Mơ thấy chai lọ: Sự thỏa mãn hoặc trống rỗng của người nằm mơ –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Ngạn ngữ người Việt có câu: “Tam nam bất phú - Tứ nữ bất bần”
Hiểu đơn giản: Gia đình nào sinh được (chỉ) 3 người con trai thì gia đình đó không thể giàu. Còn gia đình nào sinh được (chỉ) 4 người con gái thì gia đình đó không thể nghèo.
Lý do:
Con trai thường hay lêu lổng, không chí thú làm ăn, cha mẹ lại phải chi phí những việc lớn cho các “quý tử” như: Học hành, cưới vợ, làm nhà... nên tốn hết tiền bạc của cha mẹ đã kiến tạo, vì thế mới nghèo.
Con gái thường chịu thương chịu khó, cha mẹ không phải chi phí các việc lớn như gia đình có con trai nên tiền của tích góp được mà trở nên giàu. (Ngày xưa con gái không được đi học, khi lấy chồng thì cơ bản gia đình chồng lo cho đám cưới (thông qua thách cưới của họ nhà gái)
Đấy là hiểu đơn giản là sinh nhiều (3) con trai sẽ nghèo nhưng theo thiển nghĩ của tôi thì cổ nhân chỉ mượn câu “tam nam bất phú” để ám chỉ điều “huyền bí và tối kỵ” của con số 3 huyền cơ trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt, nếu không đã không có câu “Tứ tử trình làng” để nói về sự vinh hoa phú quý của một gia đình khi sinh được bốn người con trai (?). Ngay trong câu “Tam nam bất phú / Tứ nữ bất bần” đã là một đôi câu đối hoàn chỉnh về sự huyền bí (sinh, tử, sang, hèn...) của các con số 3 và 4 trong tín điều của người Việt. Rất tiếc, tôi mò mẫm mà đoán vậy, chứ trình độ và sự hiểu biết của tôi chỉ a bờ tờ nên không thể hiểu để lý giải được ẩn ý của người xưa khi nhắc tới con số 3 trong “tam nam bất phú”, vì thế mới giãi bày lên đây để mong nhận được sự chỉ giáo quý báu của quý vị.
Trở lại với câu ngạn ngữ: Tam nam bất phú / Tứ nữ bât bần xem thực tế (chỉ có 3 trai hoặc 4 gái) có phải vậy không?
Thật sự rất khó đưa ra câu trả lời vì nếp sống bao đời của người Việt về đường con cái là phải “có nếp có tẻ”, phải có “thằng cu nối dõi” nên sẽ rất hiếm trường hợp nhà “chỉ có 3 thằng con trai” hoặc “chỉ có 4 đứa con gái”. Vì thế , “đối tượng” tra cứu cần được mở rộng: Nhà có 3 anh em trai + 1, 2 chị (em) gái và nhà có 4 chị em gái + 1, 2 anh (em) trai.
Vậy trong trường hợp: 3 TRAI + 1, 2 GÁI thì lời đúc kết của cổ nhân có đúng thế không?
Xin thưa: Không phải vậy! Thực tế, nhiều gia đình sinh 3 con trai mà kinh tế (bố mẹ) vẫn thuộc diện khá giả, có gia đình còn thuộc diện giàu “nứt đố đổ vách”, “tư sản hiện đại”. Sự giàu có đó còn kéo dài đến tận đời con, đời cháu sau này...
Vậy nên hiểu câu: “Tam nam bất phú” như thế nào? Theo thiển ý của người viết, chữ phú ở đây không nên hiểu theo nghĩa chỉ sự giàu có mà hiểu theo nghĩa chỉ sự phú quý thì mới thấy được “ẩn ý” mà cổ nhân đúc kết.
Qua kiểm chứng những gia đình có 3 anh em trai (chỉ 3 anh em trai rất hiếm gặp, mà cơ bản có thêm chị em gái) tôi thấy thường sảy ra (ít nhất là 2/3) các tình huống:
Có lẽ, đây mới là điều mà cổ nhân đúc kết: Nhà có 3 anh em trai thì khó có được sự phú quý, phúc thọ.
Tôi đã vào google để tra cứu những “liên quan” về câu ngạn ngữ TAM NAM BẤT PHÚ nhưng rất tiếc, kể cả làm thế nào để cải “tam nam bất phú” cũng không tìm được nên đành mạo muội đưa ra đề xuất như sau:
Vài dòng tản mạn về câu thành ngữ: TAM NAM BẤT PHÚ, hy vọng sẽ nhận được chỉ giáo của mọi người để câu thành ngữ TAM NAM BẤT PHÚ không còn là nỗi ám ảnh, hãi sợ của nhân gian..
***
Hà Nội, ngày 07 tháng 12 năm 2012
Đặng Xuân Xuyến
Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 7 năm 2015
Ảnh minh họa |
Ca dao Việt Nam ca ngợi tình cảm gia đình. Tình cảm gia đình là một trong những chủ đề tiêu biểu của ca dao, dân ca. Những câu thuộc chủ đề tình cảm gia đình thường là lời ru của mẹ, lời của cha mẹ, ông bà nói với con cháu, lời của con cháu nói về cha mẹ, ông bà để bày tỏ tâm tình, nhắc nhở về công ơn sinh thành, về tình mẫu tử và tình anh em ruột thịt.
Ai về tôi gửi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
——-
Ai về tôi gửi đôi giày,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.
———
Anh em cốt nhục đồng bào
Kẻ sau người trước phải hầu cho vui.
Lo là ăn thịt ăn xôi
Quý hồ ở nết tới lui bằng lòng.
——–
Anh em ăn ở thuận hòa
Chớ điều chếch lệch người ta chê cười.
———
Anh em hiền thậm là hiền
Đừng một đồng tiền mà đấm đá nhau.
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận , hai thân vui vầy
Anh em trai ở với nhau mãn đại
Chị em gái ở với nhau một thời
Dù ai nói ngược nói xuôi
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Ân cha lành cao như núi Thái,
Đức mẹ hiền sâu tựa biển khơi,
Dù cho dâng trọn một đời,
Cũng không trả hết ân người sinh ta.
Anh đi vắng cửa vắng nhà
Giường loan gối quế mẹ già ai nuôi?
Cá rô anh chặt bỏ đuôi
Tôm càng bóc vỏ, anh nuôi mẹ già.
Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc,dở hay đỡ đần.
Ân cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.
Áo vá vai, vợ ai không biết
Áo vá quàng, chỉ quyết vợ anh.
Ba đồng một khía cá buôi
Cũng mua cho được để nuôi mẹ già.
Bao giờ cá lý hóa long
Đền ơn cha mẹ bỏ công sinh thành.
Bồng bồng con nín con ơi
Dưới sông cá lội, trên trời chim bay.
Ước gì mẹ có mười tay
Tay kia bắt cá, tay này bắn chim.
Một tay tuốt chỉ luồn kim
Một tay làm ruộng, một tìm hái rau.
Một tay ôm ấp con đau
Một tay vay gạo, một cầu cúng ma.
Một tay khung cửi, guồng xa
Một tay lo bếp, lo nhà nắng mưa.
Một tay đi củi, muối dưa
Còn tay van lạy, bẩm thưa, đỡ đòn.
Bướm vàng đậu đọt mù u
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn.
Cầm cần câu cá ngược cá xuôi
Nấu canh rau bợ mà nuôi mẹ già
Cây khô chưa dễ mọc chồi
Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta
Non xanh bao tuổi mà già,
Bởi vì sương tuyết hóa ra bạc đầu
Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Cha mẹ bú mớm nâng niu
Tội trời đành chịu, không yêu bằng chồng
Ai kêu ai hú bên sông,
Mẹ gọi con dạ có chồng phải theo.
Chiều chiều ngó ngược ngó xuôi
Ngó không thấy mẹ ngùi ngùi nhớ thương.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt, nhớ ông bà bấy nhiêu.
Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mộ mẹ ruột đau như dần.
Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày.
Cò bay xuống vũng trâu đằm,
Lấy rơm làm tổ cho con cò nằm.
Có vàng vàng chẳng hay phô
Có con con nói trầm trồ mẹ nghe
Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đàn đứt dây
Còn cha gót đỏ như son,
Đến khi cha mất gót con đen sì.
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi.
Công cha nghĩa mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân
Thức khuya dậy sớm chuyên cần
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Con người có tổ, có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Chiều chiều ra đứng ngõ trông
Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người.
Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.
Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.
Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.
Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì
Chồng giận thì vợ làm lành
Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.
Đắng cay cũng thể ruột rà,
Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng.
Đi đâu mà bỏ mẹ già
Gối nghiêng ai sửa,chén trà ai dâng ?
Đố ai đếm được lá rừng
Đố ai đếm được mấy tầng trời cao
Đố ai đếm được vì sao
Đố ai đếm được công lao mẹ già.
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm cho mẹ mẹ già yếu răng.
Đói lòng ăn trái ổi non
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa
Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng cha.
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín lòng cha
Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy cha che chở đời con
Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con.
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
Dẫu rằng da trắng tóc mây
Đẹp thì đẹp vậy, dạ này không ưa
Vợ ta dù có quê mùa
Thì ta vẫn cứ sớm trưa vui cùng.
Đã rằng là nghĩa vợ chồng
Dầu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời.
Đói no một vợ một chồng
Một miếng cơm tấm, giàu lòng ăn chơi.
Đôi ta là nghĩa tào khang
Xuống khe bắt ốc, lên ngàn hái rau.
Đốn cây ai nỡ dứt chồi
Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương.
Em ơi nhớ về một đời người như nhớ về cả rẵng cây
Dì ruột thương cháu như con
Rủi mà không mẹ cháu còn cậy trông
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày mẹ thức đủ năm canh.
Gió thúc cội thung nhánh tùng khua rúc rắc
Nhớ cha mẹ già ruột thắt gan teo.
Ngó lên nước xoáy ngùi ngùi
Nhớ ông Cao Tổ vua tôi một lòng.
Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy
Lên chùa thấy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền.
Lời kinh vang dậy ngân nga
Chạnh lòng nhớ nghĩ mẹ cha sinh thành.
Lênh đênh chiếc bách giữa dòng
Thương thân goá bụa, phòng không lỡ thì
Gió đưa cây trúc ngã quỳ
Ba năm trực tiết còn gì là xuân
Mẹ già đầu tóc bạc phơ
Lưng đau con đỡ,mắt mờ con nuôi
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp mật, như đường mía lau.
Đường mía lau càng lâu càng ngát,
Cơm nếp mật ngào ngạt hương say.
Ba hương lây lất tháng ngày,
Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi.
Một mẹ nuôi được mười con
Nhưng mười con không nuôi được một mẹ.
Mẹ ơi! Đừng đánh con hoài,
Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ.
Mẹ ơi! đừng đánh con hoài,
Để con bắt cá, hái xoài mẹ ăn.
Mẹ ơi! Đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú biết nhà mẹ đâu.
Chim đa đa đậu nhánh đa
Chồng gần không lấy, lại lấy chồng xa.
Một mai cha yếu mẹ già,
Chén cơm ai xới, kỷ trà ai dâng
Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.
Mỗi đêm con thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ ở đời với con
Mẹ già ở tấm lều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
Một ngày ba bữa cơm đèn
Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng?
Mười làm chi, một làm chi
Sinh ra có nghĩa có nghì thời hơn
Sinh con ai nỡ sinh lòng
Sinh con ai chẳng vun trồng cho con.
Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Biết lấy chi đền đáp khó khăn,
Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ.
Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
Những khi trái nắng trở trời,
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên.
Trọn đời vất vả triền miên,
Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con.
Nuôi con mới biết sự tình
Thầm thương cha mẹ nuôi mình khi xưa.
Nuôi con cho được vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi xương mòn gối cong.
Ngày nào em bé cỏn con
Bây giờ em đã lớn khôn thế này
Cơm cha, áo mẹ, công thầy
Nghĩ sao cho bỏ những ngày ước ao.
Ơn cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu.
Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Râu tôm nấu với ruột bù
Chồng chan vợ húp gật gù khen ngon.
Rương xe, chìa khóa em cầm
Giang sơn em gánh, nợ nần em lo.
Sống thì con chẳng cho ăn
Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi.
Thà ăn bắp hột chà vô
Còn hơn giàu có mồ côi mẹ già.
Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già,
Thương con tần tảo sớm hôm,
Cơm đùm chéo áo, cháo đùm lá môn.
Thương mẹ nhớ cha như kim châm vào dạ,
Nghĩ đến chừng nào, lụy hạ tuôn rơi
Thuyền không bánh lái thuyền quầy
Con không cha mẹ ai bày con nên.
Tay nâng khăn gói sang sông
Mồ hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo.
Thật thà cũng thể lái trâu
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Thương chồng phải lụy cùng chồng
Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải cam.
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu.
Từ ngày em về làm dâu
Thì anh dặn trước bảo sau mọi lời
Mẹ già dữ lắm em ơi!
Nhịn ăn, bớt ngủ mà nuôi mẹ già
Nhịn cho nên cửa nên nhà
Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Thì em coi sóc lấy trong cửa nhà.
Tưởng rằng chị ngã em nâng
Ai ngờ chị ngã, em bưng miệng cười.
Trai mà chi, gái mà chi
Sinh con có nghĩa có nghì là hơn.
Trăm năm giữ vẹn chữ tòng
Sông sao thác vậy một chồng mà thôi.
Vẳng nghe con chim vịt kêu quạc quạc
Bâng khuâng nhớ mẹ ruột đau chín chiều
Thương thay cù lao chín chữ
Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Ví dầu con phụng bay qua
Mẹ nói con gà con cũng nói theo
Vì chồng nên phải gắng công
Nào ai da sắt xương đồng chi đây.
Ví dầu cầu ván đóng đanh
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Ví dầu mẹ chẳng có chi
Chỉ con với mẹ chẳng khi nào rời.
Vợ chồng là nghĩa già đời
Ai ơi nhớ nghĩ những lời thiệt hơn.
Xin người hiếu tử lắng khuyên
Kịp thì nuôi nấng cho toàn đạo con
Kẻo khi sông cạn, đá mòn
Phú nga phú ủy có còn ra chi.
Xấu xa cũng thể chồng ta
Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người.
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Đôi mắt thường được ví như cửa sổ tâm hồn. Trong nhân tướng học, đôi mắt là một trong những bộ phận quan trọng quyết định vận đào hoa của mỗi người là tốt hay xấu. Chính vì vậy mà những nốt ruồi xung quanh nó cũng thường phản ánh rất rõ ràng chuyện tình duyên của mỗi người, đặc biệt là phái nữ. Thông thường dựa vào những nốt ruồi này người ta có thể dễ dàng đoán được chuyện tình cảm của đối phương.
Nếu như nốt ruồi mọc ở phía trên mắt được coi là tốt thì ngược lại nốt ruồi mọc ở các vị trí khác đều là điềm xấu về đường tình duyên.
1. Nốt ruồi ở mí mắt trên
(Ảnh: Internet)
Những người có nốt ruồi ở mí mắt trên đa phần đều có tính cách phóng khoáng, tự do, thích đi đây đi đó. Họ không thích ở một chỗ quá lâu, thích thay đổi không khí nên thường hay chuyển nhà. Tính cách của họ cũng không ổn định, thiếu sự nhẫn nại mà kiên trì. Tuy nhiên đa phần họ đều có đường tài vận rất tốt, tính cách cũng thiện lương nên hay gặp quý nhân, luôn có người giúp đỡ lúc khó khăn.
Nếu hình dáng nốt ruồi tốt, to tròn đen bóng lại được coi là vận tốt. Nếu biết tranh thủ tận dụng cơ hội sẽ giúp thay đổi vận mệnh, chuyển xấu thành tốt hoặc giúp cuộc sống ngày càng tốt hơn. Ngược lại, nốt ruồi méo mó, màu nhạt nhẽo là người có tính cách ngang bướng, hay chống đối người lớn trong nhà hay cấp trên nên thường đánh mất cơ hội phát triển bản thân.
2. Nốt ruồi ở mí dưới
Phần mí dưới còn hay được gọi là Lệ Đường nên đa phần chúng ta gọi nốt ruồi ở vị trí này là "nốt ruồi ở dòng nước mắt chảy". Những người có nốt ruồi ở dưới mắt thường hay gặp trục trặc trong chuyện tình duyên, dễ dàng bị người khác bỏ rơi. Trong chuyện tình cảm cũng nên cẩn thận vì hay có kẻ thứ 3 xen vào. Đa phần họ vì hay tự ti mà trở nên đố kị với người khác, lâu dài sẽ thành ngang ngược, ích kỷ.
(Ảnh: Internet)
Người có nốt ruồi ở mí dưới sau khi kết hôn thường phải lo lắng và đau khổ vì con cái. Cũng vì nguyên nhân này mà họ dễ nảy sinh bất hòa với nửa kia của mình, thậm chí dẫn đến ly hôn.
Nếu may mắn có nốt ruồi tốt hình dạng tròn, sáng thì ngược lại có vận mệnh con cháu rất tốt, gia đình hòa thuận, con cháu đầy đàn.
3. Nốt ruồi ở đuôi mắt
Hầu hết những ai có nốt ruồi ở đuôi mắt trong chuyện tình cảm đều xuất hiện kẻ thứ 3. Có thể là họ ngoại tình hoặc có thể do người kia ngoại tình nhưng việc có kẻ chen chân vào chuyện hẹn hò là điều khó tránh.
(Ảnh: Internet)
Khoảng trống từ đuôi mắt đến mép tóc được gọi là Gian môn. Những người có nốt ruồi ở khu vực này thường sống xa hoa, có nhiều dục vọng, bản thân rất hấp dẫn người khác giới nên vận đào hoa cực tốt, được nhiều người theo đuổi. Nhưng vận đào hoa của họ là vận xấu, lắm mối nhưng đều không có kết quả tốt, thường bị làm phiền hà ảnh hưởng chuyện tình duyên. Về chuyện tình cảm có thể tốt lúc mới hẹn hò nhưng chỉ cần kéo dài một chút thường nảy sinh bất hòa rồi chia tay. Đặc biệt nếu đã kết hôn thì vợ chồng hay lục đục.
Nếu nốt ruồi có hình dáng đẹp, đen bóng nghĩa là bạn rất khéo ăn nói, giỏi giao tiếp. Tốt nhất nên làm các nghề liên quan để có sự nghiệp phát triển ổn định.
Ảnh minh họa |
► Trắc nghiệm tính cách của bạn với những sự tương đồng thú vị tại Lichngaytot.com |
Ngày nào là ngày tam nương tương sát
Theo trang Tử vi số mệnh, ngày tam nương có xuất xứ từ Trung Quốc. Tam nương có nghĩa là “ba người đàn bà”. Theo dân gian Trung Quốc, tam nương gồm ba nàng: Muội Hỉ, Đát Kỉ và Bao Tự (những giai nhân tuyệt sắc làm sụp đổ ba triều Hạ, Thương, Tây Chu trước Công nguyên). Trong suốt thời đại của mình, họ được coi là “hồng nhan họa thủy” mang lại sự xui xẻo cho mọi người liên quan. Ngày tam nương chính là ngày sinh và ngày mất của 3 người này, nên một tháng có 6 ngày tam nương, đó là các ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27 âm lịch.
Theo các nhà khoa học tâm linh, những ngày tam nương tương sát trong phong thủy được tính là các phi tinh (trong Cửu cung bát quái) có Ngũ hoàng (trung cung) xấu nhất, bay tới đâu mang họa tới đó và cứ phi tinh hết các cung (nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử) lại gặp ngũ hoàng. Ngày tam nương tương sát cũng là những ngày năng lượng giao động khiến cơ thể con người mất cân bằng, kém minh mẫn…
Ngày tam nương tương sát còn được kiêng trong các sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ quan niệm: Đón dâu về nhà ngày tam nương tương sát thì vợ chồng sẽ cãi cọ, không ở được với nhau dài lâu, tuyệt đường con cái; Nếu đi sông biển ngày tam nương tương sát sẽ gặp họa vì khó tìm được bến bờ trở về; Nếu có bổ phong, nhận chức vào ngày này thì gặp họa thảm sầu, hoặc phải đi xa biền biệt…
Nhận định về ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch có “xấu” hơn so với các tháng khác trong năm không, ông Doãn Phú, Chủ nhiệm bộ môn Phong thủy (Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người) cho rằng, những ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch cũng như những ngày tam nương trong các tháng khác, không xấu hơn. Cũng theo ông Doãn Phú, không chỉ 6 ngày trên, những ngày 5, 14, 23 (các số cộng lại bằng 5) cũng là ngày xấu, được cho là "nửa đời, nửa đoạn", làm gì cũng không như ý.
Ông Doãn Phú cho biết thêm, người phương Tây cũng có quan niệm về những ngày xấu, gọi là ngày nguyệt kị, rơi đúng vào các ngày tam nương tương sát. Khoa học giải thích rằng, khi Trái đất tự quay quanh nó và mặt trăng quay quanh Trái đất thì khoảng 2 ngày rưỡi, mặt trăng sẽ di chuyển qua một “vùng trời” mới, khiến các dòng năng lượng giao động, ảnh hưởng tới toàn bộ sự sống trên Trái đất. Các chuyên gia thiên văn hiện đại cho rằng, vũ trụ thường xuyên xảy ra những vụ va chạm trong thiên hà và phát sinh những bức xạ, tia xạ ảnh hưởng lớn đến Trái đất, chi phối đời sống của sinh vật, trong đó có con người. Và những ngày tam nương là thời điểm mặt trăng chuyển sang vùng mới, tránh ngày xấu chính là tránh thời điểm không tốt của sự vận động vũ trụ và khí quyển.
Hạn chế làm việc gì?
Đại đức Thích Pháp Đạt,nguyên trụ trì chùa Trường Sa lớn (huyện đảo Trường Sa), người đã có nhiều chuyến đi về giữa đảo và đất liền nhân tháng Vu Lan đã chia sẻ rằng, nhà chùa không phân biệt ngày tốt, xấu, ngày thường hay ngày tam nương tương sát như trong dân gian. Nhà chùa khuyên mọi người không nên lệ thuộc, sợ hãi quá vào những ngày tốt, xấu. Nhà chùa không kể ngày, giờ tốt hay xấu, đặc biệt khi có người cầu cứu, các nhà sư không chờ ngày tốt, giờ tốt mới đi, hoặc né tránh giúp người vì lý do ngày, giờ xấu.
Với đạo Phật, mọi việc đều do nghiệp quả, quan niệm xui hay không là do con người. Nếu cố chấp, lo lắng nhiều thì khó khăn sẽ đến. Nhưng nếu buông bỏ, không coi trọng những quan niệm đó thì sẽ không có gì. Bỏ đi được quan niệm xấu, tốt, hay không bỏ quan niệm đó cũng tùy “nghiệp” của từng người, nhưng đừng sa đà vào mê tín dị đoan.
Ông Doãn Phú cũng khuyên, ngày tam nương, nguyệt kị là xấu theo dân gian và tâm linh, nhưng thực sự chưa có nghiên cứu, kiểm chứng khoa học nào về những xui xẻo do ngày đó mang lại. Ông Doãn Phúc nhận định: “Quan sát gần đây thấy có những kiêng kị dân gian có cái còn phù hợp, có cái không. Và thực tế nhiều vụ tai nạn máy bay rơi, đắm tàu thuyền lớn… gần đây không hoàn toàn rơi vào những ngày xấu. Đã từng có nhiều việc trọng đại diễn ra vào các ngày 13/6, 13/7 Âm lịch và đều đạt kết quả rất tốt. Như vậy, những ngày này không phải xấu như quan niệm. Người dân không nên quá lo lắng để tìm cách hóa giải”.
Tuy nhiên, ông Doãn Phú cũng khuyến cáo vì các ngày tam nương tương sát thường là những ngày năng lượng giao động khiến cơ thể con người mất cân bằng, kém minh mẫn. Vì vậy, nên thận trọng khi lái xe, điều khiển máy móc, hạn chế các chuyến đi chơi xa, leo núi, tới nơi rừng rú...
Ông Doãn Phú nói: "Quan điểm của tôi là việc kiêng hay không kiêng, tránh hay không tránh ngày tam nương tương sát là tùy mỗi người. Nếu là người làm ăn, hoặc khi triển khai các việc lớn như khai trương, ký hợp đồng, khởi công nhà mới.. thì cần xem kỹ ngày để tránh xui xẻo. Còn bình thường thì không nên xem trọng quá. Ngày tam nương tương sát chỉ nên xem đó là một ngày bình thường, cứ sinh hoạt, làm việc bình thường, đừng để những quan niệm ảnh hưởng đến cuộc sống của mình vì con người vẫn là yếu tố quyết định".
Lịch Tây Phương theo vận hành của trái đất quanh mặt trời gồm 365 ngày 1/4, là 1
năm.
Lịch Đông Phương tính từng tháng theo sự vận hành của mặt trời quanh trái đất và
theo sự vận hành của trái đất quanh mặt trời.
Tuy rằng khác nhau, nhưng hai thứ lịch đều ấn định khí tiết, mùa màng, và lịch
nào cũng thích ứng cho đúng năm Mặt Trời. Như lịch Tây Phương thêm tháng 2 nhuận,
từ 28 ngày tăng lên 29 ngày. Còn lịch Đông Phương thì đặt ra:
Tháng thiếu 29 ngày, tháng đủ 30 ngày.
Cứ 2 năm thêm một tháng nhuận; hoặc có 3 tháng đủ liền nhau.
Lịch Đông Phương ấn định sẵn từ trước, trong thời gian dài cả trăm năm, có đủ
khí tiết trong năm, theo vận hành của trái đất quanh mặt trời. Các năm tháng ngày và giờ
đều theo lịch lý mà có Âm hay Dương, có hành (Kim, Mộc, Hoả, Thuỷ, Thổ), nghĩa là có
nhiều ý nghĩa, và mang những tên bằng 10 Can và 12 Chi.
Mười chữ hàng Can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Mười hai chữ hàng Chi là: Tí , Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu,
Tuất, Hợi.
Theo thứ tự, lấy chữ đầu hàng Can ghép với chữ đầu hàng Chi ta có năm Giáp Tí .
Rồi cứ lần lượt ghép đến chữ thứ hai hàng Can và chữ thứ hai hàng Chi, là Giáp Tuất. Và
cứ thế mà ghép, ta được tên của 60 năm. Sáu mươi năm là một thế kỷ của Đông Phương.
Năm thứ 61 trở lại với tên Giáp Tí và một kỷ mới lại bắt đầu.
Xin ghi các tên của năm như sau.
Xin chú ý giòng Can và giòng Chi cứ theo đúng thứ tự mà nối cho đến lúc trở lại Giáp Tí .
Giáp Tý | Giáp tuất | Giáp thân | Giáp Ngọ | Giáp Thìn | Giáp Dần |
Ất sửu | Ất hợi | Ất dậu | Ất Mùi | Ất Tỵ | Ất Mão |
Bính dần | Bính tý | Bính tuất | Bính Thân | Bính Ngọ | Bính Thìn |
Đinh mão | Đinh sửu | Đinh hợi | Đinh Dậu | Đinh Mùi | Đinh Tỵ |
Mậu thìn | Mậu dần | Mậu tý | Mậu Tuất | Mậu Thân | Mậu Ngọ |
Kỉ tỵ | kỷ mão | Kỷ sửu | Kỷ Hợi | Kỷ Dậu | Kỷ Mùi |
Canh ngọ | Canh thìn | Canh dần | Canh Tí | Canh Tuất | Canh Thân |
Tân mùi | Tân tỵ | Tân mão | Tân Sửu | Tân Hợi | Tân Dậu |
Nhậm thân | Nhâm ngọ | Nhâm thìn | Nhâm Dần | Nhâm Tí | Nhâm Tuất |
Qúy dậu | Qúy mùi | Qúy tỵ | Quý Mão | Quý Sửu | Quý Hợi |
Đến Quý Hợi, ta có Quý là chữ cuối hàng Can và Hợi là chữ cuối hàng Chi, thì sau
Quý Hợi lại trở lại những chữ đầu của hai hàng, là Giáp Tí . Và năm nào cũng vậy, cứ
cộng thêm 60 năm, lại trở lại đúng caí tên cũ. Như sinh năm Kỷ Mùi, thì đúng 60 năm
sau, lại là Kỷ Mùi.
Âm Dương và Can Chi của năm
Các năm chia ra:
Can Dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm
Can Âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý .
Các Chi chia ra:
Chi Dương: Tí , Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất.
Chi Âm: Sửu, Mão, Tỵ. Mùi, Dậu, Hợi.
Với cách kết hợp nói trên, một chữ Can Dương chỉ có thể kết hợp với một Chi
Dương, một Can Âm chỉ có thể kết hợp vói Chi Âm. Can Dương và Chi Dương hợp
thành một năm Dương, Can Âm và Chi Âm hợp thành một năm Âm. Trong một thế kỷ
60 năm có 30 năm Dương và 30 năm Âm. Do sắp mà theo năm năm sinh, ta có người
Dương Nam, Dương Nữ (Nữ sinh năm Dương), hay Âm Nam, Âm Nữ (Nữ sinh năm
Âm).
Âm Dương và Can Chi của tháng, ngày, giờ:
Tháng cũng có tên, Tháng Giêng là tháng Dần rồi cứ kế tiếp kể ra:
Tháng 9
Tháng giêng | Là tháng dần |
Tháng 2 | Mão |
Tháng 3 | Thìn |
Tháng 4 | Tị |
Tháng 5 | Ngọ |
Tháng 6 | Mùi |
Tháng 7 | Thân |
Tháng 8 | Dậu |
Tháng 9 | Tuất |
Tháng 11 | Hợi |
Tháng 12 | Sửu |
Hàng Can của tháng thay đổi tuỳ theo hàng Can của năm và theo công thức sau ấn
định cho tháng Dần (tháng Giêng)
Can của năm: | Can của tháng Giêng |
Giáp , Kỷ | Bính |
Ất, Canh | Mậu |
Bính, Tân | Canh |
Đinh, Nhâm | Nhâm |
Mậu, Quý | Giáp |
Can của các tháng khác cứ theo tháng Dần mà viết lần lượt. Như năm Kỷ Mùi,
hàng Can tháng Giêng là Bính, thì tháng Giêng là Bính Dần, tháng 2 là Đinh Mão, tháng
3 là Mậu Thìn, v.v... cho đến tháng Dậu là Quý Dậu, tháng Tuất là Giáp Tuất, tháng Hợi
là Ất Hợi, tháng Tí là Bính Tí , tháng Sửu là Đinh Sửu.
Ngày cũng có tên, được ấn định bằng Can và Chi. Sách Vạn Niên Lịch (2) ấn định
sẵn tên của mỗi ngày,
Giờ cũng mang Can và Chi
Giờ Tí là 11 giờ đến 1 giờ đêm, tính vào ngày hôm sau.
Giờ Sửu là 1 giờ đến 3 giờ đêm...
Cứ thế tính tiếp diễn đến giờ Ngọ là 11 giờ trưa đến 1 giờ
Giờ Hợi là 9 giờ đến 11 giờ đêm là hết ngày.
Hàng Can của ngày được tính theo công thức:
Can của ngày | Can của giờ |
Giáp, Kỷ | Giáp |
Ất Canh | Bính |
Bính Tân | Mậu |
Mậu Quý | Nhâm |
Thí dụ: Ngày Bính Tí, giờ Tí là giờ Mậu Tí rồi lần lượt:
Giờ Sửu | Kỷ Sửu |
Giờ Dần | Canh Dần |
Giờ Mão | Tân Mão |
Giờ Thìn | Nhâm Thìn |
Giờ Tỵ | Quý Tỵ |
Giờ Ngọ | Giáp Ngọ |
Giờ Mùi | Ất Mùi |
Giờ Thân | Bính Thân |
Giờ Dậu | Đinh Dậu |
Giờ Tuất | Mậu Tuất |
Giờ Hợi | Kỷ Hợi |
Chú ý: Hàng Can của năm, tháng, ngày, giờ rất quan trọng trong việc giải đoán,
vì nó chủ về Mệnh Trời. (yếu tố Thiên Mệnh trong mạng vận).
Đem hành hàng Can của năm tuổi (tức năm sinh so với hàng Can của năm vận là
năm được yếu tố tốt, xấu của năm vận. Lại so sánh hành hàng Can với hành hàng Chi của
năm sinh là biết được một nét chính tốt xấu của cuộc đời.
Hành hàng Can và hành hàng Chi.
Hành của hàng Can như sau:
Giáp | Dương Mộc |
Ất | Âm Mộc |
Bính | Dương Hoả |
Đinh | Âm Hoả |
Mậu | Dương Thổ |
Kỉ | Âm Thổ |
Canh | Dương Kim |
Tân | Âm Kim |
Nhâm | Dương Thuỷ |
Qúy | Âm Thuỷ |
Hành của Chi như sau:
Tý | Dương Thuỷ |
Sửu | Âm Thổ |
Dần | Dương Thổ |
Mão | Âm Mộc |
Thìn | Dương Thổ |
Tỵ | Âm Hoả |
Ngọ | Dương Hoả |
Mùi | Âm Thổ |
Thân | Dương Kim |
Dậu | Âm Kim |
Tuất | Dương Thổ |
Hợi | Âm Thuỷ |
NGŨ HÀNH SINH KHẮC:
Tương sinh:
- Kim sinh Thuỷ
- Thuỷ sinh Mộc
- Mộc sinh Hoả
- Hoả sinh Thổ
- Thổ sinh Kim
· Kim sinh Thuỷ, vì nấu thì chảy thành nước lỏng
· Thuỷ sinh Mộc, vì nước nuôi cây tươi tốt.
· Mộc sinh Hoả, vì cây cháy thành lửa
· Hoả sinh Thổ, vì lửa đốt mọi vật thành đất.
· Thổ sinh Kim, vì trong đất có sinh quặng kim khí
Tương khắc:
- Kim khắc Mộc
- Mộc khắc Thổ
- Thổ khắc Thuỷ
- Thuỷ khắc Hoả
- Hỏa khắc Kim
· Kim khắc Mộc, vì đao kiếm kim khí chém được gỗ.
· Mộc khắc Thổ, vì cây che đất,hút chất thổ của đất.
· Thổ khắc Thuỷ, vì đất hút nước và ngăn chặn nước.
· Thuỷ khắc Hoả, vì nước dập tắt lửa.
· Hoả khắc Kim, vì lửa thiêu huỷ kim khí.
Ngũ hành sinh khắc và nguyên tắc Âm Dương đều thiết yếu trong việc giải đoán,
nên cần phải nhớ!
Hành của năm
Tên một năm có Can và Chi; cả Can và Chi gom lại gọi là Nạp Âm của năm.
Thí dụ: Năm Bính Tí , Can là Bính, Chi là Tí , Nạp Âm là Bính Tí .
Ngoài hành của Can và của Chi, Nạp Âm cũng có hành. Hành của Nạp Âm năm
sinh là hành mạng.
Nhưng hành Kim, Mộc, Thuỷ , Hoả, Thổ là đơn thuần cho nên người ta thêm ý
nghĩa cho mỗi hành. Thí dụ: Thuỷ thì có Thuỷ đầu suối, Thuỷ trời mưa, Thuỷ sông lớn,
Thuỷ biển cả v.v....Chúng tôi thấy sự tách bạch đó không cần thiết trong việc giải đoán,
nên không ghi vào đây.
Xem tiếp phần 2 tại đây
Cách giữ nhỉệt độ trong phòng
(1) Chọn phòng ở: nếu có trên hai phòng để chọn lựa thì nên chọn phòng hướng về phía mặt trời đồng thời có hình dáng gần với hình vuông làm phòng ngủ, tác dụng giữ ấm tương đối tốt.
(2) Khả năng hứng ánh mặt trời tốt: vào mùa đông nên cố gắng cho ánh nắng chiếu tối đa vào trong phòng như vậy có thể khiến nhiệt độ trong phòng tăng lên đáng kể.
(3) Điều hòa không khí: nhiệt độ không khí sát với trần nhà cao hơn một chút so với nhiệt độ không khí gần nền nhà, do đó phải nghĩ cách để không khí phía trên trần di chuyển xuống dưới nền nhà.
(4) Giữ độ ẩm: độ ẩm trong phòng nên giữ trong khoảng từ 30% – 40%, như vậy có thể khiến cho nhiệt độ cơ thể tăng 2°c – 3°c
(5) Cửa nhiều tầng: chọn loại cửa hai tầng có thể giảm 50% thất thoát nhiệt độ trong phòng, giảm 25% không khí lạnh tràn vào trong phòng.
Cũng có thể dùng đinh có mũ đóng một tấm nhựa mỏng trong suốt lên khung cửa sổ để tạo thành lớp cách nhiệt. Còn khi không muốn ánh nắng chiếu vào phòng thì việc dùng rèm vải che lại cũng mang lại hiệu quả nhất định.
(6) Làm kín các khe hở: nếu khe hở ở cửa sổ tương đốỉ lớn, có thể lấy bút lông chấm véc ni quét vào, sau đó để cửa mở một nửa, giữ lại một một khe hở trống, lấy thanh nhựa xốp dày 8 mm, rộng 10 mm dán chặt vào khe hở, đóng chặt cửa vào, sau một đêm mới mở ra, mùa đông có thể tăng nhiệt độ trong phòng từ 3°c – 4°c, mùa xuân còn có thể chống gió cát.
Cách giảm nhiệt độ trong phòng
(1) Thanh lý các vật dụng trong phòng: trước khi mùa hè sang nên quét dọn toàn bộ căn phòng, đem những vật cần dùng để gọn gàng vào trong tủ, nên điều chỉnh vị trí các đồ dùng cản trở thông gió để khiến cho căn phòng thông thoáng hơn.
(2) Đổi vị trí đồ dùng trong nhà: đổi bộ sofa nặng nề sang bộ bàn ghế mây nhẹ nhàng, mộc mạc, tăng thêm chút hương vị điền viên cho căn phòng thời hiện đại. Ngoài ra nên bày những đổ bằng kim loại, gốm sứ trong phòng, vật liệu lạnh như vậy cũng có tác dụng làm mát cái đầu đang bốc hỏa.
(3) Áp dụng biện pháp che nắng: nên treo rèm màu nhạt hoặc dán một lớp giấy trắng ngoài cửa kính, hoặc dùng rèm cửa chớp có thể giữ cho phòng mát mẻ.
(4) Thời gian đóng cửa thích hợp: nên đóng chặt cửa từ 9 giờ sáng đến 6 giờ tốỉ, kéo thêm rèm có thể giảm nhiệt độ trong phòng từ 2°c trở lên. Đêm thì nên mở cửa sổ để không khí lưu thông, từ đó giảm nhiệt độ xuống.
(5) Dùng nước mát để giảm nhiệt độ: liên tục vẩy nước mát xuống nền nhà để nước hút nhiệt bốc hơi. Nhà có điều kiện thì có thể đổ nước giếng lên sàn nhà, có hiệu quả rất tốt trong việc giảm nhiệt độ trong phòng. Buổi tối có thể để nhiều nước mát trong phòng, cũng có tác dụng giảm nhiệt.
(6) Dùng cây cối để điều hòa nhiệt độ: xung quanh phòng trồng các loại cây thân leo như hổ leo núi có thể giảm ánh nắng chiếu trực tiếp vào trong phòng và trần nhà, từ đó có thể giảm được nhiệt độ.
Cách điểu chỉnh độ ẩm trong phòng
(1) Vào mùa đông khô hanh có thể đun một ấm nuớc trong phòng, để nước sôi sùng sục, hơi nước bốc lên liên tục có thể làm ẩm không khí.
(2) Để một máng dẫn nước lên trên máy tản nhiệt (làm tăng nhiệt độ trong phòng vào mùa đông: dẫn hơi nước nóng hoặc nước nóng sau khi đã đun sôi bằng nồi hơi thông qua đường ống đến máy tản nhiệt ở các ngôi nhà, từ đó tỏa ra nhiệt lượng và làm ấm căn phòng), hoặc thường xuyên phun nước sạch xuổng dưới đất đều có thể điều chỉnh độ ẩm.
– Dáng người cao mà thẳng mới là tướng phú quý. Còn người nào dáng cao nhưng lại cong vẹo, không thẳng, hay đến trung vận đã bị còng lưng lại là tướng bại tài, cuộc sống vất vả trăm bề, đặc biệt là nam giới.
NAM: Cung Cấn, sao Thái-Bạch, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người có tài năng thích lãnh đạo chỉ huy, có anh hùng tính, thấy chuyện bất bình ra tay can thiệp. Đôi khi võ đoán chuyên quyền. Chữ “ tân” là cay đắng nên khi thì công danh tột đỉnh, có lúc phải trắng tay. Phải sớm ly hương hay xa gia đình cha mẹ anh chị em thì tốt hơn. Hậu vận thích triết, thích đạo lý và có khuynh hướng tu hành hướng thượng. Người sinh mùa Xuân, Thu rất dễ thành công. Hạp màu vàng, trắng, kỵ màu đỏ. Ở đời có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này bê tha. Một người dù tài giỏi thông minh tới đâu mà không chịu học, sẽ phải hối hận suốt đời. Thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài mà thôi. Chỉ cần chăm chỉ tốt nghiệp 4 năm đại học thôi, có thể sẽ thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.
“Tuổi trẻ hôm nay ráng học hành
Ngày mai rạng rỡ bước công khanh
Dùi mài khó nhọc công đèn sách
Hiếu thảo làm vui đấng sinh thành”
Nếu đang chơi soccer hay football, phải cẩn thận, đề phòng thương tích tay chân. Xấu nhứt là tháng 5.
NỮ: Cung Đoài, sao Thái-Am, hạn Tam-Kheo: Mẫu người biết lo xa, có tinh thần trách nhiệm, nhiều mưu cơ, giỏi ứng biến. Tiền vận rất gian nan, công danh thăng trầm, đường chồng con cũng nhiều trắc trở khó khăn. Tuy nhiên ly hương hay xa gia đình thì lại thành danh. Tuổi già thích làm công ích xã hội và tạo nhiều thiện nghiệp. Cho nên đời đạo thong dong, tiền tài súc tích. Chẳng những chỉ có bàn tay và khối óc mà dễ dàng thành tựu, còn phải nhờ ở phước đức do chính mình vun bồi. Hạp màu vàng, trắng. Kỵ màu đỏ. Ở đời có ba điều đáng trách: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là ngay hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh lỗi lạc tới đâu mà không chịu học, thì phải ân hận suốt đời. Thiên tài cũng nhờ ở cố gắng bền bỉ mà thành danh. Chỉ cần hoàn tất 4 năm đại học thôi, có khi được thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này:
Cơm cha áo mẹ công thầy
Ráng công học tập tháng ngày chăm lo
Tương lai giàu có ấm no
Yêu cuồng sống vội, hẹn hò không nên”
Nếu chơi game nhiều hay lạm dụng internet, computer sẽ bị cận hay viễn thị ngay năm nay!
KỶ-TỴ 25 TUỔI: ( Sinh từ 6/2/1989 đến 27/1/1990)
Mệnh: Đại-Lâm-Mộc ( cây trong rừng lớn).
NAM: Cung Khôn, sao Kế-Đô, hạn Địa-Võng: Thông minh, có tài năng, sắc sảo, có lý tưởng, nhạy bén nhưng hơi chủ quan. Đôi khi nuôi nhiều tham vọng, tự phụ. Trước 30 tuổi thường gặp nghịch cảnh. Nếu có vì học vấn mà xa gia đình sẽ may mắn, nên tự lập sớm. Hướng nhà ở và thương mại là Tây và Tây-Bắc. Lấy vợ hợp với những tuổi Bính-Tý (1996), Đinh-Sửu ( 1997), At-Hợi (1995) và Tân-Mùi (1991).
“Đời trai học vấn làm đầu
Siêng năng chăm chỉ ngày sau đạt thành
Hôn nhân sự nghiệp công danh
Thảnh thơi mai hậu: học hành hôm nay !”
Năm nay thi cử đỗ đạt, tốt nghiệp ra trường sẽ có việc làm vừa ý. Nếu muốn thay đổi chỗ làm, chỗ ở hay đi xa xuất ngoại sẽ gặp cơ hội thuận lợi. Muốn đi xa xuất ngoại cũng thành công. Bạn nào đã làm hãng xưởng dễ được lên chức, lên lương. Bạn nào kinh doanh thương mại sẽ thành công trên thương trường. Tuy nhiên lái xe phải cẩn thận đề phòng rủi ro về xe cộ trong tháng 3 và 9.
NỮ: Cung Tốn, sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Mẫu người sáng trí thông minh, nhanh nhẹn tháo vát, tự tin. Nhưng tiền vận thường phải phấn đấu với nghịch cảnh và sống nhiều về nội tâm. Bạn nào sinh ban đêm vào mùa Thu, Đông tình duyên rất thuận lợi.
“Tuổi trẻ miệt mài học hôm nay
Ngày mai danh lợi sáng tương lai
Siêng năng tiến bước đường học vấn
Hạnh phúc công danh sẽ an bài”
Hôn nhân hợp với tuổi Qúi-Hợi (1983), Tân-Dậu (1981), Bính-Dần (1986) và Đinh-Mão (1987). Lấy chồng bất luận năm nào, luôn luôn chọn ngày giờ trong tháng 3, và 9 âm lịch là tốt nhất. Kinh doanh thương mãi, chọn hướng Bắc, Nam và Đông Nam. Năm nay thi cử đỗ đạt. Bạn nào tốt nghiệp ra trường sẽ có việc làm như ý. Bạn nào muốn thay đổi trường học, chỗ ở, chỗ làm hay đi xa xuất ngoại đều được mãn nguyện. Bạn nào khởi đầu thương mãi cũng đầy may mắn. Muốn sinh con, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.
ĐINH-TỴ 37 TUỔI: (Sinh từ 18/2/1977 đến 6/2/1978).
Mệnh: Sa Trung Thổ (Đất lẫn trong cát).
NAM: Cung Khôn, sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Tính tình cương trực, nhưng hay sợ trách nhiệm, không dám đương đầu với khó khăn nên việc lớn khó thành. Vừa muốn yên thân lại không biết lo xa nên dễ thất bại trong buổi thiếu thời. Từ tình duyên đến công danh sự nghiệp đều có trở ngại ban đầu. Tuy nhiên, nhờ tích lũy kinh nghiệm, biết cần cù, nhẫn nại, sau 30 tuổi việc làm ăn lại thành công. Chọn vợ hạp nhất trong các tuổi Đinh-Tị (1977), Mậu-Ngọ (1978), Quý-Hợi (1983 ) và Đinh-Mão (1987). Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây-Bắc.
“ Tiền vận đôi khi lắm chuyện buồn
Tình duyên sự nghiệp chẳng mấy suông
Qua nhiều thử thách nhờ kiên nhẫn
Công thành danh toại thẳng tiến luôn”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn Tài” nên tận dụng vận may để xây cất nhà cửa, cơ sở thương mãi. Nhờ đó, việc làm ăn sẽ phát đạt lên. Tuy nhiên trước khi lái xe đi xa phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, tránh nằm đường. Đồng thời phải cẩn thận đề phòng tai nạn rủi ro về xe cộ. Nếu say rượu lái xe thì thảm họa khó tránh. Không nên đầu tư chứng khoán. Mọi việc đều xấu trong tháng 1, 7.
NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh : Mẫu người tài năng thông minh nên thích tự lập. Rất tự tin nên khó thuyết phục. Do đó lúc gặp nghịch cảnh phải chịu thành bại bất thường. Người sinh ban đêm vào mùa Hạ,Thu sẽ dễ thành công hơn. Lúc nhỏ hay đau ốm lặt vặt. Tiền vận thường gặp nhiều trắc trở về tình duyên. Tuổi chồng hợp nhất là Bính-Thìn (1976), Đinh-Tị (1977), Tân-Hợi (1971), Quý-Sửu (1973), Ất-Tị (1965), Tân-Dậu(1981) và Mậu-Thân (1968). Tối kỵ tuổi Giáp-Dần (1974). Hạp màu đỏ. Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc.
“Tình duyên trắc trở buổi ban đầu
Nhu mì uyển chuyển mới bền lâu
Thông minh tài đức, năng thắng số
Duyên phận nhẫn hòa khỏi lo âu“
Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm“Tứ Tấn Tài” rất thích hợp cho việc xây cất nhà cửa chỉnh trang cơ sở thương mại. Hy vọng nhờ đó mà công việc làm ăn phát đạt, thành công hơn. Tuy nhiên gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con. Xấu nhất là tháng 3, 9. Lái xe cũng phải cẩn thận đề phòng những rủi ro trong 2 tháng này. Nếu muốn đẻ con út, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.
ẤT-TỴ 49 TUỔI: (Sinh từ 2/2/1965 đến 20/1/1966).
Mệnh: Phú Đăng Hỏa (Lửa ngọn đèn).
NAM: Cung Cấn, sao Thái-Bạch, hạn Tán-Tận: Mẫu người ngay thẳng, trọng lời hứa, có tinh thần trách nhiệm, thích giúp người nhưng ít khi được người đền đáp. Tiền vận gian nan, vất vả, thăng trầm. Tình duyên cách trở đổi thay. Nhiều khi có tài mà không gặp thời. Người sinh ban đêm mùa Xuân, Hạ dễ thành công hơn. Người ly hương tự lập thường tạo nên sự nghiệp. Vợ là cánh tay phải rất đắc lực nếu nhằm vào các tuổi Nhâm-Tí (1972), Quý-Sửu (1973), Ất-Tị (1965), Giáp-Thìn (1964), Canh-Tí (1960), Tân-Sửu (1961) và Nhâm-Dần (1962). Rất kỵ tuổi Bính-Ngọ (1966). Hạp màu đỏ, tối kỵ màu đen, đi xe đen. Nhà cửa và kinh doanh tốt nhất trên hướng Tây Bắc và chánh Tây.
“ Có tài mà chẳng gặp thời
Tánh tình ngay thẳng giúp người quản chi
Gian nan vất vả lắm khi
Đức năng thắng số lo gì tương lai”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết” nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh, có thể thực hiện được. Tháng 5, kỵ mặc đồ trắng, gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con, tài lộc hao tán. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại. Tất cả công việc làm ăn cứ theo đường xưa lối cũ, tránh mở mang rộng lớn, chẳng những lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không; mà còn gây nên tình trạng bế tắc về tài chánh.
NỮ: Cung Đoài, sao Thái-Am, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người đoan chính, bền tâm kiên nhẫn, cần cù nhẫn nại, vượng phu ích tử, rất năng nỗ quán xuyến đảm đang. Tình đầu trắc trở. Xuất ngoại ly hương dựng nên sự nghiệp lớn lao. Người sinh ban đêm vào mùa Xuân, Hạ rất thành công. Đại kỵ màu đen, đi xe đen. Hạp màu đỏ. Tuổi chồng hạp nhất là Ất-Tị (1965), Tân-Sửu (1961), Đinh-Dậu (1957), Bính-Thân (1956), Tân-Mão (1951) hoặc Đinh-Mùi (1967), Bính-Ngọ (1966) và Quý-Tị (1953). Hướng làm ăn tốt nhất là Tây Nam, Đông Bắc và Tây Bắc.
“Vượng phu ích tử số người
Đảm đang quán xuyến tuyệt vời vợ ngoan
Duyên lành gặp được chồng sang
Trọn đời hạnh phúc huy hoàng trăm năm”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết”, nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Tuy nhiên tránh mở mang rộng lớn, chẳng những lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không; mà còn gây ra tình trạng bế tắc về tài chánh. Nếu làm việc nhiều bằng computer, sẽ bị đau mắt. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại gây nhiều hao tán.
QUÝ-TỴ 61 TUỔI: (Sinh từ 14/2/1953 đến 2/2/1954).
Mệnh: Trường Lưu Thủy ( Nước chảy thành dòng lớn).
NAM: Cung Khôn, sao Kế-Đô, hạn Địa-Võng: Người thông minh lanh lợi, thích bạn bè náo nhiệt. Tánh tình cẩn thận, biết tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng và hay xa gia đình. Tình duyên lận đận trong hồi tiền vận. Người sinh tháng 6, 7, 11 dễ thành công hơn những tháng khác. Nhờ lo xa mà cuộc sống gia đình được sung túc an nhàn. Xuất ngoại sớm thành công danh sự nghiệp. Nếu hiền nội nhằm tuổi Giáp-Ngọ (1954) thì rồng mây tương hội, công danh hiển hách, phú quí giàu sang. Nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“ Cuộc đời vốn được an nhàn
Rồng mây tương hội giàu sang mấy hồi
Gia đình dầu có xa xôi
Cửa nhà tốt đẹp hạ hồi thuận duyên”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu trúng vào “Nhứt Kiết”; nếu muốn xây cất nhà cửa, chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Tháng 3, tháng 9, gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hay tang chế bà con. Tuy nhiên việc làm ăn rất thắng lợi và thành công. Qúy ông làm công chức được thăng quan tấn chức. Qúy ông kinh doanh thương mãi cũng vững bền tài lộc. Đồng thời nhiều cơ hội đi xa xuất ngoại vui vẻ sẽ tới trong năm.
NỮ: Cung Tốn, sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Người thông minh nhiều sáng kiến, dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh và luôn gặp qúi nhân trong đời. Số hơi vất vả buổi đầu, nhưng trung và hậu vận lại phát đạt thành công. Hồng nhan đa truân, tình duyên thường có trắc trở chia ly rồi lại tái hợp vững bền. Sẽ nhờ chồng nếu gặp tuổi Ất-Mùi (1955), Tân-Mão (1951), At-Dậu (1945). Đời sống khỏi lo lắng nhiều, chỉ nhờ cần cù nhẫn nại mà vẫn sung túc an nhàn. Rất hạp màu trắng. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam và Đông Nam.
“ Quý-Tỵ hậu vận thành công
Qua bao thử thách vợ chồng đẹp đôi
Làm ăn phát đạt thảnh thơi
Thăng quan tiến chức cứ ngồi hưởng thôi”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết”, nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Mặc dù tháng 1, tháng 7 gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con. Tuy nhiên muốn thay đổi chỗ ở, chỗ làm hay đi xa xuất ngoại sẽ gặp hoàn cảnh thuận lợi vui vẻ.
TÂN-TỴ 73 TUỔI : (Sinh từ 27/1/1941 đến 14/2/1942).
Mệnh: Bạch Lạp Kim (Vàng ở chân đèn).
NAM: Cung Khôn, sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Mẫu người có tài năng thích lãnh đạo chỉ huy, thích làm việc cộng đồng, nhưng đôi khi hơi võ đoán chuyên quyền. Chữ “Tân” là cay đắng khổ sở nên khi thì công danh tột đỉnh, có lúc lại trắng tay. Phải sớm ly hương xa cha mẹ anh em mới khỏi bị mồ côi. Hậu vận thích triết, thích đạo lý và có khuynh hướng tu hành hướng thượng. Người sinh mùa Xuân, Thu rất thành công. Kỵ màu đỏ. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“Tài trai ngang dọc uy nghi
Dang tay gánh vác sá chi thân mình
Hy sinh vì nghĩa chân tình
Nặng lòng chung thủy hiển vinh an nhàn.”
“ Thất thập cổ lai hi”. Vậy đã 73 tuổi, qúy ông nên tính chuyện về hưu “ rửa tay gác kiếm”, qui ẩn giang hồ may ra có thể tránh được bệnh hoạn ốm đau. Xấu nhất là tháng 1, 7 trong gia đình có người phát bệnh hoặc tang chế bà con. Qúy ông còn lái xe, cũng phải cẩn thận đề phòng rủi ro về xe cộ trong 2 tháng này. Không nên đầu tư chứng khoán, may ít rủi nhiều trong năm nay. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại vì nhiều bất trắc.
NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người biết lo xa, có tinh thần trách nhiệm, nhiều mưu cơ, giỏi ứng biến. Tiền vận rất gian nan thăng trầm về công danh, đường chồng con cũng nhiều trở ngại khó khăn. Tuy nhiên khi ly hương thì lại đạt nhiều mơ ước. Tuổi già thích đạo lý và tu hành, giúp đỡ người, làm điều phước thiện. Vật chất tiền tài sung túc thì nên tiếp tục làm phước. Sự giàu sang phú quí hiện tại, một phần là do bàn tay và khối óc, một phần là nhờ ở phúc đức của chính mình. Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc
“Công danh dầu dãi khó khăn
Tạo nhiều phước đức công bằng Trời ban
Qua hồi vất vả gian nan
Trăm năm hạnh phúc vẻ vang một đời”
Năm nay tháng 3, tháng 9 gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hoặc tang chế bà con. Cổ nhân nói “Thất thập cổ lai hi”. (Được sống tới 70 cũng ít). Vậy năm nay qúy bà đã 73 tuổi, nên về hưu, “rửa tay gác kiếm, qui ẩn giang hồ” may ra có thể tránh được bệnh hoạn, ốm đau. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại vì nhiều bất trắc khó lường!
Nguồn Vietstar
Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.
Văn phòng là nơi làm việc hàng ngày nên có quan hệ mật thiết với tài vận và sự nghiệp. Để đảm bảo vận trình suôn sẻ hanh thông, gặp nhiều may mắn, hãy nắm vững những kiến thức cần thiết về cách xem phong thủy văn phòng.
Nếu bạn đang tìm kiếm một ngôi nhà để mua hoặc thậm chí chỉ để thuê, bạn bắt buộc phải lưu tâm đến một số kiêng kỵ phong thủy trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
Phần đông những người đang thuê nhà đều thiếu sự coi trọng đúng mực đối với tầm quan trọng của phong thủy của chính ngôi nhà mình đang sống. Trên thực tế, bản thân ngôi nhà luôn có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực trong cuộc sống của họ, chẳng hạn như lĩnh vực tài lộc, sức khỏe, mối quan hệ, sự nghiệp... theo một cách nào đó.
Chính vì vậy, Nhà đẹp sẽ cho các bạn một số lời khuyên phong thủy đáng giá sau đây:
1. Tránh ngôi nhà ở gần đường cao tốc và tháp điện cao thế
Bạn nên tìm một ngôi nhà có vị trí xa đường cao tốc và tháp điện cao thế, vì nó sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp và sự giáo dục của những người sống trong nhà.
Nếu cửa chính của ngôi nhà đối diện với đường cao tốc, nó có thể ngăn chặn nguồn ánh sáng mặt trời và về lâu về dài, nó có thể khiến bạn có cảm giác bất an.
Nếu ngôi nhà của bạn bị bao quanh bởi những tháp điện cao thế, bạn cùng các thành viên trong gia đình có thể gặp phải nhiều vấn đề về sức khỏe do ảnh hưởng xấu của lượng bức xạ quá lớn.
2. Tránh ngôi nhà ở gần chùa, đền, nhà thờ, bãi tha ma và bệnh viện
Chùa chiền, đền thờ, nhà thờ, bãi tha ma và bệnh viện là những nơi có nguồn khí âm rất mạnh mẽ. Vì thế, nếu bạn sống gần những địa điểm trên, nó có thể gây ra sự bất lợi, rủi ro trong cuộc sống cũng như khiến bạn phải chịu đựng nhiều vấn đề sức khỏe rất nghiêm trọng.
3. Tránh ngôi nhà/tòa nhà tối tăm hoặc cô lập
Sống trong một ngôi nhà tối tăm và u ám sẽ rất dễ thu hút ảnh hưởng xấu và nguồn năng lượng tiêu cực. Nếu năng lượng âm quá mạnh sẽ không có chỗ cho năng lượng dương, vì vậy, phong thủy khuyên con người không nên sống trong những ngôi nhà như vậy. Bạn cũng nên tránh chọn một ngôi nhà đứng một mình hoặc quá cô lập.
4. Tránh ngôi nhà ở gần đồn cảnh sát
Hãy bỏ qua những ngôi nhà ở gần đồn cảnh sát. Lý do là bởi nguồn năng lượng đại diện của nơi này sẽ cuốn bạn vào những vụ kiện tụng và ảnh hưởng đến sự nghiệp của bạn.
5. Tránh ngôi nhà bị bao vây bởi các tòa nhà cao tầng
Nếu bạn sống trong một ngôi nhà bị kìm kẹp bởi những tòa nhà cao tầng xung quanh, nguồn ánh sáng tự nhiên sẽ bị hạn chế làm cho ngôi nhà trở nên tối tăm, ẩm thấp và hiển nhiên là thu hút nguồn năng lượng âm nhiều hơn. Kiểu nhà này sẽ có hại đến sức khỏe của những người sống bên trong.
Khi mua nhà hay thuê nhà, giá cả không phải là tất cả mà còn phải quan tâm đến yếu tố phong thủy để bạn và người thân được sống thật thoải mái trong tổ ấm của mình.
Tý | Sửu | Dần | Mão |
Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi |
Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Mr.Bull (theo Xwie)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
(Theo Việt Báo)
► Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người |
1. Thường xuyên sát sinh Sát sinh là hành vi đứng đầu trong những hành vi làm hao tổn phúc báo nhanh nhất. Trong cuộc sống hàng ngày, sát sinh là việc khó “đoạn tuyệt” được, nhưng nếu không nhất định phải sát sinh thì chúng ta hãy hạn chế sát sinh. Bởi vì sát sinh chính là cách làm hao tổn dần phúc báo của bản thân. Đến khi đã hưởng hết phúc báo từ đời trước thì chúng ta sẽ phải chịu nghiệp báo của sát sinh gây ra. 2. Tức giận, oán giận, cáu kỉnh Đại sư Ấn Quang khuyên bảo: Người phụ nữ không hay tức giận thì con cháu sống thọ hơn. Phụ nữ thường xuyên tức giận cáu kỉnh, sinh con sẽ khó nuôi. Phát giận là điều cứu không được. Tức giận chính là “lửa thiêu rừng công đức.” Chỉ một cơn lửa giận có thể thiêu cháy hết cả phúc đức. Người xưa thường khuyên rằng: Oán giận một lần đối với một người bình thường sẽ làm tiêu tan phúc đức tích lũy trong 100 kiếp. Oán giận một lần đối với cha mẹ, người lớn tuổi, người đại đức, sẽ làm tiêu tan phúc đức tích lũy trong 1000 kiếp. Oán giận cha mẹ hậu quả rõ ràng nhất là “phúc mỏng mệnh nông”.
3. Xung đột với cha mẹ, người bề trên Chống đối, mâu thuẫn với cha mẹ là việc đứng đầu trong những việc làm “tổn phúc bại lộc.” Vô luận là cầu cái gì cũng đều không đạt được, ngàn vạn lần cầu cũng uổng công bởi vì tích phúc không có mà tổn phúc lại nhanh. Sự việc, nhân duyên, làm việc đều không thuận…Nếu như công việc không thuận lợi, cảm tình thống khổ lập tức hiếu thuận với cha mẹ, cha mẹ vui mừng thì hết thảy thiên nhân, quỷ thần đều sẽ đến bảo hộ. Người không chống đối, không có mâu thuẫn với cha mẹ thì công việc sẽ thuận lợi, có nhân duyên tốt đẹp. Nếu như từ nhỏ đã không có mâu thuẫn gì với cha mẹ thì cho dù xuất thân trong gia đình nghèo khó sau này lớn nên cũng có thể trờ thành người có sự nghiệp. Người dùng tiền tài nuôi dưỡng cha mẹ, tương lai tất sẽ giàu có, khá giả. Hiếu thuận nhưng không dùng vật phẩm tiền tài nuôi dưỡng cha mẹ thì cho dù làm đại quan cũng sẽ thiếu hụt tài phú. Nói xấu xuyên tạc bậc thánh hiền, đại đức, một câu làm tổn hại 100 thiện, làm hỏng hết huyết mạch phúc báo của gia đình.
Thiên tướng Nam đẩu tinh . dương . thủy
1. Vị trí ở các cung:
2. Ý nghĩa cơ thể:
3. Ý nghĩa tướng mạo:
Nếu hãm địa thì "thân hình cũng nở nang nhưng thấp".
Thiên Tướng, Hóa Lộc: có nam tính, đẹp trai, thu hút phụ nữ.
4. Ý nghĩa tính tình:
a. Nếu Thiên Tướng đắc địa:
b. Nếu Thiên Tướng hãm địa:
Nói chung, đàn ông có Tướng đắc địa thủ mệnh có đủ đặc tính của phái nam do đó rất có hấp lực đối với phái nữ.
5. Ý nghĩa công danh, tài lộc, phúc thọ:
Thiên Tướng là quyền tinh và dũng tinh nên rất lợi về công danh, nhất là khi tọa thủ ở Mệnh, Quan.
Nếu đắc địa thì được phú quý, phúc thọ, có uy quyền lớn, có danh tiếng. Đàn bà thì rất đảm đang, tháo vác, cũng được phú quý, phúc thọ. Những lợi điểm này chỉ có khi Thiên Tướng không gặp sát tinh (Không, Kiếp, Kình, Hình) hay Tuần, Triệt và khi hội tụ với nhiều sao tốt.
Nếu hãm địa thì bất đắc chí, phải chật vật vì sinh kế, hay bị tai họa, bệnh tật ở mặt.
Nếu gặp hai trường hợp sau thì rất nguy hiểm, dù Tướng đắc hay hãm địa:
a. Gặp Tuần hay Triệt án ngữ:
b. Gặp Hình đồng cung:
Võ cách gặp hai trường hợp này rất hung nguy, hầu hết là những người chết trận.
6. Ý nghĩa của thiên tướng và một số sao khác:
a. Những bộ sao tốt:
- Tử Phủ Vũ Tướng cách: uy dũng, hiển đạt.
- Tướng ấn hay Cáo: võ tướng có danh, quân nhân được nhiều huy chương, có công trạng lớn
- Tướng Mã: anh hùng, tài giỏi, can đảm
- Tướng Y: bác sĩ. Nếu đi với Tả Hữu, Thiên Quan, Thiên Phúc thì thầy thuốc rất giỏi, mát tay.
- Tướng Hồng: có vợ giàu sang, đảm đang, có chồng phú quý.
- Thiên Tướng và Tướng Quân: bất khuất, dũng khí, rất hiển hách về võ: tài ba, đảm lược, cả đối với phái nữ.
- Thiên Tướng và Liêm Trinh: Tướng vốn đôn hậu nên chế được tính nóng nảy, khắc nghiệt của Liêm Trinh.
- Thiên Tướng đắc địa và sát tinh (Phá, Tham, Phục, Kình, Đà, Hỏa, Linh, Không Kiếp): tướng cầm quân, có sát nghhiệp. Tuy nhiên, mối hung họa vẫn tiềm tàng và có thể sinh nghề tử nghiệp.
b. Những bộ sao xấu:
- Tướng Hình: xem mục 5
- Tướng Tuần Triệt: xem mục 5
- Tướng Kình: bị hiểm tai đe dọa thường trực.
- Tướng Liêm Hình: hay bị tù tội
- Tướng Khúc Mộc Cái Đào: đàn bà rất đẹp nhưng rất dâm đãng, có thể làm đĩ sang, với các người có tai mắt, nổi tiếng.
7. Ý nghĩa của thiên tướng ở các cung:
a. ở Phụ:
b. ở Phúc:
c. ở Quan:
d. ở Tài:
e. ở Tử:
f. ở Phu Thê:
g. ở Hạn:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật |