Mơ thấy chai lọ: Sự thỏa mãn hoặc trống rỗng của người nằm mơ –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Hành: Mộc
Loại: Phúc Tinh
Đặc Tính: Phúc Đức, Trường Thọ
Tên gọi tắt thường gặp: Quang
Là một phụ Tinh. Một trong sao bộ đôi Ân Quang và Thiên Quý. Gọi tắt là bộ Quang Quý. Phân loại theo tính chất là Phúc Tinh. Sao này là sao tốt.
Tính Tình: Ân Quang thủ hay chiếu mệnh:
Tính nhân hậu, lòng từ thiện, sự hên, may mắn.
Sự thành tín với bạn bè.
Sự hiếu để đối với cha mẹ.
Sự chung thủy với vợ, chồng.
Sự tín ngưỡng nơi đấng linh thiêng, khiếu tụ.
Người có Ân Quang bao giờ cũng có thiện tâm, chính tâm, chủ làm lành, không hại ai cho nên ít bị người hại, tin tưởng vào phúc đức và nhân quả, được thần linh che chở cho một cách vô hình. Đây là sao của những đệ tử nhà Nho, nhà Phật.
Người có Ân Quang thủ mệnh có yếu tố nội tâm để trở thành phật tử hay ít ra là cư sĩ. Ở ngoài đời thì là bậc quân tử, được thiên hạ quý chuộng nhờ đức hạnh xử thế, nhờ thiện tâm sẵn có.
Cùng với Tả Hữu, Thiên Quan quý nhân và Thiên Phúc quý nhân. Ân Quang chủ sự may mắn thịnh đạt, do sự phù trợ của trời, của người trong nhiều công việc. Tất cả các sao kể trên hợp thành một đoàn phúc tinh, ban nhiều lợi ích từ bạn bè, xã hội, người trên, kẻ dưới và linh thần. Đây là người có đức lớn, có hậu thuẫn rộng rãi.
Phúc Thọ Tai Họa:
Ân Quang có nghĩa là giảm bớt nhiều bệnh tật tai họa, đem lại nhiều may mắn và sống thọ. Ân Quang tượng trưng cho phúc đức của trời ban cho, sự che chở của Trời Phật hay Linh Thiêng cho con người, biểu hiện cho sự giúp đỡ của Trời, còn Tả Phù, Hữu Bật biểu hiện cho sự giúp đỡ của người đời.
Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Phụ Mẫu:
Được cha mẹ thương yêu.
Có thể có cha mẹ nuôi đỡ đầu.
Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Phúc Đức:
Sao Ân Quang là phúc tinh, tọa thủ ở cung Phúc Đức rất thích hợp.
Được thần linh che chở, ước gì được nấy, sống thọ, họ hàng đoàn kết, đùm bọc nhau. Khi chết, được người hiến đất chôn cất.
Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Điền Trạch:
Được hưởng di sản (nhà, đất) của tổ phụ, của cha mẹ để lại.
Được người hiến nhà, hiến đất cho ở.
Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Quan Lộc:
Hay giúp đỡ đồng nghiệp, lấy chí thành mà đãi người.
Được thượng hạ cấp quí trọng, nâng đỡ.
Được chỗ làm, nghề nghiệp đúng sở thích.
May mắn trong quan trường, sự nghiệp.
Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Nô Bộc:
Được tôi tớ đắc lực và trung tín.
Có bạn bè tốt quí mến, giúp đỡ tận tình.
Được nhiều thuộc quyền phò tá.
Được nhiều nhân tình thương yêu.
Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Thiên Di:
Sinh phùng thời, được may mắn, hên ở xã hội.
Được xã hội giúp đỡ, quý nhân phù trợ làm nên.
Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Tật Ách:
Ít bệnh tật, tai họa.
Có bệnh thì chóng khỏi, gặp thầy giỏi, thuốc hay.
Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Tài Bạch:
Thường được người giúp đỡ tiền bạc, của cải.
Thường được nhiều may mắn về tiền bạc.
Có thể được hưởng di sản.
Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Tử Tức:
Có con hiếu với cha mẹ và được cha mẹ thương yêu.
Có thể lập con nuôi để làm phúc.
Có sách cho là có con thánh thần.
Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Phu Thê:
Phúc trời cho được thể hiện bằng:
Hôn nhân vì tình.
Vợ chồng hòa thuận và thương yêu nhau, chịu đựng được nghịch cảnh mà lòng dạ sắt son: đó là trường hợp những người biết thủ tiết.
Ở vậy nuôi con, không tục huyền, không tái giá.
Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Huynh Đệ:
Anh chị em hòa thuận và giúp đỡ lẫn nhau.
Có anh nuôi chị em nuôi.
Có thể có anh chị em kết nghĩa.
Tóm lại, sao Ân Quang là sao rất hay về nhiều phương diện, hữu ích cho bất luận cung nào, cho bất luận tai họa hay hỷ sự nào. Những ý nghĩa trên càng chắc chắn hơn, càng có tác dụng mạnh mẽ hơn nếu được thêm phúc tinh khác đi kèm chẳng hạn như:
Tả Phù, Hữu Bật, Tràng Sinh, Đế Vượng, Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Hóa Khoa, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thiên Thọ, Tứ đức.
Việc tiếp giáp với Ân Quang cũng tốt, tuy không bằng Ân Quang tọa thủ.
=> Những câu nói hay về triết lý nhân sinh cuộc đời đáng suy ngẫm |
Trong cuộc sống rất khó để có được một không gian lý tưởng nhưng bằng cách bày biện và bố trí sắp xếp đồ đạc cũng như các đồ vật trang trí hợp lý, bạn có thể hóa giải các vị trí xấu trong phòng làm việc thường gặp phải.
Ảnh hưởng tiêu cực từ máy tính
Máy tính là vật dụng không thể thiếu của người đi làm dù thuộc bất cứ ngành nghề hay vị trí nào, đặc biệt đối với dân công nghệ thông tin hay dân văn phòng, tuy nhiên sử dụng máy móc thường xuyên dễ gây ảnh hưởng không tốt tới tinh thần, sức khỏe của người làm việc, khiến người làm việc trực tiếp dễ rơi vào tình trạng bực bội, khó gần, nóng nảy, tập trung khó… Khi gặp phải trường hợp đó bạn có thể hóa giải bằng cách đặt một cốc nước để hỗ trợ làm giảm tính kim của máy tính, từ đó giảm bớt sự tiêu cực trong quá trình hoàn thành công việc.
Khu vực làm việc gần nhà vệ sinh
Việc sắp xếp vị trí bàn làm việc gần như bạn khó có khả năng thay đổi mà chịu sự sắp xếp của nhân viên quản lý, nếu vị trí ngồi của bạn là gần nhà vệ sinh thì vị trí đó thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi các luồng không khí xấu từ nhà vệ sinh hướng ra cũng như từ chính sự đi lại của người làm việc trong văn phòng. Trong trường hợp này, bạn có thể hóa giải không gian bằng cách đặt một chậu cảnh có nhiều lá cây, cây có tán rộng vào vị trí giữa bạn và nhà vệ sinh để ngăn chặn luồng khí xấu này ảnh hưởng tới bạn.
Vị trí ngồi đối diện cửa chính
Tại các văn phòng của các công ty nhỏ dễ gặp phải trường hợp lãnh đạo công ty không có phòng làm việc riêng mà ngồi cùng các nhân viên tại văn phòng, tuy nhiên dù trong trường hợp nào bạn cũng nên tránh không đặt vị trí bàn làm việc đối diện với cửa ra vào hoặc vị trí ngồi mà lưng quay ra cửa, hai vị trí này đều nhận được nguồn năng lượng lớn hướng từ phía cửa chính từ đó mà bạn có thể bị chiếu hậu, bị chọc xấu khiến công việc gặp nhiều rắc rối, khó khăn và không ổn định, nếu do bắt buộc phải ngồi tại vị trí đó bạn có thể sử dụng bình phong để ngăn cách giữa chỗ bạn ngôi và cửa chính. Vị trí ngồi thích hợp nhất cho vị trí lãnh đạo của công ty là vị trí ngồi không đối diện với cửa chính đồng thời có thể quan sát hết cả căn phòng.
Có rất nhiều yếu tố cần phải chú ý trong phòng làm việc để không gian khu vực làm việc trở nên thoải mái, con người có thể tập trung cao trong công việc từ đó nhanh chóng hoàn thành được chỉ tiêu, nhanh chóng hoàn thành được công việc được giao. Chúng tôi hy vọng một vài lưu ý trên sẽ giúp bạn có không gian làm việc tốt hơn và đạt được hiệu quả cao hơn.
- Ngày, giờ nên tránh: Ất Sửu, Ất Mùi, Tân Sửu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Tân Mùi
Tuổi Đinh Sửu (1937, 1997)
- Ngày, giờ nên tránh: Đinh Sửu, Đinh Mùi, Quý Sửu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Quý Mùi
Tuổi Kỷ Sửu (1949, 2009)
- Ngày, giờ nên tránh: Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Ất Sửu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Ất Mùi
Tuổi Tân Sửu (1961)
- Ngày, giờ nên tránh: Tân Sửu, Tân Mùi, Đinh Sửu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Đinh Mùi
Tuổi Quý Sửu (1973)
- Ngày, giờ nên tránh: Quý Sửu, Quý Mùi, Kỷ Sửu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Kỷ Mùi.
Theo Đời người qua 12 con giáp
Những ngày đầu tiên của năm mới mọi người đều muốn đi chùa dâng hương lễ Phật để thành tâm cầu khấn hồng ân chư Phật, chư đại Bồ Tát, Hiền Thánh Tăng gia hộ cho bản thân, người thân và gia đình mạnh khoẻ, tai qua nạn khỏi, hạn ách tiêu trừ, gia đình hoà thuận, thế giới hoà bình, chúng sinh an lạc.
Đi chùa lễ Phật đầu năm là một phong tục tốt đẹp, dĩ nhiên rồi. Dù đi làm ăn ở đâu xa, tết trở về làng mình, thắp nén nhang trước mộ tổ tiên, viếng thăm ngôi chùa làng nhỏ bé, nhưng gần gũi và thiêng liêng. Chùa làng không phải chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo mà còn là chỗ để mỗi con người lắng lại lòng mình với những ý nghĩ tốt lành.
Tuy nhiên, việc sửa soạn đi lễ chùa, hoặc sắm lễ vật để đi lễ chùa, người đi lễ cần phải biết những quy định căn bản của nhà chùa mà người hành lễ phải tuân thủ là:
– Điều đầu tiên bạn cần ghi nhớ khi bước vào nhà chính của chùa là nên bước vào từ cửa bên, không bước vào cửa chính giữa; đồng thời không dẫm lên bậu cửa, phải bước qua bậu cửa, nếu không sẽ phạm tội bất kính. Cửa chính nhà chùa từ xưa đến nay chỉ Đức Phật, Ngọc đế, Quốc vương một nước mới được ra vào. Vì thế nhiều ngôi chùa ngày thường không mở cửa chính.
– Vào chùa, nên dùng Phật danh “A di đà Phật” thay tên gọi để mở lời chào trụ trì và tăng ni trong chùa. Khi ra về cũng nên dùng câu này để bái biệt, công đức mang lại vô lượng, cho cả người vãn cảnh và nhà chùa.
– Khi đi lễ chùa bạn nên thắp hương tại đỉnh đặt bên ngoài, hạn chế thắp hương bên trong chùa, vì có thể gây ảnh hưởng đến tượng Phật, pháp khí. Chỉ cắm 1 nén hương vào bát hương, nếu bát hương có hương rồi không cần cắm tiếp. Không cắm hương tùy tiện vào tay tượng, gốc cây, hay đồ lễ…
– Không nên chụp ảnh, quay phim tùy tiện trong chùa.
– Không đứng lễ hoặc quỳ chính giữa Phật đường lễ Phật vì đó là vị trí tối cao của trụ trì. Chỉ đứng lễ hoặc quỳ chếch sang bên một chút.
– Không tự ý lấy sử dụng hoặc mang bất kỳ loại đồ đạc gì của nhà chùa về làm của riêng. Theo nhiều kinh sách và quan niệm truyền thống, những hành vi như vậy gọi là “đạo dụng thập phương thường trụ” (trộm dùng đồ lễ của chúng sinh cúng dàng). Phạm giới luật này khi chết sẽ bị giam vào địa ngục, chịu khổ vô kể. Phật điển ghi rõ, “nhân nhỏ, quả lớn”, thành tâm cúng dàng, lễ dù nhỏ nhưng phúc báo lớn lao; trộm của chùa, vật tuy sơ sài nhưng quả báo không gánh hết.
– Vào Phật đường và Tam Bảo không nên đi giầy dép, nhai trầu, hút thuốc. Tam bảo là nơi tôn nghiêm, có giới hương, định hương, chân hương, đòi hỏi phải trì giới để di dưỡng thanh tịnh, tuyệt đối không gây ồn ào, hỗn tạp.
– Không nên ngắm tượng Phật như một tác phẩm nghệ thuật, trước tượng Phật nên cung kính nghiêm trang, không nhìn ngang ngó dọc, khệnh khạng trước Tam Bảo. Nếu muốn chiêm ngưỡng tượng Phật, nên đứng từ ngoài để quan sát.
– Không chạy qua chạy lại, nói chuyện, bình phẩm, ngồi hoặc nằm trong Phật đường. Không tùy tiện hắt hơi sổ mũi, khạc nhổ… quanh khu vực Phật điện, Tam Bảo.
– Khi vào Phật đường, đi vòng quanh tượng Phật và khu vực Tam Bảo, lưu ý đi từ phải sang trái, niệm tên Phật “A di đà phật” sẽ được hưởng 5 điều phúc đức: Hậu sinh đoan chính, đẹp; lời ăn tiếng nói rõ ràng dễ nghe; hóa sinh thăng thiên; có thể được sinh ra trong gia đình quyền quý; siêu sinh đạo Niết Bàn.
– Sử dụng đồ của chùa, như ăn uống, thụ lộc, nên lưu công đức, dù ít hay nhiều. Không nên coi đó là của chùa, trụ trì cho thì nhận mà không bố thí chút công đức, vì nếu làm vậy sẽ phạm tội “luân đạo thực quả báo” là căn nguyên rơi vào địa ngục.
– Không để trẻ em chạy loạn Tam bảo, nghịch ngợm các đồ tế khí, sờ mó tượng phật…
– Không được tùy ý làm ồn hoặc nói những lời bất kính đối với Phật, Thánh, cũng không được có thái độ thiếu cung kính như tùy tiện dùng tay chỉ trỏ vào tượng Phật.
– Khi bước đi không nên cắt ngang qua mặt những người đang quỳ lạy.
– Muốn làm lễ thì không nên quỳ phía sau những người đang đứng thắp hương. Tùy vào từng môn phái, có thể đứng/quỳ khi làm lễ nhưng cần phải lên trước.
– Đến dâng hương tại các chùa chỉ được sắm các lễ chay: Hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi, chè… Không được sắm sửa lễ mặn như cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt gà, giò, chả…
– Hoa tươi lễ Phật thường là hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu, hoa hồng, hoa cúc…Tuyệt đối không dùng các loại hoa tạp, hoa dại.
– Quả chín dâng lên ban thờ tốt nhất là các loại quả như chuối, thanh long, nho, bưởi, táo, hồng, đu đủ, hồng xiêm…
– Tuyệt đối không đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện (chính điện), tức là nơi thờ tự chính của ngôi chùa. Trên hương án của chính điện chỉ được dâng đặt lễ chay, tịnh. Việc sắm sửa lễ mặn (như gà, giò, chả, rượu, trầu cau…) chỉ có thể được chấp nhận nếu như trong khu vực chùa có thờ tự các vị Đức Ông (vị thần cai quản toàn bộ công việc của một ngôi chùa), Thánh, Mẫu và chỉ dâng đặt tại ban thờ hay điện thờ mà thôi.
– Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng Phật, Bồ Tát tại chùa. Nếu có sửa lễ này thì thí chủ đặt ở bàn thờ Thần Linh, Thánh Mẫu hay ở bàn thờ Đức Ông. Tiền thật cũng không nên đặt lên hương án của chính điện, mà nên bỏ vào hòm công đức.
– Tại chùa, không để tiền thật lẫn tiền âm phủ lên ban thờ hay mâm lễ. Tại đình, đền có thể đặt tiền âm phủ nhưng không nên đặt tiền thật.
– Rượu, bia, thuốc lá không đặt được trên ban thờ Phật nhưng có thể đặt trên ban thờ Thánh.
– Không nên mang theo mũ áo, khăn, túi xách, gậy gộc, bao tay… vào tam bảo bái Phật. Lỡ đặt những đồ đạc như vậy trên bàn, trên chiếu hoặc trong góc tam bảo để bái Phật thì mọi công quả tu dưỡng bấy lâu đều tiêu tán. Đi lễ chùa, tốt nhất không mang theo những đồ tùy thân khi vào tam bảo.
– Khi vào chùa cần mặc quần áo dài, kín cổ, giản dị, sạch sẽ, đặc biệt không mặc váy ngắn, quần cộc, áo hở lườn hở nách… Nhiều người khi lễ Phật, thậm chí nhiều vị trí nhạy cảm phơi hết ra ngoài, vừa phạm giới uế tạp Phật đường, vừa phạm giới bất kính, khẳng định công quả tiêu tán hết, quả báo vô cùng.
Theo quan niệm của nhà Phật, Phật chỉ phù hộ an bình, che chở cho con Phật chứ không thể phù hộ đường công, danh, tài, lộc. Vì vậy, khi chúng ta làm lễ cầu tới cửa Phật nên xin được Phật che chở, bảo vệ. Vào đình, đền bạn có thể cầu xin may mắn trong sự nghiệp, tình cảm…
Tất cả tiền thật đều nên đặt vào hòm công đức chính. Không nên đi “rải” tiền trên tất cả ban thờ hoặc đặt vào tay tượng. Một lưu ý quan trọng là thay vì đặt tiền vào hòm công đức chính giữa, bạn nên đặt tiền vào hòm công đức nằm lệch bởi hòm công đức đặt chính giữa.
– Không lấy cành lộc mang về đặt lên ban thờ nhà mình. Cành lộc chứa nhiều trường khí âm, bất lợi cho gia tiên, thần linh tại gia.
– Có thể lấy lộc là bánh kẹo, bao diêm, bật lửa nhưng đều không mang về đặt lên ban thờ.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!Kính lạy Đức Ông Tu Đạt Tôn Giả, Thập Bát Long Thần, Già Lam Chân Tể.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là ……………………………………
Ngụ tại ……………………………………………..Cùng cả gia đình thân tới cửa Chùa …………………trước điện Đức Ông, thành tâm kính lễ, hiến dâng phẩm vật, kim ngân tịnh tài. Chúng con tâu lên Ngài Tu Đạt Tôn Giả từ cảnh trời cao soi xét.
Chúng con kính tâu lên Ngài Già Lam Chân Tể cai quản trong nội tự cùng các Thánh Chúng trong cảnh nhà Chùa.
Thiết nghĩ: Chúng con sinh nơi trần tục, nhiều sự lỗi lầm, hôm nay tỏ lòng thành kính, cúi xin Đức Ông thể đức hiếu sinh, rủ lòng tế độ che chở cho chúng con, tiêu trừ bệnh tật tai ương, vui hưởng lộc tài may mắn, cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện!
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Đệ tử con thành tâm kính lạy Mười phương chư Phật, chư vị Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, Hộ pháp Thiện thần, Thiên Long Bát Bộ.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là ……………………………………
Ngụ tại ………………………………………………Thành tâm dâng lễ bạc cùng sớ trạng lên cửa Mười phương Thường trụ Tam Bảo.
Chúng con xin dốc lòng kính lễ:
– Đức Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc Tây phương.
– Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ cõi Sa Bà.
– Đức Phật Dược Sư Lưu Ly giáo chủ cõi Đông phương.
– Đức Thiên thủ, Thiên nhãn, Ngũ bách danh tầm thanh cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
– Kính lạy Đức Hộ Pháp thiện thần Chư Thiên Bồ Tát.
Kính xin chư vị rủ lòng từ bi, phù hộ độ trì cho con, nguyện được ………………………………(công danh, tài lộc, giải hạn, bình an…).
Nguyện xin chư vị, chấp kỳ lễ bạc, tâm thành (sớ trạng) chứng minh, chứng giám cho con được tai qua nạn khỏi, điều lành đem đến, điều dữ tiêu tan, phát lộc phát tài, gia trung mạnh khỏe, trên dưới thuận hòa an khang thịnh vượng.
Chúng con người phàm trần tục lầm lỗi còn nhiều. Cúi mong Phật, Thánh từ bi đại xá cho con (và gia đình) được tai qua nạn khỏi, mọi sự tốt lành, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Con cúi lạy Đức Thánh Hiền, Đại Thánh Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là ……………….
Ngụ tại ………………………….
Chúng con thành tâm tiến dâng lễ bạc, oản quả, hương hoa. Cầu mong Tam Bảo chứng minh, Đức Thánh Hiền chứng giám, rủ lòng thương xót phù hộ cho con được mọi sự tốt lành, hạnh phúc an lạc ………… (tài lộc, cửa nhà)
Cúi mong Ngài soi xét tâm thành, phù hộ cho gia đình chúng con được sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Nam mô Đại từ, Đại bi Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
Kính lạy Đức Viên Thông giáo chủ thùy từ chứng giám.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là …………………
Ngụ tại ……………………………
Thành tâm đến trước Phật đài, nơi điện Đại bi, kính dâng phẩm vật, hương hoa kim ngân tịnh tài, ngũ thể đầu thành, nhất tâm kính lễ dưới Toà sen hồng.
Cúi xin Đức Đại Sỹ không rời bản nguyện chở che cứu vớt chúng con như mẹ hiền phù trì con đỏ. Nhờ nước dương chi, lòng trần cầu ân thanh tịnh, thiện nguyện nêu cao. Được ánh từ quang soi tỏ, khiến cho nghiệp trần nhẹ bớt, tâm đạo khai hoa, độ cho đệ tử cùng gia đình bốn mùa được chữ bình an, tám tiết khang ninh thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, gia đạo hưng long, mầm tai ương tiêu sạch làu làu, đường chính đạo thênh thang tiến bước. Cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Phải thôi, phải thôi! Do phấn đấu cả đời người mà chưa thi thố được tài năng về chính trị, cuối cùng Khổng Tử phải làm ông thầy dạy học, sau khi đã bươu đầu sứt trán, bất đắc dĩ phải cúi đầu nhận mệnh. “Không biết mệnh, không phải là nhà nho”, đó là ông tự vận vào mình sau khi bị nhiều lần thất bại, tâm tình ngày càng đi xuống, thế thì làm thế nào để “biết mệnh” được sớm? Thời Khổng Tử còn sống. Ngoài một số tướng thuật lẻ tẻ ra, đó là một việc không thể làm được, vì rằng lúc đó chỉ biết có mệnh mà không biết cách đoán mệnh.
Sau khi đã phát minh ra thuật đoán mệnh, do bởi tuân theo lời di huấn của bậc đại sư nho giáo, phần lớn là nghiên cứu dự đoán phú quý nghèo hèn, thọ yểu bệnh tật của một con người, tự nhiên đó là mục đích chủ yếu của thuật đoán mệnh.
Tại sao cũng một con người, sau khi sinh ra hoàn cảnh mỗi người lại khác nhau? Theo cách giải thích của nhà mệnh lý học. Tức là khi người đó mới thụ thai, khí âm dương giao lưu, chân tinh hoà hợp, nếu tiếp nhận được thanh khí thì có trí lực, tài năng, nếu tiếp nhận trọc khí thì sẽ ngu đần, có tài trí trong xã hội hẳn được lợi lộc nhiều, cho nên hoặc giàu hoặc thọ, nếu ngu đần làm ăn không phấn phát thì sẽ nghèo hèn mà chết yểu.
Nó phản ánh vào trong mệnh, tự nhiên sẽ hiện ra trong bát tự sao sinh của mỗi người.
Nói về cách tính tương lai của bản thân mệnh chủ, mỗi nhà mệnh lý học đều có một lô biện pháp của mình, đó là đoán phú quý nghèo hèn trước tiên phải xem can ngày trong mệnh của người đó có được lệnh hay không được lệnh, sau đó xem dụng thần có đắc lực hay không đắc lực, cuối cùng xem hành vận có thuận lợi hay không thuận lợi, nếu như can ngày đắc lệnh, dụng thân đắc lực, vận gặp tài quan, thường là phú nhiều phát phúc, đại cát đại lợi, ngược lại thì nghèo khó chao đảo, khổ không kể xiết.
Đoán sinh tử thọ yểu phải xem kỹ tuế vận và nguyên cục dụng thần là hỷ hay kỵ, nếu như tuế vận gặp kỵ thần trùm đấu, hỷ thần không cứu được, nếu nhẹ là hung, nặng thì chết. Nhưng cũng có cách nói. Lấy “tháng sinh mà định” (ngọc môn quan tập) rằng: thọ sinh lấy tháng sinh mà định, tháng sinh ở vào chỗ can chi nạp âm vượng, là ngũ hanh tương sinh không nghịch, giò Tỵ cùng thai, đều đắc số không cùng hình khắc, chủ thượng thọ. Ngoài ra trích thiên tuỷ có cách nói về phú quý nghèo hèn thọ yểu, có ảnh hưởng rất lớn:
1. Làm thế nào biết người ấy giàu, tài khí thông qua cửa ngõ
Thế nào gọi là tài khí thông qua cửa ngõ? Lưu Cơ chú giải rằng: tài liệu thân cường, quan tinh vệ tài, kỵ ấn mà tài có thể phá ấn, hỉ nhật mà tài có thể sinh quan, thương quan trọng tài thần lưu thông, tài thần trọng mà thương quan có hạn vô tài mà ám thành tài cục, tài bộ mà thương cùng lộ, đó đều là tài khí thông cửa ngõ, cho nên giàu. Nhậm Thiết Tiều thì nói bổ sung: tài diệu thân nhược không có quan, tất phải có thực, thương. Thân vượng tài vượng thì không có thực, thương, hẳn phải có quan có sát. Thân có ấn vượng thực, thương nhẹ, tài tinh đắc cục. Thân vượng quan suy ấn thụ nặng, tài tinh đương mệnh. Thân nhảy sang kiếp, không tài ấn mà có thực thương. Thân nhược tài trọng, không quan ấn mà có tỉ kiếp, đều là tài khí thông của ngõ. Do ở mệnh cục, cách luận tài cũng giống luận thê, cho nên có cách nói “thân tài thân thanh mà thân vượng thì vợ đẹp, tài thần trọc mà thân vượng thì giàu có, nếu đi sâu vào nghiên cứu thì thuyết của họ Nhậm có thể tham khảo được. Ông nói: nếu thân vượng có ấn, quan tinh tiết khí, tứ chi không thấy thực, thương đều là tài tinh sinh quan, không thực, thương thì tài tinh cũng nông, chủ thể đẹp nhưng tài mỏng. Thân vượng không có ấn, quan nhược phùng thương, đắc tài tinh hoá thương sinh quan, thì cũng thông căn quan cũng được giúp, không những thê đẹp mà phú dày, thân vượng quan nhược, thực, thương trung kiến, tài tinh không thông với quan, nhà tuy phú nhưng thê xấu. Thân vượng nguyên quan, thực, thương có khí, tài tinh không liền với kiếp, không ấn mà thê, tài đều đẹp, có ấn thì tài vượng mà thê tổn thương. Bốn điều đó cần nghiên cứu kỹ.
Bát tự của mệnh:
Năm Giáp Thân Tháng Bính Tý
Ngày Nhâm Dần Giờ Tân Hợi
Nhâm Thuỷ sinh vào tháng giữa đông, dương nhận đương quyền, xem bề ngoài, chi ngày Dần thực thần Giáp Mộc bị Thân Kim xung phá nhưng hay ở chỗ chi ngày chi giò Dần Hợi hợp cục, hai cái đó là đất của niên can trung hoà và nguyệt can Bính Mộc Hoả trường sinh, thêm vào Tý Thân hợp Thuỷ, Thân Kim không những không xung Dần Mộc và sau khi hợp Thuỷ Thực Thần Giáp Mộc ngược lại được sinh phú, cho nên nói tài khí thông với cửa ngõ, là mệnh của phú ông trăm vạn, phàm là mệnh của bậc cự phú, không phải là tài tinh nhiều ít, chỉ cần sinh hoá có tình, thì tài khí sẽ thông cửa ngõ. Nếu tài tinh lâm vượng địa chi nên kiến quan vì quan tinh có thể làm tiết bớt khí của tài tinh. Nếu như nhật chủ thất lệnh thì hẳn phải có tỷ kiếp tương trợ mới là đẹp và tốt.
Bát tự của mệnh:
Năm Nhâm Thân Tháng Bính Ngọ
Ngày Quý Hợi Giờ Mậu Ngọ
Quý Thuỷ sinh vào tháng giữa mùa hạ, lại gặp giờ Ngọ tháng theo trụ giờ thấu xuất Bính Hoả Mậu Thổ, khó tránh được tài quan quá vượng. Hay ở chỗ trụ ngày Quý Thuỷ đắc địa, càng hay hơn là can năm Nhâm chi tiết toạ trường sinh, thân vượng Nhậm được tài quan, thêm vào ngũ hành không có Mộc, Thuỷ không tiết mà Hoả không trợ, cho nên lấy can năm Nhâm Thuỷ làm dụng thần. Sau đó vận đi về Tây Bắc, Kim Thuỷ đắc địa tuy nói di sản của tổ tiên để lại không nhiều, tay trắng làm nên, trở thành người giàu có 4-5 chục vạn.
2. Làm thế nào biết được quý (sang) quan tinh có lý hội
Giải thích về quan tinh có lý hội, Lưu cơ cho rằng: “quan vượng thân vượng, ẩn thụ vệ quan kỵ kiếp nên quan có thê khử kiếp, hỉ kiếp mà quan có thể sinh ấn, tài thần vượng mà quan tinh thông đạt, quan tinh vượng mà tài thần có đốt, không quan mà ngầm thành quan cục, quan tinh tàng mà tài thần cũng tàng. Những cái đó đều làm quan tinh có lý hội, cho nên quý.
Nhậm Thiết Tiêu thì nói: Thân yếu quan nhược, tài có thể sinh quan. Quang vượng thân nhược, quan có thể sinh ấn. An vượng quan suy, tài có thể phá hỏng ấn. ấn suy quan vượng, tài tinh không hiện. Kiếp nặng Tài nhẹ, Quan có thể khử Kiếp. Tài tinh hoại ấn, quan có thể sinh ấn. Dùng quan quan tàng tài cũng tàng dùng ấn lộ, quan cũng lộ, các quan tinh có- lý hội cho nên quý hiển vậy. Trong mệnh cục do luận quan và luận con cách làm giống nhau, cho nên lại có cách nói! Quan tinh thanh mà thân vượng thì quý, quan tinh trọc (đục) mà thân vượng thì nhiều con về chỗ này, Nhậm Thiết Tiêu nói thêm: nếu thân Vượng, quan vượng ấn cũng vượng, cách cục rất nhanh mà thương, thực tứ trụ, chẳng lẫn chút nào, tài tinh lại không xuất hiện, tình của quan tinh dựa vào ấn, tình của ấn dựa vào nhật chủ, chỉ sinh được một người, cho nên có quan không có vậy. Dù thực thương có hơi tạp cũng bị ấn tinh khắc, can cũng gian nan. Nếu thân vượng, quan vượng, ấn vượng, thực thương ám tang, không thương tổn quan tinh, không bị ấn tinh khắc, tự nhiên quý mà đông con. Nếu thân vượng quan suy, thực thương có khí, có ấn mà tài có thể hoại ấn, không tìa mà ngầm thành tài cục, không quý mà đông con và giàu. Nếu thân vượng quan suy, thực thương vượng mà không tài, có con tất nghèo, nêu thân nhược quan vượng, thực thương vượng mà không có ấn, nghèo mà không có con, hoặc có ấn phùng tài cũng theo luận thuyết này.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Đinh Dậu Ất Tỵ
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Đông phương
Ngày Mậu Dần Quý Mão Mộc địa
Giáp Mộc trong Dần là sát dụng thần
Giờ Đinh Tỵ Nhâm Dần
Tân Sửu Bắc phương
Canh Tý Thuỷ địa
Mệnh này được tạo nên, nhật chủ Mậu Thổ, sinh vào tháng Ngọ giữa mùa hạ, Hoả khí viêm thịnh, lại gặp Hoả của Bính Đinh can chi năm, tháng, giờ sinh phù, Thổ của Mậu Kỷ trợ thân có thể nói thân cực vượng. Vượng lắm nên chế nên tiết cho nên lấy Dần trong chi ngày chế Giáp Mộc của ta thất sát, hoặc trong chi năm tiết Tân Kim trong Dậu của ta, lấy làm dụng thần. Lại xem hành vận, sớm trong năm Dần Mão Thìn Hợp Mộc, vạn hành phương đông được Mộc chế khắc, giữa và cuối năm chuyển sang Bắc phương Tý Sửu Thuỷ Vận, Thuỷ vượng sinh sát, cho nên là mệnh quý và quá phú.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm sát Quý Mão Nhâm Tuất Tây phương
Tháng sát Quý Hợi quan ấn Tân Dậu Kim địa
Ngày Đinh Mão ấn Canh Thân
Kỷ Mùi Nam phương
Giờ Tân Hợi Mậu Ngọ Hoả địa
Đinh Tỵ
Trong cục quan sát nắm quyền, tựa hồ thương uý, tốt ở địa chi Hợi Mão cung ấn, lưu thông Thuỷ khí, cho nên quan tinh có được lý hội. Đầu vận Tân Dậu. Canh Thân sinh sát hoại ấn, công danh đau tranh. Kỷ Mùi nhất vận, đại vận địa chi Mùi sẽ cảm ứng với mệnh cục Mão suy: Đại vận thiên can thấu xuất thực thần Kỷ Thổ, cho nên vận trình đi lên. Từ đó về sau Mậu Ngọ, Đinh Tỵ, thương sát thấu ra Tỷ kiếp trợ Thân, nên con đường thi cử huy hoàng, do đó có thể thấy, có mệnh ấy thì được vận ấy, nếu không chỉ mãi là hàn nho.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm quan Quý Dậu Bính Thìn Đông phương
Ât Mão Mộc địa
Tháng kiếp Đinh Tỵ Giáp Canh
Ngày Bính Ngọ Quý Sửu Bắc Phương
Giờ sát Nhâm Thìn Nhâm Tý Thuỷ địa
Tân Hợi
Bính Hoả sinh vào tháng đầu mùa hạ, toạ lộc lâm vượng, lại gặp can tháng Đinh kiếp trợ thân, cho nên bản thân thuộc cường, tốt ở địa chi Kỷ Dậu cung Kim, tài có thể sinh quan, quan lại chế kiếp. Càng hay hơn là Can giờ thấu xuất Nhâm Thuỷ, giúp khởi can năm quý quan, trỏ thành tượng ký tế của trụ tháng trụ ngày, kết hợp đại vận, một khi tiền vào Bắc Phương Thuỷ Địa, đăng khoa phát giáp, danh lợi đều sáng.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tài Giáp Ngọ sát ấn Đinh Mão
Tháng quan Bính Dần tài quan ấn Mậu Thìn
Ngày Tân Dậu tỉ Ky Tị
Giờ ấn ẩn tỉ thực Canh Ngọ
Tân Mùi Nhâm thân Quý Dậu
Mệnh này bản thân can ngày Tân Kim, can năm tài tinh, can tháng quan tinh, can giờ ấn tinh, đều thông căn lộc vượng. Canh Ngọ nhất vận, 5 năm trước canh vận đeo vào người, nên trong vận năm Quý Dậu đăng khoa phát Giáp, sau 5 năm Ngọ vận thì sát vượng bệnh phát, thân thuộc hình tang đi đến Tân vận, tỉ đến trợ thân ở năm Kỷ Mão phát giáp lên cao, sau đó vận đi đến Kim Thuỷ. Giúp Thân chế sát, tung cánh bay cao.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Tỵ Canh Thìn
Tháng Tân Tỵ Kỷ Mão
Ngày Canh Thìn Mậu Dần
Giò Giáp Thân Đinh Sửu
Canh Kim ở vào ngày 5 lập hạ, Thổ đương lệnh mà Bính Hoả lại chưa nắm quyền, sinh canh Kim toạ thực, thêm vào chi Thìn, giờ Thân, sinh phù đều vượng, can tháng Tân kiếp, chi năm trường sinh là giúp, có thể thấy đấy là mệnh chưa sát ít. Phân tích trong mệnh tuy chi năm thấu xuất tài tinh nhưng tài tinh này vô căn mà gặp kiếp, cho nên có thê bói khi giao vào Đinh vận, do quan tinh nguyền thần phát lộ. Cho nên trong 2 năm Mậu Dần, Kỷ Mão tài tinh đắc địa. Thời hỉ dụng đều đến, khoa Giáp cùng đạt, sách nói: lấy sát hoá quyền, hiện rõ vẻ quý nơi cửa.
3. Sao biết người ấy nghèo
Tài thần Phân Bất gọi là “tài thần Bất Trân”, Nhậm Thiết Tiều cho rằng đại thể có 9 loại tình hình: một là tài năng mà thực, thương nhiều, hai là tài nhẹ hỉ thực, thương, mà ấn lườm tổn tài, ba là tài nhẹ kiếp nặng mà kỵ thấy thực thương, bốn là tài nhiều kiếp nhẹ mà quan tinh chế kiếp, năm là hỉ ấn mà tài tinh hoại ấn, sáu là kỵ ấn mà tài tinh sinh quan, bảy là hỉ tài mà tài hợp giảm thần mà hoá, tám là kỵ tài mà tài hợp gián thần hoá tài, chín là quan sát vượng dung ấn mà tài tinh đắc cục, đều là: phàm mệnh bại nghiệp phá gia, mới xem tựa hồ tốt đẹp, không tài quan đều đẹp thì can chi đều thanh không sát ấn tương sinh, thì tài làm vượng địa, không biết tài quan tuy có thể dưỡng mệnh vinh thân, đầu tiên nhật chỉ phải vượng tướng, mới có thể đảm đương tài phú, nếu thái quá bất cập, đều là bất trân, có thể tán có thể hao; rốt cục không thể phú quý được.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Quý Mão Quý Sửu
Tháng Giáp Dần Nhâm Tý
Ngày Đinh Tỵ Tân Hợi
Giò Kỷ Dậu Canh Tuất
Mệnh này Dậu tài tàng mà Quý sát lộ và sát ấn nối liền Bắc Phương, nhưng do sát can năm vô căn và tinh hoa của sát bị ấn thụ lấy mất, cho nên không dùng Quý Thuỷ làm dụng thần. Lại xem tài của Dậu Kim ở chi giờ, bên trên có Kỷ Thổ che trùm đầu, xem ra là đẹp nhưng mà toàn bộ cách cục Mộc vượng Thổ hư, tướng Hoả phùng sing, cho nên Kỷ Dậu không hội Kim thành tài, khiến cho tài tinh bất chân. Kết hợp đại vận khi giao Nhâm Tý, tiết Kim sinh Mộc, làm suy bại hết tổ nghiệp. Sau đó đi đến Quý vận, ấn gặp trường sinh, sẽ bị chết đói.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Nảm Tân Sửu Ất Mui
Tháng Bính Thân Giáp Ngọ
Ngày Qúy Tỵ Quý Tỵ
Giò Canh Thân Nhâm Thìn
Trong mệnh Bính tài tọa lộc, trong Sửu nhất sát độc thanh, xem ra tựa tốt đẹp, đáng tiếc trong cục ấn tinh qúa nặng, Sửu sát sinh ấn che tài, thêm vào Bính Tân Kim hợp mà hoá Thuỷ, biến tài thành kiếp, canh thân ở Tỵ, tài càng bất chân. Đầu hành vận, người Ất Mùi, Giáp Ngọ, Mộc Hoả đều vượng, thực thần sinh tài. Tổ nghiệp phong lưu. về sau một khi giao với Quý Tỵ, Tỵ cùng Thân Kim trong mệnh, đều hợp thành Thuỷ, khắp nơi Tỷ kiếp, bại tan như vôi, cuối cùng lâm cảnh ăn mày.
4. Sao biết người đó hèn
Quan tinh vẫn không thấy, Nhậm Thiết Tiều cho rằng quan tinh không thấy là do 3 tình huống, mức trên, mức giữa và mức dưới. Quan nhẹ, ấn nặng, thân vượng hoặc quan nặng ấn nhẹ, thân nhược, hoặc quan ấn bằng nhau, nhật chủ hưu tù, đây là quan tinh không thấy ở mức trên. Quan nhẹ, kiếp nặng, vô tài hoặc quan sát nặng vô ân, hoặc tài nhẹ kiếp nặng, quan phục, đó là quan tinh không thấy ở mức giữa.
Quan vượng hỉ ấn, tài tinh hoại ấn hoặc quan sát nặng vô ấn, thực thương cường chế hoặc quan nhiều kỵ tài, tài tinh đắc cục hoặc hỉ quan tinh mà quan tinh hợp với thần khác mà hoá thương, hoặc kỵ quan tinh, thần khác hợp quan tinh mà lại hoá quan, đó là quan tinh không thấy ở mức dưới.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý
Ngày Đinh Hợi Giờ Giáp Thìn
Đinh Hoả sinh vào giữa mùa Đông, Can tháng thấu xuất Nhâm Thuỷ, địa Chi Hợi Tý Sửu hội bắc phương Thuỷ cục, mà Thìn lại là đất ướt. Không thể không chế được Thuỷ mà còn làm mò Hoả, thêm vào nhật chủ hư nhược, Giáp Mộc khô héo, Mộc ướt không thể sinh ra ngọn lửa được. Cho nên quan tinh vượng cực bất chân, trở thành tượng trong và khô. Tốt ở trong cục không có Kim, khí thế thuần trong, là người học vấn thực sự, xử thế không câu nệ, lấy việc dạy học làm kế sinh sống hàng ngày, chịu phận thanh bần, đó gọi là “quan tinh không thấy ở mức cao”
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Bính Thìn Tân Mão
Tháng Canh Dần Nhâm Thìn
Ngày Bính Ngọ Quý Tỵ
Giờ Nhâm Thìn Giáp Ngọ
Ất Mùi
Mệnh này Canh tài lâm vào tuyệt địa, vô căn, khí quan tinh cũng không đủ, vận đi về đông nam đất của Mộc Hoả, cho nên lúc nhỏ chết cha, mẹ đi lấy người khác, mấy năm sau mẹ chết, chăn trâu sông qua ngày. Lúc mối lớn lên đi ở kiếm sống, về sau không may mù cả hai mắt, không làm thuê mà đi xin ăn để sống.
5. Sao biết người ấy cát
Hỉ thần là phù bật hỉ thần là dụng thần phù bật, thuộc về cát thần trong tứ trụ nếu như có hỉ thân dụng thần có thể cả đời cát nhiều hung ít. Ngược lại trong tứ trụ không có hỉ thần xuất hiện, tuy có dụng thần nêu tuế vận không gặp kỵ thần xung khắc thì thôi, nếu qủa gặp kỵ thần, phần lớn khó tránh hung tai.
Bát tự của mệnh:
Năm sát Giáp Tý Tháng ấn Bính Dần sát ấn tĩ
Ngày Mậu Dần Giờ Kỷ Mùi
Đầu xuân, đất lỏng cát vượng phùng tài, cho nên lấy chính ấn Bính Hoả là dụng thần. Chi năm tài tinh sỏ thích cách với quả ấn và tài sinh sát, sát sinh ấn, có sinh sinh không sạch, lại lấy giờ Mùi giúp bản thân làm hỉ thần, hơn nữa tứ chi thuần tuý, chủ tòng đắc nghi thần, cho nên sớm đăng khoa Giáp, cả đời chỉ cát không hung, làm tới chức quan sát. Cuối đòi về hưu, phu phụ song toàn, thọ đến 80, mấy đời con cháu đều thi cử đỗ đạt
Bát tự của mệnh:
Năm Bính Thân Tháng Kỷ Hợi
Ngày Canh Thìn Giờ Mậu Dần
Đây là hàn Kim hỉ Hoả, can năm Bính Hoả được chi giờ Dần Mộc tương sinh, thì Hoả có ngọn lửa, nhưng dụng tài sát đầu tiên phải thân ngày vượng, hiện tại can ngày Canh Kim hỉ phùng Kim trong chi năm là lộc và tam ấn can tháng Kỷ Thổ, can giờ Mậu Thổ, chi ngày Thìn Thổ đều sinh, thêm vào chi Hợi Thuỷ đương quyền, thân Kim tham sinh không xung Dần Mộc. Xem cả toàn cục, không Hoả thì Thổ đông Kim hàn, không Mộc thì Thuỷ vượng Hoả hư, cho nên cân nhắc lấy Hoả làm dụng thần, Mộc làm hỉ thần, cả hai Mộc Hoả không thể thiếu một. Trong đoàn viên trúng hỉ, dụng thần. Cho nên cả đòi không hung không hiểm, đăng khoa phát Giáp, quan chức lên cao, con cháu đều đẹp, thọ ngoài 80 tuổi.
6. Sao biết người ấy gặp hung
Kỵ thần theo Triển Thế Công nói: gọi là kỵ thần tức là thần làm tổn hại dụng thần. Kỵ thần trong bát tự là bệnh, hỷ bệnh không thuốc. Có bệnh có thuốc là cát, có bệnh không thuốc là hung, như người sinh tháng Dần, nếu không dùng Giáp Mộc mà dùng Mậu Thổ, thế thì Giáp Mộc khắc Thổ sẽ thành kỵ thần của đương lệnh. Lúc này trong mệnh cục của nhật chủ nêu có Hoả hoá Mộc, có Kim chế Mộc, Hoả Kim này sẽ thành hỉ thần, nếu từ đó về sau hành vận càng phù hỉ ức kỵ đều có thể chuyển hung thành cát. Ngược lại nếu trong mệnh trong vận không có Hoả hoá Mộc, không có Kim chế Mộc, trái lại có Thuỷ sinh Mộc, có Mộc nuôi Mộc thế thì tai hoạ nhiều bề, đến già cũng không cát, ngoài ra, tuế vận tuy chưa thể phù hỉ ức kỵ nhưng cũng không kết bè với kỵ thần thế thì suốt đời không hung không cát làng nhàng đến già. Vì thế Lưu Cơ nói: tài cung không có khí, dụng thần vô lực, chẳng qua không phát đạt được mà thôi, cũng không bị hình hung. Còn như kỵ thần quá nhiều, hoặc hình hoặc xung, tuế vận trợ giúp. Chuyển sang công kích thần trong cục không được chuẩn bị, lại không theo chủ, không tránh khỏi hình tang phá bại, phạm tội, đến già cũng không cát.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Hợi Đinh Sửu
Tháng Mậu Dần Bính Tý
Ngày Bính Tý Ất Hợi
Giờ Giáp Ngọ Giáp Tuất
Mệnh này Bính Hoả sinh vào ngày tháng Dần. Trong cục Dần Hợi hoá Mộc, năm đi vào Giáp Ất đều thấu, ấn tinh quá thịnh vượng mà chi ngày Tý Thuỷ lại bị chi giờ Ngọ Hoả xung phá, cho nên đành lấy can tháng khiếm Thổ làm dụng thần. Lại nhìn khí thế trong cục. Giáp Ất Mộc vượng, ngược lại được Hợi Tý Thuỷ sinh, đó là nói kỵ thần triển thế công vậy. Kết hợp vận trình, vận đầu Đinh Sửu, trợ khởi dụng thần, xuất thân cự phú, vui sướng đầy nhà. Khi giao với Bính Tý, Hoả không thông căn, Thuỷ trợ kỵ thần, nếu bố mẹ không chết, thì liên tiếp gặp Hoả tai. Vận đến Ất Hợi, Thuỷ Mộc đều vượng kỵ thần mỏ rộng, lại gặp Hỏa tai, khắc tam thê tự tử, nhảy xuống nước mà chết.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tân Tỵ Kỷ Sửu
Tháng Can Dần Mậu Tý
Ngày Bính Thìn Đinh Hợi
Giờ Kỷ Sửu Bính Tuất
Ất Dậu
Bính Hoả tuy sinh vào tháng Dần nhưng xem rộng toàn cục Thổ Kim đều vượng, cho nên lấy Bính Mộc làm dụng thần. Nhưng Dần là cây non đầu mùa xuân, kỵ thấy Canh Kim che đầu nên lấy Canh là kỵ thần trong cục. Hành vận lúc đầu giao với Kỷ Sửu, Mậu Tý, sinh Kim tiết Hỏa, cha mẹ đều mất, sống cô độc không chịu nổi Đinh Hợi, Bính Tuất, vì Hoả đến Dậu đất Phương Bắc, không thể khử hết kỵ thần, cho nên trải đủ phong sương, lập nên gia nghiệp vừa phải. Khi giao với Ất Dậu, Ất hợp với can tháng Canh Kim, Dậu hợp với chi ngày Thìn Thổ mà hoá Kim, kỵ thần đắc thế, hình thê khắc tử, gặp Thuỷ tai mà chết.
7. Sao biết người ấy thọ
Tính định nguyên thần dày gọi là “tính định” tức là 4 chi trong cục đắc địa, ngũ hành dừng đều, những gì hợp đều là gian thần, những gì hoá đều là dụng thần, những gì xung đều là kỵ thần, những gì lưu đều là hỉ thần. Khuyết nguyên không hãm, không thiên lệnh không bóp méo. Con người “tính định” không tham yêu đương, không làm việc cẩn thả, là người nhân hậu hoà bình, nhân đức đều đủ, cho nên nhiều phúc, nhiều thọ. Gọi là “nguyên thần dày” tức là 4 chi trong cung nhược, gặp tài, tài nhẹ, gặp thương, thân nhược có ấn thụ sinh thân, thân vượng có Thực, Thương, Thổ ra, những gì hỉ đều là thần của đề cương, những gì kỵ là vật thất lệnh, hơn nữa đề cương có tình với chi giờ, hành vận cũng hỷ dụng thần không dừng, cho nên phú và thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Tân Sửu Tháng Quý Tỵ
Ngày Giáp Tý Giờ Bính Dần
Mệnh này tứ trụ thông căn sinh vượng, đầu nguồn lưu thông, rất là đặc sắc. xem trước 4 chi, bản thân Giáp Mộc, quy lộc ở chi giờ, ấn thụ Quý Thuỷ lộc ở chi ngày, thực thần Bính Hoả, lộc ở chi tháng, quan tinh Tân Kim, chi toạ bại địa. Lại xem ngũ hành chi tháng Tỵ Hoả sinh chi năm Sửu Thổ. Chi năm Sửu Thổ sinh can năm Tân Kim, can năm Tân Kim sinh can tháng Quý Thuỷ, can tháng Quý Thuỷ sinh can ngày Giáp Mộc, can ngày Giáp Mộc sinh can giờ Bính Hoả, Bính Hoả lại toạ ở trường sinh địa, có thể nói là nguồn xa chảy ra. Vì vậy, người có mệnh chủ này nhân đức đều đủ, cương nhu giúp nhau, chức ở tam phẩm, giàu có trăm vạn, thọ đến trăm tuổi, chỉ chết vì già.
Bát tự của mệnh:
Năm Ất Mùi Tháng Mậu Dần
Ngày Ất Mão Giờ Canh Thìn
Đông phương này chĩa thẳng vào nhân thọ cách, do Hoả khí trong cách suy vi, tài thần suy nhược nguyên khí, Mộc thế quá vượng, quan tinh mỏng mảnh vô cấn, cho nên suốt đời lận đận, trọng nghĩa khinh tài sông nếp thanh bần, nhưng hay ở đông phương nhất khí, nhân thọ thành cách. Lưu Cơ nói rằng: “khí của Giáp Ất Dần Mão lớn, không gặp xung chiến tiết thương, thiên vượng phù phiếm, có được an nhàn nên thọ. Mộc thuộc nhân, nhân thì tho, ai cũng ứng nghiệm”. Vì vậy tuy cuộc sống thanh bần nhưng thọ đến 94 tuổi mới mất.
8. Sao biết người ấy yếu, khí đục thần khô
Gọi là “khí đục”, Nhậm Thiết Tiêu cho rằng: đục tức là nhược. Người khí đục, nhật chủ thất lệnh. Dụng thần nông mỏng, kỵ thần sâu nặng, đề cương cùng chi giờ không chiếu nhau, chi năm và chi ngày không hoà, hỉ xung mà không xung, kỵ hợp mà không hợp, hành vận vô tình với hỉ dụng thần, ngược lại kỵ thần kết bè đãng, tuy không thọ nhưng có con. Gọi là “thần khô”, Nhậm Thiết Tiêu nói tiếp: thần cây bách, thân nhược mà ẩn thụ quá nặng, thân vượng mà đều không khắc tiết. Nhưng trọng dụng ấn mà tài tinh hoại ấn, thân nhược vô ấn mà trùng điệp thực, thương hoặc Kim hàn Thuỷ lãnh mà Thổ ướt hoặc Hoả bốc Thổ táo mà Mộc Khô, đều chết yểu mà không con. Lưu Cơ đã khái quát chung rằng i mệnh khí nhờn thần khô rất dễ xem., An thụ quá vượng, nhật chủ không có cái gì đến, tài sát quá vượng, nhật chủ không chỗ dựa, kỵ thần và hỉ thần tạp mà đánh nhau, tứ trụ nghịch với dụng thần mà tuyệt. Xung mà không Hoà, vượng mà không bị kiềm chế, ướt mà trệ, táo trên mặt, tinh lưu khí tiết, tháng bỏ giò thoát, đó đều là người không thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Nhâm Dần Bắc Phương
kỷ Thổ thương quan
Tháng Ọuý Mão Canh Tý Thuỷ Địa
Ẩt Mộc ân thụ dụng thần
Giờ thực thần
Mậu Tuất Ất Hợi
Mậu Thổ
thực thần Mậu Tuất Tây Phương
Đinh Dậu Kim Địa
Mệnh này Nhật chủ Bính Hoả, sinh tháng Mão giữa mùa xuân, Ất Mộc sinh Hoả, vốn thuộc việc tốt, đáng tiếc Kỷ Thổ trong chi năm Sửu. Mậu Thổ trong chi ngày Tuất, can chi trụ ngày lưỡng trùng Mậu Thổ, thực thương trùng trùng, khiến cho tự mình tiết khí quá nhiều, nhìn xem toàn cục khi lấy Ất Mộc ấn thụ làm dụng thần, đã có thể sinh ra mà còn chế phục được Thổ thái quá. Lại xem đại vận, từ Nhâm Dần về sau, cả một dày Hợi, Tý, Sửu là Thuỷ địa. Thuỷ tuy có thể chế Hoả nhưng Thuỷ lại có thể sinh Mộc, vận ở bước này không thể tốt hơn vận Mộc từ đông phương trực tiếp đến, nhưng lại không miễn cưỡng nói rằng đi qua. Nhưng một hành vận đi vào Tuất Dậu Kim địa, tuy nói Kim là tài vận nhưng Kim có thể khắc Mộc, tài tinh phá ấn, dụng thần bị chế, thế thì khó lòng giữ mệnh.
Bát tự của mệnh: Đại Vận
Năm Ấn thụ Ất Sửu Tân Kim Giáp Thấn
Tháng Ân thụ Ât Dậu Tân Kim, tử Quý Mùi
Ngày Bính Thìn Nhâm Ngọ
Giờ Chính tài Tân Mão Tân Tỵ
Mệnh này Bính Hoả sinh ở tháng Dậu tử địa, không có căn khí, thêm vào can giờ thấu xuất chính tài Tân Kim, chi năm chi tháng, Sửu Dậu cũng ngầm chứa chính tài Tân Kim, có thể nói là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thân, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần, vì rằng ấn, có thể sinh Thân, cho nên dụng thần ở đây sẽ áp tại Ất Mộc sinh ta vậy. Nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày cạn giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ tọa chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thần, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần. Vì rằng ấn có thể sinh ta vậy, nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày can giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ toạ chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài tinh phá ấn, trên dưới vô tình, ở trường hợp này, bề ngoài xem ra dụng thần tuy nhiên, nhưng lại không phải trân dụng, hơn nữa không có Tỷ, kiếp, lộc, nhậm sở hỉ trong mệnh bắt nhau, không khỏi gặp cảnh gian nan. Tốt ở đại vận Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Hoả đến trợ Thân, can ngày đắc địa nên có thể lấy vợ sinh con, nhưng khi giao vào vận Tân Tỵ can ngày Tân trong vận tước bỏ dụng thần Ất Mộc, tài có thể hoại ấn, địa chi trong vận cùng chi năm, chi tháng Sửu, Dậu trong mệnh cấu thành Kim cục, lại ra sức khắc chế thương tinh, ấn tinh chứa trong chi ngày chi giờ trong mệnh, chết yểu khó tránh ở kiếp tinh.
Về vấn đề sinh, tử, thọ, yểu trong Uyên Hải Tử Bình ở phần Cách cục sinh tử dẫn dụng có 7 điều, nêu lên để tham khảo
1. Phàm là cách cục, tự có định luận, giờ nói tóm tắt. Ấn thị kiến Tài hành tài vận lại kiêm tử tuyệt, tất xuống suối vàng, nếu có Tỷ kiên, có thể giải.
2. Chính quan gặp sát và thương quan hình xung phá hại, tuế vận song hành, tất tử,
3. Chính tài thiên tài gặp tỷ kiên chia nhau đoạt, kiếp tài dương nhận, lại gặp Tuế vận xung hợp, tất tử
4. Cách của thương quan, tài vượng thân nhược, quan sát gặp lại, hỗn tạp dương nhận. Lại gặp tuế vận, tất tử, nếu sống bị thương tật.
5. Giữ lộc, giữ quý, sang bằng lại gặp quan xung, nhận gặp tuế vận.
6. Lộc ngày quy giờ, hình xung phá hại, gặp thất sát, quan tinh, không vong, quan sát đại kỵ, tuế vận cùng vận tất tử.
7. Các cách khác đều kỵ sát và san bằng tuế vận cùng đến, tất tử, Gặp các hung thần ác sát, ấn thụ không vong, điếu khách, mộ, bệnh, tử cung chư sát, thập tử nhất sinh. Quan tinh thái tuế, tài nhiều thân nhược, nguyên phạm thất sát, thân được cứu thì cát, không được cứu thì hung, Kim nhiều yểu chết, Mộc thịnh bay trôi, Mộc vượng thì yểu, Thổ nhiều si ngây, Hoả nhiều ngu dốt. Thái quá bất cập, không để câu nệ mà phải quả đoán, cần phải lý hội để tìm ra sinh tử.
Ngoài ra Tam mệnh thông hội ở quyển 8 nói: “Ngày Đinh Hợi, giờ Ất Tỵ, ngày giờ đều xung, tổn thương vợ con, Tỵ, Dậu, Sửu, Than Ty, Thìn 2 cục Kim thuỷ, tài cung đắc dụng nên phú quý vậy. Tiếp theo còn nêu hai ví dụ về Bát tự của mệnh, một là Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Đinh Hợi, Ất Tỵ, nói đó là mệnh nghèo chờ chồng, một là Đinh Hợi, Giáp Thìn, Ất Hợi, Ất Tỵ, đó là mệnh ăn mày. Trên thực tế, do tồn tại khách quan nhiều loại không chuẩn xác, cho nên Trần Tố Am trong khán phú quý cát thọ bần tiện hung yếu pháp đã ra sức cổ vũ khuyến khích tư tưởng làm điều thiện, báo ứng nhân quả của Phật giáo. Lập luận của ông có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng mệnh học của các thế hệ đời sau, cho nên chúng tôi đã trích dẫn sau đây:
Cách cục phú quý cát, nghèo hèn hung, lấy lẽ đã định tương đối chuẩn, nhưng dùng đoán mệnh cho người không ứng nghiệm hoàn toàn là do bản thân có thiện ác và gia tộc có thiện ác. Phúc thiện dâm là lẽ tất nhiên. Như người làm điều ác, mệnh quý đến nhất phẩm thì giảm xuống chỉ còn tứ, ngũ phẩm, mệnh đáng giàu trăm vạn thì giảm xuống còn 6 - 7 chục vạn, mệnh đáng thọ trăm tuổi thì giảm xuống còn 6 - 7 chục tuổi; mệnh đáng hưởng đủ ngũ phúc thì giảm xuống còn 1 - 2. Như người làm điều thiện, mệnh lẽ cực hèn mà được vinh hiển một phần, mệnh đáng cực nghèo, có được tài sản của kẻ trung lưu, mệnh đáng chết sớm mà thọ được mấy chục tuổi, mệnh đáng gặp nhiều hung mà tránh được vài ba. Lẽ đời kẻ làm điều ác sao được hưởng phúc? Người làm điều thiện sao lại gặp hoạ, há không biết phúc đã bị tổn, hoạ đã bị diệt sao? Người biết hoạ phúc sao không biết mệnh, biết thiện ác là âm của hoạ phúc thì là biết mệnh. Tuy vậy, biết thì có ích gì? Có thay đổi được không, xưa Viên Liễu Phàm tiên sinh gặp thầy pháp thuật đoán mệnh, nói đi thì chỉ dừng ở cống sĩ mà không có con. Do trình bày cặn kẽ lý lịch, lúc đầu cái gì cũng đúng, sau gặp vị cao tăng, hướng dẫn học tạo mệnh, tích được phép làm điều thiện và cầu khoa bảng, tích được phép làm điều thiện cầu con cái. Thiên số đã định, thi hai kỳ đỗ cao, điều pháp sư đoán không có gì không nghiệm, cho nên phàm muôn cầu phú quý cát thọ mà tránh nghèo hèn hung yêu thì phải biết tích thiện là cần, hàng ngày tự nhớ việc làm, phải luôn tâm niệm nhân đức, việc việc đều thiện, lâu sẽ được như ý muốn. Nếu cậy mệnh thiện mà dám làm điều ác, mong mệnh giúp đỡ mà không biết suy nghĩ lại, đó là loại người ngu nhất trong thiên hạ, là kẻ sĩ chẳng có ý chí gì.
Đoán mệnh, ngoài đoán giàu nghèo thọ yểu là chính ra, có sách đoán mệnh còn không quên đoán bệnh tật cho người. Muốn đoán bệnh tật trước tiên phải liên hệ ngũ hành với lục phủ, sau đó căn cứ nguyên lý sinh ngũ hành để phân tích. Theo lý luận của Ô y, sự tương phối của ngũ hành với ngũ tạng, lục phủ như sau:
Giáp mật (đỏm) Ất gan (can)
Bính tiểu tràng Đinh tâm
Mậu dạ dày (vị) Kỷ tì
Canh đại tràng Tân phổi (phế)
Nhâm bàng quang Quý thận, tâm bào lạc tam tiêu
Trong đó mật, dạ dày, đại tràng, tam tiêu, bàng quan thuộc lục phủ, tính chất thuộc dương, cho nên đều phối với dương can, gan, tâm, tỳ thận thuộc ngũ tạng, tâm bào lạc thì thuộc vào tâm, tính chất thuộc âm, cho nên đều phối với âm can, ca rằng:
Giáp đơm Ất can Bính tiêu tràng
Đinh tâm Mậu vị Kỷ tỳ hương
Canh thị đại tràng Tân thuộc phế
Nhâm hệ bàng thoát Quý thận tàng
Tam tiêu diệc hướng Nhâm trung ký
Bào lạc đồng quy nhập Quý phương
Lại nói rằng:
Giáp đầu Ất hạng Bính kiên cầu
Đinh tâm Mậu hiếp Kỷ thuộc phúc
Canh thị tề luân Tân vi cổ
Nhâm cảnh Quý túc nhất Thân phúc
Chú thích: hạng (gáy) kiến (vai) hiếp (sườn) phúc (bụng) tề (rốn) cổ (đùi) túc (chân) Nam Định.
Đồng thòi, người xưa còn liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể nhưng nó không quan trọng bằng liên hệ với ngũ tạng, cho nên thường không được coi trọng.
Bây giờ đem việc liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể, ghép thành bài ca như sau:
Tý thuộc bàng quang thuỷ đạo nhĩ
Sửu vi bào đồ cập tỳ dương
Dần dởm phát mạch tịnh lưỡng thủ
Mão bản thập chỉ nội can phương
Thìn Thổ vì tỳ thận hung loại
Tỵ nhi xĩ yết hạ cửu cang
Ngọ Hoả tinh thần tự nhãn mục
Mùi Thổ vị quản cách tích lương
Thân Kim đại tràng kinh lạc phế
Dậu trung tỉnh huyết tiểu trường tàng
Tuất Thổ mệnh môn thoái Hoả túc
Hợi thuỷ vi đầu cập thận nang
Chú thích: bào (tâm bào) đỗ (bụng) đởm (mật) lưỡng thủ (hai tay) thập chỉ (10 ngón) can (gan) hung (ngực) xĩ yết (răng yết hầu) cửu cang (hậu môn) nhãn mục (mắt) vị quản (dạ dày) cách (hoành cách mô) tích lương (cột sống) phế (phổi) thoái (đùi) Hoả (mắt cá) túc (chân)...
Khi xem cụ thể, lấy can chi ngày làm chính, kết hợp ngũ hành sinh khắc thái quá bất cập mà định. Ví dụ can ngày là Giáp, Ất Mộc. Trong bát tự tứ trụ xuất hiện Kim trong Canh, Tân, Thân, Dậu, Mộc sẽ bị khắc, có thể sẽ bị gan mật, kinh sợ, lao lực, tay chân tê cứng, gân cốt đau nhức, đầu váng mắt hoa, hoặc mồm méo mắt xếch, phải trái bị liệt hoặc quỵ ngã thành thương tật. Ví dụ can ngày sinh vẫn là Giáp, Ất Mộc, trong Bát tự tứ trụ xuất hiện Hoả nhiều trong Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ mà không có thuỷ đến trợ giúp, lúc này Mộc khí bị tiết quá nhiều, có thể bị nội nhiệt miệng khô, đòm suyễn khạc ra máu, trúng phong không nói được, phụ nữ kinh nguyệt không đều: mang thai bị sẩy, trẻ con kinh phong cấp mạn tính, ho thở khóc đêm, da xanh xám. Tại sao Mộc bị Kim chế hoặc Hoả tiết quá nhiều mà sinh ra những chứng bệnh này, trong y học cổ truyền đã nói và phân tích nhiều, ở đây không đi sâu bàn luận.
Về cách xem bệnh tật nói ở trên, Trần Tố Am có cách kiên giải độc đáo của ông: xưa phân ngũ hành, luận về bệnh tật của người, không gì không hợp lý nhưng Ngũ hành tạng phủ kinh lạc của con người đều đủ, nhưng trong trụ mệnh trong vận của con người, ngũ hành vị tất đã đủ đầy, phải lấy một hành nào đó để đoán bệnh thì chia đủ linh nghiệm. Phải xem ngày và cách cục của nó, nêu mạnh khoẻ, trung hoà hoặc Hoả thuận đều là mệnh không có bệnh, nếu yếu đuối, xô tạp hoặc rũ xuống đều là mệnh có bệnh. Lại xem khí thế của thần, hoặc thái quá, hoặc bất cập, rồi kết hợp xem ngũ hành trong trụ trong mệnh mà tính, tức là không có Mộc mà sinh Mộc, khắc Mộc, xem thần Mộc sinh Mộc khắc mà có thể đoán Mộc có bị bệnh hay không. Còn như can chi phôi với đầu, mắt, tay chân là ý muốn nói tìm biết tín hiệu. Nếu các bệnh đều thuộc về tâm thì theo luận thuyết của danh y, đâu phải ngũ hành? Phải trích mấy trăm loại sách thuốc để đưa vào mệnh vậy.
Để giản tiện dễ nhớ, lấy một phần bài phú cổ trích ra sau đây:
Gân cốt sưng đau, do Mộc bị Kim làm tổn thương, mắt mờ tối hẳn do Hoả bị thuỷ khắc; Thổ hư gặp Mộc vượng, tỳ bị tổn thương; Kim nhược gặp Hoả viêm là bị bệnh huyết lại nói:
Mộc gặp Kim khắc, bị tai nạn ở lưng sườn, Hoả bị Thuỷ làm tổn thương, tất bị tật mắt; tâm yếu thỏ dội thuộc về Kim Hoả tương hình; tỳ vị tổn thương do Thổ Thuỷ khắc nhau, chi Thuỷ can đều có Hoả bốc nên bụng đau tim bị che; chi Hoả can đầu có Thuỷ tích nên nội chướng mắt mờ; viêm trên (Hoả) đốt Thổ ướt nên đầu váng mắt hoa, nhuận dưới (Thuỷ) thuần ướt không Thổ chế, thận hư tai rè; đom đóm nháy (Hoả tinh) thừa vượng lâm li (Hoả phong); trong gió (trung phong) mất tiếng, thái bạch (Kim tinh) cứng sắc hợp Đoài Khôn (Kim Thổ) mất hồn mất vía.
Kết hợp với học thuật của các học giả Đài Loan thời nay, Từ Bình Bát tự đại đột phá cho rằng: phàm mệnh người, cường Kim phạt Mộc, Thổ nặng Mộc gãy, thuỷ nhiều Mộc trỗi. Hoả viêm Mộc bị đốt, Mộc nặng không tiết đều là gan mật có bệnh”, “phàm mệnh người, thuỷ nhiều Hoả tắt, Thổ nhiều Hoả mờ, Kim nhiều Hoả biến, Mộc nhiều Hoả tắc, Hoả nhiều không tiết, đều là bệnh tiểu tràng, bệnh tim”. “Phàm mệnh người, Mộc nặng Thổ lún, thuỷ nhiều Thổ hoang, Kim nhiều Thổ hư, Hoả nhiều Thổ cháy, Thổ vượng không tiết, đều là bệnh ở tỳ vị”, “phàm mệnh người , cường Hoả làm chảy Kim, Mộc rắn Kim bị thương, Thổ nhiều Kim bị vùi, thuỷ nhiều Kim bị chìm, Kim vượng không tiết, đều là đại tràng và phổi có bệnh” “Phàm mệnh người, Thổ nhiều thuỷ tắc, Kim nhiều thuỷ đục, Hoả nhiều thuỷ bốc hơi, Mộc nhiều thuỷ co lại, thuỷ vượng không tiết, đều là bàng quang và thận có bệnh.
Cách xem tật bệnh ở mệnh cục, học giả Đài Loan Lương Tâm Minh trong cuốn Hiện đại mệnh học còn tích cực để mắt tới việc nuôi dưỡng hậu thiên, đã nêu lên cách nói “tiên thiên hậu thiên điều hoà phù nhau bổ sung cho nhau. Trong sách Luận kiên khang cư gia chính quyết ông nói: thần điều hậu là thần dược, rất quan trọng trong mệnh cục. Mệnh chính cách sinh vào hạ lệnh viêm nhiệt, cần có thuỷ điều hậu tư nhuận, nếu không trong cục Hoả nhiệt quá táo sẽ không tốt. về mặt ăn uống, ăn chất mát thì tốt cho thân thể, những thức ăn táo nóng thì nên ăn ít. Mệnh chính cách sinh vào mùa đông lạnh, cần điều hoà cho ôn ấm, để lạnh quá sẽ không tốt, cho nên ăn chất nóng có lợi cho thân thể”.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
tuế phá (Hỏa)
***
1. Ý nghĩa của tuế phá:
a. Về cơ thể: Tuế Phá là bộ răng
b. Về tính tình:
2. Ý nghĩa của tuế phá và một số sao khác:
- Tuế, Riêu, Đồng, Triệt: rụng răng sớm.
- Tuế, Riêu ở Mệnh: chơi bời lếu láo, du đãng
- Tuế Phá ở Tử: con ngỗ nghịch, khó dạy, phá của
- Tuế Phá ở Di: hay khích bác, châm chọc kẻ khác, tính ưa phá, trêu, mất dạy.
Tuế Phá là sao điển hình của trẻ con đứng đường, nghịch ngợm, hay phá phách, phá hoại, gây gổ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Câu hỏi được các bạn nữ đặt ra nhiều nhất đó chính là trong 12 con giáp chàng trai nào đa tình nhất? Với bản tính thích tự do, ham cái mới khiến những anh chàng tuổi Ngọ và Thìn xếp đầu bảng trong danh sách này. Tất cả chúng ta đều tò mò vì sao họ lại trong danh sách đa tình.Củ thể thế nào chúng ta cùng khám phá để biết được nam giới tuổi nào đa tình?
Nội dung
Vốn yêu thích tự do nên trong tình yêu, những anh chàng tuổi Ngọ vô cùng chú trọng đến việc tìm không gian riêng cho mình. Tuy nhiên, không thể phủ nhận tình cảm chân thành họ dành cho đối phương trong giai đoạn chớm nở của tình yêu. Khi giai đoạn ngắn ngủi này kết thúc, níu giữ họ cho riêng mình có lẽ là việc khó hơn cả lên trời.
Những chàng trai tuổi Ngọ đã cân nhắc khá kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định quan trọng trong chuyện tình cảm, nhưng nếu có cảm giác không hài lòng, họ lập tức rời bỏ đối phương để đi tìm một nửa phù hợp hơn. Nguyên nhân chính bắt nguồn từ sự phong lưu, đa tình của người tuổi Ngọ.
Những anh chàng tuổi Thìn không những đa tình mà còn ham “của lạ”. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ đều muốn chinh phục và thưởng thức điều mới mẻ. Thay đổi tình yêu với những chàng trai tuổi Thìn là chuyện cơm bữa và không thể thiếu trong cuộc sống này.
Con trai tuổi Thìn hài hước, có biệt tài ăn nói nên đi tới đâu cũng gây sự chú ý và có sức hút mạnh với người khác giới. Cuộc đời của họ trải qua không ít mối tình. Với họ kết thúc một mối tình là sự khởi đầu cho những trải nghiệm mới thú vị hơn.
Với những anh chàng cầm tinh con Gà, tình cảm cũng như những phương diện khác của cuộc sống, đều phải rõ ràng, không có chuyện yêu nửa vời, nói chia tay năm lần bảy lượt rồi lại quay về với nhau. Ngoài ra, họ biết mình có số đào hoa, đa tình nên rất tự tin trong chuyện tình cảm.
Người tuổi Dậu không tin vào tình yêu vĩnh cửu mà chỉ quan tâm tới cảm giác tức thời. Do đó, một khi đã hết cảm giác yêu, chàng trai tuổi Dậu sẽ chia tay dứt khoát, không chút vướng bận mà đi tìm tình yêu mới.
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
- Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần ngài cho tôi sống thêm một năm thôi.
- Không được. – Thần Chết lắc đầu.
- Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi xin nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.
- Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý.
Anh ta vội nói:
- Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?
- Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
- Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
- Xin hãy ghi nhớ: “BAO NHIÊU TIỀN BẠC CŨNG KHÔNG MUA NỔI MỘT NGÀY”.
Namo Buddhaya
>>> Đã có TỬ VI 2016. Mời các bạn vào xem!!
>>> Đã có LỊCH ÂM DƯƠNG 2016. Mời các bạn vào xem!!
Cuộc sống không phải là con đường bằng phẳng, không phải lúc nào cũng như ta mong đợi. Cuộc sống luôn có những gập ghềnh, gấp khúc, đó là một hành trình đầy chông gai, thử thách…
Cuộc sống luôn công bằng, chẳng cho ai tất cả cũng chẳng lấy hết của ai thứ gì… Cuộc sống là vô vàn những điều biến động, đôi lúc gặp những vận hạn, trở ngại khiến ta buồn chán, tuyệt vọng, rơi vào trạng thái bế tắc, có lúc tưởng không còn tìm ra được cách giải quyết, muốn buông xuôi tất cả…
Có ai sống cả đời suôn sẻ mà chưa từng một lần cảm thấy bế tắc? Chuyện gì rồi cũng có cách giả quyết của riêng nó.
“Hãy biến nghịch cảnh thành cơ hội giúp bạn đạt được những điều tốt đẹp hơn” - Willie Jolley
Khi gặp bế tắc, bạn hãy học cách vượt qua vì không ai sống thay cho cuộc đời của chính bạn cả mà bạn phải thực sự sống cuộc đời của mình. Vượt qua được bế tắc, thử thách đồng nghĩa với việc bạn chiến thắng chính bản thân mình, thấy mình trưởng thành hơn. Bạn sẽ thấy những bế tắc chẳng có gì đáng sợ chỉ cần bạn biết cách vượt qua.
1./ Hãy học cách bình tĩnh.
Mọi việc đều có cách giải quyết, vấn đề là bạn phải sáng suốt, phải thật bình tĩnh để suy xét, nhìn nhận lại vấn đề, nguyên nhân xuất phát từ đâu. Chuyện đã xảy ra rồi, có nôn nóng, hoảng loạn cũng không giải quyết được, vì vậy hãy pha cho mình một cốc nước, chậm rãi suy nghĩ, bình tâm xem mình sai ở chỗ nào, tại sao lại xảy ra chuyện này chứ đừng ngồi đó chỉ trích hay “than thân trách phận”. Việc bình tĩnh sẽ giúp bạn đưa bản thân về trạng thái cân bằng, từ đó bạn có thể tự mình tháo gỡ từng nút thắc trong vấn đề đang gặp phải, bạn sẽ thấy sự việc “không quá khó khăn như mình nghĩ”.
Hãy học cách bình tĩnh khi rơi vào bế tắc bạn nhé!
2./ Hãy tìm một ai đó để chia sẻ và nhận lời khuyên từ họ.
Bạn đang gặp vấn đề bế tắc trong tình yêu hoặc từ chính bản thân mình, hoặc bản thân bạn đang thấy chán nản, căng thẳng, hãy tin bạn không phải là người duy nhất. Có những người bạn của bạn chắc chắn đã trải qua những tình huống như thế này. Người đó có thể đưa ra những lời khuyên sáng suốt dựa trên sự thất bại hay thành công của mình trước đó. Hãy tìm một người mà bạn có thể tin tưởng.
Và ngay cả khi nếu không ai có thể giúp bạn trong trường hợp này, hãy đừng vội đưa ra quyết định của mình, nó có thể không đúng đắn ngay lúc này. Tin tôi đi, chỉ cần có người để bạn có thể chia sẻ bế tắc của mình, bạn đã cảm thấy tốt lên rất nhiều.
Khi bế tắc hãy nhớ tới những người thân xung quanh ta. Bạn sẽ nhận được những lời khuyên hữu ích.
3./ Loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực và nghĩ tới những điều tốt đẹp
Rơi vào bế tắc, bạn phải có nghị lực vươn lên bởi đây không phải là lúc để bạn chùn bước hay rơi vào vòng luẩn quẩn mà không biết phải làm gì. Những suy nghĩ tiêu cực chỉ làm vấn đề của bạn trở nên trầm trọng mà thôi.
Hãy nhớ rằng “thất bại là mẹ thành công”. Cuộc sống luôn chuyển động vì thế đừng từ bỏ, buông xuôi, hãy lập cho mình một kế hoạch, đặt ra mục tiêu cần phải làm gì ở bước kế tiếp. Cuốn vào công việc, xóa những suy nghĩ tiêu cực và luôn nghĩ về những điều tốt lành sắp đến, bạn sẽ thấy cuộc sống dễ thở hơn nhiều.
4./ Đừng ngồi một chỗ trong nhà và tự kỉ.
Việc đó không phải là cách để cứu vãn cuộc sống của bạn khi bạn cảm thấy chán nản. Hãy ra ngoài uống 1 ly cà phê, một chuyến du lịch ngắn ngày hay đơn giản hơn là đi bộ trong công viên. Những điều nhỏ nhặt này lại hữu ích đến thần kỳ, khi bạn cảm thấy bình tĩnh hơn, hạnh phúc hơn những suy nghĩ u ám cũng vì thế mà tan đi. Lúc ấy, bạn có thể suy nghĩ nghiêm túc về những gì đang xảy ra.
Ngồi một chỗ và tự kỷ càng làm cho tâm trạng bạn thêm bế tắc mà thôi
5./Hãy thử một việc gì mới mẻ hay làm việc gì bạn thích.
Nếu bạn đã từng muốn tham gia một lớp yoga mà còn ngần ngại chưa có thời gian hoặc thiếu quyết tâm thì hãy ngay lập tức đăng kí và tham gia. Và nếu bạn ao ước có một chiếc Iphone 6 sành điệu từ lâu rồi nhưng còn để giành tiền làm việc khác thì hãy mua ngay thôi. Hoặc chỉ là việc đi mua sắm thôi cũng sẽ giúp ích cho bạn nhiều. Cảm xúc hiện tại của bạn đang khá tồi tệ, nhưng việc mới mẻ, những thứ yêu thích sẽ giúp bạn lấy lại được sự hào hứng.
6./ Trải nghiệm để trưởng thành hơn
Mỗi kinh nghiệm là một giá trị giúp ta trưởng thành hơn trong cuộc sống. Bram Stoker từng nói: "Chúng ta học được từ thất bại, không phải từ thành công". Hãy cho rằng những thất bại của hôm nay làm kinh nghiệm quý giá cho ngày mai. Thất bại có một "ưu điểm" là làm cho ta trở nên hoàn thiện và trưởng thành hơn để đối phó với mọi vấn đề trong cuộc sống. Suy nghĩ thế, tự nhiên bạn thấy gặp thất bại cũng không quá tệ phải không?
7./ Suy nghĩ về tương lai
Khi bế tắc, chán nản bạn thường có xu hướng nghĩ về quá khứ và những câu chuyện đau buồn nhiều hơn. Nhưng hãy suy nghĩ về tương lai, hãy nghĩ về bạn trong khoảng thời gian tới bạn muốn làm gì và có kế hoạch gì với bản thân. Lập ra mục tiêu và thực hiện nó. Những khó khăn hiện tại rồi sẽ qua đi và tương lai là điều đang chờ đón chúng ta phía trước. Vậy tai sao, bạn không suy nghĩ làm sao để tương lai tốt đẹp hơn mà cứ chìm mãi trong quá khứ và những chuyện buồn phiền, bế tắc.
Đừng chìm mãi trong những chuyện không vui. Hãy suy nghĩ về tương lai tươi đẹp phía trước
8./ Học cách mỉm cười mỗi ngày
Dẫu cuộc sống của bạn đang có quá nhiều thứ để lo toan, dẫu đôi vai đang oằn nặng vì nhiều thứ thì cũng nên mỉm cười để đứng vững. “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”, cười để có động lực, có niềm tin để vượt qua, cười để biết rằng cuộc đời này vẫn còn nhiều điều để ta yêu, ta quý. Những lúc bế tắc chỉ cần bạn mỉm cười, vững tin vượt qua, bế tắc sẽ không là vấn đề quá quan trọng nữa.
Hãy vẽ bức tranh cuộc đời bạn bằng sắc màu tươi sáng thay cho bức tranh ảm đạm, u tối mà bạn đang gặp phải vì thế giới này vẫn thật đẹp, nỗi buồn phiền rồi sẽ bay đi thôi bạn nhé!
Các bạn đang xem chuyên mục "Bài học cuộc sống" của website: www.lichvannien365.com. Các bạn hãy vào để xem các bài viết liên quan.
Thời gian: tổ chức vào ngày 11 và 12 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: Đình Kim Giang, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Các thần Cao Sơn, Diêm La, Mộc Tinh, hai vị bản thổ (hoàng cung Trịnh Thục phu nhân, Tràng Hán anh linh Đại Tướng quân).
Nội dung: Ngày 11/2 Sáng, lễ khai mạc được diễn ra sau một hồi trống tưng bừng của đội trống trong làng. Sau đó là lễ tế nhập tịch tại đình và đền do các cụ bô lão trong làng với trang phục truyền thống vào lễ cáo xin phép với Thành hoàng làng. Buổi chiều được tiếp tục với các hoạt động vui chơi dân gian truyền thống như chọi gà, chơi cờ tướng, đánh đu. Buổi tối có biểu diễn ca múa nhạc tại sân đình làng Kim Giang.
Ngày 12/2: Là ngày hội chính được bắt đầu bằng lễ rước bảng sắc phong từ nhà sắc về đình, đền. Đi đầu đoàn rước là đội múa rồng do thanh niên làng đảm nhiệm sau đó là các cháu thiếu nhi rước ảnh Bác Hồ, tiếp là đội tế lễ nam và nữ. Đội múa sinh tiền được các cháu thiếu nhi biểu diễn suốt cả đoạn đường rước kiệu mang lại không khí vui vẻ nhí nhảnh hồn nhiên của trẻ thơ. Bảng sắc phong đi cùng đoàn rước kiệu do hội phụ nữ làng đảm nhiệm, sau cùng là đội lễ của nhân dân trong làng và ngoài làng cùng tham gia lễ hội. Chương trình được tiếp tục với màn đội tế nam, tế nữ làm lễ dâng hương và đọc chúc văn tế Thánh lễ Mẫu tại đình, đền. Sau đó dân làng và du khách cùng hưởng lộc thánh. Buổi chiều được tiếp tục với các tiết mục hoạt động vui chơi trao giải thưởng cho các trò chơi đạt giải tại sân đền. Lễ tạ Thánh và tổng kết lễ hội được các cụ bô lão và dân làng tham gia tiến hành vào lúc xế chiều.
Lễ hội làng Kim Giang được tổ chức hàng năm góp phần giáo dục các con cháu trong làng không quên truyền thống giữ nước của cha ông và góp phần nâng cao tình đoàn kết của nhân dân trong và ngoài làng. Bài và ảnh Huy Hoàng
Ấy thế mà Reiko vẫn còn độc thân giữa London, sau hơn một năm dọn đến đây từ Tokyo. Thế là cô quyết định lên mạng tìm tình yêu cho mình.
Reiko không phải là trường hợp ngoại lệ. Theo số liệu của công ty theo dõi thông tin internet comScore, hiện trên thế giới có gần 10% công dân mạng, tương đương với khoảng 136,642,986 người, đang tích cực sử dụng dịch vụ hẹn hò trên mạng với mong mỏi tìm được tình yêu.
Tại Việt Nam, dù còn mới nhưng đã có hơn 7% công dân mạng, tương đương với hơn một triệu người, đang sử dụng dịch vụ tình ảo này.
Tôi tự hỏi, giữa biển người bao la kia và với hơn 1000 trang hẹn hò đủ chủng loại thượng vàng hạ cám có chi nhánh lan rộng toàn cầu, làm sao mà cô bạn Reiko của tôi tìm được tình yêu của mình?
Trang nào trong số đó đáng tin cậy, hiệu quả nhất trong việc cung cấp dịch vụ giới thiệu – mai mối? Liệu trong tương lai, việc lên mạng tìm tình yêu có trở thành một trào lưu không thể đảo ngược không?
Tôi phỏng vấn cô Dawn Shepherd, chuyên gia nghiên cứu về đề tài công nghệ giới thiệu – mai mối trên các trang mạng hẹn hò, đồng thời là giáo sư trợ giảng tại trường đại học Boise, bang Idaho, Hoa Kỳ.
Để phục vụ cho dự án nghiên cứu của mình, cô Dawn đã ‘xâm nhập thực tế’ bằng cách đăng ký tài khoản cá nhân trên các trang mạng hẹn hò nổi tiếng của Mỹ: Match.com, eHarmony, và OKCupid. Cô giải thích:
“Sở dĩ có tình trạng trăm hoa đua nở trên các trang mạng hẹn hò như hiện nay là vì đây là lĩnh vực kinh doanh béo bở trị giá cả tỷ đô la mà vẫn còn khá mới mẻ. Kể từ khi Match.com được thành lập từ năm 1995 đến nay, các trang mạng hẹn hò vẫn chưa tìm được công thức mai mối ‘thần kỳ’ có thể ghép đôi khá chính xác các khách hàng độc thân với nhau.
Vì vậy mỗi công ty vẫn đang tìm cách phát triển công thức ghép đôi riêng cho mình, và quảng cáo rầm rộ về tính khoa học, siêu việt của nó để chiêu dụ khách hàng.”
Cô Dawn cho biết hiện có hai cách làm mai chính trên các trang hẹn hò trên mạng. Một là ghép đôi theo kiểu Match.com, nghĩa là thu thập thật nhiều dữ liệu về hành vi hẹn hò trên mạng của khách hàng, ngầm theo dõi xem họ nhấp chuột vào những dạng hồ sơ nào, tán gẫu với ai, và dựa trên cơ sở thông tin đó sẽ gợi ý một vài mối tiềm năng phù hợp.
Theo đó, Match.com hoạt động giống như mô hình mua sắm trên mạng của Amazon.com.
eHarmony thì có vẻ ‘chuyên chế’ hơn. Họ làm mai bằng cách yêu cầu khách hàng phải điền vào hơn 200 câu hỏi đã được các chuyên gia tâm lý thiết kế nhằm xác định chi tiết cá tính, sở thích cá nhân, v.v. của khách hàng. Sau đó, trang này sẽ phân tích dữ liệu khách hàng trả lời để làm mai họ với nhau.
Giáo sư tâm lý Eli Finkel thuộc đại học Northwestern, bang Illinois, Hoa Kỳ cũng đồng ý với cách so sánh trên.
Ông nói Match.com giống như ‘siêu thị tình yêu’ cho phép người sử dụng ‘rà xem’ hồ sơ của nhau rồi tự quyết định xem ai phù hợp với mình. eHarmony thì giống như ‘cò nhà đất’, tự nhận là họ biết khá rõ hồ sơ của khách hàng và sẽ gợi ý vài mối họ cho là phù hợp.
Tôi hoang mang. Giữa hai hình thức mai mối tinh vi kể trên, làm thế nào một người sử dụng bình thường không sành công nghệ như cô bạn Reiko của tôi biết được cách nào hiệu quả hơn chứ?
Tiến sĩ Anders Sandberg, hiện đang làm việc tại Viện nghiên cứu về tương lai nhân loại tại trường đại học Oxford có câu trả lời:
“Thật ra các công ty kinh doanh dịch vụ hẹn hò trên mạng không nhất thiết phải bận tâm nhiều đến việc tìm cho ra công thức toán học hay khoa học nhằm giúp người ta tìm được tình yêu hoàn hảo đâu. Điều họ quan tâm là có được và giữ chân được càng nhiều khách hàng càng tốt trên trang của mình.”
Với đặc thù kinh doanh buôn mai bán mối, tôi thiết nghĩ các trang hẹn hò trên mạng cũng sẽ không đi xa hơn việc cung cấp một vài mối lái cho khách hàng của mình hẹn hò, gặp gỡ, rồi sau đó tự họ quyết định lấy cho mình người nào là phù hợp nhất.
Cô Dawn khẳng định: “Miễn sao người ta chịu hẹn hò, gặp gỡ nhau thì tất cả các trang mạng hẹn hò đều hiệu quả cả. Nói một cách ví von, hẹn hò trên mạng giống như đi mua sắm vậy đó. Có cả một kho hàng rất nhiều người độc thân trên đó. Người ta lướt mạng, xem xét hồ sơ cá nhân đăng tải, tán tỉnh, rồi gặp nhau ngoài đời nếu thích”.
Giáo sư Eli Finkel đưa ra lời khuyên: “Nếu bạn vẫn còn độc thân thì nên sử dụng dịch vụ hẹn hò trên mạng để tăng cường quy mô tìm bạn của mình. Tuy nhiên, đừng quá tin tưởng vào các công thức ghép đôi mầu nhiệm mà các trang web này quảng cáo để câu khách.
Vả lại, bạn cũng đừng ngồi đó ‘rà xem’ hồ sơ ảo của những người độc thân khác mà không chịu gặp mặt họ. Trên thực tế, các công ty hẹn hò trên mạng đang chuyển hướng từ việc ghép đôi trên mạng sang việc tổ chức các buổi gặp mặt trực tiếp cho khách hàng độc thân của mình”.
Ông Eli nói tiếp: “Suy cho cùng, không có công thức toán học nào có thể tốt hơn cái công thức bạn có trong đầu của bạn cả.
Ngay cả trong tương lai, dù khoa học công nghệ có phát triển cao siêu tới đâu thì nó cũng khó có thể thay thế được phán đoán của con người trong chuyện tình cảm được”.
Theo dự đoán của Tiến sĩ Anders Sandberg, chừng 50 năm nữa thôi, người ta sẽ sử dụng công nghệ không chỉ để tìm tình yêu mà cònđể giữ lấy tình yêu nữa.Trong tương lai, người ta đi lại nhiều hơn, tình yêu sẽ trở nên toàn cầu hơn, sẽ có nhiều người quen nhau mà phải sống và làm việc xa nhau một thời gian.
Tình ảo trong tương lai sẽ được thiết kế sao cho người ta có thể tích hợp được cả cảm xúc, tương tác của mình vào trong đó. Công nghệ sẽ trở nên chuyện cơm ăn áo mặc hàng ngày.
Nhưng đó là chuyện tương lai.
Tối nay, sau giờ làm việc, cô bạn Reiko của tôi sẽ đi gặp người bạn trai quen trên mạng bấy lâu nay.
Cô chia sẻ với tôi: “Mình chỉ sử dụng các trang hẹn hò trên mạng này để rà tìm người thôi, nhưng chưa tin vội đâu. Phải gặp mặt ngoài đời xác minh thông tin đã. Để xem nhé”.
Vâng, để xem. Tôi đang chờ Reiko cập nhật tình hình sau ngày lễ Valentine này.
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
12 con giáp |
Lịch vạn niên còn gọi là Hoàng lịch thông thư, Hiệp kỷ lịch, Hiệp kỷ biện phương thư, Vạn bảo toàn thư, Tuyển trạch nhật, Ngọc hạp, v.v…
Lịch vạn niên là loại lịch dùng cho nhiều năm; soạn theo chu kỳ: năm – tháng – ngày – giờ – hàng can, hàng chi; cứ 60 năm quay lại một vòng. Lịch vạn niên dựa vào thuyết âm dương ngũ hành sinh khắc chế hóa lẫn nhau, kết hợp với thập can, thập nhị chi, cửu cung, bát quái và nhiều cơ sở lý luận khác thuộc khoa học cổ đại phương Đông như thập nhị trực (Kiến Trừ thập nhị khách), Nhị thập bát túi 12 cung Hoàng đạo, Hắc đạo… để tính ngày giờ tốt xấu.
Cuốn Lịch vạn niên thông dụng ở nước ta dưới triều Nguyễn là cuốn Ngọc hạp thông thư. sở dĩ gọi là thông dụng, vì rải rác qua các tủ sách của các nhà Nho còn sót lại, chúng tôi tìm được các bản viết tay, quyển thì rách đầu, quyển thì mất đuôi, quyển bị xé giữa, và sưu tầm được ỏ các địa phương cách xa nhau (Bắc Thái, Hải Hưng, Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên) nhưng nội dung vẫn thống nhất.
Có thể nói, Ngọc hạp thông thư là cuốn sách gối đầu giường của các cụ nhà Nho nước ta thời trước. Động đến việc gì lớn hay nhỏ trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, chài lưới, săn bắn, trong lễ nghỉ tế tự, giao dịch, trong mọi mặt sinh hoạt gia đình, họ hàng, làng xóm, các cụ đều mở lịch ra chọn ngày giờ lành, tránh ngày giờ dữ.
Ngoài ra, trước năm 1945, ở nước ta cũng lưu hành một số sách khác như Vạn bảo toàn thư, Đổng công tuyển trạch nhật, Chư gia tuyển trạch nhật (từ Trung Quốc đưa sang), hay cuốn Tăng bổ tuyển trạch thông thư quảng ngọc hạp ký (in ở Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn). Tất cả những cuốn trên đều cùng nội dung Lịch vạn niên, nhưng pha trộn thêm nhiều tà thuyết, trong đó có những tà thuyết đã bị bác bỏ từ thời Vua Khang Hy triều nhà Thanh.
Dưới triều Nguyễn (1802 – 1945) có Khâm định vạn niên thư (triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu trị, Tự Đức) và Đại Nam Hiệp kỷ lịch (từ triều Thành Thái (1900) trở về sau). Đó là những cuốn lịch có tính pháp định, do toà Khâm thiên giám soạn, đệ trình nhà vua và do nhà vua ban cho thần dân hàng năm. Ngọc hạp thông thư, tức cuốn Lịch vạn niên chúng tôi đề cập ở đây cũng do Khâm thiên giảm ban hành, cũng có chung cơ sở lý luận thuộc thiên văn học cổ đại nhưng không phải là Khâm định vạn niên thư
-Lịch vạn niên dùng để chọn ngày tốt ngày xấu còn phải dựa vào một loạt “Thần sát” của thuật chiêm tinh cổ đại.
-Lịch vạn niên cũng khác với Lịch vạn sự của từng năm, nhất là các cuốn gọi là “Lịch vạn sự’ lưu hành trên thị trường nước ta những năm gần đây.
Giấc mơ của bà bầu ngầm dự báo giới tính thai nhi |
Chúng được chia thành 4 loại lớn: mơ về động vật, mơ về thực vật hoa quả, mơ về giới tự nhiên, mơ về vàng bạc châu báu và các đồ vật có giá. Mỗi loại giấc mơ đều ngầm dự đoán giới tính của thai nhi.
Theo Giadinhnho
Bị bồ đá thì hẳn là buồn rồi, nhưng các chàng trai đã bao giờ nghĩ xem lý do vì sao mình bị bồ đá hay chưa? Cùng xem các anh chàng hoàng đạo mắc lỗi gì mà đến nông nỗi ấy nhé.
Người trẻ mà, chuyện tình cảm khi tan khi hợp là chuyện quá đỗi bình thường. Lý do chia tay thì có cả trăm điều, nhưng chắc chắn hầu hết là vì bạn có điều gì đó khiến đối phương không thể chịu đựng nổi nữa. Có người thì vì so đo tính toán quá mức mà bị bồ đá, có người thì người yêu không chịu được vì bị bám dính lấy cả ngày, mất tự do nên cũng “say goodbye”… Các chàng trai, các bạn vì sao mà bị bồ đá? Lịch ngày tốt xin chia sẻ lý do có thể khiến cho các chòm sao nam bị bồ đá, cùng theo dõi xem có chuẩn không nhé.
Đầu là bộ vị quan trọng nhất, là chủ tể của toàn bộ thân thể. Xương đầu quan trọng phải đầy đặn, nổi cao lộ rõ. Người có trán ngắn thì da nên dày dặn, nếu trán dài hình trán nên vuông. Nếu người có đỉnh trán lộ rõ là mệnh cao quý. Nếu trán thấp lõm là mệnh đoản thọ.
Đầu nên đầy đặn cao rộng, nổi cao lộ rõ
Nếu da trán mỏng chủ là người bần tiện. Nếu đỉnh đầu lệch bên phải, người đó sẽ khắc hại mẹ mà đỉnh đầu lệch bên trái sẽ khắc hại cha. Nếu trước sau tai có lộ xương, xương đó gọi là thọ cốt, nếu thọ cốt nổi cao người đó sẽ trường thọ, nếu thọ cốt thấp lõm người đó chủ yểu vong.
Nếu trên huyệt thái dương có xương gọi là xương phù tang, trên tai có xương gọi là xương ngọc lâu, người như thế chủ phú quý. Người có mép tóc thấp, người đó trời sinh ra vốn ngu đần, lại đoản mệnh.
Nếu mép tóc rất cao, người như thế tài giỏi, lại được trường thọ. Nếu tóc ở sau gáy cao, người đó có tính tình quái dị. Người có đầu nhỏ, tóc lại rất dài thường sẽ phải tha hương kiếm sống. Nếu tóc vàng mà khô, người đó không bần tiện thì vận mệnh cũng chẳng thể dài lâu. Người tóc có sắc đỏ hoặc trắng, chủ bần cùng, cô quả.
Xương đỉnh đầu và xương mũi nối liền nhau, con cháu nhiều phúc
Người có đỉnh đầu vuông tròn, trán bằng đầy thường được phú quý. Nếu đỉnh đầu có xương lộ ra nối với xương mũi, người có hình tướng như thế là mệnh quý hiển, được bái tướng mà con cháu sau này cũng không chịu cảnh nghèo hèn.
Nếu có xương ngọc chẩm, đó chẳng thể nào là người hạ tiện. Nếu đầu tựa đầu thỏ, tính cách người đó ngông cuồng, khinh bạc. Nếu từ khi còn nhỏ đã có lông trắng, chủ người này gặp nhiều tai họa. Nếu hai bên tóc mai mỏng thưa, tính cách người này đa phần không tốt. Nếu từ giữa giữa đỉnh đầu hướng xuống thấp, đó là tướng hiền nhân. Nếu nữ có đầu dài, tóc lộ sắc xanh, người đó có thể được gả vào nhà quý nhân.
Tóc đen mà nhỏ, vinh hoa phú quý
Nếu tóc người xanh đen nhỏ dài, đó là hình tướng vinh hoa cao quý. Nữ có tướng này chủ có thể trở thành phi tử. Người con trai có tướng này có thể làm đại quan trong triều đình.
Nếu tóc mai hai bên thưa mỏng chủ thích hại người khác. Nếu khi còn nhỏ đã có tóc trắng, người đó sẽ khắc hại đến cha mẹ. Nếu trán rủ xuống hình tròn, trên mặt lại có điểm rủ thấp xuống cổ, người như thế tính cách phong lưu đa tình, thậm chí dẫn đến hại vợ.
Tướng xương có thể quyết định chức quan.
Ba xương đều có hình tròn thì gọi là Tam tài chẩm, chủ về được phong làm quan Sử.
Ba góc đều có xương nhô lên mà ở giữa cũng nhô lên thì gọi là Ngũ nhạc chẩm, chủ về được phong hầu.
Có 2 xương nhọn nhô lên gọi là Song long cốt chẩm, chủ về được phong làm tiết khu tướng quân.
Bốn bên cao, ở giữa thấp gọi là Xa trục chẩm, chủ về được phong làm công hầu.
Có 3 xương, có một xương dựng thẳng gọi là Liên quang chẩm, người có tướng xương này thì tốì thiểu cũng làm quan nhị thiên thạch, nhiều thì sẽ thành tướng quân đảm nhận trọng trách trong triều đình.
Có 1 xương cong vòng lên trên là Yên nguyệt chẩm, chủ về đường quan lộ hanh thông.
Có 1 xương cong vòng xuống dưói được gọi là Tương bội chẩm, chủ về làm chức quan nhỏ.
Có 1 xương ở trên, 2 xương xếp ở dưới gọi là Tam tinh chẩm, chủ về đảm nhiệm chức quan lưỡng phó chế.
Xương ở bốn xung quanh đều nhô lên và có một góc xương gọi là Sùng phương chẩm, chủ về làm chức nhị thiên thạch, lớn hơn thì là tuần đài.
Có một xương nhô lên mà tròn gọi là Viên nguyệt chẩm, chủ về có thể làm chức vị thanh nhàn ở điện quán.
Nếu là bên trên hình vuông, dưới hình tròn thì gọi là Thùy lộ chẩm, chủ về được phong là viên ngoại lang.
Trên và dưới đều tròn và có góc cạnh giống như chiếc đĩa thì là Ngọc tôn chẩm, chủ về làm khanh tướng, ít nhất cũng làm thích sứ. Xương chẩm giống 2 hình mặt trăng cong quay lưng vào nhau thì là Bội nguyệt chẩm.
Năm Ất Mùi nên lựa chọn những màu nhẹ, nhạt để trang trí nhà. Những màu quá đậm, nóng sẽ phá hỏng các luồng khí may mắn. Đồng thời, trong phòng không nên bày quá nhiều đồ đạc cũng như không nên trang trí hoa lệ quá mức; đặc biệt là những vật trang trí mà ánh sáng, màu sắc sặc sỡ tỏa bốn phía lại càng không cần thiết.
Nên chọn gam màu nhẹ để trang trí nhà năm 2015
Cây cảnh, chậu hoa tươi...bài trí trong nhà rất tốt, không chỉ giúp không gian sống thêm tươi mới, sự hiện diện của cây cối, hoa lá nếu hợp cách còn tăng thêm tài lộc cho gia chủ.
Tuy nhiên, cần lưu ý, chọn cây cảnh bài trí trong nhà nên ưu tiên các loại thực vật có sức sống mạnh mẽ, kiên cường để thu hút nhiều vượng khí, cũng như lưu thông tốt các nguồn năng lượng tích cực. Tuyệt đối không nên chọn để cây chết hay bày hoa khô trong nhà. Ngoài việc sản sinh ra các loại khí độc, những chậu cây chết sẽ tăng thêm năng lượng tiêu cực, chết chóc trong gia đình.
Cây tùng- biểu tượng của sức sống mãnh liệt
Để tiết kiệm diện tích, khi thiết kế nhà ở hiện đại, đặc biệt là chung cư, một số kiến trúc sư đã để cho phòng ăn, phòng bếp, thậm chí là phòng vệ sinh đập ngay vào mắt ngay khi bước qua cửa nhà. Theo phong thủy, những người sống trong ngôi nhà như vậy, vận thế sẽ ngày càng suy yếu. Để có nhiều may mắn, ngay khi mở cửa nhà, phòng đầu tiên nhìn thấy phải là phòng khách.
Khi xây nhà, gia chủ nên chú ý để cửa phòng ngủ không đối diện cửa chính của cả ngôi nhà. Nếu phạm phải đại kỵ, gia chủ rất dễ chìm đắm trong nhục dục, không thể tự mình thoát ra nổi.
Phòng bếp gắn liền với sức khỏe của cả gia đình. Do vậy, gia chủ nên chú ý thường xuyên lau dọn để gọn gàng và tránh ám mùi, ám dầu mỡ. Một khi phòng bếp bừa bãi sẽ ảnh hưởng cực kì nghiêm trọng đến vận khí và sức khỏe của từng người trong nhà.
Gác đòn dông là việc làm rất hệ trọng vì đòn dông là cái rường nhà, chỗ cao nhất của ngôi nhà. Ngày nay, các gia đình chủ yếu đổ mái bằng nên đòn dông ít còn xuất hiện. Tuy nhiên, với những ngôi nhà phong cách truyền thống thì đòn dông kỵ nhất là xây ở trên bàn học hoặc bàn ăn, càng không nên xây trên đầu giường. Nếu như không có cách nào để tránh, gia chủ có thể ốp thêm trần xốp để ngăn cách, nếu không sẽ ảnh hướng đến tâm trạng và sức khỏe của gia chủ.
Phòng vệ sinh không được xây đối diện giường ngủ. Ngoài ra, mép phòng vệ sinh đối diện giường cũng là điều không may, dễ khiến người trong gia đình mắc phải bệnh tật. Bên cạnh đó, nhà vệ sinh là nơi đào thải các chất ô nhiễm, do vậy rất kỵ âm u, ẩm ướt, bẩn và hôi thối. Chỉ có một phòng vệ sinh sạch sẽ mới níu giữ được tiền tài.
Phòng vệ sinh đối diện giường dễ khiến gia đình mắc phải bệnh tật
Một bức tranh trên đầu giường có thể khiến căn phòng thêm nhã nhặn. Tuy nhiên gia chủ nên chọn tranh to vừa phải. Nếu như quá to khiến cho đinh treo hỏng, tranh rơi xuống thì hậu quả sẽ khôn lường.
Nếu như trong nhà có hành lang nối giữa các phòng thì nên thiết kế phòng vệ sinh ở bên cạnh hành lang. Nếu gia chủ đặt nhà tắm ở đầu hồi thì sẽ dễ sinh chuyện không may về vật chất và tình cảm.
(Theo Khám phá) Tình cảm là thứ khó dự đoán mà đời sống tình cảm của mỗi người cũng khó lường, thần bí. Tuy rằng, ai cũng khát khao có được tình yêu ngọt ngào say đắm nhưng nếu vận trình không tốt, bản thân không cố gắng thì chắc chắn sẽ không được như ý nguyện. Cùng điểm danh 6 chòm sao có vận trình tình cảm tốt nhất tháng 5 này nhé
► Tham khảo thêm những thông tin về: Lịch vạn niên và Lịch âm dương chuẩn xác nhất |
1. Cây xanh
Những loại cây xanh như cây sống đời, trầu bà, cây thủy sinh, xương rồng… thường được dân văn phòng chọn để trên bàn làm việc. Tuy nhiên, bạn nên chú ý, nếu cây trồng mà luôn xanh tươi phát triển sẽ đem phong thủy tốt và ngược lại nếu cây cứ suy yếu mà chết sẽ ảnh hưởng xấu đến chủ nhân.
Không nên trang trí bằng cây xương rồng hoặc họ xương rồng, bởi dòng họ cây này tuy chống được tia bức xạ từ máy tính làm việc, song có nhiều gai nhọn, nếu để trong thời gian dài sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe và tinh thần con người. Bên cạnh đó, những loại cây thân leo cũng không thích hợp để bàn làm việc vì đa phần những loại cây thuộc Dương, sẽ hấp thụ năng lượng con người, thậm chí chiêu nạp thị phi, gây bất lợi cho công việc và vận tài của bạn.
Loại cây thích hợp để trên bàn là hoàng kim cát, vạn niên thanh, cây thường xuân, thủy tiên… Những loại cây này có tác dụng tạo bầu không khí trong lành cho góc làm việc của bạn lại có thể gánh bớt những nguy hại do bức xạ gây ra.
Nên chọn loại cây có lá to bản hay hình tròn hơn là những loại có lá sắc, nhọn để tạo cảm giác ôn hòa. Điều đáng chú ý là góc làm việc thường có diện tích nhỏ nên bạn cần lựa loại cây có kích thước vừa phải và cũng tránh đem lại sự ẩm thấp cho góc làm việc.
Cây xanh tốt sẽ mang đến nguồn năng lượng dồi dào cho góc làm việc nhưng cũng đừng vì thế bạn lại bày quá nhiều chậu cây trên bàn làm việc, điều này chỉ khiến không gian chật trội.
|
|
Một trong những đại kỵ khi trang trí cây xanh, đồ vật trên bàn làm việc, không nên trang trí bằng xương rồng hay những cây thuộc thân leo |
Nếu chỗ ngồi của bạn quay lưng với cửa ra vào, điều bạn cần thiết là nên đặt một chậu cây cảnh nhỏ để tạo cảm giác thoải mái và tự tin khi làm việc.
Nên trồng cây xanh gần tài vị. Tài vị chính là nơi tàng phong tích khí, hay còn được gọi là nơi tụ khí hoặc nơi thu hút tài khí. Đây là vị trí chủ chốt trong văn phòng làm việc để mang đến tài vận và may mắn cho công ty. Tài vị là khu vực nằm ở góc chéo với cửa ra vào của văn phòng. Đặc biệt nên trồng những loại cây có lá to và dày ở khu vực tài vị. Không nên trồng các loại cây có gai xung quanh tài vị như xương rồng, hoa hồng gai… Những loại cây này sẽ làm cho vận khí tốt không lưu lại ở tài vị.
Ngoài ra, nên trồng những cây này bằng đất, không nên trồng cây trong nước.
Cây xanh không chỉ có tác dụng giảm stress mà còn đem đến vận may, vượng khí cho chủ nhân của nó nếu được bố trí đúng vị trí và chọn loại cây phù hợp.
2. Đồ trang trí:
Không nên trang trí những món đồ bằng kim loại sắc nhọn. Những đồ vật này sẽ đem lại cảm giác bị áp bức, ảnh hưởng xấu đến con người, vô tình sẽ bó buộc tâm trạng và sẽ làm tiêu hao rất nhiều năng lượng của con người.
Bạn cũng không nên dùng những vật phẩm trang trí có hình dáng kỳ quái, kẻo rước vận xui vào mình. Việc bày trí những đồ công nghệ hay vật trang trí trên bàn làm việc không có gì sai phong thủy nhưng cần phải lưu ý tránh những đồ vật có tạo hình kì quái dễ kỵ phong thủy, dẫn đến những tranh chấp ngoài ý muốn. Ngoài ra, cũng không nên trang trí hoa giả trên bàn làm việc, vì nó không có sức sống, thậm chí, dễ “chiêu nạp” những phiền phức không đáng có.
Minh An (tổng hợp)
Gia đình em có hỏi: Xác ông ở đâu để người nhà đem về lập mộ và tại sao ông lại trở về xin được quy y Tam bảo?
Ông trả lời: Không cần tìm xác ông để chôn cất làm gì. Ông thấy mình nghiệp rất nặng và đang phải đối diện với những gì mình đã gây ra. Vì vậy, ông muốn gieo nhân Phật để khi tái sanh trở lại kiếp người, gặp Phật pháp ông có thể phát tâm tu.
Gia đình em đã tìm thầy Thích Giác Hạnh – chùa Hội Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu để xin Thầy quy y cho ông và Thầy đã đồng ý.
Vài ngày sau cô bạn lại gọi điện thoại tới và hỏi tôi có muốn đi cùng cô đến gặp thầy Giác Hạnh không? Tôi đồng ý.
Sáng hôm sau trên đường đến gặp Thầy, cô nói hôm qua ông ngoại em lại về và nói ngoài việc tìm Thầy quy y Tam Bảo, nhớ lập trai đàn cúng cầu siêu cho ông và những người cùng thời làm việc với ông hồi hướng để tạo công đức giúp ông và mọi người được siêu thoát.
Thầy Thích Giác Hạnh là vị Tăng sĩ khá nổi tiếng trong việc hóa giải các vong linh nhập vào người dương thế. Thầy hiểu khá rõ về thế giới người cõi âm.
Sau khi gặp thầy Giác Hạnh, tôi có ý định sẽ trực tiếp được gặp ông (người cõi âm) để phỏng vấn, trò chuyện về thế giới mà hiện ông đang tồn tại.
Điều quan trọng nhất tôi muốn hỏi là vì sao ông lại quay trở lại thế giới dương để được quy y Tam Bảo khi mà lúc còn sống ông chưa từng tiếp cận được với kiến thức Phật giáo. Nhưng rồi do bận công việc nên tôi đã không thể trực tiếp tiếp cận và phỏng vấn ông đúng như dự định. Cũng may trước đó tôi đã trao đổi với cô bạn đồng nghiệp về một số những vấn đề mà tôi muốn hỏi.
Vì cũng là một đệ tử mới quy y nên cô bạn (cháu ngoại của người cõi âm) đã đưa ra những những vấn đề mà tôi nói trước đó để hỏi ông. Thật là may mắn cuộc trò chuyện đó đã được ghi băng lại.
Để bạn đọc hiểu và tin sâu hơn nữa về Phật pháp tôi xin ghi lại cuộc trò chuyện dưới đây.
Vì được tiếp xúc nhiều lần khi ông trở về nên cuộc phỏng vấn ghi lại dưới đây là tổng hợp nhiều cuộc trò chuyện. Có nhiều thông tin trong cuộc phỏng vấn vì vấn đề tế nhị trong gia đình nên tôi không đưa ra, nhưng sẽ nói trong phần hai của bài viết – Luận về cuộc phỏng vấn.
Thông qua cuộc trò chuyện này chúng ta sẽ thấy những điều đức Phật đã nói trong các Kinh sách là chính xác. Lòng từ bi của Ngài thông qua các giáo lý không chỉ cứu vớt nỗi khổ của con người mà của tất cả các chúng sinh trong các cõi giới.
Cuộc trò chuyện với ông ngoại
Trước khi vào nội dung cuộc trò chuyện, tôi xin đưa ra lời thuyết giảng của ông Huỳnh Văn Lương trong cuộc gặp mặt cuối cùng với gia đình tại Rạch Kiến. Do đã thông hiểu Phật pháp, ông Lương (một người lính quân đội Việt Nam Cộng hoà) đã đưa các vong linh của những người lính cả hai phía (Bộ đội cụ Hồ và Lính Cộng hoà) đứng trước mâm cơm chay tuyên bố.
Hôm nay, tôi Huỳnh Văn Lương – Pháp danh Minh Tâm (chính xác là tối ngày 27/7 năm Tân Mão) tôi cùng mấy đứa con tôi xin thỉnh chư vị 2 bên cùng dân chúng ở đây (nhưng vong linh ở quê) nghe tôi thuyết giảng một lời.
Hôm nay, tôi đã quy y trước Tam Bảo. Cái thời của chúng tôi đã chấm dứt rồi, cho nên chúng tôi hạ vũ khí… Chúng ta cùng là dân nước Việt, đều là con người. Ai vì chủ nấy, chúng ta nên thương lượng hoà hảo, kết oan trái lại hạ vũ khí… Chúng ta cùng nhau quy về một đường.
Chúng ta là những con người … do nghiệp sát mà đầu thai thành người lính. Tôi đã ngộ được con đường của Phật đạo cho nên tôi mong mỏi các ông và dân chúng ở đây cùng tôi về với Phật…
Chúng ta hãy tỉnh giấc ngộ lại… Bỏ hết chắp tay như tôi đây này, Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần). Các ông đã nghe lời như vậy tôi rất mang ơn.
Hôm nay cháu tôi cùng bằng hữu đã có mặt ở đây trợ duyên. Các ông hãy linh hiển nhận mâm cơm chay này để các chư Tăng hồi hướng công đức đưa chúng ta về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Các ông chứng cho lòng thành thật của tôi… Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)… Các ông đã quỳ xuống hết rồi, đã chắp tay niệm Phật rồi. Minh Tâm đã thành công rồi. Dân ở đây người ta rất hoan hỉ rồi.
Hỏi: Nhân duyên gì mà ông đã gặp được Phật và phát tâm tu tại cõi giới âm?
Trong quá khứ tiền kiếp, khi còn trẻ ông có vào chùa Phật nhưng chủ yếu là quậy phá vui chơi. Nhờ phúc báo nên đã gieo được chủng tử Phật trong tâm thức. Sau khi mất ông vẫn thường về nhà nhưng không tiếp cận được với ai, do người thân không nhớ đến ông. Ngày giỗ ông cũng không ăn được gì, vì trên giấy báo tử không đúng với ngày mất của ông. Ông phải chịu sự đói khát, lạnh lẽo trong suốt những năm qua. May nhờ bà mợ dâu khi ăn thường mời cơm nên ông theo bà về quê nhân dưới quê có giỗ. Ông ở luôn dưới quê (Rạch Kiến). Tại đây ông thường nghe kinh Phật mỗi tối do hai cô em gái đầu là Phật tử tụng kinh mỗi ngày. Vì nghiệp sát nặng nên ông không thể vào chùa được. Sau khi quy y ông có thể vào chùa để nghe giảng kinh từ các vị Tăng.
Hỏi: Vì sao ông không quy y Tam Bảo ở cõi âm mà lại mượn thân xác lên dương trần quy y?
Muốn quy trước Tam Bảo phải tam quy (quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng), ngũ giới (không sát sinh, không uống rượu, không nói dối, không tà dâm, không trộm cắp). Tam quy thì có thể thực hiện được, nhưng ngũ giới thì không, vì còn thân xác đâu mà thực hiện ngũ giới.
Hỏi: Chúng sinh cõi âm có tu được không? nghĩa là có ngồi thiền tụng kinh niệm Phật được không?
Không thể tu được, còn thân xác đâu mà tu. (Các vọng tưởng trỗi dậy không ngừng, không thể dẹp bỏ được). Thân người quý lắm. Thần thức ở trong thân người mới tu được. Nếu ai còn thân người thì cố gắng mà tu. Tái sanh kiếp sau ông sẽ tu. Ông quy y lần này là để gieo chủng tử vào tâm thức, kiếp sau tái sanh lên kiếp người gặp Phật pháp là ông tu liền. Ông có duyên thầy trò với thầy Thích Giác Hạnh trong tiền kiếp.
Hỏi: Ông có thể nói rõ hơn về nhân duyên thầy trò giữa ông với thầy Thích Giác Hạnh được không?
Trong một kiếp quá khứ, ông là một thanh niên ngang ngược vào chùa chơi. Lúc đó thầy Giác Hạnh là một vị Tăng tu ở trong chùa. Thầy có khuyên ông nên quy y Tam Bảo. Ông nói là chỉ khi nào ông không còn thân xác ông mới quy y. Từ nhân duyên này mà duyên thầy trò đã hình thành.
Hôm nay Thầy đã quy y cho ông. Nhưng vì ông không có thân xác nên duyên thầy trò mới chỉ 50%. Thông thường duyên thầy trò phải gặp nhau 3 kiếp. Trong tương lai thầy Thích Giác Hạnh sẽ là một vị Tăng một kiếp nữa khi đó ông sẽ là một đệ tử 100% của Thầy.
Hỏi: Điều đó có nghĩa là trong kiếp này thầy Giác Hạnh vẫn chưa được vãng sanh về Tây Phương Cực lạc?
Chưa, vì Phật Tổ còn muốn Thầy ở lại để tiếp tục độ chúng sinh trong một kiếp nữa sau đó mới vãng sanh được.
Hỏi: Ông đã mất thân xác được 36 năm. Ông tiếp cận được Phật pháp lâu chưa? Bao giờ ông tái sanh?
Mới tiếp cận được gần đây thôi, nhưng sức xoay chuyển nghiệp báo rất nhanh, trong từng sát na. Ông sắp sửa có thể siêu thoát và tái sanh trở lại. Khoảng trong ba tháng nữa, khi nào cháu nằm mộng thấy Phật là ông tái sanh.
Hỏi: Tâm trạng của ông sau khi chết (tức là mất thân xác) như thế nào? Tại sao người chết không ra đi luôn mà còn quay trở lại dương trần làm gì ?
Con người có 2 phần, phần hồn và phần vật chất. Phần hồn nhà Phật gọi là vong linh. Khi đưa vong linh vào thờ thì gọi là hương linh. Con người có 2 cách chết. Một là, chết đột ngột vì tai nạn, vì bệnh tật hay một lý do nào đó không có sự chuẩn bị trước. Hai là, chết già, mọi thứ đã buông bỏ và có sự chuẩn bị trước. Những người chết trẻ hay chết đột ngột đều có nhiều uẩn khúc nên bám chấp vào cuộc sống hiện tại. Tâm trạng khi chết vẫn còn lưu giữ đến bây giờ. Vì vậy mà ông mới quay trở lại gặp gia đình.
Hỏi: Vì sao ông không về sớm hơn mà bây giờ mới quay trở về?
Ông không thể về sớm hơn là vì người cho ông mượn thân xác chưa đủ công đức và chưa phát nguyện độ chúng sanh. Bây giờ người ấy đã phát nguyện “Bỏ ác, làm thiện cứu độ tất cả chúng sanh” họ đã đủ công đức. Vì người cho ông mượn thân xác có căn lành, tu sâu nên mới nhìn thấy ông khi ông quay trở về.
Hỏi: Sau khi mất thân ông thấy những gì diễn ra xung quanh ông?
Ông thấy xung quanh ông chỉ toàn một màu đen đỏ tối om. Ông thấy mình khổ sở vô cùng không thấy cái gì ở phía trước. Ông phải sống trong cảnh giới đói khát, lạnh lẽo và không thể trở về nhà được. Không ai cho vào. Ông hiều đó là do nghiệp sát ông phải trả.
Sau khi tiếp cận Phật pháp (sám hối, trì chú Đại Bi) ông thấy xung quanh ông dần dần sáng ra, thân tâm nhẹ dần và thấy rõ con đường đi của mình.
Hỏi: Còn những người xung quanh ông?
Họ cũng có những sắc mầu gần giống như vậy. Chỉ có những người trì tụng kinh Phật thường xuyên và những người tu mới có màu sáng trắng sau khi rời bỏ thân xác. Ông đã nhìn thấy màu sáng trắng đó quanh đầu Ni Sư trưởng Thích nữ Như Vân ở chùa Long Hoa Ni Tự – Rạch Kiến.
Hỏi: Những người quay trở về dương thế như ông có nhiều không?
Nhiều lắm. Nếu người dương không giữ đầu óc trong sáng là bị họ nhập liền. Vì họ cũng đang rất muốn có thân xác. Chỉ cần tham, sân, si…khởi lên là họ biết liền. Vọng tưởng càng mạnh thì họ càng dễ nhập.
Hỏi: Khi được thân người thì phải tu như thế nào để sau khi mất thân xác được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc?
Muốn vãng sanh được về Tây phương Cực Lạc thì phải trì 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật thường xuyên, liên tục. Phải ăn chay, niệm Phật, làm công đức. Tu thập thiện trì ngũ giới. Khi lâm chung phải niệm 10 tiếng. Nếu có cơ duyên tốt có người hộ niệm thì nhất định sẽ vãng sinh được về Tây Phương Cực Lạc.
Hỏi: Trước đây nghe bà ngoại nói ông không bao giờ dạy bảo ai điều gì? Sao bây giờ khi trở về gặp ai, ông cũng khuyên mọi người nên tu và niệm Phật? Còn các đạo giáo khác thì như thế nào?
Đừng nghĩ sau khi chết là hết. Cuộc đời ở trần thế chỉ là một giấc chiêm bao vô thường và ngắn ngủi. Ông muốn thức tỉnh mọi người. Vì khi mất thân người rồi xuống đây chẳng còn gì ngoài tâm thức biến hiện của mình. Khi chỉ còn tâm thức thì mới biết đạo Phật là chánh pháp, chỉ có đạo Phật mới có thể cứu thoát con người ra khỏi cảnh khổ và siêu thoát được. Những nghiệp mà mình đã tạo trước đây sẽ đeo bám mình suốt không biết bao giờ mới thoát ra được.
Nam Mô A Di Đà Phật! Nếu ai đọc xong cuộc phỏng vấn này bỗng phát tâm tu hoặc đã tu tự nhiên cảm thấy tinh tấn hơn thì xin hồi hướng công đức này cho ông Huỳnh Văn Lương cùng các cộng sự của ông và những người lính của cả 2 bên để họ được siêu thoát.
Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà Phật!
Tác giả: Hồng Vân (báo Phật tử VN)
Xăm hình là một nghệ thuật. Nhưng đồng thời những hình xăm đẹp cũng mang những ý nghĩa duy tâm nhất định trong phong thủy. Nếu như bạn xăm hình hợp với vận mạng của mình thì sẽ mang đến sự may mắn cát tường trong cuộc sống.
Đối với người mệnh thổ thì nên xăm hình phong thủy gì và ý nghĩa sâu xa của nó như thế nào? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu kỹ trước khi xăm:
Thổ là một trong những yếu tố cấu thành nên ngũ hành tương sinh tồn tại trong vũ trụ.
Những điều nên khi xăm hình:
Dựa vào sự tương sinh trong ngũ hành người mệnh thổ thì nên xăm những màu sắc tượng trưng cho lửa như đỏ, hồng, cam bởi lửa sẽ sinh ra đất (chính là thổ). Chính vì vậy hình xăm rồng, cá chép đỏ, phượng hoàng lửa sẽ rất hợp với bạn.
Rồng lửa là một hình xăm nghệ thuật rất hợp với người mệnh thổ bởi sắc đỏ rực và có khả năng tạo ra lửa để sinh ra tính thổ trong bạn. Không những thế rồng còn là sự biểu hiện cho sức mạnh tối cao, quyền lực huyền bí không ai giám chống lại.
Hình xăm rồng lửa tay cầm quả cầu âm dương thể hiện cho sức mạnh nắm giữ toàn bộ phép thuật vồn có của cõi âm và trên trần. Hơn nữa xăm hình rồng này còn là nghệ thuật bởi sự cách điệu phá cách trong những hoa văn, chắp thêm đôi cánh cho rồng.
Tuy nhiên bạn mệnh thổ có phần lớn điều kiện để xăm hình rồng, tuy nhiên nên tìm hiểu thật kỹ về ý nghĩa hình xăm rồng để có được sự lựa chọn thích đáng nhất, dù sao rồng cũng là sinh vật linh thiêng.
Còn một màu sắc nữa hợp với bạn mệnh thổ đó là màu vàng đất. Ở đây hình xăm cá chép màu nâu nghiêng sang vàng đất là hình xăm nghệ thuật phù hợp nhất. Vốn dĩ xăm hình cá chép mang ý nghĩa rất tốt đẹp (bạn có thể xem tại ý nghĩa hình xăm cá chép ) mà lại mang màu vàng đất càng tạo nên sự tương trợ vô cùng lớn.
Nếu chọn màu sắc thì màu nâu đậm là tốt nhất bởi “lưỡng thổ thành sơn” – đất nhiều thì thành núi mang lại địa vị vững chắc cho chủ nhân.
Những điều cần tránh khi xăm hình đối với người mạng thổ:
Màu sắc hình xăm cho người mệnh thổ nên tránh là màu của thủy như màu xanh, màu đen, màu tím xanh bởi thổ khắc thủy sẽ không phát huy tác dụng mà hình xăm mang lại.
Còn một màu vồ cùng kiêng kỵ, nên tránh đó là màu xanh lá cây – màu của cây cối của tính “mộc”. Bởi vì cây đâm sâu rễ vào đất hút hết khoáng chất, chất dinh dưỡng từ đất. Người xăm hình màu xanh lá sẽ ngày càng suy yếu về sức khỏe, thể lực, tiền tài.