Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Văn hóa dâng hương trong đời sống người Việt

Hương hỏa hay hương khói là khái niệm vô cùng quen thuộc đối với người Việt, gắn liền với văn hóa truyền thống dân gian cũng như mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc.
Văn hóa dâng hương trong đời sống người Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hương hỏa hay hương khói là khái niệm vô cùng quen thuộc đối với người Việt, gắn liền với văn hóa truyền thống dân gian cũng như mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc.

 
Van hoa dang huong trong doi song nguoi Viet hinh anh
 
Hương hỏa hay hương khói có thể hiểu theo hai cách: một là dùng để chỉ hình thức tế lễ tổ tiên, thần Phật, là tín ngưỡng tâm linh dân gian; hai là ám chỉ con nối dõi, hậu duệ hay người thừa kế, gắn với luân lý truyền thống gia đình. Hai cách hiểu này lại có sợi dây gắn kết với nhau khi mà con nối dõi sẽ là người chịu trách nhiệm thờ cúng ông bà tổ tiên, kế thừa hương hỏa gia đình.   Thắp hương là cách kính thiên tế thần, hồi tưởng tổ tiên, để cho tình cảm và tâm linh ngày thêm sâu đậm. Dâng hương lễ Phật cũng là một trong những cách thức thể hiện tôn giáo của bản thân. Dần dần, qua thời gian bồi đắp, đây không còn chỉ là một việc làm mang tính hình thức mà trở thành một hiện tượng văn hóa.    Mỗi khi có việc quan trọng, cần có sự chứng giám của trời đất (hình thức chứng giám tự thân cao nhất) thì người ta lại viện tới hương khói. Dâng hương tế trời soi tỏ lòng mình và tự giác nhắc nhở bản thân hoàn thành lời ước hẹn ấy. Điều này khác với sự chứng thực mang tính luật pháp vì thực chất, không ai bảo hộ cũng như chịu trách nhiệm giám sát nhưng lại có ý nghĩa tinh thần cực kì lớn.  

4 tác dụng cực tốt đối với sức khỏe của trầm hương Kiểu dâng hương lễ Phật chỉ phí hương đèn 3 lưu ý tuyệt đối không được quên khi sử dụng trầm hương Sử dụng trầm hương cải thiện phong thủy, tăng tài tiến lộc

Hay như khi tiến hành những việc bình thường nhưng thanh cao, tao nhã như đọc sách, đánh đàn người ta cũng dâng hương, với mong muốn tâm hồn thanh tịnh, không khí tươi mát để thần thanh khí sảng, hấp thụ được tinh hoa của học thuật. 
  Đôi khí, hương đại diện cho sự thanh nhã, phấn chấn, giống như thưởng trà, là một loại hưởng thụ mà chỉ có những bậc văn sĩ mới thấu hiểu.    Văn hóa dâng hương bắt nguồn từ xa xưa, trải qua dòng chảy lâu dài của thời gian đã trở nên lắng đọng, theo đó mà hương liệu cũng trở thành một phần của văn hóa. Trầm hương, đàn hương, long não và xạ hướng được xưng là tứ đại danh hương. Hương khí thanh nhã, khí mạch thanh thoát, thông suốt, có tác dụng dẫn dắt trí tuệ. Hương tro thanh thuần, vương vấn trong không gian, tươi mát trong không khí có thể khử trùng, ích não an thần, tốt cho giấc ngủ.   
Van hoa dang huong trong doi song nguoi Viet hinh anh
 
Với hơn một ngàn năm lịch sử, văn hóa dâng hương không chỉ mang tính chất tôn giáo như nhiều người lầm tưởng mà còn thẩm thấu tới tất cả các mặt trong đời sống, trở thành cuộc sống tinh thần đại chúng, một phương thức biểu đạt văn hóa và nguồn cội. Mỗi khi dâng nén hương trầm, hãy thành tâm trao gửi tâm hồn và tấm lòng của mình, lắng đọng cùng với những giá trị truyền thống tốt đẹp.
=> ## cung cấp công cụ Lấy lá số tử vi của mỗi người chuẩn xác

Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn hóa dâng hương trong đời sống người Việt

Cách hóa giải 3 cửa thông nhau –

Để tránh hiện tượng 3 cửa thẳng khi đã làm cửa, bạn có thể đặt trước cửa thứ nhất hoặc cửa có gió lùa vào một tấm gương hoặc cây xanh lớn hay tảng đá. Quan niệm tránh làm nhà 3 cửa thẳng hàng nhau là nhằm mục đích tránh gió lùa trong nhà. Lúc này, gi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tránh hiện tượng 3 cửa thẳng khi đã làm cửa, bạn có thể đặt trước cửa thứ nhất hoặc cửa có gió lùa vào một tấm gương hoặc cây xanh lớn hay tảng đá.

cuathang

Quan niệm tránh làm nhà 3 cửa thẳng hàng nhau là nhằm mục đích tránh gió lùa trong nhà. Lúc này, gió sẽ lùa từ trước hoặc sau và thống vào các căn phòng trong nhà khiến nguy cơ gặp gió lạnh, độc của người sống trong đó là rất cao, từ đó ảnh hưởng tới sức khoẻ.

Để tránh hiện tượng này khi đã làm cửa, bạn có thể đặt trước cửa thứ nhất hoặc cửa có gió lùa vào một tấm gương hoặc cây xanh lớn hay tảng đá. Các vật này thường cao ngang tầm người để có thể cản gió. Ngoài ra, cách bố trí các vật này cũng cần đảm bảo được hai yếu tố là ngăn cản gió vào nhà nhưng không ảnh hưởng đến thẩm mỹ ngôi nhà, mà ngược lại phải tạo được cảnh quan hài hòa với kiến trúc chung giúp ngôi nhà đẹp hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải 3 cửa thông nhau –

Phong thủy treo tranh trong nhà cần lưu ý –

Từ trước tới nay treo tranh phong thủy rất được ưa chuộng. Con người xem đó là một việc mang lại may mắn và tài lộc cho gia chủ. Tuy nhiên không phải cứ treo tranh trong nhà sẽ mang phại phong thủy tốt và mang lại tài lộc. Những bức tranh dã thú, màu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ trước tới nay treo tranh phong thủy rất được ưa chuộng. Con người xem đó là một việc mang lại may mắn và tài lộc cho gia chủ. Tuy nhiên không phải cứ treo tranh trong nhà sẽ mang phại phong thủy tốt và mang lại tài lộc. Những bức tranh dã thú, màu sắc quá đậm… có sức ảnh hưởng không hề nhỏ tới tậm trạng cũng như tinh thần của bạn. Sau đây chúng tôi sẽ hướng dẫn treo tranh hợp phong thủy cho các bạn, và các lưu ý khi treo tranh phong thủy.

Nội dung

  • 1 Những lưu ý khi treo tranh phong thủy trong nhà
    • 1.1 Thứ nhất
    • 1.2 Thứ hai
    • 1.3 Thứ ba
    • 1.4 Thứ tư
    • 1.5 Thứ năm

Những lưu ý khi treo tranh phong thủy trong nhà

Thứ nhất

Không nên treo những bức tranh với tông màu đen hoặc màu sắc quá đậm. Những bức tranh như vậy trông rất u ám, khiến người ngắm tranh có cảm giác bị áp lực, ý chí dễ bị bào mòn, sinh ra cảm giác chán nản.

Thứ hai

Không nên treo những bức tranh có dã thú hung dữ, đặc biệt là với những người có thể trạng sức khỏe yếu vì sẽ khiến bệnh tình thêm nghiêm trọng. Đối với người có sức khỏe tốt thì việc đó không hề đáng lo ngại, việc treo những bức tranh dã thú càng khiến cơ thể khỏe mạnh và tăng thêm sự nam tính.

2-8082-1402479364

Thứ ba

Không nên treo những bức tranh gió thổi vào mùa thu, hoàng hôn lặn sau núi. Điều này sẽ khiến bạn mất đi động lực, cảm thấy chán ngán vì không còn hứng thú với cuộc sống, từ đó dẫn đến tâm trạng phiền muộn.

Thứ tư

Không nên treo ảnh chân dung của người quá cố ở những nơi nổi bật. Điều này sẽ khiến bạn chìm đắm trong đau khổ về nỗi mất mát người thân mà không cách nào tự thoát ra được, từ đó bạn vô tình tạo nên áp lực trong cuộc sống của chính mình.

Thứ năm

Không nên treo những bức tranh có màu sắc quá đỏ chói. Điều này sẽ khiến những người thân trong gia đình dễ bị thương hoặc tính khí nóng nảy. Tuy nhiên, đối với người bị bệnh trầm cảm thì được khuyến khích treo những bức tranh có màu đỏ chói lọi, điều này mang lại hiệu quả tích cực trong việc điều trị bệnh trầm cảm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy treo tranh trong nhà cần lưu ý –

Năm 2017 thì mệnh gì? Nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt?

Bạn đã biết thông tin gì về năm 2017 chưa? Năm 2017 thì mệnh gì? Tuổi con gì? Nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt? Cùng Phongthuyso tìm hiểu nhé:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn đã biết thông tin gì về năm 2017 chưa? Năm 2017 thì mệnh gì? Tuổi con gì? Nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt? Cùng Phongthuyso tìm hiểu nhé:

Năm 2017 âm lịch bắt đầu từ ngày 28/02/2017 đến ngày 15/02/2018

Năm âm lịch là năm Đinh Dậu  tức tuổi Dậu (con gà), Độc lập Chi Kê.

Mệnh ngũ hành thuộc Sơn hạ Hỏa – Lửa chân núi

nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt

Sinh con trai vào năm 2017 thì thuộc mệnh gì?

Cung mệnh: Khẩn Thủy

Màu sắc hợp là màu trắng, kem, bạc.. thuộc hành Kinh giúp tương sinh tốt. Hoặc các màu xanh đen, xanh nước biển, xám thuộc hành Thủy giúp tương vượng.

Không nên lựa chọn những màu như màu vàng, vàng nâu thuộc hành Thổ sinh khắc.

Sinh bé gái vào năm 2017 thì mệnh gì?

Cung mệnh: Cung Cấn Thổ thuộc Tây tứ mệnh

Màu sắc hợp với mệnh Thổ là màu tính đỏ, hồng thuộc hành Hỏa giúp tương sinh. Hoặc họn các màu vàng, nâu, nâu đất thuộc hành Thổ giúp tương vượng.

Năm 2017 thì mệnh gì? Nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt?

Sinh con vào tháng nào thì tốt?

Sinh vào tháng giêng: Với người tuổi Dậu sinh vào tháng Giêng thì khỏe mạnh, giỏi tính toán trong mọi chuyện và có được đời sống vật chất đầy đủ. Tử vi của người tuổi Dậu sinh tháng 1 thường là người thông minh, chín chắn và rất cận trọng nhưng lại thiếu quyết đoán. Có sự nghiệp tốt đẹp, công việc dnah giá tuy nhiên khi lớn lên không tránh khỏi chuyện thị phi, có số ít của cải.

Sinh con vào tháng 2 năm 2017: Sinh con vào tiết Kinh trập là người năng động, cuộc đời thuận lợi. Tiết Kinh Trập là rồng bay lên trời nên tài lộc đều mãn nguyeenjj, có uy danh được nhiều người tôn kính. Nếu gặp thời sẽ làm nên nghiệp lớn.

Sinh con vào tháng 3 năm 2017: Tháng 3 là tiết Thanh Minh, người ôn hòa, nhạy ném có chí lớn đáng tin cậy. Có số làm cao thi cử đỗ đạt.

Sinh con vào tháng 4 năm 2017: Sinh vào tiết Lập hạ, vì đầu mùa hạ nên có ý chí lớn, đời non lấp bể, có chí khí, có văn chương. Những cũng vì thế mà kiêu ngạo nên không được lòng người, thường hay gặp nguy hiểm lành ít dữ nhiều.

Sinh con vào tháng 5 năm 2017: Con sinh vào tháng năm thì là người hiền lành, điềm đạm, tuy vật chất đầy đủ những công việc không được như ý, hậu vận vất vả. Phải tự mình vươn lên thì mới có được thành công lâu bền.

Sinh con vào tháng 6 năm 2017: Người sinh vào Tiểu Thử thường ít gặp may mắn, công việc không thuận lợi, buồng nhiều hơn vui, là người có vận số trôn nổi, khó làm được việc lớn nếu không gặp thời.

Sinh con vào tháng 7 năm 2017: Người tuổi Dậu sinh vào tiết lập thu là người thông minh, có ý chí quyết đoán lại mạnh dạn mưu trí hơn người. Có số danh lợi song toàn, tiểu nhân khó lòng mưu hại.

Sinh vào tháng 8 năm 2017: Là người thông minh nhanh nhẹn, có ý chí vượt lên khó khăn, sự nghiệp gặp hái được nhiều thành công, danh lợi vẹn toàn. Có số du ngoạn bốn phương, nếu làm lãnh đạo thì sẽ thành công.

Sinh vào tháng 9 năm 2017: Người tuổi Dậu sinh vào tiết Hàn Lộ thì thuộc kiểu người phong lưu, gặp nhiều thuận lợi. Biết tự vươn lên trong cuộc sống, con đường công danh rộng mở, cả đời được hưởng phúc lộc.

Sinh vào tháng 10 năm 2017: Người sinh vào tiết Lập Đông thường có tài năng  nhưng trong đời không có nhiều chuyện vui, nếu muốn thành công thì phải có sự giúp đỡ của người khác. Là người có tính cách nhu mỳ nhưng không chịu xông pha nên khó làm sự nghiệp lớn.

Sinh vào tháng 11 năm 2017: Người tuổi Dậu sinh vào tiết Đại Tuyết có công danh sự nghiệp không ổn định, thường phải chịu nhiều vất vả hơn người khác, hầu hết là tự thân vận động.

Sinh vào tháng 12 năm 2017: Nếu sinh con vào tiết Tiểu Hàn thì sẽ là người có tài năng, số này tùy có lộc nhưng mệnh ngắn, không được hưởng phúc trọn vẹn, là người có chí lớn nhưng  không gặp thời.

Những tháng trên đây là những tháng âm lịch của năm ĐInh Dậu. Tử vi của các bé sinh năm Đinh Dậu không chỉ phụ thuộc vào tháng sinh mà còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi ngày sinh và giờ sinh. Vậy nên với những bố mẹ có con sinh vào tháng chưa tốt không phải lo lắng nhiều. Điều tốt nhất là con sinh ra được mẹ tròn con vuông.

Xem thêm: Giải mã về giấc mơ giới tính thai nhi

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm 2017 thì mệnh gì? Nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt?

Giải mã giấc mơ thấy tôm –

Mơ thấy động vật là giấc mơ thường thấy của rất nhiều người, bởi có lẽ những hình ảnh này vô cùng quen thuộc trong đời sống của chúng ta và đặc biệt là giấc mơ về con tôm. Nghe có vẻ buòn cười đúng không nào? nhưng nhiều người khi bắt gặp trường hợp
Giải mã giấc mơ thấy tôm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy tôm –

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Vai trò của ánh sáng trong phong thủy nhà ở

Ánh sáng là yếu tố tác động đến thị giác, sức khỏe và cả tính thẩm mỹ của mỗi ngôi nhà. Bởi vậy, ở không gian chung hay riêng, nên có những cách bố trí khác nhau về ánh sáng và thiết kế ánh sáng nội thất 1 cách hợp lý.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không chỉ đóng góp vào ý nghĩa phong thủy mà việc nhận đúng loại và đủ ánh sáng rất quan trọng đối với sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc của mỗi người.

Trong nhà, ánh sáng trời rất quan trọng nhưng chất lượng của nó thay đổi trong ngày tùy theo hướng nhà.

Ánh sáng có thể phản chiếu trên các bề mặt nhãn bóng hoặc được lọc qua màn cửa, bức rèm bằng lưới hoặc vải mỏng, kính mờ hoặc kính màu.

Ngoài ánh sáng tự nhiên còn có ánh sáng nhân tạo được dùng chủ yếu trong đời sống hằng ngày.

Ánh sáng nhân tạo

Trong các phòng mà chúng ta sinh hoạt nhiều, ví dụ nhà bếp, văn phòng hay phòng xưởng, và những khu vực cần sự an toàn, như cầu thang, thì ánh sáng trực tiếp là cần thiết.

Ở những phòng dùng để nghỉ ngơi, như phòng khách và phòng ngủ, chúng ta có thể dùng ánh sáng dịu hơn – loại phản chiếu lại hoặc khuyếch tán.

Chất lượng của ánh sáng không thể bị xem nhẹ

Để nhấn mạnh ánh sáng cho những nơi đặc biệt như bức tranh, bàn giấy hoặc thớt, nên dùng các loại đèn thích hợp.

Vị trí đèn ảnh hưởng sâu sắc đến người sống trong nhà.

Nếu chỗ chúng ta đọc sách hoặc làm bếp mà bị bóng che, hoặc đèn lúc sáng lúc tắt, hoặc ánh sáng chói lóa trên màn hình tivi hay máy tính, chúng ta sẽ liên tục bị khó chịu.

Thứ ánh sáng chói mắt cũng ảnh hưởng không tốt lên tâm trạng chúng ta.

Chất lượng của ánh sáng không thể bị xem nhẹ.

Loại bóng đèn tròn thường thấy phát ra thứ ánh sáng nghiêng về dải đỏ quang phổ, thiếu sắc xanh. Ánh sáng đèn huỳnh quang thì nghiêng về hướng ngược lại; nó phóng ra trường điện từ cao hơn các nguồn sáng khác và hiện tượng nhấp nháy của nó có thể gây triệu chứng đau đầu.

Việc sản xuất năng lượng làm tiêu hao tài nguyên thiên nhiên của thế giới. Những ánh sáng chế nhằm giảm bớt tình trạng này gần đây có việc chế ra bóng đèn huỳnh quang, đây là loại đèn có tuổi thọ cao hơn.

Theo Việt Tuấn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vai trò của ánh sáng trong phong thủy nhà ở

9 mẹo đơn giản tránh nhà "nghịch" phong thủy

Dưới đây là 9 típ hữu ích giúp nhà bạn hợp phong thủy hơn. Số 9 là số may mắn trong phong thủy, vậy nên nếu bạn có thể làm được tất cả 9 điều này, thì nhà bạn sẽ thịnh vượng hơn nhiều.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Hãy dừng những tiếng kêu ‘cót két’ lại!

Cánh cửa ra vào nhà bạn có bao giờ phát ra những âm thanh như gió rít không? Cửa chính bao giờ cũng là thứ đầu tiên và cuối cùng bạn bước vào hoặc ra khỏi nhà. Những tiếng kêu kin kít này giống như tiếng cánh cửa đang ‘khóc’ vậy, và chắc chắn nó sẽ làm ảnh hưởng ít nhiều tới tâm trạng của bạn.

Nhiều người trở nên quen thuộc với vấn đề này nên thậm chí không bận tâm. Nhưng hãy tra dầu vào bản lề cửa và điều đó sẽ giúp bạn cảm thấy tràn đầy năng lượng khi không còn những tiếng kêu khó chịu nữa. Việc tra dầu cũng nên áp dụng với các cánh cửa khác trong ngôi nhà, nhưng cửa chính luôn là quan trọng nhất.

2. Hãy sử dụng cửa chính!

Nhiều người thường sử dụng cửa phụ để vào nhà khi họ đỗ xe trong gara hay sân sau. Có lẽ việc này mang lại sự tiện ích, nhưng trong phong thủy, hành động này sẽ giới hạn những dòng năng lượng và cơ hội có ích trong cuộc đời bạn, bởi một lần nữa, cửa chính đại diện cho con đường dẫn “Khí” vào nhà bạn.

Cách để khắc phục? Bạn chỉ cần dùng cửa chính để vào nhà ít nhất một lần một tuần. Tần suất càng cao càng tốt! Chỉ cần mở và đóng nó khi bạn đi lấy thư hoặc thậm chí là đi dạo. Hãy ghi nhớ chúng bằng cách viết lên lịch trình hằng ngày của bạn.

 9 meo don gian tranh nha

3. Nơi nào hợp phong thủy để đặt nguồn nước?

Theo phong thủy, nước mang lại sự thịnh vượng. Nhiều người thắc mắc rằng chỗ nào là tốt nhất để đặt nguồn nước sao cho thật hợp với phong thủy. Dựa vào luật phong thủy, nơi phù hợp nhất cho việc đặt nguồn nước là gần với lối ra vào nhà bạn. Nó có thể ở trong hoặc ở ngoài, nhưng quan trọng nhất mạch nước phải chảy qua trung tâm ngôi nhà. Điều đó có nghĩa sự thịnh vượng chảy vào nhà bạn đó!

 9 meo don gian tranh nha

4. Hãy đặt những chậu cây ở trên tủ treo tường nhà bếp

Hãy thử nhìn vào những chiếc tủ treo trên tường nhà bếp của bạn và kiểm tra chúng có được đặt sát trần nhà phẳng hoặc vòm hay không. Đấy là một luật phong thủy tốt khi không có không gian trống ở trên những chiếc giá, tủ treo đó. Phần không gian này sẽ tạo ra bụi và làm ứ đọng ‘khí’. ‘Khí’ sẽ bị tắc tại đó và tạo ra năng lượng chết, thứ sẽ kìm hãm cuộc sống của bạn.

Nếu nhà bạn thừa không gian trên những chiếc tủ treo tường, đây sẽ là giải pháp cho bạn. Hãy đặt những chiếc bóng đèn hoặc cây (thật hoặc nhân tạo) hay những vật dụng đáng yêu ở đó. Những vật này mang lại sức sống cho căn phòng và giúp chuyển hóa năng lượng.

 9 meo don gian tranh nha

5. Luôn khép cửa phòng vệ sinh

Mọi người luôn lo lắng về nhà vệ sinh khi nghĩ tới phong thủy. Vấn đề ở đây là nước sẽ chảy ra từ nhà tắm. Và ta biết rằng nước đại diện cho sự thịnh vượng, tất nhiên không ai muốn tiền chảy đi cả.

Tôi cũng được dạy rằng tiền sẽ quay trở lại khi phòng vệ sinh khô ráo, nhưng để an toàn, bạn hãy đặt nắp bệ xí xuống và khép cửa phòng vệ sinh lại.

 9 meo don gian tranh nha

6. Đặt giường ở đâu?

Trong phong thủy, luôn luôn tồn tại các luật bất di bất dịch để đặt các đồ gia dụng quan trọng đúng nơi đúng chỗ. Không ai có thể phủ nhận được giường là vật dụng quan trọng nhất trong căn nhà theo phong thủy bởi bạn dành hàng giờ đồng hồ để ngủ!

Để đặt giường theo hướng tốt nhất, bạn hãy đặt giường đối mặt với cửa ra vào nhưng không đặt sao cho khi ngủ hướng người ra cửa tạo thành đường thẳng. Cách lí tưởng nhất là bạn hãy đặt giường chéo với cửa ra vào. Tuy nhiên, việc này không phải lúc nào cũng làm được. Trong trường hợp đó, bạn hãy đặt một chiếc gương tại giường sao cho bạn có thể nhìn thấy cửa ra vào qua gương khi nằm. Gương đứng sẽ là lựa chọn vô cùng hợp lí bởi chúng dễ dàng di chuyển và có nhiều hiệu quả.

 9 meo don gian tranh nha

7. Che phủ tivi trong phòng ngủ

Hầu hết chúng ta đều để tivi trong phòng ngủ. Chuyện đó là hoàn toàn bình thường. Nhưng nếu bạn mắc chứng khó ngủ, hoặc không, thì hãy tắt hoặc che phủ tivi khi không dùng tới. Năng lượng hoạt động trong tivi (dòng điện) có thể phá vỡ dòng năng lượng yên tĩnh khi bạn ngủ và trong cả phòng ngủ. Theo tôi, hãy dùng một chiếc khăn hoặc miếng vải phủ qua chiếc tivi.

 9 meo don gian tranh nha

8. Lau sạch mọi chiếc cửa sổ

Dù chưa phải mùa xuân để bạn lau dọn, nhưng không có nghĩa bạn để những chiếc cửa sổ vùi trong bụi bẩn trong suốt vài tháng tới. Chiếc cửa sổ tượng trưng cho đôi mắt của bạn để nhìn ra thế giới. Chúng ta đều muốn được nhìn và trải nghiệm tất cả những gì vũ trụ tạo ra. Hãy tìm vài tờ báo, một chút giấm và nước … để phủi bay bụi bẩn. Việc này giúp bạn mở rộng tầm mắt hơn đấy.

 9 meo don gian tranh nha

9. Hãy dọn dẹp căn nhà bạn

Cuối cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng, hãy giúp căn nhà bạn trở nên thoáng đãng hơn. Ngôi nhà và môi trường sống xung quanh ta đều hiện diện các dấu ấn năng lượng của những vật thể từng xuất hiện. Việc dành chút thời gian để xua đi năng lượng xấu và đón chào những làn gió và ‘khí’ mới luôn là điều thích đáng.

Các phương pháp yêu thích trong việc giúp không khí dễ chịu hơn là: sử dụng các miếng gỗ trắc xanh để đốt, hun lửa cùng với cây xô thơm trắng hoặc xịt tinh dầu cam tự nhiên hòa với nước. Gỗ trắc xanh đem lại ánh sáng và các tính năng tuyệt vời khác để sử dụng hàng ngày. Cây xô thơm có mùi mạnh hơn - thích hợp để khử các mùi nồng. Và tinh dầu cam được sử dụng để giúp tâm trạng bạn vui vẻ hơn. Dù bạn dùng bất cứ thứ gì, hãy tưởng tượng rằng căn phòng sẽ tuyệt vời ra sao với những năng lượng tích cực cũng như ước mơ cho tương lai của bạn.

 9 meo don gian tranh nha
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 mẹo đơn giản tránh nhà "nghịch" phong thủy

Cách bài trí bàn thờ vào ngày Tết

Thờ phụng tổ tiên là một trách nhiệm có tính cách luân lý đối với người Việt Nam, nó thể hiện cho nhu cầu được phát lộ tình cảm và niềm tin huyết thống trong môi trường gia đình.
Cách bài trí bàn thờ vào ngày Tết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Thờ phụng tổ tiên là một trách nhiệm có tính cách luân lý đối với người Việt Nam, nó thể hiện cho nhu cầu được phát lộ tình cảm và niềm tin huyết thống trong môi trường gia đình.

Giữ bàn thờ sạch bày tỏ lòng hiếu kính

Bàn thờ là nơi ngự vị của các bậc tiền nhân trong gia đình, vì thế nó thường được đặt ở vị trí trung tâm và cao nhất trong nhà. Điều này không chỉ để tránh sự va chạm mà còn tránh gió, bụi bặm và côn trùng. Việc lau dọn sạch sẽ bàn thờ là công việc trước tiên và được thực hiện một cách cẩn thận, tỉ mỉ.

Công việc chăm chút bàn thờ là cách để con cháu bày tỏ lòng yêu kính và tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên. 

Chổi quét hoặc khăn lau bàn thờ thường được dùng riêng, và rất hạn chế sự chung đụng. Nước lau bàn thờ thường được dùng từ nguồn nước sạch sẽ, có người còn dùng nước mưa thậm chí nước nấu từ lá trầu, lá bồ đề để lau.

Trong tâm thức người Việt, người đã khuất và người còn sống luôn có một mối quan hệ mật thiết với nhau. Không gian thờ tự là không gian thiêng liêng trong gia đình, là nơi lưu giữ nhiều ẩn ức tình cảm giữa các thế hệ, chính vì thế việc giữ gìn bàn thờ luôn sạch sẽ, mát mẻ không chỉ thể hiện sự chăm sóc và tôn kính của con cháu đối với ông bà tổ tiên mà còn là sự chăm sóc đến cái tôi tâm linh ở mỗi con người.

Không phải đợi lúc năm hết tết đến, nhân dịp giỗ chạp hay vào những ngày sóc vọng, người ta mới dọn dẹp và chăm chút bàn thờ. Tuy nhiên, phải vào những ngày cận Tết, chúng ta mới thấy hết được không khí bận bịu, tất bật của việc dọn dẹp và chuẩn bị sắm sửa đồ thờ.

Trước khi dọn ban thờ, người xưa thường phải tắm rửa sạch sẽ, chuẩn bị đĩa hoa quả đặt lên, sau đó thắp một nén hương thông báo cho tổ tiên và thần linh biết ngày hôm nay sẽ thu dọn ban thờ, mời tổ tiên và thần linh tạm lánh sang một bên để con cháu thực hiện công việc. Sau đó gia chủ chuẩn bị một chiếc bàn bên trên trải vải hoặc giấy đỏ để đặt bài vị, nếu bàn thờ có đặt chung bài vị gia tiên với các thần thì phải để ra hai chỗ khác nhau, không được lẫn lộn. Đợi sau khi hương cháy hết rồi mới bắt đầu công việc. Khi lau rửa bài vị của tổ tiên thì phải dùng nước ấm, không được dùng nước lạnh. Khi làm vệ sinh, nếu có bài vị của thần phật thì lau trước, sau đó đổ nước mới để lau bài vị của tổ tiên, tuyệt đối không lau bài vị của tổ tiên trước. Người xưa quan niệm như vậy là bất kính, mạo phạm với thần phật, thần phật có ngôi vị cao hơn nên dễ khiến tổ tiên bị chèn ép.

Sau khi lau bài vị xong mới đến phần dọn bát hương, công việc này cũng rất quan trọng, ngày nay đa phần mọi người đều rút chân hương rồi cầm bát hương đổ hết tro ra ngoài, theo người xưa như vậy rất dễ gây “tán tài”, vì vậy người ta dùng chiếc thìa nhỏ xúc từng thìa đổ ra ngoài rồi mới rửa sạch bát hương đặt sang một bên. Khi bát hương khô ráo, nếu là bát hương thờ thần phật thì dùng bảy tờ tiền vàng, bát hương của tổ tiên thì dùng ba tờ tiền vàng đốt hơ quanh, cháy một nửa thì bỏ vào trong, đợi tiền vàng cháy hết thì đổ tro vào một lần, như vậy gọi là “ra nhỏ vào lớn”, ý là “tiền ra nhỏ giọt, tiền vào như thác đổ”, nếu lúc đầu đổ ra hết sau đó múc từng ít một vào thì gọi là “vào nhỏ ra lớn”, tức “tiền ra thì nhiều mà tiền vào thì ít”. Ngày nay có nhiều người đem tro bát hương đổ cũ ra sông, thay vào bát hương tro mới, nhưng người xưa thì dùng chiếc rổ mắt nhỏ để lọc tro cũ, lọc xong lại đổ vào bát hương chứ không đổ đi. Việc lọc tro cũng phải bắt đầu từ bát hương thờ thần phật.

Sau khi lau rửa sạch sẽ, người ta sẽ đem bài vị thần phật và tổ tiên đặt lại chỗ cũ và công đoạn này cũng rất phức tạp. Trước hết phải chuẩn bị một chiếc lò nhỏ trong có đốt than hoa, đặt dưới bàn thờ khoảng 15 phút, sau đó đốt bảy tờ tiền vàng làm dấu hơ ở bốn hướng trên dưới trái phải, ý là dùng lửa để khai quang, làm sạch, tiền vàng chưa cháy hết thì bỏ vào lò than hoa. Đốt tiếp bảy tờ tiền vàng làm sạch vị trí muốn đặt tượng/bài vị thần phật và bát hương sau đó mới đặt các đồ vật vào vị trí cố định. Sau khi đặt xong thì đốt 12 que hương cắm theo thứ tự hướng thời gian, que thứ nhất cắm ở vị trí 1h, khi cắm thì đọc “niên niên thị hảo niên”, tức mỗi năm đều là năm tốt; que thứ hai cắm ở vị trí 2h, khi cắm đọc “nguyệt nguyệt thị hảo nguyệt”, tức mỗi tháng đều là tháng tốt; cây thứ ba cắm ở vị trí 3h, khi cắm đọc “nhật nhật thị hảo nhật”, tức mỗi ngày đều là ngày tốt; cây thứ tư cắm ở vị trí 4h, khi cắm đọc “thời thời vị hảo thời”, tức mỗi giờ đều là giờ tốt; cứ tuần tự như vậy cho đến thời điểm vị trí 12h. Các vị trí bài vị, bát hương của tổ tiên và bà tổ cô cũng làm như vậy.

Chu đáo bày biện, lễ cúng

Trong gia đình Việt Nam ngoài việc chọn lựa vị trí trung tâm và cao ráo để đặt bàn thờ, người Việt còn chú ý xem hướng của ngôi nhàtuổi của gia chủ để thấy nên đặt bàn thờ quay mặt về hướng nào là tốt nhất.

Việc dọn dẹp hay bày biện bàn thờ vào ngày thường có thể qua loa, sơ sài vì lý do bận bịu làm ăn, thu vén tiền bạc… Song vào những ngày Tết, công việc này được yêu cầu có sự chu đáo nhất định.

Trên bàn thờ tổ tiên, ở chính giữa đặt bát hương (tượng trưng cho tinh tú) và trên bát hương có cây trụ để cắm hương vòng (tượng trưng cho trục vũ trụ), hai bát hương khác đặt ở bên trái và bên phải tạo nên tư thế tam tài; ở hai góc ngoài bao giờ cũng có hai cây đèn dầu (hoặc nến) tượng trưng cho mặt trời bên trái và mặt trăng ở bên phải.

Khi cần giao tiếp với tổ tiên (có lúc thỉnh cầu, có lúc sám hối… người ta thường đốt nến (đèn dầu) và thắp hương. Mọi nguyện cầu theo các vòng khói hương chuyển đến ông bà tổ tiên.

Lễ vật dâng cúng thường bao gồm vài bộ quần áo, giấy tiền vàng mã cho các cụ, một vài cái chung (ly nhỏ, thấp) và một bình trà; đĩa hoa quả lớn đặt ở trung tâm bàn thờ, một bình hoa lớn và một bình rượu ngon. Xung quanh, ta có bày thêm bánh mứt cho cân đối và đẹp mắt.

Hoa để thờ nên dùng hoa tươi, người Việt Nam thường sử dụng hoa cúc, hoa huệ, hoa lay ơn, hoa mai, hoa đào trong cúng gia tiên ngày Tết…

Khoảng sáng 30 Tết, việc bày biện bàn thờ Tết phải được hoàn tất. Tuỳ theo điều kiện kinh tế hay văn hóa từng miền mà trên bàn thờ có thêm cặp dưa hấu xanh, gói thuốc lá, cặp bánh chưng hay bánh tét…

Việc thắp sáng cho bàn thờ ngày Tết cũng được bắt đầu từ ngày 30. Có nhà sử dụng loại hương vòng, hay hương que loại lớn, cháy liên tục trong nhiều ngày với nhiều ý nghĩa biểu trưng như các vì tinh tú đang tỏa sáng, sự chăm lo ân cần của con cháu…

Hương khói còn tạo nên một không khí ấm cúng nơi gian thờ, gắn kết tình cảm và ước nguyện hạnh phúc của mọi người trong một gia đình. Hương dùng cho những ngày Tết cũng thường là các loại hương có mùi thơm đặc biệt ví dụ như hương bài, hương trầm, hương nhài… là những loại hương có mùi thơm hết sức đặc trưng cho nhân dân ba miền ở Bắc - Trung - Nam.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất >>>

Mâm ngũ quả ngày Tết

Việc bày mâm ngũ quả xuất phát từ lý thuyết về ngũ hành: thuỷ - hỏa - mộc - kim - thổ những yếu tố tạo nên vũ trụ và sự vận hành của nó. Thông thường ngũ quả gồm 5 loại quả có các màu khác nhau như chuối xanh, bưởi vàng, hồng đỏ, lê trắng, quýt da cam tượng trưng cho mong ước: Phú (giàu có) - quý (sang trọng) - thọ (sống lâu) - khang (khỏe mạnh) - ninh (bình yên).

Mỗi một miền lại có một quan niệm riêng về ý nghĩa mâm ngũ quả. Người Nam bộ có cách đọc chại âm hay đơn tiết hóa một số từ, ví dụ chỉ tên trái mãng cầu thì gọi đơn tiết hóa là Cầu (mãng cầu: thoả mãn trong sự cầu xin) - Sung (sung: chỉ sự sung túc, sung mãn) - Vừa (đọc chệch âm là dừa: quả dừa) - Đủ (đơn tiết hóa của đu đủ và xài (là cách đọc chệch của âm xoài).Trong khi đó, người miền Bắc hướng đến ý nghĩa biểu trưng nhiều hơn, quả phật thủ hay nải chuối như bàn tay che chở của đức phật cho tất cả mọi người; quả bưởi, dưa hấu thể hiện cho sự đầy đặn, trọn vẹn căng đầy sức sống; màu sắc thắm tươi của quýt, hồng tượng trưng cho sự may mắn, phồn thịnh cát tường.

Ngày nay, mâm quả trên bàn thờ tết người Việt phong phú hơn về chủng loại bởi sự góp mặt của những hoa quả ngoại nhập. Với tính dung hợp trong văn hóa, người Việt Nam luôn có thể tìm thấy tất cả những yếu tố thích hợp, có giá trị ý nghĩa đối với đời sống tâm linh của dân tộc mình.

Cuối cùng, những sản vật đẹp mắt nhất, tinh tuý nhất, được dâng bày với những tình cảm hiếu kính, trang trọng và thiết thân nhất. Bàn thờ tết không chỉ là nơi mà mọi người bày tỏ tình cảm gia đình, huyết thống mà đó còn là nơi chúng ta gửi gắm những lời chúc may mắn và một năm mới an khang, thịnh vượng hơn.

Những điều cần tránh khi bày trí bàn thờ

*Không nên bày “đồ giả” cành vàng lá ngọc lên bàn thờ

Đa phần người dân sau khi đi lễ mang lộc về cắm ở nhà mình, coi đấy là lộc. Nhưng tốt nhất mọi người không nên mang về vì ở những nơi đó có thể có vong, rồi đủ thứ bám vào… Nếu tới di tích mua những cành vàng lá ngọc đó dâng lên, công đức sẽ được bề trên chứng giám thì nên hóa đi, không nên mang về nhà.

Bàn thờ là nơi tâm linh, thanh tịnh nên những cành vàng lá ngọc không nên đặt lên. Những thứ cành vàng lá ngọc có nhiều điều khó nói như: Bày bán chỗ có sạch không, cất giữ thế nào, có bị ô uế hay không… “Không nên đi bất cứ đến chùa chiền, đền phủ nào cũng xin lộc về đặt lên bàn thờ, cũng không nên tùy tiện đặt các thứ đó lên bàn thờ. Muốn trưng thì cần biết rõ gốc tích của nó”.

Bày cành vàng lá ngọc lên bàn thờ cúng là theo triết lý dân gian, còn theo nhà Phật thì không có điều này. Trước đây, những ngày đầu xuân người dân đi hái lộc thường là những chồi non, nhưng giờ họ thay bằng hình thức mua những cành vàng lá ngọc, hoa… cầu sự phú quý. Đó có thể coi là lấy may đầu xuân chứ không phải vật để thờ cúng. Mọi người có thể bày lên bàn thờ nhưng khi tới ngày Rằm tháng Giêng thì hóa luôn. Ngay cả hoa giả cũng chỉ là phần trang trí chứ không thuộc vào lễ nghi thờ cúng. Bàn thờ cúng là phải sạch sẽ, thanh tịnh, không nên đặt những cái đó vào sẽ làm bàn thờ trông không được thông thoáng. Việc cắm cành vàng, lá ngọc cài ngược cài xuôi nhằm mong phú quý nó thuộc về tâm tà, mê tín. Chính tín là đồ thờ trên bàn thờ phải là đồ thật, thanh tịnh.

Có nhiều người cho rằng, bày  “đồ giả” lên bàn thờ sẽ mang tội bất kính. Thực ra việc bày biện các đồ giả trên thì không có gì là bất kính hay có lỗi cả. Có lỗi hay không là ở nơi tâm ý, thái độ và việc làm của chúng ta chứ không phải ở nơi đồ vật. Điều quan trọng là ở nơi tấm lòng thành kính của Phật tử. Nếu như Phật tử dâng cúng những phẩm vật sang trọng, đẹp đẽ, giá trị mà không có lòng chí thành thì đó mới là mất trang nghiêm, bất kính. Tuy vậy, trong việc thờ phụng thì giả tạo cũng không nên. Những đồ bày trên bàn thờ là biểu hiện của tấm lòng nên sẽ không tốt khi dùng lễ giả để mong biểu thị tấm lòng chân thật.

*Không tùy tiện cắm chân hương vòng vào bát hương

Từ bao đời nay, ở các nơi thờ tự chùa chiền, đình đền, phủ đều có que sắt cắm trong bát hương để thắp hương vòng. Nhưng trong gia đình thì có nên đặt những que hương sắt vào bát hương để thắp hương vòng hay không?

Theo các nhà tâm linh, bát hương thể hiện cho cái đầu của gia chủ, khi bốc bát hương mà không lèn chặt, thì sau một thời gian tro hương sẽ chắc lại, dân gian cho là có thể làm gia chủ đau đầu. Bàn thờ nếu có đủ ngũ hành là tốt. Nhưng các đồ kim loại như đỉnh đồng, lư đồng, bát hương đồng, hạc đồng, đỉnh đồng, chân nến… những đồ cúng lễ bằng kim loại cũng không nên đặt nhiều. Bởi theo nhiều nhà tâm linh, nếu đặt đồ kim loại đồng nặng và lớn sẽ không tốt cho sức khỏe gia chủ. “Người dân nếu muốn thắp hương vòng trong những ngày lễ Tết thì hãy đốt ở ngoài bát hương, như đặt trong đĩa, vừa không động bát hương, vừa dễ làm sạch bàn thờ”.

Trên bàn thờ ngày Tết cần phải có hoa tươi. Người Việt Nam thường sử dụng hoa cúc, hoa huệ, hoa dơn, hoa mai, hoa đào trong cúng gia tiên ngày Tết... Song trên bàn thờ không nên kết hợp nhiều loại hoa sẽ giảm sự thanh thoát, mất thẩm mỹ. Trên bàn thờ lúc nào hoa trái cũng tươi tốt, nhang đèn sáng và bàn thờ sạch sẽ là điều lý tưởng.  “Ngoài ra, nhiều gia đình có thói quen bày tiền vàng lưu trên bàn thờ cả năm là không nên. Năm mới bước sang một công việc mới, những đồ trên bàn thờ cần đốt hóa để mọi thứ đều mới. Cần phải hóa số tiền vàng đó vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm giúp cho gia chủ có sự luân chuyển về tiền bạc dồi dào, năm sau nhiều hơn năm trước. Theo quan niệm dân gian, nếu để quên không hóa vào cuối năm, việc làm ăn của năm tới sẽ bị ngưng trệ, gặp nhiều khó khăn”.

Bàn thờ cần luôn thanh tịnh, đồ cúng lễ chỉ nên bày hương, hoa, trà, quả, bánh kẹo, xôi oản… chay tịnh. Muốn bày mâm cỗ mặn nên đặt riêng ở mâm dưới phía trước bàn thờ, rồi cắm nén hương vào đó để báo và mời các cụ thụ hưởng.

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bài trí bàn thờ vào ngày Tết

Tử vi tháng tránh sinh con năm 2015 - Đặt tên cho con - Xem Tử Vi

Tử vi tháng tránh sinh con năm 2015, Đặt tên cho con, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tử vi tháng tránh sinh con năm 2015, tu vi Tử vi tháng tránh sinh con năm 2015, tu vi Đặt tên cho con

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi tháng tránh sinh con năm 2015

Trong năm 2015 sẽ có những tháng xấu không nên sinh con, bởi sinh vào những tháng này sẽ không may mắn. ## cho bạn xem tử vi tháng tránh sinh con năm 2015.

P/S: tháng âm lịch bạn nhé!

Xem tử vi tháng tránh sinh con năm 2015

Tử vi tháng tránh sinh con năm 2015

A. CÁC THÁNG CẦN TRÁNH SINH CON:

1. Tháng BÁC BẠI, phạm HAO CON:

Sinh con trai hay gái trong tháng 3 Âm lịch trong năm Ất Mùi này sẽ phạm BÁC BẠI – HAO CON. Sau này dẫu có sinh nhiều thì cũng không dưỡng được bao nhiêu. Nếu tránh được thì nên tránh.

2. Tháng con Trai phá sản nhà Vợ:

Sinh con trai trong tháng 2 năm Mùi đều phạm phá hại gia sản của Cha Mẹ Vợ hoặc của Vợ.

3. Tháng con gái phá sản nhà Chồng:

Sinh con gái trong tháng 8 năm Mùi đều phạm phá hại gia sản của Cha Mẹ Chồng hoặc của Chồng. Có thể bạn không tin nhưng vẫn có việc cưới Dâu rình rang về gia đình lập tức gặp biến cố. Do đó, hãy cẩn thận chọn sinh Bé gái nhà mình vào thời khắc tốt hơn nếu bạn có thể.

4. Tháng CÔ THẦN – QUẢ TÚ:

Bé sinh nhằm tháng này phải chịu rắc rối, thay đổi nhiều tình yêu mà vẫn không có kết quả, phải khổ với tâm sầu. Nếu tránh được thì nên tránh. Nam nữ xem riêng.

Nam tuổi Mùi nếu sanh nhằm tháng 1 hoặc tháng 7 đều phạm CÔ THẦN

Nữ tuổi Mùi nếu sanh nhằm tháng 3 hoặc tháng 9 đều phạm QUẢ TÚ.

B. CÁC GIỜ CẦN TRÁNH:

Bé sinh năm Ất Mùi nếu sinh vào ban ngày sẽ tốt hơn sinh vào ban đêm. Ngoài ra, hãy đặc biệt cố gắng tránh sinh con nhằm các giờ bên dưới đây:

1. NAM phạm CÔ THẦN thê ly biệt

NỮ phùng QUẢ TÚ đọc phòng trung:

Nam nữ tuổi Mùi nếu sanh nhằm giờ Thân (15 – 17h) hoặc giờ Thìn (07 – 09) đều phạm CÔ THẦN, QUẢ TÚ: không có Vợ hoặc không có Chồng.

2. Giờ YỂU TƯỚNG:

Các Bé sanh nhằm giờ này đều phạm YỂU TƯỚNG, khó dưỡng đặng qua 13 tuổi:

Sanh tháng 1, 5 hoặc 9: nếu đúng vào giờ THÌN đều PHẠM YỂU TƯỚNG

Sanh tháng 2, 6 hoặc 10: nếu đúng vào giờ MÙI đều PHẠM YỂU TƯỚNG

 

Sanh tháng 3, 7 hoặc 11: nếu đúng vào giờ TỴ đều PHẠM YỂU TƯỚNG

Sanh tháng 4, 8 hoặc 12: nếu đúng vào giờ DẦN đều PHẠM YỂU TƯỚNG

3. Giờ TRỜI ĐÁNH:

Các Bé sanh năm Ất Mùi nhằm giờ Ngọ (11h – 13h) đều phạm TRỜI ĐÁNH, nuôi không đặng, nếu nuôi đặng lớn bị trời đánh.

4. Giờ kỵ CHA MẸ – LY BIỆT:

Các Bé sanh năm Ất Mùi nhằm giờ bên dưới đây đều kỵ CHA MẸ – LY BIỆT, khó nuôi đến lớn. Nếu nuôi đặng thì Cha Mẹ chịu cảnh biệt ly.

Sanh tháng 1 hoặc 7: nếu đúng vào giờ TỴ hoặc giờ HỢI đều phạm.

Sanh tháng 2 hoặc 8: nếu đúng vào giờ THÌN hoặc giờ TUẤT đều phạm.

Sanh tháng 3 hoặc 9: nếu đúng vào giờ MÃO hoặc giờ DẬU đều phạm.

Sanh tháng 4 hoặc 10: nếu đúng vào giờ DẦN hoặc giờ THÂN đều phạm.

Sanh tháng 5 hoặc 11: nếu đúng vào giờ SỬU hoặc giờ MÙI đều phạm.

Sanh tháng 6 hoặc 12: nếu đúng vào giờ TÝ hoặc giờ NGỌ đều phạm.

5. Giờ kỵ người thân, sống tha phương, nhiều bệnh:

Sanh tháng 1 nếu đúng vào giờ THÂN đều phạm.

Sanh tháng 2 nếu đúng vào giờ DẬU đều phạm.

Sanh tháng 3 nếu đúng vào giờ TUẤT đều phạm.

Sanh tháng 4 nếu đúng vào giờ HỢI đều phạm.

Sanh tháng 5 nếu đúng vào giờ TÝ đều phạm.

Sanh tháng 6 nếu đúng vào giờ SỬU đều phạm.

Sanh tháng 7 nếu đúng vào giờ DẦN đều phạm.

Sanh tháng 8 nếu đúng vào giờ MÃO đều phạm.

Sanh tháng 9 nếu đúng vào giờ THÌN đều phạm.

Sanh tháng 10 nếu đúng vào giờ TỴ đều phạm.

Sanh tháng 11 nếu đúng vào giờ NGỌ đều phạm.

Sanh tháng 12 nếu đúng vào giờ MÙI đều phạm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi tháng tránh sinh con năm 2015 - Đặt tên cho con - Xem Tử Vi

Bố cục văn phòng tại gia nên thiết kế như thế nào? –

Trong môi trường văn phòng, sự vận dụng màu sắc cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công việc. Trong môi trường văn phòng làm việc bận rộn, căng thẳng nên dùng những màu sắc phối hợp nhẹ nhàng để cố thể làm giảm những áp lực công việc. Trong môi t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong môi trường văn phòng, sự vận dụng màu sắc cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công việc. Trong môi trường văn phòng làm việc bận rộn, căng thẳng nên dùng những màu sắc phối hợp nhẹ nhàng để cố thể làm giảm những áp lực công
việc. Trong môi trường công việc bình dị thì nên dùng những sắc đậm mạnh đỏ kích thích. Nói một cách cụ thể, màu sắc nên điều hoà với Ngũ hành, để thúc đẩy hiệu qua công việc.

thiet ke phong lam viec

Nếu văn phòng tại gia ở vị trí phía Đông và phía Bắc của căn nhà, nên dùng các màu xanh lá cây và màu xanh lam làm chủ đạo. Những văn phòng ở phía Nam nên dùng các màu tím, phía Tây nên dùng các màu xám hoặc màu cà phê nhạt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố cục văn phòng tại gia nên thiết kế như thế nào? –

Lí giải giấc mơ về hướng dẫn viên du lịch

Hướng dẫn viên du lịch thường mang đến niềm vui cho người khác, thỏa mãn tâm lý muốn được khám phá thế giới bên ngoài của họ. Hình ảnh hướng dẫn viên du lịch
Lí giải giấc mơ về hướng dẫn viên du lịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Hướng dẫn viên du lịch thường mang đến niềm vui cho người khác, thỏa mãn tâm lý muốn được khám phá thế giới bên ngoài của họ. Hình ảnh hướng dẫn viên du lịch trong giấc mơ thường đem lại niềm an ủi hoặc cảm giác yên bình cho người nằm mơ.


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Li giai giac mo ve huong dan vien du lich hinh anh
Ảnh minh họa
 
Mơ thấy hướng dẫn viên dẫn mình tham quan danh lam thắng cảnh, bạn sẽ gặp rất nhiều chuyện vui trong cuộc sống.    Mơ thấy hướng dẫn viên đưa mình đi tham quan bảo tàng hay sở thú là điềm báo bạn có thể trở thành học giả nổi tiếng. Nếu có năng lực, bạn hãy cố gắng hết sức để đạt được thành công.   Nam giới mơ thấy mình làm hướng dẫn viên lại là điềm báo không được tốt lắm. Cuộc sống của họ phải ngược xuôi, vất vả để có được thu nhập chăm lo cho gia đình.    Tuy nhiên, nữ giới mơ thấy mình làm hướng dẫn viên, họ sẽ được ngợi ca về tấm lòng lương thiện, khoan dung và luôn được người khác giúp đỡ.

Theo Giấc Mơ và Vận Mệnh Con Người Trong Cuộc Sống

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lí giải giấc mơ về hướng dẫn viên du lịch

Màu sắc mang lại may mắn cho 12 con giáp –

Màu sắc nào mang lại may mắn cho 12 con giáp? Màu đen và xanh lam sẽ mang lại may mắn cho người tuổi Tý, còn người tuổi Thìn là màu vàng chanh và màu cà phê… Những màu sắc khác thì sao? Chúng ta cùng đọc bài viết sau để xem bản thân hợp với màu sắc g

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu sắc nào mang lại may mắn cho 12 con giáp? Màu đen và xanh lam sẽ mang lại may mắn cho người tuổi Tý, còn người tuổi Thìn là màu vàng chanh và màu cà phê… Những màu sắc khác thì sao? Chúng ta cùng đọc bài viết sau để xem bản thân hợp với màu sắc gì nhé!

Nội dung

  • 1 Màu sắc mang lại may mắn cho 12 con giáp
    • 1.1 Tuổi Tý: Màu đen và xanh lam
    • 1.2 Tuổi Sửu: Màu vàng ánh kim và màu cà phê
    • 1.3 Tuổi Sửu: Màu vàng ánh kim và màu cà phê
    • 1.4 Tuổi Mão: Màu lục lam và xanh lá
    • 1.5 Tuổi Thìn: Màu vàng chanh và màu cà phê
    • 1.6 Tuổi Tỵ: Màu đỏ và màu vàng
    • 1.7 Tuổi Ngọ: Màu đỏ và tím
    • 1.8 Tuổi Mùi: Màu lam và đen
    • 1.9 Tuổi Thân: Màu trắng và màu vàng kim
    • 1.10 Tuổi Dậu: Màu cà phê và màu vàng
    • 1.11 Tuổi Tuất: Màu đỏ và màu hồng
    • 1.12 Tuổi Hợi: Màu vàng và nâu

Màu sắc mang lại may mắn cho 12 con giáp

xem-tu-vi-2015

Tuổi Tý: Màu đen và xanh lam

Hai màu sắc này sẽ mang lại nguồn năng lượng dồi dào cho người tuổi Tý trong năm nay. Quần áo, tư trang, đồ trang sức, các vật dụng hàng ngày… sử dụng hai màu đen và xanh lam sẽ giúp người tuổi Tý thêm may mắn về công danh sự nghiệp.

Tuổi Sửu: Màu vàng ánh kim và màu cà phê

Mức độ xui xẻo mà người tuổi Sửu sẽ phải đối mặt trong năm 2014 sẽ giảm đi đáng kể nếu họ thường xuyên “kết thân” với màu vàng ánh kim và màu cà phê thường ngày cho mình.

Tuổi Sửu: Màu vàng ánh kim và màu cà phê

Mức độ xui xẻo mà người tuổi Sửu sẽ phải đối mặt trong năm 2014 sẽ giảm đi đáng kể nếu họ thường xuyên “kết thân” với màu vàng ánh kim và màu cà phê thường ngày cho mình.

Tuổi Mão: Màu lục lam và xanh lá

Hai màu sắc này sẽ giúp ích rất nhiều cho tài vận người tuổi Mão trong năm 2014. Nó xua đuổi điều xui xẻo do kẻ tiểu nhân hãm hại và mang lại sự nghiệp thành công cho người tuổi Mão.

Tuổi Thìn: Màu vàng chanh và màu cà phê

Có thể nói đây là hai màu sắc khai vận cho người tuổi Thìn. Vận may về tài chính và tình cảm của họ sẽ nở rộ trong năm 2014 nếu biết cách tận dụng sức mạnh của những màu sắc này.

Tuổi Tỵ: Màu đỏ và màu vàng

Thường xuyên sử dụng hai màu sắc này trên người hoặc vật dụng hàng ngày sẽ giúp người tuổi Tỵ thêm khỏe mạnh, tràn đầy năng lượng để học tập và làm việc.

Tuổi Ngọ: Màu đỏ và tím

Tận dụng vận may cát tường của hai màu đỏ và tím mang lại, cộng với sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn bè, người tuổi Ngọ sẽ gặt hái được nhiều thành công trong năm nay. Đồng thời có thể gặp hung hóa cát, có cuộc sống yên bình, khỏe mạnh.

Tuổi Mùi: Màu lam và đen

Sáu tháng đầu năm, người tuổi Mùi nên sử dụng nhiều gam màu lam cho mình để mang lại nhiều vận may tài chính. Còn sáu tháng cuối năm, bạn nên tận dụng sức mạnh may mắn của màu đen nhằm tạo dựng khối tài sản lớn, chuẩn bị đón một cái Tết sung túc, mãn nguyện.

Tuổi Thân: Màu trắng và màu vàng kim

Hai màu trắng và vàng kim tương sinh với bản mệnh của người tuổi Thân trong năm nay. Do đó, ngoài trang phục, phụ kiện đeo trên người, bạn có thể sử dụng những màu sắc này cho phòng ngủ, phương tiện đi lại… để mang tới nhiều may mắn và phúc khí.

Tuổi Dậu: Màu cà phê và màu vàng

Hai màu sắc này không chỉ mang lại sự may mắn về tiền bạc cho người tuổi Dậu trong năm nay mà còn giúp họ có được tình duyên thuận lợi, khả năng kết hôn rất cao.

Tuổi Tuất: Màu đỏ và màu hồng

Hai gam màu rực rỡ sẽ mang lại nhiều vận may về tài chính và tình duyên cho người tuổi Tuất trong năm nay. Ngoài ra, những màu sắc này còn giúp khơi gợi hứng khởi và trí sáng tạo tuyệt vời của người tuổi Tuất.

Bạn sẽ phát hiện thấy những điều mà từ trước tới giờ bạn chưa từng thấy về bản thân mình nếu sử dụng hai gam màu này thường xuyên.

Tuổi Hợi: Màu vàng và nâu

Sử dụng hai gam màu này một cách thường xuyên, người tuổi Hợi sẽ gặp hung hóa cát, có nhiều may mắn và thuận lợi khi làm bất cứ việc gì. Hơn thế, những mâu thuẫn với người thân, bạn bè hoặc đồng nghiệp cũng được giải quyết ổn thỏa nếu họ biết tận dụng triệt để sức mạnh may mắn của hai màu sắc này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc mang lại may mắn cho 12 con giáp –

Lý do Huỳnh Anh và Hoàng Oanh cứ dính lấy nhau

Được mệnh danh là cặp tiên đồng ngọc nữ, Huỳnh Anh và Hoàng Oanh khiến cho mọi người phải ghen tị vì những cử chỉ dành cho nhau quá ư là lãng mạn.
Lý do Huỳnh Anh và Hoàng Oanh cứ dính lấy nhau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Được mệnh danh là cặp tiên đồng ngọc nữ, chàng diễn viên điển trai Huỳnh Anh và Hoàng Oanh - nàng á hậu xinh đẹp khiến cho mọi người phải ghen tị vì những cử chỉ dành cho nhau quá ư là lãng mạn.


► Xem bói tình duyên theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Trong khi bao nhiêu cặp đôi tan vỡ trước sóng gió thị phi thì Huỳnh Anh và Hoàng Oanh vẫn giữ được tình yêu bền chặt, khăng khít.
Ly do Huynh Anh va Hoang Oanh cu dinh lay nhau hinh anh 2
Huỳnh Anh - Hoàng Anh là cặp đôi đẹp của showbiz Việt

Huỳnh Anh là một chàng trai Bảo Bình chính hiệu còn Hoàng Oanh là một cô nàng Thiên Bình chuẩn không cần chỉnh. Cả hai đều là cung Khí nên rất dễ bén duyên với nhau. Huỳnh Anh tình cờ gặp Hoàng Oanh trong một sự kiện và đã chết đứ đừ vẻ duyên dáng, xinh đẹp của cô nàng. Sau đó anh đã không bỏ lỡ cơ hội kết bạn trên facebook và mời nàng đi chơi đường hoa Nguyễn Huệ. Hai người đã rất hợp cạ và thấu hiểu nhau ngay từ buổi đầu tiên gặp mặt. Bảo Bình và Thiên Bình có rất nhiều điểm chung: Cùng giỏi ăn nói, thông minh, hài hước, cùng yêu thích các hoạt động xã hội,... cho nên họ rất dễ chia sẻ các sở thích với nhau.

Ly do Huynh Anh va Hoang Oanh cu dinh lay nhau hinh anh 2
Dù nhỏ tuổi hơn nhưng Huỳnh Anh luôn thể hiện là người đàn ông đáng tin cậy

Dù nhỏ tuổi hơn nhưng Huỳnh Anh vẫn thể hiện mình là người đàn ông đáng tin cậy, anh chàng rất biết cách chiều chuộng và chăm sóc bạn gái. Mặc dù mặt trời của Huỳnh Anh thuộc cung Bảo Bình nhưng mặt trăng lại thuộc Bọ Cạp, sao Thủy, sao Kim và sao Hỏa đều thuộc Ma Kết nên Huỳnh Anh có độ chín chắn nhất định, không quá phiêu lãng và thiếu ổn định như Bảo Bình. Ma Kết là cung hoàng đạo thông minh và khôn ngoan cho nên đến tận bây giờ Huỳnh Anh vẫn có đời sống cá nhân vô cùng trong sạch, các chia sẻ trên báo chí của anh cũng rất đúng mực, không quá khoa trương. Hoàng Oanh là cô gái Thiên Bình dịu dàng, thùy mị, và xinh đẹp. Cô còn có mặt trăng ở Song Tử nên được thừa hưởng vẻ nhí nhảnh, trẻ trung, đáng yêu. Bởi vậy dù Huỳnh Anh nhỏ hơn 2 tuổi cũng không hề có sự chênh lệch tuổi tác giữa cặp đôi này.

Ly do Huynh Anh va Hoang Oanh cu dinh lay nhau hinh anh 2
Cung hoàng đạo của cặp đôi này có những khác biệt dẫn đến những mâu thuẫn nhưng họ luôn thẳng thắng trao đổi tháo gỡ vấn đề

Mặc dù có rất nhiều điểm chung, dễ dàng thấu hiểu nhau nhưng Bảo Bình và Thiên Bình vẫn không tránh khỏi những mâu thuẫn. Thiên Bình thường có xu hướng lãng mạn hóa tình yêu. Bởi vậy trong chuyện tình cảm Hoàng Oanh không đòi hỏi Huỳnh Anh phải trợ cấp tài chính cho cô, nhưng sẽ vô cùng buồn bã nếu người yêu không quan tâm mình.

Trong khi đó Bảo Bình đôi khi lại hơi vô tâm, mải việc riêng không thể để ý đến bạn gái mọi lúc, mọi nơi. Thêm nữa Thiên Bình là người tình cảm trong khi Bảo Bình lại khá vô tâm, thích sự thoải mái. Trong thực tế thì Hoàng Oanh là người tình giàu tình cảm, tỉ mỉ, để ý đến từng lời ăn tiếng nói và luôn chăm chút cẩn thận cho mọi mối quan hệ. Trong khi đó Huỳnh Anh lại khá ngẫu hứng, thích tự do, không muốn bị ràng buộc nhiều. Những điểm khác biệt này cũng đã khiến hai người giận dỗi nhau nhiều lần. Tuy nhiên hai bên đã chọn biện pháp trao đổi thẳng thắn để thấu hiểu mong muốn của nhau.
 
Mỗi người nhường nhau một chút chính là bí quyết cho mối quan hệ tốt đẹp giữa Huỳnh Anh và Hoàng Oanh cũng như mọi mối quan hệ khác.

ST.
Báo động những chòm sao trắc trở tình duyên trong tháng 11 Đừng dại chọc vào 3 chòm sao khó tính nhất tháng 11 Toát mồ hôi khi chinh phục 3 chòm sao nữ cao thủ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý do Huỳnh Anh và Hoàng Oanh cứ dính lấy nhau

Xem tướng số chọn chồng giàu sang –

Xem tướng số là một trong những yếu tố quyết định vận mệnh tương lai, vì thế hãy chọn cho mình những ngưới có tướng số phúc đức để đồng hành trong cuộc đời. Tướng số biểu hiện rõ nhất là trên khuôn mặt đặc biệt là gò má. Gò má (lưỡng quyền) cùng với

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng số là một trong những yếu tố quyết định vận mệnh tương lai, vì thế hãy chọn cho mình những ngưới có tướng số phúc đức để đồng hành trong cuộc đời. Tướng số biểu hiện rõ nhất là trên khuôn mặt đặc biệt là gò má.

Gò má (lưỡng quyền) cùng với mũi là các bộ vị quan trọng đại diện cho quan hệ xã hội của 1 người. Về cơ bản, lưỡng quyền cân đối, đầy đặn, tròn, bóng mượt được coi là tốt; nếu cao, lộ cốt (nhọn), bằng hoặc khuyết là xấu. Sau đây hãy xem tướng cùng ## về 1 số dạng gòa má (lưỡng quyền) cơ bản:

1. Lưỡng quyền lớn

image_40991_l1

Là người tinh lực dồi dào, thân thể cường tráng; ngay từ nhỏ đã tỏ ra rất mạnh mẽ, cá tính, thậm chí có phần ngỗ ngược.

2. Lưỡng quyền nhỏ

image_40994_l2

Là người bảo thủ, thường có thái độ tiêu cực nhưng lại nhút nhát; nếu lưỡng quyền bên phải to hơn bên trái thì chủ nhân thường gặp bất lợi trong sự nghiệp.

3. Lưỡng quyền cao

image_40996_l3

Theo nhân diện học, mé bên trong lưỡng quyền (phía gần mũi) thể hiện sức chú ý, vùng giữa trán đại diện cho khả năng phòng vệ, mé ngoài (dưới đuôi mắt) biểu thị cho tinh thần tranh đấu. Vì vậy, người có lưỡng quyền cao (hình A) thường rất tích cực, có ý chí phấn đấu. Nếu lưỡng quyền cao và nhọn (hình B) thì lại là người hung hăng, bất nghĩa. Nếu kèm theo cằm nhọn thì chủ nhân là người xấu, không nên kết giao bạn bè.

4. Lưỡng quyền thấp

image_40997_l4

Là người không có dũng khí, thiếu quyết đoán, khó hòa đồng.

5. Lưỡng quyền đầy đặn

image_40998_l5

Là người có ý chí kiên cường, tinh thần phấn đấu cao, có năng lực ứng phó; nữ giới sẽ là tướng vượng phu (giúp ích cho chồng trong sự nghiệp và cuộc sống).

6. Lưỡng quyền ngang lồi ngoài

image_40999_l6

Người này thường mang tư tưởng phá hoại, bảo thủ, dễ thù hận và có phần kiêu ngạo; nếu là nữ giới thường khắc chồng.

7. Lưỡng quyền mỏng

image_41000_l7

Chủ nhân có thể chất và tinh thần yếu kém; thường mang tư tưởng bi quan, tiêu cực, thiếu ý chí vươn lên trong cuộc sống; dễ bị người khác ức hiếp; gia cảnh thuở nhỏ khó khăn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng số chọn chồng giàu sang –

Ngó qua những con giáp vượng đào hoa vận nhất

Đào hoa vận là điều nhiều người khao khát song cũng có người tránh xa, tuy nhiên không thể phủ nhận rằng 4 con giáp sau có đào hoa vận nhất trong 12 con giáp.
Ngó qua những con giáp vượng đào hoa vận nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đào hoa vận là điều nhiều người khao khát song cũng có người tránh xa, tuy nhiên không thể phủ nhận rằng 4 con giáp sau có đào hoa vận nhất trong 12 con giáp.


Ngo qua nhung con giap vuong dao hoa van nhat hinh anh
 
Hạng 1: Tuổi Mão

Ngo qua nhung con giap vuong dao hoa van nhat hinh anh 2
 
Người tuổi Mão yêu nghệ thuật, tính cách ôn hòa. Nữ mệnh đặc biệt dịu dàng ít nói và thiện lương; nam mệnh khiêm tốn, hiểu lễ nghĩa, hài hước và có trách nhiệm. Chính vì tính cách tốt của mình, mệnh chủ thường nhận được sự yêu thích và quý mến của mọi người, đặc biệt là người khác giới. Theo tử vi, đó chính là dấu hiệu của đào hoa vượng.
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Đinh Sửu
Tử vi trọn đời người sinh ngày Đinh Sửu thấy có khả năng thuyết phục nhưng thiếu tính kiên trì, không thích hợp kinh doanh. Hôn nhân của mệnh chủ không đầm ấm,

Hạng 2: Tuổi Dậu


Ngo qua nhung con giap vuong dao hoa van nhat hinh anh 3
 
Mệnh trụ năm Dậu được chia thành hai thái cực rõ tàng: một là thích chuyện phiếm, huênh hoang khoác lác và đặc biệt nóng tính; còn lại là người có năng lực nhìn thấu sự việc, quan sát sắc mặt người khác, thích đoán tâm ý đối phương. Tuy nhiên, họ đều có điểm chung là bản tính yêu thích cái đẹp, giỏi giao tiếp, hay chăm sóc người khác giới  và biết cách chăm chút vẻ ngoài bản thân. Vậy nên, thật không có gì lạ khi họ không thiếu người theo đuổi và mến mộ.
Hạng 3: Tuổi Mùi

Ngo qua nhung con giap vuong dao hoa van nhat hinh anh 4
 
Con giáp Mùi ôn nhu, thiện lương, quan tâm người khác. Trên phương diện tình cảm, họ là người chất phác, hết lòng vì tình yêu. Mệnh chủ luôn hy vọng nhận được sự chú ý và khen ngợi của người khác giới nên luôn cố gắng hoàn thiện bản thân về ngoại hình lẫn nội tâm. Đồng thời, tính cách đa tình của họ đã mang đến không ít đào hoa cho bản thân.
Hạng 4: Tuổi Ngọ

Ngo qua nhung con giap vuong dao hoa van nhat hinh anh 5
 
Là con giáp xếp hạng 4 về vận đào hoa, hôn nhân và tình cảm của người tuổi Ngọ tương đối ổn định, trong cuộc sống thì hiếu thuận với cha mẹ, yêu thương vợ con. Tuy nhiện, đào hoa vận của họ chủ yếu là do tính cách lãng mạn tự do, không dè dặt và sức sống dồi dào.
=> Xem tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngó qua những con giáp vượng đào hoa vận nhất

Vòng tay phong thủy có ý nghĩa gì? –

Trang sức được làm bằng đá phong thủy là một trong những loại linh vật phong thủy được con người tin dùng. Đá phong thủy có thể làm được rất nhiều kiểu trong đó có đồ trang sức, vòng tay, vòng cổ, nhẫn... Có rất nhiều người rất thích đeo trang sức vò

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trang sức được làm bằng đá phong thủy là một trong những loại linh vật phong thủy được con người tin dùng. Đá phong thủy có thể làm được rất nhiều kiểu trong đó có đồ trang sức, vòng tay, vòng cổ, nhẫn… Có rất nhiều người rất thích đeo trang sức vòng tay phong thủy. Vậy vòng tay phong thủy có ý nghĩa gì? Người ta nói những người thích đeo vòng tay phong thủy được cho là có “thiện căn”, có nhân duyên lớn với Phật từ vô thủy kiếp đến nay. Trong các ghi chép, Phật đã dạy rằng “Nếu như có người tay cầm chuỗi hạt này, không thể theo lệ niệm tụng danh hiệu Phật và Đà la ni, nhưng có thể cầm tay hoặc mang bên mình lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Những lời được nói ra lúc thiện lúc ác, người này nếu như cầm chuỗi hạt trên tay, sẽ đắc công đức, nếu như niệm chư Phật, tụng chú, được phúc vô lượng”.

Nội dung

  • 1 Khởi nguồn của vòng tay phong thủy
    • 1.1 Truyền thuyết kể rằng
  • 2 Chủng loại của vòng tay phong thủy
  • 3 Màu sắc của vòng tay phong thủy
  • 4 Vòng tay phong thủy có cần khai quang điểm nhãn không
  • 5 Bảng ngũ hành tương sinh, tương khắc
  • 6 Xử lý khi vòng tay phong thủy bị đứt dây

Khởi nguồn của vòng tay phong thủy

Vòng tay phong thủy khởi nguồn từ Phật giáo, còn gọi là niệm châu, sổ châu, tràng hạt hay Phật châu. Người tu hành coi đây là pháp cụ dùng để xưng danh niệm Phật và trì chú. Vòng tay phong thủy trong tiếng Phạm gọi là “mala”, nghĩa là tràng, chuỗi.

Truyền thuyết kể rằng

Trong lần đi qua nước Cao Ly (nay là Triều Tiên), Phật nói với vua Ba Lưu Ly rằng “nếu nhà vua muốn diệt phiền não, báo chướng, hãy xâu chuỗi tràng 108 hạt và mang bên mình. Chuyên tâm niệm Phật khi dùng tay lần hạt. Sau này, thân tâm ắt không tán loạn, cõi lòng thanh tịnh, an lạc, chết đi được đầu sinh lên cõi Diệm Thiên thứ ba”.

Nhà vua nghe lời Phật thực hành một thời gian, thấy vô cùng hiệu nghiệm, cõi lòng vô cùng an lạc, bèn tạ ơn đức Phật và ban lệnh làm thêm 1000 chuỗi hạt, ban cho lục thân quốc thích mỗi người một chiếc, khuyên bảo ngày ngày làm theo lời Phật dạy.

Câu chuyện này được ghi chép trong Mộc hoạn tử kinh, đây chính là nguồn gốc xưa nhất của niệm châu trong Phật giáo, vòng tay phong thủy được sử dụng ngày nay cũng bắt nguồn từ truyền thuyết đó.

Bằng cách đó, cùng với sự phát triển của Phật giáo, vòng tay phong thủy đã được lưu truyền rộng rãi ở nhiều quốc gia, ban đầu được sử dụng làm pháp cụ tu hành trong giới tăng nhân, sau được truyền tới tầng lớp vua chúa, quan lại, rồi phổ biến rộng rãi ở mọi tầng lớp xã hội.


Chủng loại của vòng tay phong thủy

Nhiều người khi tìm mua và sử dụng vòng tay phong thủy, thường quan tâm tới số lượng hạt. Trong ghi chép của Phật giáo, vòng có hai hình thức, thường nhìn thấy là loại 18 hạt. Ngoài ra còn có loại không có số hạt nhất định, lấy kích thước của cổ tay để xác định số hạt. Vòng phong thủy phần lớn được làm từ chất liệu quý hoặc màu sắc đẹp.

Những người thích đeo vòng tay phong thủy được cho là có “thiện căn”, có nhân duyên lớn với Phật từ vô thủy kiếp đến nay. Trong các ghi chép, Phật đã dạy rằng:

“Nếu như có người tay cầm chuỗi hạt này, không thể theo lệ niệm tụng danh hiệu Phật và Đà la ni, nhưng có thể cầm tay hoặc mang bên mình lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Những lời được nói ra lúc thiện lúc ác, người này nếu như cầm chuỗi hạt trên tay, sẽ đắc công đức, nếu như niệm chư Phật, tụng chú, được phúc vô lượng”.

Vòng phong thủy phần lớn được dùng những chất liệu trân quý phổ biến như thạch anh, phỉ thúy, san hô, hổ phách… hay đặc biệt hơn như đá mặt trăng, đá mặt trời, diopside, lapis lazuli… Màu sắc của hạt vòng phải trong, sáng bóng, ôn nhuận và tế nhị. Đường kính của hạt cần phải cân bằng, đồng đều, tuyệt đối không được méo mó hay có sai khác lớn.


Màu sắc của vòng tay phong thủy

Nếu xét theo quan điểm Phật giáo, màu sắc của chiếc vòng thường căn cứ theo mùa, thời tiết hay môi trường sống, miễn sao cho phù hợp, thoải mái là được. Ví dụ, mùa hạ thì nên chọn vòng làm bằng đá quý như thạch anh, mã não, phỉ thúy, san hô… mang lại cảm giác mát mẻ. Trái lại, mùa đông nên chọn vòng tay làm bằng hổ phách, lapis lazuli hoặc đá kyanite…

Tuy nhiên, ngày nay chúng ta có thể vận dụng lý thuyết màu sắc tương sinh, tương hợp trong phong thủy vào việc lựa chọn màu sắc. Như vậy, chiếc vòng mang trên tay sẽ vừa mang ý nghĩa của đạo Phật như một vật bảo hộ, vừa tuân thủ theo lý thuyết phong thủy mang lại vận may, thu hút tài lộc.

Như người mệnh Hỏa nên đeo vòng màu xanh (hành Mộc) để được tương sinh, hoặc màu đỏ (hành Hỏa) để được tương hợp. Ngược lại, nên tránh đeo màu xanh nước biển, màu đen (hành Thủy) vì Thủy khắc Hỏa.

Người mệnh Thổ nên đeo vòng màu đỏ, tím, cam (hành Hỏa) để được tương sinh, hoặc màu nâu, vàng (hành Thổ) để được tương hợp. Ngược lại, nên tránh đeo màu xanh lá (hành Mộc) vì Mộc khắc Thổ và màu xanh nước biển (hành Thủy) vì Thổ khắc Thủy.

Người mệnh Kim nên đeo vòng màu nâu, vàng (hành Thổ) để được tương sinh, hoặc màu trắng, xám (hành Kim) để được tương hợp. Ngược lại, tránh đeo màu đỏ, cam, tím (hành Hỏa) vì Hỏa khắc Kim và màu xanh lá (hành Mộc) vì Kim khắc Mộc.

Người mệnh Thủy nên đeo vòng đá phong thủy màu trắng, xám (hành Kim) để được tương sinh, hoặc màu đen, xanh nước biển (hành Thủy) để được tương hợp. Ngược lại, tránh đeo màu nâu, vàng (hành Thổ) vì Thổ khắc Thủy và màu đỏ, tím, cam (hành Hỏa) vì Thủy khắc Hỏa.

Tương tự như vậy, người mệnh Mộc nên đeo vòng đá phong thủy màu xanh nước biển (hành Thủy) để được tương sinh, hoặc màu xanh lá (hành Mộc) để được tương hợp. Ngược lại, tránh đeo màu trắng, xám (hành Kim) vì Kim khắc Mộc và màu nâu, vàng (hành Thổ) vì Mộc khắc Thổ.

Ngoài ra, có một số loại đá có màu đa sắc như tourmaline, superseven hay đặc biệt như ruby có thể được dùng đeo cho tất cả các mệnh.

Vòng tay phong thủy có cần khai quang điểm nhãn không

Có nhiều người cho rằng, vòng tay phong thủy nếu làm từ vật liệu quý như đá quý, không cần khai quang điểm nhãn. Bởi vì bản thân trong đá có khí trường mạnh, có tác dụng kích phát vận khí của con người. Điều này, xét về mặt phong thủy thì hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, cần xét hai trường hợp như sau:

Sản phẩm bạn mua về đã được sử dụng bởi một người nào đó trước khi đến tay bạn.

Sản phẩm được chế tác và làm mới hoàn toàn.

Trong trường hợp một chiếc vòng đã qua tay, sự linh ứng không còn tốt nữa. Nhất định phải khai quang.

Trong trường hợp thứ hai, nếu được thì nên khai quang vì vật cần có chủ, khí cần có định. Khai quang chính là khai mở khí đó định vào một người cụ thể.

Việc khai quang không khó, tuy nhiên chúng ta nên tới nhờ các thầy có y đức, tăng ni xuất gia hoặc các cư sỹ. Bởi họ ăn chay niệm phật nên sự linh ứng rõ ràng.

Bảng ngũ hành tương sinh, tương khắc

Tương sinh Tương hợp Màu khắc chế Màu bị khắc chế
Mệnh Kim Vàng, nâu đất Trắng, xám Xanh lá cây Đỏ, cam, tím
Mệnh Mộc  Đen, xanh nước biển Xanh lá cây Vàng, nâu đất Trắng, xám
Mệnh Thủy Trắng, xám Đen, xanh nước biển Đỏ, cam, tím Vàng, nâu đất
Mệnh Hỏa Xanh lá cây Đỏ, cam, tím Trắng, xám Đen, xanh nước biển
Mệnh Thổ Đỏ, cam, tím Vàng, nâu đất Đen, xanh nước biển Xanh lá cây

Xử lý khi vòng tay phong thủy bị đứt dây

Khi dây xâu vòng tay phong thủy bị đứt, nhiều người nhầm lẫn cho rằng, là điềm báo không tốt. Kỳ thực, đây là kiến giải sai lầm. Chúng ta nên biết rằng, bất cứ vật phẩm nào, sử dụng lâu ngày, đều không tránh khỏi bị mài mòn và đứt vỡ. Cho nên, khi dây xâu chuỗi tràng hạt bị đứt, không phải là chuyện lạ. Cuộc đời vốn dĩ đầy những hiện tượng vô thường, con người không tránh khỏi sinh, lão, bệnh, tử, vạn vật có tồn tại ắt có mất đi, có bắt đầu phải có kết thúc. Do đó, nếu dây xâu vòng tay phong thủy bị đứt, chỉ cần đổi một cái dây mới là có thể tiếp tục sử dụng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vòng tay phong thủy có ý nghĩa gì? –

Tài lộc của người tuổi Sửu theo từng tháng (P1)

Tháng Dần, người tuổi Sửu gặp phải một số trở ngại nhỏ. Tuy nhiên, xét trong phạm vi nào đó, họ vẫn có được sự phát triển thuận lợi trong công việc. Người này
Tài lộc của người tuổi Sửu theo từng tháng (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 1

nên cố gắng hơn nữa, bình tĩnh xử lý mọi việc. Mặt khác, họ cũng nên cẩn trọng trong vấn đề tài chính để tránh mất mát.

Tháng 2

Tài lộc của người tuổi Sửu trong tháng Mão có xu hướng tốt lên. Nguồn thu nhập chính ổn định, thu nhập phụ tăng. Tuy nhiên, họ vẫn nên thận trọng trong việc quản lý tài chính cũng như đầu tư làm ăn.

Tháng 3

Trong tháng Thìn, người tuổi Sửu có sao tốt chiếu mệnh nên mọi vận xấu đều được hóa giải. Họ nên nắm bắt cơ hội, nhờ cậy người thân giúp đỡ để hiệu quả cao trong công việc. Ngoài ra, họ nên điều chỉnh chi tiêu cho hợp lý, tích trữ tiền bạc để phòng cuối tháng có thể gặp trở ngại.
   

tuoi ty (4)
 

Tháng 4

Tháng Tỵ, vận thế của người tuổi Sửu lại bấp bênh như hồi tháng 2, công việc không ổn định, đôi khi gặp phải những rắc rối khó giải quyết. Họ có một vài cơ hội kiếm được nhiều tiền nhưng nguy cơ rủi ro lại cao. Tốt nhất, người này nên thận trọng trong mọi hành động, chú ý đến sự thay đổi của hoàn cảnh. Họ phải cắt giảm chi tiêu cho hợp lý bởi tháng này có nhiều khoản chi ngoài dự kiến.

Tháng 5

Vận thế trong tháng Ngọ của người tuổi Sửu có tốt hơn so với tháng trước. Những khó khăn, trở ngại dần được giải quyết ổn thỏa. Nguồn thu nhập tăng lên đáng kể. Nếu biết chớp thời cơ, họ sẽ gặt hái được nhiều thành công trong công việc. Điều quan trọng là họ cần đặt ra những kế hoạch cụ thể cho công việc, đồng thời cần cố gắng, nỗ lực làm việc tốt hơn nữa.

Tháng 6

Vận thế của người tuổi Sửu trong tháng Mùi lại có chiều hướng xấu đi do Sửu - Mùi tương xung. Do có sao dữ chiếu mệnh nên họ gặp phải những khó khăn ngoài dự kiến. Người này nên cảnh giác với đồng nghiệp. Thời gian này, người tuổi Sửu cần bình tĩnh trước mọi việc, phải suy xét thật kỹ trước khi hành động. Hơn nữa, họ cần biết "chọn bạn mà chơi" để tránh những thiệt hại không đáng có.

(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tài lộc của người tuổi Sửu theo từng tháng (P1)

Mơ thấy trái cây: Khám phá ý nghĩa các loại quả trong giấc mơ (P2)

Bạn sẽ có con trai nếu bạn thấy mình hái quả trong giấc mơ gần đây. Tuy nhiên, giấc mơ thấy quả còn xanh lại là điều không ai mong đợi; bởi đó là điềm báo sắp
Mơ thấy trái cây: Khám phá ý nghĩa các loại quả trong giấc mơ (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  có chuyện không vui xảy ra với bạn.


► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát theo tâm linh

Dưa
Thấy những quả dưa trong mơ biểu thị cho sức khỏe của bạn không tốt cùng những trở ngại, rủi ro mà bạn có thể sẽ gặp phải trong thỏa thuận kinh doanh.
 
Nếu mơ thấy mình đang ăn dưa thì bạn cần chú ý điều chỉnh tính cách của mình, bởi giấc mơ này ám chỉ rằng sự vội vàng là nguyên nhân dẫn đến những sai sót trong công việc. Thấy những quả dưa trên cây biểu thị cho những vấn đề khó giải quyết hiện nay của bạn sẽ mang tới kết quả khả quan về sau.    Mơ thấy có người mang dưa đến tặng mình thường là điềm sắp bị hao tốn tài sản. Nhưng mơ thấy mình gánh dưa đi bán thường là điềm bạn tìm được việc làm như ý.
 
Thấy dưa chua trong mơ tượng trưng cho điều lo lắng, sự sợ hãi hoặc khó khăn nào đó mà bạn gặp trong cuộc sống. Ngoài ra, một miếng dưa chua có thể được xem là biểu tượng của dương vật.   Những trưa nắng mùa hè oi ả, nếu bạn được ăn một miếng dưa hấu thì còn gì tuyệt bằng. Dưa hấu xuất hiện trong giấc mơ là tượng trưng cho cảm xúc về tình yêu và khát vọng, sự đam mê mãnh liệt của bản thân.
Dứa

Kham pha y nghia cac loai qua trong giac mo hinh anh
Mơ thấy dứa là sắp thành công

Mơ thấy dứa là một giấc mơ may mắn biểu thị sự thành công.    Việc mơ thấy mình đang ăn dứa biểu thị sự thành đạt trong đời sống xã hội.    Nếu trong giấc mơ, bạn thấy mình uống nước dứa, điều này ám chỉ sự thành công trong công việc.    Mơ thấy mình trồng hoặc thu hoạch dứa có ý nghĩa báo hiệu những tin vui trong tình yêu.

Dừa

Thấy một quả dừa trong mơ báo trước rằng bạn sẽ nhận một món tiền bất ngờ. 

Quả hạnh

Thấy những quả hạnh trong mơ, ám chỉ rằng sau giai đoạn ngắn buồn phiền và đau khổ, bạn sẽ khá hơn. Bạn sẽ có thời gian rồi để suy ngẫm.
 
Mơ thấy đang ăn những quả hạnh tươi, báo trước rằng bạn sẽ có nhiều thành công và tài lộc.
 
Thấy một cây hạnh trong mơ tượng trưng cho hạnh phúc. Niềm vui sướng nhất sẽ đến với bạn trong tương lai gần.

Quả lựu

Kham pha y nghia cac loai qua trong giac mo hinh anh 2
Mơ thấy lựu là sức khỏe tốt

Thấy những quả lựu trong mơ tượng trưng cho khả năng sinh sản, sức khỏe tốt và tuổi thọ. Nó cũng có thể chị sự đam mê, mời gọi của tình dục.

Quýt
Chiêm bao thấy mình ăn quýt là điềm báo về những khó khăn trong tình duyên.    Tuy nhiên, giấc mơ có người đem quýt đến cho mình là điềm báo làm ăn phát đạt.    Mơ thấy có cây quýt mọc trong nhà là điềm báo bạn sắp sinh quý tử. 
 
  Chiêm bao thấy mình mua quýt về trồng là điềm báo dự tính của bạn sẽ thành công.  

(còn nữa)
Tổng hợp



 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy trái cây: Khám phá ý nghĩa các loại quả trong giấc mơ (P2)

Bạn và người ấy có tướng phu thê không, soi ngay những điểm này

Tướng phu thê là điều vô cùng kì lạ trong nhân tướng học, khi mà hai vợ chồng có những nét tương tự nhau về khuôn mặt. Cùng xem những nét tướng nào thể hiện
Bạn và người ấy có tướng phu thê không, soi ngay những điểm này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tướng phu thê nhé.   Tướng phu thê là một trong những nét tướng rất đặc biệt trong nhân tướng học. Người ta thường chỉ hiểu đơn giản tướng phu thê là hai vợ chồng có tướng mạo có nhiều điểm tương đồng hoặc có nhiều nét tương tự nhau.   Tuy nhiên, nếu bạn bỏ thời gian quan sát những cặp vợ chồng được coi là có tướng phu thê, so sánh những đặc điểm trên ngũ quan của họ thì bạn sẽ phát hiện ra, phần lớn những cặp vợ chồng đó không hề có ngũ quan giống nhau.    Kì thực, có thể đánh giá được tướng phu thê qua những đặc điểm sau đây, cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu ngay nhé.  

1. Gương mặt trái xoan dài

  Đây là một trong những nét tướng để đánh giá hai người có tướng phu thê hay không. Khuôn mặt hơi dài, cằm nhọn ra rõ ràng, đó chính là khuôn mặt thường gặp ở những cặp đôi có tướng phu thê. Hai con người dù xa lạ nhưng nếu có đặc điểm hình dáng khuôn mặt tương đồng như này thì chỉ cần gặp gỡ là họ sẽ nhanh chóng rơi vào lưới tình.

tuong phu the qua nhung net nay
 
  Người đàn ông có tướng khuôn mặt như trên thường có nội tâm phong phú, tình cảm dạt dào, cũng rất biết cách thể hiện tình cảm và suy nghĩ của bản thân. Họ là những người giỏi xã giao, cũng có nhiều bạn bè, đối tác làm ăn là nữ giới.   Cặp đôi có tướng khuôn mặt hình trái xoan nếu nên duyên thì cuộc sống sẽ vô cùng hạnh phúc, bên nhau ân ái tới già. Tình cảm bền lâu, họ chẳng bao giờ tranh cãi đến mức không nhìn mặt nhau, hai người nhường nhịn và quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Càng bên nhau lâu, họ càng thêm thấu hiểu và chia sẻ, tình yêu luôn nồng thắm như thủa ban đầu.  

2. Tỷ lệ Tam đình tương đương nhau

  Những người am hiểu về nhân tướng học đều biết trên khuôn mặt con người được chia làm ba phần, gọi là Tam đình, gồm 3 phần: từ trán xuống lông mày, từ lông mày xuống mũi, từ mũi xuống cằm. Mỗi một phần này đều sẽ tương ứng với vận thế của con người trong từng giai đoạn cuộc đời.

nhung net tuong phu the
 
  Nếu bạn và người ấy có tỷ lệ Tam đình tương đương nhau thì chắc chắn sẽ có những trải nghiệm khá giống nhau, quá trình trưởng thành cũng có nhiều điểm tương đồng. Hai người có nền tảng cuộc sống giống nhau, có chung sở thích và ước mơ, còn nghi ngờ gì nữa, hai bạn chính là có tướng phu thê.   Tính cách giống nhau, quan điểm sống tương đồng, chỉ cần gặp gỡ là tình cảm sẽ trào dâng như cuộn sóng, mức độ tăng tiến trong vận trình tình cảm cũng cực kì nhanh. Tình yêu tăng tốc, đốt cháy giai đoạn, nhưng không vì thế mà thiếu đi sự ngọt ngào lãng mạn, thậm chí họ còn có thể dành cho nhau tình cảm dạt dào nồng thắm, sẵn sàng hy sinh vì đối phương.  

3. Một người mắt to, một người mắt nhỏ

  Điều này có nghĩa là tướng phu thê ở hai người được thể hiện qua đôi mắt, trong đó một người có đôi mắt khá nhỏ, mà người kia mắt lại to. Cặp đôi có tỷ lệ đôi mắt chênh lệch nhau lớn, ngược lại là tướng trời sinh một cặp. Tính cách hai người có thể có nhiều khác biệt, song lại bổ sung khá nhiều cho nhau. Giữa họ có một lực hút vô hình, hai người cùng cuốn hút nhau, chính vì thế mới gọi là tướng phu thê.

nhan tuong hoc tiet lo tuong phu the
 
  Đàn ông mắt nhỏ tính tình trầm ổn, mạnh mẽ, có khả năng quan sát vô cùng tốt, cho đối phương có cảm giác an toàn. Còn những cô gái với đôi mắt to tính cách vui vẻ hòa đồng, vô cùng quyến rũ với người khác giới. Sự kết hợp giữa hai người này quả là hoàn hảo. Họ không vì tính cách trái ngược nhau mà nảy sinh mâu thuẫn, ngược lại còn rất tôn trọng sự khác biệt của nhau. Cặp đôi mắt to – mắt nhỏ này thậm chí còn được coi là tướng phu thê vô cùng tốt, là cặp vợ chồng hoàn hảo, chẳng gì có thể tách rời.
Thiên Thiên

Soi đặc điểm chỉ ra bạn và người ấy có tướng phu thê từ kiếp trước Tướng phu thê: Song Joong Ki và Song Hye Kyo đều có

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn và người ấy có tướng phu thê không, soi ngay những điểm này

Sinh năm 1980 là mệnh gì –

Người sinh năm 1980, Canh Thân, có Ngũ hành năm sinh là Thạch Lựu Mộc (gỗ cây lựu) Nhưng mệnh cung của nam giới khác với của nữ giới. Cho việc lựa chọn màu đá hợp mệnh, cần lựa chọn theo Mệnh Cung, và cần phải theo đúng giới tính cho phù hợp với quy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

luật của ngũ hành.

Mặc dù đá quý loại nào cũng toả ra năng lượng tốt cho người dùng. Nhưng người đeo trang sức đá hợp với ngũ hành thì sẽ đem lại sức khoẻ, may mắn và hưng vượng cho người đeo.

5.jpg

Cho nam giới: thuộc cung Khôn, mệnh Thổ, hợp nhất với hướng Tây Nam.

Màu đá và loại đá nên lựa chọn:

– Để được tương sinh, lựa chọn màu đỏ, hồng, tím. Vì Hỏa sinh Thổ. Các loại đá: ruby, garnet, mã não đỏ, rhodolite, spinel, tourmalin, sapphire, thạch anh hồng, thạch anh tím, tanzanite, Iolite.

– Để được tương hợp, lựa chọn màu nâu đất, vàng sậm. Các loại đá: Citrine, mắt hổ, mã não.

Trang sức đá quý hợp mệnh, để xem tiếp bạn vui lòng nhấp chuột vào nhẫn nam:

Cho nữ giới, thuộc cung Tốn, mệnh Mộc, hợp nhất với hướng Đông Nam.

– Để được tương sinh, lựa chọn màu vàng đen, xanh nước biển, xanh da trời vì Thủy sinh Mộc, các loại đá: Onyx, tourmaline đen, spinel đen, sodalite, topaz, aquamarine, kyanite.

– Để được tương hợp, lựa chọn màu xanh lá cây, có các loại đá: aventurine, peridot, emerald, sapphire, tourmalin.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sinh năm 1980 là mệnh gì –

Có nên mở cửa vào ngày có trăng?

Theo phong thủy, nếu ngày rằm trời nắng, hãy thu hút năng lượng dương tươi mới bằng cách mở các cửa ra vào và cửa sổ.
Có nên mở cửa vào ngày có trăng?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Xem lịch phong thủy

Xem lịch phong thủy để biết ngày trăng mới xuất hiện. Vào ngày đó, bạn hãy mở cửa ra vào và cửa sổ của mọi căn phòng.

+Nếu ngày hôm đó trời nắng, năng lượng của 30 ngày kế tiếp sẽ tươi sáng và tràn đầy khí dương.

+Nếu ngày đó âm u và nhiều mây, viễn cảnh sẽ không mấy hứa hẹn do có nhiều năng lượng âm.

+Ngày trăng tròn được xem là điềm tốt bởi đó là ngày có năng lượng dương chiếm ưu thế.

2. Dùng nhang thu hút năng lượng

– Khi bạn thực hiện nghi thức này để dẫn khí của vũ trụ vào nhà, không gian sống sẽ được thường xuyên làm sạch và tinh khiết trở lại. Ngoài ra, bạn cũng có thể dùng nhang để cung cấp năng lượng cho ngôi nhà.

– Điều này không chỉ tăng cường sức mạnh của năng lượng tươi mới, mà còn đem lại nhiều lợi ích cho những gia đình trong đó có những thành viên luôn cảm thấy buồn chán hoặc phải chịu một loạt vận rủi. 

3. Trăng tròn và trăng khuyết

– Vào tối ngày đầu tiên của tuần trăng mới, bạn hãy chủ động mở hết cửa ra vào và cửa sổ để thu hút năng lượng tươi mới của mặt trăng vào nhà. Sau đó là 15 ngày trăng khuyết, khi sự cung cấp năng lượng trở nên yếu dần. 

Do đó, mở cửa vào ngày trăng rằm là một nghi thức tuyệt vời thực hiện vào mỗi diệp trăng mới xuất hiện giúp tăng cường năng lượng tươi mới vào nhà!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên mở cửa vào ngày có trăng?

Để dao kéo trong nhà không đúng cách, đừng hỏi tại sao hay gặp xui xẻo

Vì chủ quan hoặc thiếu hiểu biết mà đa phần chúng ta không biết cách cất dao kéo sao cho đúng, ảnh hưởng đến phong thủy và vận may của cả gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Bất cứ gia đình nào đều không thể thiếu những vật dụng để cắt gọt quen thuộc như kéo, dao nấu ăn, dao gọt trái cây hay đơn giản nhất là kềm cắt móng... Tuy nhiên vì chủ quan hoặc thiếu hiểu biết mà đa phần chúng ta không biết cách cất sao cho đúng, ảnh hưởng đến phong thủy và vận may của cả gia đình.

1. Dao kéo để lộ ra ngoài dễ thất thoát tiền bạc

Dao kéo hay những vật sắc bén nếu để lộ ra ngoài là thế phá tài. Cần lưu ý 2 trường hợp thường gặp nhất: một là những lúc không sử dụng, tuyệt đối không được để dao nằm trên thớt; hai là không nên cắm dao trong giá. Lưỡi dao cắm xuống hay cắm hướng lên đều mang ý nghĩa hung hiểm, gia đình dễ gặp tai nạn, tiền tài hay thất thoát. Dao đặt trên thớt được ví như "cá nằm trên thớt", gia chủ dễ rơi vào tình huống nguy hiểm, khó hóa giải.

Để dao kéo trong nhà không đúng cách, đừng hỏi tại sao hay gặp xui xẻo - Ảnh 1.

(Ảnh: Internet)

Cách tốt nhất để phòng tránh chính là nên cho dao kéo vào ngăn kéo hoặc ngăn tủ, đóng lại cẩn thận, mỗi cần sử dụng mới lấy ra.

2. Để dao kéo lung tung trong phòng ngủ, gia đình lục đục, bất hòa

Nhiều người mỗi lần sử dụng kéo hoặc kềm cắt móng chân đều có thói quen để lung tung. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tình cảm của các thành viên trong gia đình. Theo các chuyên gia phong thủy, việc để dao kéo trong nhà hỗn loạn sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc sinh nở, thường gặp nhất là 2 vợ chồng đều khỏe mạnh nhưng khó mang thai, mang thai dễ lưu sản hay con cái bị bệnh tật.

Không nên để dao kéo hay kềm cắt móng ở trong phòng ngủ, càng không được để ở gần đầu giường. Nhiều người vì an tâm nên để dao dưới gối để tránh ma quỷ hay ác mộng hoặc tránh những chuyện phiền não. Tuy nhiên việc này lại cực kỳ nguy hiểm. Xét về mặt khoa học, để dao kéo quá gần đầu nếu bất cẩn sẽ tự gây hại cho bản thân mình. Về phong thủy dao kéo sẽ cắt đứt vận may của mỗi người, khiến gia chủ làm gì cũng thất bại, lại bất lợi cho thai nhi, ảnh hưởng tình cảm vợ chồng.

3. Dao kéo để sai hướng ảnh hưởng đến quan hệ xã hội

Nếu trong năm tuổi của mình, bạn cảm thấy hay gặp xui xẻo, sức khỏe không tốt, các mối quan hệ xã hội cũng hay gặp trục trắc bất hòa, thì cũng đừng đổ lỗi vì đó là năm hạn. Cần kiểm tra lại xem dao kéo trong nhà bạn có đặt sai hướng hay không?

Nếu năm tuổi của mình mà bạn hay để dao ở hướng Bắc, hướng Tây hoặc hướng Đông Bắc thì rõ ràng bạn đang tự hãm hại bản thân mà không biết. Năm tuổi vốn đã là năm hạn của mỗi người, bạn lại bất cẩn để dao ở những hướng kị thì cái xấu cái xui lại càng nhân lên gấp nhiều lần.

4. Kềm cắt móng để trong túi xách, vận xui đeo bám không ngừng

Nhiều cô gái hay có thói quen mang theo lược, kềm cắt móng, kéo tỉa trong túi xách để tiện cho việc làm đẹp ở mọi nơi, mọi lúc. Theo phong thủy, mang những vật này theo người thường xuyên sẽ làm giảm vận may, tài lộc của bản thân. Thậm chí còn có thể khiến bạn hay gặp trục trặc trong cuộc sống, dễ tranh cãi với người xung quanh, hay mất tiền, mất đồ.


Để dao kéo trong nhà không đúng cách, đừng hỏi tại sao hay gặp xui xẻo - Ảnh 2.

(Ảnh: Internet)

Tốt nhất nên thu gom những vật dụng này cất ở nhà và hạn chế mang theo người. Còn nếu bạn vẫn muốn mang theo mình, vậy thì nên cho tất cả vào một chiếc hộp nhỏ hoặc một cái túi nhỏ, gói kín rồi mới bỏ vào túi xách.

5. Đừng tùy tiện để mũi dao, mũi kéo hướng về phía mình hay người khác

Mỗi lần sử dụng dao kéo, bạn cũng nên lưu ý: Tuyệt đối không hướng mũi dao hay mũi kéo về phía bản thân hay người khác. Đây vừa là phép lịch sự, vừa là sự cẩn thận để tránh những bất trắc xảy ra.

Đồng thời cũng nên kiểm tra xem các vật dụng này có để hướng về phía mọi người không. Mũi dao kéo hướng về người lâu dài sẽ sinh ra lo âu, nóng vội hay sợ hãi, ảnh hưởng đến cuộc sống và công việc của các thành viên trong nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Để dao kéo trong nhà không đúng cách, đừng hỏi tại sao hay gặp xui xẻo

Những nàng giáp dễ xiêu lòng vì lời đường mật

Lời nói ngọt ngào dễ nghe là những viên đạn bọc đường. Cùng xem trong số 12 con giáp thì cô nàng nào là người dễ tin người vì những lời đường mật nhất nhé.
Những nàng giáp dễ xiêu lòng vì lời đường mật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lời nói ngọt ngào dễ nghe là những viên đạn bọc đường, ai cũng biết có thể gây nguy hiểm nhưng chẳng thể từ chối được. Cùng xem trong số 12 con giáp thì cô nàng nào là người dễ tin người vì những lời đường mật nhất nhé.   “Đàn ông yêu bằng mắt, đàn bà yêu bằng tai”, có lẽ từ xưa phụ nữ đã dễ bị xiêu lòng vì những lời đường mật. Trong cuộc sống hàng ngày cũng vậy, chúng ta thường thích nghe những lời ngọt ngào chứ đừng nói gì đến trong tình yêu.   Vẫn biết “thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”, lời nói thật thường khó nghe nhưng mấy ai dám nói rằng mình chỉ thích nghe lời cay đắng, dù đó là sự thật đi chăng nữa.   Trong tình yêu lại càng không thể thiếu được những lời ngọt ngào đường mật mà đôi lứa hay rót vào tai nhau. Người ta nói yêu nhau mà chẳng thể cho nhau lời ngọt ngào thì có lẽ sẽ thiếu đi chút gì vị ngọt tình yêu. Song nếu chỉ nghe lời ngọt ngào mà sống thì đâu có được, bởi nó sẽ khiến ta sụp bẫy bất cứ lúc nào mà không biết.   Hôm nay, Lịch ngày tốt có vài lời nhắc nhở với 4 nàng giáp hoàn toàn không có sức đề kháng nào với lời đường mật yêu đương này. Cùng xem tử vi để biết đó là ai trong số 12 con giáp nhé.  

Tuổi Sửu

4 nang giap de xieu long vi loi duong mat
 

Con gái tuổi Sửu tuy có tiếng là những người cẩn thận, kĩ tính, song bản thân họ lại không biết cách biểu đạt cảm xúc của mình, không biết cách để nói lên những điều mình muốn nói. Đứng trước những lời ngọt ngào đường mật của đàn ông, cô nàng này vừa cảm thấy ngại ngùng, vừa thấy thích thú.    Dù lý trí đã nhắc nhở nhưng vẫn có những lúc nàng giáp ấy không thể nào cưỡng lại lòng mình mà tin tưởng vào những lời tán dương ấy. Vẫn biết như vậy là không tốt nhưng quả thực những lời đường mật quá dễ xiêu lòng, cả đời cô nàng nào có bao giờ nói được những lời như vậy, giờ lại được người khác nói cho nghe, chẳng biết phản ứng thế nào nhưng trong lòng đã ngầm tin rằng đó là sự thực.  

Tuổi Thìn

nang tuoi Thin thich tan duong
 
Những cô nàng được mệnh danh là “con gái rượu” của Rồng trước nay vẫn luôn được biết đến là những người cực kì lý trí và thực tế, cũng là một trong những cô nàng kiếm được nhiều tiền nhất trong số 12 con giáp. Mọi chuyện trong cuộc sống trước giờ luôn nằm trong tầm kiểm soát của nàng giáp này, dù là hành động hay lời nói của người khác cũng không thể khiến cho cô nàng đánh mất lý trí.   Nhưng ai cũng có điểm yếu của riêng mình, với nàng tuổi Thìn, điểm yếu đó chính là thích sự ngọt ngào mà không hề đề phòng những “viên đạn bọc đường”. Họ vẫn rất cảnh giác, chính vì thế mà những lời hoa lệ quá mức thì sẽ chẳng thể vượt qua được tường rào bảo vệ mà nàng giáp này dựng nên, song nếu biết điều chỉnh, chỉ cần nói dễ nghe một chút là trái tim sắt đá của cô nàng sẽ tự động mở cửa cho bạn bước vào, chẳng chút nghi ngờ mà tin tưởng đối phương vô điều kiện.  

Tuổi Thân

nang tuoi Than khong chong do duoc loi ngot ngao
 
Những cô gái sinh năm Thân có lòng tự tôn khá lớn, yêu cầu lớn nhất của họ đối với mọi người chính là phải tôn trọng mình. Chỉ cần đáp ứng được điều kiện đó, lại thêm vào những lời đường mật không ngừng rót bên tai thì bao nhiêu hàng rào giáp sắt của cô nàng này cũng trở nên vô dụng.   Cô nàng này rất dễ bị mềm lòng, vì đối phương ăn nói quá dễ nghe nên chỉ một hồi là lạc mất phương hướng, người ta nói gì cũng tin theo, người ta dắt đi đâu cũng chẳng chút nghi ngờ. Cô nàng tuổi Thân chỉ nhìn vào thái độ của đối phương, nếu họ đủ lịch sự thì nàng ta sẽ nhận định rằng đó là người tốt.  

Tuổi Hợi

co nang tuoi Hoi ngay tho de tin nguoi
 
Trong số 12 con giáp thì có lẽ cô nàng tuổi Hợi là người ngây thơ và dễ tin người nhất. Không phải họ ngốc nghếch dễ bị lừa mà cái chính là nàng giáp này trời sinh có tâm hồn thiện lương, không bao giờ nghĩ xấu hay nghi ngờ người khác. Lấy vợ tuổi Heo, tha hồ mà giữ, bởi họ như viên ngọc sáng trong giữa cả thế giới đảo điên này, khiến ai cũng muốn đoạt lấy về tay.   Trong con mắt họ, cả thế giới này đều là người tốt, chẳng ai muốn hại ai. Chính vì thế mà cô nàng tuổi Hợi thực sự không thể chống đỡ được những lời đường mật được đối phương cố ý nói với mình. Cho dù lời nói quá ngọt ngào khiến họ có đôi chút nghi ngờ, nhưng trái tim trong sáng sẽ lập tức lựa chọn tin tưởng người khác. Hãy sống lý trí hơn một chút bạn nhé. Tốt bụng là điều tốt, lạc quan yêu đời không phải là sai, nhưng đừng để kẻ xấu lợi dụng lòng tốt của mình.   Hy Vũ
Chia buồn với 4 con giáp này, bạn quá dễ lừa Những nàng giáp ghen tuông đến Hoạn Thư cũng phải dè chừng Những con giáp dễ mù quáng trong tình yêu
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nàng giáp dễ xiêu lòng vì lời đường mật

Xem tử vi cho người tuổi Thân mệnh Thủy

Người tuổi Thân mệnh Thủy là những người sinh năm Giáp Thân 1944, 2004... tính cách nhiệt tình và nhân ái.
Xem tử vi cho người tuổi Thân mệnh Thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Thân mệnh Thủy là những người sinh năm Giáp Thân 1944, 2004...

tuoi than menh thuy
 
Đây là người có tấm lòng nhân ái và rất nhiệt tình giúp đỡ mọi người. Trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau, họ luôn biết cách tạo ra tiếng cười để mọi người đều thấy vui vẻ.
Với công việc, họ luôn nhiệt tình và cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ mà cấp trên giao phó. Tuy nhiên, khi nhiệm vụ ấy vượt quá khả năng của mình, họ sẽ không làm. Điều này đôi khi khiến người khác đánh giá họ là người không biết giữ chữ tín.
  Đa số người tuổi Thân mệnh Thủy rất coi trọng việc giữ thể diện. Họ luôn muốn hình ảnh của mình thật đẹp trong mắt người khác. Tuy có đầu óc linh hoạt, giàu sức sáng tạo nhưng 1 số người lại thiếu thực tế.

Người tuổi Thân mệnh Thủy thường rất có ý chí phấn đấu và gây dựng sự nghiệp vững chắc. Họ cũng thường rất hào hứng với các hoạt động mang lại lợi ích cho cộng đồng.
 
Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, họ sẽ là người hiểu biết rộng, có nhiều cơ hội tốt trong sự nghiệp. Nếu không được sao tốt tương trợ, họ vẫn là những người có phúc, mỗi khi gặp hoạn nạn thì dữ sẽ hóa lành.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi cho người tuổi Thân mệnh Thủy

8 điều nên làm mỗi ngày để nạp đầy năng lượng

8 điều nên làm mỗi ngày để nạp đầy năng lượng. Không phải vấn đề là bạn là ai hay bạn làm gì – nếu bạn không có năng lượng, bạn không có cuộc sống. Sau đây là 8 điều bạn nên làm để nạp đầy năng lượng mỗi ngày.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không phải vấn đề là bạn là ai hay bạn làm gì – nếu bạn không có năng lượng, bạn không có cuộc sống. Sau đây là 8 điều bạn nên làm để nạp đầy năng lượng mỗi ngày.

1.Làm việc có ý nghĩa

Con người đã đặt ra câu hỏi “Ý nghĩa của cuộc sống là gì?” từ thời đại của Aristotle. Có một lý do vì sao những người tràn trề sức sống luôn làm việc hiệu quả hơn mà không cần phải cố gắng quá nhiều so với những nhân viên trung bình – đơn giản là do họ yêu công việc họ đang làm để kiếm sống và thứ tình yêu đó sản sinh ra năng lượng. Cho nên, nếu bạn không thích công việc của mình thì đây là thời điểm tốt để thay đổi chúng.

2.Ngủ đủ giấc

Giấc ngủ tác động đến bạn ở nhiều phương diện cuộc sống. Người luôn năng động giữ mức năng lượng của họ bằng cách ngủ ít nhất 7 đến 8 tiếng mỗi đêm. Phải tập cho mình thói quen ngủ đủ giấc và bạn sẽ trở thành người năng động.

3.Có thời gian biểu xen kẽ giữa nghỉ ngơi và hoạt động

Trong cuốn sách của mình, The Power of Full Engagement, tác giả Tony Schwartz và Jim Loehr mô tả một nghiên cứu mà họ tiến hành để tìm ra sự khác biệt giữa các vận động viên giỏi so với phần còn lại. Bạn biết họ tìm thấy những gì? Cách tốt nhất là dành chút thời gian ngắn để nghỉ ngơi. Thông thường, lý do vận động viên không giành được thành tích tốt nhất là do não mất tập trung. Một cầu thủ tennis không nghỉ ngơi sau set đấu sẽ không tập trung cao độ bằng đối thủ đã thông minh sử dụng những vài giây quý giá ấy để nghỉ ngơi giữ sức cho set tiếp theo.

4.Làm những gì cần thiết để ở “sạc” lại đầy năng lượng

Có ba điều nên làm để tiếp thêm sinh lực cho công việc và cuộc sống của bạn:
1. Năng lượng (ăn uống lành mạnh, ngủ đủ)
2. Tương tác (với những người trung thực xung quanh mình)
3. Ý nghĩa (công việc mang lại cho bạn sự hứng thú, làm bạn cảm thấy hạnh phúc, có ý nghĩa cho cả bạn và người khác)
Điều quan trọng là sức mạnh đến từ việc kết hợp ba thứ trên một cách thường xuyên. Khi bạn có thể làm điều đó, bạn sẽ trải nghiệm được cuộc sống tràn đầy năng lượng mà bạn mong muốn.

5.Ăn uống đầy đủ, cân bằng

Hầu hết mọi người nghĩ rằng ăn một bữa sáng thịnh soạn là một thói quen lành mạnh. Tôi không đồng ý với quan niệm này. Một bữa ăn sáng quá dồi dào khiến nguồn cung năng lượng tăng đột biến, nhưng sự chuyển hóa đồ ăn cũng tiêu hao năng lượng của bạn, khiến bạn cảm thấy uể oải và mệt mỏi.
Nên duy trì chế độ ăn cân bằng giữa các nguồn thực phẩm để cung cấp đầy đủ chất xơ, protein và các axit béo cần thiết để giữ cho bạn tràn đầy sinh lực và sự tập trung.

6.Tập thể dục thường xuyên

Những lợi ích của tập thể dục là rất nhiều và dài lâu. Có lẽ điều quan trọng nhất bạn có thể làm để trở nên mạnh mẽ hơn là bắt đầu tập thể dục thường xuyên. Một trong những lý do tập thể dục giúp tăng năng lượng của bạn là bởi vì nó làm tăng sự trao đổi chất của bạn và bơm máu đi khắp cơ thể. Nó thậm chí còn giúp tăng cường chức năng nhận thức. Nếu bạn muốn tham gia hàng ngũ của những người năng động nhất trên thế giới, bạn nên hình thành thói quen tập thể dục thường xuyên. buổi sáng là thời điểm tốt nhất để luyện tập những bài vận động nhẹ nhàng. Sau khi tập, chắc chắn bạn sẽ cảm thấy rất thư thái và đầy năng lượng.

7.Thực hành chánh niệm

Có một số lượng đáng kể các bằng chứng đằng sau sức mạnh của chánh niệm. Thực hành theo các bước:
• Dừng
• Hãy hít thở sâu
• Quan sát tình hình
• Tiến hành một cách thích hợp
Nó có vẻ đơn giản, phải không? Hãy thử và hình thành thói quen đơn giản này sẽ có một tác động lớn đến khả năng của bạn để duy trì một cảm giác bình tĩnh và ổn định của năng lượng trong hoạt động ngày qua ngày của bạn.

8.Ham mê khám phá những điều mới mẻ

Một số lượng lớn của những người giàu năng lượng là họ luôn thích tìm hiểu học hỏi. Họ đọc các bài viết về chủ đề họ đang quan tâm. Họ đọc những cuốn sách về làm thế nào để cải thiện bản thân. Họ lắng nghe audiobook. Họ tham gia các khóa học. Người tràn đầy năng lượng là những người tò mò, và họ liên tục tìm kiếm cho mình các cơ hội học tập mới và thú vị.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 điều nên làm mỗi ngày để nạp đầy năng lượng

Phong thủy mồ mả –

Táng Kinh có viết: “An táng phải dựa vào sinh khí”. Điều này có nghĩa là phải an táng người chết vào mảnh đất có sinh khí. Mảnh đất tụ được sinh khí thì ấm, không thì sẽ lạnh. Mảnh đất cất mộ nếu phù hợp 4 nguyên tắc sau thì sẽ gọi là huyệt cát: “Lon

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Táng Kinh có viết: “An táng phải dựa vào sinh khí”. Điều này có nghĩa là phải an táng người chết vào mảnh đất có sinh khí. Mảnh đất tụ được sinh khí thì ấm, không thì sẽ lạnh.

Mảnh đất cất mộ nếu phù hợp 4 nguyên tắc sau thì sẽ gọi là huyệt cát: “Long chân”, “Huyệt đích”, “Sa bao”, “Thủy bọc”.

Long chân: Chỉ mạch núi có sinh khí lưu động. Sinh khí trong đất là vô hình nhưng có thể biết được. Cổ nhân có câu: “Long mạch thật thì huyệt thật, long mạch giả thì huyệt giả. Xem hình thế của gò đất có thể biết được long mạch, tìm được long mạch”.

Huyệt đích: Chỉ việc tìm đúng “huyệt kết” sinh khí chảy không nhất thiết tạo thành huyệt kết tức huyệt tụ được sinh khí, không làm tản sinh khí.

nghia-trang-2

Sa bao: Chỉ núi ở gần huyệt địa. Huyệt mộ được gò, núi bao bọc thì khí tụ.

Thủy bọc: Chỉ dòng nước, hồ ao, sông ngòi hoặc biển cả. Nếu trước huyệt mộ có dòng nước chảy từ từ làm khí không tản thì tốt. Kinh táng có câu: “Phép trong phong thủy được thủy là thứ nhất, tàng phong là thứ hai”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy mồ mả –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd