Tướng cằm –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát |
Ảnh minh họa |
1. Sinh ngày 26 âm lịch: Tài vận tốt thiên bẩm
Theo quan niệm cổ xưa, những người sinh vào ngày 26 âm lịch thường có cuộc sống dư dả, giàu có và chuyện tình duyên cũng thuận lợi. Ngoài ra, tướng mạo của những người sinh vào ngày này cũng xuất chúng hơn người, có tác phong nhanh nhẹn và khí chất làm lãnh đạo.
2. Sinh ngày 28 âm lịch: Tài năng quản lý kinh doanh
Đại đa số những người sinh ngày 28 âm lịch đều có tài năng quản lý về tài chính, kinh doanh rất tốt, đặc biệt là những người tuổi Thìn, Dần, Tỵ và Hợi. Nhóm người này không những giỏi kinh doanh và tài vận còn rất tốt. Dù lúc đầu khởi nghiệp có đôi chút gian nan nhưng đều gặt hái được những thành công rực rỡ, ngoài sức tưởng tưởng của chính họ.
3. Sinh ngày 18 âm lịch, chiến thắng mọi thử thách để có cuộc sống giàu sang
Phần lớn những người có sinh nhật vào ngày 18 âm lịch đều có nghị lực sống kiên cường, sẵn sàng đối mặt với thách thức để giành lấy thành công. Đặc biệt là những người tuổi Tuất và Ngọ, họ dựa vào thực lực của chính mình để xử lý mọi chuyện một cách hoàn hảo nhất, khiến ai nấy đều thán phục. Không những biết cách kiếm tiền giỏi giang, người sinh ngày 18 âm lịch còn biết hưởng thụ cuộc sống xứng đáng với những gì họ đã khó nhọc phấn đấu. Các chuyến du lịch dài ngày, ở những địa điểm nổi tiếng chính là hình thức họ hưởng thụ cuộc sống.
4. Sinh ngày 15 âm lịch: Tham vọng lớn về vật chất
Đại đa số những người sinh ngày 15 âm lịch đều cảm nhận được mê lực khó cưỡng của tiền bạc. Đặc biệt là những người sinh vào tháng 5, 6, và 7 âm lịch. Tuy vậy, bạn đừng vội kết luận rằng họ sống thực dụng nhé, bởi theo họ, sống phải có ước mơ, tham vọng để tạo động lực cho bản thân phấn đấu. Chính nhờ vào nguồn động lực ấy, người sinh ngày 15 âm lịch mạnh mẽ, kiên cường tới cùng để hoàn thành mục tiêu. Cuộc sống của họ tuy khá nặng nề về tinh thần nhưng đổi lại là đời sống vật chất giàu có.
5. Sinh ngày 8 âm lịch: Ngôi sao may mắn chiếu mệnh
Không những được ngôi sao may mắn chiếu mệnh mà Thần Tài cũng luôn dõi bước những người sinh vào ngày 8 âm lịch. Đặc biệt là những người sinh vào tháng 2, 4, 6, 8, 10 và 12 âm lịch. Việc họ trúng số độc đắc hay kinh doanh phất như diều gặp gió là điều không có gì ngạc nhiên đâu nhé. Dùng đồ đắt tiền, ăn sơn hào hải vị, đi du lịch đó đây… là một trong những cách hưởng thụ của sống của họ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Phương pháp giải đoán của phái Thiên Lương rất chú trọng vòng sao Thái tuế bởi vì nó cho biết được:
1. Tư cách con người: để biết người đó thuộc dạng nào, tính nết ra sao...
2. Xác định được đại vận tốt trong cuộc đời đương số
Từ 2 thông tin trên người giải lá số có thể biết rõ lá số hơn từ đó đưa ra lời khuyên ứng xử với cuộc sống cho người xem lá số. Vòng thái tuế là một khám phá rất độc đáo của cụ Thiên Lương, nắm được nó người giải đoán có thể khám phá khá rõ về lá số bên cạnh các kinh nghiệm khác của cụ.
Trong bài viết này mình triển khai việc thứ nhất. Việc liên qua tới Đại hạn em sẽ trình bày vào bài tiếp theo. Ở đây đang xét khi Mệnh có một con sao trong nhóm tam hợp nào của vòng Thái tuế.
Vòng Thái Tuế bao gồm 12 sao: Thái tuế - Thiếu dương - Tang Môn - Thiếu âm - Quan Phù - Tử phù - Tuế phá -Long đức - Bạch hổ - Phúc đức - Điếu khách - Trực phù.
Trong đó có 4 nhóm sao, với các tính chất:
- Nhóm 1: Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ: nói lên đương số là người có lý tưởng, tính tình ngay thẳng, đoàng hoàng có tư cách, dễ thành đạt và làm những việc hợp với sở thích. Lại được người xung quanh yêu chuộng, mến trọng
- Nhóm 2: Thiếu dương, Tử phù, Phúc đức: ở cách này đương số được sáng suốt (do Thiếu dương) nhưng hay cạnh tranh lấn át người khác để chiếm phần hơn, nhưng nếu lấn át bằng cách ma giáo thì dù thành công cũng sôi hỏng bỏng không (do Thiên không ở trong tam hợp, có khi lại còn mắc họa do có cả những sát tinh mạnh như Lưu hà, Kiếp sát). Tuy nhiên, có sao Tứ đức và nhất là Phúc đức để khuyên nhủ, thúc đẩy đương số làm việc Phúc đức, ngay lành - được như vậy thì vận mạng sẽ yên ổn
- Nhóm 3: Tang môn, Tuế phá, Điếu khách: ở vị trí này vì vị trí xung phá, đối kháng với tam hợp Thái tuế, Quan Phù, Bạch hổ nên thường chống đối bằng các phương tiện. Nhóm này gặp khó khăn trong việc đạt được chí nguyện trọng đời, thường làm những công việc không đúng với sở nguyện. Nhưng thông minh, tháo vát, hoạt động (vì mạng ở thế đối kháng Thái tuế thường có Thiên mã)
- Nhóm 4: Thiếu âm, Long đức, Trực phù: ở thế này thường là thế của người làm công hay phụ thuộc người khác, thường làm thành công nhưng không được hưởng lợi xứng đáng (bị bạc đãi) nhưng lại được hưởng phúc, được an lành (do được Long đức an ủi, một số người lại được hưởng cả Lộc tồn)
Trong mỗi nhóm trên 3 sao trong nhóm luôn ở vị trí tam hợp với nhau. Mỗi nhóm trên sẽ ứng mới một tính cách đặc trưng như đã trình bày.
2. Tư cách của đương số khi Mệnh có con sao tương ứng trong vòng Thái tuế
- Thái tuế: Là con người tự hào coi mình như là người làm gì có sứ mạng cho người khác, làm rất quang minh, chính đại
- Quan phù: Họ cũng hành động chính đáng nhưng trước khi hành động họ phải suy nghĩ làm thế nào cho kỹ càng để không đụng chạm (tính toán kỹ lưỡng)
- Bạch hổ: Là người lăn xả vào công việc chính đáng bất kể không gian, thời gian để hoàn thành công việc (làm việc cố hết sức)
- Thiếu dương: Là người khôn ngoan sắc sảo muốn hơn người ta
- Tử phù: Là người khôn ngoan nhưng khi làm hay bị trở ngại lên không làm được (khôn ngoan nhưng khi làm thì thất bại)
- Phúc đức: Là người khôn ngoan hơn người, nhưng có đức độ, biết lấn vừa phải, nghĩ tới phúc đức thần quyền
- Tuế phá: Là mẫu người không bao giờ đồng ý, khi bàn ra chống phá tới cùng, người ta đề nghị gì thì bác bỏ hết
- Điếu khách: Là mẫu người đối kháng bằng miệng, thường lấy lời nói để thuyết phục phân trần
- Tang môn: Là người bất mãn, không thoải mái. Người ta cho công việc này lại muốn công việc khác, không bao giờ thỏa mãn cho tới khi nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa thoải mãn
- Thiếu âm: Là người hay lầm lẫn sai xót, khờ khạo tin người ta, làm mà không được hưởng (khờ khạo mà thành khờ dại)
- Trực phù: Là người gánh chịu tất cả thiệt thòi về mình. Mình làm người khác hưởng hoặc không được thù lao xứng đáng
- Long đức: Là người thua thì tự an ủi và nghĩ tới vấn đề về phúc đức (an ủi vì thua thiệt mà tu, bon chen cũng không đến đâu)
Như vậy người giải đoán lá số tử vi chỉ cần nhìn trong cung Mệnh có con sao nào trong vòng Thái tuế tra thông tin trên là có thể dự đoán được tư cách của đương số rồi, từ đó có lời khuyên phù hợp trong cách ứng xử thích hợp.
Cũng vì mọi người có thói quen tìm hiểu tính chất của tinh đẩu trong vòng Thái tuế lên rất khó chấp nhận được khám phá này của cụ Thiên Lương. Tuy nhiên, tôi thấy chúng ta cần nhìn theo một hướng khác thì vấn đề sẽ rõ ràng hơn rất nhiều, đó là nhìn các sao trong vòng Thái tuế là "chỉ báo" để nhận biết tính cách. Mỗi một nhóm trong 4 nhóm trên luôn chỉ báo cho chúng ta một cách cục đặc biệt là nó hội tụ các sao phụ trợ.
Tạm lấy một ví dụ: để kiểm tra axit hay bazơ chúng ta sử dụng quỳ tím, như vậy ta có phải quan tâm quỳ tím cấu tạo ra sao, làm ra thế nào? Hay chỉ cần biết quỳ tím là cách dùng để kiểm tra axit hay bazơ. Vậy vòng Thái tuế nếu nhìn theo hướng nó là chỉ báo một tính chất gì đó là khám phá của cụ Thiên Lương, chứ nhìn tính chất tinh đẩu của sao trong vòng Thái tuế thì sai với tinh thần phương pháp của cụ (cá nhân mình hiểu là vậy, sau một thời gian học mình hiểu ra là khám phá vòng thái tuế là về Cung Vị của lá số).
- Nhóm 1: Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ: luôn có thêm Tứ Linh (Long trì, Phượng các, Hoa cái, Bạch hổ) đồng cung hoặc chiếu qua. Đây là 4 sao rất tốt chỉ về công danh, về sự làm ăn tốt, về sự ngay chính. Cũng có trường hợp không đủ bộ thì chỉ 3 (như thiếu một Phượng các) thì cũng kể như được Tứ Linh, chỉ giảm một chút. Và không bao giờ bị Cô Quả trong tam hợp vì vậy được nhiều người mến, có quần chúng.
- Nhóm 2: Thiếu dương, Tử phù, Phúc đức: nhóm này luôn có con Thiên không trong tam hợp (Thiên không đứng cạnh Thiếu dương). Con sao này tính chất là nếu đương số tham lam quá thì cũng thành không thôi. Cụ thể: nếu Thiên không ở tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) là vị trí trắng tay, nếu đắc vận làm ăn thì có tiền mua đất cát để giữ, chứ giữ tiền mặt rất dễ mất, đừng ham làm lớn rất dễ sạt nghiệp. Còn nếu Thiên không đi cùng Đào Hoa ở tứ chính (tí, ngọ, mão dậu) thì báo hiệu đương số rất khôn ngoan, quỷ quyệt ranh mãnh, người này lên sống ít mưu mô thì cuộc sống sẽ tốt hơn. Trường hợp Thiên không ở tứ sinh (dần, thân, tị, hợi) thì luôn có con sao Hồng Loan đồng cung hoặc chiếu sang báo hiệu người này có giác quan nhạy cảm không tham sân si, hướng về phúc đức thần quyền, hướng về các việc xã hội, các nhà tu hành thường có cách này.
- Nhóm 3: Tang môn, Tuế phá, Điếu khách: luôn luôn có con sao Thiên mã là nghị lực, mẫn cán. Tùy theo hành con Thiên mã này mà người này có được việc hay không? Về dịch mã mọi người có thể tìm hiểu thêm từ các sách của cụ Thiên lương hoặc các bài viết của có tiền tố 10 của giáo sư Lê Trung Hưng - con trai cả cụ Thiên Lương.
- Nhóm 4: Thiếu âm, Long đức, Trực phù: đây là vị trí sinh xuất thua thiệt, lầm lẫn, làm nhiều hưởng ít vì vậy người này lên biết tự an ủi mà tu.
- Vòng thái tuế: Xét tư cách và xác định đại vận tốt của đương số
- Hưởng lộc tồn: áp dụng cho 4 nhóm tuổi: Giáp (Dần Ngọ Tuất), Ất (Hợi Mão Mùi), Canh (Thân Tí Thìn), Canh (Tị Dậu Sửu) có lộc tồn trong tam hợp mệnh thì được hưởng đầy đủ Lộc tồn, các tuổi khác không được hưởng, nếu hưởng sẽ gặp nhiều không may, rồi thế đứng sao vòng Lộc tồn
- Vòng tràng sinh: xét từng tam hợp một để chỉ ra cách ứng xử trong cuộc đời và từng đại vận
- Ảnh hưởng của các cung nhị hợp Mệnh, Thân
- Ảnh hưởng Tuần gỡ Triệt ở các Đại Vận
- Thắng thua khi tranh đấu: Xét tam hợp mệnh và tam hợp cung xung chiếu (di): nếu tam hợp mệnh thắng thì khi tranh đấu thường thắng, thường đạt được sở nguyện, còn thua thì không
- Nhóm sao chỉ ra nhân quả trong cuộc đời: Tài - Thọ, Quan - Phúc, Thiên trù để chỉ ra một cách cải vận dựa vào nhân quả
- Tương quan hành Can Tiểu vận và hành Can Mệnh: để xác định tiểu vận tốt, xấu
Ngoài ra nhóm Hậu Thiên Lương có tìm ra một số cách nhận biết nhanh như trong Linh khu thời mệnh lý đã trình bày:
- Vị trí cung an Mệnh, Thân: ví dụ như an Mệnh ở Thân, Tí, Thìn là tam giác vàng là tốt
- Hành của Cung Phu thê khắc hành Mệnh là vợ chồng không hợp, dễ chia ly, còn sinh là hợp, xứng đôi
- Thân cư Quan Lộc mà có tuần triệt thì rất xấu về phu thê với phụ nữ
- Sát, Phá, Tham ở các cung: Phụ mẫu, Phu thê, Tử Tức, Huynh Đệ báo hiệu bất hòa, có thể chia ly
- Chỉ báo IQ, EQ, AQ để nhận định nhanh trí tuệ, cảm xúc
- Phân lớp nhóm mẫu người để có một cách giáo dục hành vi phù hợp cho con trẻ
- Tử vi nghiệm lý - Thiên Lương
- Tử vi nghiệm lý toàn thư - Thiên Lương
- Tử vi giảng minh - Thiên Phúc Vũ Tiến Phúc
- Linh khu thời mệnh lý - Lê Hưng VKD
- Nhóm bài giảng về vòng Thái tuế của thầy Lê Đức trên youtube
---
Bài này mình viết ngày 20/03/2016, lúc đó kiến thức còn yếu lên mới tạm đủ ý trình bày. Mình sẽ thu xếp viết một bài tổng quan về: mạnh yếu, nhân quả, cách ứng xử để cải vận bằng hành vi trên lá số theo quan điểm của phái Thiên Lương, để mọi người có cách nhìn khác về phái Thiên Lương thay vì chăm chăm giải, hội sao lá số.
Tinh túy của phái Thiên Lương Việt Nam của mình là từ lá số chỉ ra được cái nhân quả, "cái đạo ứng xử" để người xem có thể có cách sống tốt, thấy vui vẻ thoải mái hơn mặc dù có thể lá số không được tốt. Nó cũng dừng ở mức Đại Vận thôi, ít khi chi tiết Tiểu Vận. Vì sao vậy? Là vì khi người ta tìm ra cách sống trong một đoạn đường dài (1 cuộc đời, hoặc 1 đại vận) thì sẽ thoải mái hơn, thay vì ngày nào cũng phải xem hạn ngày mai là gì, tháng sau là gì, hoặc năm sau là gì mệt mỏi.
Nguồn: tuvi.cohoc.net
Dưới đây là những đặc điểm nhận biết của Nhân Tướng Học xem tướng phụ nữ là người có phúc khí. Tướng có phúc là chỉ người phụ nữ nhân hậu, ở hiền gặp lành, được mọi người giúp đỡ và cũng thường giúp đỡ người khác. Có sự may mắn trong cuốc sống hàng ngày hoặc trong sự nghiệp của họ.
Lưu ý rằng cần phải hội tụ nhiều những đặc điểm dưới đây mới coi là phúc tướng. Càng nhiều điểm giống càng tốt.
Bờ môi thiên về màu hồng, đồng thời có hàm răng đều đặn không sắc nhọn, không bị hô, răng trắng, kèm theo tướng mạo kiểu này là âm thanh giọng nói nhẹ nhàng, phát âm rõ ràng. Người phụ nữ sẵn có tướng này, sẽ có mối quan hệ vợ chồng ngọt ngào, hạnh phúc, đằm thắm, đời sống tình cảm mỹ mãn. Người phụ nữ có đặc điểm này có thể hưởng thụ đời sống tình cảm tốt đẹp.
Ưu điểm lớn nhất về tính cách, chính là tính cách dung hòa, không bị cảm xúc chi phối mà cũng không thích cuộc sống thường xuyên thay đổi nhanh chóng, hơn nữa còn là người rất chu đáo, vì vậy khiến cho sự gắn kết trong gia đình bền vững, nền tảng tinh thần tình cảm vững chắc.
Người phụ nữ sở hữu chiếc cằm đầy đặn là người yêu cuộc sống, không chỉ dễ dàng chung sống hòa hợp với người xung quanh, mà còn là người phụ nữ thân thiện.
Trong sách xem tướng có viết: “phong hạm trọng di, vượng phu hưng gia”, có ý nói rằng: người sở hữu chiếc cằm đầy đặn, hơn nữa còn là hai cằm, chính là người có quý tướng trợ giúp chồng, cưới được người phụ nữ này làm vợ, người chồng sẽ vô cùng hạnh phúc, bởi vì họ là những người vợ mẫu mực vừa có đức vừa có tài, không chỉ chăm sóc chu đáo cả gia đình, mà còn cởi mở rộng lượng, nhân từ đôn hậu, là người bạn đời đáng tin cậy.
Người có tướng mũi thẳng, đỉnh mũi cao, sơn căn rộng và đầy đặn, cánh mũi nở. Người phụ nữ như vậy phần lớn đều có mệnh phú quý, sang trọng, có mệnh phu nhân.
Người phụ nữ có tướng mũi cao đẹp như vậy, cho dù là việc học hành không xuất sắc thì cũng không phải là không có tiền đồ, bởi vì dựa vào sự tự tin vốn có và sự nhanh nhẹn của mình.
Họ cũng là người có sự nghiệp thành công, được nhờ chồng mà cũng là người phò tá tốt cho chồng, đây là điều mà người phụ nữ có tướng mũi này có thể làm được, rất được chồng sủng ái yêu chiều và lại cũng rất được bảo vệ, che chở.
Người phụ nữ có mái tóc mềm mại thường có tính cách nhu hòa, ít khi tự tìm đến phiền não và phiền toái, cho nên cuộc sống của họ cũng tương đối trầm tĩnh, an nhàn. Đồng thời, người có cá tính mềm mại còn có chỗ tốt, làm việc không phải là không có chủ kiến, mà là họ sẽ biết cách cân đối hài hòa và có tính phối hợp, nói chung họ có thể giải quyết vấn đề trong gia đình chu toàn, ổn thỏa, biết chia sẻ vất vả người khác.
Người phụ nữ có nhân trung rõ ràng và sâu dài, nhất định là có khả năng sinh đẻ mạnh mẽ, có thể sinh ra những đứa con tốt hơn đời trước! Những đứa con được sinh ra trong lòng cũng sẽ có hiếu đạo, thông minh, nhiều phúc, đạt được những thành tích cao trong tương lai. Nhân trung đẹp, cũng là có tướng sống lâu, cho nên nhân trung còn được ví là “thọ đường”, thông minh cộng thêm trường thọ, có chồng giàu sang vinh hiển, con cái hiếu thảo, thật là tốt số!
Người có dái tai dày rộng, nhất định là người có mệnh tốt, về tiền bạc hay bạn bè bằng hữu đều rất tốt. Người phụ nữ có dái tai to lại mềm mại thì đối với người khác vô cùng khoan dung nhân hậu, đặc biệt là đối với chồng và con cái, đều nhất mực chăm sóc, có tấm lòng thông cảm, có phúc ấm, có nhân duyên. Người phụ nữ kiểu này có phúc khí cực kỳ lớn, nếu như vợ của bạn là một người có phúc khí, cả nhà bạn nhất định cũng sẽ tiếp nhận được phúc khí của cô ấy, hưởng thụ cuộc đời không phải lo lắng về cái ăn cái mặc.
Người sở hữu hai hàng lông mày uốn lượn và có độ rộng tương đối lớn, đồng thời hiện ra thành hình vòng cung, kéo dài từ đầu đến đuôi mắt. Người phụ nữ có kiểu lông mày hình lá liễu này, đều vô cùng lương thiện, là người có tâm địa đặc biệt ôn nhu. Tuy nhiên, người sinh ra có lông mày lá liễu như này cũng không nhiều. Nếu gặp được cô gái như thế này, hãy nhiệt tâm nắm bắt, kẻo bỏ lỡ cơ hội mà để người khác theo đuổi mất nha!
Người có mặt kiểu chữ điền nghĩa là cái trán của họ có dạng hình vuông, còn khung xương quai hàm nhô ra, đồng thời khuôn mặt đầy đặn. Người phụ nữ kiểu này tâm địa tương đối phóng khoáng, rộng lượng, đối xử tốt với bạn bè và vui vẻ giúp đỡ người khác, đồng thời có tính cẩn thận tỉ mỉ, sẽ là “nhà từ thiện” giúp đỡ bạn bè vượt qua khó nạn, nếu bạn không có việc làm, cố ấy sẽ nhiệt tình sắp xếp giúp, nếu bạn không bán được hàng, cô ấy sẽ tìm người mua cho. Đa phần người mặt chữ điền sẽ sẵn lòng trả giá cao hơn người khác, cưới được người phụ nữ như này, cũng bằng như cưới được một người bạn chân thành tốt bụng.
Người có đôi mắt hơi to, lòng trắng và đen rõ ràng, kiểu người này rất thông minh, giống như một nhân vật nữ chính trong Manga (truyện tranh của Nhật Bản). Người phụ nữ có đôi mắt xinh đẹp như này, đều rất hồn nhiên ngây thơ, đơn giản, cởi mở, như một cô bé gái, xinh đẹp, tốt tính. Hơn nữa tiến lui đều lễ phép, không kiêu căng khiến người khác khó chịu, cũng vì số mệnh tốt, thường hay dùng suy nghĩ tích cực đối đãi người khác, chỉ có một chút ngăn trở, nhưng ngay cả đối mặt với hoàn cảnh không may mắn thì cũng đều có tư duy nhạy bén mà vượt qua. Có một người vợ như này, thật là hạnh phúc!
Giọng nói nhẹ nhàng và ngọt ngào, người phụ nữ có trung khí trôi chảy, cho dù lớn lên bình thường, cũng có thể kết hôn với người đàn ông có điều kiện tốt, đây không phải là tướng thuật thần bí nói như vậy, nhưng mà được nói dựa trên cơ sở là sinh lý và tâm lý! Người có giọng nói nhẹ nhàng phần lớn đều là người có tính tình dịu dàng, điềm đạm.
Một anh thanh niên mới học Tử Vi được chừng 1 năm. Cũng chưa có chút thành tích nào gọi là đáng kể. Anh ta yêu một cô gái. Và hôm nay, là ngày anh tới nhà cô gái để gặp mặt gia đình. Bố cô gái là một công chức về hưu, khá vui vẻ hòa đồng. Sau khi nói chuyện xong, thấy trên bàn làm việc của bố cô gái có lá số tử vi đã cũ, hơi nhàu và khuyết góc. Hắn liền hỏi:
- Bác cũng nghiên cứu tử vi ạ?
Ông lão nói:
- Tôi tìm hiểu từ khi còn thanh niên tới giờ cũng trên bốn chục năm rồi. Tôi rất mê nó cháu ạ!
Hắn thấy có lợi thế, liền nói:
- Cháu cũng có học Tử Vi một ít. Cháu xem thử, bác góp ý cho cháu với nhé!
Và hắn nói luôn:
- Đương số này là người hiền lành, làm nhiều hưởng ít, hết sức làm việc mà không mong mỏi được đền đáp tướng xứng. Một mẫu người cam chịu và cần mẫn.
Ông lão nói:
- Đúng cậu ạ! Không sai tí nào.
Hắn nghĩ trong đầu "Mệnh ở ví trí Trực phù trong vòng Thái tuế" thì sai sao được. Cụ Thiên Lương dành cả đời nghiệm lý để khám phá ra mà.
Sau đó hắn lại thấy cung Phụ mẫu ở Sửu nhị hợp cho cung Mệnh theo chiều sinh cho cung Mệnh (tam hợp Kim: Tị Dậu Sửu sinh cho tam hợp thủy Thân Tí Thìn). Theo tâm pháp phái "Thiên Lương" trong đầu hiện lên, hắn chốt hạ:
- Đương số được bố mẹ chiều chuộng, chăm chút lo cho rất nhiều. So với bạn bè cùng trang lứa thì cuộc sống thuận lợi may mắn hơn.
Ông lão nói:
- Đúng cháu ạ! Lúc nhỏ mang tiếng con nhà nông dân. Bố mẹ thì làm đồng ruộng vất vả mà đương số chả phải làm gì. Bố mẹ làm cho hết, chỉ phải ngồi học hành, đi chơi cùng bạn bè thôi. Sau này cuộc sống rất thuận lợi.
Ngắm thấy "cung Huynh đệ phi Hóa Lộc vào cung Mệnh", hắn chốt hạ:
- Lá số này có anh em sống rất có tình có nghĩa, lo toan cho rất nhiều. Được nhờ anh em. Hình như là em gái ạ!
Ông lão nói:
- Chuẩn! Có một cô em gái ít hơn 3 tuổi rất quan tâm tới anh trai.
Hắn tiếp tục nhìn và nghĩ "cung Nô Bộc phi Hóa Lộc nhập cung Tử Nữ và chiếu cung Điền Trạch", hắn chậm dãi nói tiếp:
- Bạn bè quan tâm lo lắng cho gia đình của đương số, rất thương con cái của của đương số.
Ông lão nói:
- Rất đúng! Thấy tôi chậm con cái bạn bè anh em rất quan tâm giúp đỡ tôi và lo cho các cháu.
Hắn lại ngắm thấy "cung Tử Tức phi Hóa Kỵ vào cung Thiên Di, xung vào Mệnh". Hắn chốt tiếp:
- Lá số này con cái là vấn đề đau đầu mệt mỏi với đương số. Rất vất vả về con cái. Có thể chậm sinh và tốn tiền về việc sinh con.
Ông lão vỗ đùi nói:
- Đúng cậu ạ! Tới tận năm 32 tuổi mới sinh được một trai, 2 năm sau mới sinh thêm được một gái nữa.
Nhìn rất kỹ, hắn cố nghĩ trong đầu ra một vận nào đó thật sắc nét để chốt hạ, sau đó tung chiêu "Bàng Đao Trắc Kích" mà Bạch A Tú dạy Thạch Phá Thiên khi giao chiến tới gần phút hạ hồi để rút lui an toàn. Qua một hồi nhìn ngắm Đại vận 26-35, và nghĩ thầm tâm pháp Tứ Hóa Phái trong giây lát:
"Hóa kỵ [đại vận] nhập cung Thiên Di của thiên bàn và xung kích cung Mệnh của thiên bàn; vì xung kích cung Mệnh của thiên bàn, sự xung kích này nhất định phải mãnh liệt hơn Hóa Kỵ xung kích cung mệnh của địa bàn; hơn nữa, ắt sẽ gây tổn hại mang tính vĩnh viễn. Lại ví dụ như cung mệnh đại vậy này trùng điệp với cung phúc đức của thiên bàn, vận dụng tính chất của hai cung trùng điệp, có thể đoán định trong đại vận này, về tình cảm, sẽ xảy ra vấn đề, đối với mệnh tạo sẽ gây ra thất lợi rất lớn, vì tổn hại này mang tính vĩnh viễn, tạo thành vết thương trong tâm hồn vĩnh viễn không cách nào lành. Tượng trưng trong cuộc sống thực tế là, một khi chia tay, đến già đến chết cũng không gặp lại nhau!"
Khớp thật rồi. Thiên di ở cung Ngọ. Hắn chốt liền một câu:
- Đại vận 26-35 ở cung Phúc Đức, lá số này có xảy ra hạn rất lớn, tổn hại trong tâm hồn lâu dài. Chắc chắn là vợ chồng đang hạnh phúc thì ly hôn năm Mùi, mà đương số số Nam này bị vợ bỏ và rất đau khổ, day dứt cho tới hết cuộc đời, chả thể nào quên được. Lý ra là ứng kỳ vào năm Ngọ nhưng vì.. lên chậm sang năm Mùi. Năm Mùi ly hôn!
Ông lão vỗ đùi thật mạnh và ra hiệu khâm phục. Ông nói:
- Đúng năm Mùi (30 tuổi) thì ly hôn, sau đó lấy vợ khác và sinh được 2 người con.
Ông lão nói tiếp:
- Cậu tuổi trẻ tài cao. Tôi nghiên cứu tới giờ là cũng hơn 40 năm có lẻ, chưa thấy ai khán chuẩn như cháu. Thật đáng khâm phục. Tuổi trẻ tài cao. Câu nói nào cháu nói ra cũng chính xác tới mức tuyệt đối. Bội phục!
Có chút phấn khích, tự hào. Sung sướng quá! Chưa khi nào làm được việc vĩ đại như thế này. Xem chính xác tuyệt đối. Hắn nói liền một mạch:
- Tử vi phải xem "chặt sắt", "trích kim thấy máu" chứ phán chung chung xoàng lắm, kém lắm! Nghiên cứu 40 năm thứ "tử vi hàng chợ ấy" vô ích thôi. Người học tử vi phải....
Hắn cứ nói liên tục, liên tục,.. tới khi dừng lại thì thấy Ông lão xầm mặt lại. Biết là có vấn đề nhưng phanh không kịp mất rồi.
...
Hôn nhân không thành. Bẵng đi một thời gian gặp lại cô gái (giờ đã có chồng con rồi, còn hắn cũng có hai quý tử). Hắn hỏi thật cô gái:
- Hồi đó chúng ta yêu nhau nhiều, ngày ra mắt bố em sao lại là kết thúc của tình yêu chúng ta em nhỉ? Anh không hiểu lắm!
Cô gái trả lời:
- Cũng vì tử vi đấy anh. Anh có còn nhớ không?
Hắn nói:
- Anh hồi đó xem chính xác tuyệt đối mà. Rất "thật thà và dũng cảm" như bác Hồ dạy.
Cô nói:
- "Thật thà và dũng cảm" thì đúng rồi. Nhưng "Khiêm tốn" thì chưa. Câu đầy đủ bác Hồ dạy là "Khiêm tốn, thật thà và dũng cảm". Anh không "khiêm tốn" thì mọi thứ kết thúc là đúng thôi. Anh chê một người dành cả đời nghiên cứu là nghiên cứu thứ hàng chợ, phế phẩm. Thì làm sao bố em chấp nhận được anh, tin tưởng giao con gái mình cho anh.
Hắn ngẫm nghĩ và nói:
- Em nói đúng!
(Câu chuyện tử vi 2016 - Phù Cừ Cổ Học)
(*) Bài viết sử dụng kiến thức Tử Vi của Phái Thiên Lương và Tứ Hóa Phái kết hợp.
Nguồn: tuvi.cohoc.net
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Sự kì bí của phật giáo vẫn luôn là câu hỏi mà các nhà khoa học hiện đại chưa thể khám phá ra, một trong những bí ẩn đó là sự tồn tại của hạt xá lợi.
Xá lợi là những phần kết tinh còn lại sau khi làm lễ hỏa thiêu nhục cốt của Đức Phật và các vị cao tăng. Xá lợi hay xá lị là những hạt tinh thể với đủ màu sắc, long lanh như ngọc, rắn như kim cương, búa đập không vỡ, lửa thiêu không cháy, mà khoa học hiện đại chưa giải thích thuyết phục được nguyên lí hình thành của các hạt này. Đây là các bảo vật của thế giới Phật giáo.
Trong lịch sử Phật giáo, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni viên tịch, các tín đồ đã mang xác của ngài đi hỏa táng. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện thấy trong phần tro còn lại có lẫn rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được cả thảy 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. Nó được đặt tên là xá lợi, được coi là một bảo vật đặc biệt quý hiếm của Phật giáo.
Những năm gần đây, lịch sử Phật giáo cũng như nghiên cứu của các nhà khoa học đã ghi lại khá nhiều trường hợp các vị cao tăng sau khi viên tịch, hỏa thiêu đã để lại xá lị, chẳng hạn như:
Tháng 12/1990, một vị cao tăng là Hoằng Huyền Pháp Sư ở Singapore viên tịch, sau khi thi thể được hỏa thiêu, người ta phát hiện thấy trong phần tro của ngài có 480 hạt xá lợi.
Tháng 3/1991, Phó hội trưởng Hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn – Ủy viên thường vụ Hội Phật giáo Trung Quốc, sau khi viên tịch đã được tiến hành nghi thức hỏa táng theo tâm nguyện của ngài, trong phần tro còn lại người ta phát hiện được tới 11.000 hạt xá lợi.
Lại có một số trường hợp, xá lợi chính là một bộ phận nào đó của cơ thể không bị thiêu cháy. Tháng 6/1994, Pháp sư Viên Chiếu 93 tuổi, chủ trì chùa Pháp Hoa, ở núi Quan Âm, Thiểm Tây, Trung Quốc, trong một buổi giảng kinh tối đã nói với các đệ tử là: Ta sẽ để lại trái tim cho chúng sinh. Sau đó vị sư này ngồi kiết già và siêu nhiên viên tịch.
Theo đúng pháp quy của nhà chùa, các đệ tử đặt thi thể bà lên một phiến đá xanh, xếp củi chung quanh và tiến hành hỏa hóa. Lửa cháy sáng rực suốt một ngày một đêm. Trong đống tro nguội, các đệ tử thu được 100 viên xá lợi to nhỏ khác nhau. Tuy nhiên, điều kỳ diệu hơn cả là trái tim của bà không hề bị thiêu cháy. Sau khi ngọn lửa tắt trái tim vẫn còn mềm, nóng, rồi mới nguội dần và cứng lại, biến thành một viên xá lợi lớn, màu nâu thẫm.
Những câu chuyện ly kì ở Việt Nam
Trong thời kỳ tranh đấu bảo vệ Phật Giáo tại Việt Nam vào năm 1963, Hòa Thượng Thích Quảng Đức phát nguyện hy sinh nhục thân, tự thiêu để cúng dường Tam Bảo, thức tỉnh nhà cầm quyền. Những ai được chứng kiến cảnh tượng bi tráng độc nhất vô nhị này, đều biết khi Bồ Tát Thích Quang Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng (nay là ngã tư đường Nguyễn Đình Chiểu) toàn thân ngài không tỏ vẻ đau đớn gì mà ngài vẫn điềm nhiên trong tư thế ngồi Thiền, sau khi thân xác ngài đã cháy rụi hết, duy chỉ còn quả tim là không cháy, người ta lấy quả tim đó đem vô lò thiêu lại, dưới sức nóng ..4000oC, cái lò thiêu muốn nứt nẻ ra, vậy mà trái tim của Bồ Tát Thích Quảng Đức vẫn còn.
Giới báo chí trong nước và nước ngoài có mặt lúc đó thi nhau chụp hình. Sự kiện này làm chấn động đất Sài Gòn một thời nói riêng và toàn Thế Giới nói chung, điều này làm cho mọi người càng thêm tin tưởng vào sự nhiệm màu của Phật Pháp không phải là hư danh
Ngôi chùa Đậu nổi tiếng linh thiêng bởi hai pho tượng táng của Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường cùng tu tại chùa này thế kỷ XVII, sau khi tịch, xác thân vẫn còn nguyên vẹn.
Điều bí ẩn, và khác biệt của hai pho tượng nhục thân thờ ở chùa Đậu so với các Phraon và nhiều nước trên thế giới là phương pháp tu luyện kỳ bí của Thiền sư để có được một di thể bền vững, khi chết không bị phân hủy, mà không cần đến bất cứ loại thuốc tẩm ướp xác nào.
Hình thành từ thói quen ăn uống đồ chay: Các nhà sư do thói quen ăn chay, thường xuyên sử dụng một khối lượng lớn chất xơ và chất khoáng, quá trình tiêu hóa và hấp thu rất dễ tạo ra các muối phosphate và carbonate, những tinh thể muối đó tích lũy dần trong các bộ phận của cơ thể và cuối cùng biến thành xá lợi. Tuy nhiên, giả thuyết này không đủ sức thuyết phục vì có nhiều người cũng người ăn chay trên thế giới nhưng hỏa táng lại không có.
Hình thành do bệnh lý: Một số nhà khoa học cho rằng, có thể xá lợi là một hiện tượng có tính bệnh lý, tương tự như bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật… Tuy vậy giả thiết này cũng không thuyết phục vì sau khi đưa xác đi thiêu, trong phần tro của những người mắc các chứng bệnh kể trên không hề phát hiện xá lợi. Mặt khác, những cao tăng có xá lợi sinh thời thường rất khỏe mạnh, tuổi thọ cũng rất cao.
Theo quan điểm duy tâm và tâm linh của Nhà Phật thì cho rằng xá lợi là kết quả của quá trình tu hành và khổ luyện và là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ xuất hiện ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện.
► Xem thêm: Bí ẩn 12 cung hoàng đạo và Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất |
Tháng 1
Trong tháng Dần (tháng 1 âm lịch), tài lộc của người tuổi Dần không tốt, công việc gặp nhiều trở ngại, kinh doanh ít thu được lợi nhuận. Họ nên cảnh giác trong mọi hoàn cảnh, luôn giữ bình tĩnh để xử lý công việc một cách sáng suốt. Có như vậy, họ mới thu được kết quả tốt khi thực hiện kế hoạch mà mình đặt ra.
Tháng 2
mở ra một "vùng đất mới". Tuy nhiên, họ gặp phải sự đố kỵ của một vài đồng nghiệp. Người tuổi Dần nên hết sức thận trọng và nâng cao tinh thần cảnh giác, có sáng kiến mới phải làm việc nghiêm túc hết mình.
Tháng 3
Người tuổi Dần được sao tốt chiếu mệnh nên gặp nhiều may mắn trong tháng Thìn. Công việc không những đạt được kết quả tốt mà còn thu được nhiều lợi lộc "một công đôi việc". Họ được quý nhân phù trợ nên có khả năng tăng quan, tiến chức. Tài lộc của người này có nhiều khởi sắc, thu nhập tăng cao. Nếu biết nắm chắc cơ hội, thành công sẽ đến với họ. Tuy nhiên, vào cuối tháng, họ nên cẩn trọng, đề phòng mất cắp.
Tháng 4
Vận thế trong tháng Tỵ của người tuổi Dần có chiều hướng đi xuống. Nếu không giữ vững lập trường, họ sẽ gặp phải nhiều trở ngại trong công việc. Tháng này, người tuổi Dần cần cân nhắc thật kỹ trước khi hành động bất cứ việc gì. Hơn nữa, họ cũng nên bỏ đi những thành kiến không tốt để tập trung cho phát triển công việc nội bộ. Họ nên mở rộng các mối quan hệ với đồng nghiệp để mọi việc thuận lợi hơn.
Tháng 5
Vào tháng Ngọ, cung mệnh của người tuổi Dần có nhiều sao dữ chiếu mệnh nên tài lộc không được tốt lắm. Mọi công việc thường "giậm chân tại chỗ", không thể phát triển mạnh lên được. Lúc này, họ nên bình tĩnh ứng phó với mọi trở ngại đó. Hơn nữa, người này không nên đầu tư vào bất cứ việc gì để tránh tổn thất. Nếu nỗ lực cố gắng và chấp nhận khó khăn, họ có thể vượt lên nhanh chóng.
Tháng 6
Tháng Mùi, tài lộc của người tuổi Dần chuyển biến theo chiều hướng tốt lên. Họ nâng cao thu nhập từ bên ngoài một cách dễ dàng. Tuy nhiên, người này cũng cần chú ý đến những xu thế phát triển kinh tế xã hội, luôn dự phòng một khoản tiền bên mình. Đây là thời gian để họ bù đắp lại thiếu hụt về tài chính của những tháng trước.
(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)
Bài của Ân Quang
Có một vị giáo sư Trung Học, ở Nha Trang, từng nghiên cứu Tử Vi tìm hỏi tôi và nêu thắc mắc về lá số của ông Bảo Đại, in trong sách Tử Vi của Vân Đằng Thái Thứ Lang, và cũng có đăng trong một số báo Xuân Công Luận.
Tôi xin sơ lược vài nét: tuổi Quý Sửu, sinh tháng 9, ngày 23 giờ Dần, Thân cư Quan Lộc, có Liêm Tướng ngộ Triệt.
Vị giáo sư ấy thắc mắc rằng:
"Dù không lừng lẫy thì ông Bảo Đại cũng đã hai lần làm vua, hưởng đủ tước lộc của một vị vua. Thế mà thân cư Quan Lộc có Liêm Tướng ngộ Triệt. Vậy lá số đó có phải thật là lá số của ông Bảo Đại không, hay chỉ do một học giả Tử Vi nào đó đặt ra có chuyện vậy thôi.
Cũng có một vị giáo sư Cử Nhân Toán học, nghiên cứu Tử Vi, từ Qui Nhơn vào Nha Trang gặp tôi mấy lần, nói chuyện về Tử Vi, hứa tặng tôi một số tài liệu về Toán học Thiên Văn của Trung Hoa xưa kia, và cũng nêu lên một số thắc mắc tương tự.
Những câu chuyện ấy, những thắc mắc ấy, đã đưa tôi đến ý nghĩ viết bài này.
Có lẽ vì vua ở ngôi cao nhất, có nhiều quyền uy nhất, hưởng nhiều tiện nghi nhất, cho nên dù không có mộng làm vua, ai cũng có thể có lần tự hỏi: "Có ông sao nào chiếu mạng mà lại được làm vua, sung sướng thế."
Nhìn vào các sách Tử Vi, có sách nói đến bộ sao làm vua, có sách lại gọi tổng quát là phi thường cách.
"Mệnh hội Tử Phủ Vũ Tướng cách"
"Thân hội Sát Phá Liêm Tham cách, lại thêm Tả Hữu, Khôi Việt, Xương Khúc, Long Phượng, Đào Hồng, Khoa Quyền Lộc..."
Vua ở ngôi cao nhất, có nhiều quyền uy nhất, hưởng nhiều tiện nghi nhất... cái gì cũng phải hạng nhất. Quan niệm này đã đưa đến việc gom những bộ sao tốt nhất rồi nói rằng đó là cách các bộ sao làm vua. Thật là một quan niệm giản dị, không cần nhiều suy luận, dẫn chứng. Thật là một quan niệm "Quân (vua) vi quý - Xã tắc thứ chi - Dân vi kinh".
Đứng về phương diện nghiên cứu Tử Vi, chúng ta không thể chấp nhận một cách thức giản dị như vậy được. Vì những lý do sau đây.
Nếu Mệnh, Thân đã gom hết tất cả các sao, ắt chỉ còn sao xấu dành cho các cung khác. Mệnh, Quan, Tài, Di, Phúc đã quy tụ quá nhiều, đã vơ hết các sao tốt thì khi Đại Hạn đi đến các cung Huynh, Tử, hay Phụ, Điền, ắt chỉ còn các sao xấu dồn lại, lúc ấy làm vua với ai. Một lá số mà cứ một cung này được quá nhiều sao tốt chiếu vào, đến một cung kế đó lại chỉ có toàn các sao xấu, là một lá số mất quân bình, không thể làm thành việc lớn. Cứ một Đại Hạn quá tốt lại đến một Đại Hạn quá xấu, cứ một Tiểu Hạn quá tốt lại đến một Tiểu Hạn quá xấu, thì còn làm ăn được việc gì lâu dài.
Do đó, chúng ta không thể làm một công việc giản dị như là tưởng tượng ra một công thức toàn các sao tốt quy tụ về những cung Mệnh, Quan, Tài, Di, Phúc rồi nói rằng có những sao này thì làm được vua, là phi thường cách.
Đến đây cúng ta cần chú trọng sự quân bình trong một lá số. Mất sự quân bình trong các cung Đại Hạn thì khó thành việc lớn, hay nếu có thành thì cũng chỉ trong nhất thời mà thôi. Cần chú trọng tới sự quân bình, sự kết hợp đúng cách giữa các bộ sao ở cung Mệnh và các sao ở Đại Han.
Xin lấy một ví dụ khác do dễ hiểu. Tôi đã xem nhiều lá số, Mệnh có chính tinh đắc địa, hội khá nhiều bộ sao Xương Khúc, Long Phượng, Khôi Việt, Quang Quý, Tam Hoá... thế mà cũng chẳng đỗ đạt cao, chỉ vì Đại Hạn tuổi thanh niên ở cung Huynh hoặc cung Phụ, lại có quá nhiều sao xấu (Mệnh đã gom hết cả sao tốt rồi, còn gì cho những cung khác) thế là việc học bị gián đoạn nửa chừng. Đó chỉ là những người thông minh để mà thông minh vậy thôi, chứ chẳng đạt được gì cả. Trái lại, những người đỗ đạt cao, đến Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ... là những người được chính tinh miếu vượng thủ mệnh hay có tính cách thông minh như Thiên Cơ, Nhật Nguyệt... Mệnh chỉ cần một bộ văn tinh như Khôi Việt hay Xương Khúc liên tiếp mấy đại hạn kế đó như ở cung Huynh, Thê, hay Phụ Phúc có chính tinh miếu vượng và các sao khác (hợp cách với các bộ sao có sẵn ở Mệnh) như Long Phương, Phụ Cáo, Ấn, Khoa Lộc... thì đỗ đạt rất cao.
Đó là sự kết hợp giữa Mệnh và Đại Hạn. Mệnh đã chứa sẵn sự thông minh, đi đến những Đại Hạn có các sao thuận lợi cho sự thi cử, thì mới đỗ đạt cao. Mệnh có quá nhiều văn tinh mà đi đến Đại Hạn kế tiếp toàn các sao xấu thì cũng chẳng thành đạt gì.
Một khía cạnh trong việc nghiên cứu một lá số Tử Vi là cần chú ý đến sự quân bình, tương xứng giữa các cung. Một cung gồm toàn các sao tốt, lại tiếp theo một cung có quá nhiều sao xấu, lại đến một cung quá tốt, rồi lại một cung quá xấu, là một lá số quân bình. Có khi là người có tài mà ba chìm bảy nổi, không thành công lớn được. Về khía cạnh này chúng ta cần chú ý đến sự kết hợp đúng cách giữa cung Mệnh và các sao trong cung Đại Hạn để có thể thành sự nghiệp lớn. Mệnh viên thì Viên là bức tường thấp xây quanh một khu đất, chỉ về một cái cõi, cái trung tâm, cái căn bản, cái nền tảng. Gọi là Mệnh viên hoặc gọi là cung Mệnh – Nếu gọi là Cung Mệnh Viên, thì hoặc là thừa chữ Cung, hoặc là thừa chữ Viên, chẳng khác nào khi nói dư chữ như là Nhà Văn Sĩ. Trong một số những lá số Tử vi xưa kia, học giả còn dùng chữ Bản Mệnh để gọi thay cho chữ Mệnh Viên.
Những bộ sao ở Mệnh Viên là những tính chất cát hung đã có sẵn trong cái mạng của mình, lại kết hợp với những bộ sao tốt, xấu ở Đại Hạn thì sẽ thành ra kết quả tốt nhiều hay xấu nhiều.
Đây không phải là phương pháp luận đoán Tử vi của riêng tôi, mà phương pháp này đã thể hiện qua các câu Phú Trần Đoàn. Tôi xin trích một vài câu làm thí dụ:
“Đế tinh tại Thủy, nan giải tai ương. Hạn hữu Sát tinh Thìn Tuất, hình lao khôn vị thoát…”
“Tử Phá mộ cung, vô ưu hạn ách. Vận lai Phụ Bật Thổ cung, nguyện vong đắc như cầu…”
Dĩ nhiên khi áp dụng các câu Phú vào việc luận đoán một lá số thì luôn luôn phải chú ý đến sự Chế hóa. Nhưng, những câu phú kể trên, cũng như còn nhiều câu phú khác nữa, cho chúng ta thấy rằng cần kết hợp các sao ở cung Mệnh và cung đại hạn để luận đoán.
Thí dụ như Tử vi cư Ngọ nhập miếu. Đại hạn lại đến cung Mão có Nhật (và Nguyệt ở Hợi). Thế là Tử vi gặp Nhật Nguyệt, rất rực rỡ được bộ chính tinh quá tốt đã, nếu lại được các sao khác cũng hạp cách thì sự nghiệp thật là to lớn khó tả. Đó là cách Tử vi gặp Nhật Nguyệt. Chứ nào có phải như là “công thức ma”; Tử vi có Thái Dương Thái Âm hạp chiếu, ở các cung tam hạp chiếu lên (như tôi đã có dịp đọc thấy trong một vài cuốn sách Tử vi, và trong một tờ tuần báo nói về Tử vi)
Vì vậy mà cần chú trọng đến ý nghĩa tên gọi các vị sao khi nhận xét kết hợp các bộ sao ở cung Mệnh và cung Đại Hạn. Các ông vua chỉ lên ngôi và chỉ cầm quyền trong một khoảng thời gian nào đó, khi có quần thần khánh hội, khi có các sao ở cung Mệnh và cung Đại Hạn hợp thành bộ, hợp cách. Chứ nào phải là cứ có hàng chục bộ sao tốt, bao nhiêu sao tốt, bao nhiêu cách tốt gom hết về cung Mệnh rồi vừa mở mắt chào đời đã lên ngôi vua, làm vua cầm quyền cho đến lúc chết.
Đặt ra một công thức gồm toàn các sao tốt rồi nói rằng đó là cách làm vua, là phi thường cách chỉ là một sự tưởng tượng không kiểm chứng. Những công thức tưởng tượng này không giúp ích gì cho người nghiên cứu khi muốn tìm phương pháp luận đoán một lá số. Những công thức tưởng tượng này còn có cái hại là làm cho người nghiên cứu xa rời sự Chế hóa, xa rời sự kết hợp luận đoán mạch lạc ảnh hưởng các sao ở Mệnh Viên và đại hạn.
Vua cũng có năm bảy đường vua. Có những ông vua u mê, văn chương chẳng giỏi, sáng suốt cũng không, chỉ thừa hưởng sự nghiệp của Tiên đế, rồi nghe theo lời nịnh thần, đánh mất ngai vàng là không có các bộ sao thông minh ở cung Mệnh. Có những ông vua gần trọn đời khổ công chiến đấu lập quốc, lại có những ông vua mãi quốc cầu vinh. Có những ông vua uy danh lừng lẫy, và cũng có những ông vua không mấy có thực quyền.
Sao lại có thể đưa ra một công thức các bộ sao làm vua?
Một vài người không biết Tử vi lại gặp phải ông thầy Tử vi phỉnh nịnh: “Mạng của ông chỉ thiếu một vị sao này, một vị sao nọ là làm Vua”. Không hiểu mấy ông Thầy đó tính cho người ta làm Vua gì đây? Vua Nghiêu, vua Thuấn hay vua Trụ, vua Kiệt, vua Lê Thái Tổ hay vua Lê Chiêu Thống?
KHHB số 28
Tìm hiểu về cách ghen tuông trong khoa tử vi, thảo luận các sao ghen tuông:
Cự Môn: chỉ sự nghi ngờ, thắc mắc, bất mãn đưa đến dò xét, giám sát, theo dõi cử chỉ, lời nói và hành động của người bị tình nghi. Nếu hãm địa, xu hướng quá khích sẽ rõ ràng hơn. Đối tượng bị bao vây chặt chẽ, bị theo bén gót, bị điều tra từng bước, bị hạch sách từng cử chỉ.
Hóa Kỵ: ngụ ý nghi ngờ, thắc mắc như Cự Môn nhưng lại thêm tính đố kỵ, sợ người khác lấn lướt hoặc thay chân mình. Thường nông nổi và dục động, dễ bị xao xuyến vì những chỉ dấu nhỏ nhặt, nhưng cũng dễ nguôi, dễ quên để rồi dễ nhớ, dễ ghen trở lại. Hình thái điều tra của Hóa Kỵ là thẩm vấn, dò hỏi, gợi chuyện chặn đầu.
Quan Phù, Quan Phủ: chỉ sự cạnh tranh, thù vặt, thù dai thường bắt nguồn từ một chỉ dấu bị phản bội nào đó. Đến giai đoạn Quan Phù, sự hiềm khích xuất hiện, tác giả bắt đầu dấn thân đối phó với một tình địch đã được nhận dạng, với người chồng/vợ đã có bằng cớ hai lòng.
Thiên Hình: là nết ghen sâu sắc của một người thông minh, biết dò xét, biết lý luận để khám phá những điểm lạ trong thái độ, cử chỉ, ngôn ngữ, nếp sống của người kia. Bắt mạch rất mau, hành động rất lẹ. Hình thái trả đũa của Thiên Hình thường có tính cách vũ phu, mạnh bạo.
Thiên Cơ: cũng chỉ nết ghen của người có mưu trí, tinh quái, theo kiểu Hoạn Thư. Thông minh trong lúc điều tra, Cơ cũng khôn ngoan khi đối phó, thường là có kế hoạch tinh vi và ít khi thất bại.
Liêm Trinh: chỉ sự khó tính, khắt khe trong tình yêu, trong cuộc sống gia đạo. Liêm ghen vì thấy vợ/chồng phạm vào các nguyên tắc căn bản của hạnh phúc, xáo trộn các tiêu chuẩn mà họ tự vạch ra để duy trì hạnh phúc. Liêm có thể bao dung những hành động bay bướm nhỏ nhặt, nhưng không tha thứ cái gì quá đáng phạm vào các nguyên tắc bất dịch của hạnh phúc. Do đó, hình thái trả đũa thường là gián đoạn khá dễ dàng như chấm dứt tình yêu chẳng hạn.
Tham Lang: nết ghen rất mạnh và thiếu suy nghĩ, có hình thái quá khích và vũ phu, bất chấp hậu quả. Nết ghen nông nổi và cuồng nhiệt, hành động theo bản năng nhất thời, nông cạn vì vậy sự đổ vỡ khó tránh. Càng hãm địa, tính chất cực đoan càng mạnh.
Phá Quân: ghen tuông có tính phá hoại, nhằm trả đũa gấp rút bằng hành động mau lẹ và mạnh mẽ, đôi khi tàn nhẫn, tương tự như Tham Lang.
Thiên Tướng, Tướng Quân: ghen tuông rất dữ dội, vì không nhẫn nhịn được trước sự bất bình, phải ra tay can thiệp ngay. Cả hai cùng chỉ sự nóng tính như lửa, nhất là Tướng Quân, vừa nóng lại vừa liều, làm càn, làm bạo, dám đi đến những hành động quyết liệt ăn thua đủ, nhất là khi bị khiêu khích. Tự ái của hai sao này rất lớn.
Phục Binh, Thiên Không: trong việc đối phó, chỉ sự rắp tâm, có chuẩn bị kỹ lưỡng để ra tay bất ngờ, dùng nhiều thủ đoạn trá ngụy, gian hiểm như tổ chức theo dõi, bắt ghen tại trận chứ không chịu cản trở suông. Cách ghen đó chạm tự ái nạn nhân rất nặng nề, đi đến đổ vỡ dễ dàng. Nếu bị Tuần, Triệt có thể bắt ghen hụt.
Cô Thần, Quả Tú, Đẩu Quân: có ý nghĩa cô đơn, cô độc, ít giao thiệp, tình cảm hướng nội và bị dồn ép, kén chọn bạn trăm năm vì thế không có lợi cho hôn nhân. Khi có gia đình, ba sao này có nghĩa ghen tuông một cách ích kỷ, nhỏ mọn, hay gắt gỏng vì những chuyện vặt, thường là thúc thủ đau khổ ngầm, không giãi bày được với ai. Sự dồn ép dày vò đương sự có khi đưa đến một phản ứng rất bất ngờ khó lường, tự mình hành động tay đôi với tình địch hoặc tự mình rút lui âm thầm.
Hóa Quyền: chỉ người tự ái lớn, thích chỉ huy, không chấp nhận lép vế trong địa vị độc tôn của mình. Hóa Quyền ghen phần lớn do tự ái nhiều hơn là do tình yêu. Chính vì vậy, phản ứng của Quyền khá mạnh bạo và kiên trì cho đến khi khuất phục được đối thủ mới thôi. Nếu xoa dịu và gãi trúng chỗ tự phụ của Quyền, nết ghen tuông sẽ giảm đi nhiều, khả dĩ chấp nhận tính bay bướm của bạn trăm năm, miễn là đương số vẫn giữ ưu thế đối với người bạn trăm năm và với tình địch. Phái nam mà có Quyền, bao giờ cũng phải dứt khoát, không chấp nhận thành phần thứ ba trong cuộc sống lứa đôi.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Mọi người có sở thích về một nửa của mình hoàn toàn khác nhau tùy thuộc vào cá tính riêng, quan niệm riêng của họ. Điều đặc biệt là chỉ với chữ cái đầu tiên của tên, chúng tôi có thể đoán biết về cách bạn yêu, cách bạn đối xử với một nửa yêu thương của mình.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
1.
2. Trước nhà có tảng đá hay vật nhọn chiếu vào thì gia chủ dễ bị thương tổn. Nếu ở hướng Nam của nhà có vật nhọn chiếu vào thì nhà dễ bị hỏa hoạn.
3. Trước cửa nhà là một hố nước hoặc một ao nhỏ là rất hung (xấu), gia đình không hòa thuận, gặp nhiều chuyện thị phi.
(Ảnh chỉ mang tính minh họa) |
4. Nhà ở gần bãi rác (càng lớn càng hung) thì dễ xảy ra tiêu cực, sức khỏe kém, con cái ngỗ nghịch.
5. Trước cửa nhà hoặc trong sân có 2 cây bắt chéo nhau sẽ khiến gia đình không hòa thuận, vợ chồng dễ có chuyện tình cảm bất chính.
6. Nhà ở đối diện với khu vui chơi giải trí thì ảnh hưởng xấu đến việc hình thành nhân cách của trẻ.
7. Nhà ở hoặc cửa hàng có đoạn đường cong trước mặt thì gia chủ rất dễ gặp nguy hiểm như tai nạn, phá sản; con cái ngỗ ngược...
8. Trước cửa có cây to sẽ ngăn cản dương khí vào nhà, âm khí sinh sôi. Người sống trong nhà này dễ sinh bệnh tật, dễ bị sét đánh vào nhà.
9. Nhà ở hoặc cửa hàng không nên ở chính giữa ngã ba đường. Nếu là phố rộng thì gọi là lộ xung, nếu là phố hẹp thì gọi là lộ sát. Hai trường hợp này gọi là lộ không vong, đều khiến gia chủ dễ lâm vào cảnh bị phá sản hoặc bị kiện tụng.
(Theo Bí mật gia cư)
VỊ TRÍ BA GIÁC QUAN THỨ 6, THỨ 7 & THỨ 8
Bài trước trình bày sự tồn tại của 3 giác quan cùng với chức năng và hình thức thụ cảm. Bài viết này tiếp tục dùng Chu Dịch để xác định vị trí của 3 giác quan mới cùng 5 giác quan đã biết.
Tôi trình bày như sau:
Cơ thể con người hình thành đạt độ hoàn chỉnh cấu trúc hình thể cơ bản trước thời điểm chào đời. Hình thể với cấu trúc cơ bản ấy là bào thai nằm trong bụng người mẹ (mang tính Âm) Bào thai ấy chịu nhiều sự tác động của yếu tố Âm hơn so với Dương (người cha) Yếu tố Âm được thể hiện ở đồ hình Tiên Thiên Bát Quái, vì thế, tôi lấy đồ hình này xác định vị trí các bộ phận thụ cảm 8 giác quan của bào thai.
Công việc xác định này nằm trong phạm vi các bộ phận thụ cảm bên ngoài của con người.
1. THUẦN TỐN: Xúc giác
* Ngoại quái: Có 2 vạch (+) 1 vạch (-)
Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+)
Có 2 vạch (+) nên có 2 bộ phận thụ cảm.
* Tốn thuộc Thái Âm nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lõm
* Tốn cư vùng (-) nên 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể.
* Quẻ Tốn mô tả: Tiến thoái linh động, nép ở cạnh dưới, không có vật bao bọc, lộ ra ngoài.
Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan xúc giác:
* Có 2 bộ phận thụ cảm.
* Hình thể có dạng lõm.
* 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể
* Tiến thoái linh động, nép ở cạnh bên, không có vật bao bọc, lộ ra ngoài.
Xác định:
Sự mô tả tương thích với 2 bàn tay.
2. THUẦN CHẤN: Khứu giác
* Ngoại quái: Có 2 vạch (-) 1 vạch (+).
Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+).
Có 1 vạch (+) nên có 1 bộ phận thụ cảm.
* Chấn thuộc Thái Dương nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lồi.
* Chấn cư vùng (+) nên 1 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.
* Quẻ Chấn mô tả: Có dạng gò, liên thông ít nhất với 1 bộ phận thụ cảm khác.
Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan khứu giác:
* Có 1 bộ phận thụ cảm.
* Hình thể có dạng lồi.
* 1 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.
* Có dạng gò, liên thông ít nhất với 1 bộ phận thụ cảm khác.
Xác định:
Sự mô tả tương thích với cái mũi.
3. THUẦN ĐOÀI: Thính giác
* Ngoại quái: Có 2 vạch (+) 1 vạch (-)
Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+)
Có 2 vạch (+) nên có 2 bộ phận thụ cảm.
* Đoài thuộc Thái Âm nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lõm.
* Đoài cư vùng (+) nên 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.
* Quẻ Đoài mô tả: Nằm ở 2 cạnh bên, liên thông với ít nhất 1 bộ phận thụ cảm khác.
Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan thính giác:
* Có 2 bộ phận thụ cảm.
* Hình thể có dạng lõm.
* 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.
* Nằm ở 2 cạnh bên, liên thông với ít nhất 1 bộ phận thụ cảm khác.
Xác định:
Sự mô tả tương thích với 2 lổ tai.
4. THUẦN LY: Thị giác
* Ngoại quái: Có 2 vạch (+) 1 vạch (-)
Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+)
Có 2 vạch (+) nên có 2 bộ phận thụ cảm.
ë Ly thuộc Thái Âm nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lõm
* Ly cư vùng (+) nên 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.
* Quẻ Ly mô tả: Linh động, nằm ở 2 bên, có 2 sắc màu, thể hiện đa dạng sắc thái tình cảm, có chảy ra một loại chất lỏng.
Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan thị giác:
* Có 2 bộ phận thụ cảm.
* Hình thể có dạng lõm
* 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.
* Linh động, nằm ở 2 bên, có 2 sắc màu, thể hiện đa dạng sắc thái tình cảm, có chảy ra 1 loại chất lỏng.
Xác định:
Sự mô tả tương thích với 2 con mắt.
5. THUẦN CẤN: Vị giác
* Ngoại quái: Có 1 vạch (+) 2 vạch (-)
Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+)
Có 1 vạch (+) nên có 1 bộ phận thụ cảm.
* Cấn thuộc Thái Dương nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lồi.
* Cấn cư vùng (-) nên 1 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể.
* Quẻ Cấn mô tả: Ẩn kín, nó có thể lộ ra ngoài nếu muốn, phần lộ ra ngoài dài ngắn tuỳ ý.
Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan vị giác:
* Có 1 bộ phận thụ cảm.
* Hình thể có dạng lồi.
* 1 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể.
* Ẩn kín, nó có thể lộ ra ngoài nếu muốn, phần lộ ra ngoài dài ngắn tuỳ ý.
Xác định:
Sự mô tả tương thích với chiếc lưỡi.
Lời bàn:
Chu Dịch ghi rằng “một bộ phận thụ cảm nằm phần bên dưới của cơ thể” Căn cứ vào hình thể của con người, phần bên dưới của cơ thể con người không tồn tại cơ phận nào tương thích như thế. Chỉ có chiếc lưỡi là tương thích với sự mô tả của 3 yếu tố còn lại.
Tuy vậy, từ sự mô tả của Chu Dịch, tôi cho rằng có sự tồn tại của ít nhất một giống loại sinh vật mà giác quan Vị giác của chúng nằm ở phần bên dưới của cơ thể. Điều này tôi xin dành cho các nhà Sinh Vật Học.
6. THUẦN CÀN: Khởi giác
* Ngoại quái: Có 3 vạch (+)
Là giác quan hoạt động ý thức: Nên ta xem xét vạch (+)
Có 3 vạch (+) nên có 3 bộ phận thụ cảm.
* Càn thuộc Thái Dương nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lồi.
* Càn cư vùng (+) nên 3 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.
* Quẻ Càn mô tả: Ở khu vực cao nhất của cơ thể, 1 điểm nằm ngay đỉnh, 1 điểm nằm ở nơi từng lõm, 1 điểm nằm lệch và khuất phía sau.
Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan khởi giác:
* Có 3 bộ phận thụ cảm.
* Hình thể có dạng lồi
* 3 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên trên của cơ thể.
* Ở khu vực cao nhất của cơ thể, 1 cái nằm ngay đỉnh, 1 cái nằm ở nơi từng lõm, 1 cái nằm lệch và khuất phía sau.
Xác định:
Sự mô tả tương thích với: gò nhô lên của đỉnh đầu, vùng thóp, vùng chẩm.
7. THUẦN KHẢM: Liễm giác
* Ngoại quái: Có 1 vạch (+) 2 vạch (-)
Là giác quan hoạt động vô thức: Nên ta xem xét vạch (-)
Có 2 vạch (-) nên có 2 bộ phận thụ cảm.
- Khảm thuộc Thái Âm nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lõm.
- Khảm cư vùng (-) nên 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới cơ thể.
- Quẻ Khảm mô tả: Có dạng cái hố, hố có 2 vùng phân biệt, 2 vùng liên thông với nhau bằng một vùng trung gian, vùng thứ 2 sau vùng trung gian là nơi bít bùng.
Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan liễm giác:
- Có 2 bộ phận thụ cảm.
- Hình thể có dạng lõm.
- 2 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới cơ thể.
- Có dạng cái hố, hố có 2 vùng phân biệt, 2 vùng liên thông với nhau bằng một vùng trung gian, vùng thứ 2 sau vùng trung gian là nơi bít bùng.
Xác định:
Sự mô tả tương thích với cái rốn.
Lời bàn:
Rốn thông với đầu ruột non khi còn là bào thai. Khi trưởng thành, rốn dính với ruột non qua dây chằng ở phúc mạc.
8. THUẦN KHÔN: Tái Tạo giác
- Ngoại quái: Có 3 vạch (-)
Là giác quan hoạt động vô thức: Nên ta xem xét vạch (-)
Có 3 vạch (-) nên có 3 bộ phận thụ cảm.
- Khôn thuộc Thái Âm nên hình thể bộ phận thụ cảm có dạng lõm.
- Khôn cư vùng (-) nên 3 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể.
- Quẻ Khốn mô tả: Nấp sau một cơ phận mạnh mẽ, phía bên dưới nó là khoảng trống, có điểm nằm trên cao điểm khác nằm dưới thấp, có một điểm nằm rất kín đáo ở nơi như thắt lại, điểm này nằm trong khoảng từ thắt lưng đến cổ chân, điểm này ở trong khu vực mà vật (+) và vật (-) thẳng thắn gặp nhau
Như vậy Chu Dịch mô tả cơ quan tái tạo giác:
- Có 3 bộ phận thụ cảm.
- Hình thể có dạng lõm.
- 3 bộ phận thụ cảm nằm ở phần bên dưới của cơ thể.
- Nấp sau một cơ phận mạnh mẽ, phía bên dưới nó là khoảng trống, có điểm nằm trên cao điểm khác nằm dưới thấp, có một điểm nằm rất kín đáo ở nơi như thắt lại, điểm này nằm trong khoảng từ thắt lưng đến cổ chân, điểm này ở trong khu vực mà vật (+) và vật (-) thẳng thắn gặp nhau.
Xác định:
Sự mô tả tương thích với 2 lòng bàn chân & vùng nhỏ nằm giữa bộ phận sinh dục với hậu môn (Hội Âm).
Lời Bàn:
Bản thảo đầu tiên bài viết này chỉ trình bày công việc xác định ba giác quan thứ 6, thứ 7 & thứ 8. Công việc luận giải ở giác quan Khởi Giác cho thấy cơ quan thụ cảm nằm ở phần đỉnh đầu. Điều này tương hợp với một số phát hiện gần đây về khả năng tồn tại của một giác quan chưa rõ chức năng nằm ở bên trong, vùng đỉnh đầu. Nhưng khi việc luận giải cho kết quả Liễm Giác nằm ở vùng rốn, và Tái Tạo Giác nằm ở vùng Hội Âm & 2 lòng bàn chân thì tôi đã hết sức ngạc nhiên ! Bởi vì, ngay trong tưởng tượng trước đó, tôi cũng không hề nghĩ rằng cơ quan thụ cảm của hai giác quan lại nằm ở hai vùng khá ngộ nghĩnh này !
E ngại rằng có thể có sai lầm về cách đặt đầu đề bài, tôi đã cho kiểm chứng phương pháp luận giải này với 5 giác quan thông thường thì kết quả cho hoàn toàn trùng khớp.
Với kết quả xác định được sự tồn tại ba giác quan thứ 6, thứ 7, thứ 8 từ Chu Dịch, thiết nghĩ rằng còn phải chờ khoa học tương lai kiểm chứng.
Nhìn chung móng tay (les ougcles des doigts). Móng tay đẹp phải là không thô kệch, nhẵn bóng không vân, không sần sùi, màu đỏ hồng.
+ Móng bóng đỏ: có tình cảm thanh bạch.
+ Móng tay bóng hồng: Hoạt bát, chóng thích nghi, say đắm.
Các kiểu móng gồm:
+ Móng dài, vuông, vừa và vuông: Dễ xúc động, óc tò mò, thích hoạt động thực hành.
+ Móng ngắn và vuông, ngắn và rộng là: Có uy quyền, óc phân tích, nóng nảy, tự lập cao, lý trí mạnh.
– Móng bé ngắn, dài hẹp: Trí tuệ hẹp hòi, tự cao, tự đại, hay giận dữ, luộm thuộm.
– Móng hình hạnh nhân: Đại lượng, cao thượng, đa cảm có đức hy sinh.
Móng dài: Dễ xúc dộng, có lý trí, có khả núng phân tích
Móng rộng bề ngang: Nóng nảy hay nổi giận.
Móng vuông: Có nghị lực, sống ngân lốp, thận trọng.
Móng ngắn vuông: Khỏ năng phân tích, ìv trí mạnh, uy quyền.
Móng ngắn bé: Tính hẹp hỏi, tự cao, tự đại
Móng dài hẹp: Hay giận dữ, sống luộm thuộm, cẩu thả
Móng hẹp nhọn: Hay nóng giận, cứng nhác, nguyên tác quá đáng
Móng hạnh nhân: Cao thượng, đại lượng, da cảm, da sầu, có đức hy sinh
Nhà vệ sinh là một nơi quan trọng trong ngôi nhà, sẽ ảnh hưởng đến phong thủy tốt của gia đình. Tuy vậy, có vẻ như hầu hết mọi người đều bỏ qua khi xây hoặc mua nhà.
1. Không để giường sát nhà vệ sinh
Một trong những điểm quan trong nhất là không được kê giường sát khu vực nhà vệ sinh, đặc biệt là khi đầu giường áp bồn cầu. Nó sẽ gây ra bất hòa giữa các thành viên trong gia đình.
2. Tránh cửa nhà vệ sinh đối diện cửa nhà bếp
Cửa nhà vệ sinh đối diện cửa bếp sẽ khiến cho sức khỏe của mọi người trong gia đình, đặc biệt là các thành viên nữ, xấu đi. Nó sẽ gây ra các bệnh về đường tiêu hóa khi một trong những căn phòng ô uế và nhiều vi khuẩn nhất đối diện với nhà bếp.
3. Không để cửa phòng ngủ đối diện nhà vệ sinh
Đừng vị trí cửa phòng ngủ chính của bạn phải đối mặt với nhà vệ sinh. Nó sẽ gây ra xung đột và bất đồng giữa các cặp vợ chồng và cũng ảnh hưởng đến sức khỏe của họ.
4. Không xây toilet dưới gầm cầu thang
Rất nhiều gia đình hay xây toilet phụ dưới gầm cầu thang để tiết kiệm diện tích. Tuy nhiên đây là ý tưởng tồi vì nó có thể gây ra các vấn đề ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã giao của bạn.
5. Không xây nhà tắm mở
- Nhiều người muốn xây phòng tắm mở để tận hưởng cảm giác sang trọng như đang ở trong khách sạn. Đối với khách sạn, điều này là bình thường vì bạn chỉ nghỉ lại có vài ngày nhưng đối với gia đình thì không nên. Nó dễ khiến những người độc thân chìm đắm trong những mối tình một đêm hay nếu đã lập gia đình thì dễ li hôn.
6. Sàn nhà vệ sinh không được cao hơn các phòng khác
Sàn nhà vệ sinh nên thấp hơn hoặc bằng sàn các phòng khác trong nhà, đặc biệt là phòng khách. Nguyên nhân bởi vì nơi đây tràn đầy các năng lượng bị nhiễm bẩn và nếu sàn nhà vệ sinh cao hơn thì năng lượng xấu sẽ tràn ra khắp nhà. May mắn của bạn vì thế sẽ trôi đi mất.
7. Tránh cửa chính đối diện cửa phòng vệ sinh
Cửa chính của bạn không được đối diện trực tiếp với nhà vệ sinh. Nó sẽ khiến tiền vào cửa trước sẽ 'bay thẳng' vào nhà vệ sinh, xuống hố xí và trôi đi mất. Nguy hiểm hơn, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp của gia chủ.
Vậy nên, tốt nhất nên để phòng vệ sinh ở góc xa của ngôi nhà.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
►Mời các bạn: Xem tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh |
Ngày Rằm tháng Bảy, theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, các vong nhân được xá tội nên có lễ cúng Cô Hồn vào buổi chiều cho các vong linh không nhà cửa, không nơi nương tựa. Vào tháng 7 âm lịch, theo quan niệm dân gian thì vong hồn tháng 7 được thả ra, vong tốt có, vong xấu có, ma quỷ thì đi lang thang trên dương gian, nếu không cẩn thận bạn sẽ gặp phải ma quỷ đi lạc. Dưới đây là 18 điều bạn nên tránh vào rằm tháng 7. Các cụ vốn có câu “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”
1. Không treo chuông gió ở đầu giường vì tiếng chuông sẽ thu hút sự chú ý của ma quỷ, khi ngủ sẽ dễ bị chúng xâm nhập quấy phá.
2. Người yếu bóng vía không nên đi chơi đêm vào tháng này, nếu không sẽ dễ gặp điều không may.
3. Không được nhổ lông chân vào ngày này, vì dân gian cho rằng “một sợi lông chân quản ba con quỷ”, người càng có nhiều lông chân thì ma quỷ càng ít dám đến gần.
4. Không tùy tiện đốt giấy, vàng mã vì như vậy sẽ khiến ma quỷ bu đến.
5. Không ăn vụng đồ cúng, vì đó là đồ dành cho ma quỷ, nếu chưa cúng và cầu xin mà lấy ăn sẽ rước tai hoạ vào mình.
6. Không phơi quần áo vào ban đêm, vì ma quỷ trông thấy sẽ “mượn” và để lại “quỷ khí” trong các quần áo ấy.
7. Những người khi đi chơi đêm không được réo gọi tên nhau, nếu không ma quỷ sẽ ghi nhớ tên người được gọi, đó là điềm xấu.
8. Không nên bơi lội, vì ma quỷ sẽ cùng đùa với bạn, nếu không cẩn thận, bạn sẽ bị chúng làm trẹo chân.
9. Không hù doạ người khác khiến họ giật mình “hồn bay phách lạc”, dễ bị ma quỷ xâm nhập.
10. Cây đa trước nhà là nơi hội tụ âm khí, ma quỷ rất thích những chỗ như vậy, cho nên kỵ đứng, ngồi, nằm, trốn… ở đó.
11. Không nên thức quá khuya, vì như vậy tinh thần sẽ hao tổn suy nhược, dễ nhiễm “quỷ khí”.
12. Nơi góc tường xó tối là những chỗ ma quỷ thường tụ tập nghỉ ngơi, không nên đến gần những chỗ ấy.
13. Không nhặt tiền bạc rơi vãi trên đường, vì có thể đó là tiền người ta cúng mua chuộc bọn quỷ đầu trâu mặt ngựa, nếu người nào phạm kỵ, sẽ gặp tai hoạ không chừng.
14. Khi đi đến qua những nơi vắng vẻ, không ngoái cổ quay đầu nhìn lại phía sau, dù có cảm giác hình như có người đang đi theo mình hoặc gọi tên mình. Vì đó có thể do ma quỷ trêu chọc.
15. Khi lên giường ngủ không để mũi dép hướng về phía giường, nếu không ma quỷ nhìn thấy sẽ đoán rằng có người sống đang nằm trên giường và chúng sẽ lên giường ngủ chung với bạn.
16. Không cắm đũa đứng giữa bát cơm, vì đó là hình thức cúng tế, cũng giống như kiểu thắp hương, dễ dẫn dụ ma quỷ vào nhà ăn chung.
17. Không nên ở một mình trong thời gian này, nếu không sẽ dễ bị ma quỷ dẫn dắt hoặc quấy phá.
18. Không chụp ảnh vào ban đêm, bởi ma quỷ luôn lảng vảng chung quanh đó sẽ “vô hình” vào ảnh chung với người sống, đó là điều không tốt.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
kình dương (Kim)
1. Ý nghĩa cơ thể:
2. Ý nghĩa tướng mạo:
3. Ý nghĩa bệnh lý:
4. Ý nghĩa tính tình:
a. Nếu Kình đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi:
b. Kình hãm địa:
c. Kình ở Ngọ, Dần, Thân, Mão, Dậu:
5. Ý nghĩa của kình dương và một số sao khác ở các cung:
a. ở Mệnh:
b. Giáp Mệnh:
c. ở Quan:
d. ở Tài:
e. ở Phu Thê:
f. ở Hạn:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)