1. Sao Yếu Yên (Thiên Quý): tốt mọi việc nhất là việc cưới hỏi
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Dần; tháng 2: ngày Thân; tháng 3: ngày Mão; tháng 4: ngày Dậu; tháng 5: ngày Thìn; tháng 6: ngày Tuất; tháng 7: ngày Tỵ; tháng 8: ngày Hợi; tháng 9: ngày Ngọ; tháng 10: ngày Tý; tháng 11: ngày Sửu; tháng 12: ngày Mùi.
Tranh cát tường
2. Sao Dịch Mã: tốt mọi việc nhất là việc xuất hành
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Thân; tháng 2: ngày Tỵ; tháng 3: ngày Dần; tháng 4: ngày Hợi; tháng 5: ngày Thân; tháng 6: ngày Tỵ; tháng 7: ngày Dần; tháng 8: ngày Hợi; tháng 9: ngày Thân; tháng 10: ngày Tỵ; tháng 11: ngày Dần; tháng 12: ngày Hợi.
Sao Mẫu Thương tốt cho việc khai trương
3. Sao Tam Hợp: tốt mọi việc
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Ngọ, Tuất; tháng 2: ngày Mùi, Hợi; tháng 3: ngày Thân, Tý; tháng 4: ngày Dậu, Sửu; tháng 5: ngày Tuất, Dần; tháng 6: ngày Hợi, Mão; tháng 7: ngày Tý, Thìn; tháng 8: ngày Sửu, Tỵ; tháng 9: ngày Dần, Ngọ; tháng 10: ngày Mão, Mùi; tháng 11: ngày Thìn, Thân; tháng 12: ngày Tỵ, Dậu.
4. Sao Lục Hợp: tốt mọi việc
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Hợi; tháng 2: ngày Tuất; tháng 3: ngày Dậu; tháng 4: ngày Thân; tháng 5: ngày Mùi; tháng 6: ngày Ngọ; tháng 7: ngày Tỵ; tháng 8: ngày Thìn; tháng 9: ngày Mão; tháng 10: ngày Dần; tháng 11: ngày Sửu; tháng 12: ngày Tý.
5. Sao Mẫu Thương: tốt cho việc cầu tài, khai trương
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Hợi, Tý; tháng 2: ngày Hợi, Tý; tháng 3: ngày Hợi, Tý; tháng 4: ngày Dần, Mão; tháng 5: ngày Dần, Mão; tháng 6: ngày Dần, Mão; tháng 7: ngày Thìn, Sửu; tháng 8: ngày Thìn, Sửu; tháng 9: ngày Thìn, Sửu; tháng 10: ngày Thân, Dậu; tháng 11: ngày Thân, Dậu; tháng 12: ngày Thân, Dậu.
Bản sắc văn hóa Việt ở Nam Bộ vốn sự đa dạng với những sắc thái văn hóa từ các dân tộc khác nhau. Chuyện cưới xin cũng là một minh chứng cho sự khác nhau ấy
Bản sắc văn hóa Việt ở Nam Bộ vốn thống nhất trong sự đa dạng với những sắc thái văn hóa từ các dân tộc khác nhau. Về truyền thống phương Nam với Nam Bộ nói chung và Sài Gòn nói riêng là miền đất được tập hợp bởi các dân tộc người Việt sinh sống đan xen giữa các dân tộc: Chăm, Khơme, Hoa,…. Do đó, cùng với phong tục tập quán người Việt các văn hóa của dân tộc khác đã tạo nên một văn hóa Sài Gòn rất khác.
Và chuyện cưới xin của người Việt sống tại Nam Bộ là một minh chứng cho sự khác nhau giữa văn hóa của các dân tộc sinh sống tại đây.
1. Đám cưới người Việt
Theo truyền thống xưa của người Việt, đám cưới là nghi lễ quan trọng nhất của đời người. Tập tục đám cưới người Việt bao gồm sáu lễ sau:
Lễ nạp thái: Sau khi hai bên nhà trai và gái đã đính ước, nhà trai sẽ nhờ người mai mối đem rượu đến nhà gái để tỏ ý đã kén chọn nơi ấy.
Lễ vấn danh: Nhà trai sẽ nhờ người mai mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh của cô gái.
Lễ nạp cát: Báo cho nhà gái biết đã bói được quẻ tốt và việc hôn nhân nhất định sẽ cử hành.
Lễ nạp tệ (nạp trưng): Nộp sính lễ cho nhà gái, thế là việc hôn nhân đã hình thành.
Lễ thỉnh kỳ: Xin định ngày giờ để rước dâu.
Lễ thân nghinh: Nhà trai mang lễ đến nhà gái để rước dâu về.
Đặc biệt người Việt Nam Bộ xưa chú trọng nhất đến Lễ hỏi, các sính lễ nhà trai đem đến nhà gái trong dịp này màng những nét rất riêng của văn hóa Nam Bộ, các sính lễ đều là số chẵn, gồm có:
Khai trầu rượu, tiền cưới.
Cặp đèn hòa lạp kết hoa.
Mâm trầu cau: 36 trái cau và 64 lá trầu (tượng trưng cho 64 quẻ trong kinh dịch).
Mâm trà rượu (hoặc cặp ché rượu)
Mâm bánh.
Mâm trái cây.
1 con heo sống (heo đứng củi).
Ngoài ra, nhà trai còn đem nữ trang đến cho cô gái, thường là đôi bông tai, đôi xuyến, kiềng, dây chuyền,…có thể bằng vàng, bạc hoặc đồng. Dù gia đình nhà trai nghèo đến đâu cũng không thể thiếu đôi bông tai.
Đối với người Việt Nam Bộ, đôi bông tai được xem là vật đính ước của cuộc hôn nhân, vậy nên mới có câu hát: “…Một mai thiếp có xa chàng, đôi bông thiếp trả đôi vàng thiếp xin. Sau này thu lại còn 3 lễ: Lễ chạm ngõ, lễ hỏi và lễ cưới.
2. Đám cưới người Chăm (IsLam)
Người Chăm đã sinh sống tại Sài Gòn lâu đời, do đó phong tục người Chăm cũng ảnh hưởng khá sâu sắc đến văn hóa người Việt. Tập tục truyền thống cưới hỏi của người Chăm đơn giản hơn so với người Việt, gồm có bốn lễ:
Lễ Nao Kha Da (lễ dạm hỏi): Nhà trai nhờ người làm mai đến nhà gái thỏa thuận về tiền dẫn cưới và thời gian tiến hành các lễ tiếp theo.
Lễ Clok Pa Nôith (lễ hỏi): Nhà trai mang sính lễ gồm: trầu, cau vài vóc, nữ trang… và công khai số tiền đồng, tiền cưới.
Lễ Chon Khal Ao (lễ tặng quà): Trước lễ cưới nhà trai đem biếu cô gái những món quà cho ngày cưới và những vật dụng sinh hoạt gia đình.
Lễ Pa Khah (lễ cưới): Diễn ra trước sự chứng kiến của hai họ, người chủ hôn đại diện cho nhà gái gọi là ông Wali tuyên bố gả cô gái cho chàng trai cùng với số tiền đồng và tiền cưới, chú rể đáp lời ưng thuận. Nếu lời đáp không chọn vẹn sẽ là điềm không may mắn cho đôi vợ chồng.
Kết thúc hôn lễ mọi người đọc Kinh Koran và chúc mừng đôi vợ chồng trẻ.
3. Đám cưới người Khmer
Người Khmer coi ngày tổ chức đám cưới gả con theo lịch tháng của dân tộc, theo phong tục cổ truyền hôn lễ gồm có ba lễ:
Lễ Sđâyđolđông (lễ nói): Đàng trai chọn Nétphlâuchâu Maha (người làm mai) đi cùng đến nhà gái làm lễ nói. Lễ vật gồm: bánh, trái cây,… tất cả phải là số chẵn.
Lễ Longmaha (lễ hỏi): Hai nhà thông báo cho thân nhân và lối xóm biết chính thức họ trở thành sui gia. Lễ vật nhà trai đem qua nhà gái gồm: 4 nải chuối, 4 chai rượu, 4 gói trầu, 2 đùi heo, 2 con gà, 2 con vịt và một số tiền. Trong lễ này 2 họ sẽ thống nhất ngày làm lễ đám cưới.
Lễ Thngaybôs Coltê (lễ cưới): Diễn ra tại nhà gái dưới sự điều khiển của Acha Pô Lia (Thầy cúng), gồm các nghi lễ chính sau:
Tiễn đưa chàng rễ về nhà gái
Dâng cơm cho sư.
Cắt tóc.
Lạy ông bà.
Rắc bông cau.
Nhập phòng. Nghi lễ được thực hiện theo các điệu nhạc múa cổ truyền.
4. Đám cưới người Hoa
Theo nghi lễ hôn nhân thì người Hoa và người Việt có nhiều nét tương đồng, đều theo sách nghi lễ của Chu Hy (một danh Nho đời Tống). Nghi lễ người Hoa cũng gồm sáu lễ: Nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh kỳ, thân nghi. Cũng như người Việt, nghi lễ người Hoa giờ đây chỉ còn ba lễ: Chạm ngõ, hỏi, cưới. Sính lễ nhà trai đem đến cho nhà gái thường là vào lễ hỏi hoặc lễ cưới, gồm: heo quay, vịt, gà, nhiều loại bánh, trái cây, củ sen,…
Bát tự khắc phu có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là có quan hệ với Thương Quan tinh. Nếu do Thương Quan gây họa mà dẫn tới khắc phu thì có phân chia nặng nhẹ theo các trường hợp dưới đây.
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không
1. Khắc nhẹ
Hai người có bất đồng, mâu thuẫn khi ở chung do Thương Quan nhẹ, Quan tinh kém hoặc Thương Quan là kị thần mà Quan Sát cũng là kị thần. Đây mới là trường hợp bát tự khắc phu nhẹ, chỉ bất đồng về lời nói nên có thể khắc phục bằng cách nhân nhượng lẫn nhau, tự mình bớt lời, hạ thấp kì vọng. Ngoài ra, có thể thông qua phong thủy nhà ở để hóa giải mệnh khắc, áp chế Quan tinh.
2. Khắc trung
Trước khi kết hôn thì người chồng khỏe mạnh, số phận may mắn nhưng sau khi kết hôn thì thân thể suy nhược, uể oải, bệnh tật, đi theo đường tà đạo, lừa bịp, ăn chơi sa đọa. Tình huống bát tự khắc phu này là do Thương Quan khá vượng, hơn nữa Thương Quan là kị thần, uy lực tương đối lớn, đối với phu Tinh lực khắc khá mạnh.Để giải quyết vấn đề bát tự khắc phu này, có các cách như sau:- Lấy chồng có khoảng cách tuổi tác lớn, nữ mệnh ít tuổi lấy chồng nhiều tuổi, nữ mệnh nhiều tuổi lấy chồng ít tuổi.- Vợ chồng sống xa nhau, không ở cùng một chỗ.- Kết hôn với người đã từng ly hôn hoặc đã có con, khách ngành nghề, khác địa phương
3. Khắc mạnh
Đây là trường hợp bát tự khắc phu mạnh mẽ nhất, sau khi kết hôn người chồng gặp chuyện ngoài ý muốn như tàn tật, mất năng lực lao động, bệnh nặng, tử vong. Tình huống này do Thương Quan kị thần đặc biệt vượng, không có tướng mệnh hôn nhân có thể nói là mệnh ni cô hòa thượng, hầu như không thể hóa giải. Nếu biết số mệnh mình thuộc loại này, hãy chỉ sống chung mà không kết hôn, tránh để bản thân và đối phương phải chịu thiệt thòi, đau khổ. Hướng dẫn 5 bước cơ bản để tự xem bát tự luận số mệnh6 phương pháp xem bát tự hợp hôn cực chuẩn cho người muốn lập gia đình6 sai lầm ai cũng mắc phải khi xem tuổi kết hônThái Vân Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Trong nhân tướng học, mũi được coi là chủ về tài vận và tình cảm vợ chồng, mũi có sẹo thì hay gặp rủi ro, lậu tài, đồng thời chuyện tình cảm gặp nhiều trắc trở, thường gặp phải người không nên yêu, tự đẩy mình vào hoàn cảnh khổ cực.
Ảnh minh họa
1.Cằm có sẹo
Người có sẹo ở cằm thì trong cuộc sống hay gặp tiểu nhân hoặc bị bạn bè bán đứng, nhất là người có sẹo lõm thì hay bị bạn bè làm liên lụy hoặc gây phiền toái, nếu cằm tròn đầy thì đỡ hơn chút ít.Người có sẹo ở cằm khi về già thì vận trình đầy biến động. Đặc biệt là cằm nhọn mà không đầy thịt thì cuối đời sống trong cảnh đơn côi.2. Trán có sẹo Tuổi trẻ gặp nhiều bất lợi, sự nghiệp lên xuống thất thường. Người này tính cách có chút cực đoan, có nhiều hành động thường gây bất lợi cho người khác, nếu thêm khuôn mặt có vẻ dữ tính thì càng phải cẩn thận, nếu không may đắc tội thì sẽ không được yên thân. Phương pháp hóa giải: hàng ngày rèn luyện tố chất của mình, học cách giữ hòa khí và tránh tranh chấp với người khác.3. Xung quanh mắt có sẹoMí mắt, bọng mắt hay đuôi mắt có sẹo thì ám chỉ mối quan hệ cùng người nhà không được tốt. Mí mắt có sẹo thì không thích ở nhà, dễ phát sinh mâu thuẫn cùng người nhà. Dưới mắt có sẹo thì chuyện con cái gặp nhiều khó khăn nhưng không phải là không có. Đuôi mắt có sẹo thì tình cảm thất thường, dễ xảy ra bất hòa.
Ảnh minh họa
4. Mũi có sẹo Trong nhân tướng học, mũi được coi là chủ về tài vận và tình cảm vợ chồng, mũi có sẹo thì hay gặp rủi ro, lậu tài, đồng thời chuyện tình cảm gặp nhiều trắc trở, thường gặp phải người không nên yêu, tự đẩy mình vào hoàn cảnh khổ cực. Bởi vậy những người này cần có thời gian để nhận thức và đánh giá con người, phải quan sát đối phương trong thời gian dài, phải xác định đối phương là người hiền lành tử tế hay độc ác nham hiểu, sau đó mới kết giao, tránh để đầu óc bị mê muội vì những lời đường mật.5. Miệng có sẹo Môi trên chủ về tình, môi dưới chủ về ham muốn tình dục. Môi trên có sẹo thì chuyện tình cảm khúc chiết, trong cuộc đời nhất định sẽ bị bỏ rơi một lần. Môi dưới có sẹo thì sinh lý yếu, ảnh hưởng tới đời sống vợ chồng hoặc quá trình sinh sản, cách tốt nhất là nên phẫu thuật thẩm mỹ.Vết sẹo không phải từ khi sinh ra đã có mà do quá trình sinh hoạt hàng ngày bất cẩn mà tạo nên. Chỉ cần chú ý hơn, cẩn thận hơn một chút khi làm việc, đi đứng thì sẽ không có sẹo. Nếu không cẩn thận để bị sẹo thì cũng không nên quá đau buồn, có thể sử dụng các phương pháp hóa giải như phẫu thuật thẩm mỹ làm mờ sẹo. Hãy nhớ rằng: Vận mệnh nằm trong tay mình, nhân định thắng thiên.
► Xem nốt ruồi trên mặt đoán tính cách chuẩn xác
Phương Thùy Mũi hếch, răng hô trọn đời mạt vậnQuan sát tướng mặt của người khó thành công, dễ thất bạiNgười có tướng mặt thế nào hay gặp chuyện thị phi?Đàn ông nên thận trọng với 5 mẫu bạn gái có tướng mặt thâm hiểm Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Đối với việc sử dụng màu sắc, điều cơ bản là làm sao để có thể lựa chọn được những màu sắc phù hợp cho việc bài trí vật dụng và sắp xếp nhà cửa lại vừa có thể nhận được những lợi ích về mặt phong thủy.
Trắng và đen Màu đen và màu trắng là nền tảng của biểu tượng âm và dương. Đen thuộc âm và trắng thuộc dương. Sự kết hợp hai màu này diễn tả sự toàn vẹn, hợp nhất, hài hòa của vũ trụ vạn vật. Đây cũng được xem là sự kết hợp rất tốt về mặt phong thủy.Đỏ và vàng kim Đỏ và vàng kim cũng là hai màu cơ bản rất được ưa dùng khi bài trí nhà cửa theo phong thủy. Được xem là màu may mắn nhất, màu đỏ rất thích hợp cho hỷ sự, lễ hội. Nó còn tượng trưng cho năng lượng Hỏa và sức mạnh... Tuy nhiên, cần phải cẩn thận khi dùng màu đỏ cho phòng ngủ. Nếu không giảm bớt tông màu này, căn phòng sẽ có quá nhiều dương và không có lợi cho giấc ngủ. Màu vàng kim kết hợp với màu đỏ cũng được xem là may mắn, biểu thị cho sự uy nghi, tráng lệ. Tím và bạc Sự kết hợp giữa màu tím và bạc sẽ mang đến tài lộc dồi dào. Cách phối màu này rất phổ biến trong cộng đồng người nói tiếng Quảng Đông ở Trung Quốc. Theo cách phát âm tiếng Quảng Đông thì màu tím và bạc có nghĩa là tiền bạc.
Màu tím còn là màu tượng trưng cho tài sản, của cải. Màu bạc thuộc Kim, màu tím thuộc Thủy, theo tính chất ngủ hành tương sinh (Kim sinh Thủy) thì đây là sự kết hợp màu sắc rất có lợi.
(Theo Xzone) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Chỉ một vài thay đổi nhỏ trong cách bố trí bàn học cho trẻ, phụ huynh đã giúp con thêm khỏe mạnh và có hứng thú học hành hơn.
1. Bàn học quay lưng vào cửa – Trẻ đau xương sống, thiếu cảm giác an toàn Khi kê bàn học cho trẻ quay lưng về phía cửa ra vào hoặc cửa sổ mà đằng sau không có chỗ dựa vững chắc, trẻ dễ bị đau xương sống và thiếu cảm giác an toàn. Do đó, hiệu quả học tập không cao. Theo lí giải phong thủy bàn học, chỗ dựa vững chắc sau lưng tượng trưng cho sự nâng đỡ của quý nhân. Nếu phía sau chỗ ngồi của trẻ quá trống trải sẽ gây cảm giác bất an, khiến trẻ khó tập trung học hành.
Ảnh minh họa
2. Bàn học quay trực tiếp vào cửa sổ - Trẻ khó tập trung Nếu bạn học của con bạn đang quay trực tiếp về phía cửa sổ, bạn cần phải thay đổi vị trí ngày ngay lập tức. Việc trẻ hứng những luồng sát khí thẳng vào người do bố trí bàn học không tốt sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe và sức tập trung trong học tập của trẻ. Luồng sát khí này có thể là đèn đường, tháp nước hoặc góc cạnh tường nhà khác… Ngoài ra, nếu kê bàn học đối diện với cửa ra vào cũng gây ra tình trạng tương tự, trẻ khó tập trung suy nghĩ, hiệu quả học tập giảm sút rõ rệt. 3. Dùng bàn học có hình dạng kì quặc – Trẻ thiếu sự ổn định Những bàn học có hình dạng kì quặc sẽ khiến trẻ cảm giác chênh vênh, thiếu sự ổn định. Từ đó khiến trẻ khó tập trung học được. Ngoài ra, kiểu bàn này gây ra nhiều bất lợi, thậm chí còn có thể gây nguy hiểm cho trẻ vì có nhiều góc cạnh sắc nhọn. Theo phong thủy bàn học, tốt nhất nên chọn bàn có hình vuông, hình này đại diện cho sự ổn định và chắc chắn. 4. Bàn học có quá nhiều màu lòe loẹt – Trẻ bức bối, khó tập trung học Việc sử dụng những gam màu sáng sẽ mang lại cảm giác tươi mới và kích thích sự sáng tạo ở trẻ. Tuy nhiên, nếu dùng quá nhiều màu lòe loẹt lại gây phản tác dụng. Trẻ sẽ có cảm giác bức bối và khó tập trung trí lực để học bài, lâu dần sẽ dẫn tới học hành sa sút.
► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương
ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Đối với phụ nữ, may mắn có lẽ là điều còn tốt đẹp hơn cả sự giàu sang hay xinh đẹp. Bạn đã biết những nốt ruồi may mắn của nữ giới chưa? Cùng xem bạn có 1 trong 20 nốt ruồi may mắn này không nhé.
Đối với phụ nữ, may mắn có lẽ là điều còn tốt đẹp hơn cả sự giàu sang hay xinh đẹp. Bởi nếu may mắn họ sẽ có cuộc sống viên mãn, đặc biệt là hôn nhân hạnh phúc bên chồng con. Bạn đã biết những nốt ruồi may mắn của nữ giới chưa? Cùng xem bạn có 1 trong 20 nốt ruồi may mắn này không nhé.
1. Nốt ruồi ở trên đỉnh đầu:
Đây là một trong Những nốt ruồi may mắn đáng kể đến trên cơ thể phụ nữ. Nó nói lên rằng từ khi lọt lòng người phụ nữ này đã có vận khí tốt đẹp, nhiều phú nhân phù trợ vượt qua những gian nan, thử thách. Họ không phải lo toan cuộc sống vật chất, ngay từ khi sinh ra họ đã có điều kiện sống lý tưởng, nhiều người mơ ước.
2. Nốt ruồi ở lông mày:
Lông mày là vị trí nốt ruồi may mắn dễ nhận thấy của phụ nữ. Nó cho thấy chủ nhân là người may mắn, ích phu vượng tử.
3. Nốt ruồi ở giữa trán:
Có nốt ruồi ở giữa trán thì đa phần là người đại quý đại phú, tài vận tốt. Nhiều người lo sợ và đi tẩy, xóa nốt ruồi nhưng ít ai biết rằng đây là vị trí nốt ruồi may mắn bậc nhất của phụ nữ đấy.
4. Nốt ruồi ở Thái Dương:
Thể hiện chủ nhân là người có nhiều phú nhân phù trợ, đi làm ăn xa hay đi nước ngoài thì càng nhiều may mắn và tài lợi
5. Nốt ruồi ở tai hoặc thùy tai:
Đây là một trong Những nốt ruồi may mắn của phụ nữ mà nhiều người biết đến. Nó cho thấy bạn là người may mắn, trường thọ, tài vận tốt. Ngoài ra còn là người thông minh, hiếu thảo, tiềm lực tài chính lớn.
6. Nốt ruồi ở gò má:
Thể hiện là người có địa vị, có quyền lực, đặc biệt là gặp may mắn trong làm ăn kinh doanh. Là người lãnh đạo tài ba và thành công
7. Nốt ruồi ở trên môi:
Phụ nữ có nốt ruồi này thì cuộc sống không phải lo nghèo túng, không lo ăn mặc và gặp nhiều may mắn.
8. Nốt ruồi ở môi dưới:
Đây cũng có thể coi là vị trí nốt ruồi may mắn của phụ nữ. Nó thể hiện là người tỉ mỉ, cẩn thận, được sự tín nhiệm của người khác, từ đó mà có thêm nhiều cơ hội tiến thân và thành công.
9. Nốt ruồi ở gần cằm:
Nếu phụ nữ có nốt ruồi ở gần cằm thì chứng tỏ là họ người giàu có về điền trạch, nhiều ruộng đất, nhà cửa, bất động sản. Hơn nữa sẽ có thêm nhiều trợ thủ đặc lực trong kinh doanh cũng như cuộc sống.
10. Nốt ruồi ở sau gáy:
Nhắc đến Những nốt ruồi may mắn của phụ nữ không thể không nhắc đến nốt ruồi ở sau gáy. Nó cho thấy họ là người có quyền lực, có chỗ dựa vững chắc.
11. Nốt ruồi ở trước vai:
Vai là khu vực rộng, và nốt ruồi mọc ở đây thì sự may mắn cũng sẽ khác nhau. Nhưng nhìn chung là may mắn, có nhiều bất động sản, giàu có và may mắn.
12. Nốt ruồi ở sau lưng:
Phụ nữ có nốt ruồi ở sau lưng thì đa phần là người có tiền, có nhà, có quyền. Do đó cũng được xem là một trong Những nốt ruồi may mắn của phụ nữ.
13. Nốt ruồi ở ngực:
Phụ nữ có nốt ruồi ở ngực là người giàu có, có tiền bạc, không phải lo lắng về vật chất. Ngoài ra, họ còn là người đào hoa, nhiều cảm xúc phong phú, nhiều người yêu thích và theo đuổi.
14. Nốt ruồi ở dưới ngực:
Đây là vị trí nốt ruồi may mắn bậc nhất của phụ nữ. Nếu ở bên trái thì có tiền tài, bên phải thì có đất đai nhà cửa. Nó còn được gọi là nốt ruồi Kho đựng của. Nghĩa là giàu có và may mắn, nhìn chung rất tốt.
15. Nốt ruồi ở cánh tay:
Phụ nữ có nốt ruồi ở cánh tay chứng tỏ tài vận tốt và có năng lực kiếm ra được nhiều của cải.
16. Nốt ruồi ở lòng bàn tay:
Thể hiện là người có năng lực quản lý tốt, có tướng giàu sang phú quý và may mắn trong cuộc sống.
17. Nốt ruồi ở nách:
Ít ai biết rằng, nách là vị trí nốt ruồi may mắn hiếm có của phụ nữ. Nó như kho của, như ví tiền của con người vậy. Ngoài ra, phụ nữ có nốt ruồi ở nách đa phần là có mối đào hoa tốt.
18. Nốt ruồi ở rốn:
Có nốt ruồi ở rốn, rất dễ được gả vào những nhà đại gia, giàu có, có tướng vượng phu ích tử.
19. Nốt ruồi ở mông:
Có vẻ khó tin nhưng nốt ruồi ở mông là một trong những nốt ruồi may mắn của phụ nữ. Nó cho thấy bạn là người có năng lực, khả năng độc lập cao và rất có phúc khí.
20. Nốt ruồi ở bàn chân:
Đây là vị trí nốt ruồi may mắn đáng nói của phụ nữ. Nó cho thấy bạn là người có sự nghiệp vững chắc, địa vị cao trong xã hội.
Bạn có nốt ruồi nào trong 20 nốt ruồi may mắn kể trên không? Cùng tìm hiểu và đối chiếu với kết quả nhé!
Một bài viết của tác giả Võ Văn Châu trình bày giới thiệu về 10 cuốn sách Tử Vi kinh điển thời hiện đại. Bài viết rất hay, giúp bạn một cách nhìn trong việc lựa chọn sách học Tử Vi.
Khoa Tử vi xuất hiện ở VN không phải mới mẻ gì nhưng thử tính đến nay có được bao nhiêu tác phẩm xuất hiện trước công chúng? Chỉ vỏn vẹn hơn 10 cuốn.
Với số lượng ít ỏi đó, người đang học hỏi, nghiên cứu tử vi lúc nào cũng cảm thấy không thỏa mãn, mặc dù các quyển lý số này từa tựa nhau trên căn bản lập số, đoán số nhưng cũng có những điểm đặc thù thích thú.
Trong tinh thần học hỏi để tiến bộ, người viết sẽ lần lượt phân tích dưới nhãn quan của người hậu học 10 tác phẩm sau đây:
Tử vi chỉ nam của Song An Đỗ Văn Lưu
Tử Vi bổ túc của Nguyễn Mạnh Bảo
Tử vi Đẩu số tân biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang
Tử vi áo bí Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử
Tử vi hàm số của Nguyễn Phát Lộc
Tự tìm hiểu đời mình của Nguyễn Mạnh Long
Tử vi nghiệm lý của Thiên Lương
Tử vi Đẩu số toàn thư của Vũ Tài Lục
Tử vi phú giải của Thái Vân Trình
Tử vi dưới mắt khoa học của Vu Thiên Nguyễn Phát Lộc
Và cũng vì khuôn khổ hạn hẹp của tờ báo, người viết sẽ chỉ ghi lại những nét đại cương của từng tác phẩm với hậu ý tóm tắt toàn bộ vấn đề hầu quý độc giả thưởng lãm trong mùa xuân Ất mão 1 cách trọn vẹn.
Đó là điều mong muốn của mọi người, ở năm này, các nhà Tử vi lẫy lừng phổ biến các bí quyết, các kinh nghiệm, các tuyệt chiêu cho dàn hậu bối thụ hưởng qua các soạn phẩm tử vi mà các vị còn ôm ấp, còn luyến tiếc, còn mơ màng thời vàng son rực rỡ.
1. TỬ VI CHỈ NAM – SONG AN ĐỖ VĂN LƯU
Đây là quyển sách lâu đời, ra đời năm 1934 và tái bản lần thứ 3 năm 1957, đến nay kể như tuyệt tích trên thương trường.
Tác giả kể lại hoàn cảnh tin số mệnh, tìm hiểu số mệnh để rồi biết số mệnh và long nhiệt thành, quyển sách này mới ra đời.
Toàn bộ Tử vi chỉ nam gồm có 3 quyển, có tất cả 236 trang. Với số trang khiêm nhượng trên, độc giả không phải thất vọng vì được tác giả hướng dẫn cách thức an sao lập số, cách đoán tử vi trên các cung số rõ ràng, đầy đủ, trọn vẹn. Và với 32 lá số mẫu, tác giả giúp cho ta thấm nhuần phương pháp giải đoán thông thường mà mỗi người học số đều phải vượt đến.
Ở tác giả, ta thấy tác phẩm có lời văn bình dị, mộc mạc mà người đọc cũng thâu nhận dễ dàng, tuy rằng sự xếp đặt thứ tự các mục chưa được khúc chiết cho lắm, còn nhiều lẫn lộn. Điều đó không đáng kể vì người ta chỉ cần cha đẻ của đứa con tinh thần đó thật tâm truyền thụ cho đứa con xứng đáng, danh dự phô trương với đời. Có lẽ trong kinh nghiệm tìm kiếm thầy hay mà tác giả cay đắng gặp phải nên ở tác phẩm này, các tinh hoa của nền học thuật Đông phương cổ cộng với kinh nghiệm hành nghề, được cụ dốc hết tâm ý giãi bày cho hậu thế thưởng lãm. Vì vậy, sách TVCN đã tiết lộ thêm nhiều tình tiết Thái tuế từng năm (trang 170), xem số trẻ con (trang 121) nhất là bang bạc các trang của quyển thứ 3.
Dẫu biết rằng các cách đặc thù kể trên đều được tiền nhân kê cứu sẵn nhưng thử hỏi các tác phẩm Tử vi hiện thời đã có mấy quyển “xì” các bí quyết đó ra?
Thế cho nên, với số sách hạn chế trong Tử vi, ta sẽ còn phải đắn đo chọn lựa và chắc hẳn rằng sách xem được dung nghiên cứu được sẽ không vượt quá số đầu ngón tay.
Một dịp nào thuận tiện, chúng ta sẽ phân tích tận tường các nguyên nhân thúc đẩy đến tình trạng nghèo nàn nhất, bi thảm nhất của làng Tử vi VN.
2. TỬ VI BỔ TÚC – NGUYỄN MẠNH BẢO
Tôi được biết 1 sĩ quan QLVNCH đã thuộc làu các bài thơ trong quyển Tử vi bổ túc này, mặc dù ông không biết tử vi là gì. Được hỏi lý do, ông cho biết rằng tại thể thơ hợp với sở thích, vì vậy ông đọc tới đọc lui lâu ngày nên thuộc
Nói như vậy để độc giả thấy rằng quyển TVBT ít ra đã làm hài lòng giới hâm mộ thi phú và người học hỏi tử vi sẽ thích thú khi đọc qua tác phẩm này. Các câu phú trên do Ma Y lão tổ trước tác và cụ Lê Quý Đôn diễn giải ra quốc âm với hơn 400 cách lý đoán mà phần nhiều đề cập đến các bàng tinh.
Nhiều lúc gặp thầy giải đoán chuyên chú, má sát vào các chính tinh, tôi đâm ra nghi ngời sự diệu dụng của khoa Đẩu số vì với 14 chính tinh vận hành trên 12 cung số dĩ nhiên sự khác biệt sẽ bị thu hẹp rất nhiều, sự trùng hợp do đó sẽ xảy ra. Tôi cùng các bạn hữu bèn quay qua quan sát các sao nhỏ, tuy gọi là không quan trọng nhưng thật ra chúng đã từng làm đảo lộn thế cờ giải đoán. Quyển sách này đã trợ giúp chúng tôi đắc lực và trong 183 trang, chúng ta được đọc qua phần Tử vi tổng luận phú, các sao đắc hãm tại 12 cung, luận Mệnh viên nam nữ….tạm gọi khá đầy đủ để bổ túc them kiến thức đẩu số toàn vẹn, nhất là bổ túc cho quyển tử vi đẩu số cùng tác giả Công cuộc sưu tầm của tác giả thật tỉ mỉ và quan trọng với sở nguyện khoa học hóa môn tử vi, đemmôn lý học này phổ biến cho ngoại quốc, thì với ấn bản trên làm vững niềm tin cho đám hậu học chúng ta khá nhiều, xem như là 1 tài liệu khả tín, ứng dụng chính xác vào bản số.
Tiếc thay, trong giờ phút này, người thừa kế không tiếp tục toàn vẹn hóa khoa Tử vi như ý nguyện của tác giả mà hình như hững hờ trước việc làm của tác giả khiến cho người thích nghiên cứu phải dò dẫm trở lại từ con số 0.
3. TỬ VI ĐẨU SỐ TÂN BIÊN – VÂN ĐẰNG THÁI THỨ LANG
Chúng ta dành 1 phút để tưởng niệm linh hồn cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang đã tử nạn lưu thông, trước khi xem lại Tử vi của người.
Ta thấy tác phẩm của cụ từng ghi “Tham Lang ngộ Bạch hổ: phải phòng cá thú cắn”. Đối với ngày nay, ác thú của loài người không phải cọp beo vô uy lực trong các chuồng ở vườn Bách thú mà chính là các xe cộ qua lại như mắc cửi hung hãn hơn vị hung thần.
Thành ra những quan niệm xưa áp dụng vào thực tế ngày nay phải thay đổi theo từng thế hệ, từng thời đại trên chiều hướng tiến bộ của loài người. Khi đọc tác phẩm này, trong tinh thần mới đó, chúng ta sẽ dễ dàng thâu nhận các tinh hoa của khoa Tử vi vậy.
Sách phân là 3 phần: Lập thành; Luận đoán tổng quát; và Luận đoán vận hạn.
- Ở phần 1, chắc rằng mọi người đều đã rõ. Chỉ riêng đại mục lý giải ngũ hành, Can chi, biên giả cũng như hầu hết các tác giả khác ghi ra lấy lệ chứ không nói rõ công dụng của nó sinh, khắc, hòa hợp với nhau như thế nào trong tử vi. Một dịp nào đó, ta sẽ bàn chi tiết hơn vấn đề này
- Trong phần 2, ta sẽ lưu ý đến phần hướng dẫn của tác giả khi luận đoán 1 lá số. Đây là căn bản nhập môn mà í tai chịu hướng dẫn rạch ròi, đầy đủ mà áp dụng khá chính xác. Nói về tính lý các sao, biên giả sắp xếp thật phân biệt, kỹ lưỡng và phối hợp khá đầy đủ 1 cách đơn giản (kết hợp 1 số ít sao để luận) cũng như phụ luận các cung số qua kinh nghiệm của cụ, đã rộng mở đường hiểu biết của độc giả không phải nhỏ.
- Tại phần 3, phần quan trọng khả dĩ hướng dẫn 1 bộ óc thông minh trung bình tạm thời giải đoán khá ổn thỏa, đúng phương pháp sau 1 thời gian ngắn theo dõi tác phẩm này.
“Tôi học ít. Sự suy xét còn nông cạn…Nhưng với tấm long thành muốn góp 1 phần nhỏ vào công việc phổ biến tử vi đẩu số, tôi mạo muội biên soạn và đưa xuất bản cuốn sách này”. Ai lại không phục lời nói khiêm cung, hòa nhã của cụ Vân Đằng? Trước 1 nhiệt tình đầy dẫy, trước 1 người hữu công đã khuất, tôi mạo muội dừng bút nơi đây mà chưa vội lạm bàn đến các khiếm khuyết của tác phẩm.
4. TỬ VI ÁO Bí – HÀ LẠC DÃ PHU VIỆT VIÊM TỬ
Nhìn qua quyển sách dày như quyển tự điển, với tên đề, ta thấy tử vi sẽ ảo diệu bao nhiêu, sẽ ngăn chùn bước chân chập chững vào vườn hoa lý số của bao người.
May mắn thay, nhìn vào trang cuối, ta thấy tác giả để địa chỉ liên lạc hầu giải quyết các thắc mắc của độc giả ham tìm tòi. Tôi chưa có dịp tìm đến cụ Hà Lạc, tuy nhiên tôi cảm thấy vui sướng khi tác giả làm việc đó mà các tác giả khác, các soạn giả, biên giả khác chưa hoặc quên làm. Tôi có cảm tưởng họ buông thả đứa con tinh thần của họ, mặc sống chết ra sao, cũng chả cần biết đến hậu quả hành động của chúng hữu ích hay tác hại (?) để gánh lấy 1 phần hãnh diện hay trách nhiệm.
Trở về nội dung của tác phẩm, ta thấy tác giả thực sự chỉ dẫn độc giả phương pháp lập thành lá số, nhưng lại dài dòng ở chương 2. Nhưng ta phải thành tâm nhận xét rằng, với chương 3, chương đặc biệt hơn tất cả, tác giả đã phân tích các quan niệm an sao của các hệ phái để cuối cùng dứt khoát nên chọn con đường nào hợp lý nhất để đi, nhất là cách an Vòng Tràng Sinh. Tại chương 8 và 9, tác phẩm giúp ta nắm vững các cách của đẩu số, vận hành và tương quan 12 cung đối với mệnh viên.
Nhìn chung, quyển Tử vi áo bí có 1 trình độ cao hơn các quyển đồng loại khác: độc giả muốn nghiên cứu thông đạt ắt hẳn phải có 1 kiến thức dồi dào về môn lý số này vì có nhiều chủ đề (ví như Ngũ hành) tác giả quảng diễn thiếu khúc chiết, mạch lạc và chân thực, từng gây lung túng cho độc giả không ít. Sự chủ quan của cụ hà Lạc trong các cách giải thích rườm rà hẳn phát sinh trong đầu óc người xem những nghi vấn cần được giải tỏa Và cũng như đa số tác giả khác, những “tại sao như thế này…” không được cụ hướng dẫn kỹ càng, thành ra đọc xong, ta chấp nhận như là 1 kết quả thực tế kinh nghiệm chứng minh chứ không thể tìm đến chân lý của vấn đề.
5. TỬ VI HÀM SỐ - NGUYỄN PHÁT LỘC
Non 500 trang, do Khoa học Nhân Văn xuất bản năm 1972, Tử vi hàm số được sắp xếp thật khoa học, giúp cho người nghiên cứu nắm vững các vấn đề phiền toái của môn tử vi học.
Đặc biệt, tác giả nêu ra qui tắc luận đoán 1 lá số thật cầu kỳ, tỉ mí, đầy đủ khiến cho ta cảm thấy rằng khoa lý học này rất toàn vẹn, toàn bích và đâm ra ngỡ ngàng trước kiến thức hạn hẹp của mình. Thật vậy, tôi đã từng nhìn thấy 1 nhà tử vi thiết lập lời giải đoán dài 100 trang giấy học trò, cũng chưa đủ các yếu tố cần thiết như tác giả đã trình bày. Thế mới biế, tử vi là bao la, rộng lớn đến dường nào?
Trong phần luận thuyết về Hàm số tử vi được xem như 1 chủ đề mới mẻ, trong đó, bao giờ tác giả cũng lưu ý đến cung Phúc đức, 1 cung có giá trị tột độ ảnh hưởng mật thiết với các yếu tố khác. Đây là phần có giá trị thiết thực như 1 tài liệu tham khảo mà mọi người không thể bỏ qua được.
Tiếc thay, đôi lúc tác giả tự mâu thuẫn với mình vì quá mê say phối hợp các hệ phái tử vi khi chứng minh rằng tử vi không thần quyền mà tại phần tính lý các sao, ông lại rơi vào các điều thần bí mà ông bài bác ở trên.
Tiếp đến là phần ý nghĩa các chính và phụ tinh, ta thấy tác giả đã công phu sưu tầm, biên khảo với kinh nghiệm dồi dào, sắp xếp mạch lạc, giúp cho những ai muốn rạch ròi phân biệt khi nghiên cứu, học hỏi tử vi.
Tác phẩm TVHS có 1 giá trị khá cao trong làng sách hiện hành và người muốn tham khảo môn này, ít nhất phải có quyển sách này làm căn bản tối thiểu để tiến tới, tuy rằng nó có khuyết điểm cố hữu ở sự gán ép của tác giả khiến cho ta không nắm vững vấn đề hoặc làm thừa thãi ở sự phối hợp các sao.
Dù sao, quyển TVHS vẫn còn thiếu sót như tác giả mặc nhiên thú nhận: phải có quyển Tử vi tổng hợp (chưa xuất bản) mới định rõ giá trị thật sự của tác phẩm này được
6. TỰ TÌM HIỂU ĐỜI MÌNH – NGUYỄN MẠNH LONG
Sách do hương Giang ấn hành năm 1971 với giá đề 400 đồng, dày 350 trang, khổ nhỏ. Đây là quyển sách có thể gọi là tiêu chuẩn sơ cấp cho những ai mới có dịp tìm hiểu tử vi đẩu số, vì với lối hành văn giản dị, dễ hiểu, với cách an sao rút gọn thành hệ thống đồ bản sẽ giúp hoàn thành 1 lá số rất dễ.
Tác giả hướng dẫn cách luận đoán tạm thời bản số tử vi qua các cách cục xấu tốt, thuận nghịch, sinh khắc giữa ngũ hành bản mệnh, cục, sao cung. Tác giả bàn qua đặc tính tổng quát của các sao chính, phụ ứng chon am mệnh, nữ mệnh và vận hạn kèm theo 1 bản phụ giải về phú đoán, căn bản cố truyền của các nhà lý số dung trong việc đoán số.
Có thể nói, tác phẩm bao gồm đầy đủ các yếu tố cần thiết cho các truyền nhân của lão tổ Trần Đoàn.
Như đã nói trên, quyển sách này là căn bản sơ đẳng của người mới nhập môn nên dĩ nhiên còn thiếu sót rất nhiều từ cách kết hợp các sao đến việc trưng bày lá số mẫu. Muốn tiến hơn, người học cần phải trau dồi them ở các quyển tử vi khác, ở các kinh nghiệm bằng hữu, ở chiêm nghiệm thường xuyên, ở sự tiếp thu chân thành của mình.
Đó là chưa kể các vấn đề cần xét lại (tương sinh giữa mệnh và cục – trang 47 – hành mệnh và hành sao – trang 48-) hoặc thiếu sót (tính lý các sao tại các cung, ảnh hưởng ngũ hành Can chi ứng dụng vào tử vi,,ục lục…) hoặc cẩu thả (in sai, thứ tự sắp xếp các trang, sự sắp xếp các đại tiểu mục…).
Được thừa hưởng di sản của nhà tử vi tăm tiếng 1 thời, GS Nguyễn Mạnh Long hẳn đã góp phần vun vén, tái bồi cho khoa mệnh học chưa được xứng ý cho lắm.
7. TỬ VI NGHIỆM LÝ – THIÊN LƯƠNG
Chúng ta chưa thấy quyển tử vi nào được giới thiệu nhiều, bàn luận nhiều như quyển Tử vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương, kể cả các quyển ấn hành đồng thời hoặc trước đó.
Không phải là ân sủng, đặc quyền. Quyển sách có 1 điểm đặc dị: phát kiến vòng Thái Tuế để nghiên cứu tính tình con người qua lý số. tương lai, những nhà nghiên cứu con người ắt hẳn không thể bỏ qua việc phối hợp tử vi vào các phương pháo và phương tiện khảo cứu sẵn có được.
Tuy rằng trên căn bản, các phát kiến của Thiên Lương không có gì sai lạc ý hướng cổ nhân, nhưng phải coi rằng nó mới lạ và giản dị, dễ hiểu và dễ ứng dụng vào các lá số không sai chạy. Kinh nghiệm đó tác giả không bắt buộc ta phải chấp nhận như 1 tín điều. Sự kiện này nếu có dịp tiếp xúc với tác giả, ta sẽ thấy ngay ý tưởng chân thành biểu lộ sự thanh cao, bất vụ lợi của tác giả. Nhưng khi đọc xong, ta vẫn khả chấp như 1 tin tưởng rằng Tử vi không đến nỗi mù mờ, dành đặc quyền cho 1 hạng người nào và cho ta thấy tính lý con người, thời vận hưng khởi hoặc suy tàn để tri thiên mệnh, để biết người biết ta. Hay ho là chỗ đó! Thâm thúy là nơi đó!
Tác giả đã không minh chứng các điều phát minh 1 cách rõ ràng làm đa số độc giả khó thâu nhận kịp thời các nguyên tắc lý số, nhưng bang bạc các lá số danh nhận ở phần thứ nhì của tác phẩm vừa giúp kinh nghiệm giải đoán, vừa áp dụng tức thời các nguyên tắc tìm thấy ở phần thứ nhất.
Ước mong rằng quyển TVNL ra đời là nguồn phấn khởi cho bao người còn nặng mang “bí kiếp” hãy mau mau cống hiến cho đời kẻo mai một – sự mai một đã được chứng minh cụ thể cho nền học thuật tử vi ngày nay – cho bao người đang lăm le hoặc đã nhúng tay vào nghiệp dĩ lý số có dịp ngắm các khám phá thực tiễn, các nguyên lý tối vi, các kinh nghiệm quý giá để nân cao đất đứng cho môn tử vi, để cởi bỏ lớp áo huyền vi của khoa đẩu số.
8. TỬ VI ĐẨU SỐ TOÀN THƯ – VŨ TÀI LỤC
Ngay lời dẫn, dịch giả đã giúp ích nhiều cho kiến thức của chúng ta về môn Tử vi học và đi đến kết luận rằng, con người dù sao cũng bị số mệnh chi phối và biết số mệnh không phải là vô bổ, là huyễn hoặc, là hạ cấp vì “bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử”.
Ở đây ta thấy Vũ Tài Lục dịch và bình chú cuốn TVĐSTT của Trần Đoàn do La Hồng Tiên biên soạn, cùng bổ túc thêm vào ít khám phá mới của các tác giả khác. Vì thế ta có dịp biết tử vi qua truyền thuyết dân gian mà các sao được gán ghép qua các nhân vật truyện Phong Thần (nhưng nguyên bản Phong Thần, các sao được hình dung qua các nhân vật khác với của dịch giả). Dù là huyền thoại nhưng xem qua cũng thấy hay hay: ta có thể suy nghiệm kết quả các cuộc đấu chiến của các nhân vật trong truyện để luận đoán sao thủ Mệnh gặp sao nào ở vận hạn là khắc chế, thắng bại, tiền hung hậu kiết…
Dịch giả đưa ra 1 nghi vấn cho rằng trong TVĐSTT chỉ có 85 sao trong khi Tử vi Việt có đến 104 vị. ông cho rằng chỉ sao Đào hoa là có giá trị, còn các sao kia là gượng ép trong khi ông không rõ do đâu có sự sai biệt lượng số các sao. Thành ra ta phải dung thực tế, dung sự thật để chứng tỏ rằng các sao của Tử vi Việt không phải không có giá trị,chứ không thể căn cứ vào 1 quyển sách nhập cảng để bác bỏ đồ nội hóa vì luật sinh tồn từng hung hồn minh chứng rằng cái gì vô giá trị sẽ bị thải hồi qua thời gian như 1 số sao ta từng thấy, như các sao Mệnh chủ, Thân chủ.
Thiết tưởng sách TVĐSTT ra đời cũng chỉ góp phần vào vườn hoa tử vi thêm 1 loài hoa mới. Chúng ta phải áp dụng để chiêm nghiệm hơn là mặc nhiên chấp nhận như 1 chân thư. Đừng vì 1 lời nói, đừng vì 1 nhãn hiệu mà bài bác, phá hủy công trình nghiên cứu của làng tử vi Việt. “Thức đêm mới biết đêm dài”, “đường dài mới biết ngựa hay” có lẽ áp dụng được vào các mâu thuẫn của quyển sách này với các soạn phẩm tử vi của người Việt.
9. TỬ VI PHÚ GIẢI – THÁI VÂN TRÌNH
Hầu hết các quyển tử vi hiện hành, không nhiều thì ít, cũng có ghi ở phần phụ lục các câu phú của cổ nhân. Tất nhiên các câu phú được sao lục lại đó có thiếu sót.
Và quyển TVPG ra đời nhằm mục đích kết hợp các câu phú của mọi hệ phái lý học, giúp cho độc giả đỡ công tìm tòi, truy lục.
Sở dĩ tôi ke quyển TVPG này vào 1 trong 10 quyển sách tử vi hiện đại là vì căn bản xem số của các nhà tử vi đều lấy các câu phú làm tiêu chuẩn ứng dụng vào bản số. Tất cả cho rằng các sách vở hoặc bị ngoại nhân cướp đoạt nên các nguyên tắc về tử vi khó long ghi chép được đầy đủ để lưu tuyền đến nay. Do đó, đa số còn bám víu, tin tưởng vào chiếc phao cuối cùng do sự giáo luyện truyền khẩu các bí quyết lý số bằng những bài văn dễ nhớ, dễ thuộc: các câu phú vì lẽ ấy được các vị sư phụ chiếu cố kỹ cảng, tìm hiểu thâm sâu để truyền lại cho môn đệ có những miếng nghề tin tưởng hơn các lò khác.
Tuy nhiên, tin vào các câu phú cũng y như sử dụng con dao 2 lưỡi: lợi cũng nhiều mà hại cũng không ít (Cụ Phong Nguyên đã dẫn giải khá nhiều trên KHHB về các câu phú). Nói như thế để cho độc giả ước định được sự thật của vấn đề không có gì tuyệt đối cả. Cùng 1 câu phú, nhưng 2 ông thầy sẽ giảng giãi khác tùy theo kinh nghiệm giải đoán cũng như trí linh mẫn của mỗi người khác nhau. Điều này chúng ta sẽ nhận thấy rõ ràng trong quyển sách trên với lối ghi chú gượng ép, mơ hồ, đôi khi tối nghĩa.
Thái độ dè dặt của ta khi dung sách là điều cần có trước tiên, vì áp dụng phú vào mỗi lá số không phải công việc thay các con số vào công thức của toán học được.
Sách có giá trị ở công trình sao lục chứ chưa bày tỏ được quan điểm của soạn giả.
10. TỬ VI DƯỚI MẶT KHOA HỌC – VU THIÊN NGUYỄN ĐẮC LỘC
Thiếu quyển sách này là 1 thiếu sót trầm trọng cho kiến thức hạn hẹp về tử vi của ta hiện tại chỉ thuần về huyền bí, vì chưa có ai giải thích tại sao con người lại chịu ảnh hưởng mật thiết của các dữ kiện được gọi là “Sao” đó, tại sao ông sao này lại an thế này, ông sao kia lại an thế kia…?
Sử dụng tử vi ngày hôm nay cũng giống như mình sử dụng chiếc xe hơi, sử dụng hột gạo để nấu cơm, sử dụng căn nhà để ở chứ không quay về nguồn xem cách thức cấu thành chiếc xe hơi thế nào, xem các giai đoạn trồng trọt cây lúa ra sao…
Tác giả Vu Thiên đơn phương làm công việc về nguồn đó sao cho hợp với quan điểm của Hi Di Trần Đoàn mà không xa rời khoa học hiện đại. ông đã thành công 1 phần công trình nhiêu khê trên.
Việc chấp nhận hay không sẽ là 1 đề tài dài làm tốn bao nhiêu giấy mực của người ham học hỏi, thích nghiên cứu trước vấn đề mới mẻ này. Tại tác phẩm, tác giả có những quan niệm về an sao lập số đặc dị hơn các sách mà ta có trong tay. 1 cuộc cách mạng tử vi để thay đổi quan niệm lỗi thời, cũ rích ắt không phải là con đường xa lộ dẫn đến mục tiêu. Bởi 1 vấn đề nho nhỏ là ngũ hành các sao của các môn phái tử vi đương thời còn là 1 hố cách biệt thay huống hồ là công tác trọng đại này.
Tuy nhiên, năm này ta chưa cải cách được thì 10 năm, 20 năm sau giới trẻ chúng ta sẽ lại bắt tay vào công cuộc khám phá nối tiếp công trình của tác giả để khoa học hóa môn tử vi, đưa nó vào chương trình giáo dục văn hóa đặc thù của dân tộc Việt. âu cũng là 1 phương thức cải cách đời sống tinh thần của người VN cho hợp lẽ tự nhiên của tạo hóa mà tác giả đã bắt đầu gieo cuống nó 1 hạt giống rồi vậy.
Qua 10 tác phẩm tử vi, chúng ta vừa phớt qua trên căn bản tổng quát, ta thấy 10 tác giả là 10 quan niệm khác nhau do kinh nghiệm, do bí truyền, do sáng kiến của cá nhân. Thành ra khoa Tử vi thật sự chỉ cống hiến cho đời 1-2 khía cạnh tầm thường nặng về quyền lợi vật chất, nặng về danh quyền khoa bảng, nặng về cá nhân phù du (ba vạn sáu nghìn ngày là mấy?), và dưới nhãn quan của dân chúng, thầy tử vi được đồng hóa …
Đầu tiên, bạn phải thắp hương và làm lễ tại ban thờ Đức Ông, sau đó đặt lễ lên hương án của chính điện và tiếp theo mới đi thắp hương cho các ban thờ khác.
Đi chùa là một nét văn hóa tâm linh đẹp trong đời sống người Việt. Tuy nhiên, chốn linh thiêng này có những phép tắc, trình tự mà không phải ai cũng biết.
Nguyên tắc ra, vào chùa
Khi bước vào nhà chính của đền, chùa, bạn không được đi vào từ cửa giữa. Khi đi qua cổng Tam quan vào chùa nên đi vào cửa Giả quan (bên phải) và đi ra bằng cửa Không quan (bên trái). Cửa Trung quan chỉ dành cho Thiên tử, bậc cao tăng, bậc khoa bảng đi vào chùa và đi ra cũng theo cửa này. Sau đó du khách có thể gặp sư trụ trì, sở dĩ là vì chùa do sư trụ trì cai quản, có sư, tăng - ni, chùa mới được giữ gìn và Đạo Phật mới được truyền lưu nên khi vào chùa phải theo lệ.
Một lưu ý nhỏ là, người đi chùa không được dẫm lên bậu cửa.
Nếu đi chùa hành lễ, bạn nên chọn trang phục kín đáo, nhã nhặn. Ảnh minh họa.
Thứ tự hành lễ
1. Đặt lễ vật: thắp hương và làm lễ tại ban thờ Đức Ông trước.
2. Sau khi đặt lễ ở ban Đức Ông (Đức Chúa) xong, đặt lễ lên hương án của chính điện, thắp đèn nhang, thỉnh 3 hồi chuông rồi làm lễ chư phật, bồ tát.
3. Sau khi đặt lễ ở chính điện xong thì đi thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà bái đường. Khi thắp hương lên đều có 3 lễ hay 5 lễ. Nếu chùa nào có điện thờ Mẫu, Tứ Phủ thì đến đó đặt lễ, dâng hương cầu theo ý nguyện.
4. Cuối cùng thì lễ ở nhà thờ tổ (nhà hậu).
5. Cuối buổi lễ, sau khi đã lễ tạ để hạ lễ thì nên đến nhà trai giới hay phòng tiếp khách để thăm hỏi các vị sư, tăng trụ trì và có thể tùy tâm công đức.
Trang phục
Người đi lễ chùa nên chọn trang phục nhã nhặn, sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, không mặc váy ngắn, quần cộc, áo xuyên thấu, khêu gợi...Bởi theo ngôn ngữ Phật giáo, ăn mặc gợi cảm quá mức vừa phạm giới uế tạp Phật đường, vừa phạm giới bất kính, dù người đó có mất công thờ cúng cũng không có ích gì. Ngoài ra, bạn cũng nên mặc trang phục gọn gàng, tiện lợi, tránh rườm rà, gây vướng víu.
Một lưu ý nhỏ khác là, nhiều đền chùa có quy định phải tháo bỏ giày dép trước khi vào sắp lễ nên bạn hãy chọn những đôi giày đơn giản, dễ tháo, dễ đi.
Những điều không nên
- Không được tùy ý làm ồn hoặc nói những lời bất kính đối với Phật, Thánh, cũng không được có thái độ thiếu cung kính như tùy tiện dùng tay chỉ trỏ vào tượng Phật.
- Khi bước đi không nên cắt ngang qua mặt những người đang quỳ lạy.
- Muốn làm lễ thì không nên quỳ phía sau những người đang đứng thắp hương. Tùy vào từng môn phái, có thể đứng/quỳ khi làm lễ nhưng cần phải lên trước.
Về đồ lễ
- Không cúng dường đồ mặn ở chùa cũng như đình, đền. Nhiều người cho rằng chỉ ở chùa mới cúng đồ chay, còn Thánh cúng mặn, là không phải.
- Tại chùa, không để tiền thật lẫn tiền âm phủ lên ban thờ hay mâm lễ. Tại đình đền có thể đặt tiền âm phủ nhưng không nên đặt tiền thật.
- Tất cả tiền thật đều nên đặt vào hòm công đức chính. Không nên đi "rải" tiền trên tất cả ban thờ, đặt vào tay tượng. Một lưu ý quan trọng là thay vì đặt tiền vào hòm công đức chính giữa, bạn nên đặt tiền vào hòm công đức nằm lệch bởi hòm công đức đặt chính giữa, ngay trước ban thờ sẽ tạo ra trường khí xấu gây nhiễu loạn tại ban thờ. Đặt tiền vào đây vô tình làm trường khí xấu càng bị xáo động, bất lợi cho mọi người.
- Rượu, bia, thuốc lá không đặt được trên ban thờ Phật nhưng có thể đặt trên ban thờ Thánh.
Không nên lấy lộc để ban thờ tại nhà
Nhiều người có thói quen mang các đồ ở đình chùa về đặt lên ban thờ nhà mình, là không nên. Đồ đã cúng rồi không thể cúng lại; hơn nữa nhiều đồ có chứa trường khí âm, ảnh hưởng xấu đến ban thờ.
- Chỉ cần đặt tiền vào hòm công đức, không cần lấy giấy công đức. Nếu có lấy cũng không nên mang đặt lên ban thờ nhà mình để báo công.
- Không lấy cành lộc mang về đặt lên ban thờ nhà mình. Cành lộc chứa nhiều trường khí âm, bất lợi cho gia tiên, thần linh tại gia.
- Có thể lấy lộc là bánh kẹo, bao diêm, bật lửa nhưng đều không mang về đặt lên ban thờ.
- Bùa, phù chú... đa phần có trường khí âm, không nên mang về nhà, càng không nên đặt lên ban thờ hay nhét vào ví. Đặt bùa chú vào ví, cũng như luôn mang một trường khí âm, hỗn loạn theo người.
Theo Minh Minh (Gia đình & Xã hội) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Những cuộc “trò chuyện cha con” dưới đây không chỉ khiến cho người ta bội phục tự đáy lòng, mà cũng sẽ khiến cho các bậc làm cha làm mẹ phải suy nghĩ lại về phương thức giáo dục của bản thân mình, từ đó xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với con cái.
Câu chuyện thứ nhất
Khi con trai được hai tuổi. Một ngày nào đó, đầu đụng phải góc bàn, đầu sưng một cục, khóc òa lên. Hơn một phút sau, tôi đi đến chiếc bàn, lớn tiếng hỏi:
“Cái bàn à, là ai đã đụng mày đau thế? Khóc lóc thương tâm thế kia?”
Con trai ngừng khóc, nước mắt lưng tròng nhìn tôi. Tôi sờ sờ cái bàn, hỏi con trai rằng:
“Là ai vậy? Là ai đã đụng đau chiếc bàn?”
“Con, ba ơi, là con đụng!”
“Ồ, là con đụng à, vậy còn không mau nghiêng mình với chiếc bàn, nói tiếng xin lỗi đi!”.
Con trai nuốt nước mắt, cúi mình, nói: “Xin lỗi”.
Từ đó, con trai đã học được tính có trách nhiệm và đảm đương!
Câu chuyện thứ hai
Con trai ba tuổi. Vô cớ khóc lớn, tôi hỏi:
“Sao vậy, chỗ nào không khỏe hả con?”
“Không có”.
“Vậy sao lại khóc!”
“Con chỉ muốn khóc thôi!”. (Rõ ràng làm nũng).
“Được thôi, con muốn khóc thì ba không có ý kiến, nhưng con khóc ở đây không thích hợp lắm, sẽ làm phiền mọi người nói chuyện, ba tìm một chỗ cho con, con một mình khóc cho đã, khóc đủ rồi mới gọi mọi người”.
Nói xong đem nhốt con ở phòng rửa tay: “Khóc xong rồi hãy gõ cửa”.
2 phút sau, con trai đạp cửa: “Ba ơi, ba ơi, con đã khóc đủ rồi!”
“Tốt, khóc xong rồi à? Khóc xong rồi thì đi ra đi”.
Kể từ hôm đó, con trai mãi cho đến 18 tuổi, không còn học thói thao túng và trút giận lên người khác!
Câu chuyện thứ ba
Con trai 5 tuổi. Chập tối, dẫn con đi bộ đi ngang qua cây cầu nhỏ, dưới cầu nước trong thấy được cả đáy, nước chảy cuồn cuộn. Con trai ngẩng đầu nhìn tôi:
“Ba ơi, con sông đẹp quá, con muốn nhảy xuống bơi”. Tôi có phần sửng sốt.
“Được thôi, ba sẽ cùng con nhảy xuống. Nhưng chúng ta hãy về nhà trước đã, thay quần áo một chút”.
Về nhà, con trai thay quần áo xong, nhìn thấy một chậu nước ở trước mặt, ngơ ngác không hiểu.
“Con trai, xuống nước bơi cần phải vùi đầu vào trong nước, điều này con không hiểu sao?”. Con trai gật đầu.
“Vậy thì bây giờ chúng ta hãy tập luyện trước một chút, xem thử con có thể vùi được bao lâu”. Tôi nhìn đồng hồ.
“Bắt đầu!”. Con trai vùi mặt vào trong nước, hào khí ngất trời? Chỉ được 10 giây:
“Úi chà, ba ơi, sặc nước rồi, khó chịu thật”.
“Vậy sao? Chờ một chút nhảy xuống sông, có thể sẽ càng khó chịu hơn nhiều đấy”.
“Ba ơi, chúng ta có thể không đi nhảy xuống nước nữa được không?”.
“Được thôi, không đi thì không đi nữa”.
Từ đó, con trai đã học được tính cẩn thận và không lỗ mãng, suy nghĩ cho kỹ rồi mới làm.
Câu chuyện thứ tư
Con trai 6 tuổi, ham ăn. Một buổi tối nọ, tan học đi ngang qua McDonald’s, dừng bước:
“Ba ơi, McDonald’s kìa!”. (Thèm chảy cả nước miếng).
“Ừm, McDonald’s! Muốn ăn không?”.
“Muốn ăn!”
“Con trai, một người muốn ăn liền ăn ngay, gọi là ‘cẩu hùng’ ( gấu chó), thèm ăn mà lại có thể không ăn, thì gọi là anh hùng”.
Rồi hỏi tiếp: “Con trai, con muốn làm anh hùng hay cẩu hùng đây?”.
“Ba, con đương nhiên muốn làm anh hùng!”.
“Tốt! Vậy anh hùng, khi muốn ăn McDonald sẽ thế nào đây?”.
“Có thể không ăn!”. (Rất kiên định!)
“Quá xuất sắc, anh hùng! Về nhà thôi”
Con trai chảy nước miếng, theo tôi về nhà.
Từ đó về sau, con đã học được những gì nên làm và những gì không nên lắm, chống lại được cám dỗ.
Câu chuyện thứ năm
Con trai 8 tuổi, nghịch ngợm, đánh nhau với bạn học lớn. Vết bầm tím khắp người, về đến nhà, khóc lớn không thôi.
“Ấm ức không?”.
“Ấm ức!”. Con trai vừa khóc vừa trả lời.
“Tức giận không?”.
“Tức giận!”. Con trai khóc to lên.
“Con dự tính sẽ làm thế nào?”. Hỏi tiếp: “Con cần ba làm gì cho con nào?”.
“Ba, con muốn tìm một viên gạch, ngay mai sẽ đập cậu ta từ phía sau!”.
“Ừm, ba thấy được! Ba ngày mai sẽ chuẩn bị cục gạch cho con”. Hỏi tiếp: “Còn gì nữa không?”.
“Ba, ba tìm một con dao cho con, con ngày mai sẽ đâm hắn ta từ phía sau!”.
“Được! Cái này càng hả giận hơn, ba bây giờ đi chuẩn bị một chút”. Tôi đi lên lầu.
Nghĩ rằng được ủng hộ, con trai dần dần bình tĩnh lại. Khoảng 20 phút sau, tôi từ trên lầu dọn xuống một đống lớn quần áo và chăn mền?
“Con trai, con đã quyết định chưa? Là dùng gạch, hay là dùng dao đây?”.
“Nhưng mà, ba ơi, ba dọn nhiều quần áo và chăn mền như vậy để làm gì vậy?”. Con trai nghi hoặc.
“Con trai, là như vậy: nếu như con dùng gạch đập hắn ta, như vậy cảnh sát sẽ bắt chúng ta đi, ở trong tù đại khái chỉ cần ở một tháng, chúng ta chỉ mang một số áo ngắn chăn mong là được rồi; nếu như con dùng dao đâm hắn ta, thế thì chúng ta ở trong tù ít nhất 3 năm không trở về được, chúng ta cần phải mang nhiều thêm một số quần áo chăn bông, bốn mùa đều phải mang đủ?”.
“Vì vậy, con trai con đã quyết định chưa? Ba đồng ý ủng hộ con!”.
“Phải như vậy sao?”. Con trai sững sờ.
“Chính là như vậy, pháp luật chính là quy định như vậy mà!”.
“Ba, vậy thì chúng ta không làm nữa nha?”.
“Con trai, con không phải là rất căm phẫn sao?”.
“Hây, hây, ba ơi, con đã không tức giận nữa rồi, thật ra con cũng có sao đâu”.
“Tốt, ba ủng hộ con!”.
Từ đó, con trai đã học được lựa chọn và trả giá.
Câu chuyện thứ sáu
Con trai 9 tuổi, năm lớp 4, môn toán không đạt, sầu não không vui.
“Sao thế? Thi không đạt, còn làm mặt nặng nhẹ với ba mẹ sao”
“Bởi vì cô giáo dạy toán rất đáng ghét, học lớp của bà ấy không thích nghe”.
“Ồ, đáng ghét như thế nào?”, tôi cảm thấy rất hứng thú.
“??, ??” , con trai nói rất nhiều, “nói tóm lại cô ấy cũng không thích con”
“Ồ, người khác thích con, thì con thích họ, người khác không thích con, thì con lại ghét họ. Điều này nói rõ rằng con là người chủ động hay là người bị động đây?”.
“Là người bị động ạ!”, con trai trả lời.
“Là người mạnh, hay là người yếu, là đại nhân, hay là tiểu nhân?”, tôi tiếp tục hỏi.
“Là kẻ yếu, là tiểu nhân!”, con trai sợ hãi.
“Vậy còn muốn làm đại nhân hay là tiểu nhân?”.
“Làm đại nhân! Ba ơi, con đã hiểu rồi: vô luận là cô giáo có thích con hay không, con đều có thể thích cô ấy, kính trọng, chủ động hưởng ứng cô ấy, làm một kẻ mạnh”.
Hôm sau, vui vẻ đến trường, từ đó môn toán đạt được kết quả ưu tú. Và đã biết được thế nào là đại nhân, thế nào là tiểu nhân.
Con trai, sau này khi con lớn lên, có lẽ, con sẽ nhớ đến hôm nay, nhớ đến bà nội, nhớ đến mẹ, nhớ đến ba đã dụng tâm vất vả thế nào.
Câu chuyện thứ bảy
Con trai 10 tuổi, chơi trò chơi. Mẹ nhắc nhở nhiều lần, con không chịu sửa.
“Con trai, nghe nói con mỗi ngày đều chơi cái này?”, tôi chỉ vào máy tính.
“Vâng”, con trai gật đầu thừa nhận.
“Mỗi lần sau khi chơi xong, con cảm thấy thế nào?”.
“Mờ mịt, trống trải, không còn hơi sức, tự trách, xem thường bản thân mình?”.
“Vậy tại sao lại còn chơi vậy? Không kiềm chế nổi bản thân, phải không?”.
“Đúng vậy, ba ơi”, con trai rất bất lực.
“Được rồi! Ba sẽ giúp con!”. Tôi ôm máy tính đến, đưa cho con một cái chùy nhỏ, “con trai, hãy đập nó!”.
“Ba ơi!”, con trai ngẩn người ra.
“Đập nó đi, ba có thể không có máy tính, nhưng không thể không có con được!”. Con trai rơi nước mắt, đích thân đập vào máy tính!
Từ đó, con trai hiểu được cái gì gọi là nguyên tắc.
Xưa kia Mạnh mẫu chọn hàng xóm để dạy dỗ con, một lần con trốn học bỏ về nhà chơi, vì để cảnh tỉnh con đã tự mình chặt đứt khung cửi.
Câu chuyện thứ tám
Con trai 11 tuổi, tôi cùng với vợ phải đi xa một thời gian dài, mỗi ngày đều gọi điện cho mẹ già, hỏi thăm. Một ngày kia, con trai nhận điện thoại:
“Ba ơi, chào ba!”, con trai rất lấy làm vui mừng.
“Ừm, chào con! Bà nội đâu rồi? Gọi bà nội nghe điện đi”.
“Ba ơi, sao mỗi ngày ba chỉ gọi điện thoại cho bà nội thôi vậy?”.
“Điều này có gì lạ đâu? Bởi vì đó là mẹ của ba mà!”.
“Vậy còn con? Con cũng rất nhớ ba mẹ!”.
“Vậy con hãy gọi điện cho mẹ con đi!”.
“Vâng!”.
Từ đó, cứ 6 giờ mỗi ngày, vợ tôi đều có thể nhận được lời hỏi thăm của con, bất kể mưa gió, đến nay đã 8 năm rồi!.
Câu chuyện thứ 9
Con trai 12 tuổi, năm lớp 6, bài tập nặng nề, tính tình nóng nảy, con trai tan học về vừa bước vào cửa.“Tiểu tử thối, hôm qua có phải con đã làm vỡ cái đĩa của ta?”, em gái của tôi bắt đầu vặn hỏi.
“Không có, cô ơi, con không có!”, con trai nét mặt nghi hoặc.
“Ta đã tận mắt nhìn thấy con làm vỡ, còn chối nữa à!”, bà nội của nhóc lại làm chứng kiên quyết khẳng định.
“Con không có mà! Mọi người đổ oan cho con?”, con trai khóc òa lên, nằm vật xuống đất.
Khoảng 5 phút, tôi đi ra khỏi phòng nghiêm giọng rằng:
“Sao thế? Sao lại nổi điên ở đây!”.
“Ba ơi, cô và bà nội đổ oan cho con!”.
“Đổ oan? Đổ oan cho con thì sao! Đổ oan thì con lại nằm vật xuống đất sao? Thật là thứ không ra gì mà! Con có phải trang nam tử hán hay không?”.
Con trai ngừng khóc, đứng dậy, cúi gầm mặt xuống:
“Ba ơi, mọi người đổ oan cho con”.
“Nam tử hán đại trượng phu, dẫu cho trời có đổ sụp xuống, cũng không thể ngã xuống được! Huống hồ là một cái đĩa nhỏ bé? Thật không ra gì cả!”.
Tôi tiếp tục: “Một đời này của người ta, phải trải qua biết bao sóng gió, bị oan ức, khinh thường, phản bội, bán đứng? Con liền chịu ngã xuống sao? Đó là đồ hèn nhát!”.
Con trai ưỡn ngực, ngẩng đầu lên:
“Ba ơi, con đã hiểu rồi, bây giờ con nên làm thế nào?”
“Bây giờ? Hãy tự hỏi chính bản thân con đi, con có nhiều thời gian lắm đó?”.
“Không có, con có rất nhiều bài tập cần phải làm”.
“Vậy còn không mau đi làm bài tập đi! Hãy nhớ kỹ, dẫu cho núi lở đất sụp đi nữa, cũng đừng quản nó, hãy làm xong việc của mình trước đã!”.
Con trai nhấc cặp lên, cúi chào bà nội và cô, rồi ung dung đi vào trong phòng.
Ba người chúng tôi bật cười.
“Sủng nhục bất kinh, khán đình tiền hoa khai hoa lạc; khứ lưu vô ý, vọng thiên không vân quyển vân thư (Không quan tâm thiệt hơn, nhìn hoa nở hoa tàn trước sân; đi ở chẳng buồn, nhìn bàu trời mây cuộn mây tan)”. Con trai à, sau khi con trưởng thành, nhìn thấy câu đối này, có lẽ, con sẽ nhớ đến hôm nay, nhớ đến dụng tâm vất vả của bà nội, cô cô, và của ba.
Câu chuyện thứ mười
Con trai mười ba tuổi, kỳ học thứ nhất, thành tích bình thường. Một ngày kia, nó bỗng hỏi:
“Ba ơi, đi học có ích gì không vậy? Thành tích thi cử có tác dụng gì không?”.
“Tại sao lại hỏi như vậy?”, tôi ngẩn ra.
“Mấy ngày trước có rất nhiều các chú các dì đến nhà, ba luôn nói với họ rằng giáo dục bây giờ là giáo dục tồi tệ nhất trong suốt 5000 năm qua mà”, con trai nhanh nhảu đáp.
Ài, thì ra con trai đã ở bên cạnh lắng nghe được chuyện đàm luận trên trời dưới đất của tôi với chúng bạn.
“Không sai, học hành, thi cử thật ra không có tác dụng gì cả”
“Thế thì tại sao con vẫn cần phải đi học những thứ vô dụng này đây?”.
“Đó là vì con còn nhỏ, trước hết phải làm một số thứ vô dụng trước đã, để thử bản sự của con. Nếu như con ngày cả những thứ vô dụng này đều làm không được tốt, như vậy sau khi lớn lên, những thứ hữu dụng chắc chắn cũng sẽ không làm được. Vì vậy, đi học tuy vô ích, nhưng con vẫn cần phải học nó cho tốt”
“Ồ, ba ơi, con có bản sự để học tốt nó!”.
Từ đó, con trai luôn đạt được những thành tích ưu tú.
Con trai à, thật ra đời người cũng là hư ảo không thật, nhưng cuộc sống này vẫn cần phải sống cho tốt, tinh thần trong đạo lấy giả làm thật cần chúng ta dùng cả một đời để thể hội.
Câu chuyện thứ mười một
Con trai 13 tuổi rưỡi, đi chơi ở nhà người thân trở về. Người mặc đồ hiệu, đầu tóc mới lạ, hả hê vô cùng:
“Mẹ ơi, con có bảnh không? Anh trai nhà bác hai mua quần áo, giày dép cho con, nhãn hiệu XX, rất đắt tiền đó; bà nội ơi, bà xem mẫu tóc của cháu này, anh ấy đẫn con đi hớt đó, phía trước rất là dài, ha ha, có mốt không này?”.
Nó giống như một con bướm, bay đi bay lại khắp nhà.
Tôi nhìn mà chẳng thèm để mắt đến?
Hai ngày sau, con trai đứng trước tấm gương, tự mình ngây ngất. Tôi lặng lẽ, đứng ở đằng sau:
“Có mệt không vậy, con trai?”.
“Ba ơi, dọa con giật cả mình!”.
“Ha ha, có mệt không, lúc nào cũng phải mệt tâm; luôn lo lắng, thật là không đáng; luôn phải suy đoán, người khác thấy thế nào. Sao phải khổ vậy, người sống ở đó, bị quần áo đầu tóc làm cho mệt mỏi, thật là ngốc lắm thay?”.
“Ba, ba cười nhạo con rồi”, con trai mặt đỏ ửng.
“Ba trả lại cho con sự nhẹ nhàng tự tại, con thấy sao?”.
“Dạ”, con trai đi thay quần áo, đầu tóc để bình thường trở lại. “Ba ơi, thật là nhẹ nhàng, thật là thoải mái!”.
Từ đó, con trai biết được thế nào là đẹp, thế nào là xấu.
Những điều cấm kị trong chỉnh trang nhà vệ sinh trong thiết kế nhà theo kiểu phức hộp –
Bố cục nhà ở được thiết kế theo kiểu phức hợp khá rõ ràng, vị trí nhà vệ sinh thì mỗi nhà có sự khác nhau, về phong thủy, việc chính trang nhà vệ sinh trong nhà ở được làm theo kiểu này cần chú ý tới một số vấn đề sau: (1) Nếu nhà ở có kiểu cách phức
Bố cục nhà ở được thiết kế theo kiểu phức hợp khá rõ ràng, vị trí nhà vệ sinh thì mỗi nhà có sự khác nhau, về phong thủy, việc chính trang nhà vệ sinh trong nhà ở được làm theo kiểu này cần chú ý tới một số vấn đề sau: (1) Nếu nhà ở có kiểu cách phức hợp thì nhà vệ sinh không nên bố trí ở tầng trên phòng ngủ, phòng sinh hoạt chung, phòng bếp, nếu không thể thay đổi thì đường ống nước và chỗ bắt cong ống nước không được lộ ra trong phòng, đồng thời phải có biện pháp chống thấm nước, cách âm và tiện sửa chữa khi trục trặc. (2) Không nên sử dung bất kì loại điện thoại nào khi dang trong bồn tắm hay phòng tắm, tránh xảy ra nguy hiểm do kích điện và hoả hoạn.
(3) Không nên lát nền bằng gỗ. (4) Không nên phơi quần áo lót, khăn tắm trong phòng vệ sinh. (5) Không nên để băng vệ sinh chưa dùng hết trong phòng vệ sinh. (6) Không nên để quá nhiều hoá mỹ phẩm trong phòng vệ sinh. (7) Thông thường trong phòng vệ sinh không nên đặt máy giặt. Nếu có khu giặt chuyên dùng cách khu vực ấm ướt khá xa thì có thể đặt máy giặt, nhưng phải dùng giắc cắm 3 chân, ổ cắm phải có hộp bảo vệ.
(Lichngaytot) Mùa xuân Bính Thân sắp đến, cũng lại báo hiệu nhiều nguy cơ về chuyện đi lại của người dân trong dịp tết đến xuân về. Mặc dù, kinh tế xã hội ngày càng nâng cao nhưng cùng với nó tần suất xuất hành của chúng ta cũng ngày một cao lên. Thường xuyên đi ngoài đường không thể tránh điều bất ngờ, ngâm cứu kỹ những cấm kỵ dưới đây để có một năm mới an bình bạn nhé!
► Tra cứu ngày âm lich hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự
Dương Nguyên Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Khánh Linh (##)
10 lưu ý khi chuyển tới nhà mới dưới đây sẽ giúp bạn có một khởi đầu tốt đẹp, may mắn và thuận phong thủy.
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy phòng ngủ mang lại sự bình yên cho gia chủ
1. Chọn ngày lành, tháng tốt để chuyển nhà, đẹp nhất là ngày Minh Đường Hoàng Đạo và nhất thiết phải hợp với ngày tháng năm sinh âm lịch của chủ nhân (thường là người chồng) là lưu ý đầu tiên khi chuyển tới nhà mới. 2. Ngày chuyển nhà chỉ nên có mặt người trong gia đình, bạn bè, khách khứa có thể đến lúc tân gia. Bởi đây là thời khắc chuyển giao chủ nhân, xác định vị thế làm chủ ngôi nhà, có người lạ không tốt. 3. Vào ngày chuyển nhà, chỉ nói những điều tốt đẹp, an lành và tuyệt đối tránh nói đến bất kỳ điều gì không hay, tiêu cực. Người trong nhà nên khuyến khích nhau cười nhiều, tạo không khí sôi động, không nên trầm lắng quá. 4. Không cãi vã, tranh luận, gây gổ, mắng mỏ trẻ nhỏ, thể hiện sự bực tức hay khóc lóc vào ngày chuyển nhà. Bởi toàn bộ những hành động này tượng trưng cho sự bất hạnh và mối bất hòa trong gia đình. 5. Bật sáng tất cả các bóng đèn, và mở tất cả các cửa sổ để hút sinh khí vào nhà. 6. Không ngủ trưa trong ngôi nhà mới của bạn vào ngày chuyển nhà vì nó tượng trưng cho sự lười biếng và bệnh tật. 7. Đặt 1 túi vải nhỏ màu đỏ dưới đáy thùng gạo hoặc đồ trữ gạo. Đổ gạo vào túi đến khi đầy tràn miệng, niêm phong miệng túi lại và dán một tờ giấy đỏ có ghi chữ “đầy đủ”. Quan niệm phong thủy cho rằng, điều đó sẽ mang tới cho ngôi nhà của bạn tài lộc dồi dào. 8. Vứt bỏ chổi cũ, mua chổi và cây lau nhà mới. Người ta tin rằng cây chổi cũ mang điều xui rủi cũ đến cho ngôi nhà mới, hãy quét sạch những rắc rối khỏi ngôi nhà bằng cây chổi mới tinh. 9. Không bước vào nhà mới với hai bàn tay trắng là lưu ý rất quan trọng khi chuyển tới nhà mới. Tất cả các thành viên trong gia đình đều phải mang theo một thứ gì đó tốt đẹp. Đó có thể là trái cây như cam – biểu tượng của sự thịnh vượng, táo – biểu thượng của sự an toàn, lê – biểu tượng của sự may mắn, lựu – biểu tượng của những cơ hội hay đào – biểu tượng của sức khỏe dồi dào. Cũng có thể mang theo đồ có giá trị như vàng, trang sức, sổ tiết kiệm hoặc bất cứ thứ gì tượng trưng cho sự may mắn. 10. Phải “nổi lửa” và nấu một thứ gì đó mang tính tượng trưng, chẳng hạn như đun nước pha trà để ngôi nhà có sinh khí và mang đến thịnh vượng là lưu ý cần thiết khi chuyển tới nhà mới.
ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Đây là quẻ Quan Âm thứ 87 được xây dựng trên điển cố: Giảo Kim thám Địa Huyệt hay Giảo Kim xem huyệt đất.
Thử quái đào sa kiến kim nhân xừ hiểm cảnh chi tượng. Phàm sự hữu quý nhân chi triệu dã.
Quẻ trung bình thuộc cung Thân. Tượng này là muốn xẻ đá tìm ngọc, đào cát đãi vàng thì phải bỏ công sức lớn, tuy nhiên đây là việc hao tâm tổn sức trong lúc này.
Điển cố quẻ Quan Âm: Giảo Kim Thám Địa Huyệt
Giảo Kim tức Trình Giảo Kim (589 – 665), là người Đông A, Tế Châu. Trình Giảo Kim gia nhập quân Ngõa Cương, đầu quân cho Vương Thế Sung, sau lại đầu hàng nhà Đường. Năm Trinh Quán thứ 17 (tức năm 643), Đường Thái Tông phong cho ông làm Lư Quốc Công, là một trong số hai mươi bốn vị công thần của Lăng Yên các.
Câu chuyện “Giảo Kim xem huyệt địa” bắt nguồn từ tác phẩm “Tùy Đường diễn nghĩa“.
Các hảo hán của trại Ngõa Cương mờ yến tiệc trong phủ nguyên soái, trong lúc đang ăn uống, bỗng nhiên nghe một tiếng vang động, chỉ thấy trong phòng luyện võ nứt ra một địa huyệt lớn. Địa huyệt đen ngòm, không biết là sâu bao nhiêu. Quân sư Từ Mậu Công nói: “Hãy lấy ba mươi bảy tấm giấy, ba mươi sáu tấm viết “bất khứ” (không đi), một tấm viết chữ “khứ” (đi), người nào bốc được tấm giấy có chữ “khứ” thì đi xuống!” Mọi người đều cho là có lý. Không may, Trình giảo Kim lại rút được tấm giấy có chữ “khứ”. Trình Giảo Kim giở trò: “Tôi không biết chữ, các anh lừa tôi nên mới bảo là tôi bắt được chữ “khứ”.
Mậu Công nói: “Bất khứ” là hai chữ, còn “khứ” là một chữ, lẽ nào ngươi không biết?”
Trình Giảo Kim nhìn những người khác đều là hai chữ, chỉ có mình lại là một chữ, liền kéo Vưu Tuấn Đạt nói: “Này anh trai, đều là do anh hại tôi. Lúc đó tôi làm nghề bán củi, anh lại lôi tôi làm đông đảng để cướp Vương Cương, phản Sơn Đông. Nay phải xuống địa ngục lạnh giá, chắc rằng khó mà sống sót, tôi và anh có quan hệ thân thiết, còn mẹ già mong anh sớm chiều chăm sóc!”
Vưu Tuấn Đạt nói: “Người anh em, cậu nói gì thế? Cậu cứ xuống đi, đảm bảo không có vấn đề gì đâu!”
Trình Giảo Kim không biết làm sao, đành mang theo cây búa lớn, ngồi vào trong chiếc sọt, để mọi người thả xuống dưới huyệt, chẳng bao lâu thì tới đáy. Trình Giảo Kim trèo ra khỏi sọt, cầm bủa trên tay, nhưng tối om không nhìn thấy tia sáng nào, cứ sờ tay mà đi, đi qua hai khúc quanh, bỗng thấy phía trước có luồng ánh sáng, Trình Giảo Kim cho rằng đó là yêu quái gì đó, liền chạy lên phía trước, bố xuống một búa, chỉ nghe một tiếng rầm, thì ra đó là hai cánh cửa bằng đá.
Trình Giảo Kim đi vào trong cửa đá, chỉ thấy phía trên cũng có bầu trời, bên dưới là một dòng sông lớn, ở giữa có một cây cầu đá. Đi qua cây cầu, lại là ba gian đại điện, nhưng không có người nào. Trình Giảo Kim tiến vào giữa đại sảnh, chỉ thấy trên bàn có bày một chiếc mũ bằng vàng có hai cánh hướng lên, một bộ long bào màu vàng, một dây đai bằng ngọc bích, một đôi giày “vô ưu”. Trình Giảo Kim nhìn thấy, rất lấy làm lạ, liền bỏ chiếc khăn vải tía trên đầu đi, đội chiếc mũ bằng vàng có hai cánh lên đầu, mặc bộ long bào màu vàng vào người, thắt dây đai bằng ngọc bích, tháo giầy da, đi đôi giày vô ưu. Lại thấy ờ bên bàn có một chiếc hộp quý, mở ra xem thì thấy có một viên ngọc khuê màu đen, một tờ giấy có chữ viết, nhưng Giảo Kim lại không biết đọc. Liền cất chiếc hộp vào trong bụng, đi ra đại sảnh.
Trình Giảo Kim vừa ra khỏi cửa đá, cánh cửa đá lại kêu rầm một cái, đóng lại như cũ. Giảo Kim sợ quá, vội vàng ngồi vào trong chiếc sọt, lắc mạnh sợi dây. Những người phía trên vội vàng kéo Giảo Kim lên, ra khỏi địa huyệt.
Trình Giảo Kim vừa mới ra khỏi chiếc sọt, lại nghe ầm một tiếng lớn, địa huyệt liền đóng chặt lại. Trình Giảo Kim nói: “Đúng là tạo hóa kỳ diệu, chậm một chút là bị chôn sống rồi!” Mọi người thấy Giảo Kim ăn mặc như vậy, đều cảm thấy kỳ lạ. Trình Giảo Kim kể lại tỉ mỉ sự việc, lấy chiếc hộp quý ra cho Từ Mậu Công xem. Mậu Công cầm tờ giấy đoc, chỉ thấy trên đó viết rằng:
“Trình Giảo Kim trọng nghĩa dấy binh, làm Hỗn Thế Ma Vương ba năm, nhiễu loạn thiên hạ”.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Hương Giang (##)
Bộ tam hợp Tỵ - Dậu - Sửu bao gồm người sinh vào các năm Tỵ, năm Dậu và năm Sửu.
- Năm Dậu là các năm: 1945, 1957, 1969, 1981, 1993, 2005, 2017... - Năm Tỵ là các năm: 1941, 1953, 1965, 1977, 1989, 2001, 2013... - Năm Sửu là các năm: 1949, 1961,1973, 1985, 1997, 2009, 2021...
Sự tương hợp với người tuổi Tỵ
Người tuổi Dậu và tuổi Tỵ thường có chung suy nghĩ và thị hiếu. Họ quý mến và tôn trọng lẫn nhau. Trong mối quan hệ này, Tỵ là người biết hoạch định những chiến lược lớn còn Dậu lại là người kiên trì, quả quyết và có kĩ năng hành động để mang lại kết quả. Dậu chịu khó lắng nghe và ngưỡng mộ những kế hoạch khéo léo, tài tình của Tỵ. Với tính cần cù, Dậu sẽ biến tất cả các kế hoạch to tát đó thành hiện thực. Cả 2 đều có trí tuệ và hiểu biết sâu rộng.
(Ảnh minh họa)
Trong kinh doanh, họ sẽ tạo ra thế mạnh khi kết hợp với nhau. Trong tình yêu, tình cảm của họ sẽ ngày càng nồng nàn, đằm thắm bởi họ biết dành cho nhau sự yêu thương, chân thành.
Tỵ thuộc hành Hỏa, Dậu thuộc hành Kim. Hỏa kiểm soát Kim. Trong trường hợp này, Tỵ tỏ ra lấn át và nắm quyền kiểm soát. Nhưng do bản chất của mối quan hệ nghiêng về sự hòa hợp nên cả 2 vẫn có thể hợp tác với nhau thật hiệu quả.
Tình yêu nồng nàn với người tuổi Sửu: Dậu và Sửu đều thực tế, kiên cường, sẵn sàng hy sinh cho việc lớn. Khi đã yêu nhau, cả 2 đều biết trân trọng, giữ gìn tình yêu và quyết tâm đi đến 1 cuộc hôn nhân hạnh phúc. Thành quả của họ sẽ được đón nhận đúng như mong đợi. Trong công việc, việc làm của Dậu thường có hiệu quả rõ ràng và có tầm ảnh hưởng hơn so với Sửu. Nếu như Sửu có xu hướng thống trị, thì Dậu có tính nhẫn nại, chịu đựng. Điều quan trọng là ẩn sâu trong mối quan hệ này luôn là 1 tình yêu chân thật và đam mê. Đây là mối quan hệ có sự ràng buộc thành công và lâu dài. Sửu thuộc hành Thổ, Dậu thuộc hành Kim. Thổ sinh Kim. Ở đây Sửu sẵn sàng trong vai trò làm người hỗ trợ, còn Dậu vui vẻ đón nhận sự hỗ trợ đó.
Trong ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ thì còn được phân ra các nhánh như trong thổ thì có ốc thượng thổ, thành đầu thổ, bích tượng thổ,.... Trong hỏa thì có sơn đầu hỏa, phú đặng hỏa,... Cùng tìm hiểu xem năm sinh của bạn thì mang ngũ hành gì? ý nghĩa như thế nào?
Vì Thiên can Địa chi nguyên lấy ý nghĩa từ cây cối, cho nên ý nghĩa nguyên thủy của nó còn có cách nói rất thú vị. Trong văn hóa Ngũ hành cổ đại đã từng dùng vòng Giáp Tý để biểu thị quy luật sinh trưởng của muôn loài.
Phương pháp xác định loại Ngũ hành dựa vào năm sinh là nội dung trọng yếu của thuật bói toán cổ đại. Nhưng khi sử dụng nó, cũng không phải cô độc một mình nó mà phải xem xét tới quy luật của 12 Chu kì của Ngũ hành và tổng thể Ngũ hành can chi của năm. Theo can chi năm sinh khác nhau thì có diễn giải khác nhau:
Với ngũ hành thuộc Kim
Hải Trung Kim: Vàng che đây khí ấp ủ ở trong nước, ở kho báu long quan, bảo vật trong bụng của con giao long. Giáp Tý thuộc Hải trung Kim: Kim sinh Thủy, Thủy sinh mộc, khi gặp việc có thể rất thô lỗ; Ất Sửu cũng là mệnh Hải trung Kim nhưng đây lại là vàng ở trong kho, có tính nết rất đặc thù.
Kim Bạc Kim: là vàng mềm yếu, chén bát sáng sủa, tăng sang trọng trong cung vua. Nhâm Dần là Kim bạc Kim: Thủy sinh Mộc, Kim khắc Mộc, Quý Mão Kim bạc kim: tương tự như Nhâm Dần.
Bạch lạp Kim: vàng nằm trong mỏ, vàng vừa mới thu chính khí, ngọc miếng ở Côn Sơn, vàng ở Lạc Phố lưu lại. Canh Thìn thuộc Bạch lạp Kim: vàng tụ lại từ khí, thân thể có vượng tướng, chú ý làm việc có chừng mực; Tân Tị Bạch Lap Kim: Vàng tự sinh, Kim trường sinh tại Tị, có sức sáng tạo.
Sa Trung Kim:Vàng ở trong cát nhưng khác xa với cát, mới hình thành trên đất, chất quý hiếm ẩn trong cát. Giáp Ngọ thuộc sat rung kim là vàng cứng rắn, sự nghiệp có tiền đồ. Kỷ Mùi sa trung kim: thuận lợi trong thăng quan tiến chức.
Kiếm phong Kim: Vàng ở mũi kiếm đã tuốt khỏi vỏ, bạch để ty quyền, vừa ra lò qua tôi luyện. Nhâm Thân thuộc Kiếm phong Kim: là vàng trước của quan cực vượng, có tiền dồ phát triển, chú ý khi còn nhỏ thương tật ốm đau. Quý Dâu Kiếm phong kim: Có cơ hội làm nghề thương mại.
Thoa xuyến Kim: Vàng để luyện trang sức, làm cho bộ mặt thêm đẹp, tăng hào quang. Canh tuất thuộc Thoa xuyến Kim: vàng tự trưởng thành, hành sự cần chú ý lòng tin. Tân Hợi thuộc thoai xuyến Kim: trung niên cần đề phòng bệnh tật.
Ngũ hành thuộc Mộc.
Tang thác Mộc: Hình dáng của công còn cong chưa vươn ra, âm thinh, gốc rễ đẹp đẽ. Nhâm Tý thuộc Tang thác mộc: Cha mẹ đối với mình thật là quan trọng. Quý Sửu thuộc tang thác mộc: Dễ công tác trong nhành thương nghiệp.
Tùng Bá Lộc: Cây thu ánh mặt trời mà lớn, gom tuyết nhặt sương, giúp trời che đất. Canh Dần thuộc Tùng bá Lộc: là cây trong gió rét, có phát triển những phải gánh vác nhiều việc nặng nề. Tân Mão thuộc Tùng bá Lộc: tương tự như Canh Dần.
Đại Lâm Mộc: Cành lá rậm rạp, tất nhiên sẽ thành rừng, cành cây với tới trăng, chắn mây che mặt trời. Những mệnh thuộc Đại Lâm Mộc: Mậu Thìn ( có tài thương nghiệp), Kỷ Tị (Vì là cây củi nên luôn đề phòng tai biến bởi bệnh tật).
Dương Liễu Mộc: Cây thịnh về mùa hạ tính hơi mềm yếu, lòng thong uyển chuyển, tơ bò nhằng nhịt. Nhâm ngọ thuộc Dương liễu mộc: Con cái rất tốt, bản thân tính tình thẳng thắn. Quý Mùi: Có năng lực kinh doanh thương mại.
Thạch Lựu Mộc: Cây mọc ở đất vàng vị, có tính cay, cay như gừng, hoa đỏ như lửa vì là Kim nên mài làm thành khí cụ.Canh Thân thuộc Thạch lựu mộc: Mộc tuyệt ư thân, lúc còn nhỏ phải giữ gìn đề phòng tai nạn. Tân Dậu: Dễ bị dày vò, nên tìm việc thiện mà làm được thì vui vẻ.
Bình Địa Mộc: Cây ẩn trong đất, bắt đầu ra cành lá, cần có sương mưa. Mậu tuất thuộc Bình Địa Mộc: cây lúc mới mọc không cần có sức mạnh, phải đối mới. Kỷ Hợi: Có người giúp đỡ, hào nhà với người nên thành thân.
Ngũ hành thuộc Thủy
Giản hạ Thủy: Đất ẩm ướt, nước chảy trong đất, quanh núi có sóng nước nhỏ, tuyết sương mờ ảo. Bính tý thuộc Giản hạ Thủy: bạn bè tương đối nhiều. Đinh Sửu: Nước được tích tụ lại cho phúc, cần cận trọng trong khi hành sự.
Đại khuê thủy: Nước có thế mạnh cuồn cuộn chảy về đông, sóng to đập vào bờ kinh khủng, sóng nổi dữ dội. Giáp Dần, Ất Mão thuộc Đại khuê thủy.
Trường Lưu Thủy: Thế nước từ hướng đông nam đổ về kho đầy ăm ắp, cuồn cuộn vô biên, dạt dào bất tận, dạt dào bất tận. Nhâm Thìn thuộc trường lưu thủy: là nước không bao giờ cạn, Thìn là cái kho, dễ lên nhanh xuống nhanh. Quý Tị: Thích hợp nhiều nơi, yêu mến sự nghiệp.
Thiên Hà Thủy: Khí đang thăng giáng, mưa nước nóng, loại nước chỉ có độc nhất ở trên trời, tung tóe mọi nơi, tràn đầy khắp chốn. Bính Ngọ thuộc thiên hà thủy: nữ đa tình. Đinh Mùi: Chịu khó làm việc nên thường có thành quả lao động xứng đáng.
Tuyền trung Thủy: Nước yên tĩnh chảy ra không hết, hút cũng không tận, nguồn lạnh sạch sẽ, lấy để nuôi sự sống mãi mãi không cạn. Giáp Thân thuộc Tuyền trung thủy: Có thành tựu. Kỷ Dậu: Công việc có thể thay đổi.
Đại hải Thủy: nước biển lớn, nước nạp vào không đầy, lấy đi không cạn, chứa đựng nước của mọi sông đổ dồn về, mênh mông vô bờ. Nhâm Tuất, Quý Hợi thuộc Đại hải Thủy.
Ngũ hành thuộc Hỏa:
Tích lịch Hỏa: Hình ở Thủy vị, lửa rồng thần, một tia hào quang, chớp đả kim xà. Mậu Tý thuộc Tịch lịch hỏa: lửa ở trong nước, nhờ nước mà thành lửa, sự nghiệp thành đạt. Kỷ Sửu thuộc Tích nịch Hỏa: chú ý phòng tai nạn.
Lưu trung Hỏa: Lửa trong lò, lửa gặp củi thì bốc, thiên hạ làm lò, rực sáng vũ trụ, tôi luyện càn khôn. Các năm thuộc lưu trung hỏa: làm văn thư tương đối khá, nghiên cứu cũng có kết quả. Đinh Mão: nội tâm phức tạp, tổng thể như ý.
Phúc Đăng Hỏa: lửa chiếu sáng tránh sự tối tăm, ngọc đài sán lạn, không có mắt trời mà bẫn sáng sủa. Các năm thuộc phúc đăng hỏa: Giáp Thìn có thành đạt được người khác tôn trọng, Ất Tị : thời trung niên phát đạt.
Thiên thượng Hỏa: Lửa ở trên trời, lửa thông minh ở trên trời, làm ấm áp sông biển, rực rỡ vũ trụ. Mậu Ngọ và Kỷ Mùi thuộc thiên thượng hỏa.
Sơn hạ Hỏa: lửa ở trên núi, lửa nhỏ chiếu sáng gần, cây cỏ gặp được thì tốt tươi, hoa quả rực rỡ.Bính Thân thuộc sơn hạ hỏa: thời niên thiếu có hung, cuộc sống có thể theo ngành thương mại, Đinh Dậu: Có thể thay đổi ngành nghề.
Sơn Đầu hỏa: lửa trong sáng ngoài tối, cháy xém, thiêu mãi hoa mắt. Giáp Tuất Sơn Đầu hỏa: Thời trung niên phát đạt. Kỷ Hợi Làm nhiều việc thiện.
Ngũ hành thuộc thổ:
Bích tượng Thổ: Đất dấu hình che thể, ở trong phòng không ưa đối ngoại, dựa dẫm vào rường cột, vui nhà cửa riêng. Canh Tý thuộc Bích tượng Thổ: Sự nghiệp phát triển, Tân Sửu: Tích đất cho phúc, làm thiện cho người.
Thành đầu Thổ: Đất có thể thành vật, vì dân lập quốc, xây dựng đê điều, lũy ngọc nhà trời, thành vàng nhà vua. Mậu Dần: có tai ương phải giải trừ. Kỷ Mão: Theo nghề hành chính hoặc kinh doanh thương mại cũng tốt.
Sa trung Thổ: Đất pha cát đến cùng dương khí, sóng nhỏ tích lũy dần lại, sóng lớn dồn bồi lên mà thành. Bính Thìn: bạn bè nhiều, trung niên phát đạt. Đinh Tị: Tổ tiên có đức để lại.
Lộ bàng Thổ: Đất có hình có chất, trồng cấy mọi thứ cây, đất rộng liên tiếp nhau, đồng bằng rộng lớn. Canh Ngọ: Đa mưu túc trí, Tân Mùi: Có nhiều thành đạt.
Đại Dịch Thổ: Đất thông đi mọi hướng, vật lớn đã thành, đường cái thênh thang, bao la bằng phẳng. Mậu Thân: Thời thanh niên khấm khá, Kỷ Dậu: Sự nghiệp phát đạt.
Ốc thượng Thổ: Đất được thế thành công, sự nghiệp mỹ mãn. Bính Tuất: Đất vì phúc hậu, người vì chính trực, Đinh Hợi: Hưng vượng phát đạt.
5 lỗi phong thủy dưới đây vô cùng điển hình trong cách bố trí nội thất phòng ngủ mà bạn ít khi nghĩ đến. Nếu bạn đang mắc một trong những lỗi phong thủy dưới đây, hãy ngay lập tức thay đổi để hợp phong thủy, giúp giấc ngủ được đảm bảo hơn và tránh tai họa.
Giường ngủ đối diện cửa phòngTheo quan niệm phong thủy, giường ngủ đối diện cửa phòng sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của các thành viên sử dụng căn phòng đó. Tùy thuộc vào vị trí cửa đối diện với phần cơ thể nào mà bạn sẽ bị đau ở đó. Ví dụ cửa đối diện đầu giường sẽ gây ra chứng đau đầu, đối diện với phần chân sẽ gây ra các bệnh liên quan đến chân...
Theo giải thích của các chuyên gia phong thủy thì việc đặt đối diện giường ngủ với cửa ra vào như vậy sẽ khiến những luồng khí xấu xâm nhập trực tiếp vào cơ thể bạn, gây ra các vấn đề về sức khỏe.
Cửa phòng tắm/nhà vệ sinh đối diện giường ngủNếu nhà bạn có phòng ngủ đối diện cửa phòng tắm và nhà vệ sinh thì còn có phong thủy xấu hơn cả đối diện cửa ra vào. Bởi phòng tắm hay nhà vệ sinh là nơi có nhiều uế khí, khi đặt giường ngủ đối diện như vậy dễ sinh bệnh tật nghiêm trọng, làm giảm sự minh mẫn của chủ nhân căn phòng.
Do đó, nếu bạn cảm thấy sức khỏe suy yếu trong thời gian dài mặc dù vẫn ăn ngủ điều độ, cần lập tức thay đổi vị trí giường ngủ càng sớm càng tốt.
Đặt gương đối diện giường ngủTheo một số nhận định của các chuyên gia phong thủy, giường ngủ có treo gương ở phía đối diện sẽ khiến bạn rơi vào trạng thái mê man, giấc ngủ chập chờn và dễ khiến người thứ 3 có thể chen chân vào mối quan hệ của bạn với bạn đời. Cách tốt nhất là không nên có gương trong phòng ngủ.
Giường ngủ đối diện với góc nhọnCăn phòng của bạn không được vuông góc và chẳng may giường ngủ lại đặt đối diện với góc nhọn ấy. Điều này là không hề tốt trong phong thủy. Nó sẽ khiến bạn thường xuyên gặp ác mộng, giật mình và hồi hộp tỉnh dậy giữa đêm. Để khắc phục, tốt nhất bạn nên dùng mành che hoặc vật trang trí để che đi góc nhọn ấy hoặc đặt giường ở vị trí khác.
Giường ngủ cách bồn cầu, bếp nấu hoặc bàn thờ một bức tườngBồn cầu, bếp nấu, bàn thờ là những nơi đại kị không nên đặt giường ngủ ở gần, kể cả là đã ngăn cách bằng một bức tường. Giường đặt cạnh bồn cầu sẽ khiến bạn dễ sinh bệnh tật, đặt gần bếp nấu sẽ khiến bạn thường xuyên lo lắng, chức năng gan bị ảnh hưởng do yếu tố lửa phát ra từ bếp. Còn nếu đặt cạnh bàn thờ, việc sinh hoạt vợ chồng sẽ gặp rắc rối.
Theo Emdep Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Khu di tích Động – Chùa Địch Lộng nằm ở xã Gia Thanh, Gia Viễn, Ninh Bình, Việt Nam. Địch Lộng có nghĩa là tiếng sáo thổi là một danh lam thắng cảnh bậc nhất của tỉnh Ninh Bình. Động – chùa Địch Lộng đẹp tới mức được giới vua chúa quyền quý xưa xếp vào nhóm “Nam thiên đệ nhất động”.
Nếu như vua Tự Đức ban tặng Hương Tích là Nam thiên đệ nhất động, chúa Trịnh Sâm ban tặng Bích Động là “Nam thiên đệ nhị động” thì Địch Lộng cũng được vua Minh Mạng ban tặng là “Nam thiên đệ tam động”, có nghĩa động đẹp thứ ba ở trời Nam.
Điểm độc đáo nhất là quần thể chùa – động Địch Lộng tọa lạc dưới một chân núi cao, phía trước là con sông Đáy chảy hiền hòa. Trong chùa là những ngôi chùa, đình với nhiều lối kiến trúc độc đáo, được lưu giữ từ hàng trăm năm nay. Ở đây có đền thờ Lý Quốc Sư, hồ Bán Nguyệt, 5 tháp cao 3 tầng và 3 gian hạ.
Đặc biệt, tại đây còn lưu giữ 3 pho tượng Tam Thế Phật sơn son thếp vàng được ban vào thời vua Thiệu Trị và tượng Phật Bà Quan Âm, tượng A Di Đà được tạc bằng đá xanh nguyên khối.
Cách ngôi chùa chính 105 bậc đá, là một một hang động đẹp kỳ vĩ. Động chia thành 3 vòng, được người đời gọi là hang thờ phật, hang tối và hang sáng. Bên trong động, toàn bộ lối đi đã được làm bậc lên xuống, tạo thành những vòng cung kỳ vĩ và huyền ảo. Nhiều nhũ đá, được tạo ra từ thiên nhiên trông giống những con vật linh thiêng như rồng, lân, voi quỳ… Từ vùng trũng nhất của động, lên “cổng trời” dài chừng 50m. Đứng trên đây có thể bao quát toàn cảnh quần thể chùa, động Địch Lộng và những cụm khu dân cư xung quanh.
Điều đặc biệt, là những nhũ đá ở đây thay đổi theo ánh sáng. Lúc thì màu vàng, màu đỏ trông rất kỳ ảo, du khách gõ vào những nhũ đá sẽ tạo thành những tiếng vang khắp động. Phía trong hang tối, thắp một nén nhang sẽ có cảm giác thanh thản, nhẹ nhõm như đang dứt khỏi thế giới
Hang Tối nằm ở phía trái, vào hang du khách sẽ thấy ngay khối nhũ đá to, tròn, nhẵn lì mọc từ nền hang nhô lên. Đó là bầu sữa mẹ của tạo hoá, có nhiều nhũ đá từ trên nóc động chẩy xuống trông giống như những cột chống trời. Tại đây, du khách sẽ có cảm giác như lạc vào cõi trùng điệp của đá có đủ mọi hình dạng ngoại mục. Mỗi không gian của vách động, trần động là một bức tranh nghệ thuật, những nét trạm khắc tuyệt vời của thiên nhiên, đạt đến mức tinh xảo mà con người không thể nào làm được.
Đi hết hang Tối là đến hang Sáng, vì ở trên cao cửa hang Sáng thắt hẹp lại, có khoảng lộ thiên, khi có gió thổi mạn vào trong động phát ra âm thanh của đá nghe như tiếng sáo. Vì vậy động mang tên là Địch Lộng.
Trong động nhiều bậc thang đã được dựng lên để phục vụ du khách tham quan, và vãn cảnh động
Hang phía ngoài được nhiều người gọi là hang thờ Phật. Chính tại nơi đây, nhiều bậc tao nhân mặc khách gặp cảnh động quá đẹp nên tức cảnh sinh tình đề tặng rất nhiều thơ văn. Vẻ đẹp của Địch Lộng đã được nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương ghi lại như sau:
“Gió đập cành cây khua lắc cắc Sóng dồn mặt nước vỗ long bong Ở trong hang núi còn hơi hẹp Ra khỏi đầu non đã rộng thùng Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại Nào ai có biết nỗi bưng bồng”.
Dưới chân động là khu vườn Thành Đạo, tương truyền Đức phật Thánh ca là Thái tử con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia. Ngài Đản sinh ngày trăng tròn tháng 4 năm 624, trước tây lịch tại vườn Lâm Tỳ Ni. Khi trưởng thành thái tử bỏ lại cung vàng điện ngọc, quyết xuất gia tìm cầu chân tý cứu khổ cho chúng sinh, trải qua 6 năm tu hành khổ hạnh và 49 ngày nhập định dưới cây Bồ Đề, ngài đã giác ngộ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, chúng đệ tử của ngài rất đông, tiêu biểu là 10 đệ tử đứng đầu tăng đoàn.
Chùa Địch Lộng hàng năm đều tổ chức lễ hội vào thời gian từ ngày 6 đến 10 tháng giêng Âm lịch, kéo dài đến hết tháng 3.
Cụm di tích Động – Chùa Địch Lộng điểm đến tham quan thú vị của du khách và phật tử trong và ngoài nước.
Mơ thấy làm nhân chứng trước tòa: Bạn bè nhờ giúp đỡ –
Một người bạn kể lại giấc mơ làm nhân chứng trước tòa của mình: Từ nhỏ đến lớn tôi chưa một lần bước chân vào tòa án. Thật ngạc nhiên bởi tôi lại mơ thấy mình đường đường chính chính bước vào nơi trang nghiêm đó với vai trò là một nhân chứng. Một ngư
– Bất chấp mọi khoảng cách địa lý, tình yêu xa của những con giáp này vẫn bền chặt, lúc nào cũng như thuở ban đầu.
Quán quân: Người tuổi Dần sinh vào khoảng thời gian từ 15h đến 17h
Đa phần những người cầm tinh con Hổ mà sinh vào giờ Thân (từ 15h đến 17h) thường có tình yêu xa cách về mặt địa lý.
Hổ là Dần, Dần và Thân đều là Dịch Mã, Thân là Dịch Mã của Dần, Dần cũng là Dịch Mã của Thân. Mà Dịch Mã chủ về dịch chuyển, đi xa nên người tuổi Dần sinh giờ này rất dễ phải yêu xa, gặp mặt thì ít, xa cách thì nhiều.
Dẫu vậy, hai bạn một lòng một dạ hướng về nhau, tình cảm lúc nào cũng như thuở ban đầu, hứa hẹn kết thúc viên mãn.
Á quân: Người tuổi Thân sinh vào khoảng thời gian từ 3h đến 5h
Như đã nêu ở trên, Thân và Dần đều là Dịch Mã, luôn chuyển động không ngừng. Người tuổi Thân sinh vào giờ Dần cũng dễ có những trải nghiệm về tình yêu xa cách về không gian địa lý.
“Điểm danh” những nốt ruồi cực duyên trên khuôn mặt – Chủ nhân của tướng nốt ruồi này có nhân duyên tốt, đi tới đâu cũng có người theo đuổi. No3. Người tuổi Tỵ sinh vào khoảng thời gian từ 21h đến 23h
Nếu cầm tinh con Rắn mà lại sinh vào giờ Hợi (21h đến 23h), trong đời bạn ít nhất cũng phải trải qua một lần yêu xa đầy thú vị. Bất chấp khoảng cách về địa lý và thời gian, hai bạn vẫn có được những phút giây nhớ thương đến cồn cào, da diết.
Thậm chí, nếu kết hôn, nhiều khả năng hai bạn vẫn thường xuyên phải xa cách do tính chất công việc của một trong hai người. 1 tháng gặp mặt nhau 1 lần là điều khó tránh.
No4. Người tuổi Hợi sinh vào khoảng thời gian từ 9h đến 11h
Ai cũng biết Tỵ Hợi tương xung, người tuổi Hợi sinh vào giờ Tỵ (9h đến 11h), dù là nam hay nữ đều dễ trải qua mối tình yêu xa thách thức về địa lý.
Khi mới bắt đầu yêu, hai bạn đã phải thường xuyên xa cách. Cuộc sống sau hôn nhân cũng vậy, kẻ ở người đi, xa xôi cách trở, trong lòng luôn canh cánh nỗi nhớ thương da diết.
Ngoài ra, những người tuổi Dậu sinh giờ Mão, tuổi Mão sinh giờ Dậu, tuổi Thìn sinh giờ Tuất, tuổi Tuất sinh giờ Thìn, tuổi Ngọ sinh giờ Tý, tuổi Tý sinh giờ Ngọ đều là những con giáp yêu xa thách thức mọi khoảng cách về địa lý.
► Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người
An Nhiên
Xem theeo video: Học cách yêu thương theo lời Phật dạy
Không chỉ quan tâm, chăm chút cho vẻ ngoài của mình, các nàng tuổi Tỵ còn vô cùng chú ý tới diện mạo bảnh bao của các chàng trai.
Con giáp này có thể dành hàng giờ đồng hồ để tám chuyện về vẻ điển trai, lịch lãm của các ngôi sao nổi tiếng, hay chỉ đơn giản là anh chàng phong độ của lớp bên cạnh. Chỉ cần nhìn thấy trai đẹp từ xa, cô nàng tuổi Tỵ mắt sẽ long lanh hướng ánh nhìn vào chàng mà quên hết mọi thứ xung quanh.
Á quân: Cô nàng tuổi Mão
Không kém phần mê trai đẹp như người tuổi Tỵ, con gái tuổi Mão còn treo hàng loạt ảnh các anh chàng hot boy có ngoại hình cuốn hút trong phòng của mình để ngắm hàng ngày.
Điều đó giải thích lý do tại sao hầu hết những bộ phim yêu thích của cô nàng tuổi mão đều thuộc tuýp phim Hàn Quốc trai xinh, gái đẹp.
No3: Cô nàng tuổi Ngọ
So với hai đối thủ nặng ký về mức độ mê trai đẹp phía trên, cô nàng tuổi Ngọ còn tỏ vẻ thích ra mặt mỗi khi đề cập tới mẽ ngoài của các chàng.
Họ không tỏ vẻ xấu hổ hay ngại ngùng khi bàn tán tới vẻ ngoài, thậm chí cả đời tư của những anh chàng điển trai. Con giáp này coi đó là một trong những vấn đề cần lưu tâm hàng đầu khi chọn nửa kia cho mình.
Lý Dịch là cái lý lẽ nói về sự dịch chuyển, biến đổi của mọi thứ trong Vũ Trụ từ vô hình đến hữu hình. Là môn triết học lâu đời nhất của loài người nói về sự vận hành của mọi thứ trong khắp hoàn cầu.
Lý Dịch là cái lý lẽ nói về sự dịch chuyển, biến đổi của mọi thứ trong Vũ Trụ từ vô hình đến hữu hình. Là môn triết học lâu đời nhất của loài người nói về sự vận hành của mọi thứ trong khắp hoàn cầu. Từ triết lý về sự biến dịch đó mà Tiền Nhân đã khám phá ra cái Lý Đồng Nhi Dị hay Dị Nhi Đồng nghĩa là Lý Giống Mà Khác hay Khác Mà Giống.
Lý Dịch là gì?
Lý Dịch là cái lý lẽ nói về sự dịch chuyển, biến đổi của mọi thứ trong Vũ Trụ từ vô hình đến hữu hình. Là môn triết học lâu đời nhất của loài người nói về sự vận hành của mọi thứ trong khắp hoàn cầu. Từ triết lý về sự biến dịch đó mà Tiền Nhân đã khám phá ra cái Lý Đồng Nhi Dị hay Dị Nhi Đồng nghĩa là Lý Giống Mà Khác hay Khác Mà Giống. Rồi Tiền Nhân đặt cho cái danh chung của Giống và Khác là Âm và Dương hoặc ngược lại, gọi là TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG. Với Triết lý Âm Dương này Tiền Nhân đã suy luận ra định luật 8 gọi là Bát Quái và 64 Tượng Dịch (Quẻ Dịch) đủ sức diễn tả mọi trạng thái biến hoá của Vũ Trụ.
Lý Dịch là một cái lý vô hình nay được Tiền Nhân định danh và hữu hình hóa ra các vạch đứt liền và tìm ra công thức Biến Hoá Luật, lập thành môn khoa học lý luận hẳn hoi về Dịch nên gọi tên là Dịch Lý. Mà Lý Dịch có mặt ở khắp mọi ngành nghề khoa học nên Dịch Lý xứng đáng là môn Khoa Học Tổng Hợp.
KINH DỊCH là gì? Là lời diễn giải ý nghĩa của 64 Quẻ Dịch theo góc nhìn riêng của từng thế hệ đã qua.
Dịch Lý có ảnh hưởng gì trong đời sống và quyết định của con người?
Con người luôn sống động trong cái lý của Dịch. Nói cách khác mọi hoạt động của con người đều bị và được Lý Dịch chi phối, từ lý trí, tư tưởng cho đến hành động, từ chủ quan đến khách quan, từ các giai đoạn sinh trưởng của con người như: Sinh – Lão – Bệnh – Tử…
Mọi quyết định và hành động của con người đều bị và được chi phối của Dịch Lý. Ngay cả đại thi hào Nguyễn Du đã đúc kết ngắn gọn nói lên điều này:
“…Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao…”
“Phong trần và thanh cao” đâu phải ai muốn cũng được hoặc ai tránh cũng được. Vì trong cuộc sống ta luôn giao dịch với các yếu tố khách quan của xã hội bên ngoài mà ta thường hay nói là Hên hoặc Xui khi yếu tố khách quan thuận ý ta hoặc nghịch ý ta.
Ngoài ra còn có câu: “Mưu sự tại nhân mà thành sự tại thiên”. Cũng nói lên sự ảnh hưởng của Lý Dịch ở môi trường bên ngoài trực tiếp can thiệp mọi quyết định tính toán và hành động chủ quan của con người.
Biết Dịch Lý là biết nhiều góc nhìn để uyển chuyển, linh động trong cuộc sống hơn:
Trong cuộc sống của con người luôn trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm biến dịch mà các tình huống ta gặp phải không phải lúc nào ta cũng lựa chọn được. Từ đó Tiền Nhân mới khuyên:
- “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”
- “Nhập giang tuỳ khúc – Nhập gia tuỳ tục”
Mỗi người ai cũng có một tính riêng biệt, tuy nhiên đôi lúc ta phải biết thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh gặp phải để tốt hơn.
Biết Dịch Lý là để Tri thiên mệnh rồi Tận nhân lực:
Tri Thiên Mệnh là biết được giai đoạn Số mệnh và Thời vận như thế nào, để ta tận hết sức của mình mà hành động sao cho tốt nhất. Đây là cái biết của trí tuệ loài người. Cái biết này đã được nhân gian nhắc đến qua Ca Dao Việt Nam:
“Người ta đi cấy lấy công,
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng”.
Bởi nắng mưa là chuyện thời mùa khí tiết của Trời Đất là yếu tố hết sức khách quan, nhưng ảnh hưởng rất lớn đến trồng trọt của nhà nông. Ca dao đã mượn hình ảnh “Đi cấy” không phải chỉ đển “Đi cấy” mà còn phải nhìn xa trông rộng, để biết sự vận hành biến đổi của nắng mưa sấm sét mà biết thời điểm để “gieo hạt – cày cấy” sao cho đúng lúc mưa thuận gió hòa để có mùa thu hoạch tốt nhất.
Biết Dịch Lý để chọn lựa và đưa ra giải pháp tốt nhất trong đời sống.
Với Dịch Lý ta biết được từng giai đoạn đang và sẽ đi qua được diễn tiến như thế nào, từ đó ta có sự lựa chọn và đưa ra giải pháp thích hợp mà quyết định và hành động một cách tốt nhất.
Biết Dịch Lý là ta biết được một ngôn ngữ chung của muôn loài vạn vật, nhằm hòa nhịp cùng giai điệu của Vũ Trụ. Một cuộc sống Biết – Hiểu – Cảm và Nhận, một tinh thần An nhiên – Tự tại – Hạnh phúc.
Cách chọn hoa hé lộ tình yêu của bạn - Bói tình yêu - Xem Tử Vi
Cách chọn hoa hé lộ tình yêu của bạn, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Cách chọn hoa hé lộ tình yêu của bạn, tu vi Cách chọn hoa hé lộ tình yêu của bạn, tu vi Bói tình yêu
Cách chọn hoa hé lộ tình yêu của bạn. Loài hoa yêu thích trong mắt bạn cho bạn biết tình yêu của bạn lãng mạn như cổ tích hay tình yêu cao quý và lý trí?
Câu hỏi: Bạn mong được thường xuyên nhìn thấy loại hoa nào nhất trong các hình dưới đây? Hãy chọn theo trực giác loài hoa bạn thích nhất để biết đáp án nhé.
1. Xem bói tình yêu lãng mạn như cổ tích
Bạn hy vọng tình yêu của mình đẹp như một câu chuyện cổ tích, người ấy phải là một thục nữ dịu dàng hay một quý ông tao nhã. Bạn không muốn tình yêu của mình bị vướng bận bởi những chuyện vụn vặt trong cuộc sống hàng ngày, bạn có nhiều ý tưởng lãng mạn nhưng lại rất khó thực hiện bởi tính tình khá nóng vội.
2. Tình yêu êm đềm bình dị
Dường như bạn từng trải qua một vài chuyện tình giàu cảm xúc nhưng không có hậu, tuy vậy, bạn vẫn chưa mất lòng tin hay sợ hãi tình yêu. Bạn có thể tự tìm hạnh phúc, niềm vui cho mình, thậm chí không sợ một ngày nào đó đối phương phản bội hay rời bỏ bạn. Bởi bạn biết trân trọng từng phút giây hạnh phúc trong cuộc sống, cảm nhận những niềm vui nho nhỏ tình yêu mang đến.
3. Tình yêu say đắm choáng ngợp
Bạn có một người tình trong mộng hoặc một thần tượng trong tim khó với tới, không cần biết ước mơ đó có thực tế hay không, bạn vẫn luôn khao khát một tình yêu nồng nhiệt, cháy bỏng với một đối tượng hoàn mỹ. Trong thâm tâm, dù sợ sự cô đơn nhưng bạn vẫn kiên nhẫn chờ đợi ai đó có thể khiến bạn yêu say đắm.
4. Tình yêu khiến người ta ghen tỵ
Bạn thích một cái kết trọn vẹn, có hậu cho tình yêu của mình, như những bộ phim truyền hình thường chiếu trên TV. Không cần phải quá oanh liệt, cũng không quá bình dị giản đơn, bạn chỉ muốn một tình yêu thật hạnh phúc trong mắt người khác, có cuộc sống tình cảm khiến mọi người ghen tỵ. Bề ngoài, bạn không thích quá nổi bật, nhưng trong thâm tâm, bạn muốn mọi người biết sức hấp dẫn của bạn là lâu bền nhất.
5. Tình yêu luôn mới mẻ hấp dẫn
Bạn có tính cách trong sáng, thuần khiết, tâm tư tinh tế, thích lựa chọn hay quyết định theo cảm tính. Trong tình yêu, bạn cũng khá cố chấp, bướng bỉnh, không có nhiều kiên nhẫn. Bạn hy vọng tình yêu của mình luôn tràn đầy mới mẻ, không bị nhàm chán hay trở nên nhạt nhẽo.
6. Tình yêu cao quý, lý trí
Bạn rất lý trí trong tình yêu, cẩn thận và kín đáo, không để xảy ra tình huống đáng xấu hổ nào trước mặt mọi người. Bạn dùng lý trí để kiểm soát và điều chỉnh mức độ tình cảm của mình, bên cạnh đó cũng hy vọng đối phương có cách nhìn giống bạn. Kỳ thực, bạn cũng có “máu lãng mạn”, trong lòng bạn mong ước có một tình yêu đẹp đẽ, cao quý như của hoàng tử và công chúa.
Thông thường khi xem xét cung Mệnh là gốc phải xem hành của cung an mệnh sinh hành của chính tinh thủ mệnh và hành của chính tinh thủ mệnh sinh hành của bản mệnh thì rất ngon lành có nghĩa là độ số rất tốt. Ngoài ra phải xem vị trí của cung an mệnh ở vị trí sinh, vượng, bại, tuyệt địa để biết tốt hay không. Tương tự khi xem xét về hậu vận thì xem Cục và cung Thân vì tương ứng với thời gian lập thân và hậu vận khi đó hành của cung Thân tương sinh hành của chính tinh cư cung Thân và hành của chính tinh này sinh Cục thì hậu vận tốt lành.
Thường trong Tử vi yếu tố âm dương là quan trọng vì là khởi nguyên của vũ trụ, kế đến xem xét các đặc tính của tinh đẩu và sau đến ngũ hành của cung và sao. Các bậc thánh nhân , tiên hiền đã đưa Tử vi về các cách để dễ luận đoán mệnh vận nhân sinh như: TPVT - SPLT - CNĐL - CN - NHẬT NGUYỆT - VCD nhưng dù ở cách nào thì cũng phải có các bộ trung tinh phò tá sáng sủa mới đắc cách như : Khôi Việt - Xương Khúc - Quang Quý - Tả Hữu - Tam hóa (Khoa Quyền Lộc) - Tam minh (Đào Hồng Hỷ) - Long Phượng.
Có nhiều lá số tốt tuy vậy đương số hay than thở là lận đận, trắc trở trong cuộc sống là do MỆNH TỐT không bằng THÂN TỐT, THÂN TỐT không bằng HẠN TỐT, điều này rất đúng vì khi xem xét một lá số phải xem Mệnh Thân Phúc và các cung cường để nêu bật các đặc tính cơ bản của cuộc đời tuy nhiên phải xét HẠN hành để thấy được dòng chảy của cuộc đời đương số với những thăng trầm, biến cố , vinh quang , hạnh phúc trong kiếp nhân sinh. Khi xét về hạn phải xem có sự hợp cách hay không giữa các cách chính tinh ở cung Mệnh và cung Hạn. Thứ đến phải xem hành của cung hạn và hành của bản mệnh tương sinh hay tương khắc , sau đến xem hành của tam hợp tuổi có đồng hành hay tương sinh với hành của tam hợp đại hạn thì ngon lành.
Thường khi xem xét 1 lá số người ta xét:
Mệnh 1 cung, tam hợp 2 cung, xung chiếu 1 cung, nhị hợp 1 cung, giáp 2 cung và dù thuận hay nghịch gì thì cũng từ cung Mệnh mà khởi Đại hạn 10 năm đi theo cục do vậy mỗi Đại hạn đều khác nhau từ lúc chào đời đến lúc quy tiên. Bí quyết của Tử vi nằm ở nhị hợp, tam hợp đã được đặt thành nguyên tắc, hệ thống hóa để sử dụng.
12 cung, tuổi được gom thành tam hợp: Dần - Ngọ - Tuất hành Hỏa. Hợi - Mão - Mùi hành Mộc. Thân - Tý - Thìn hành Thủy. Tỵ - Dậu - Sửu hành Kim.
Trong 4 thế tam hợp trên thì Tứ mộ hành Thổ (Thìn Tuất Sửu Mùi) làm nòng cốt, nền tảng để Tứ sinh, Tứ chính được bồi đắp đầy đủ sung túc. Trước hết phải nói đến thế tam hợp vì là căn bản của thế đứng chân vạc của mỗi cung, địa chi liên đới với nhau tạo thành một sức mạnh đứng trong ngũ hành. Khi xem xét nhị hợp phải biết cung đó trong thế tam hợp nào đối với chính cung. Tình trạng nhị hợp thì chỉ có sinh nhập và sinh xuất. Ví dụ: Trên địa bàn xem xét cung Thìn (Thân Tý Thìn là tam hợp Thủy) nhị hợp là cung Dậu sinh nhập cho cung Thìn có nghĩa là mọi sự may rủi bộc phát. Nếu xem xét cung Dậu (Tỵ Dậu Sửu là tam hợp Kim) nhị hợp là cung Thìn (Thân Tý Thìn là tam hợp Thủy) thì Dậu phải sinh xuất cho Thìn do đó mọi sự may rủi phải sút kém , không trông cậy gì được ở nhị hợp.
- Xét vị trí xung ở thế khắc như Dần Ngọ Tuất ( Hỏa ) xung Thân Tý Thìn ( Thủy ) và Tỵ Dậu Sửu ( Kim ) xung Hợi Mão Mùi ( Mộc ) có nghĩa là chỉ có khắc xuất và khắc nhập. Chính cung khắc xuất đối xung thì ví như người thắng cuộc. Trường hợp đối xung khắc nhập chính cung thì làm sao chính cung thu được lợi lộc của cung xung chiếu vì thế coi như là kẻ chiến bại. Ngoài ra khi xem xét 1 lá số tổng thể , toàn bộ cách cục phải xem xét đến 3 vòng Thái Tuế, Lộc tồn, Tràng sinh vì 3 vòng này rất quan trọng cho thấy được tư cách của đương số , sự thụ hưởng tài lộc và cách xử thế nhân sinh . Nói túm lại cái quan trọng chính yếu của Tử vi là tam hợp ,là căn bản chính của lý số học. Khi nắm bắt được tam hợp sẽ suy ra nhị hợp và xung chiếu với các sao tọa thủ, cư chiếu ở các cung ở vị trí đắc hãm, với 3 vòng Tuế, Lộc, Sinh xem như có thể đã biết 7/10 đời sống cá nhân của đương số. Tử vi không chỉ là một khoa tìm hiểu số mệnh con người mà còn tiềm tàng gói ghém phần triết học nhân sinh, một đạo lý cư xử minh triết, tinh tế, trung thực cho hợp với đạo Trời đất, thuận lòng người.
Tham khảo Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Trang Tử: 9 phương pháp dùng để nhận biết nhân tài 1. Cố quân tử viễn sử chi nhi quan trung: Muốn biết sự tận trung của một người, phải xem khi bất hòa, gián cách họ có còn trung thành như xưa hay không. 2. Cận sử chi nhi quan kỳ kính: Muốn biết một người có cung kính hay không, hãy quan sát cách họ đối xử với những người thân cận ở bên họ. 3. Phiền sử chi nhi quan kỳ năng: Muốn biết một người có năng lực hay không, phải quan sát khi họ đối mặt với thử thách, xem họ có thể vượt qua hay không. 4. Tốt nhiên vấn yên nhi quan kỳ tri: Muốn biết tri thức của một người như thế nào, hãy đặt câu hỏi trong tình huống bất ngờ, và xem họ trả lời như thế nào. 5. Cấp dữ chi kỳ nhi quan kỳ tín: Để biết một người có giữ chữ tín hay không, thì hãy xem trong những những tình huống gấp gáp về thời gian, họ có giữ đúng thời hạn như đã hẹn ước không. 6. Ủy chi dĩ tài nhi quan kỳ nhân: Muốn biết một người có liêm khiết hay không, thì phải xem họ hành xử như thế nào khi đứng trước lợi ích, tài vật. 7. Cáo chi dĩ nguy nhi quan kỳ tiết: Ở trong thời khắc hoạn nạn nguy nan, mới biết một người có thể không sợ hãi, có thể thủ tiết hay không. 8. Túy chi dĩ tửu nhi quan kỳ trắc: Một người lúc đã thực sự say thì họ sẽ bộc lộ ra rất nhiều thứ mà lúc tỉnh không thể thấy, quan sát họ lúc này sẽ đo lường được họ chính xác nhất. 9. Tạp chi dĩ xử nhi quan kỳ sắc: Nhìn vào sắc mặt của một người khi họ nói chuyện có thể biết được thế giới quan, nhân sinh quan, giá trị quan của họ, thông qua biểu cảm có thể đánh giá được khả năng giao tiếp xã hội của họ. Khổng Tử: 3 bước để nhận thức được một người 1. Quan kỳ sở dĩ: Tức quan sát xem đối phương kết giao với ai. Việc kết giao trong cuộc sống của một người, chính là “thước đo” cảnh giới tư tưởng cao thấp của người đó. 2. Quan kỳ sở do: Tức quan sát xem đối phương truy cầu, mong muốn gì, và làm thế nào để đạt được mục đích ấy. 3. Quan kỳ sở an: Tức quan sát xu hướng tình cảm của đối phương, xem tình cảm và lý trí của họ cái nào mạnh hơn? Gia Cát Lượng: 7 phương pháp nhìn người 1. Dùng đúng sai để hỏi nhằm xem xét chí hướng của đối phương. 2. Dùng nhiều câu hỏi để truy vấn xem khả năng ứng biến của đối phương. 3. Dùng cách bàn bạc mưu kế, để đánh giá kiến thức của đối phương. 4. Đặt ra những tình huống nguy khốn xem dũng khí của đối phương. 5. Dùng rượu để xem tính cách của đối phương. 6. Dùng lợi lộc công danh để xem liêm chính của đối phương. 7. Giao việc và cho đối phương tự hẹn khoảng thời gian sẽ hoàn thành để xem chữ tín của họ. 5 phương thức nhận biết người của Lý Khôi thời Chiến quốc 1. Cư thị kỳ sở thân: Xem một người bình thường họ hay ở cùng ai, kết giao với ai. 2. Phú thị kỳ sở dữ: Xem một người chi tiêu tiền bạc của mình như thế nào. 3. Đạt thị kỳ sở cử: Xem lúc họ thành đạt, họ đề bạt những ai. 4. Quẫn kỳ sở bất vi: Trong hoàn cảnh khốn khó, quan sát phẩm đức của họ như thế nào. 5. Bần thị kỳ sở bất thủ: Trong hoàn cảnh nghèo khó, thất vọng, xem họ có thể cự tuyệt tiền tài bất nghĩa hay không. Đánh giá một người cần chú ý 8 kiểu người sau: 1. Người ích kỷ: Là người không có trí tuệ. 2. Người cảm xúc không tốt: Không có năng lực lãnh đạo. 3. Người không có tâm hồn: Không rung động trước cái đẹp, thờ ơ với bất công,… họ không có tư tưởng chỉ đạo. 4. Người không có tư duy logic: Không có năng lực tổ chức. 5. Người không tự kỷ luật: Không thể quản lý. 6. Người không có năng lực hoạt động: Sẽ bỏ lỡ mất cơ hội. 7. Người không nhạy cảm với tương lai: Sẽ chỉ thành công nhất thời. 8. Người không thể dẫn dắt người bên dưới mình: Sẽ bị chính họ đào thải.
Để cái tên không mang lại rắc rối, bất lợi cho cả cuộc đời của con, bố mẹ nên ghi nhớ 15 điều cần tránh khi đặt tên cho con dưới đây.
Chọn cho con một cái tên đẹp, bố mẹ cũng đừng quên kiểm tra những kiêng kỵ cần nhớ trong việc đặt tên cho con để đảm bảo bé có cái tên an toàn, phù hợp:
1. Không nên đặt tên cho con theo trào lưu. Cái gì là mốt cũng sẽ rất nhanh lỗi mốt.
2. Không nên đặt tên cho con theo tên người nổi tiếng. Người nổi tiếng rất hay đi kèm với scandal. Hãy coi chừng kẻo tên con sẽ trùng với tên một người... tai tiếng.
3. Không nên đặt tên con khó gọi, chỉ cùng một loại thanh âm, tạo cảm giác nặng nề, trúc trắc. Chẳng hạn: Đỗ Vũ Mỹ, Tạ Thị Hiện,...
4. Không nên đặt tên nam nữ, âm dương trái ngược nhau, nữ không nên đặt tên Nam, nam không nên đặt tên Nữ để người khác dễ phân biệt. Ngoài ra, đặt tên khó đoán giới tính còn dễ gây nhầm lẫn khi làm giấy tờ hay tham dự các cuộc thi.
5. Không nên đặt các tên mà nếu nói lái sẽ ra nghĩa xấu. Chẳng hạn như Tiến Tùng là Túng Tiền.
6. Không nên đặt tên mà nếu viết tắt các chữ cái đầu sẽ ra nghĩa xấu.
7. Không nên đặt tên quá cực đoan, tuyệt đối như Vô Địch, Mỹ Nữ,..., dễ gây áp lực cho con nếu đứa trẻ lớn lên không được như cái tên của mình, dễ khiến trẻ bị trêu chọc hoặc gây ấn tượng tiêu cực với người khác.
8. Không nên đặt tên con cái trùng với tên ông bà tổ tiên hay người có vai vế lớn hơn. Đây là một đặc trưng của văn hóa Việt Nam.
9. Không nên đặt tên con theo thời cuộc chính trị, mang màu sắc chính trị.
10. Tránh đặt tên con mang ý nghĩa thô tục, xấu xí, tù túng. Đã qua rồi thời kì ông bà ta thích đặt tên con thật “xấu” cho “dễ nuôi”. Ngày nay, một cái tên đẹp cũng góp phần lớn vào thành công trong ấn tượng giao tiếp, xưng hô và quan hệ hàng ngày.
11. Không nên dùng những từ ngữ ít dùng, quá xa lạ, khó hiểu.
12. Không nên đặt tên con khi viết không dấu sẽ thành nghĩa xấu.
13. Tránh tên Tây hóa. Nếu bé không mang quốc tịch nước ngoài hay có liên quan đến việc sinh sống ở nước ngoài thì cha mẹ nên theo đúng truyền thống Việt Nam, chọn cho con một cái tên thuần Việt.
14. Tránh những cái tên vô nghĩa.
15. Tránh những cái tên có có từ đồng âm hoặc ngữ âm nghe không hay, đa âm, đa nghĩa.