Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những con giáp dễ nhặt được tiền trong tháng 12

Con giáp nhặt được tiền tháng 12: Sở dĩ những con giáp này dễ dàng nhặt được tiền bởi vì đường phụ tài của họ rất vượng.
Những con giáp dễ nhặt được tiền trong tháng 12

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sở dĩ những con giáp này dễ dàng nhặt được tiền bởi vì đường phụ tài của họ rất vượng.


1. Người tuổi Dần


Nhìn chung, tài lộc tháng 12 của người tuổi Dần khá vượng, đặc biệt là phụ tài. Theo đó, áp  lực về tài chính giảm, cảm giác kiếm tiền nhanh, dễ dàng và thuận lợi hơn. Ngoài ra, tháng này bạn gặp khá nhiều may mắn về tiền bạc, tỉ lệ trúng thưởng, thậm chí là trúng xổ số rất cao. Nếu nói bạn thuộc top những con giáp dễ nhặt được tiền trong tháng 12 này cũng không hề khoa trương.

Nhung con giap de nhat duoc tien trong thang 12 hinh anh
 
Tuy nhiên, người cầm tinh con Hổ nên nhớ rằng, chỉ nên tiến hành những việc nằm trong khả năng cho phép và không vi phạm quy định hay đi ngược lại lợi ích của bản thân, người xung quanh, có như vậy may mắn mới không rời xa bạn.

2. Người tuổi Mão

Có thể nói trong tháng 12 này, người tuổi Mão chỉ cần bỏ ra chút thời gian và công sức sẽ thu về kết quả ưng ý, thậm chí còn vượt xa cả sự mong đợi. So với những tháng trước, thu nhập của bạn đã tăng lên rõ rệt. Bên cạnh đó, tỉ lệ trúng thưởng hay trúng số khá cao, bạn có thể thử vận may của mình bằng một vài tờ vé số, nhưng nhớ cần biết điểm dừng nhé.

Ngoài ra, những ai làm trong lĩnh vực kinh doanh hoặc đầu tư nên lập kế hoạch rõ ràng trước khi hành động, tránh tổn hao về tài chính. Khi đã có chiến lược cụ thể, tinh thần bạn thêm thư thái, bình ổn, từ đó dễ dàng tìm ra hướng đi chính xác và gặt hái được nhiều thành công rực rỡ.

Nhung con giap de nhat duoc tien trong thang 12 hinh anh
 
3. Người tuổi Tỵ

Bước sang tháng 12, tình hình tài chính của người tuổi Tỵ có xu hướng tăng và ổn định. Ngoài nguồn thu chính, thu nhập ngoài luồng của con giáp này cũng tăng mạnh. Đặc biệt là những ai làm trong ngành đầu tư, kinh doanh, tỉ lệ phát tài cao, tiền bạc vào như nước.

Nhiều khả năng, những kế hoạch hay dự định lớn như mua nhà, xe cộ, đi du lịch... của người tuổi Tỵ sẽ được tiến hành suôn sẻ trong tháng này vì áp lực vật chất đã được giải tỏa.

Việt Hoàng (Theo MGSP)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp dễ nhặt được tiền trong tháng 12

Phong thủy: Cách hóa giải nguy cơ có tình địch –

Trong tình yêu sự chen ngang của người thứ ba làm bạn rất mệt mỏi và là nguyên nhân khiến cho mối tình cũng như cuộc hôn nhân của bạn tan vỡ. Tuy nhiên mọi thứ đều có thể hóa giải nếu bạn biết cách. Sau đây chúng tôi sẽ hướng dẫn các bạn cách hóa giả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tình yêu sự chen ngang của người thứ ba làm bạn rất mệt mỏi và là nguyên nhân khiến cho mối tình cũng như cuộc hôn nhân của bạn tan vỡ. Tuy nhiên mọi thứ đều có thể hóa giải nếu bạn biết cách. Sau đây chúng tôi sẽ hướng dẫn các bạn cách hóa giải nguy cơ có tình địch theo phong thủy. Nếu bạn là con trai, hãy để lộ vầng trán của mình; còn nếu bạn là con gái hãy mặc trang phục màu hồng hoặc thoa một chút son hồng… Củ thể ra sao các bạn hãy tìm hiểu trong bài viết dưới đây để biết cách hóa giải nguy cơ có tình địch của mình nhé! Bởi đây là một kiến thức mà tất cả chúng ta đều cần biết.

Nội dung

  • 1 Hướng dẫn cách hóa giải nguy cơ có tình địch
    • 1.1 Không được vội vàng, phải vững tâm lý
    • 1.2 Chặt một cành đào nhỏ đặt trong phòng ngủ
    • 1.3 Để lộ trán nếu bạn là con trai
    • 1.4 Tỏ tình vào thời gian thích hợp nhất
    • 1.5 Toả ra “sắc đào” nếu bạn là con gái
    • 1.6 Mua đồ đôi may mắn

Hướng dẫn cách hóa giải nguy cơ có tình địch

Không được vội vàng, phải vững tâm lý

Khi phát hiện ra nguy cơ có tình địch, trước tiên bạn phải bình tĩnh, không được vội vàng và xem lại bát tự của hai người. Có thể bạn sẽ phát hiện ra năm nay rất kỵ với tuổi của bạn hoặc người yêu, vận khí không được tốt nên xảy ra một số biến động cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên chỉ cần vượt qua được mấy tháng xấu trong năm, mọi chuyện sẽ tốt lên thôi.

Chặt một cành đào nhỏ đặt trong phòng ngủ

Cách này đồng nghĩa với việc bạn đã dùng dao cắm vào cành đào, mượn nó để loại trừ sự đào hoa (hoa đào tượng trưng cho sự đào hoa). Hoặc cành đào đó sẽ đánh bại tình định của bạn, đưa người ấy trở về bên bạn.

tinh-dich-b-1241-1393227810

Để lộ trán nếu bạn là con trai

Trong phong thuỷ, tình yêu chính là sự giao thoa về khí giữa hai người khác giới. Trán của con người là cửa vào của khí. Nếu bạn để tóc che mất trán, có nghĩa bạn từ chối sự giao thoa khí với đối phương. Vì thế, nếu muốn toả ra hơi thở của tình yêu, đầu tiên bạn phải để lộ trán của mình. Muốn giữ lại người mình yêu, đánh bại tình địch, tốt nhất bạn nên để tóc ngắn, không được che mất trán.

Tỏ tình vào thời gian thích hợp nhất

Việc nắm bắt được thời cơ cũng rất quan trọng. Theo phong thuỷ, 17-19 h là thời gian thích hợp nhất để tỏ tình. Trong phong thuỷ, khoảng thời gian này được gọi là giờ “đoái”, tượng trưng cho tình yêu. Ngoài ra, nó còn mang ý nghĩa vui vẻ, chờ đợi. Nếu qua mất giờ đẹp, đặc biệt là qua 23 h thì bản chất của tình yêu sẽ có những thay đổi to lớn. Từ 23 h đến 1 h sáng hôm sau là giờ “khảm”, là thời gian chức năng sinh lý dồi dào. Tỏ tình trong thời điểm này sẽ khiến tình yêu biến thành mối quan hệ của dục vọng. Vì thế bạn cần hết sức lưu ý.

Toả ra “sắc đào” nếu bạn là con gái

Không biết mọi người có để ý đến không nhưng có rất nhiều cô gái cứ nhìn thấy màu hồng là vui mừng khôn xiết, thậm chí còn có thể toả ra sức hấp dẫn vô hình. Màu sắc có rất nhiều tác dụng không thể bỏ qua, trong đó màu hồng phấn (gần giống màu của hoa đào) là màu tăng thêm sức hấp dẫn cho người con gái. Ở Trung Quốc, hoa đào tượng trưng cho tình yêu. Mùa xuân hoa đào nở, và cũng là mùa đẹp nhất để phát triển tình cảm. Vì thế, khi bạn có tình địch, hãy mặc những trang phục màu hồng hoặc thoa một chút son hồng… Điều này sẽ khiến cho bạn trai của bạn tăng thêm sự yêu thích đối với bạn. Tóm lại, hãy tận dụng những sắc hồng trong trang phục hay khi trang điểm để làm lu mờ cô nàng tình địch đáng ghét kia.

Mua đồ đôi may mắn

Bạn nên mua một đôi ngọc bội long phượng may mắn, đây là thứ các cặp đôi thường dùng. Ngọc bội màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và bền chặt của tình yêu. Hai bạn mỗi người đeo một nửa. Nó sẽ phù hộ cho cả hai mãi mãi thương yêu nhau. Đeo miếng ngọc bội này hàng ngày có thể đánh bại tình địch, khiến người bạn yêu quay về bên bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy: Cách hóa giải nguy cơ có tình địch –

8 điều xui xẻo chớ mắc phải khi trang trí nhà cửa

Ai cũng muốn có 1 căn nhà đẹp và rất chú trọng trang trí nhà cửa. Nhưng đôi khi hành động vô tình của chúng ta lại phạm phong thủy, khiến cho xui xẻo ập tới.
8 điều xui xẻo chớ mắc phải khi trang trí nhà cửa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ai cũng muốn có một căn nhà đẹp và đầu tư nhiều tâm sức vào để trang trí nhà cửa. Nhưng bạn cũng nên chú ý đến phong thủy, bởi đôi khi hành động vô tình của chúng ta có thể khiến cho xui xẻo ập tới mà không hay.   Trang trí nhà cửa, trang trí nội thất còn được coi là một môn nghệ thuật. Chúng ta ai cũng muốn trang trí cho nhà mình thật đẹp, giàu tính thẩm mĩ, nhưng có lẽ không hề biết rằng nếu không đủ hiểu biết thì vô hình trung, chúng ta có thể phạm phải đại kị phong thủy mà gây ra những điều xui xẻo cho cả gia đình.


8 dieu mang xui xeo khi trang tri nha cua
 
  Vậy khi trang trí nhà cửa, cần tránh không mắc phải những điều cấm kị gì trong phong thủy? Hãy cùng Lịch ngày tốt đi tìm câu trả lời nhé.  

1. Nhà có quá nhiều gương

  Trong phong thủy, gương đại diện cho âm hàn, dễ chiêu gọi tà khí. Nhà treo nhiều gương có tốt không? Nếu trong nhà để quá nhiều gương thì dễ khiến cho gia chủ hao tài mạt vận, mua sắm tiêu xài vô độ, chi tiêu vượt quá mức khả năng có thể chi trả được, kinh tế gia đình càng ngày càng đi xuống.  

2. Đồ làm bếp hay nồi cơm bị nứt vỡ


khong de do lam bep da hong trong nha


 
Nhà bếp cũng giống như kho tiền tài vậy, chính vì thế đồ dùng nhà bếp không chú ý có thể gây ra những hậu quả không lường trước được. Nếu đồ làm bếp hay nồi cơm đã bị hỏng hay nứt vỡ thì tốt nhất bạn hãy vứt bỏ đi, đừng giữ lại trong nhà, nó sẽ khiến cho tài vận càng ngày càng tệ, Thần Tài xa lánh, chẳng muốn bước vào cửa nhà.  

3. Xà nhà áp đỉnh

  Xà nhà áp đỉnh sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tâm trạng của gia chủ. Bạn không nên kê giường, bàn trà, bàn ăn hay bàn làm việc dưới dầm nhà. Tuy nhiên cũng không khó để hóa giải xà nhà phạm lỗi phong thủy. Nếu không thể tránh được kê đồ đạc như trên dưới xà nhà do không gian có hạn thì phải thiết kế nội thất sao cho phù hợp, ví dụ làm thêm trần nhà để che chắn dầm nhà đó đi. Sức khỏe đi xuống, tâm trạng tồi tệ, chẳng có gì lạ khi mà công việc lẫn tiền bạc đều bị ảnh hưởng.  

4. Cánh cửa, khung cửa bị cong hay nứt


cua va khung cua khong duoc cong venh nut vo
 
Hãy kiểm tra kĩ phần cánh cửa, khung cửa của nhà bạn. Đây là điều cực kì quan trọng bởi tài khí vào nhà qua cửa lớn, nếu phần cửa nhà bạn bỗng nhiên bị cong hay nứt vỡ mà không kịp thời sửa chữa thì Thần Tài chẳng buồn ghé tới, thay vào đó là vận nghèo khổ sẽ đeo bám các thành viên trong gia đình.  

5. Đồ đạc trong phòng ngủ không cân đối

  Phòng ngủ là không gian riêng tư của mỗi người, với các cặp vợ chồng thì đó là thiên đường tình yêu của họ. Chính vì thế mà nếu đồ đạc trong phòng ngủ không cân đối thì cũng như quan hệ vợ chồng thiếu hài hòa, lâu dần sẽ dễ nảy sinh mâu thuẫn, vợ chồng tranh cãi xích mích, gia đình bất ổn không yên.  

6. Đặt cây cảnh, hoa lá thích hợp với phòng khách trong phòng ngủ

  Có những loại cây, loại hoa chỉ thích hợp đặt ở phòng khách, nếu đặt ở phòng ngủ sẽ phá phong thủy, gây bất hòa trong quan hệ vợ chồng. Ví dụ nếu đặt hoa ở đầu giường sẽ dễ phạm đào hoa dữ, hai vợ chồng có tình cảm ngoài hôn nhân, dần dần khiến cuộc sống vợ chồng xa cách, gia đình tan vỡ. Đây là điều đại kị trong trang trí nhà cửa, chỉ sơ sảy một chút thôi cũng có thể khiến cho tai họa ập tới.   Phòng ngủ thích hợp bày những cây cảnh lá to rộng, có thể giúp cho tình cảm vợ chồng ngày càng thêm thắm thiết, cũng thúc đẩy vận trình tài lộc cho gia chủ. Ngược lại thì những cây lá nhỏ có thể tạo ra trường khí không tốt, khiến chủ nhân dễ vướng phải những rắc rối không đâu, làm gì cũng không suôn sẻ.  

7. Đầu giường có gắn gương, dễ gọi mời ma quỷ


dau giuong gan guong
 
Đầu giường gắn gương là một điều nên tránh khi trang trí nhà cửa, bởi theo phong thủy nhà ở nó khiến cho chủ nhân dễ bị đau đầu, mất ngủ, còn dễ gọi mời ma quỷ đến nhà.  

8. Dưới giường và nền nhà để nhiều đồ đạc

  Trong cuộc sống, nhiều người không hiểu rằng gọn gàng sạch sẽ có thể đem lại vận khí tốt cho gia chủ. Thực ra phong thủy không quá phức tạp như mọi người tưởng tượng, nó có những ứng dụng rất thiết thực ngay bên cạnh chúng ta. Bạn đừng nên để đồ đạc lung tung bừa bãi dưới sàn nhà cũng như ở dưới gầm giường, bởi nó sẽ khiến cho khí xấu lan tràn, khí tốt bị ngăn cản, ảnh hưởng đến vận khí của cả gia đình. 
An An

Phong thủy nhà ở không tốt, bảo sao bạn vẫn độc thân Tại sao mãi vẫn nghèo? Vì chưa biết những lưu ý phong thủy ảnh hưởng tới tài vận

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 điều xui xẻo chớ mắc phải khi trang trí nhà cửa

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Xem tướng phụ nữ đa dâm và sát chồng –

Phụ nữ vừa đi vừa lủi vừa mổ, gật đầu tợ rắn, bước chổng như chuột là người bần khổ đa dâm, đa tật đó. Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ bần bạc dâm ác: Vừa đi vừa lủi vừa mổ, gật đầu tợ rắn, bước chổng như chuột là người bần khổ đa dâm, đa tật đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phụ nữ vừa đi vừa lủi vừa mổ, gật đầu tợ rắn, bước chổng như chuột là người bần khổ đa dâm, đa tật đó.

36-09

Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ bần bạc dâm ác: Vừa đi vừa lủi vừa mổ, gật đầu tợ rắn, bước chổng như chuột là người bần khổ đa dâm, đa tật đó.

Xem tướng phụ nữ bân bạc dâm ác
Lông mày lem mí, tóc thô cứng, mặt bạnh, mũi hỉnh là cô độc, khắc sát nghèo hèn.

Mũi cong khoảng giữa, mũi có ngấn, lỗ mũi ngó trời mũi hỉnh là tướng đa dâm, hạ tiện, khốn khổ.

Trán có nhiều lằn, mắt lộ tròng trắng bệch là người gian dâm đại ác khắc chồng sát con, tán tài cơ cực.
Bụng teo ngực nẩy cũng là người có tướng nghèo hèn tham lam dâm đảng.
Tiếng nói như lửa reo hừng hực, mắt lộ gân đỏ lan tới con ngươi là tướng người hung ác thô bạo, hình phu sát tử. Môi trên như trùm xuống, môi dưới như đầy ra cũng đều là tướng người khắc sát bần bạc, ngu độn.
Hay đứng dựa cửa liếc dọc ngang, chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy, đang làm công việc, dừng tay châu mày thở ra, hay ca hát nho nhỏ, tự nhún nhẩy một mình, tóc hoe mà thưa lợt gần như lông măng tay, đều là những hình tướng đê tiện dâm đãng.

Miệng dụm như thổi, môi thâm mồm rộng, chơn mày dựng ngược, thấy cười mỉm, mắt nhìn như diều hâu, như cú dữ, đều là tướng hèn hạ, bạc ác.
Đi như chim se sẻ, ăn liếm láp như bò dê, nét mặt xanh đen, lông mày có góc xương lộ, hay tự nói lầm thầm, nói chuyện làm việc quên đầu quên đuôi, hơi khô giọng thổ, đều là các hiện trạng hình tưởng đàn bà âm trầm bạc ác, sâu độc nghiêng ngả, ghen tương như điên dại.
Đôi gò má ửng hồng, mắt như sao chớp, mát bóng như mở, miệng ngậm không kín răng, hạ mao như cỏ khô lưa thưa vàng úa, âm hộ chỉ có da bọc xương nhô lên, chớ không đầy thịt, ngủ say hay nói một mình hoặc kinh hoảng mớ la. Ngồi tựa như đứng, đứng giống như ngồi, mừng vui giận ghét không chừng đổi, hay lắc mình nghiêng đầu, liếc dọc nhìn ngang. Ấy là biểu lộ hình trạng tà dâm bạo ác không tốt.

Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ bần bạc dâm ác theo TƯỚNG PHÁP DIỄN CA

Đàn bà khắc sát chồng con

Mặt dày miệng rộng, trán còn lằn ngang

Xoáy tóc trước trán mấy hàng

Mặt nhọn gân nổi lại càng xấu xa

Mày cao xương mí lộ ra

Lông mày mọc ngược thấy mà gớm ghê

Lại thêm mặt trẹt một dề

Lông mày dựng đứng phu thê xa lìa

Con ngươi vàng bệt đỏ tươi

Tròng trắng, trắng giã là người sát phu

Mũi mọc cụm lông u xù

Miệng chụm như thổi lao tù chồng con

Tai mỏng lật ngược vòng tròn

Tóc nám như cháy vàng son phai màu

Tuổi trẻ tóc rụng sói đầu

Hình phu khắc tử lệ sầu không vơi ?

Đầu lủi trước, bước đi sau

Ngoảnh đầu ngoái cổ làm màu đong đưa

Đầu to sói tựa gáo dừa

Giả sầu giả bịnh đánh lừa phu quân

Đầu lép trán dẹp lưng chừng

Trán rộng mày rậm cũng đừng vội tin

Bao nhiêu tướng đã lộ hình

Là bao nhiêu tánh dâm tình tà gian

Má hồng, mặt đẹp trái soan

Ngoại gian mê đắm lấy vàng cũng cho

Má lép mặt như đất tro

Tỉnh sâu thâm thẩm ai đo cho vừa

Ánh mắt chiếu rực mây mưa

Nhìn ngang liếc dọc đẩy đưa duyên tình

Mắt mọc nút ruồi xinh xinh

Lại như ướt rượt mày xanh mi dài

Đa tình không gởi cho ai

Trong nhà dù có ra ngoài cũng thêm

Môi xanh như rêu bên thềm

Môi trắng bềnh bệch như têm vôi trầu

Răng chuột tai dơi nhọn đầu

Thân dài cổ ngắn, chớ cầu chính chuyên

Thân gầy như liễu gió nghiêng

Ngực cao mông lép lụy phiền vì yêu

Bao nhiêu cũng chưa là nhiều

Sáng mai không đủ thêm chiều không dư

Rún lòi đầu vú cứng khừ

Cũng phường lãng đãng tà tư khôn lường

Đầu vú trắng bệch điểm sương

Núm sát trùng thịt cũng vương lưới tình

Vừa đi vừa nói một mình

Cười như ngựa ré tiết trinh kể gì

Vung văng như rắn cuốn đi

Ăn như chuột gặm, ngủ thì mớ la

Bao nhiêu hình bóng nêu ra

Đều thuộc dâm đãng biết mà làm sao

Sách xưa chép dễ sai nào

“Tướng tùng tâm diệt” nhớ trao sửa mình

Còn câu “Tướng tự tâm sinh…”

Chữ tâm kia mới chứng minh tỏ tường

Tâm minh chính, chí đường đường

Tướng yểu lại được thọ trường khó chi

Mặc dầu sách cổ đã ghi

Vẫn còn tùy diệt vẫn còn tùy sinh

Hư nên do ở tâm mình

…….. Xin nhớ đinh ninh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phụ nữ đa dâm và sát chồng –

Tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Người tuổi Tị luôn có sức cuốn hút với người khác giới, cũng có yêu cầu rất cao đối với bạn đời. Vậy trong tình yêu hôn nhân, người tuổi Tị hợp với tuổi nào?
Tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tị thông minh, khéo léo, luôn có sức cuốn hút với người khác giới.Trong tình yêu hôn nhân, họ cũng có yêu cầu rất cao đối với bạn đời. Vậy người tuổi Tị hợp với tuổi nào? Người có tính cách ra sao mới giúp cho người tuổi Tị có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc?   Người sinh năm Rắn đầu óc thông minh, giỏi lên kế hoạch, hợp với công việc về chính trị hay kinh doanh. Họ cũng hiếm khi để lộ cảm xúc cá nhân, luôn kiểm soát bản thân rất tốt.
 
Người tuổi Tị tính tình trong nóng ngoài lạnh nên hay bị người khác hiểu lầm. Bản chất họ trong sáng, đơn thuần, song lại vì thế mà dễ bị người khác làm tổn thương, từ đó trở nên nghi ngờ và cảnh giác hơn.
 
Tính cách như vậy nên họ rất cẩn trọng khi lựa chọn bạn đời. Vậy nữ tuổi Tị hợp với tuổi nào? Con giáp nào sẽ là người vợ hoàn hảo cho nam tuổi Tị? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé.


Tuoi Ti hop voi tuoi nao trong tinh yeu hon nhan hinh anh 2
 
Tuổi Tị và tuổi Thân lục hợp, đây là con giáp thích hợp nhất đối với người tuổi Tị. Tuổi này cũng hợp với tuổi Dậu và tuổi Sửu, kết hôn sẽ có hạnh phúc dài lâu. 
 
Theo tử vi, tuổi Tị tương xung với tuổi Hợi, tối kị kết hôn. Tuổi Tị và tuổi Dần tương hành, tốt nhất nên tránh tìm một nửa là người tuổi Hợi.   

1. Nữ tuổi Tị hợp nam tuổi gì?
 

Nữ tuổi Tị + Nam tuổi Thân = Lục hợp
 

Hai người là một cặp trời sinh. Cả hai luôn yêu thương và ngưỡng mộ, kính trọng lẫn nhau, hết lòng vun đắp cho tổ ấm gia đình. Người chồng vừa có ý chí xây dựng sự nghiệp, vừa có ý thức vun đắp hạnh phúc gia đình nên người vợ luôn thấy thoải mái, hài lòng và tự do theo đuổi ước mơ.
 
Tuổi Tị hợp với tuổi nào? Nữ giới tuổi Tị là mẫu người điển hình về sự chung thủy trong tình yêu, nét quyến rũ bẩm sinh của họ khiến cho đàn ông tuổi Thân khó lòng cưỡng lại. Sự nhiệt tình và trách nhiệm của đàn ông tuổi này khiến cho cô gái rung động và nguyện trao gửi cả đời. Cuộc sống hôn nhân của 2 con giáp này vô cùng hòa hợp, hạnh phúc mỹ mãn.
 

Nữ tuổi Tị + Nam tuổi Sửu = Tam hợp
 

Sự kết hợp giữa 2 con giáp này sẽ tạo ra 1 gia đình hạnh phúc trăm năm. Nhìn vào cuộc hôn nhân của họ, mọi người sẽ có thể hiểu được thế nào là sự ăn ý trong từng cử chỉ và tình yêu đong đầy trong ánh mắt.
 
Đàn ông tuổi Sửu luôn mong muốn có cuộc sống vật chất đầy đủ, no ấm, đó cũng là mục tiêu trong cuộc sống của cô gái tuổi này. Trong mắt vợ, người chồng luôn là một hình tượng đáng ngưỡng mộ, là nguồn sống, là động lực đem lại dũng khí cho vợ. Còn với người chồng, sự hòa nhã thanh lịch, tài năng quản lý tài chính của người vợ là những điểm họ luôn thấy tự hào. Sự hạnh phúc trong hôn nhân là nền tảng vững chắc để cả 2 yên tâm phấn đấu.
 

Nữ tuổi Tị + Nam tuổi Dậu = Tam hợp
 

Hai người đều có cá tính riêng, khi ở cạnh nhau, người này lại có thể bù đắp khuyết điểm, nâng cao ưu điểm cho người kia. Đây là cặp đôi thông minh hiểu biết, những vấp váp trong cuộc sống gia đình chỉ khiến họ càng thêm yêu đương nồng thắm, hạn chế thói quen nóng nảy, mất kiểm soát.
 
Đàn ông tuổi Dậu luôn bừng bừng sức sống, dũng cảm tiến bước, không ngại nguy nan. Cô nàng tuổi Tị thông minh lanh lợi, suy nghĩ cẩn trọng, lại lương thiện thật thà. Sự lạc quan của người chồng khiến cho người vợ tinh thần vui vẻ, suy nghĩ cũng tích cực hơn. Sự thông minh, cẩn trọng của người vợ tạo nên hậu phương vững chắc, giúp cho người chồng yên tâm công tác, tập trung phát triển sự nghiệp.

Nói chung, những cô gái sinh năm này có rất nhiều ưu điểm được các chàng trai theo đuổi, là mẫu phụ nữ gia đình chuẩn mực, cũng có nét cuốn hút riêng biệt nổi bật giữa đám đông, chẳng thế mà có người từng nói rằng "Yêu ai thì yêu nhưng lấy thì phải lấy con gái tuổi Tị". Nghe thì to tát, nhưng nếu bạn từng quen một cô nàng tuổi này thì chắc hẳn sẽ thấy người đó nói chẳng quá chút nào.


Tuoi Ti hop voi tuoi nao trong tinh yeu hon nhan hinh anh 2
 

2. Nam tuổi Tị hợp nữ tuổi nào?
 

Nam tuổi Tị + Nữ tuổi Thân = Lục hợp
 

Nam tuổi Tị và nữ tuổi Thân là một cặp đôi cực kì hòa hợp. Chẳng những tính cách tương đồng mà còn rất thấu hiểu, tin tưởng lẫn nhau, vì thế mà cuộc sống hôn nhân của 2 con giáp này được rất nhiều người ngưỡng mộ.
 
Người tuổi Thân tính cách tự tin, nhiệt tình sôi nổi. Họ sẵn sàng chịu khó chịu khổ, chuyên tâm vì hạnh phúc gia đình. Đàn ông tuổi Tị thông minh phóng khoáng, nhanh nhẹn hoạt bát, không lùi bước trước bất cứ điều gì, hết lòng chăm sóc vợ con.
 

Nam tuổi Tị + Nữ tuổi Sửu = Tam hợp
 

Hai người này nếu thành đôi sẽ luôn yêu thương, nương tựa lẫn nhau, cùng đồng cam cộng khổ để có được cuộc sống hạnh phúc ấm no. Họ có chung động lực, chung mục tiêu, cũng có năng lực và khả năng phán đoán tốt, chẳng lo ngại điều gì khi ở bên nhau.
 
Tuổi Tị hợp với tuổi nào? Đàn ông tuổi Tị thâm trầm, ổn trọng, luôn bình tĩnh ứng biến trước mọi biến cố bất ngờ xảy ra. Cô gái tuổi Sửu trung thành, đáng tin cậy, lại biết sắp xếp chu đáo giữa công việc và gia đình. Dưới chất xúc tác của tình yêu, họ sẽ có cuộc sống hôn nhân viên mãn như ý.
 

Nam tuổi Tị + Nữ tuổi Dậu = Tam hợp
 

Người tuổi Tị và tuổi Dậu có hợp nhau? Xin thưa, đây là cặp đôi hoàn hảo, có hạnh phúc mĩ mãn đáng ngưỡng mộ. Hai người đều thông minh, giỏi tính toán, dám nghĩ dám làm. Hai con giáp này đều là những người sống có lý tưởng rõ ràng, sẵn sàng hy sinh lợi ích trước mắt vì đại cục sau này.
 
Cô nàng tuổi Dậu quyết đoán, dứt khoát trong hành động, còn chàng trai tuổi Tị lại cẩn trọng suy tính trước sau. Họ bổ trợ cho nhau trong cuộc sống, hôn nhân gia đình cũng luôn suôn sẻ, cả 2 yêu thương và tôn trọng lẫn nhau, cho nhau không gian riêng để tự do phát triển.   Hy Vũ 

Tổng quan tử vi 12 tháng năm Đinh Dậu 2017 cho người tuổi Tị Yêu ai thì yêu nhưng lấy thì phải lấy con gái tuổi Tỵ Người tuổi Tị nên kết giao hợp tác với tuổi nào?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Hóa giải sao chiếu theo năm và kích hoạt tài lộc, sức khỏe

Sao theo năm còn gọi là phi tinh lưu niên. Có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, tài lộc và cả công việc cũng như học tập. Do vậy cần xác định chính xác và hóa giải sao xấu kích hoạt sao tốt.
Hóa giải sao chiếu theo năm và kích hoạt tài lộc, sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.    Tình huống hóa giải sao theo năm và kích hoạt công danh, sự nghiệp, học hành thi cử.   - Phong thủy huyền không Phi tinh là một trường phái phong thủy rất thịnh hành tại triều đại Nhà Thanh (Trung Quốc). Trường phái này dựa trên sự di chuyển của 9 ngôi sao ( gọi là cửu tinh ) để luận cát, hung của 1 ngôi nhà, làng mạc, thành phố, đất nước, theo tiểu vận (20 năm), theo niên vận (năm), theo nguyệt vận (tháng), theo nhật vận (ngày), theo thời vận (giờ). 9 ngôi sao này bao gồm: Sao nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử. Trong đó có 3 ngôi sao tốt: Nhất bạch, Lục bạch, Bát bạch – chủ về tài lộc, công danh; 3 ngôi sao xấu: Ngũ hoàng, Tam bích, Nhị hắc – chủ về bệnh tật, kiện tụng, thị phi; các sao còn lại thì bình thường, tùy thuộc vào thời gian đương vận hay qua vận mà các sao này có tính chất tốt xấu khác nhau. Tuy nhiên các sao tốt, xấu nói trên đều thể hiện được bản chất của các sao, đặc biệt sao Tứ lục chủ về học hành thi cử nên có tác dụng tăng cường về khoa bảng.

- Xét về Phi tinh theo năm, cứ mỗi năm lại có một sao chủ quản của năm đóng tại trung tâm và phi thuận theo quỹ đạo nhất định ( gọi là lường thiên xích), do đó khi các sao tốt, hay xấu di chuyển đến đâu thì ở đó một là có dòng khí tốt ( cần được kích hoạt để đón nhận những dòng khí tốt mang lại tài vận cho ngôi nhà trong năm đó), hoặc các dòng khí xấu ( cần được hóa giải để khắc chế các dòng “hung khí” nhằm chế sát tính hung dữ và mang lại bình yên cho ngôi nhà).   2.  Tính chất vượng suy của cửu tinh: 1. Sao Nhất Bạch: Gọi là sao Tham lang, là Khôi tinh. - Vượng thì chủ về học hành thi cử, đỗ đạt cao, công danh, tiến tài, tiến lộc - Suy thì mắc các bệnh về bang quang, tai, thận, tử cung, hình khắc vợ

2. Sao Nhị Hắc: Gọi là sao Cự môn, là Bệnh tinh. - Vượng thì phú quý, phát võ, phụ nữ mưu lược và làm chủ gia đình. - Suy thì kiện tụng, tai nạn, hỏa hoạn, bệnh tật.

3. Sao Tam Bích. Gọi là sao Lộc tồn, Tụng tinh - Vượng thì chủ về công danh, hỷ sự - Suy thì tranh chấp, kiện tụng, bệnh tật huyết, gan, chân tay.

4. Sao Tứ Lục. Gọi là sao Văn khúc,  Văn xương tinh - Vượng thì khoa bảng, thi cử, công danh sách vở, khoa học nghệ thuật - Suy thì bệnh hen, máu, gan, tửu sắc, sẩy thai.

5. Sao Ngũ Hoàng. Gọi là sao Liêm trinh, Hỏa tinh - Vượng thì sự nghiệp hưng thịnh - Suy thì Kiện tụng, thị phi, đấu tranh nội bộ, bệnh tật, bệnh dịch, bất hòa, hao tổn người.

6. Sao Lục Bạch. Gọi là sao vũ khúc, Quyền tinh - Vượng thì Đinh tài lưỡng vượng, công danh quyền uy. - Suy thì tranh chấp quan trường, tai họa do kim khí gây ra, khắc vợ con.

7. Sao Thất Xích. Gọi là sao Phá quân - Vượng thì phát tài, hỷ sự, thăng tiến, đào hoa, may mắn - Suy thì trộm cướp,kiện tụng, lao ngục, mắc bệnh về đường hô hấp.

8. Sao Bát Bạch. Gọi là sao Tả phù, Điền tinh - Vượng thì phát về điền sản, công danh phú quý, phúc thọ. - Suy thì bệnh tật, đau chân tay, đau sống lưng.

9. Sao Cửu Tử. Gọi là sao Hữu bật, phúc thọ tinh - Vượng thì phát phúc, tăng tuổi thọ, tăng nhân đinh, học hành - Suy thì hay gặp tai nạn bất ngờ, đau mắt, bệnh tim, huyết.   3.    Hóa giải sao xấu và kích hoạt sao tốt - Hóa giải tính hung dữ của sao Ngũ hoàng, Nhị hắc thì cần treo chuông gió bằng đồng ( phong linh 6 ống), 1 đôi tỳ hưu bằng đồng, xâu tiền Ngũ đế, Hồ lô bát tiên. - Hóa giải sao tính hung dữ của sao tam bích cần sử dụng màu sắc là đỏ (đèn giấy màu đỏ, thảm đỏ..), chuông gió 6 ông bằng đồng, 1 đôi tỳ hưu. - Kích hoạt Sao Tứ lục cho việc học tập thi cử cần sử dụng 1 quả cầu thạch anh, 1 tháp văn xương. -  Kích hoạt việc mang lại tài lộc, công danh của 3 sao: Nhất Bạch, Lục Bạch, Bát Bạch ta cần đặt 1 đôi tỳ hưu bằng đồng hoặc đá, Thiềm thừ, Thanh long.                    

6.Lục Bạch ĐN     2. Nhị Hắc Nam 4. Tứ Lục TN
5.Ngũ Hoàng Đông     7. Thất Xích Trung tâm 9. Cửu Tử Tây
1. Nhất Bạch ĐB     3. Tam Bích Bắc 8. Bát Bạch TB
Phi tinh theo năm 2011 Lưu ý: + Các vật phẩm phong thủy cần phải được khai quang đúng cách và chọn ngày giờ đặt đúng vị trí thì mới có tác dụng.             + Đá phong thủy có nhiều loại đá năng lượng kém ( do khai thác ở dạng non nên năng lượng không đủ để hóa giải), nên cần tìm đến nơi bán đá uy tí hay nhờ người am hiểu về năng lượng của đá để chọn được loại đá tốt nhất, đá phong thủy cần được tẩy rửa năng lượng xấu và trì chú phật pháp vào trong đá để mang lại may mắn.   4.    Trường hợp thực tế   3.1. Tìm vị trí ngồi học cho cháu nhỏ - Một gia đình tại hà nội có nhờ tác giả đến xem chỗ ngồi cho cô con gái nhỏ học lớp 1. Gia đình chủ nhà có nói là cháu nhỏ học thường không tập trung và học nhanh quên, kết quả học tập của kỳ đầu năm lớp 1 rất kém. Khi tác giả xem xét vị trí ngồi học của cháu nhỏ thì thấy có 2 sao của sao sơn và sao hướng tạo thành cặp sao 2 – 3, đây là cặp sao xấu (tụng đình) sự kết hợp của sao này trong vận 8 trở nên rất xấu với tính chất gây bệnh và thị phi. Kết hợp với phi tinh năm 2009 thì vị trí ngồi học của cháu nhỏ lại gặp sao thất xích. Như vậy cháu nhỏ không thể tập trung học được và hay bị phân tán tư tưởng.

- Tác giả sau khi xem xét đã chuyển bàn học sang phòng có cặp số sao 1-6 ( đây là cặp số sao Thôi quan – sẽ kích thích con đường học tập và thăng tiến), vị trí ngồi học mới lại có sao Tứ lục của năm, kết hợp với hướng ngồi tốt.

- Kết quả: Sau 1 tháng cháu bé đã có kết quả học tập rất tốt. Hiện năm 2011 cháu bé đang học lớp 3 và luôn luôn có thành tích học tốt.   3.2. Hóa giải sao Ngũ hoàng tại phòng ngủ của cậu con trai học cấp II

- Một gia đình tại hà nội có nhờ tác giả xem phong thủy nhà ở và nói với tác giả không hiểu sao từ đầu năm 2011 đến bây giờ (tháng 2) mà cậu con trai hay bị ốm đau, hay ho, uống nhiều thuốc vẫn chưa khỏi, học hành không tập trung.

- Tác giả kiểm tra tại phòng học của cháu bé thì phát hiện năm nay tại phòng học của cháu bé có sao Ngũ Hoàng đóng tại phòng ngủ và bàn học. Xét cặp sao trong vận 8 thì thấy cặp sao 1 – 8.

- Tác giả dùng 1 chuông gió 6 ống treo tại cửa sổ phòng ngủ của cháu bé, dùng một đôi tỳ hưu bằng đồng (được khai quang) đặt trên tủ nhìn ra ngoài cửa sổ, đặt một hồ lô bát tiên bằng đồng trên cửa sổ, đặt một tháp văn xương bằng đồng (được khai quang) tại bàn học, và bàn học được kê lại để lấy hướng. Đặt 1 quả cầu thạch anh trắng trên bàn học của cháu bé.

- Kết quả sau 2 tuần mẹ cháu bé điện báo cho tác giả biết là cháu hết ôm đau và học hành tập trung hơn. Mẹ cháu bé nói rằng “ phong thủy sao kỳ diệu thế”. Tác giả có đáp lại là chỉ cần mấy thứ đó để hóa giải tính hung dữ của sao Ngũ Hoàng là sẽ thay đổi ngay. Và đến tháng 11 năm 2011 mẹ cháu bé điện lại là tình hình học tập và sức khỏe của cháu bé rất tốt.   Trần Nhất Nam
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải sao chiếu theo năm và kích hoạt tài lộc, sức khỏe

Tướng người đàn ông khắc vợ –

Bất kỳ phụ nữ nào cũng luôn mong muốn mình sẽ tìm được một đấng lang quân tốt, yêu vợ thương con. Nếu lấy phải người chồng khắc vợ thì dẫn đến vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho ngườ
Tướng người đàn ông khắc vợ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người đàn ông khắc vợ –

Ý nghĩa phong thủy của quả cầu pha lê –

Để tăng cường năng lượng cho hướng Tây Nam hay bất cứ khu vực nào khác trong nhà, nếu không thể tận dụng ánh sáng tự nhiên, bạn có thể treo cầu pha lê dọc theo cửa sổ. Nên chọn loại cầu pha lê có nhiều cạnh, kích thước

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tăng cường năng lượng cho hướng Tây Nam hay bất cứ khu vực nào khác trong nhà, nếu không thể tận dụng ánh sáng tự nhiên, bạn có thể treo cầu pha lê dọc theo cửa sổ.

qua-cau-pha-le

Nên chọn loại cầu pha lê có nhiều cạnh, kích thước từ 5-10 cm. Khi ánh nắng mặt trời chiếu vào quả cầu, ánh sáng bị tán sắc thành các màu sắc của cầu vồng chiếu vào nhà bạn.

Màu sắc của cầu vồng rực rỡ hay không là tùy vào kích thước của quả cầu pha lê to hay nhỏ.

Bạn hãy treo quả cầu pha lê ở cửa sổ phía Đông để có cầu vồng vào buổi sáng. Nếu muốn có cầu vồng vào buổi chiều, hãy treo cầu pha lê ở cửa sổ phía Tây.

Như vậy, góc Tây Nam nhà bạn sẽ có ánh sáng cầu vồng suốt cả ngày. Điều này mang đến nhiều năng lượng tốt cho căn nhà, mang đến vận may về hôn nhân cũng như tăng cường may mắn cho người phụ nữ làm chủ gia đình.

Cầu vồng tạo ra năng lượng dương luân chuyển và tích lũy trong nhà, giúp cải thiện tình trạng khí trong nhà.

Ngôi nhà tràn ngập ánh sáng là ngôi nhà hạnh phúc. Ngoài ra, các thành viên trong gia đình bạn sẽ có nhiều bạn bè và cơ hội phát triển những mối quan hệ xã hội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy của quả cầu pha lê –

Bí ẩn giấc mơ về những chiếc xương

Nằm mơ thấy bộ xương người, điều này biểu thị cho cuộc sống của bạn ở một khía cạnh nào đó vẫn chưa được hoàn thiện.
Bí ẩn giấc mơ về những chiếc xương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Thấy xương của bạn trong mơ, ám chỉ sự khám phá về cá nhân, gia đình bạn hoặc những bí mật văn hóa. Ngoài ra, nó còn là biểu tượng của sức  bền bỉ tiềm tàng. 

Bi an giac mo ve nhung chiec xuong hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy xương gãy ám chỉ rằng bạn đã khám phá hoặc nhận ra có nhược điểm trong kế hoạch hoặc tư duy của bạn. Giấc mơ này có thể lưu ý bạn về đến một hoàn cảnh hoặc mối quan hệ cụ thể. 

Thấy những cái xương sườn trong mơ biểu tượng cho sự nghèo túng và cơ cực.

Thấy khung xương chậu của bạn trong mơ, tượng trưng cho những vấn đề về tình dục và cảm giác của bạn về nam tính và nữ tính. Có lẽ bạn đang chia sẻ sự sáng tạo và sự tự biểu lộ  bản  thân. 
 
  Cảm thấy hoặc nhìn thấy những khớp xương của bạn trong mơ, tượng trưng cho sự mềm dẻo. Điều này còn ám chỉ việc cho và nhận việc làm và nhu cầu làm việc theo nhóm với nhau.
 
Mơ thấy bạn đang gặp rắc rối về khớp xương, ám chỉ rằng những điều gì đó không kết hợp với nhau như ý bạn muốn. Bạn đang gặp khó khăn trong sự tiến bộ của bạn.

Nếu trong giấc mơ, bạn mơ thấy người nào đó chỉ còn mỗi bộ xương, điều này có nghĩa là mối quan hệ giữa bạn và người đó đã chết từ lâu.

Theo Bí ẩn điềm chiêm bao

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí ẩn giấc mơ về những chiếc xương

Đền Mẫu Đồng Đăng - Lạng Sơn

Đền Mẫu Đồng Đăng còn có tên gọi khác là “Đồng Đăng linh tự", Đền Mẫu Đồng Đăng tọa lạc ở trung tâm thị trấn Đồng Đăng, tỉnh Lạng Sơn.
Đền Mẫu Đồng Đăng - Lạng Sơn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền Mẫu Đồng Đăng còn có tên gọi khác là “Đồng Đăng linh tự”. Đồng Đăng không chỉ nổi tiếng bởi phố Kỳ Lừa, nàng Tô Thị, chùa Tam Thanh, nơi đây còn thu hút du khách bởi đền Mẫu, một ngôi đền cổ kính uy nghi nằm trên đỉnh núi. Đền Mẫu Đồng Đăng tọa lạc ở trung tâm thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.

Có câu ca dao, chắc hẳn ai cũng đôi lần nghe nhắc đến như  một nét đặc trưng gì đó về xứ Lạng. Đấy cũng là nét văn hóa đáng tự hào của người dân Lạng Sơn.

         “Đồng Đăng có phố Kì lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em…”

Câu ca dao da diết trong lòng bất cứ du khách nào đã từng đôi lần đặt chân đến Lạng Sơn. Đền Mẫu Đồng Đăng là ngôi đền lớn có giá trị đặc biệt về kiến trúc, tín ngưỡng tôn giáo và lịch sử, là nơi nhân dân các dân tộc trong tỉnh, du khách tới đây nguyện cầu sự che chở của các đấng linh thiêng cho cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, qua đó gắn kết tinh thần cộng đồng và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Xưa kia, nơi đây là một ngôi chùa. Đồng Đăng linh tự gồm có 5 gian thờ:

  • Phía trong cùng là Tam bảo, nơi thờ Phật Chuẩn Đề và Phật bà Quan Âm
  • Gian kế tiếp phía ngoài là Tam tòa Thánh mẫu, nơi thờ Mẫu đệ nhất Thượng thiên, Mẫu đệ nhị Thượng ngàn và Mẫu đệ tam Thoải phủ;
  • Tiếp theo là gian thờ Sơn trang gồm Chúa Thượng ngàn ở giữa, hai bên là Chầu Mười Đồng Mỏ và Chầu Chín;
  • Gian giữa chính điện ngoài cùng thờ Chúa Liễu, hai bên là Chầu Bơ và Chầu Lục;
  • Gian bên trái thờ Chầu đệ tứ Khâm sai, ngoài ra còn thờ quan Trần Triều Đức Đại Vương, các thánh cô, thánh cậu….

Đền Mẫu Đồng Đăng là một trong những nơi thờ tự nổi tiếng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam. Ngoài ra, nơi đây còn lưu truyền câu chuyện gặp gỡ cảm động giữa Mẫu Liễu Hạnh (một trong “Tứ bất tử” trong văn hóa tâm linh của người Việt) và Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan, khi ông vừa đi sứ Trung Quốc trở về.

Tương truyền, Liễu Hạnh là con gái Ngọc Hoàng, tên là Quỳnh Hoa. Do có duyên nợ với trần gian nên bà thường hiển linh giúp đỡ nhân dân, được triều đình (thời Hậu Lê) sắc phong là công chúa Liễu Hạnh và là Thượng đẳng Phúc thần. Ngoài việc hiển linh giúp đỡ nhân dân, bà còn hay ngao du sơn thủy đến các thắng cảnh của nhiều vùng và đã nhiều lần gặp gỡ, họa thơ với danh sĩ Phùng Khắc Khoan, trong đó có lần hai người gặp nhau tại Đồng Đăng linh tự.

Lễ hội đền Mẫu Đồng Đăng được tổ chức vào mồng 10 tháng giêng hằng năm, thu hút hàng nghìn lượt du khách trong nước và quốc tế đến đây thưởng ngoạn nét văn hóa đặc sắc của người dân xứ Lạng. Đến với nơi đây, du khách còn được đắm mình trong văn hóa tâm linh, thắp hương cầu mong sức khoẻ, cầu tài, cầu một năm phát lộc, cầu cho quốc thái dân an.

Vào ngày chính hội, hàng chục nghìn du khách từ khắp nơi cùng đến đây để dự lễ, tham gia các hoạt động văn hóa tâm linh truyền thống, nhiều du khách trong nước nhân dịp này đã kết hợp tham gia các tuor du lịch quốc tế.

Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, thời nào đền Mẫu Đồng Đăng cũng được nhân dân góp công, góp của tôn tạo. Đến nay, ngôi đền đã mang diện mạo khác hẳn, tường bao hoa văn đẹp mắt; cây cối xanh rì tỏa mát cả sân đền, ghế đá, biển chỉ dẫn được sắp đặt gọn gàng, khoa học. Du khách khi đến thắp hương, vãn cảnh không phải bận tâm, bực mình vì gặp cảnh ăn xin đeo bám, không có cảnh xem quẻ, bói toán lộn xộn như ở một số đền chùa khác.

Đền Mẫu Đồng Đăng
Du khách đi hội – Đền Mẫu Đồng Đăng

Thấp thoáng phía sau Tam bảo, một tòa tháp tráng lệ đang được hoàn thiện, như một minh chứng cho sự phát triển về kinh tế, văn hóa của vùng đất miền biên ải. Ngày nay, đền Mẫu Đồng Đăng còn là một điểm dừng chân trong tuor du lịch từ các tỉnh đến Lạng Sơn, đi cửa khẩu Tân Thanh và chợ Đông Kinh…

Di tích đền Mẫu Đồng Đăng là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa, nghệ thuật, tín ngưỡng đặc sắc đã thực sự trở thành một điểm đến trong hành trình du lịch tâm linh nơi cửa ngõ phía Bắc nước ta mang đậm bản sắc văn hóa các dân tộc Xứ Lạng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Mẫu Đồng Đăng - Lạng Sơn

Mệnh Thủy hợp màu gì? –

Theo quan điểm của khoa học phong thủy, màu sắc có vai trò quan trọng trong việc cân bằng, hỗ trợ và điều hòa yếu tố âm dương – ngũ hành của cung mệnh từng người. Chính vì thế, khi chúng ta lựa chọn những đồ vật có giá trị lớn như ô tô, xe máy, màu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

sơn nhà hay những vật dụng cần thiết luôn theo bên người như trang phục, chúng ta luôn quan tâm tới yếu tố tương sinh, tương khắc trong quy luật âm dương – ngũ hành để đem lại may mắn. Do đó, nắm bắt cách thức sử dụng màu sắc phù hợp với mệnh, với tuổi theo quan điểm của quy luật phong thủy là việc bạn nên cân nhắc để quan tâm mỗi ngày.

Trong quan điểm khoa học phong thủy, màu sắc có vai trò quan trọng trong việc cân bằng, hỗ trợ và điều hòa yếu tố âm dương cho người mệnh Thủy.

Theo Ngũ hành trong phong thủy thì môi trường được tạo nên bởi 5 yếu tố đó chính là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Quy luật tương sinh: Mộc sinh Hỏa (cây cháy sinh ra lửa), Hỏa sinh Thổ (lửa đốt mọi vật thành tro, sinh ra đất), Thổ sinh Kim (kim loại hình thành trong lòng đất), Kim sinh Thủy (kim loại nung nóng chảy tạo thành dạng lỏng), Thủy sinh Mộc (nước cung cấp chất nuôi cây). Quy luật tương khắc: Kim khắc Mộc (kim loại cắt được cây cối), Mộc khắc Thổ (cây hút chất dinh dưỡng của đất), Thổ khắc Thủy (đất ngăn cản nước), Thủy khắc Hỏa (nước dập tắt ngọn lửa), Hỏa khắc Kim (lửa gây ra sự nóng chảy kim loại).

Nội dung

  • 1 Người mệnh Thủy sinh năm nào?
  • 2 Tính cách chung của những người mệnh Thủy
  • 3 Mệnh thủy hợp với màu gì?
  • 4 Người mệnh Thủy nên chọn xe màu gì?
  • 5 Màu sắc và loại đá phong thủy hợp với người mệnh Thủy
  • 6 Màu sơn nhà phù hợp cho người mệnh Thủy

Người mệnh Thủy sinh năm nào?

Bính Tý – 1936, 1996; Quý Tỵ – 1953, 2013; Nhâm Tuất – 1982, 1922; Đinh Sửu – 1937, 1997; Bính Ngọ – 1966, 2026; Quý Hợi – 1983, 1923; Giáp thân – 1944, 2004; Đinh Mùi – 1967, 2027; Ất Dậu – 1945, 2005; Giáp Dần – 1974, 2034; Nhâm Thìn – 1952, 2012; Ất Mão – 1975, 2035.

Tính cách chung của những người mệnh Thủy

Với sự tương sinh tương khắc này sẽ giúp  chúng ta  biết được các màu hợp với mệnh của mình. Mạng Thủy tượng trưng cho sự dịu dàng, đây cũng chính là tính cách được thể hiện rõ ràng nhất ở những người mệnh Thủy. Họ thường dùng cách gián tiếp để tiếp cận mục tiêu của mình. Mặc dù mang trong mình một sức mạnh khủng khiếp như những trận lũ lụt lịch sử nhưng nước vẫn có một vẻ đẹp hết sức tuyệt vời mỗi khi nó chảy nhẹ nhàng.
Những người mệnh Thủy có khả năng giao tiếp vô cùng tốt, họ ăn nói nhẹ nhàng nhưng đầy sức thuyết phục. Họ cũng khá tinh tế và nhạy cảm nên họ có thể cảm thấy được sự thay đổi trong tâm trạng của người khác nên họ luôn sẵn sàng lắng nghe tâm tư của đối phương.

Mệnh thủy hợp với màu gì?

Màu đen hoặc xanh dương (Thủy) là Màu sắc của người mệnh Thủy và xanh lá cây (Mộc) thì chỉ nên dùng để điểm xuyến như khung ảnh, vật dụng trang trí. Nguyên tắc này giúp cho mọi người hiểu được rằng vạn vật đều chứa cả Ngũ hành với một hành nổi trội hơn, không nhất định gia chủ cần hành Thủy thì cả nhà đều phải màu xanh hay màu đen theo hành Thủy.

– Màu tương sinh: Màu đen tượng trưng cho hành Thủy và chắc bạn cũng dễ dàng đoán ra người mạng Thủy hợp nhất với đen. Ngoài ra, những bộ trang phục, phụ kiện màu trắng cũng sẽ rất hợp với bản mệnh của bạn đấy vì Kim sẽ sinh Thủy.

– Màu tương khắc: Theo quan hệ tương khắc thì Thổ là hành khắc hành Thủy, vì thế, bạn hãy tránh dùng trang phục hoặc phụ kiện có màu vàng và vàng đất.

– Màu hợp với mệnh Thủy: Màu đen – Trắng – Xanh dương.

Người mệnh Thủy nên chọn xe màu gì?

Những người mệnh Thủy nên chọn xe máy màu màu trắng và vàng nhạt hoặc có thể sử dụng màu cùng mệnh như xanh nước biển, đen hay màu xanh lá cây. Người mệnh Thủy cần tránh những màu như nâu, vàng sẫm. Màu đỏ, da cam là màu khắc xuất cũng nên thận trọng khi lựa chọn.

Theo các chuyên gia phong thủy: Việc chọn màu xe cùng mệnh có thể có ảnh hưởng, nhưng đừng quá lạm dụng. Màu cùng mệnh sẽ khiến bạn yên ổn và an toàn nhưng nếu nhiều màu cùng mệnh quá sẽ sinh ra dư thừa, phản tác dụng.

Cần tránh những màu tương khắc với mệnh vì những màu tương khắc sẽ khiến sức khỏe của người lái bị ảnh hưởng, tâm trí bất định, mất tập trung, hay bực bội nóng giận, dễ gặp tai nạn hơn nếu lái xe, có thể bị thương tật.

Tuy vậy, cách chọn màu xe theo mệnh cũng tùy thuộc vào sở thích của chủ xe. Nếu chọn được màu xe hợp mạng, tuổi, nhưng chủ xe lại không thích màu đó, thì điều đó cũng không tạo nên luồng khí giao hòa tốt đẹp giữa chủ xe và chiếc xe. Nên cân nhắc kĩ về vấn đề này.

Màu sắc và loại đá phong thủy hợp với người mệnh Thủy

Màu sắc

Khi lựa chọn đá phong thủy cần cân nhắc theo quy luật màu sắc ngũ hành, các mối quan hệ tương sinh, tương hợp, tương khắc và chế khắc nhằm mang lại sức khỏe, may mắn, công danh, tài lộc, sự phát đạt: Về mối quan hệ tương sinh “Kim sinh Thủy” thì người mệnh thủy nên chọn những loại đá có màu như: trắng, xám, ghi là tốt nhất.
Về sự hòa hợp, người mệnh Thủy nên chọn các màu như: xanh dương, đen… sẽ mang lại rất nhiều thuận lợi cho đường tài lộc.
Mệnh Thủy luôn khắc chế Hỏa, do đó người mệnh Thủy có thể dùng đá phong thủy có những màu đỏ, cam, hồng, tím.
Chặn được nước lớn ở sông, ở biển tràn vào, người ta phải đắp đê điều bằng đất, đá, cát. Thổ sẽ chế ngự được Thủy. Người mệnh Thủy tuyệt đối không nên dùng đá phong thủy có màu vàng sậm hoặc màu nâu đất, sẽ bất lợi cho họ.

Loại đá phong thủy phù hợp với người mệnh Thủy

Sở hữu đặc tính của loại đá thiên nhiên trải qua hàng triệu năm hình thành, có dương khí rất mạnh, thu hút nguồn năng lượng cực lớn, mang đến sự may mắn trong cuộc sống và công việc, Đá Thạch Anh rất phù hợp với người mệnh Thủy.

Màu sơn nhà phù hợp cho người mệnh Thủy

Nên sử dụng màu xanh dương làm tông màu chủ đạo, tuy nhiên, lại không nên chỉ sử dụng màu xanh dương, nên kết hợp màu sắc này với những màu khác như màu xanh lục của lá cây sẽ khiến không gian như hòa vào thiên nhiên, tạo cảm giác thoải mái, mát mẻ, sảng khoái. Nếu sử dụng các tông màu này trong nhà với xanh dương hay trắng làm màu chủ đạo thì về lâu dài sẽ có lợi cho cuộc sống cũng như sự nghiệp của người mệnh Thủy đồng thời còn tạo cảm giác thư thái, thoải mái nhât cho chủ nhà và các thành viên khác trong gia đình.

Tuy nhiên, một ngôi nhà có phong thủy tốt không phải cứ có màu sắc hợp là đủ mà bạn còn cần lưu ý đến nhiều yếu tố khác như sự hài hòa về nội thất và màu sắc để từ đó phối hợp, bố trí sao cho đạt được sự cân bằng hoàn hảo trong không gian.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mệnh Thủy hợp màu gì? –

Top con giáp thênh thang tài lộc trong tháng 5

Ai lọt vào top 5 con giáp bí ẩn này trong tháng 5 này vậy? Mau điểm danh nhanh nhanh nào....

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 1: Người tuổi Ngọ

Chỉ số may mắn: ★★★★★
Tài chính: ★★★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★★★
Khả năng đòi nợ: ★★★★★
Nhắc nhở: Cảnh giác khi đầu tư, kí kết hợp đồng

Xin chúc mừng những quý ông, quý bà, quý anh, quý chị cầm tinh con giáp này. Tháng 5 này là quãng thời gian đại phát, đại tài, đại cát đại lợi với họ. Tiền bạc thu về đã tốt, nguồn lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ còn đáng ngưỡng mộ hơn.

Tốc độ tăng trưởng tiền bạc trong tài khoản chính, tài khoản công ty và tiền vốn đối tác đổ về sẽ “rầm rập” và nhân theo tốc độ phi mã. Đặc biệt hơn nữa là, trong 30 ngày tới, họ sẽ được quý nhân phù trợ đắc lực nên không hề gặp bất cứ trở ngại nào trong công việc, ký kết hợp đồng nên nhờ đó nhanh chóng xử lý được các khoản nợ tồn đọng từ đầu năm đến giờ.

Vận may, thần tài và niềm vui sẽ luôn ở bên, bầu bạn, sẻ chia với họ trong suốt 1 tháng tới. Tuy nhiên, họ cũng cần chú ý rằng, cần hạn chế cho vay vì một khi tiền đã trao đi sẽ rất khó đòi lại.

Khi làm ăn, cần chi li, chặt chẽ, đối tác dù tin cậy đến mấy cũng cần có chứng từ khi kí quỹ, chuyển khoản để tránh các khoản thất thoát không đáng có. Cổ phiếu sẽ đem lại cho họ nguồn doanh thu rất có triển vọng nhưng cũng đừng vì thế mà “ham hố” lướt sóng ngắn ngày, nếu tiền vốn dài hơi và dư sức, hãy chịu khó chọn những mã chứng khoán thanh khoản tốt để đầu tư dài hạn.

Top 2: Người tuổi Thìn

Chỉ số may mắn: ★★★★
Tài chính: ★★★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★★
Khả năng đòi nợ: ★★★
Nhắc nhở: Tránh nhẹ dạ, cả tin trong làm ăn

Các cá nhân tuổi rồng trong tháng 4 có vẻ hơi lận đận một chút về tài chính, trục trặc một chút trong sự nghiệp. Nhưng chuyển sang tháng mới, tài vận, may mắn của họ sẽ thăng hoa tuyệt vời.

Thứ nhất, doanh thu và tiền lãi của họ sẽ rất ổn định, không chập chờn hay xuống dốc như thời điểm tháng trước. Các khoản thu phụ tuy không đem lại quá nhiều tiền bạc nhưng cũng đủ để họ luân chuyển tiền vốn đổ vào kinh doanh.

Tiếp đến là, các cơ hội đầu tư liên tục và dồn dập “đổ” xuống đầu họ, nhiều đến nỗi mà, chỉ cần ngồi không với các ý tưởng kinh doanh táo bạo, họ cũng “kiếm chác” được một món hời! Bù lại cho tháng 4 vất vả, nhọc nhằn bao nhiêu là một tháng 5 ấn tượng, “hoành tráng bấy nhiêu”.

Tuy nhiên, 30 ngày tới, họ cần đặc biệt chú ý khi giao dịch, kí kết hợp đồng, tránh việc bị lừa gạt. Khi làm việc không nên nhẹ dạ cả tin, cũng tuyệt đối không trao tiền, không chuyển khoản khi đối tác chưa đưa ra các bằng chứng, thông tin rõ ràng.

Top 3: Người tuổi Tuất

Chỉ số may mắn: ★★★★
Tài chính: ★★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★
Khả năng đòi nợ: ★
Nhắc nhở: Tiết kiệm trong chi tiêu, chú ý cân đối tài chính tránh hao hụt quá nhiều.

Tháng 5 là quãng thời gian hoàng kim với người tuổi Tuất, tài vận của họ vô cùng vượng. Vượng đến mức, chỉ cần động vào bất cứ dự án, món hàng hoặc triển khai ý tưởng kinh doanh nào, họ đều thu về những khoản lợi nhuận khổng lồ.

Điểm trừ của họ là do thích tiêu pha và không giỏi cân đối tài chính nên thu vào thì nhiều mà chi ra cũng ác liệt không kém. Nếu không gắt gao, sát sao trong việc cân đối thu chi thì 10 ngày cuối tháng, nhiều kế hoạch của họ sẽ đổ bể.

Bù lại, tháng này, các cơ hội vàng sẽ xuất hiện khá nhiều với tần suất cao. Người tuổi Tuất cần chủ động nắm bắt lấy chứ đừng mang nặng tâm lý “ôm cây đợi thỏ”. Hành động đúng, cẩn thận và tinh tế, họ sẽ kiếm được những món hời không nhỏ. Vì thế, lời khuyên dành cho người tuổi Tuất tháng này là nên tiết kiệm và “năng nhặt chặt bị”.

Ngoài ra, tuyệt đối không được “mon men” đến gần thị trường chứng khoán, không đầu tư ngắn hạn và cũng tránh bỏ tiền túi để liều mình đầu tư dài hạn theo cảm tính nhất thời. Không mạo hiểm đầu tư lớn và tránh cho vay, dù được gợi ý mức lãi suất cao đến mấy đi chăng nữa.

Top 4: Người tuổi Hợi

Chỉ số may mắn: ★★★
Tài chính: ★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★
Khả năng đòi nợ: ★★★★★
Nhắc nhở: Lên kế hoạch rõ ràng và dài hơi cho mọi dự án và các khoản đầu tư.

Tháng 5 này, người tuổi Hợi nên chủ động hơn nữa trong kinh doanh, hãy chịu khó lăn xả vào các đối tác tiềm năng. Để nhanh chóng bắt kịp với xu thế và khắc phụ khó khăn cùng bất cập trong quản lý, họ cần lên kế hoạch dài hơi và ngắn hạn rõ ràng, súc tích, chi tiết.

Chỉ cần làm được điều đó, khoản thu cố định của họ sẽ nhỉnh hơn tháng trước từ gấp 3 đến gấp 5 lần, thậm chí là tăng vọt vào cuối tháng đấy. May mắn nhất là 30 ngày tới, họ sẽ đòi lại được các khoản nợ xấu tồn đọng từ năm trước, thậm chí nhiều đối tác tự nguyện “dâng tiền đến tận miệng”. Điều đó là nhờ vào việc họ được các quý nhân giấu mặt phù trợ và giúp đỡ âm thầm.

Top 5: Người tuổi Mùi

Chỉ số may mắn: ★★★
Tài chính: ★★★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★★★
Khả năng đòi nợ: ★★
Nhắc nhở: Cần đổi mới tu duy liên tục.

Từ đầu năm đến giờ, người tuổi Mùi đã phải vất vả, lăn lộn không ít trên thường trường, trong sự nghiệp. Các mối quan hệ với đối tác sẽ được cải thiện bất ngờ, chính nhờ vào sự nỗ lực miệt mài của họ.

Nguồn vốn đổ về nhiều hơn, tăng dần từ đầu đến cuối tháng, đặc biệt “nở hoa” vào 10 ngày cuối, tài lộc vì thế trở nên dồi dào như thể là bất tận. Có thể do quá quen với việc phải nhọc nhằn, lao tâm khổ tứ nên các cá nhân tuổi Mùi sẽ thấy khá ngạc nhiên nhưng cũng vô cùng thích thú.

Điểm họ cần lưu ý là, các mặt hàng kinh doanh có khả năng bị cạnh tranh đạo nhái cao nên cần đổi mới tư duy liên tục, cập nhật theo đúng xu thế thị trường. Các khoản thu tuy nhiều nhưng cũng có khá nhiều công việc đòi hỏi chi trả, thanh toán gấp nên chớ dại dột cho vay nhiều, vay lâu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top con giáp thênh thang tài lộc trong tháng 5

Mơ thấy đeo vòng vàng có ý nghĩa gì? –

Vàng là kim loại quý hiếm được con người tìm thấy và sử dụng từ rất sớm. Từ lâu, giá trị của vàng đã được con người khẳng định và bảo vệ một cách đầy nhiệt tình. Vàng được làm trang sức chủ yếu cho phụ nữ và ở một khía cạnh nào đó, nó mang giá trị vậ
Mơ thấy đeo vòng vàng có ý nghĩa gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy đeo vòng vàng có ý nghĩa gì? –

Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ, Phong thủy phòng ngủ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ, tu vi Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ, tu vi Phong thủy phòng ngủ
Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ

Trong phong thủy phòng ngủ nếu biết cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy sẽ mang lại một để có cơ thể khoẻ mạnh. 1. Sắp xếp giường ngủ hợp phong thủy là không nên bố trí giường gần cửa ra vào bởi nó có ảnh hưởng không nhỏ đến luồng khí trong căn phòng. Tuy nhiên vị trí của giường nên nhìn thấy cửa phòng bởi nó sẽ mang đến cho bạn cảm giác an toàn trong khi ngủ.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 1 Nên bố trí giường xa vị trí cửa ra vào.   2. Khi chọn giường ngủ nên chọn loại giường vững chãi và cân bằng. Điều này giúp bảo toàn và cung cấp các luồng khí tích cực cho bạn khi ngủ, do vậy chủ nhân sẽ những giấc ngủ ngon hơn. 3. Nên đặt giường ngủ ở vị trí giữa phòng ngủ bởi điều này tượng trưng cho sự hài hòa trong các mối quan hệ và thúc đẩy dòng chảy năng lượng tích cực trong không gian riêng của bạn.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 2
Vị trí giường được bố trí hài hòa.
  4. Đầu giường kê dựa vào tường sẽ mang đến sự thoải mái, cân bằng khi ngủ. Nên tránh đặt giường cách xa tường hoặc ngay dưới cửa sổ, bởi trong phong thủy, đầu giường kê gần cửa sổ sẽ khiến khí lực của bạn dễ thoát ra ngoài và khó ngủ sâu.   5. Không nên kê giường ở dưới quạt trần, đèn chùm trang trí hay xà nhà. Theo phong thủy, chúng tạo ra áp lực và gây ảnh hưởng xấu cho giấc ngủ. Nếu không có lựa chọn nào khác, hãy xem xét việc sơn lại các thanh xà thành màu sáng, hoặc làm nhẹ áp lực bằng cách treo các ống sáo tre ở góc phòng.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 3
Giường ngủ không nên bố trí dưới xà nhà.
  6. Phòng ốc bừa bộn, lộn xộn không tốt cho giấc ngủ bởi nó chặn dòng chảy của khí lưu thông trong phòng, bởi vậy bạn nên tập cho mình thói quen sắp xếp phòng ngủ thật gọn gàng, đặc biệt là phần đầu giường.   7. Cho dù bạn là người độc thân hoặc đã lập gia đình thì những đồ vật trong phòng ngủ cũng vẫn nên có đôi có cặp, ví dụ như hai chiếc gối, hai kệ đầu giường, thậm chí cả hai đèn đọc sách. Trong phong thủy, điều này rất quan trọng để thể hiện tính cân bằng và sự hòa hợp nhất định.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 4 Đồ dùng trong phòng ngủ nên có đôi, có cặp. 8. Vào ban ngày, hãy mở cửa sổ phòng ngủ hoặc sử dụng máy lọc không khí để giữ cho không khí trong lành và đầy đủ oxy. Tuy nhiên, vào ban đêm, bạn nên đóng cửa sổ để giữ cho các khí tốt trong phòng.   9. Không nên bày các thiết bị điện tử trong phòng ngủ bởi chúng sẽ khiến bạn phân tâm và khó có thể ngủ ngon. Nếu có, tốt nhất nên sử dụng rèm che lại trước khi đi ngủ.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 5
Không nên bố trí đồ điện tử trong phòng ngủ.
  10. Nếu trong phòng ngủ có góc làm việc hãy dựng một tấm bình phong để ngăn cách khu vực ngủ và làm việc nhằm mục đích để cho đầu óc bạn được thư giãn thoải mái mỗi khi đi ngủ.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 6 Vách ngăn gỗ thanh lịch giúp bạn có phòng ngủ kết hợp phòng làm việc hợp phong thủy   11. Nếu phòng ngủ của bạn có nhà vệ sinh bên trong, hãy đóng cửa phòng tắm, nhà vệ sinh để sự uế tạp ở khu vực này không làm ảnh hưởng đến không khí của giấc ngủ.
  12. Khi ngủ, bạn nên đóng hết cửa tủ quần áo, kéo rèm cũng như đóng cửa phòng ngủ. Theo phong thủy, để cửa mở khi ngủ sẽ khiến các luồng khí thoát ra ngoài và ảnh hưởng đến năng lượng của bạn.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 7
Ngay cả khi dùng rèm che tủ áo, bạn cũng nên kéo chúng khi ngủ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử...

Top 4 con giáp dễ lập nên đại nghiệp trong năm 2016

Theo lịch âm, năm 2016 là năm Bính Thân, tức năm con Khỉ. Trong năm này, tỉ lệ người thành công trong sự nghiệp rất cao, hãy cùng xem những con giáp sẽ lập nên đại nghiệp vào năm mới 2016 này nhé
Top 4 con giáp dễ lập nên đại nghiệp trong năm 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  >> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

Đừng chần chừ đưa ra những quyết định lớn về sự nghiệp trong năm 2016 nếu bạn cầm tinh những con giáp sau đây. Theo lịch âm, năm 2016 là năm Bính Thân, tức năm con Khỉ. Trong năm này, tỉ lệ người thành công trong sự nghiệp rất cao, hãy cùng xem những con giáp sẽ lập nên đại nghiệp vào năm mới 2016 này nhé

1./ Tuổi Tý

Những người cầm tinh con Chuột có tư chất thông minh, lanh lợi, và có đầu óc kinh doanh thiên bẩm. Tài vận của người tuổi Tý trong năm 2016 vô cùng lí tưởng, sự nghiệp có thể phát triển rực rỡ. Nếu có ý định lấn sân sang lĩnh vực mới, thay đổi công việc, thậm chí lên kế hoạch lập nghiệp ở nơi đất khách quê người, tỉ lệ thành công sẽ rất cao.

Tuy nhiên người tuổi Tý luôn phải ghi nhớ đó là làm việc gì cũng cẩn thận, tỉ mỉ, lên kế hoạch càng rõ ràng, cụ thể càng tốt. Mọi rào cản trên bước đường thành công của bạn đều sẽ biến mất nếu bạn bỏ được thói quen cả nể với người thân, bạn bè đấy!

2./ Tuổi Ngọ

Khả năng sáng tạo không ngừng, phán đoán phương hướng chính xác, sự năng nổ nhiệt tình, sẵn sàng giúp đỡ mọi người xung quanh mà không cần báo đáp… là những “điểm cộng” góp phần tạo nên thành công rực rỡ của người tuổi Ngọ. Đặc biệt, trong năm 2016, vận thế sự nghiệp của họ khởi sắc mạnh, công việc thuận lợi, với họ việc lập đại nghiệp chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi.

3./Tuổi Sửu

Cuộc sống của người tuổi Sửu sẽ bước vào giai đoạn ổn định trong năm 2016 vì đã có khoảng thời gian tích lũy khá dài trước đó. Theo đà này, nếu bạn tự mình khởi nghiệp, dù có tay trắng cũng lập nên nghiệp lớn. Điều quan trọng là bạn phải chọn được đối tác tin cậy, có thực lực về kinh tế để hai bên cùng hỗ trợ và thúc đẩy nhau cùng phát triển.

4./ Tuổi Dần.

Sang năm 2016, sự nghiệp của người tuổi Dần đã tốt nay còn tốt hơn. Đây là năm quan trọng, quyết định thành bại trong sự nghiệp của bạn. Nếu trau dồi kĩ năng chuyên môn và năng lực làm việc, đồng thời cố gắng sáng tạo không ngừng nghỉ, bạn có thể lập nên đại nghiệp trong năm con Khỉ này.

Có một điều cần lưu ý là bạn không được phép nóng vội khi giải quyết được bất cứ vấn đề gì, nếu không sẽ dễ dàng gây họa lớn. Khi làm bất cứ việc gì, nên lấy “dĩ hòa vi quý” làm phương châm, đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để nhìn nhận vấn đề toàn diện hơn và mọi thứ sẽ trở nên dễ dàng, suôn sẻ hơn với bạn rất nhiều.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp dễ lập nên đại nghiệp trong năm 2016

Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Thìn

Nữ tuổi Thìn kết hợp với nam tuổi Dần sẽ tạo nên một cặp đôi rất đẹp. Cả hai tính cách đều mạnh mẽ. Đặc biệt trong sự nghiệp, nữ giới sẽ hỗ trợ nam giới rất nhiều.
Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bang-vo-chong-tuong-sinh-tuong-khac-cua-nguoi-tuoi-thin
Thìn - Tý Thìn - Sửu Thìn - Dần Thìn - Mão
Thìn - Thìn Thìn - Tỵ Thìn - Ngọ Thìn - Mùi
Thìn - Thân Thìn - Dậu Thìn - Tuất  Thìn - Hợi

 Maruko (theo Sohu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Thìn

Đặc tính sao Lộc Tồn - Tài lộc và phúc thọ

Sao Lộc Tồn là sao phú, chủ sự dư về tiền bạc. Ý nghĩa công danh chỉ là thứ yếu. Sự giàu có thường do hai nguyên nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính sao Lộc Tồn - Tài lộc và phúc thọ

Đặc tính sao Lộc Tồn - Tài lộc và phúc thọ

Tìm hiểu đặc tính của sao Lộc Tồn

Tên sao Đẩu phận Âm dương ngũ hành Hóa Chủ Công năng Tứ hóa
Lộc tồn Bắc đẩu (thứ 4) Âm thổ Phú quý Lộc, Thọ Giải ách Không

Sao Lộc Tồn có thuộc tính âm dương ngũ hành là âm thổ, là sao thứ tư trong chòm sao Bắc Đẩu, hóa khí là quý, chủ về lộc, thọ, có khả năng giải trừ tai ách, khống chế và hóa giải sát tinh. Tất cả các sao trong 12 cung mệnh đều thích đồng cung hoặc gặp lộc tồn. Gặp thêm cát tinh sẽ thêm cát, gặp hung tinh sẽ giải hung. Rất thích hợp với các cung mệnh, thân, tài bạch, điền trạch, thiên di, sẽ phát huy tác dụng một cách đặc biệt.

Trong mệnh bàn, sao Lộc Tồn không vào bốn cung Mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, và thường nằm ở giữa hai sát tinh Kình Dương và Đà La, cho nên chủ về cô độc, vất vả dễ gặp rắc rối, thường bị bài xích, hành sự thận trọng. Do đó ít cơ hội đồng cung hoặc hội chiếu với Kình Dương, Đà La nên cũng tránh được hai kẻ địch phiền phức đó; hơn nữa không bao giờ bị Thiên La (cung thìn), Địa Võng (cung Tuất) khống chế, nên cuộc đời ít sóng gió, khá suôn sẻ. Đại hạn, tiểu hạn hoặc lưu niên mà gặp sao Lộc Tồn, thường sẽ khiến hoàn cảnh đang bất lợi chuyển thành tốt, đem lại năng lực phục hồi hoặc đổi mới.

Sao Lộc Tồn độc tọa tại cung mệnh, chủ về tính cách cực kì bảo thủ, không thích giao tiếp quá chú trọng bảo vệ bản thân, nên khó tránh khỏi cô độc. Hơn nữa vì bị hai sát tinh Kình Dương, Đà la kèm hai bên, nên nhưng có chủ về giàu có nhưng cũng khó tránh khỏi nạn vất vả, sau khi giàu có lại dễ chuốc điều thị phi. Sao Lộc tồn thích đồng cung hoặc hội chiếu với cát tinh. Nếu đồng cung với Tử Vi hoặc Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương, Vũ Khúc, Thái Dương, Thái Âm có thể tăng thêm độ sáng, nên chủ về phú quý. Nếu tại cung vị tam hợp lại có sao Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu, là người giàu có, sang trọng, có học thức.

Sao Lộc Tồn rất ghét vào cung không vong, Gặp Địa Không, triệt là tối kị kế đến là Tuần Không. Sao Lộc Tồn không ưa đồng cung với Hóa Kị thủ mệnh, vì sao Lộc Tồn thủ mệnh, ở hai cung bên cạnh chắc chắn sẽ có các hai sao Kình Dương, Đà La kèm, tạo thành cách cục "Dương Đà giáp mệnh", là cục phá bại, chủ về cô độc bần hàn, muôn sự cát lợi; vận hạn gặp phải cũng nhiều hung hại. Sao Lộc Tồn thủ cung mệnh, cung thân, không chỉ trường hợp Hóa Kị đồng cung là hung, nếu tại cung vị tam phương tứ chính có tứ sát tinh Hỏa Tinh, Linh Tinh, Không, Kiếp hoặc hóa kị xung phá, cũng chủ về trong cát có hung, nên đừng quá xem trọng vẻ tốt đẹp bề ngoài, mà cần lưu ý những nguy cơ tiềm ẩn phía sau nó, phần nhiều sống nhờ có tay nghề. Sao Lộc Tồn, Hóa Lộc thủ mệnh, nếu gặp Địa Không, Địa Kiếp, là cách cục "Lưỡng trùng hoa cái" (hai tầng lọng hoa), chủ về ngạo, cô độc, bần hàn, dễ có duyên với tăng đạo.

Ca quyết

Bắc Đẩu Lộc Tồn tinh; Số trung vi thượng cục

Thủ trị thân mệnh nội; Bất quý đa kim ngọc

Thử vi địch cát tinh; Diệc khả đăng sĩ lộ

Văn nhân hữu thanh danh; Vũ nhân hữu hậu lộc

Thường thứ phát hoạnh tài; Tăng đạo diệc chủ phúc

Quan lại nhược phùng chi; Định nhiên thực thiên lộc

Nghĩa là:

Lộc Tồn thuộc Bắc Đẩu; tại số là thượng cục; Ở cung thân, mệnh; không quý cũng nhiều vàng ngọc; đây là lộc cát tinh; cũng có thể làm quan chức; nghiệp văn có thanh danh; nghiệp võ được lộc hậu; làm dân chóng phát tài; tăng, đạo cũng có phúc; quan lại gặp Lộc Tồn; đương nhiên hưởng lộc trời.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính sao Lộc Tồn - Tài lộc và phúc thọ

Bố trí bàn ăn hợp phong thủy –

Bàn ăn là nơi cả gia đình quây quần, sum họp trong những bữa cơm đầm ấm, là một trong những không gian chính trong nhà ở gia đình, vì vậy việc sắp xếp, bố trí bàn ăn rất quan trọng. Theo quan niệm phong thủy học truyền thống, bàn ăn nên được đặt ở hư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bàn ăn là nơi cả gia đình quây quần, sum họp trong những bữa cơm đầm ấm, là một trong những không gian chính trong nhà ở gia đình, vì vậy việc sắp xếp, bố trí bàn ăn rất quan trọng.

Theo quan niệm phong thủy học truyền thống, bàn ăn nên được đặt ở hướng lành, không thích hợp với vị trí hung so với mệnh của chủ nhà. Nếu chủ nhà Đông tứ mệnh thì nên tránh để bàn ăn ở hướng Tây, Tây Nam, Tây Bắc và hướng Đông Bắc.

av

Ngược lại chủ nhà thuộc Tây tứ mệnh thì cần tránh đặt bàn ăn hướng Đông Nam, Đông, Nam và hướng Bắc. Có như vậy mới đảm bảo quy tắc “trạch mệnh tương phối” trong bố trí nhà ở gia đình theo phong thủy.

Trong không gian phòng ăn của gia đình hiện đại ngày nay thường bố trí thêm đèn chiếu sáng và đèn trang trí trên trần nơi đặt bàn ăn. Tuy nhiên cần chú ý để ghế ngồi không bị đèn “chiếu” thẳng vào đầu, vì khi có ngưòi ngồi, sẽ lâm vào thế bị đèn đè lên đầu.

Đặc biệt, cần tuyệt đối tránh đặt bàn ăn ngay dưới xà nhà sẽ gây nên cảm giác đè nén, nặng nề, khiến người ngồi bên dưới có tinh thần bất ổn và cảm giác bất an. Trong trường hợp này, nên dịch chuyển bàn ăn khỏi những vị trí trên. Nếu không còn nơi nào khác thay thế thì nên treo quả hồ lô bên dưới để hóa giải.

Bàn ăn không được để đối diện trực tiếp cửa chính bởi cửa chính là nơi nạp khí cho toàn bộ ngôi nhà, luồng khí ra vào cửa chính tương đối mạnh. Bàn ăn đặt ở vị trí đối diện cửa sẽ cản trở luồng khí này ra vào nhà, ảnh hưởng không tốt đến tài vận của ngôi nhà. Thêm vào đó, nếu bàn ăn đối diện cửa chính thì người đi bên ngoài có thể nhìn thấy mọi ngưòi đang ăn cơm, làm mất đi tính riêng tư của gia đình.

Nhà vệ sinh theo quan niệm phong thủy là nơi không sạch sẽ, có nhiều khí bẩn. Do đó, không nên để bàn ăn đối diện nhà vệ sinh, vừa không hợp vệ sinh gây ảnh hưởng đến sức khỏe, vừa khiến người ngồi ăn cơm không có cảm giác ngon miệng.

Trong nhà ở hiện đại ngày nay, nhiều gia đình thường đặt bàn ăn luôn ở phòng bếp, tạo không gian chung phòng bếp – ăn. Khi bố trí như vậy, cần tránh để bàn ăn đối diện trực tiếp với bếp nấu. Khi nấu ăn, bếp nấu thường có nhiệt độ cao và khói, nếu bàn ăn đặt đối diện sẽ khiến sức khỏe của các thành viên trong gia đình không được tốt, tính khí cũng sẽ trở nên nóng nảy, dễ cáu gắt.

Bàn ăn phải thường xuyên được dọn dẹp sạch sẽ, đặt ở nơi thông thoáng. Không nên để quá nhiều đồ linh tinh ở gần bàn ăn. Nên bố trí bàn ăn nhẹ nhàng, giúp không khí trong bữa cơm của cả gia đình thêm thân mật, ấm cúng và ngon miệng.

Bàn ăn không nên đặt đối diện với bàn thờ. Đây là không gian linh thiêng thờ phụng tổ tiên, thần thánh. Vì thế, không nên sắp đặt bàn ăn tại đây nhằm đảm bảo sự tôn nghiêm, tĩnh lặng cho nơi thờ cúng và mang lại cảm giác tự do, thoải mái cho người ăn.

Một số người thích bàn ăn có kích cỡ lớn. Tuy nhiên, phải căn cứ theo diện tích căn phòng để bố trí cho phù hợp. Ngoài ra, diện tích bàn quá lớn sẽ tạo khoảng cách, khó tạo không khí ấm cúng, quây quần giữa các thành viên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí bàn ăn hợp phong thủy –

Vòng tay phong thủy có ý nghĩa gì? –

Trang sức được làm bằng đá phong thủy là một trong những loại linh vật phong thủy được con người tin dùng. Đá phong thủy có thể làm được rất nhiều kiểu trong đó có đồ trang sức, vòng tay, vòng cổ, nhẫn... Có rất nhiều người rất thích đeo trang sức vò

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trang sức được làm bằng đá phong thủy là một trong những loại linh vật phong thủy được con người tin dùng. Đá phong thủy có thể làm được rất nhiều kiểu trong đó có đồ trang sức, vòng tay, vòng cổ, nhẫn… Có rất nhiều người rất thích đeo trang sức vòng tay phong thủy. Vậy vòng tay phong thủy có ý nghĩa gì? Người ta nói những người thích đeo vòng tay phong thủy được cho là có “thiện căn”, có nhân duyên lớn với Phật từ vô thủy kiếp đến nay. Trong các ghi chép, Phật đã dạy rằng “Nếu như có người tay cầm chuỗi hạt này, không thể theo lệ niệm tụng danh hiệu Phật và Đà la ni, nhưng có thể cầm tay hoặc mang bên mình lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Những lời được nói ra lúc thiện lúc ác, người này nếu như cầm chuỗi hạt trên tay, sẽ đắc công đức, nếu như niệm chư Phật, tụng chú, được phúc vô lượng”.

Nội dung

  • 1 Khởi nguồn của vòng tay phong thủy
    • 1.1 Truyền thuyết kể rằng
  • 2 Chủng loại của vòng tay phong thủy
  • 3 Màu sắc của vòng tay phong thủy
  • 4 Vòng tay phong thủy có cần khai quang điểm nhãn không
  • 5 Bảng ngũ hành tương sinh, tương khắc
  • 6 Xử lý khi vòng tay phong thủy bị đứt dây

Khởi nguồn của vòng tay phong thủy

Vòng tay phong thủy khởi nguồn từ Phật giáo, còn gọi là niệm châu, sổ châu, tràng hạt hay Phật châu. Người tu hành coi đây là pháp cụ dùng để xưng danh niệm Phật và trì chú. Vòng tay phong thủy trong tiếng Phạm gọi là “mala”, nghĩa là tràng, chuỗi.

Truyền thuyết kể rằng

Trong lần đi qua nước Cao Ly (nay là Triều Tiên), Phật nói với vua Ba Lưu Ly rằng “nếu nhà vua muốn diệt phiền não, báo chướng, hãy xâu chuỗi tràng 108 hạt và mang bên mình. Chuyên tâm niệm Phật khi dùng tay lần hạt. Sau này, thân tâm ắt không tán loạn, cõi lòng thanh tịnh, an lạc, chết đi được đầu sinh lên cõi Diệm Thiên thứ ba”.

Nhà vua nghe lời Phật thực hành một thời gian, thấy vô cùng hiệu nghiệm, cõi lòng vô cùng an lạc, bèn tạ ơn đức Phật và ban lệnh làm thêm 1000 chuỗi hạt, ban cho lục thân quốc thích mỗi người một chiếc, khuyên bảo ngày ngày làm theo lời Phật dạy.

Câu chuyện này được ghi chép trong Mộc hoạn tử kinh, đây chính là nguồn gốc xưa nhất của niệm châu trong Phật giáo, vòng tay phong thủy được sử dụng ngày nay cũng bắt nguồn từ truyền thuyết đó.

Bằng cách đó, cùng với sự phát triển của Phật giáo, vòng tay phong thủy đã được lưu truyền rộng rãi ở nhiều quốc gia, ban đầu được sử dụng làm pháp cụ tu hành trong giới tăng nhân, sau được truyền tới tầng lớp vua chúa, quan lại, rồi phổ biến rộng rãi ở mọi tầng lớp xã hội.


Chủng loại của vòng tay phong thủy

Nhiều người khi tìm mua và sử dụng vòng tay phong thủy, thường quan tâm tới số lượng hạt. Trong ghi chép của Phật giáo, vòng có hai hình thức, thường nhìn thấy là loại 18 hạt. Ngoài ra còn có loại không có số hạt nhất định, lấy kích thước của cổ tay để xác định số hạt. Vòng phong thủy phần lớn được làm từ chất liệu quý hoặc màu sắc đẹp.

Những người thích đeo vòng tay phong thủy được cho là có “thiện căn”, có nhân duyên lớn với Phật từ vô thủy kiếp đến nay. Trong các ghi chép, Phật đã dạy rằng:

“Nếu như có người tay cầm chuỗi hạt này, không thể theo lệ niệm tụng danh hiệu Phật và Đà la ni, nhưng có thể cầm tay hoặc mang bên mình lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Những lời được nói ra lúc thiện lúc ác, người này nếu như cầm chuỗi hạt trên tay, sẽ đắc công đức, nếu như niệm chư Phật, tụng chú, được phúc vô lượng”.

Vòng phong thủy phần lớn được dùng những chất liệu trân quý phổ biến như thạch anh, phỉ thúy, san hô, hổ phách… hay đặc biệt hơn như đá mặt trăng, đá mặt trời, diopside, lapis lazuli… Màu sắc của hạt vòng phải trong, sáng bóng, ôn nhuận và tế nhị. Đường kính của hạt cần phải cân bằng, đồng đều, tuyệt đối không được méo mó hay có sai khác lớn.


Màu sắc của vòng tay phong thủy

Nếu xét theo quan điểm Phật giáo, màu sắc của chiếc vòng thường căn cứ theo mùa, thời tiết hay môi trường sống, miễn sao cho phù hợp, thoải mái là được. Ví dụ, mùa hạ thì nên chọn vòng làm bằng đá quý như thạch anh, mã não, phỉ thúy, san hô… mang lại cảm giác mát mẻ. Trái lại, mùa đông nên chọn vòng tay làm bằng hổ phách, lapis lazuli hoặc đá kyanite…

Tuy nhiên, ngày nay chúng ta có thể vận dụng lý thuyết màu sắc tương sinh, tương hợp trong phong thủy vào việc lựa chọn màu sắc. Như vậy, chiếc vòng mang trên tay sẽ vừa mang ý nghĩa của đạo Phật như một vật bảo hộ, vừa tuân thủ theo lý thuyết phong thủy mang lại vận may, thu hút tài lộc.

Như người mệnh Hỏa nên đeo vòng màu xanh (hành Mộc) để được tương sinh, hoặc màu đỏ (hành Hỏa) để được tương hợp. Ngược lại, nên tránh đeo màu xanh nước biển, màu đen (hành Thủy) vì Thủy khắc Hỏa.

Người mệnh Thổ nên đeo vòng màu đỏ, tím, cam (hành Hỏa) để được tương sinh, hoặc màu nâu, vàng (hành Thổ) để được tương hợp. Ngược lại, nên tránh đeo màu xanh lá (hành Mộc) vì Mộc khắc Thổ và màu xanh nước biển (hành Thủy) vì Thổ khắc Thủy.

Người mệnh Kim nên đeo vòng màu nâu, vàng (hành Thổ) để được tương sinh, hoặc màu trắng, xám (hành Kim) để được tương hợp. Ngược lại, tránh đeo màu đỏ, cam, tím (hành Hỏa) vì Hỏa khắc Kim và màu xanh lá (hành Mộc) vì Kim khắc Mộc.

Người mệnh Thủy nên đeo vòng đá phong thủy màu trắng, xám (hành Kim) để được tương sinh, hoặc màu đen, xanh nước biển (hành Thủy) để được tương hợp. Ngược lại, tránh đeo màu nâu, vàng (hành Thổ) vì Thổ khắc Thủy và màu đỏ, tím, cam (hành Hỏa) vì Thủy khắc Hỏa.

Tương tự như vậy, người mệnh Mộc nên đeo vòng đá phong thủy màu xanh nước biển (hành Thủy) để được tương sinh, hoặc màu xanh lá (hành Mộc) để được tương hợp. Ngược lại, tránh đeo màu trắng, xám (hành Kim) vì Kim khắc Mộc và màu nâu, vàng (hành Thổ) vì Mộc khắc Thổ.

Ngoài ra, có một số loại đá có màu đa sắc như tourmaline, superseven hay đặc biệt như ruby có thể được dùng đeo cho tất cả các mệnh.

Vòng tay phong thủy có cần khai quang điểm nhãn không

Có nhiều người cho rằng, vòng tay phong thủy nếu làm từ vật liệu quý như đá quý, không cần khai quang điểm nhãn. Bởi vì bản thân trong đá có khí trường mạnh, có tác dụng kích phát vận khí của con người. Điều này, xét về mặt phong thủy thì hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, cần xét hai trường hợp như sau:

Sản phẩm bạn mua về đã được sử dụng bởi một người nào đó trước khi đến tay bạn.

Sản phẩm được chế tác và làm mới hoàn toàn.

Trong trường hợp một chiếc vòng đã qua tay, sự linh ứng không còn tốt nữa. Nhất định phải khai quang.

Trong trường hợp thứ hai, nếu được thì nên khai quang vì vật cần có chủ, khí cần có định. Khai quang chính là khai mở khí đó định vào một người cụ thể.

Việc khai quang không khó, tuy nhiên chúng ta nên tới nhờ các thầy có y đức, tăng ni xuất gia hoặc các cư sỹ. Bởi họ ăn chay niệm phật nên sự linh ứng rõ ràng.

Bảng ngũ hành tương sinh, tương khắc

Tương sinh Tương hợp Màu khắc chế Màu bị khắc chế
Mệnh Kim Vàng, nâu đất Trắng, xám Xanh lá cây Đỏ, cam, tím
Mệnh Mộc  Đen, xanh nước biển Xanh lá cây Vàng, nâu đất Trắng, xám
Mệnh Thủy Trắng, xám Đen, xanh nước biển Đỏ, cam, tím Vàng, nâu đất
Mệnh Hỏa Xanh lá cây Đỏ, cam, tím Trắng, xám Đen, xanh nước biển
Mệnh Thổ Đỏ, cam, tím Vàng, nâu đất Đen, xanh nước biển Xanh lá cây

Xử lý khi vòng tay phong thủy bị đứt dây

Khi dây xâu vòng tay phong thủy bị đứt, nhiều người nhầm lẫn cho rằng, là điềm báo không tốt. Kỳ thực, đây là kiến giải sai lầm. Chúng ta nên biết rằng, bất cứ vật phẩm nào, sử dụng lâu ngày, đều không tránh khỏi bị mài mòn và đứt vỡ. Cho nên, khi dây xâu chuỗi tràng hạt bị đứt, không phải là chuyện lạ. Cuộc đời vốn dĩ đầy những hiện tượng vô thường, con người không tránh khỏi sinh, lão, bệnh, tử, vạn vật có tồn tại ắt có mất đi, có bắt đầu phải có kết thúc. Do đó, nếu dây xâu vòng tay phong thủy bị đứt, chỉ cần đổi một cái dây mới là có thể tiếp tục sử dụng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vòng tay phong thủy có ý nghĩa gì? –

Xem tướng phụ nữ vương phu ích tử

Đặc điểm của tướng vượng phu ích tử về mặt mạng vận là khi lập gia đình dù chỉ về nhiều lãnh vực, đặc biệt là sự nghiệp và tiền bạc. Đại để phụ nữ như vậy thường có nhiều nét tướng thuộc các loại sau đây:
Xem tướng phụ nữ vương phu ích tử

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nói một cách tổng quát thân hình diện mạo đôn hậu, đẹp một cách oai vệ, cử chỉ ngôn ngữ thư thái ôn hoà: khuôn mặt cân phân về cả tam đình, ngũ nhạc.

Nếu đi sâu vào từng chi tiết ta thấy:

- Ấn đường rộng rãi không xung phá, diện mạo tươi tỉnh.
- Mũi thuộc loại Huyền đảm tỵ đúng cách : màu da khuôn mặt tươi nhuận đặc biệt là chuẩn đầu và tỵ lương sáng sủa, phối hợp với mày thanh mắt đẹp.
- Lòng bàn chân hoặc trong thân thể (rốn hoặc khu vực trên dưới rốn một chút, phần ngực dưới hai vú, hai bên háng) có nốt ruồi đen huyền hoặc son.
- Bất kể gầy mập mà lòng bàn tay mập, nếu lòng bàn tay có thịt quá đầy thì đa dâm và có thể ngoại tình mặc dầu vẫn vượng phu: màu sác hồng nhuận ấp áp, ngón tay thon dài, thẳng, khít nhau, chỉ tay rõ và đẹp. Thường thường tướng phụ nữ vượng phu đi đôi với tướng ích tử. Vì người đem lại thịnh vượng cho chồng đa số đem lại ích lợi cho con cái.
- Trong một số ý nghĩa chuyên biệt hơn, ích tử còn có ý nghĩa là sinh con trai quý hiếm, làm rạng rỡ gia môn lo tròn đạo hiếu và giữ vững dòng giống (không phân biệt vợ lớn vợ bé). Về điểm này các sách tướng hầu như đều đồng ý về một số dấu hiệu sau : Ngũ quan phối hợp đúng cách đặc biệt là sắc mặt trắng ngà, mắt phượng môi hồng.
- Rốn hoặc khu vực dưới rốn đôi chút có nốt ruồi màu son tàu.
- Xung quanh khu vực bụng có thịt nổi rõ như một vành đai. Người phụ nữ có hai đặc điểm về tướng cách cuối cùng như trên dường như chắc chắn sẽ sinh quý tử bất kể diện mạo xấu đẹp ra sao. Vì đó là hai nét tướng ngầm có khả năng chế ngự tất cả các phá tướng khác (dĩ nhiên là trong trường hợp như vậy ông chồng phải có khả năng truyền giống thì quý tướng trên mới phát huy được kết quả thực tiễn).

Nguồn: Phong Thủy tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phụ nữ vương phu ích tử

Các lễ hội ngày 2 tháng 7 âm lịch - Lễ Hội Xã Mãn Trù

Lễ Hội Xã Mãn Trù diễn ra trong ngày mùng 2 tháng 7 âm lịch hàng năm tại xã Mãn Trù, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 2 tháng 7 âm lịch - Lễ Hội Xã Mãn Trù

Các lễ hội ngày 2 tháng 7 âm lịch - Lễ Hội Xã Mãn Trù

Lễ Hội Xã Mãn Trù

Thời gian: tổ chức vào ngày 2 tháng 7 âm lịch.

Địa điểm: xã Mãn Trù, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn bảy vị đại vương (Hải, Lĩnh, Long, Lôi, Lương, Nhạo, Sơn) thời Hùng Vương, có công dẹp loạn ở Hưng Hóa.

Nội dung: Phần tế lễ diễn ra trong một bầu không khí trang nghiêm. Lễ vật dâng cúng có trâu, dê, lợn. Ngoài ra còn có các hoạt động vui chơi ca hát.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 2 tháng 7 âm lịch - Lễ Hội Xã Mãn Trù

Móng tay của người bị bệnh nội khoa

Theotiến sĩ Charlotte Wolfe thì hình dáng móng tay của người bị bệnh nội khoa cómột tầm quan trọng đặc biệt và bổ sung thêm kinh nghiệm riêng của mình vàonhững kết luận của Pedro Castello để làm sáng tỏ phép chuẩn đoán bệnh bằng móngtay. Trong sách này ông không trình bày một cách có hệ thống các tình trạng sứckhỏe mà chỉ đề cập đến một số bệnh có liên quan đến bàn tay trong đó có cácbệnh nội khoa. Ông đã từng ghi nhận nhiều trường hợp có bệnh về tuyến giáptrạng và não thùy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bệnh về tuyến giáp trạng: Tuyến giáp trạng nằm trên khí quản ngay dưới sụn thanh quản.

Tuyến hoạt động yếu thì:

-          Xương không phát triển (lùn không cân đối), ngu đần, cơ quan sinh dục yếu không phát triển.

-          Ở người lớn sẽ bị bệnh niêm thủy chủng: nước tụ ở da nên mắt, lưỡi sưng, nhiệt độ cơ thể hạ, mạch chậm, bải hoải.

Khi quan sát móng tay mặc dù người bệnh không có triệu chứng nào khác. Sau đó lần lần các triệu chứng xuất hiện và những xét nghiệm chuyên khoa chứng minh là đúng.

Sách y học và sach của Pedro Castello chỉ cung cấp vài chi tiết sơ sài và có phần mâu thuẫn về móng tay của người bị bệnh nội khoa. Những chi tiết được đề cập phần lớn liên quan đến các bệnh về tuyến giáp trạng và não thùy. Tiến sĩ Charlotte Wolfe đã quả quyết cho rằng các bệnh này có liên hệ mật thiết đến móng tay. Theo Pedro Castello thì móng tay thiếu vẻ bóng và có vạch trên đó là triệu chứng của bệnh tuyến giáp trạng và bệnh niêm thủy thủng (Myxoedème) (kèm theo triệu chứng da đầu khô và ruing tóc). Những móng tay mỏng, dễ gãy, hình dạng như móng tay con nít là những móng tay bị yếu, phát triển rất chậm. Đôi khi chúng rất mềm và có dạng như cái quạt. Theo một tác giả khác thì móng tay loại như con nít kém phát triển là triệu chứng của cơ quan sinh dục bị suy nhược. Theo Hollander thì móng tay quá lớn là triệu chứng bệnh não thùy kém phát triển, nhưng tôi thì không nhận thấy vậy bao giờ. Tiến sĩ Charlotte Wolfe cho rằng (mà Pedro Castello cũng đồng ý như vậy) là não thùy và tuyến giáp trạng phát triển quá mức bình thường thì móng tay cũng phát triển nhanh theo, láng bóng và mọc ra rất nhanh.

Nếu tuyến giáp hoạt động mạnh tiết hydroxine vào máu và gay bệnh basedow hay nóng nảy, giận dữ, người gầy đi.

Bệnh não thùy là một tuyến nhỏ bằng hạt đậu xanh nằm trong mặt dưới não. Não thùy có những kích thích tố có nhiệm vụ giúp cơ thể tăng trưởng. Nếu tuyến hoạt động kém sẽ lùn (nhưng cân xứng), nếu tuyến hoạt động mạnh cơ thể tăng trưởng quá mức (khổng lồ), nếu sau khi trưởng thành mà tuyến phát triển thì đầu ngón tay, ngón chân sẽ to lớn dị thường, cằm và mũi cũng to (chứng đầu triển), ngoài ra tuyến giáp trạng còn giúp cơ thể giảm lượng nước tiểu (gay tái hấp thụ), tăng huyết áp… thần kinh. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận thấy người bị bệnh tâm thần có móng tay phát triển quá mức nhưng chưa xác định được các đặc điểm của chúng. Nơi người bệnh tâm thần phân biệt thì móng tay dài và phát triển rất nay đủ. Còn những người bệnh loại tâm thần hưng trầm cảm thì có móng tay mang đủ sắc thái của sự phát triển quá mức bình thường. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có được một bản thống kê đủ.

Trường hợp người bị yếu thần kinh thì móng tay không phát triển quá mức mà có chiều hướng kém phát triển. Ít khi gặp nơi họ những móng tay phát triển nay đủ với vết trắng hình lưỡi liềm: tiến sĩ Charlotte Wolfe chỉ đếm được có 10% trong số 650 bàn tay đã nghiên cứu.

Những móng tay kém phát triển này đều nhỏ một cách khác thường mà ông tạm gọi là móng tay “thô sơ” và gặp chúng trong 25% những người bị yếu thần kinh. Theo Pedro Castello thì dạng móng tay này có mang tính di truyền và rất hiếm có. Sở dĩ chúng hiếm như vậy là vì Pedro Castello chỉ quan sát móng tay của người bị da liễu mà thôi.

Móng tay “sơ cấp” là một loại móng rộng và cụt, không có vết trắng hình lưỡi liềm, thường gặp nơi người bị yếu thần kinh. Thật khó mà cho rằng những móng này khác thường, nhưng chắc chắn là chúng phát triển không nay đủ. Những người bệnh thường bị đau thần kinh nhẹ cũng thường có loại móng này. Tôi nhận thấy là những người bị yếu thần kinh thường có móng tay phẳng hơn là cong.


Chúng ta không cho là quá đáng nếu bảo rằng móng tay phát triển khong nay đủ là một trong những nét đặc trưng nhất của bàn tay người bị yếu thần kinh. Móng tay hẹp, bóng có vết trắng hình lưỡi liềm to, đục, chứng tỏ tuyến giáp trạng phát triển quá mức. Loại này giống với móng tay của người bị lao phổi nhưng khác ở chỗ là khi nhing nghiêng thì trắc diện của nó phẳng chứ không cong, còn thân móng tay thì sạch và bóng. Người ta gặp hai loại móng tay này nơi bàn tay xương xẩu có ngón dài của những người vừa bị lao, vừa có tuyến giáp trạng phát triển quá mức bình thường. Những người này có móng dài và vết trắng hình lưỡi liềm to vì các biến hóa trong cơ thể gia tăng cường độ. Cần nên nhớ là người mắc bệnh này lại rất thông minh và bàn tay họ thuộc loại xương xẩu (xem hình).


Móng tay dài rất phát triển, bóng bề ngang rộng (khác với trường hợp trên) có vết trắng hình lưỡi liềm dài và rộng (hình) là triệu chứng của người có não thùy phát triển quá mức. Những loại móng tay như vậy thường gặp nơi những ngón tay rắn rỏi. Loại móng này hoàn toàn khác với móng người mang bệnh tuyến giáp trạng phát triển quá mức.




Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Móng tay của người bị bệnh nội khoa

Trang trí phòng khách như thế nào để hợp phong thủy

Ở vị trí trung tâm với vai trò là không gian sinh hoạt chung đồng thời là nơi tiếp đón bạn bè nên cách thiết kế, bài trí trong không gian phòng khách có ảnh hưởng rất lớn đến tài vận của toàn bộ các thành viên trong gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không treo hình thú dữ, binh khí  

  

Nên treo những bức tranh sơn thủy, hoa cỏ xanh tươi, chim hạc, phượng hoàng… trong phòng khách.

Việc treo tranh trang trí trong các không gian sống trong nhà ở gia đình hiện nay được rất nhiều gia chủ lựa chọn. Tuy nhiên, tranh để treo trong phòng khách tốt nhất là các bức tranh sơn thủy, hoa cỏ xanh tươi, hạc, phương hoàng… là những biểu tượng cho sự cát tường, thịnh vượng. Nếu gia chủ muốn treo hình hổ cọp, chim ưng… để bảo vệ gia trạch trong phòng khách thì phải chú ý hướng đầu của chúng ra ngoài cửa.

Tuyệt đối không để đầu của các loại thú dữ này quay vào trong để đề phòng chúng quay lại uy hiếp người nhà của mình. Thêm vào đó, nếu bạn trưng bày binh khí trong phòng khách sẽ khiến ngôi nhà mang nặng sát khí, không tốt và ảnh hưởng đến tâm lý của mọi người.

Không đặt ghế sofa dưới xà ngang

Nếu đặt ghế sofa dưới xà ngang, khi khách và chủ nhà ngồi nói chuyện sẽ có cảm giác căng thẳng, đè ép làm tổn hại đến tinh thần đồng thời vận thế của người trong nhà cũng vì vậy mà không phất lên được.
 

  

Không nên đặt ghế sofa bên dưới xà ngang của ngôi nhà.

Trong trường hợp này, tốt nhất bạn nên thay đổi vị trí của ghế sofa hoặc làm trần giả, la phông trần để che xà ngang lại.

Không treo gương ở vị trí vượng khí

Trong thuật Phong thủy, vị trí vượng khí nhất của ngôi nhà nằm ở không gian phòng khách. Trong phòng khách, vị trí vượng khí tập trung nhiều nhất ở vị trí góc đối chéo với cửa chính. Chính vì thế, vị trí này trong không gian phòng khách phải luôn được giữ trong tình trạng yên tĩnh, ổn định. Không nên bố trí lối đi hay có hành lang tại vị trí này, cũng tuyệt đối không nên treo gương vì gương có tác dụng phản xạ, sẽ làm trở ngại vận thế và vượng khí của ngôi nhà.

Để tăng thêm vận khí, tại vị trí vượng khí bạn nên đặt thêm các đồ vật cát tường, những cây cảnh có màu xanh đầy sức sống để hỗ trợ, nâng cao cho vận thế của ngôi nhà.

Trần “thiên trì”

Trần nhà của phòng khách tượng trưng cho bầu trời. Trần nhà được thiết kế theo kiểu “Thiên trì” tức là trần nhà có hình dáng như một chiếc ao trời. Đây là mẫu trần nhà được kiến trúc sư thiết kế với những trang trí hoa văn ở 4 cạnh bên thấp, phần chính giữa trần nhà lõm sâu vào, có hình dáng như một chiếc ao ở giữa bầu trời.
 

  

Trần nhà trong phòng khách tượng trưng cho trời, nền nhà tượng trưng cho đất.

Với những trần nhà dạng này, bạn nên gắn thêm đèn thủy tinh dạng chùm ở giữa trần nhà. Đèn chùm nên có ánh sáng màu vàng, có tác dụng “rồng điểm nhãn” giúp nâng cao vận khí của ngôi nhà.

Trần nhà trong không gian phòng khách tuyệt đối không nên gắn gương phía trên, tránh sự phản chiếu ngược chiều các không gian trong nhà, không tốt theo phong thủy.

Theo Phong thủy, trần nhà trong phòng khách tượng trưng cho trời, nền nhà tượng trưng cho đất. Do đó, màu sắc trên trần nhà nên nhạt còn nền lại có màu đậm hơn với ý nghĩa “trời nhẹ đất nặng”.

Đèn chiếu sáng trên trần nhà

Không gian phòng khách của gia đình bạn bị thiếu ánh sáng mặt trời, khiến căn phòng u tối, lờ mờ gây ảnh hưởng đến tinh thần người ở trong nhà? Để khắc phục vấn đề này, ở 4 góc của trần nhà bạn nên lắp thêm đèn để tăng ánh sáng cho căn phòng.
 

  

Hệ thống đèn mắt trâu chạy dọc trần nhà, khiến tổ ấm của gia đình bạn thêm sáng tươi.

Ánh đèn chiếu lên trần nhà rồi khúc xạ xuống phòng khách khiến không gian phòng thêm sáng sủa, tạo cảm giác dễ chịu và không gây chói mắt cho người trong nhà. Ban ngày bạn có thể dụng đèn tròn lớn có tác dụng như mặt trời chiếu sáng, ban đêm nên dùng đèn có màu ngọc bích sẽ tạo nên những mảng ánh sáng rất đẹp.

Khi bố trí đèn, cần khéo léo chọn ánh sáng phù hợp với màu sơn tường, khiến phòng khách thêm sáng sủa mới có thể đem lại sự thịnh vượng và may mắn cho gia đình.

(Theo Xzone)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí phòng khách như thế nào để hợp phong thủy

Những loại quả mang tài lộc nên bày bàn thờ ngày Tết

Mâm ngũ quả là thứ không thể thiếu trong những ngày Tết của người Việt. Tùy mỗi miền mà việc lựa chọn và bày mâm ngũ quả khác nhau. Dưới đây là những loại quả mang tài lộc nên bày bàn thờ ngày Tết theo quan niệm có thể bạn chưa biết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo các chuyên gia phong thủy, mâm ngũ quả đặt trên bàn thờ tổ tiên dịp Tết mang một ý nghĩa chung sâu sắc là dâng cúng tổ tiên thể hiện lòng hiếu thảo và ước mong những điều tốt lành trong gia sự.

Người phương Đông quan niệm mâm ngũ quả cần có 5 loại quả với 5 màu tượng trưng cho mong ước được ngũ phúc: giàu có, sang trọng, sống lâu, khỏe mạnh, bình yên.

Theo thuyết ngũ hành: Kim màu trắng, Mộc màu xanh, Thủy màu đen, Hỏa màu đỏ, Thổ màu vàng. Mâm ngũ quả thường theo 5 sắc màu đó để phối trí.

Ngày nay, hoa trái ngày càng nhiều và phong phú. Vì vậy mâm ngũ quả có thể nhiều hơn. Mỗi loại quả đều có mùi vị, màu sắc riêng và cũng mang những ý nghĩa nhất định.

 nhung loai qua mang tai loc nen bay ban tho ngay tet - 1

Tùy theo mỗi miền mà việc bày mâm ngũ quả cũng khác nhau

Cùng với những quan niệm đó, có những loại quả mang tài lộc nên bày bàn thờ ngày Tết bạn nên biết:

- Nải chuối: Là thứ không thể thiếu trên mâm ngũ quả. Chuối phải là nải chuối còn xanh, màu xanh được coi là hành Mộc. Nó mang ý nghĩa như bàn tay ngửa để che chở đem lại sự bình an, sung túc, đùm bọc và gắn kết. Thực tế là trên mâm ngũ quả, nải chuối cũng bao bọc, nâng đỡ các loại quả khác.

- Quả quất: Theo âm Hán của từ “quất” gần giống âm của từ “cát”. Bày quất trên mâm ngũ quả ý nghĩa mang lại sung túc, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống.

- Quả phật thủ: Quả phật thủ thường được đặt ở trung tâm và nơi cao nhất trong mâm ngũ quả. Theo quan niệm xưa phật thủ là loại quả dùng để thờ Phật và gia tiên vì có mùi thơm quyến rũ, tác dụng lưu giữ thần, Phật và gia tiên lưu lại trong nhà lâu hơn để phù hộ cho gia chủ.

- Quả bưởi: Tượng trưng cho phúc lộc, viên mãn.

- Quả xoài: Cầu mong không thiếu thốn.

- Quả thanh long: Mang ý nghĩa rồng mây hội tụ và biểu trưng cho sự cát tường, thịnh vượng.

- Quả sung: Với mong muốn có sự sung túc, tròn đầy, sung mãn về sức khỏe, hay tiền bạc

- Quả đu đủ: Là biểu tượng của đầy đủ, thịnh vượng.

Theo các chuyên gia phong thủy, tùy từng vùng miền và quan niệm văn hóa riêng mà việc lựa chọn và bày biện những loại quả trên mâm ngũ quả cũng khác nhau.Từ đó, người ta chọn ra những loại quả mang ý nghĩa tâm linh, tinh thần để bày trên mâm ngũ quả.

Nếu như miền Bắc, mâm ngũ quả thường có bưởi, đào, quýt, chuối, hồng và chú trọng ngũ sắc thì miền Trung và miền Nam coi trọng nghĩa của quả, thể hiện khí chất, sự thuận lợi về thiên nhiên. 5 loại quả hay được chọn là mãng cầu, sung, dừa, đu đủ và xoài , đọc chệch thành các tên “cầu sung vừa đủ xài”, hay “cầu vừa đủ xài sung”.

Chuối là thứ quả không bao giờ xuất hiện trong mâm quả cúng gia tiên của người miền Nam và cam cũng vậy vì bởi câu nói: “Cam làm quýt chịu”.

Trong khi đó, mâm ngũ quả miền Trung có nét tinh tế riêng nhưng thế nào cũng có nải chuối ngự quả nhỏ mà thơm.

Để bày mâm ngũ quả ngày Tết đẹp, lưu ý mọi người khi bày mâm ngũ quả cần chú ý chỉ nên dùng khăn giấy ẩm lau sạch sẽ, tránh rửa để ủng nước vì quả dễ bị héo nhanh hoặc thối hỏng.

Nên chọn những quả già nhưng chưa chín quá. Chuối phải là chuối xanh để đủ cứng, đỡ những quả khác và còn đảm bảo ý nghĩa màu sắc theo Ngũ Hành và tránh khi trưng không bị chín rục.

Để chọn được nhiều quả đẹp và ngon, chất lượng tốt mọi người nên mua trước tết 3 ngày, không nên mua tận chiều 30 Tết vì cận Tết giá sẽ rất cao và ít cơ hội chọn quả đẹp để bầy mâm ngũ quả đẹp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những loại quả mang tài lộc nên bày bàn thờ ngày Tết

Hóa giải cửa đối cửa –

Một trong những câu hỏi phong thủy phổ biến nhất là về cấu trúc "cửa đối cửa" (cả nội thất và ngoại thất), và ảnh hưởng của thế cửa này đến năng lượng phong thủy của ngôi nhà. Thực tế, đây là mối quan tâm của rất nhiều gia đình. Đầu tiên, chúng ta cầ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một trong những câu hỏi phong thủy phổ biến nhất là về cấu trúc “cửa đối cửa” (cả nội thất và ngoại thất), và ảnh hưởng của thế cửa này đến năng lượng phong thủy của ngôi nhà. Thực tế, đây là mối quan tâm của rất nhiều gia đình.

Đầu tiên, chúng ta cần tìm hiểu xem lý do vì sao hai hoặc nhiều cửa đối nhau được coi là phong thủy xấu? Về bản chất, phong thủy là tất cả những gì tạo nên dòng chảy năng lượng cân bằng và hài hòa trong ngôi nhà của bạn. Sự đối diện trực tiếp của hai hoặc nhiều cửa sẽ tạo nên nguồn năng lượng phong thủy khắc nghiệt, giống với tà khí.

Thử hình dung khí hoặc năng lượng như dòng nước chảy vào không gian của bạn. Bạn sẽ nhìn thấy nước chảy rất nhanh thông qua 2 hoặc nhiều cửa thẳng hàng với nhau mà không thực sự chảy êm đềm và nuôi dưỡng không gian.

1406757543-10

Điểm đặc biệt quan trọng là phải tránh cửa ra vào (cửa chính) và cửa sau nhà thẳng hàng với nhau. Nguyên nhân bạn muốn tránh tình huống này là bởi vì tất cả năng lượng phong thủy tốt đẹp đi vào từ cửa chính sẽ dễ dàng thoát ra ngoài theo đường cửa sau, không có cơ hội tuần hoàn và tiếp thêm sinh khí cho ngôi nhà của bạn. Luôn luôn cân nhắc đến trường hợp này mỗi khi bạn có kế hoạch cải tạo hoặc xây mới nhà cửa.

Ngôi nhà của bạn cần năng lượng tốt tương tự như bạn cần không khí chất lượng tốt. Điều quan trọng là phải nhận thức được chất lượng của năng lượng phong thủy được tạo ra bởi cách bố trí nội thất và xem xét những gì bạn có thể làm để năng lượng tốt hơn.

1406757543-8

Vậy, đâu là giải pháp phong thủy đơn giản bạn có thể áp dụng nếu sống trong một ngôi nhà có thế “cửa đối cửa”? Dựa vào cách bố trí nội thất, ngân sách và phong cách trang trí, hãy cùng Nhà đẹp khám phá một số giải pháp phong thủy đơn giản sau đây:

1. Đặt một chiếc bàn tròn trên đường đi trực tiếp của năng lượng. Cách này sẽ làm đổi hướng năng lượng, khiến nó chảy chậm lại. Một bình hoa tươi trên bàn sẽ cải thiện năng lượng tốt hơn nữa.

1406757543-11

2. Sử dụng màu sắc để thay đổi mối quan hệ giữa các cửa. Chọn đúng màu sắc phong thủy cho từng khu vực và tăng cường sức mạnh cho một chiếc cửa nhiều hơn so với những chiếc khác. Nó sẽ thay đổi mối quan hệ giữa 2 chiếc cửa thẳng hàng với nhau và làm chậm dòng chảy năng lượng.

3. Trang trí một chậu cây xanh tươi tốt trên đường đi chính của năng lượng. Tác dụng phong thủy của cây xanh, lý tưởng nhất là cây cao và tán rộng, được trồng trong một chiếc chậu chắc chắn là làm đổi hướng dòng chảy năng lượng.

1406757543-12

4. Sắp xếp lại đồ nội thất trong nhà để tạo hướng đi mới cho dòng chảy khí và năng lượng. Nếu có đủ không gian giữa 2 cửa đối nhau, bạn nên bố trí đồ đạc ở đây. Củng cố và nâng cao năng lượng mặt đất hơn bằng cách trải 1 tấm thảm nhiều màu sắc.

Về cơ bản, những gì bạn cần làm là chuyển hướng và làm mềm dòng chảy năng lượng khắc nghiệt, đột ngột được sinh ra từ hai hoặc nhiều cửa đối diện trực tiếp. Bạn nên chọn giải pháp thực tế và phù hợp với bản thân cũng như nơi ở của mình nhất. Cải thiện năng lượng phong thủy trong nhà bằng những món đồ thích hợp với phong cách trang trí và phong cách sống là giải pháp phong thủy mạnh mẽ nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải cửa đối cửa –

Nuôi cá cảnh theo phong thủy –

Theo Phong thủy học, bể cá tượng trưng cho yếu tố Thủy, giúp điều hòa âm dương, mang lại nguồn năng lượng tốt giúp gia chủ thêm thịnh vượng, giàu sang. Bởi vậy việc lựa chọn bể cá hợp mệnh phong thủy là vô cùng quan trọng. Ngày nay, việc mang bể cá v

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo Phong thủy học, bể cá tượng trưng cho yếu tố Thủy, giúp điều hòa âm dương, mang lại nguồn năng lượng tốt giúp gia chủ thêm thịnh vượng, giàu sang. Bởi vậy việc lựa chọn bể cá hợp mệnh phong thủy là vô cùng quan trọng.

Ngày nay, việc mang bể cá vào trong gia đình đã trở nên khá quen thuộc. Theo nhiều người quan niệm, mang bể cá vào đời sống sẽ mang lại rất nhiều tài lộc. Tuy nhiên, không phải người nào cũng hiểu tường tận về kiến thức phong thủy bể cá cảnh bởi nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: Vị trí của bể cá, hình dáng hồ, màu sắc, số lượng cá,…

Phong thủy bể cá chỉ là một phần của phong thuỷ nhà ở, nó còn phụ thuộc vào phong thuỷ kiến trúc của ngôi nhà, phải tìm hướng cho phù hợp với gia chủ, cung tốt phù hợp với mệnh thì thời vận mới được khai thông.

Nội dung

  • 1 Vị trí đặt bể cá
  • 2 Hình dáng bể cá
  • 3 Số lượng cá trong bể
  • 4 Màu sắc của cá
  • 5 Các loại cá nên nuôi

Vị trí đặt bể cá

Xét về ngũ hành, bể cá mang hành thuỷ tượng trương cho tài lộc, nguồn nước nuôi dưỡng vạn vật. Mộc tức là cây thuỷ sinh trong bể. Kim là kết cấu của bể như khung, giá đỡ… Thổ là đá, sỏi dưới nền bể. Hỏa là màu đỏ, da cam, vàng của những chú cá.

Thông thường bể cá thuộc hành thuỷ nên đặt nhánh Thanh long phía bên trái của phòng khách, kể từ trong nhà nhìn ra phía trước.

Ngoài ra còn đặt ở cung Đông Nam để may mắn về tài lộc, Đông về sức khoẻ, gia đạo, hoặc cung Bắc mang lại may mắn về sự nghiệp.

Dù đặt bể cá ở vị trí nào cũng nên lưu ý những điểm sau:

  • Bể cá phải được tựa lưng vào bờ tường để tăng độ vững chãi, chắc chắn cho tài lộc.
  • Bể cá phải đặt ở gần lối đi, phòng khách hoặc ở những nơi trang trọng.
  • Nên đặt bể cá ở phương vị Chu Tước (đứng giữa nhà nhìn ra cửa chính thì bên tay trái gọi là Thanh Long, bên tay phải là Bạch Hổ, phía sau là Huyền Vũ, phía trước là Chu Tước) mới có lợi cho tài vận, tuyệt đối không đặt ở phương vị Huyền Vũ thì thủy bị tụ lại, sẽ dẫn đến suy giảm tài lộc.
  • Trong phong thủy, bể cá mang ý nghĩa tốt lành, do đó nên đặt ở các hướng tốt như: Bắc, Tây Bắc hoặc Đông Nam.
  • Nên đặt bể cá ở những vị trí ít ánh sáng tự nhiên (mặt trời) chiếu vào.
  • Nên đặt bể cá ở bên trái cửa chính (từ trong nhà nhìn ra) để đón vận may về tài lộc.
  • Không đặt bể cá bên phải của chính (từ trong nhà nhìn ra) vì sẽ mang lại những bất lợi cho cuộc sống hôn nhân.
  • Không đặt bể cá thẳng hướng cửa chính nhìn vào.
  • Không đặt bể cá dưới tượng thờ các thần, đặc biệt là thần Tài hay ông tam đa Phúc – Lộc – Thọ sẽ phạm “chính thần hạ thuỷ”, khiến gia chủ khuynh gia bại sản.
  • Không đặt bể cá trong bếp hoặc đối diện với bếp sẽ gây mất mát về vật chất và phát sinh bất hòa cho gia đình
  • Không tận dụng gầm cầu thang để đặt bể cá vì gầm cầu thang mang tính âm, đặt bể cá tại đây sẽ làm năng lượng âm tồn đọng dưới gầm cầu thang.

Hình dáng bể cá

– Hình tròn (thuộc hành Kim): Rất tốt vì kim sinh thủy

– Hình chữ nhật (thuộc hành Mộc): Khá tốt.

– Bể cá hình lục giác (thuộc hành Thủy): Tốt vì bình hòa.

– Bể cá hình vuông (thuộc hành Thổ): Không nên vì Thổ khắc Thủy.

– Bể cá hình các góc nhọn (thuộc hành Hỏa): Không nên vì Thủy khắc Hỏa.

Số lượng cá trong bể

Dựa theo bản mệnh (Mệnh cung trong phong thủy khác với mạng)

– Mệnh Mộc: Thích hợp nuôi 3 hoặc 8 con.

– Mệnh Thổ: Thích hợp nuôi 5 hoặc 10 con.

– Mệnh Kim: Thích hợp nuôi 4 hoặc 9 con.

– Mệnh Thủy: Thích hợp nuôi 1 hoặc 6 con.

– Mệnh Hỏa: Thích hợp nuôi 2 hoặc 7 con.

Dựa theo Ngũ hành

– Số lượng: 1 con, thuộc hành Thủy, làm tăng cường Thủy khí, đây là khí vượng tài nên được coi là cát (tốt).

– Số lượng: 2 con, thuộc hành Hỏa, làm hao tổn Thủy khí, loại khí này bị tiêu hao, nên bị xem là xấu.

– Số lượng: 3 con, thuộc hành Mộc, làm giảm Thủy khí, nên bất lợi.

– Số lượng: 4 con, thuộc hành Kim, Thủy khí gia tăng làm tài khí thêm vượng.

– Số lượng: 5 con, thuộc hành Thổ, Thủy khí bị khắc nên bất lợi.

– Số lượng: 6 con, thuộc hành Thủy, Thủy khí được gia tăng nên tốt.

– Số lượng: 7 con, thuộc hành Hỏa, làm tiêu hao Thủy khí, mặc dù khí này bị hao tổn nhưng không tốt không xấu.

– Số lượng: 8 con, thuộc hành Mộc, làm giảm Thủy khí nên bất lợi.

– Số lượng: 9 con, thuộc hành Kim, làm vượng Thủy khí nên rất tốt.

– Số lượng: 10 con, thuộc hành Thổ, Thủy khí bị giảm nên bất lợi.

Từ 11 con trở lên: Tính như trên nhưng bỏ đi hàng chục, ví dụ: 11 con tính là 1 con – 12 (hoặc 20) con tính là 2 con.

Dựa theo vị trí đặt bể cá

– Bắc (thuộc hành Thủy): Thích hợp nuôi 1 con cá có màu đen, trắng hoặc vàng kim; cũng có thể nuôi 1 con cá đen và 6 con cá vàng kim.

– Đông Nam (thuộc hành Mộc): Thích hợp nuôi 3 con cá có màu đen hoặc màu xanh.

– Đông Bắc (thuộc hành Thổ): Thích hợp nuôi 8 con cá có màu vàng.

– Đông (thuộc hành Mộc): Thích hợp nuôi 3 con cá có màu đen hoặc xanh.

– Nam (thuộc hành Hỏa): Thích hợp nuôi 9 con cá có màu đỏ hoặc 2 con cá xanh và 7 con cá đỏ.

– Tây Nam (thuộc hành Thổ): Thích hợp nuôi 8 con cá có màu vàng.

– Tây (thuộc hành Kim): Thích hợp nuôi 6 con cá có màu trắng hoặc màu vàng kim.

– Tây Bắc (thuộc hành Kim): Thích hợp nuôi 6 con cá màu trắng hoặc màu vàng kim.

Màu sắc của cá

– Cá màu vàng kim hoặc trắng: Ngũ hành phong thủy thuộc Kim (Kim sinh Thủy) có tác động tốt cho thúc đẩy tài vận.

– Cá màu đen, xanh lam, xám (thuộc Thủy) có khả năng thúc đẩy tài vận khá mạnh.

– Cá màu vàng (Thổ) thúc đẩy tài vận yếu.

– Cá màu xanh dương hoặc lá cây (Mộc) áp chế thủy, thúc đẩy tài vận yếu.

– Cá màu đỏ (Hỏa) khắc Kim phá tài, gặp khó khăn với tiền bạc.

Các loại cá nên nuôi

– Cá huyết anh vũ (nguồn gốc Đài Loan) là loại cá âm dương, có màu đỏ tươi như ngọn lửa, đứng đầu các loại cá về phong thủy.

– Cá Rồng (Kim Long) có dáng vẻ uy nghi sang trọng, màu sắc tuyệt đẹp, rất có ý nghĩa với tâm linh phong thủy. Mang lại may mắn, cá có tuổi thọ rất cao.

– Cá vàng (Kim ngư) có nguồn gốc từ thời Tống ở Trung Quốc mang lại nhiều may mắn.

– Cá chép Việt hoặc Nhật, đa dạng về màu sắc, đặc biệt vẩy, đuôi, có hình xăm; người Nhật coi đó là biểu hiện của may mắn.

– Cá đĩa (còn gọi là cá ngũ sắc thần tiên) có nguồn gốc từ Nam Mỹ, là loài cá đẹp nhất trong các loài cá cảnh, rất tốt cho thúc đẩy tài vận.

– Cá La Hán (đầu u) đem lại sự thịnh vượng và may mắn.

– Cá đá (có nguồn gốc từ Thái Lan, Campuchia) có nhiều màu sắc là loại cá nhỏ có tác dụng bổ sung ngũ hành.

Nuôi cá cảnh là một thú vui tao nhã mà ai cũng thích nhưng nếu nuôi cá thấy có tác dụng thúc đẩy tài vận hưng vượng thì nên nuôi, ngược lại thấy gia vận ngày một suy đi thì nhanh chóng không nuôi cá cảnh nữa.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nuôi cá cảnh theo phong thủy –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd