Viêm khớp với nằm mơ thấy nước –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Đây là quẻ Quan Âm thứ 77 được xây dựng trên điển cố: Phụng bích quy Triệu hay đưa ngọc bích về Triệu.
Quẻ trung bình thuộc cung Ngọ. Hiện giờ chẳng khác gì nói mơ trong mộng, đừng nên chờ đợi hư ảo. Nếu muốn kết quả tốt đẹp, cần phải nhờ quý nhân chỉ bảo và tương trợ.
Thử quái mộng trung đắc bảo chi tượng. Phàm sự hư đa thiểu thực dã.
Thời Chiến Quốc, vua nước Triệu có được một viên ngọc bích, gọi là Hòa thị bích. Vua nước Tần biết được, cậy nước mình có thế lực lớn mạnh, liền viết một bức thư, sai người gửi cho vua Triệu, nói rằng vua Tần muốn dùng mười lăm tòa thành trì để đổi lấy viên ngọc Hòa thị bích.
Vua Triệu đọc thư xong, liền cùng các đại thần bàn bạc. Các đại thần cũng không nghĩ ra biện pháp gì hay. Đang trong lúc khẩn trương, bỗng một người tiến lên nói rằng, có người giỏi mưu tính tên là Lạn Tương Như (329 tr. CN – 259 tr. CN), rất thông minh dũng cảm. Vua Triệu sai người truyền gọi Lạn Tương Như vào gặp, hỏi anh ta nên xử lý sự việc này như thế nào. Lạn Tương Như nói: “Thưa đại vương, xin hãy cho tôi mang viên ngọc Hòa thị bích đi gặp vua Tần. Đến đó tôi sẽ tùy cơ hành sự, nếu như không chắc chắn vua Tần sẽ dùng mười lăm tòa thành trì để hoán đổi, tôi nhất định sẽ mang viên ngọc Hòa thị bích trở về một cách vẹn toàn”. Vua Triệu thấy Lạn Tương Như là người dũng cảm lại thông minh, liền đồng ý.
Lạn Tương Như đến nước Tần, vua Tần tiếp đón Tương Như ờ trong cung. Lạn Tương Như hai tay nâng viên ngọc Hòa thị bích dâng lên vua Tần. Vua Tần xem đi xem lại, vô cùng thích thú. Vua Tần xem xong, lại truyền cho các đại thần từng người một xem, sau đó lại truyền cho các phi tần ở hậu cung xem.
Lạn Tương Như đứng ở bên cạnh chờ đợi rất lâu, cũng không thấy vua Tần đề cập đến chuyện cắt mười lăm tòa thành trì để trao đối, biết rằng vua Tần vốn không có thành ý dùng thành trì để đổi lấy viên ngọc quý. Nhưng ngọc quý đã vào tay vua Tần rồi, làm thế nào để lấy lại được đây? Tương Như tiến lên, nói với vua Tần rằng: “Viên ngọc Hòa thị bích này thoạt nhìn tuy rất đẹp, nhưng vẫn có một khiếm khuyết nhỏ, xin để tôi chỉ cho đại vương xem!” Vua Tần vừa nghe thấy có khiếm khuyết, vội sai người đem viên ngọc từ hậu cung đến giao cho Lạn Tương Như.
Lạn Tương Như cầm viên ngọc Hòa thị bích, lùi lại mấy bước, tựa người vào cây cột, giận dữ nói với vua Tần rằng: “Khi trước đại vương sai người gửi thư cho vua Triệu, nói rằng sẽ đem mười lăm tòa thành trì để đổi lấy viêh ngọc Hòa thị bích. Các đại thần nước Triệu đều nói rằng, không nên tin lời dối trá của người nước Tần. Tôi đã phản bác rằng, đến thường dân còn coi trọng tín nghĩa, huống chi lại là đại vương của nước Tần! Vua Triệu nghe lời của tôi, mới sai tôi đem viên ngọc Hòa thị bích đến đây. Thế mà đại vương nhận lấy ngọc quý, tùy tiện giao cho kẻ dưới xem, lại không hề đề cập đến chuyện trao đổi mười lăm tòa thành trì. Có thể thấy rằng đại vương quả không có thực tâm muốn dùng thành trì để đối lấy ngọc quý. Nay ngọc đã ở trong tay tôi, nếu như đại vương nhất định muốn ép buộc, tôi sẽ đập viên ngọc lên cây cột này cho vỡ tan!” Nói xong, Lạn Tương Như nâng cao viên ngọc Hòa thị bích, ra vẻ như định đập vào cây cột.
Vua Tần thấy vậy, vội nói: “Đại phu chớ có nóng vội, lời ta đã nói sao có thế không giữ được!” Nói rồi sai người mang bức địa đò đến, giả bộ chỉ vào bức địa đò nói: “Từ đây đến đây, tống cộng mười lăm tòa thành, đều cắt cho nước Triệu!” Lạn Tương Như nghĩ thầm: “Vua Tần thường hay giở trò lừa bịp, chớ có mắc lừa ông ta lần nữa!” Bèn nói với vua Tần rằng: “Viên ngọc Hòa thị bích này là vật báu nổi tiếng trong thiên hạ, khi tôi mang nó đến nước Tần, vua Triệu đã phải trai giới năm ngày, lại tổ chức nghi thức tiễn đưa báu vật rất long trọng ờ triều đình. Nay đại vương muốn nhận viên ngọc quý này, cũng nên trai giới năm ngày, và tổ chức nghi thức nhận báu vật ở triều đình, tôi mới có thể dâng ngọc quý lên được! “Vua Tần nói: “Được! Ta sẽ làm theo như vậy!”
Lạn Tương Như mang viên ngọc đó đến công quán, cho một thuộc hạ cải trang thành người buôn bán, giấu viên ngọc ở trong người, lặng lẽ theo con đường nhỏ trở về nước Triệu. Cuối cùng ngọc bích đã trở về nước Triệu, vua Tần đành phải thả Lạn Tương Như về.
Ngày Rằm tháng Bảy, theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, các vong nhân được xá tội nên có lễ cúng Cô Hồn vào buổi chiều cho các vong linh không nhà cửa, không nơi nương tựa. Vào tháng 7 âm lịch, theo quan niệm dân gian thì vong hồn tháng 7 được thả ra, vong tốt có, vong xấu có, ma quỷ thì đi lang thang trên dương gian, nếu không cẩn thận bạn sẽ gặp phải ma quỷ đi lạc. Dưới đây là 18 điều bạn nên tránh vào rằm tháng 7. Các cụ vốn có câu “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”
1. Không treo chuông gió ở đầu giường vì tiếng chuông sẽ thu hút sự chú ý của ma quỷ, khi ngủ sẽ dễ bị chúng xâm nhập quấy phá.
2. Người yếu bóng vía không nên đi chơi đêm vào tháng này, nếu không sẽ dễ gặp điều không may.
3. Không được nhổ lông chân vào ngày này, vì dân gian cho rằng “một sợi lông chân quản ba con quỷ”, người càng có nhiều lông chân thì ma quỷ càng ít dám đến gần.
4. Không tùy tiện đốt giấy, vàng mã vì như vậy sẽ khiến ma quỷ bu đến.
5. Không ăn vụng đồ cúng, vì đó là đồ dành cho ma quỷ, nếu chưa cúng và cầu xin mà lấy ăn sẽ rước tai hoạ vào mình.
6. Không phơi quần áo vào ban đêm, vì ma quỷ trông thấy sẽ “mượn” và để lại “quỷ khí” trong các quần áo ấy.
7. Những người khi đi chơi đêm không được réo gọi tên nhau, nếu không ma quỷ sẽ ghi nhớ tên người được gọi, đó là điềm xấu.
8. Không nên bơi lội, vì ma quỷ sẽ cùng đùa với bạn, nếu không cẩn thận, bạn sẽ bị chúng làm trẹo chân.
9. Không hù doạ người khác khiến họ giật mình “hồn bay phách lạc”, dễ bị ma quỷ xâm nhập.
10. Cây đa trước nhà là nơi hội tụ âm khí, ma quỷ rất thích những chỗ như vậy, cho nên kỵ đứng, ngồi, nằm, trốn… ở đó.
11. Không nên thức quá khuya, vì như vậy tinh thần sẽ hao tổn suy nhược, dễ nhiễm “quỷ khí”.
12. Nơi góc tường xó tối là những chỗ ma quỷ thường tụ tập nghỉ ngơi, không nên đến gần những chỗ ấy.
13. Không nhặt tiền bạc rơi vãi trên đường, vì có thể đó là tiền người ta cúng mua chuộc bọn quỷ đầu trâu mặt ngựa, nếu người nào phạm kỵ, sẽ gặp tai hoạ không chừng.
14. Khi đi đến qua những nơi vắng vẻ, không ngoái cổ quay đầu nhìn lại phía sau, dù có cảm giác hình như có người đang đi theo mình hoặc gọi tên mình. Vì đó có thể do ma quỷ trêu chọc.
15. Khi lên giường ngủ không để mũi dép hướng về phía giường, nếu không ma quỷ nhìn thấy sẽ đoán rằng có người sống đang nằm trên giường và chúng sẽ lên giường ngủ chung với bạn.
16. Không cắm đũa đứng giữa bát cơm, vì đó là hình thức cúng tế, cũng giống như kiểu thắp hương, dễ dẫn dụ ma quỷ vào nhà ăn chung.
17. Không nên ở một mình trong thời gian này, nếu không sẽ dễ bị ma quỷ dẫn dắt hoặc quấy phá.
18. Không chụp ảnh vào ban đêm, bởi ma quỷ luôn lảng vảng chung quanh đó sẽ “vô hình” vào ảnh chung với người sống, đó là điều không tốt.
►Lịch ngày tốt gửi đến quý độc giả kho: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp đáng suy ngẫm |
Ngày xưa từ quan khanh sĩ trở xuống đều theo cổ lễ mà đáp lễ kẻ ti ấu, nếu kẻ ti ấu (bề dưới) chối từ, mới dùng lễ túc bái đáp lại. Còn vái là nghi thức lúc đã lễ xong....Nước ta xưa kia có chốn công đường có lễ tông kiến, kẻ hạ quan cũng vái bậc trưởng quan... Gần đây những kẻ hiếu sự không biết xét đến cổ điênr lại cho là lễ của tôn trưởng đối với kẻ ti ấu, còn kẻ ti ấu đối với tôn trưởng không được vái, chỉ lạy xong là cứ đứng thẳng và lùi ra..."(Trích Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ trang 174).
Xem đoạn văn trích dẫn trên ta thấy vái lạy là một phép xã giao, không chỉ vái lạy người trên mà người trên cũng vái lạy đáp lễ. Từ lạy nhau chuyền sang vái nhau trong buổi tương kiến, đến nay ta tiếp thu văn hoá Âu Tây vẫn giữ được phép tôn ti (tôn trưởng ti ấu).
Theo phong tục lễ giáo của ta, bề dưới phải chủ động chào bề trên trước, trẻ chào già trước, trò chào thầy trước. Nếu bề trên không chào lại người dưới, thầy không chào lại trò, tức là không đáp lễ, thì cũng bất lịch sự chẳng khác gì từ chối người khác, làm cho người đưa tay trước ngượng ngùng và bất bình. Không biết vái, chào lại người khác là đã tự làm mất đi phong cách lịch duyệt của chính mình.
Chúng tôi xin trích kể lại câu chuyện "Tam nguyên Tổng đốc lạy ông Nhiêu".
Ông Nhiêu Chuồi người cùng làm ăn mừng lên thọ 80 Cụ Tam Nguyên cũng tới mừng. Khi làm lễ chúc thọ, cụ Tam cũng như mọi người lễ ông Nhiêu hai lễ rất kính cẩn. "Ai đời cụ Tam Nguyên Tổng Đốc lại lạy một người dân thường. Ông Nhiêu vội vàng sụp xuống lạy tạ. Cụ Tam đỡ ông Nhiêu dậy, ôn tồn nói: Ta lễ là lễ cái thiên tước của ông Nhiêu đấy..."
(Trích Nguyễn khuyến và giai thoại _ Bùi. V. Cường biên soạn_Hội VHNT Hà Nam Ninh xuất bản- tr 123).
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Như (##)
Gà là đại biểu của tuổi Dậu, được xếp ở vị trí thứ 10 trong 12 địa chi. Xét về thời gian, là vào khoảng từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối. Về phương vị là hướng chính Tây. Nếu lấy 4 mùa để phân chia thì vào khoảng tháng 9 Dương lịch, tháng 8 Âm lịch.
Người sinh 2005, tuổi Ất Dậu, có Ngũ hành năm sinh là Tuyền Trung Thuỷ, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau.
Theo tín ngưỡng dân gian, Bất Động Minh Vương là Phật bản mệnh của người tuổi Dậu.
Bằng cách vận dụng phong thủy hợp lý, người tuổi Ất Dậu sinh năm 2005 có thể dùng linh vật phong thủy, đá quý phong thủy để thu hút vận may, rước tài lộc vào nhà.Tuy nhiên không phải ai cũng biết linh vật hay đá phong thủy đó là những gì, cách dùng như thế nào? Nên hãy cùng chúng tôi khám phá câu trả lời trong bài viết nói về cẩm nang phong thủy của tuổi Ất Dậu 2005.
Nội dung
– Nam mệnh sinh năm 2005 thuộc cung Càn, hành Kim hợp với các màu tương sinh thuộc hành Thổ là màu nâu, màu vàng; màu tương hợp thuộc hành Kim là màu trắng, xám, ghi; màu chế ngự được thuộc hành Mộc là Xanh lá cây.
Kỵ với các màu đỏ, hồng, tím, cam vì đây là màu hành Hỏa mà Hỏa khắc Kim; không nên dùng màu thuộc hành Thủy là đen, xanh nước biển vì Kim sinh Thủy dễ bị sinh xuất, giảm năng lượng đi.
– Nữ mệnh sinh năm 2005 thuộc cung Khôn, hành Thổ hợp với các màu tương sinh như Đỏ, Cam, Hồng, Tím, đây là màu thuộc hành Hỏa, mà Hỏa sinh Thổ; dùng các màu tương hợp của hành Thổ như Vàng, Nâu; và dùng màu thuộc hành Thủy như Xanh nước biển, Đen (Thổ chế ngự được Thủy).
Kỵ các màu màu thuộc hành mộc là Xanh lá cây, xanh lục; không nên dùng màu thuộc hành Kim như Trắng, Ghi vì Thổ sinh Kim, mệnh cung dễ bị giảm đi năng lượng, sinh xuất.
Trong làm ăn: Nhâm Thìn, Bính Tuất, Kỷ Sửu Lựa chọn vợ chồng: Nên chọn người tuổi Kỷ Sửu, Bính Tuất, Quý Mùi và Nhâm Thìn để kết hôn vì sẽ có một cuộc hôn nhân viên mãn.
Còn nếu kết hôn với tuổi Tân Mão, Quý Mão và Ất Dậu (đồng tuổi) cũng tạm được nhưng chỉ tạo được cuộc sống ở mức trung bình.
Tuổi kỵ: Canh Dần, Bính Thân, Nhâm Dần, Nhâm Ngọ, Giáp Thân, Giáp Ngọ và Mậu Dần.
Trong làm ăn: Tân Mão, Kỷ Sửu và Nhâm Thìn. Lựa chọn vợ chồng: Nếu kết hôn với tuổi Kỷ Sửu, Bính Tuất, Quý Mùi và Nhâm Thìn thì không những tốt cho sự nghiệp, tài lộc mà còn thúc đẩy tình cảm vô cùng tốt đẹp.
Còn kết hôn với Quý Mão, Tân Mão và Ất Dậu thì cuộc sống của bạn chỉ dừng lại ở mức bình thường, đủ ăn, đủ mặc.
Tuổi kỵ: Canh Dần, Nhâm Dần, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Bính Thân, Nhâm Ngọ và Mậu Dần.
– Nam mệnh sinh năm 2005, tuổi Ất Dậu vì là mệnh cung Kim (Càn), nên hợp với số: 4, 7, 8, 9
– Nữ mệnh sinh năm 2005, tuổi Ất Dậu vì là mệnh cung Thổ (Khôn), nên hợp với số: 4, 5, 6, 9
Đông – Diên niên: Mọi sự ổn định
Bắc – Sinh khí: Phúc lộc vẹn toàn
Đông Nam – Phục vị: Được giúp đỡ
Nam – Thiên y: Gặp thiên thời, được che chở
Tây Nam– Phục vị: Được giúp đỡ
Tây – Thiên y: Gặp thiên thời, được che chở
Đông Bắc – Sinh khí: Phúc lộc vẹn toàn
Tây Bắc – Diên niên: Mọi sự ổn định
Cung TỐN, hành MỘC, hướng Đông Nam, quái số 4, sao Tứ Lục, Đông tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Bắc, Nam, Đông, Đông Nam).
Đeo đá màu Đen, Xanh nước biển, Xanh da trời để được Tương Sinh (Thuỷ sinh Mộc): Sapphire đen, Tektit, Tourmaline đen, Aquamarine, Topaz…
Đeo đá màu Xanh lá cây để được Tương Hợp: Jade, Onix, Lục bảo ngọc, Amazoline…
Đeo đá màu Vàng, màu Nâu để được Tương Khắc ( Mộc chế ngự được Thổ): Sapphire vàng, Canxedon nâu, Thạch anh mắt hổ, Citrine…
Kỵ: Đeo đá màu Trắng, Xám, Ghi vì Mệnh cung bị khắc (Kim khắc Mộc): Sapphire Trắng, Sapphire ghi, Thạch anh Trắng, Mã não trắng, Đá mặt trăng…
Không nên dùng: đá màu Đỏ, Hồng, Tím vì Mệnh cung bị sinh xuất, giảm năng lượng đi (MỘC sinh HOẢ): Tourmaline, Granat, Spinel, Thạch anh hồng, Thạch anh Tím, Mã não đỏ…
Cung KHÔN, hành THỔ, hướng Tây Nam, quái số 2, sao Nhị Hắc, Tây tứ mệnh (Đông bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam).
Đeo đá màu Đỏ, Hồng, Tím để được Tương sinh (Hoả sinh Thổ): Ruby, Tourmaline, Granat, Spinel, Thạch anh hồng, Thạch anh Tím, Mã não đỏ…
Đeo đá màu Vàng, Nâu để được Tương Hợp: Sapphire vàng, Canxedon nâu, Thạch anh mắt hổ, Citrine…
Đeo đá màu Đen, Xanh nước biển, Xanh da trời để được Tương khắc (Thổ chế ngự được Thuỷ): Sapphire đen, Tektit, Tourmaline đen, Aquamarine, Topaz…
Kỵ: Đá màu Xanh lá cây vì Mệnh cung bị khắc (Mộc khắc Thổ): Jade, Onix, Lục bảo ngọc, Amazoline…
Không nên dùng: Đá màu Trắng, Xám, Ghi vì Mệnh cung bị sinh xuất, giảm năng lượng đi (THỔ sinh KIM): Sapphire Trắng, Sapphire ghi, Thạch anh Trắng, mã não trắng, Đá mặt trăng…
Phật tổ Như Lai,
Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát,
Phật Di Lặc,
Chúa Giêsu,
Đức Mẹ,
Cô gái, người,
Rồng,
12 con Giáp,
Tỳ hưu,
Cóc Tài Lộc,
Rùa,
Các mặt dây chuyền và mặt nhẫn bằng đá quý,
Vòng dây chuỗi bằng đá tự nhiên…
Xưa đến nay có rất nhiều người thông qua xem tướng để biết vận mệnh của một người trong đó có xem tướng nốt ruồi. Nó không những báo hiệu vận mệnh tương lai mà tướng nốt ruồi còn có ý nghĩa dự báo về sức khỏe. Chúng ta phải chú ý nốt ruồi ở trán tính tình nóng nảy, dễ có bệnh về tim; nốt ruồi ở mũi thì nóng dạ dày, hệ tiêu hóa không tốt… Củ thể như thế nào chúng ta cùng xem tướng nốt ruồi để biết tình trạng sức khỏe của bạn như thế nào để kịp chữa trị nhé!
Nội dung
Chức năng phổi hoạt động không bình thường, cần lưu ý đến hệ hô hấp, hạn chế ăn xoài, khoai môn, hải sản và những thức ăn dễ gây dị ứng.
Liên quan đến chức năng của buồng trứng và cơ quan sinh sản, hạn chế sống phóng túng hoặc kiêng khem quá mức, cần ra ngoài hít thở không khí trong lành nhiều hơn.
Dễ đau thắt ngực, rối loạn nhịp tim, tim đập nhanh, hạn chế vận động mạnh, tránh hút thuốc, đồ ăn cay.
Nóng dạ dày, hệ tiêu hóa hoạt động không bình thường, cần hạn chế ăn đồ lạnh.
Áp lực nhiều, tính tình nóng nảy, dễ tạo nên các vấn đề về tim mạch và hệ tuần hoàn máu, nên ngủ sớm và uống nhiều nước hơn.
Chức năng gan hoạt động không bình thường, cần lưu ý đến những thói quen hàng ngày, duy trì tâm trạng vui vẻ, cần hít thở không khí trong lành, tránh các tụ điểm quá náo nhiệt, ồn ào.
Dễ táo bón, cơ thể bên trong tích tụ nhiều độc tố, nên ăn nhiều hoa quả và rau xanh, cần điều chỉnh lại thói quen ăn uống.
Rối loạn nội tiết tố, cần hạn chế ăn đồ lạnh.
► Mời các bạn: Xem tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh chuẩn xác |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
Ảnh minh họa |
|
Phong thủ 4 số cuối điện thoại là cách tính để xem số điện thoại đẹp, số điện thoại đó có đại cát hay không. Đây là phương pháp rất nhiều người biết đặc biệt là người gốc Hoa để xem phong thủy số điện thoại.
Thông tin dưới đây chỉ mang tính tham khảo mà thôi … nhưng nghe đâu rất nhiều người biết, đặc biệt là người gốc Hoa.
Cách tra như sau :
Vídụ : 0903456789
Bước 1 : lấy bốn số cuối 6789 chia cho 80 : 6789/80 = 84.8625
Bước 2 : lấy số vừa có trừ đi phần số nguyên : 84.8625 -84 = 0.8625
Bước 3 : lấy số đó nhân với 80 : 0.6825 x 80 = 69
Bước 4 : kết quả cuối cùng tra bảng dưới đây >>> 69 >>> Hung (xấu)
số này mà gọi là xấu thì đúng là … bo tay >>> số của mấy đại gia mừ : san bằng tất cả …
01: Đại triển hồng đô, khả được thành công:Cát
02: Thăng trầm không số, về già vô công:Bình thường
03: Ngày ngày tiến tới, vạn sự thuận toàn:Đại cát
04: Tiền đồ gai góc, dâu khổ theo đuổi:Hung (xấu)
05: Làm ăn phát đạt, lợi danh đều có Đại cát
06: Trời cho số phận có thể thành công Cát
07: Ôn hòa êm dịu nhất phải thành công Cát
08: Qua giai đoạn gian nan, có ngày thành công Cát
09: Tự làm có sức thất bại khó lường Hung
10: Tâm sức làm không, không được đến bờ Hung
11: Vững đi từng bước, được người trọng vọng Cát
12: Gầy gò yếu đuối, mọi việc khó thành Hung
13: Trời cho cát vận, được người kính trọng Cát
14: Nửa được nửa bại, dựa vào nghị lực Bình
15: Đại sự thành tựu, nhất điịnh hưng vương Cát
16: Thành tựu to lớn, tên tuổi lừng danh Đại cát
17: Quý nhân trợ giúp, sẽ được thành công Cát
18: Thuận lợi xương thịnh, trăm việc trôi chảy Đại cát
19: Nội ngoại bất hòa, khó khăn muôn phát Hung
20: Vượt mọi gian nan, lo xa nghĩ hoài Đại hung
21: Chuyên tâm kinh doanh hay dung trí Cát
22: Có tài không vận, việc không gặp may Hung
23: Tên tuổi 4 phương, sẽ thành đại nghiệp :Đại cát
24: Phải dựa tự lập sẽ thành đại nghiệp:Cát
25: Thiên thời địa lợi vì được nhân cách:Cát
26: Bảo táp phong ba qua được hiểm nguy:hung
27: Lúc thắng lúc thua giữ được thành công:Cát
28: Tiến mãi không lùi trí tuệ được dung:Đại cát
29: Cát hung chia đổ, được thua mỗi nữa:hung
30: Danh lợi được mùa đại sự thành công:Đại cát
31: Con rồng trong nước thành công sẽ đến:Đại cát
32: Dùng trí lâu dài, sẽ được thịnh vượng:Cát
33: Rủi ro không ngừng khó có thành công:Hung
34: Số phận trung cất tiến lùi bảo thủ:Bình
35: Trôi nổi bập bùng thường hay gặp nạn:Hung
36: Tránh được điểm ác, thuận buồm xuôi gió:Cát
37: Danh thì được tiếng lợi thì bằng không:Bình
38: Đường rộng thênh thang nhìn thấy tương lai:Đại cát
39: Lúc thịnh lúc suy chìm nổi vô định:Bình
40: Thiên ý cất vận tiền đồ sang sủa:Đại cát
41: Sự nghiệp không chuyên hầu như không thành:Hung
42: Nhẫn nhịn chịu đựng, xấu sẽ thành tốt:Cát
43: Cây xanh trổ lá đột nhiên thành công:Cát
44: Ngược với ý mình tham công lỡ việc:Hung
45: Quanh co khúy khỷu khó khăn kéo dài:Hung
46: Quý nhân giúp đỡ thành công đại sự:Đại cát
47: Danh lợu đều có thành công tốt đẹp:Đại cát
48: Cặp cát được cát gặp hung thì hung:Bình
49: Hung cát cùng có, một thành một bại:Bình
50: Một thịnh một suy bập bùn sóng gió:Bình
51: Trời quanh mây tạnh nay được thành công:Cát
52: Sướng thịnh nửa số cát trước hung sau:Hung
53: Nổ lực hết mình thành công ích ỏi:Bình
54: Bề ngoài tươi sang ẩn họa sẽ tới:Hung
55: Ngược lại ý mình, có có thành công:Đại hung
56: Nổ lực phấn đấu phận tốt quay về:Cát
57: Bấp bênh nhiều chuyến hung trước tốt sau:Bình
58: Gặp việc do dự khó có thành công:Hung
59: Mơ mơ hồ hồ khó có định phương hướng:Bình
60: Mây che nửa trăng dấu hiệu phong ba:Hung
61: Lo nghỉ nhiều điều mọi việc không thành:Hung
62: Biết hướng nổ lực con đường phồn vinh:Cát
63: Mười việc chín không mất công mất sức:Hung
64: Cát vận tự đến, có được thành công:Cát
65: Nội ngoại bất hòa thiếu thốn tín nhiệm:Bình
66: Mọi việc như ý phú quý tự đến:Đại cát
67: Nắm được thời cơ, thành công sẽ đến:Cát
68: Lo trước nghĩ sau thường hay gặp nạn:Hung
69: Bập bên khó tránh vất vả:Hung
70: Cát hung đều có chỉ dự chí khí:Bình
71: Được rồi lại mất khó có bình yên:Hung
72: An lạc tự đến tự nhiên cát tường:Cát
73: Như là vô mưu khó được thành đạt:Bình
74: Trong lành có hung tiến không bằng lùi:Bình
75: Nhiều điều đại hung, hiện tượng phân tán:Đại hung
76: Khổ trước sướng sau, không bị thất bại:Cát
77: Nửa được nửa mất sang mà không thực:Bình:78
78: Tiền đồ tươi sang trăm đầy hy vọng:Đại cát
79: Được rồi lại mất lo cũng bằng không:Hung
80: Số phận cao nhất, sẽ được thành công:Đại cát
Ngoài ra bạn có thể xem số điện thoại bạn đang dùng có hợp với tuổi của bạn tại tiện ích xem sim điện thoại đẹp tại Xem Tướng Chấm Net. Chúc các bạn tìm được số như ý.
Nguyên tắc đầu tiên cần đảm bảo cho gian bếp là cần có màu sắc hài hòa, thoáng khí, có ánh nắng tự nhiên. Trong trường hợp thiếu sáng, gian bếp cần trang bị đầy đủ đèn trần, đèn thả bàn, đèn chùm với ánh sáng vàng để mang đến sự ấm cúng và độ sáng cần thiết cho gian bếp. Nếu không có cửa sổ bếp cũng cần có quạt thông gió và tốt nhất là trang bị máy hút mùi, hút khói ngay phía trên bếp nấu.
Nên sử dụng các nguyên liệu thân thiện với môi trường và không quá trơn nhẵn trong gian bếp như thạch cao, đá tự nhiên, sỏi rải… Những vật liệu cách nhiệt, khó bắt lửa này vừa khiến không gian nhà bếp thoáng mát và đảm bảo độ an toàn cho người đứng nấu.
Hướng lý tưởng để đặt bếp nấu là Đông Bắc. Ngoài ra bếp nấu có thể đặt hướng chính Tây hay Nam. Tuy nhiên, một yếu tố quan trọng là cần tránh tuyệt đối đặt bếp ngoảnh lưng với hướng nhà, người nấu bếp đứng quay lưng lại thẳng với cửa chính. Bếp đối diện với cửa nhà cũng là hướng xấu. Kết cấu xuyên tâm thông từ cửa chính đến bếp dễ khiến gia chủ hao tán tài sản, lục đục trong nhà. Trong trường hợp bếp đã thiết kế sẵn như vậy có thể dùng bình phong hoặc chậu cây chắn giữa hoặc chuyển bệ bếp đặt ngang lại.
Các hướng đặt bếp ngoài Đông Bắc, chính Tây hay chính Nam đều không tốt. Với các nhà chung cư, việc này khó kiêng kỵ tuyệt đối. Nếu bếp nấu ở hướng xấu có thể dùng cây xanh để hóa giải. Bếp hướng Đông nên trồng hoa cho hoa màu đỏ, tím như mào gà, đỗ quyên; bếp hướng Bắc chọn hoa có màu trắng hay cây đậm màu xanh như nhài, vạn niên thanh… Các cây rau gia vị cũng rất thích hợp trồng gần gian bếp vì hóa giải được sát khí tỏa ra. Không nên cắm hoa trong gian bếp.
Tránh kê bếp dưới xà ngang, đối diện nhà vệ sinh hay trước phòng ngủ vì điều này ảnh hưởng đến sức khỏe gia chủ. Nếu diện tích hẹp không tránh được bố trí như vậy thì cũng đảm bảo cửa đóng khi bếp nấu.
Trong gian bếp, ưu tiên những đồ có tính hỏa. Bệ bếp cần đặt cao hơn bồn rửa và tránh kẹp giữa tủ lạnh, tủ đá, bể nước…, là những đồ vật có tính thủy. Các dụng cụ nấu bếp ưu tiên tính kim loại, tránh bắt lửa và giữ sạch gian bếp.
(Theo CafeLand)
Đặc điểm của những tòa nhà văn phòng hình chữ L là gì?
Những toà nhà văn phòng có hình chữ L có những góc khuyết rất lớn, trong các phòng ánh sáng không được chiếu đều. Giả sử, ánh sáng chiếu từ trên cao xuống, thì ánh sáng có thế tiếp nhận được ở một bên chữ L, nhưng những bộ phận góc khuyết thì không có nguồn ánh sáng, chính vì vậy cần phải chú ý đến nơi bị thiếu mất. Nhân viên trong những toà nhà này do bị bệnh tật xâm nhập vào cơ thể, cũng sẽ khiến trong lòng không yên.
Đặc điểm của những tòa nhà văn phòng hình chữ U là gì?
Tòa nhà văn phòng hình chữ U hiện ra điểm yếu ở phía sau của toàn bộ toà nhà, tất sẽ khiến cho việc kinh doanh không thuận tâm, phía dựa lưng sau không có lực, quý nhân bất minh, sự nghiệp không dễ phát triển.
Đặc điểm của những tòa nhà văn phòng hình chữ “Hồi là gì?
Toà lầu hình chữ “hồi”- (chữ Hán) dễ khiến cho tâm tính của ông chủ bất ổn, xảy ra hiện tượng cổ đông bất hoà. Nguyên nhân chủ yếu là kiến trúc hình chữ “hồi” đó bộ phận trung tâm ở giữa toà nhà thông không, tuy có thể tăng cường ánh sáng cho toàn bộ tòa nhà. nhưng toàn bộ toà nhà cũng giống như toàn bộ thân thể của con người, phía trung tâm kiến trúc tòa nhà giữ lại một cối giếng trời như trái tim bất lực của con người. Chính vì vậy, thiết lập công ty trong toà nhà lớn như vậy nhất định việc mở rộng công việc không dễ, tình hình cổ đông hỗn loạn.
Trong những toà nhà làm việc hiện nay, những tòa nhà văn phòng hình chữ “hồi” này rất nhiều, nhưng khí thế vượng không nhiều, chủ yếu là không hiểu được bổ cứu, chính vì vậy sẽ khiến cho nội bộ công ty vặn tác lực thiếu. Nếu toàn bộ toà nhà đơn nhất có một tổng công ty, tất trong nội bộ cổ đông tư tưởng tư doanh sẽ mạnh mẽ, nếu thay đổi được, có thể khiến cho công ty phát triển thuận lợi được.
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Thời gian: tổ chức vào ngày 18 tới ngày 25 tháng 6 âm lịch.
Địa điểm: thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn tam vị đại vương thời Hùng Duệ Vương có công đánh Thục thờ Tiên Dung.
Nội dung: Hàng năm, cứ vào dịp đầu tháng 6 (âm lịch), người dân thôn Yên Lạc lại nô nức chuẩn bị cho lễ hội đền Lảnh Giang, một lễ hội đã có truyền thống từ rất lâu đời. Nét độc đáo trong lễ hội đền Lảnh Giang là sự phục dựng lại các diễn xướng dân gian hầu thánh, tái hiện huyền tích các vị thánh đền Lảnh Giang.
Phần lễ có hoạt động rước kiệu trên triền đê sông Lảnh với sự tham gia của đông đảo người dân địa phương và du khách đến tham quan. Mở đầu là lễ rước kiệu từ đền Lảnh Giang vào đền thờ Mẫu Tiên Dung. Sau đó làm lễ tại đền thờ Mẫu Tiên Dung và rước kệu về lại đền Lảnh Giang. Đoàn nghi lễ rước kiệu kéo dài hơn 2 cây số trên triền đê sông Lảnh cùng với tiếng trống trầm hùng và tiếng kèn đồng rộn rã khiến cho không khí buổi rước kiệu càng trở nên uy nghiêm và náo nhiệt.
Phần hội được tổ chức phong phú đa dạng với các trò chơi dân gian truyền thống như múa rồng, múa lân, múa sư tử, biểu diễn võ thuật, đánh gậy, chọi gà, đánh tổ tôm, bắt vịt dưới nước… cùng các hoạt động văn nghệ như chiếu chèo sân đền…
Bên cạnh các trò chơi truyền thống, còn có các hoạt động văn hoá thể thao khác như thi đấu cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền, bóng đá và các tối giao lưu văn nghệ giữa các thôn trong xã và giữa các xã trong huyện làm tăng thêm không khí tưng bừng của ngày hội.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
1. Vị trí của Sơn Căn Trong Nhân tướng học, Sơn Căn là vị trí ở giữa hai phần mắt, vùng dưới Ấn Đường (khoảng cách giữa hai mắt) và là nơi cao nhất trên sống mũi.
1. Long ngân
Long ngân là tên gọi của những đồng tiền bằng bạc được lưu hành cuối triều nhà Thanh. Trên mặt đồng tiền có khắc hình con rồng. Để sinh vượng tài cho văn phòng, nên bày đồng tiền hình con rồng này ở bên trái của bàn Thổ công.
2. Ngọc cổ
Ngọc cổ là miếng ngọc có hình vuông, ở giữa đục một lỗ to tròn, lỗ tròn tượng trưng cho trời còn hình vuông của miếng ngọc tượng trưng cho đất. Theo quan niệm của phong thuỷ, sự hài hòa giữa đất trời sẽ mang đến tài lộc cho văn phòng. Ngọc cổ cũng giống như Ngân Long, không nên bày một mình mà nên bày bên phải bàn Thổ công để cầu tài.
3. Ngọc bích
Ngọc bích là miếng ngọc màu xanh có hình tròn. Ngọc bích thường được bày bên cạnh thần tài là biểu tượng phong thủy giúp vượng tài vận. Có thể bày một miếng ngọc bích ở phía bên trái của các vị thần, như Quan đế, triều Công Minh, Lưu Hải tiên nhân, Quân âm như ý (tay cầm gậy như ý), Quan Âm Bảo Châu (tay cầm ngọc vàng)…
4. Con dơi
Trong tiếng Hán, từ chỉ con dơi có cách đọc giống từ phúc, vì vậy con dơi thể hiện phúc khí. Dơi được coi là con vật may mắn, tốt lành vì nó trông rất giống con chuột.
5. Bách phúc đồ
Đây là một loại tranh chữ, trong tranh có viết 100 chữ phúc với các cách viết khác nhau, được gọi là bách phúc đồ (bức tranh trăm phúc). Bức tranh này có thể mang lại phúc khí cho nhân viên trong văn phòng.
6. Con hươu
Trong tiếng Hán, từ chỉ con hươu có âm đọc giống từ lộc, vì vậy những vật phẩm hình con hươu rất thích hợp để trưng bày trong văn phòng mang đến may mắn và tài lộc. Về tranh vẽ, người ta thường vẽ một con “chuột phúc” (con dơi) và một con hươu, với ý nghĩa “phúc lộc song toàn”. Ngoài ra cũng có một số bức tranh ngoài vẽ con dơi và con hươu, mọi người còn vẽ thêm hình ông Thọ để mang đầy đủ ý nghĩa “Phúc Lộc Thọ”.
7. Sừng trâu
Đối với những ngành nghề mang tính cạnh tranh cao thì nên treo một cái sừng trâu trong văn phòng để tăng sức mạnh và ý chí vươn lên.
8. Tranh chữ
Thông thường, tranh chữ là món đồ phong thủy thường được treo trên tường ở phía sau chỗ ngồi ở bàn làm việc của nhân viên hoặc treo ở phía tường đối diện. Trong phòng cũng không nên treo quá nhiều tranh chữ, nếu không sẽ có kết quả ngược lại, vì thị giác sẽ bị các bức tranh làm rối loạn, không tập trung được tinh thần khi làm việc.
(Theo Xzone)
Nếu bạn đã biết những điều nên làm khi đặt bếp thì bạn càng nên nắm rõ những cấm kỵ của nó, bởi vì nếu đặt bếp ở vị trí cấm kỵ, sẽ ảnh hưởng lớn tới sức khỏe và tài lộc của bạn.
Vị trí đặt bếp trong phong thủy ảnh hưởng lớn tới sức khỏe và tài lộc của gia chủ.
– Bếp không nên đối diện thẳng cửa ra vào hoặc ngoài đường.
– Bếp không nên nằm ngày phía dưới xa nhà, nếu không cả nhà sẽ bất an ( hay bị sốt nóng ở đầu).
– Bếp không đối diện với tủ lạnh, bởi vì sinh nóng lạnh không đều, dễ bị sảy thai hoặc đẻ non.
– Bếp không đối diện với cửa phòng vệ sinh, bởi sẽ gây bệnh tật, thuốc thang liên miên.
– Mặt sau của bếp không đối diện với góc tường của một nhà khác, bởi sẽ gây chảy máu cam liên tục, dễ mắc bệnh tim.
– Hai bên bếp không đối diện với cửa, phía dưới bếp không có chất bẩn.
– Bếp không để trên ban công.
– Không đặt bệ bếp gần bồn nước. Bếp không thể tiếp xúc trực tiếp với nước. Bếp dùng để nhóm lửa, nấu ăn, còn bồn nước dùng để chứa nước và rửa. Hai thứ này không thích hợp ở cạnh nhau, ở giữa nên có bệ bếp để phân tách, như thế nước và lửa mới không xung khắc nhau.
– Bệ bếp không thể đặt trên bể phân hóa học, trên rãnh nước, hoặc trên đường ống nước ở phòng vệ sinh.
– Bệ bếp cũng không được dựa vào phòng vệ sinh, vì người nấu sẽ phải quay mặt vào phòng vệ sinh.
– Bệ bếp không được đối diện với bồn cầu trong nhà vệ sinh.
– Bệ bếp không được đối diện với cửa các phòng, đặc biệt là phòng người già.
– Bệ bếp không được đối diện với vị trí của thần ( mà bạn thờ trong nhà).
– Bệ bếp nên đặt ở chỗ kín gió và nhiều khí.
– Không để bệ bếp ở vị trí trung tâm bếp.
– Nếu bếp đã hỏng hoặc không sử dụng được nữa, nên vứt đi, như thế gia đình sẽ bình an, thuận hòa.
– Sau bệ bếp không được để trống, vì chỗ trống sẽ có nhiều gió, làm ngọn lửa bếp chập chờn, không ổn đỉnh. Từ đó, ảnh hưởng đến tài vận. Đặc biệt kiêng kị sau bếp có cửa sổ.
– Ngoài ra, nếu cửa sổ trong phòng bếp hướng về phía Tây thì khi mặt trời lặn, sẽ có hiện tượng ánh mặt trời ngả về phía Tây. Nếu ánh nắng này đi vào phòng bếp qua cửa sổ và chiếu thẳng vào bếp thì phải lập tức đóng cửa sổ lại, đợi đến khi mặt trời tắt hẳn mới mở ra.
1. Sử dụng hồ lô sinh cơ hóa giải mâu thuẫn vợ chồng Hồ lô sinh cơ là một "diệu pháp" trong phong thủy, Sinh cơ có khả năng giúp tăng cường vượng vận cho gia chủ. Bạn có thể dụng móng tay và tóc của hai vợ chồng trộn vào nhau, dùng giấy màu vàng gói lại, viết ngày sinh trong bát tự bên ngoài. Sau đó đặt vào trong hồ lô treo ở đầu giường cũng sẽ giúp vượng tình cảm, hóa giải mẫu thuẫn vợ chồng.
Hồ lô sinh cơ là một "diệu pháp" trong phong thủy, Sinh cơ có khả năng giúp tăng cường vượng vận cho gia chủ. |
Đá thạch anh hồng được sử dụng khá phổ biến trong việc hóa giải những vấn đề cơ bản trong phong thủy nhà ở. |
Căn cứ vào sự chuyển động của Mặt Trăng mà mỗi ngày đầu tháng, giữa tháng, cuối tháng được chia thành hối, sóc, huyền, vọng. Hối là cuối tháng, sóc là mùng 1, huyền phân thành thượng huyền (ngày 7, 8 của tháng) và hạ huyền (ngày 24, 25 của tháng), vọng là ngày Rằm. Trong ngày sóc và ngày vọng, người Việt thường có thói quen thắp hương lễ bái để cầu mong may mắn, tốt lành, bình an cho bản thân, gia đình. Nhưng đừng quá cẩu thả mà làm qua loa lấy lệ, hãy lưu ý những tập tục tâm linh ngày rằm mùng 1 sau: 1. Bước vào cửa chùa, khách nữ bước chân phải, khách nam bước chân trái, không nên giẫm vào bậc cửa hay đá vào cánh cửa, bước chân càng mềm mại, nhẹ nhàng càng tốt. 2. Thắp hương thì ba nén để cầu phúc cho mình, sáu nén để cầu phúc cho con cháu, chín nén để cầu phúc cho cha mẹ ông bà, mười ba nén là công đức viên mãn, giới hạn cao nhất của số lượng hương dâng lên.
3. Khi thắp hương, tay trái lấy hương, tay phải châm đèn, không được ngược lại vì con người thường dùng tay phải sát sinh, nếu chạm vào hương thì mất thiêng. 4. Khi thắp hương phải càng vượng càng tốt vì người xưa có câu, hương khói tràn đầy mới có phúc. Tay trái ở trên, tay phải ở dưới, giơ lên cao ngang trán. Cắm hướng vào lư rồi dập đầu, trong lòng hướng về Phật tổ, Bồ Tát hoặc La Hán. 5. Tư thế quỳ lạy phải hai gối song song, hai tay chắp lại. Tay giơ cao ngang trán thì dừng khấn, tay giơ tới miệng khì khán nguyện, tay giờ ngang ngực thì mặc niệm. Xong xuôi mở hai bàn tay, cúi sát người lạy, hai tay đặt hai bên người, thân quỳ trên chân, ba lần như vậy. Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Xem hướng nhà theo tuổi là việc mà bất cứ ai cũng cần quan tâm khi mua nhà, xây nhà. Nhà hướng tốt ắt mang tới cát lợi, tốt lành, phúc khí cho chủ nhân. Lịch Ngày tốt xin gợi ý xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Mão.
Lý tưởng nhất là sắp đặt theo hình Bát quái, bởi ghế ngồi thường xếp liền kề, không những có thể thúc đẩy sự hài hoà mối quan hệ xã giao, mà còn tạo nên không gian nghỉ ngơi thích hợp.
Sofa kiểu dáng mới mẻ sang trọng là một bộ phận không thể thiếu trong một căn nhà, tạo hình và màu sắc của nó thể hiện không khí trong một căn nhà. Sofa vải màu trang nhã là lựa chọn hợp phong thuỷ nhất, bởi sofa kị hoa loè loẹt.
Trong cuộc sống hàng ngày, sofa có chức năng làm nơi ngồi nghỉ ngơi, trò chuyện và tiếp khách khứa, bởi vậy trong phong thuỷ nhà ở, nó chiếm một vị trí khá quan trọng. Nên sự sắp xếp cũng cần hết sức thận trọng, phải đạt được các yêu cầu sau đây:
1. Về số lượng
Về hình dáng có sofa đơn, sofa đôi, sofa dài vàs ofa cong lưng, sofa quây tròn. Về chất liệu có sofa da, sofa giả da, sofa vải, sofa mây... về mặt màu sắc và tạo hình, càng “thiên hình vạn trạng”. Về số lượng sofa cũng phải thận trọng, kị bầy một bộ rưỡi sofa, hoặc 2 bộ sofa tròn vuông với nhau.
Bài trí sofa hợp phong thủy, cần chú ý tạo thế "tựa lưng vào núi", mang lại thịnh vượng cho gia chủ.
2. Phương vị kê đặt sofa
Sofa là nơi có thể để mọi người già trẻ trong nhà có thể nằm, ngồi nghỉ ngơi thoải mái, vậy nên phải chú ý tới phương vị kê đặt. Với nhà ở hướng Đông, thì sofa trong phòng khách đặt ở mé chính Đông, Đông Nam, chính Nam và chính Bắc, với nhà hướng Tây, sofa trong phòng khách nên đặt mé chính Nam, chính Tây, Tây Bắc và Đông Nam là đẹp.
3. Phía sau sofa nên có điểm tựa
Điểm tựa tương trưng cho núi, tựa vững chắc vào núi, đó là bức tường vững thãi kề phía sau sofa, không có cảm giác trống trải, chống chếnh phía sau, thế mới phù hợp với thuật phong thuỷ nhà ở. Người xưa thường dùng “tràng kỷ” (loại ghế tựa dài bằng gỗ, song mây, tre vầu...). Nhà giàu có thường dùng sofa, ghế bành bằng gỗ quý lưng tựa có khảm phiến đá vân mài nhẵn, có hoa văn và ẩn hiện phong cảnh sơn thuỷ rất đẹp, cũng mang ú nghĩa “tựa lưng vào núi”.
Nếu phía sau sofa là cửa sổ, là cửa ra vào hay lối đi lại, không gian trống, có nghĩa phía sau hư không chẳng có chỗ dựa vững chắc, cho người ngồi có cảm giác không an toàn, đương nhiên là kém thoải mái dễ chịu.
4. Sofa nên kê uốn lượn, không kê thẳng hàng
Địa vị quan trọng của sofa trong căn nhà ở cũng tựa như cảng khẩu chủ yếu của một quốc gia, phải cố gắng “nạp thuỷ” thật nhiều, mới hưng vượng. Mà một cửa hải cảng tốt thường 2 bên có bờ nhô ra như “tay ngai” tạo thành vịnh, như hình chữ U, che chắn bảo vệ 2 bên cạnh sườn, còn ở giữa chính là nơi nạp khí trong phong thuỷ, có thể “Tàng phong tụ khí”, để đạt được mục đích người và của cải đều dồi dào, hưng vượng
(Theo 100 câu hỏi về phong thủy nhà ở)
Tôi còn nhớ khi học tiểu học có một thầy giáo có khí chất của một người đàn ông rất tốt.
Lúc đó thầy mới được trường Sư phạm phân công về đây. Có thể nói đó là con người ưu tú. Thầy dạy học tốt, còn có khả năng văn nghệ, thái độ đối với học sinh rất nhân ái. Lúc nào thầy giáo cũng quan tâm đến học sinh, giúp đỡ thương yêu học sinh nên khi ra trường ai cũng nhớ đến thầy với lòng tôn kính.
Năm vừa rồi khi đến thăm thầy tôi thấy sức khỏe, tinh thần của thầy không được như trước. Đứng trước tôi là một người già nua, lưng còng, mắt mờ. Tôi hỏi thầy thì được biết đã một năm nay thầy đau ốm, lúc nào cũng cảm thấy không an toàn, đi đường sợ xe, ăn cơm thì dạ dày không ổn, cả ngày lúc nào cũng sợ quỷ, không có hứng thú với bất cứ việc gì, không có lòng tin, không quyết đoán như trước đây, lúc nào cũng cảm thấy sợ bạn bè nhưng có lúc lại muôn biết rõ những việc không thành.
Chúng tôi đề nghị thầy đi gặp bác sĩ nhưng ông nói:
– Đây không phải là bệnh, có thể do quỷ thần tác quái. Bởi vì trước đây một năm tôi vẫn thường nằm mơ, thây một cành cây khô rơi xuống đầu mình. Thế rồi lúc nào cũng nằm mơ thấy cành cây khô đó.
Ai nấy đều buồn, trước đây thầy đầy sức sống, không tin vào quỷ thần, giờ không biết mơ thế nào mà lại suy nghĩ hoang đường như thế. Chúng tôi bàn bạc, viết thư trình bày tình hình bệnh tật của thầy cho một giáo sư đại học chuyên chữa bệnh và nghiên cứu mơ.
Có lẽ tinh thần tôn sư của chúng tôi đã làm cho giáo sư cảm động, ông tự mình đến gặp thầy giáo chúng tôi hai lần, tìm hiểu kỹ giấc mơ của thầy rồi bắt tay vào điều trị.
Thầy giáo chúng tôi hồi phục trở lại.
Giáo sư cho căn bệnh này là một ví dụ điển hình và đã đưa vào bài phát biểu trong hội nghị.
Quan hệ giữa cành cây khô trong giấc mơ với chứng suy nhược thần kinh đã được ông nhận định như sau: Một người có bệnh thần kinh suy nhược vẫn thường nằm mơ thấy mất đi sức sống như cây khô, cỏ chết khô, cầm thú chết.
Thầy giáo nằm mơ thấy cành cây khô chứng tỏ tinh thần ông bị kích thích, giấc mơ kinh sợ dẫn đến hàng loạt phản ứng bất thường nên có cảm giác bất an, thiếu lòng tin, do dự không quyết định, việc gì cũng sợ, không khống chế được tình cảm.
Phương pháp điều trị là phải xây dựng được lòng tin đối với cuộc sống, chú ý ăn uống, nghỉ ngơi, uống thuốc an thần để chóng khỏi bệnh.
Bài của Thu Giang NGUYỄN DUY CẦN
Chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài này của ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần, giáo sư đặc trách Triết học Đông Phương tại Đại Học Văn Khoa Saigon và là người đương hướng dẫn công việc của Ủy Ban Điển Chế Văn Tự. Thiết nghĩ khỏi phải giới thiệu nhiều về ông, vì các sinh viên theo ông đã biết rõ, và các tác phẩm của ông mấy chục tác phẩm Triết Học Đông Phương, gồm các sách về học thuyết Lão, Trang, Phật và về thuật sống của người xưa- cũng đã giới thiệu quá nhiều về ông. Trong phạm vi Khoa Học Huyền Bí, nhất là về khoa Tử Vi, chúng tôi đã nhờ cậy đến ông nêu ra một số quan niệm và kinh nghiệm, và đây là bài đầu tiên mà chúng tôi nhận được, đó cũng là bài căn bản để nêu lên một quan niệm về khoa Tử Vi. Có định mạng trong đó con người phải nép mình vào, hay là con người còn có tự do để xây dựng cuộc sống của mình. Ông Thu Giang đã gặp những trường hợp về định mạng thật là khắt khe buộc tin là phải có định mạng. Nhưng ông cũng muốn nêu lên một điều này: là con người vẫn có tự do để thay đổi số mạng của mình, và chính là lá số Tử Vi cho biết như vậy (LTS).
Người Việt Nam nào cũng nghe đến “số Tử Vi”… Nhất là những nhà theo cái huyền học truyền thống Á Đông, không một ai là không để ý đến nó, dù tin hay là không tin. Các nhà cho phần đông lại tin tưởng nó một cách gần như tuyệt đối. Bởi vậy, lúc đứa trẻ sinh ra, họ ghi lại rất kỹ giờ, ngày, năm tháng để tự mình lấy một lá số cho đứa trẻ hầu biết rõ tương lai nó như thế nào.
Có thể nói hầu hết, ngay những người tự xem có đầu óc khoa học nhất và tin tưởng nơi quyền tuyệt đối tự do của cá nhân, phủ nhận thuyết định mạng, cũng ít nhiều băn khoăn, nếu không nói là hoang mang trước vấn đề TỰ DO hay ĐỊNH MẠNG, một vấn đề mà Triết Học đã tốn không biết bao nhiêu giây mực rồi, nhưng chưa ngã lẽ.
Tôi còn nhớ, thưở nhỏ, nghe chú tôi, một nhà Nho chính cống rất giỏi Tử Vi, cả những môn Nhâm Cầm độn giáp, thường nói với về tôi với cha tôi: “Thằng này là con chim biển”, số mạng nó là hoang đàng lãng mạn, không bao giờ chịu sống trong khuôn khổ nào cả, cho được lâu ngày… Anh bỏ nó vào lồng, là nó phá lồng mà bay mất. Nuôi nó, nó cắn. Nó rừng rú… nó thích sống tha hồ trên biển rộng trời cao. Vui thì nó ở, buồn nó đi. Cho nên đường công danh của nó không thể đoán được.
Cha tôi lo cho tôi lắm, chỉ sợ tôi “hoang đàng”… Mà thật, xét lại từ nhỏ đến lớn tôi không chịu ở trong một cái lồng nào cả, không chịu vào một hội đảng hay một tôn giáo nào cả. Tôi đã cố gắng để sống trong một khuôn sáo đã được bề trên đặt để, mà nào có được cho cam. Xét lại những lời tiên đoán của chú tôi, về đại cương hết sức đúng.
Tôi lại có một người bạn chí thân, cũng có cậy chú tôi xem thử. Ông nói: “Thằng này lại khác, nó là con vượn quý được nuôi trong chuồng vàng. Công danh sẽ cao lắm, nhưng dù sao nó cũng phải bị nhốt trong lồng. Con vượn này là con vượn áo mão”. Bạn tôi tức lắm, nhất định sửa lại số mình, nếu có. Nhưng, hôm nay đầu đã hai thứ tóc, bạn tôi đang là một công chức cao cấp ngày tháng ràng buộc trong cảnh sang giàu mà tâm hồn luôn luôn đau khổ vì nhớ đến núi sâu rừng thẳm. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau… bạn tôi nhìn tôi… và lắc đầu… không nói gì cả.
Tôi có người bạn chí thân khác, có tài xem số Tử Vi, có thể nói là như thần. Tôi không tiện nói tên anh bạn, vì anh đã yêu cầu không nên tiết lộ cho ai cả.
Tôi đã được sống bên anh, và đã chính mắt thấy tai nghe cái tài đoán số của anh.
Bấy giờ là khoảng tháng 4 dương lịch năm 1963. Chúng tôi cùng đi nghỉ mát ở Đà Lạt. Tôi cũng quen thân một vị công chức ở đây cũng là một tay đoán số Tử Vi có căn bản lắm. Ông ấy có cho chúng tôi xem hai lá số của ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu do người nhà của họ Ngô cho biết, vì bà vợ ông này là con gái của một gia đình vọng tộc ở đất Thần Kinh, rất quen thuộc với cụ Ngô Đình Khả.
Vị công chức này nghe bạn tôi sành Tử Vi, muốn nhờ bạn tôi đoán thử tương lai của hai ông gộc này như thế nào, và cũng là một cách để học thêm phép đoán.
Bởi chỗ quen thân, nên bạn tôi đoán liền:
- Số của hai người này qua tháng 9 âm lịch năm này (tức là 1963) muộn lắm là qua tháng 10, sẽ chết hết, mà chết một cách hết sức thảm khốc: tử vu đao kiếm. Lạ nhất là hai ông này cùng chết một lượt.
Anh bạn tôi cắt nghĩa:
- Số người anh có Phá Quân thủ Mạng ở cung Ngọ, lại gặp Triệt, còn số người em thì Thiên Tướng thủ Mạng, cùng ở cung Ngọ, lại cũng gặp Triệt. Đó là số bất đắc kỳ tử. Hạn đã gặp Thiên Không và khoảng tháng 9, tháng 10, không sao thoát khỏi.
Lúc bấy giờ ở Sài Gòn đã xảy ra cuộc xuống đường của Phật Giáo rồi và ngay ở Đà Lạt cũng đã bắt đầu nhôn nhao về vụ bắt bớ các nhà sư. Bạn tôi bảo riêng tôi: Đã đến lúc họ Ngô hết thời, anh mau về Sài Gòn nhưng phòng tháng 7 bị liên can và bắt bớ. Tuy vậy, không sao. Rồi cũng tai qua nạn khỏi. Tháng 9 hết nạn.
Lúc ấy, anh chủ nhiệm tờ báo lại gởi thư thúc hối tôi về gấp để tổng kết cuộc thảo luận. Tôi ra về, ôm theo hai lá Tử Vi, dĩ nhiên là cất kín, để thử xem lời tiên đoán như thế nào.
Qua tháng 7, tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh thiết quân luật và cho tấn công vào chùa Xá Lợi, bắt tất cả các sư nhốt lại. Cách ít hôm sau, Tòa Soạn báo Tự Do bị niêm phong, anh em ký giả chúng tôi đều bị ruồng bắt hết… Nhớ lại đúng là tháng 7.
Bị giam ở An Ninh Quân Đội, tôi và các bạn được giam chung cùng một gian phòng. Không việc gì làm cho qua buổi “nhàn cư”, tôi bèn lấy các lá số của những người đang nắm quyền sinh sát chúng tôi ra xem và nghiên cứu lại cho tường tận theo lời chỉ dẫn của bạn tôi.
Không phải vì bị bắt, bị nhốt… mà đâm ra tâm trạng mong mỏi cho lời tiên đoán của ông bạn được thực hiện, để được giải phóng. Chúng tôi nghi ngờ, vì không làm sao tin là việc có thể xảy ra được. Lý do nào lại có việc chết cùng một lượt, mà lại cùng bị chết đâm chết chém.
Nhưng rồi tiếng súng ngày 1-11-63 đã bắt chúng tôi tin là có thật. Rồi qua ngày 2-11-63, nghe đài Phát Thanh loan tin rằng hai anh em họ quả đã “tử vu đao kiếm”.
Huống chi cung Giải Ách lại gặp đủ các sao Khôi, Việt, Kình, Đà và Thiên Hình. Số ông Ngô Đình Diệm cũng một thể: Khôi và Hình cùng ở một cung Giải Ách (Ông Diệm sanh năm Canh Tý, tháng 5, ngày 13 giờ Tý).
Sau khi hai ông Diệm và Nhu đã mất, một số nhà báo có nói đến số Tử Vi của 2 ông này và cho rằng 2 ông đã được các ông này báo trước. Tôi chẳng dám không tin, nhưng tôi tin nơi việc mà ông bạn tôi đã đoán về việc ấy, vì chính tôi đã mắt thấy tai nghe, và các bạn đồng số phận như tôi cũng đã có cơ hội chứng kiến lời tiên đoán ấy.
Cũng đã có nhiều cơ hội khác mà ông bạn lý số này đã làm cho tôi ngạc nhiên, và việc trên đây chỉ là một trường hợp đặc biệt thôi.
Có số mạng không?
Tôi xin tạm đặt lại vấn đề. Có, là sự dĩ nhiên rồi. Tuy vậy, mà KHÔNG. Tôi lại trở về vấn đề CÓ mà KHÔNG, KHÔNG mà CÓ của Đông Phương Triết Học. Ta cần phải xác nhận cái thuyết TIỀN NHÂN HẬU QUẢ của Phật Giáo, mà đừng chia thời gian ra làm 3, là Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai, mà phải quan niệm cả 3 là MỘT thì mới tạm giải quyết được vấn đề to tát này.
Câu: ”CÓ TRỜI MÀ CŨNG CÓ TA” của Nguyễn Du diễn được cái lý mà tôi đã nói trên. TRỜI đây đâu phải là số mạng mà có nghĩa là dường như do đâu đến. Mà thật sự, TRỜI đầy cũng chính là TA ở tiền thế. Theo Phật Giáo Duy Thức Học, thì TA ngày nay là TA của ngày trước đã kết tinh thành một mạng số. Ta ngày nay vừa là vật THỌ TẠO của ta ngày trước, và đồng thời cũng là Đấng Tạo Hóa của TA sau này (kiếp tới hay kiếp này).
Bởi vậy, tin “có số mạng” là sai, mà tin “không có số mạng” cũng sai. Người nào sành lý Nhân Duyên Quả Báo của nhà Phật Duy Thức Học mà nghiên cứu về số Tử Vi sẽ rất tinh. Trên lá số, ta thấy rõ ràng mọi định luật của Tạo Hóa. Toàn lý thuyết Nhân Duyên chi phối lý thuyết của khoa Tử Vi.
Cái mà ta gọi là Số Mạng thực sự chỉ là cái Nghiệp tự ta đã gây ra (Tự nghiệp), chứ không phải một quyền lực nào ngoài mình tạo ra cả. Và như vậy, cái gọi là số mạng không phải là tuyệt đối không thay đổi: tự mình tao ra, thì cũng tự mình hủy nó đi… nếu muốn, chứ không ai cứu được mình cả.
Sư rằng: Họa phúc đạo trờiCỗi nguồn cũng tại lòng người mà ra
Có trời mà cũng có ta,
Tu là cội phúc, tình là giây oan.
Chữ TRỜI đây là ám chỉ số mạng dường như của Trời kia sắp đặt. Số mạng đâu phải là vấn đề cố định, nhất là về “Tâm Pháp”. Gọi là “Tâm Pháp”, là nói về các Pháp mà nguyên nhân do tâm thức tạo nên, người Tây Phương gọi là destinée intérieure… Phần này, người ta có thể nhất định đổi ngay được, như các bậc đắc đạo, hoạt nhiên tỉnh ngộ, các sợi dây ràng buộc của nghiệp chướng bị tháo tung và tan vỡ cả. Đó là việc khó làm nhất, nhưng không phải là không thể làm. Còn các pháp đã kết tinh lâu đời, không dễ gì mà tiêu hủy được, cho nên khó bề tránh được trong một kiếp người thường nhân như chúng ta.
KHHB số 31- 20/12/1972