạ, nhưng về sau càng quái lạ hơn. Tôi mơ thấy tôi và Freud bắt đầu tranh chấp với nhau. Tôi nói cho Freud biết tôi là người thích để dành tiền. Ông đã ngộ giải, cho rằng tôi thích hưởng thụ nên có thói quen cóp nhặt.
Cuối cùng, chúng tôi bàn luận về vấn đề có liên quan đến bí đại tiện.
Bỗng nhiên, Freud hạ giọng nói:
Cái túi phân của ông!
Giọng như có ma thuật: Trong túi da có tiền bạc, tiền đồng, còn có ngân phiếu, nhưng nhanh như chớp chúng biến thành phân khô hết”.
Giấc mơ trên là dự báo điều bí đại tiện. Loại bệnh này do tiêu hóa kém, khó đại tiện, phân khô; cơ thể, sức khỏe bị ảnh hưởng nặng nề.
Y học phương Đông có giải thích: Nằm mơ thấy miệng túi, đại bộ phận là mắc bệnh đường tiêu hóa; miệng túi mà hẹp thì bí đại tiện.
Các số liên quan đến giấc mơ:
Đi đái dắt: 98 – 99
Nước đái có máu: 43
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
=> ## cung cấp công cụ xem tử vi theo ngày tháng năm sinh, xem ngày tốt xấu chuẩn xác để thuận lợi công việc |
Số 1 | Số 2 | Số 3 | Số 4 |
Số 5 | Số 6 | Số 7 |
Mộc Trà (theo Buzz)
Thiên Khôi
Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên khôi là dương hỏa, là trợ tinh thứ nhất của chom sao Nam Đẩu, hóa khí là dương quý, tức những người sinh vào năm dương và sinh vào ban ngày, thì sẽ có nhiều quý khí hơn, còn được gọi là Thiên Ất quý nhân.
Sao Thiên khôi cũng là một trong sáu Cát tinh, tục gọi là sao Quý nhân, quý nhân ở đây không phải chỉ người hiển quý, mà chỉ những người có thể giúp đỡ, chỉ điểm trong những thời điểm thích hợp, đều được gọi là Quý nhân.
Quý nhân được tượng trưng bởi sao Thiên khôi có thể gặp hung hóa cát, hơn nữa, thường xuất hiện một cách tự nhiên, không cần phải bỏ công tìm kiếm, những khó khăn trở ngại gặp phải thường được hóa giải một cách nhẹ nhàng, tự nhiên. Cho đến khi người gặp nạn bình yên vô sự, mới cảm nhận được sự phù hộ ngầm ẩn của quý nhân.
Cái quý của sao Thiên khôi thường được bộc lộ vào trước 40 tuổi, tất cả các cung vị và các sao đều ưa thích gặp được Thiên khôi để trợ giúp. Vận và hạn gặp Thiên khôi chẳng khác nào được quý nhân phù hộ, nâng đỡ trong hầu khắp các lĩnh vực thì cử, cầu tài, cầu chức, công tác..., mọi sự đều thuận lợi thành công. Sau năm 40 tuổi, dù là nam hay nữ, đại tiểu hạn và lưu niên nếu gặp Thiên khôi, sẽ thường trở thành quý nhân cho người khác, tức có thể nâng đỡ, làm lợi cho người khác.
Thiên Việt
Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên việt là âm thủy, là trợ tinh thứ hai trong chòm Nam Đẩu, hóa khí là âm quý, tức người sinh năm âm hoặc sinh ban đêm sẽ có quý khí, còn có tên gọi là Ngọc Đường quý nhân.
Sao Thiên việt cũng là một trong sáu Cát tinh, tương tự như sao Thiên khôi cũng là một quý nhân, quý nhân ở đây cũng không hẳn là chỉ người hiển quý, mà đây để chỉ những người có thể giúp đỡ, chỉ điểm cho mình trong những thời điểm thích hợp.
Cũng tương tự như sao Hữu bật, sao Thiên việt cũng có tính đào hoa (thủy âm) nên thường gặp được quý nhân khác giới, hơn nữa, thường nảy sinh tình cảm với vị quý nhân này.
Quý nhân của sao Thiên việt cũng thường đem lại những giúp đỡ mang tính tự nhiên, không dễ nhận biết, thường ngãu nhiên mà ngầm ẩn, gián tiếp.
Các sao khác nếu gặp được sao Thiên việt, chỉ cần không có Sát tinh ở tam phương hội chiếu, sẽ thường xuyên được quý nhân giúp đỡ, nên mọi việc gặp nhiều thuận lợi.
Sau năm 40 tuổi, sao Thiên việt dần dần mất đi sức mạnh của quý nhân, mặt khác, lại dễ gặp phải trở ngại và rắc rối, nếu lại nằm đồng cung với Hồng loan, dễ trở thành cách Đào hoa hồ đồ, thường vì thiếu tỉnh táo mà nảy sinh những rắc rối về tình cảm với người khác giới. Chỉ có những chủ tinh có lực, hoặc sát tinh miếu vượng, mới có thể thức tỉnh được cách Đào hoa hồ đồ.