Tính cách phụ nữ qua các kiểu ngực –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
Ảnh minh họa |
Mệnh của con chưa ai đoán nên không biết thế nào, nhưng nên hiểu rằng như mệnh mình gặp lúc vinh hiển, thường phải nghĩ tới lúc hàn vi chưa được đắc ý; khi gặp được sự thuận lợi, thường phải nghĩ tới lúc gặp nghịch cảnh khó khăn; khi trước mắt có đủ ăn, thường phải nghĩ tới lúc nghèo nàn; khi được người kính nể, thường phải có ý e dè sợ sệt; khi gia thế được người trọng vọng, thường phải nghĩ tới lúc mình còn ty tiện, thấp kém; khi học vấn có phần cao, thường phải nghĩ tới lúc mình còn nông cạn, ngu dốt.
Nghĩ tới việc xa thì phải nêu cao cái đức của tổ tông, nghĩ gần thì phải đền bồi lỗi lầm cho cha mẹ nếu có; trên thì nghĩ tới việc báo ân tổ quốc, dưới thì nghĩ tới việc tạo phúc cho gia đình, bên ngoài thì nghĩ tới việc cứu người khi cần cấp, bên trong thì đề phòng khắc phục tà kiến của mình.
Ngày ngày cần phải xét biết lỗi để ngày ngày cải sửa. Một ngày mà không biết xét chỗ sai trái của mình là ngày đó mình đã an nhiên tự thị, yên chí tự coi mình là đúng. Một ngày mà không có lỗi nào để sửa là ngày đó không có một chút tiến bộ nào cả.
Trong thiên hạ không thiếu gì người thông minh tài trí, nhưng lại không biết tu cho đức được tăng, không biết mở mang sự nghiệp cho ngày một thêm rộng lớn, chỉ biết an vui phóng dật chẳng chịu cải sửa, bỏ phí cả một đời.
Thuyết lập mệnh do Vân Cốc thiền sư chỉ dạy là một đạo lý thực chân chánh, thực tinh vi thâm thúy, con phải gắng công, gắng sức nghiên cứu cho kĩ rồi theo đó mà thi hành, chớ để thời gian trôi qua một cách vô ích.
Thời gian: tổ chức từ ngày 18 tới ngày 20 tháng 9 âm lịch.
Địa điểm: xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn bà Chúa Thượng Ngàn (nữ Thần Núi) - một trong ba vị mẫu vẫn thờ phụng trong tín ngưỡng thờ mẫu ở Việt Nam.
Nội dung: Đền Bắc Lệ nằm trên đồi cao, dưới bóng những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi thờ Bà Chúa Thượng Ngàn - nữ thần núi, là nữ thần trông coi, cung cấp và ban phát nguồn của cải núi rừng cho con người.
Ngoài ra, được suy tôn trong đền còn có Chầu Bé - một nhân vật có thật người vùng Bắc Lệ, đây chính là các cô, các cậu trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Lễ hội đền Bắc Lệ bao gồm các phần lễ chính: lễ tắm ngai, lễ chính tiệc, lễ rước... Không khí của buổi lễ hòa trong tiếng chiêng, tiếng trống rộn ràng với những điệu nhạc và những trang phục rực rỡ sắc màu của điệu múa sanh tiền. Người dân ở đây tin rằng điệu múa sẽ đem lại may mắn và bình an.
Người thích “buôn dưa lê”: Răng vẩu
Người có hàm răng “vẩu” là người có hàm răng nhô ra quá mức so với trán và mũi. Những người răng vẩu thường là những người nói nhiều, thích buôn chuyện. Nhiều khi họ “thêm mắm dặm muối” khiến cho câu chuyện khác xa so với ban đầu.
Người có tính tình “quái dị”
Là nam giới nhưng có giọng nói “eo éo” như nữ giới hoặc là nữ giới nhưng có giọng nói “ồm ồm” như nam giới, giọng nói của những người này thường gây phản cảm cho người khác khi tiếp xúc, tính tình của họ cũng quái dị như giọng nói và đôi khi cả giới tính của họ vậy.
Những người “quái gở” này, họ có tâm tư thay đổi thất thường, là người lắm mưu nhiều kế, hay bài xích người khác, tính tình chua ngoa, cay nghiệt. Nếu để những người này nắm được bí mật thì hậu họa sẽ khó lường.
Người mắt lồi nói năng thiếu suy nghĩ |
Người nói mà không suy nghĩ: Mắt lồi
Những người mắt lồi có ưu điểm là phản ứng nhanh, tính ngay thẳng nhưng lại thiếu khả năng phán đoán, nói năng bừa bãi, thiếu suy nghĩ, hành động nông nổi, không quan tâm tới hậu quả. Nếu bí mật rơi vào tay họ thì trong một khoảnh khắc “lỡ lời”, toàn bộ bí mật sẽ bị “bật mí”.
Hơn nữa, nếu người có mắt lồi, ánh mắt lại láo liên, “đảo như rang lạc” thì là người chỉ chờ có cơ hội để phá đám, thích trêu chọc người khác. Nên cẩn thận với những người này.
Người khó khả năng giữ bí mật kém: Dái tai nhỏ và nhọn
Nếu không muốn trở thành trò cười cho thiên hạ hoặc là trung tâm của sự bàn tán thì tuyệt đối không được “dốc bầu tâm sự” với những người có dái tai nhỏ và nhọn. Những người này thường không chịu nổi áp lực tâm lý, một khi có biết được một bí mật nào đó, họ sẽ cảm thấy bứt rứt, chỉ chờ cơ hội để nói ra. Đây chính là những người “phao tin đồn nhảm”, luôn muốn lấy chuyện riêng tư của người khác làm niềm vui.
► Mời các bạn: Xem tử vi, xem tướng số đoán biết vận mệnh chuẩn xác tại Lichngaytot.com |
Theo Tivisomenh
(Ảnh minh họa) |
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online, xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác |
Hành: MộcLoại: Cát TinhĐặc Tính: Khoan hòa, bệ vệ, học hành, khoa giáp, quý hiển, tốt lànhTên gọi tắt thường gặp: Tọa
Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Tam Thai và Bát Tọa. Gọi tắt là bộ sao Thai Tọa. Phân loại theo tính chất là Đài Các Tinh.
Ý Nghĩa Bát Tọa Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Bát Tọa là cằm, phần hạ đỉnh trên tướng mặt.
Tính Tình
Bát Tọa ở Mệnh là người khôn ngoan, phúc hậu, thích thanh nhàn.
Ý Nghĩa Bát Tọa Với Các Sao
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (##)
► Mời các bạn tra cứu: Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
Hắt xì hơi làm một phản ứng tự nhiên khi bị tác động bới những chất kích thích trong không khí hay ở môi trường sống, hoặc cũng có thể là triệu chứng của bệnh cảm cúm. Mỗi khi hắt hơi, theo phản xạ thì có tới hàng nghìn vi khuẩn theo luồng hơi đó phát tán ra bên ngoài. Tuy nhiên một người lại có một cách hắt hơi khác nhau. Theo một chuyên gia nghiên cứu thì có 4 kiểu hắt hơi phổ biến nhất là: Hắt xì hơi nhiệt tình, hắt hơi tế nhị, hắt hơi đúng mực và hắt xì hơi bột phát.
Xem thêm: Giãi mã hiện tượng máy mắt trái, giật mắt phải
Hắt xì hơi đầy sức sống mạnh mẽ. Bạn sẽ là một người lãnh đạo uy tín và là một người có tầm ảnh hưởng lớn. Nếu bạn hắt hơi kiểu này thì luôn luôn có những ý tưởng tuyệt vời, có trực giác tốt, lại có khả năng truyền cảm hứng và thúc đẩy người khác làm việc. Bạn luôn đánh giá cao các mối quan hệ và biết gìn giữ lâu dài.
Đây cũng là tuýp người cởi mở luôn đón nhận những cơ hội mới, dễ dàng kết bạn với mọi người, duy trì trạng thái lạc quan, yêu đời. Hơn nữa đây lại là những người biết cách giao tiếp, ăn nói có duyên nên rất được lòng mọi người và dễ dàng kết bạn.
Đây là kiểu hắt xì hơi không gây ồn ào, bạn luôn cố gắng làm giảm âm thanh để không ảnh hưởng tới những người xung quanh. Đây là mẫu người thân thiên, nhiệt tình, thích hợp với nhịp độ phát triển nhẹ nhàng. Bạn thường xuyên tránh những cuộc xung đột và sống hòa nhã với những người khác. Đây là những người trung thành điềm tĩnh và đáng tin cậy, biết lắng nghe thông cảm, luôn sẽ chia và chăm sóc người khác.
Những người hắt xì hơi (nhảy mũi) theo kiểu này thường là người sống nguyên tắc, có tính cách ôn hòa . Biểu hiện của những người hắt hơi đúng mực là người khi hắt hơi thường lấy giấy ăn hoặc khăn mùi xoa che miệng.
Kiểu hắt hơi nhanh và to. Họ là người nhanh nhẹn và quyết đoán, trong công việc thì luôn có hiệu quả và không rườm rà. Họ là người tự lập, không dựa dẫm vào người khác. Thông thường họ là người lãnh đạo vì ở họ luôn có sự mạnh mẽ, biết nhìn xa trông rộng và thực hiện mọi việc một cách nhanh chóng nhất.
Nếu bạn bị hắt xì hơi liên tục, nhưng không phải là dấu hiệu của bệnh cảm cúm thì có thể có một điềm báo có một chuyện gì đến với bạn, có thể là một chuyện tốt, nhưng cũng có thể là một điều xấu. Còn tùy thuộc vào số lần bạn bị hắt xì là bạn bị hắt xì hơi 1 lần, hắt xì hơi 2 lần hay hắt xì hơi 3 lần,… Dưới đây là những ghi chép về hiện tượng nhảy mũi, hắt xì hơi. Khi bạn thắc mắc bạn bị ngứa mũi thì dự báo điềm gì, giải mã điềm báo hắt xì hơi của bạn vào mỗi giờ ra làm sao, bạn có thể tham khảo dưới đây:
Hắt xì hơi vào lúc 6h đến 7h:
Thứ 2: Bạn buồn
Thứ 3: Bạn buồn vu vơ
Thứ 4: Bạn yêu người ta nhưng không dám nói.
Thứ 5: Bạn đang yêu
Thứ 6: Đừng làm người ta buồn
Thứ 7: Hãy tránh xa người ta.
Chủ nhật: Bạn sẽ vui.
Hắt xì hơi vào lúc 7h đến 8h
Thứ 2: Anh ấy thích bạn.
Thứ 3: Bạn thích anh hàng xóm
Thứ 4: Bạn đừng kiêu nữa
Thứ 5: Bạn thích một người.
Thứ 6: Một ngày tốt đẹp
Thứ 7: Được nâng niu chiều chuộng
Chủ nhật: Một ngày dễ chịu
Bị hắt xì hơi vào lúc từ 8h đến 9h
Thứ 2: Có người đến thăm bạn
Thứ 3: Bạn đem lòng yêu người đó
Thứ 4: Ở nhà có sự không lành
Thứ 5: Một cuộc tình gặp gỡ
Thứ 6: Người đó đến với bạn
Thứ 7: Đừng giận nữa
Chủ nhật: Bạn sẽ gặp người cũ
Hắt xì hơi vào khoảng 9h đến 10h
Thứ 2: Bạn là một người hạnh phúc
Thứ 3: Có người chỉ trích bạn
Thứ 4: Bạn luyến tiếc một cái gì đó.
Thứ 5: Hãy viết thư cho người ta
Thứ 6: Người ấy tha thiết yêu bạn.
Thứ 7: Có người yêu bạn thầm kín
Chủ nhật: Có người yêu bạn.
Điềm báo khi hắt xì hơi vào khoảng thời gian 10h đến 11h.
Thứ 2: Bạn gặp người yêu
Thứ 3: Bạn luôn nhắn đến người ấy
Thứ 4: Người ấy muốn gặp bạn.
Thứ 5: Có người yêu bạn
Thứ 6: Có vài người để mắt đến bạn
Thứ 7: Bạn sẽ buồn
Chủ nhật: Bạn có tình yêu mới
Giải mã điềm báo nhảy mũi vào thời gian từ 11h đến 12h
Thứ 2: Họ buồn về bạn
Thứ 3: Ước mơ thành sự thật
Thứ 4: Bạn có được hạnh phúc
Thứ 5: Bạn đừng buồn
Thứ 6: Có một người bạn nghĩ tốt về bạn
Thứ 7: Bạn sẽ ra ngoài buổi tối
Chủ nhật: Bạn sẽ gặp gỡ một người bạn
Điềm báo khi hắt xì hơi vào lúc 12h đến 13h
Thứ 2: Họ khóc vì lỗi của bạn
Thứ 3: Người ấy muốn có bạn
Thứ 4: Hãy đợi người ta
Thứ 5: Bạn sẽ có tin vui
Thứ 6: Có một người muốn gặp bạn
Thứ 7: Có người để ý đến bạn
Chủ nhật: Có một cuộc cãi cọ xảy ra
Điềm báo khi bị nhảy mũi vào lúc 13h đến 14h
Thứ 2: Một người muốn gặp bạn
Thứ 3: Bạn sẽ gặp lại một người bạn cũ
Thứ 4: Hãy cho người ta thanh minh
Thứ 5: Có một người luôn theo đuổi bạn
Thứ 6: Bạn có tình yêu bạn
Thứ 7: Bạn nhớ người yêu nhiều
Chủ nhật: Có ai đó đang nhớ bạn
Giải mã hắt xì hơi vào lúc 14h đến 15h.
Thứ 2: Có người đang nghĩ về bạn
Thứ 3: Bạn nghĩ về ai thì người đó yêu bạn
Thứ 4: Người ta rất yêu bạn
Thứ 5: Bạn đang chờ người ấy
Thứ 6: Có chuyện vô tình sắp đến
Thứ 7: Người ta thật lòng yêu bạn
Chủ nhật: Bạn sẽ gặp gỡ người yêu
Hắt xì hơi vào lúc 15h đến 16h
Thứ 2: Người ấy yêu bạn
Thứ 3: Sự bạc mệnh đang chờ
Thứ 4: Bạn sẽ có đối thủ
Thứ 5: Người ấy nghĩ về bạn
Thứ 6: Có một tin tốt lành sẽ đến
Thứ 7: Người ấy sẽ trở thành của riêng bạn
Chủ nhật: Ngày mai sẽ có một cuộc gặp gỡ vui
Điềm báo về hiện tượng nhảy mũi lúc 16h đến 17h
Thứ 2: Người ấy mơ về bạn
Thứ 3: Người ta mong chờ bạn
Thứ 4: Bạn yêu người ta rồi
Thứ 5: Người ấy nhớ bạn
Thứ 6: Ở nhà có niềm vui
Thứ 7: Điều tốt lành sẽ đến với bạn
Chủ nhật: Người ta nghĩ về bạn
Giải mã điềm báo hắt xì hơi vào lúc 17h đến 18h
Thứ 2: Có một người muốn có bạn
Thứ 3: Sẽ có một cuộc cãi cọ xảy ra
Thứ 4: Bạn làm hư người ta
Thứ 5: Bạn rất vui
Thứ 6: Người ta sẽ đợi bạn
Thứ 7: Người ấy không yêu mà chỉ tôn trọng bạn
Chủ nhật: Bạn chấp nhận tình yêu
Giải mã điềm báo hắt xì hơi vào lúc 18h đến 19h
Thứ 2: Bạn hãy chấp nhận tình yêu của người ấy
Thứ 3: Người ta thích cái tên của bạn
Thứ 4: Bạn đang yêu
Thứ 5: Bạn đang làm người ta đau khổ
Thứ 6: Có người tìm đến bạn
Thứ 7: Bạn sẽ có một cuộc trò chuyện
Chủ nhật: Bạn nhờ vả người ta
Điềm báo nhảy mũi vào lúc 19h đến 20h
Thứ 2: Có một chuyện buồn
Thứ 3: Người ta không yêu bạn
Thứ 4: Có một người đang yêu bạn
Thứ 5: Có người yêu bạn
Thứ 6: Có một niềm vui sắp đến
Thứ 7: Bạn sắp quen được một người tốt
Chủ nhật: Bạn buồn
Giải mã hiện tượng hắt xì hơi vào lúc 20h đến 21h
Thứ 2: Bạn sẽ hạnh phúc khi yêu
Thứ 3: Có người đang thích bạn
Thứ 4: Người ta mong được gặp bạn
Thứ 5: Bạn yêu người đó
Thứ 6: Bạn rất nhớ họ
Thứ 7: Người ấy rất yêu bạn
Chủ nhật: Người ta muốn yêu bạn
Giải mã hắt xì hơi vào lúc 21h đến 22h
Thứ 2: Người ta đau khổ vì bạn
Thứ 3: Bạn sẽ nhận được thư
Thứ 4: Bạn đang nghĩ về người ấy
Thứ 5: Hãy cẩn thận
Thứ 6: Có một người mới gặp đã yêu bạn
Thứ 7: Người ta không ghét bạn
Chủ nhật: Bạn đang mong chờ một điều gì đó.
Hiện tượng hắt xì hơi vào lúc 22h đến 23h
Thứ 2: Hãy chấp nhận tình yêu của người ấy
Thứ 3: Người ấy yêu bạn thầm kín
Thứ 4: Bạn buồn và thất vọng
Thứ 5: Người ấy biết bạn đang yêu họ
Thứ 6: Người ta thông cảm cho bạn
Thứ 7: Người ta luôn nhớ về bạn
Chủ nhật: Bạn đang yêu
Điềm báo hiện tượng hắt xì hơi vào lúc 23h đến 24h
Thứ 2: Người ta gặp bạn
Thứ 3: Bạn sắp yêu
Thứ 4: Bạn đang mong chờ một điều gì đó
Thứ 5: Bạn hãy thể hiện tình yêu của mình
Thứ 6: Người ta sẽ tha thứ cho bạn
Thứ 7: Bạn muốn yêu
Chủ nhật: Bạn cần tìm một người.
Xem thêm: Những điềm báo khác về hiện tượng hắt xì hơi, nhảy mũi
► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm |
Cổ nhân nói , giàu nghèo ở khuôn mặt mà ra. Khi xem tướng mặt, yếu tố khá quan trọng đó chính là Nhân Trung. Nhân trung là khoảng lõm giữa mũi và miệng, hãy xem nhân trung của bạn giống với hình dáng nào dưới đây
Nhân trung như hình số 1: - Nhân trung dài
Trong cuộc sống của bạn, bạn sẽ có rất nhiều cơ hội để trở nên giàu có. Trong buôn bán làm ăn đầu tư khá hợp với bạn, sẽ mang lại nhiều lợi lộc, tiền tài cho bạn
Nhân trung như hình số 2: - Nhân trung ngắn
Điều phù hợp với bạn là có một công việc ổn định và tiết kiệm tiền. Bạn tin rằng tiền bạc không mua được hạnh phúc, đó là lý do tại sao bạn không thực sự quan tâm đến số tiền mà bạn đang có.
Nhân trung như hình số 3: Nhân trung lồi
Sức khỏe của bạn rất tốt, bạn có thể làm nhiều việc cùng một lúc, nhưng một trong số đó phải là công việc bạn ưa thích hoặc dễ làm, có lẽ một cơ hội tốt đẹp sẽ đến với bạn vào một ngày nào đó
Nhân trung như hình số 4: Có nốt ruồi hoặc sẹo
Bạn không may mắn có nhiều tiền. Thu nhập từ công việc của bạn không phải là nhiều và bạn có thể phải vay tiền. Tuy nhiên sẽ có người ra tay giúp đỡ bạn, lòng tốt này không thể mua được bằng tiền và không phải ai cũng có, vì vậy bạn nên cảm thấy may mắn.
Nhân trung như hình số 5: Có râu ở nhân trung
Bạn có thể tìm thấy một công việc với thu nhập cao, bạn rất may mắn. Tuy nhiên bạn thường chi tiêu hoang phí, nên bạn không thể tiết kiệm được tiền.
► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật |
Cổng làng Nhĩ Thượng |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Đồ hình Hà Đồ |
Hà Đồ và số nhà
Nhiều người cho rằng, số Hà Đồ là rất may mắn trong chu kỳ thăng; rất kém may mắn trong chu kỳ giáng. Chu kỳ của Hà Đồ lên hay xuống tùy thuộc vào hướng nhà.
Số 6 và 1 mang lại sự may mắn về học vấn khi chu kỳ thăng và nhà hướng về hướng Đông hoặc Đông Nam. Nếu số nhà bạn là 16 hoặc 61 thì con cái trong nhà rất thông minh và có tài. Sự kết hợp này sẽ đạt đến đỉnh cao khi nhà ở hướng Bắc nhưng sẽ mang lại vận rủi nếu nhà quay về hướng Nam. Ở hướng này, số 6 và 1 ở chu kỳ giáng, mang đến những ảnh hưởng xấu.
Số 2 và 7 mang tài lộc đến cho nhà ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc. Ở hướng Nam, những con số này cũng may mắn. Nhưng nếu nhà hướng về phía Tây Bắc hoặc Tây thì sẽ có bệnh tật và tai nạn.
Số 3 và 8 mang đến thành công về chính trị và may mắn cho con cháu khi nhà ở hướng Nam, Đông, Đông Nam nhưng có hại cho con cái khi nhà hướng về Tây Nam.
Số 4 và 9 mang may mắn về kinh doanh cho nhà hướng Bắc, Tây và Tây Bắc. Nhưng khi nhà quay về hướng Đông và có địa chi hợp với số 4 và 9 thì vận rủi sẽ đến với người trong nhà.
Sức mạnh đặc biệt của sự kết hợp các con số Hà Đồ thường được cảm nhận khi số nhà phù hợp với sự kết hợp số Hà Đồ. Nếu nhà bạn có hướng may mắn thì hãy an tâm về nguồn tài lộc. Nhưng nếu số nhà bạn là những con số này mà lại ảnh hưởng đến chu kỳ giáng của số Hà Đồ. Cách tốt nhất để vượt qua những ảnh hưởng xấu là dùng chữ thay vì dùng số để hóa giải tức thời những biểu tượng số.
(Theo Sắp xếp nhà cửa theo phong thủy)
Người tuổi Sửu mệnh Mộc là những người sinh năm Quý Sửu 1913, 1973... Không trầm tĩnh như người tuổi Sửu mệnh Thổ, không mạnh mẽ như người tuổi Sửu mệnh Kim nhưng vẻ ngoài của họ toát lên khí chất nho nhã, thanh cao và luôn gây được thiện cảm với người xung quanh.
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Người tuổi Sửu mệnh Mộc vốn không sôi nổi nhưng luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác. Họ có chí tiến thủ nhưng không quá tham vọng với quyền lực như người tuổi Sửu mệnh Hỏa. Trong công việc, họ cẩn trọng, biết tiếp thu ý kiến của người khác, có tinh thần cầu thị. Có thể nói, con người họ giống như tính chất của hành Mộc, luôn vươn lên tươi xanh và cân bằng và chan hòa sức sống.
Người tuổi Sửu mệnh Mộc có tinh thần hợp tác và biết cách tạo dựng các mối quan hệ tốt đẹp trong công việc cũng như trong cuộc sống. Cũng có không ít người tuổi Sửu mệnh Mộc khá thông minh, nhanh nhẹn. Họ biết tận dụng mọi cơ hội khi có thể để biến lý tưởng của mình trở thành hiện thực.
Cuộc đời của người tuổi Sửu mệnh Mộc tuy có gặp khó khăn nhưng họ đều biết cách vượt qua để tạo lập sự nghiệp cho bản thân.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Ảnh minh họa |
Hai cánh tay cũng chính là “vũ khí” mà bản thân được trang bị. Mơ thấy 2 cánh tay trong giấc mơ thì sắp tới bạn sẽ phải đương đầu với nhiều thách thức trong cuộc sống đó. Bạn phải cứng rắn để bảo vệ bản thân nhé.
Chiêm bao thấy tay mình bị thương là bạn đang thiếu khả năng tự chăm sóc bản thân và phải phụ thuộc vào người khác. Có thể bạn đang cảm thấy mình bị kiểm soát mọi hoạt động và bị mất tự do.
Chiêm bao thấy mình xé toạc 2 cánh tay của người khác, cho thấy bạn đang cực kỳ khó chịu với hành động của người ấy nhưng trong cuộc sống hiện tại bạn không có cơ hội bộc lộ sự giận dữ. Vì bạn là người có thói quen giữ cảm xúc trong lòng nên trong mơ, cảm xúc ấy mới bộc lộ mãnh liệt như vậy.
Chiêm bao thấy 2 khuỷu tay ám chỉ bạn đang muốn ở một mình, bạn muốn có một không gian riêng. Giấc mơ này còn ám chỉ bạn đang sợ hãi thế giới xung quanh, không muốn mọi người chú ý tới mình.
Thấy 2 khủyu tay của bạn trong giấc mơ nhưng chúng lại bị thương, điều này phản ánh trong bạn đang tồn tại sự lo âu về vấn đề tình dục. Ngoài ra, giấc mơ này cũng cho thấy bạn đang thiếu khả năng điều hành công việc trong một số hoàn cảnh đặc biệt.
Mơ thấy nách biểu thị cho mối quan hệ của bạn với người khác, nó biểu thị cho nét đặc trưng và tính cách của bạn trước đám đông.
Ngửi nách của bạn trong mơ, ám chỉ rằng bạn đang điều chỉnh tính cách để làm dịu một hoàn cảnh hoặc mối quan hệ. Ngoài ra, điều này cón ám chỉ rằng bạn đang tìm kiếm sự chấp nhận.
Ảnh minh họa |
Mơ thấy tay không có lực và biến thành màu vàng điềm báo bệnh tật.
Mơ thấy tay bị bỏng là bị người khác đố kị.
Mơ thấy tay bị chặt ngụ ý sẽ trở thành người thắng trong tình cảm.
Mơ thấy đôi tay bị chặt nhất định sẽ được thần linh phù trợ.
Mơ thấy tay hồng hơn bình thường là đường quan vận hanh thông.
Mơ thấy đôi tay đang cầm tiền là nhất định gia đình phát tài.
Mơ thấy tay vừa dài vừa chắc chắn ngụ ý sự nghiệp sẽ thành công.
Nữ giới mơ thấy tay mình biến thành kiên cố ngụ ý mệnh cô ấy rất vững.
Mơ thấy bắt tay người lạ sắp kết giao bạn bè.
Mơ thấy đôi tay nhiều ngón là sắp có quý nhân thăm viếng.
Mơ thấy ngón tay ngắn ám chỉ cuộc sống gặp khó khăn về kinh tế.
Mơ thấy tay mình biến dài dự báo chuyện làm ăn hưng thịnh.
Mơ thấy tay không có vân tay là bạn sắp lợi dụng lòng tham để kiếm tiền.
Mơ thấy ngón tay có máu ngụ ý tương lai sẽ bị lừa tiền.
Mơ thấy tay có vết là vận tài lộc sắp tăng cao, có lẽ cho thường ngày hành vi lời nói đoan chính đúng mực sẽ giúp bạn nhận được những tiền thưởng bất ngờ.
Mơ thấy tay bị trói là mặt quan hệ xã giao xuất hiện phiền phức. Người bạn luôn có thành kiến với bạn sẽ nhân cơ hội mà nói xấu sau lưng, lúc này bạn nên có một thái độ độ lượng để ứng phó, không nên quá gay gắt.
Mơ thấy mồ hôi tay ra nhiều là mặt tình cảm không thuận lợi. Ngôi sao tranh cãi đang ở trên đầu bạn, có thể đôi bên sẽ cãi cọ gay gắt tới mức động tay chân kết quả là ly tán không vui.
► Tham khảo thêm giải mã giấc mơ: Mơ thấy cá, mơ thấy tiền, mơ thấy máu |
Song Ngư vẫn ‘làm nũng’ mỗi khi có chuyện buồn hoặc cô đơn; Bò Cạp tìm người yêu mới của đối phương để mách lẻo.
Song Tử:
Cự Giải:
Nhân Mã:
Bò Cạp:
Song Ngư:
Vô Danh (tặng các cháu Lai, Liễn ở Hải quân)
Chúng tôi đương nghiên cứu về Tam hợp trong khoa Tử vi, thì được bài giải đoán kinh nghiệm này của một cụ Vô Danh. Nguyên tắc rất đặc biệt, chúng tôi xin trình bầy cẩn trọng với quý bạn đọc. Cụ Vô danh đã đáp ứng lời kêu gọi của chúng tôi cầu xin kinh nghiệm giải đoán của các cụ cao thủ Tử vi, nhân trình bầy các kinh nghiệm của cụ Thiên Lương. Chúng tôi sẽ xin có những lời nói tiếp sau bài này. Chúng tôi xin trân trọng biết ơn cụ Vô Danh và mong được hầu chuyện với Cụ.
Hầu hết các sách Tử-Vi đã phát hành và một số lớn những người biết nhiều về Tử-Vi, thường hướng dẫn những người mới nghiên cứu rằng muốn xét sự hung kiết của một cung, cần phối hợp cung đó với cung Phúc, Mệnh, Thân, Hạn, Tam Hợp, Nhị Hợp, xung chiếu, có sách và có vị cẩn thận hơn còn khuyến khích nên xem cả cung cường, cung nhược …Một tổng hợp như vậy có lúc cần phối hợp 8 cung, với một số tinh đẩu đôi khi mang tính chất trái ngược nhau, qủa đã gây bối rối không ít cho người mới nghiên cứu hoặc gây chán nản cho người muốn nghiên cứu Tử-Vi. Đó là chưa kể đến hậu quả có thể gây sự nhầm lẫn trong việc giải đóan. Thí dụ như có người nghiên cứu cung Mệnh, đã phối trí cung Tài, Quan, Di, rồi khi nghiên cứu cung Tài cho rằng chỉ cần thêm vào tổng hợp trên đặc tính của cung Điền và lọai trừ cung Di ra là đủ. Thật ra Tam Hợp không hẳn có nghĩa là phải phối hợp lại các đẩu tinh trong ba cung để luận đóan. Người xưa đã có những định luật, khi phối hợp các cung lọai trừ những đẩu tinh ít hoặc không ảnh hưởng đến lá số, những định luật này phần lớn thất truyền, có lẽ một phần do truyền thống “dấu nghề” của người Á-Đông, phần khác do chiến tranh khiến cho các sách quý của ta bị thất lạc, hậu qủa là với lối giải mơ hồ bất định đã đem lại cho người đời mối hoài nghi về Tử-Vi và thậm chí có người xếp khoa nầy vào thành phần đạo thuật. Mới đây một vị thâm cứu Tử-Vi, cụ Thiên Lương đã tiên phong khai sáng cái đạo lý Tử-vi qua cách giải đóan đại cương lá số bằng các Tam-Hợp, Thái-Tuế, Lộc-Tồn v.v…giúp cho người thích nghiên cứu, nhìn qua đã ước định được sự thành bại, hung kiết của đương số, thật bổ ích thay! Noi gương cụ, chúng tôi xin mạo muội trình bày với các bạn một ý kiến về cách thức loại trừ bớt các đẩu tinh khi xét đóan cung Tam-Hợp mà chúng tôi đã may mắn và tình cờ học được.
1- Phân định tam-hợp
Chúng ta thấy rằng, trên Thiên bàn, các cung (Tý, Sửu, Dần, Mão v.v… ) với các Hành (Kim, Mộc, Thủy,…) của chúng nằm ở vị trí cố định, thứ tự các biểu tượng liên quan đến lá số (Phụ-Mẫu, Phúc-Đức v.v… ) cũng cố định đối với cả người sinh Dương lẫn sinh Âm và vị trí các biểu tượng này trên Thiên-bàn hoàn toàn tùy thuộc vào vị trí của Mệnh. Phân định các cung và các biểu tượng của lá số thành Tam-Hợp, ta có:
a) Thân-Tý-Thìn
- Tỵ-Dậu-Sửu
- Hợi-Mão-Mùi
- Dần-Ngọ-Tuất
b)Mệnh-Tài-Quan
- Phụ-Tử-Nô
- Phúc-Phối-Di
- Điền-Bào-Ách.
2- Luận về Sinh-Khắc của Hành
Xét ngũ hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ ta thấy những hành liền nhau là Sinh, những hành cách khoảng là Khắc. Vậy thì Sinh là liền nhau có tác dụng mạnh lên nhau, còn Khắc là gián đọan, có tác dụng xô đẩy và xa rời: khảo sát các hiện tượng vật lý cũng cho phép ta kết luận tương tự. Hơn nữa khoa Tử-Vi tuy được xem là một khoa học, nhưng chắc chắn căn bản dựa trên phước thiện, tu vi của kiếp người, cổ nhân đã có câu “Nhân chi sơ, tính bổn thiện” cái Khắc chỉ có do người tạo ra hoặc là từ kiếp này hay kiếp khác, và nó chẳng qua chỉ là cái “Quả” của một cái “Nhân” Sinh mà ra. Do đó chúng tôi cho rằng Sinh là nguồn gốc, là căn bản đến với mình và Khắc là phụ, xuất hiện từ cái Sinh. Vì vậy, tại ngay đây chúng tôi xin phép mở một ngoặc để trả lời khi các bạn thắc mắc cho rằng Khắc cũng có ảnh hưởng, cũng có Khắc nhập, Khắc xuất v.v… trường hợp này chỉ là khi ta đi vào chi tiết tức là xét Hành của các tinh đẩu hoặc Hành chung của một Tam-hợp như Thái-Tuế chẳng hạn, để xem chúng có chung đụng với nhau được hay không mà thôi. Đây, ta chỉ xét cái Hành nguyên thủy, mục đích tìm chiều vận hành của các cung để xem trong một Tam-Hợp, cung nào chịu ảnh hưởng cung nào, thứ tự ảnh hưởng và ảnh hưởng ra sao.
3-Trở lại đoạn a – của Phần 1
Xét hành các cung Tam-Hợp, ta thấy:
- Thìn (Thổ) sinh Thân (Kim) sinh Tý (Thủy)
- Tỵ (Hỏa) sinh Sửu (Thổ) sinh Dậu (Kim)
- Dần (Môc) sinh Ngọ (Hỏa) sinh Tuất (Thổ)
- Hợi (Thủy) sinh Mão (Mộc) khắc Mùi (Thổ)
Thứ tự trên cho phép ta kết luận, nếu Mệnh và 11 biểu tượng khác của nó nằm trong 3 Tam-Hợp đầu, các biểu tượng sẽ chịu ảnh hưởng nhau và thứ tự ảnh hưởng hay chiều tác dụng sẽ được chúng tôi trình bày ở đoạn dưới với ví dụ. Nếu các biểu tượng này lọt vào Tam hợp thứ 4, ta thấy ngay chỉ có biểu tượng nằm tại Hợi và Mão chịu ảnh hưởng nhau, còn Hợi và Mùi, Mão và Mùi đều bị gián đoạn và độc lập.
4- Chiều tác dụng
Sự Sinh-Khắc của các Hành vận chuyển theo một chiều nhất định và không có chiều ngược lại. Khi ta nói ảnh hưởng nhau, chỉ vì ta đã giải thích theo khoa học rằng “cung Sinh” thì bị hao hụt, cung “được Sinh” thì được tài bồi và trong sự hao hụt hay tài bồi này đều bao gồm cả cái tốt lẫn cái xấu, tùy theo đặc tính của từng đẩu tinh.
Tóm lại, hành thuận theo chiều sinh có tác dụng. Hành đi ngược chiều sinh ít tác dụng. Hành khắc chiều sinh không có tác dụng.
Lấy thí dụ: Tam-hợp Thân-Tý-Thìn
– Khi xét hung, kiết của cung Thân, ta chú trọng nhiều nhất đến Thìn và Thân, riêng đối với cung Tý (Thủy) được cung Thân (Kim) sinh, ta giảm cường độ các Đẩu tinh tại Thân trước khi tổng hợp với đặc tính và cường độ của đẩu tinh nơi cung Thìn chiếu nhập vào mà khỏi cần để ý đến tính chất của đẩu tinh nơi cung Tý.
– Nếu xét đến cung Thìn, ta chỉ cần giảm cường độ của đẩu tinh cư tại cung này (vì đã xuất chiếu cho Thân) không cần đếm xỉa đến tính chất của các đẩu tinh tại cung Tý và Thân (vì khắc và nghịch chiều)
– Xét đến cung Tý, chỉ để ý đến đặc tính và cường độ của đẩu tinh tại cung này và của cung Thân chiếu xuống, cung Thìn thì không kể đến.
5- Kết luận
Mệnh chỉ vận hành trên 12 cung Thiên Bàn, các bạn có thể dựa trên đặc tính sinh-khắc của 4 Tam-Hợp mà chúng tôi vừa kể để lập thành một bản vị trí tương ứng của các biểu tượng của Mệnh đối với các cung Thiên Bàn để loại bớt sự phức tạp khi cần xét một Tam-hợp.
Về cách thức giải đoán Tam-hợp như trên, chúng tôi có theo dõi một số trường hợp của người nhà trong nhiều năm nay, cũng xin nêu lên làm điển hình để các bạn nghiên cứu. Chúng tôi cũng xin nói thêm là các bạn nào thích, có thể phối kiểm chiều tác dụng Tam hợp của phương pháp này với dẫn giải ảnh hưởng nhị hợp mà cụ Thiên Lương đã nêu ra trong cuốn Tử vi nghiệm lý xuất bản gần đây.
- Trường hợp 1:
Người này tuổi Mậu Dần, có Mệnh đóng tại Sửu, chiều Sinh đi từ Quan đến Mệnh đến Tài, từ Điền đến Ách đến Huynh, từ Phụ đến Nô đến Tử, từ Thê đến Phúc. Phúc gián đoạn Di, Di gián đoạn Thê. Trên thực tế, người này nhờ có chức chưởng mà được thảnh thơi, có một thời gian nghỉ giả hạn thì bị suy sụp. Tiền của không phải vì làm quan mà có, tiền của người ấy phần nhiều là do cha mẹ để lại và trúng số mà có. Các sự rắc rối và tai họa thường do chuyện nhà, đất mà nên. Tuy nhiên, khi gặp rắc rối, anh em trong nhà đều phụ giúp, gánh đỡ. Ngược lại, không bao giờ vì anh em mà gặp tai ương, và cũng không vì tai ương mà sản nghiệp bị ảnh hưởng. Bạn bè (Nô) thường đến nhà ông bà cụ và con cái của người này được nhờ bạn bè giúp đỡ. Trái lại, các cháu nội cũng không nhờ được ông bà nội và bạn bè cũng không giúp đỡ gì được, ông bà cụ, dù rằng ăn ở trong nhà. Cung Phúc-Đức của người này tốt, nhưng khi ra ngoài (Di) lại không hưởng được và khi ra ngoài chẳng làm hại mà cũng không làm lợi cho vợ con (người này có Thân cư Phúc-Đức tại Mão)
- Trường hợp 2:
Người này cũng tuổi Dần, có Mệnh đóng tại cung Mùi, cũng là người có chức Trưởng, kiếm được tiền nhờ ảnh hưởng chức vụ, nhưng Mệnh lại không được hưởng, thường bị mất cắp, hoặc bạn bè, người dưới lường gạt vì Mệnh bị gián đoạn với Tài ở Mão và Quan ở Hợi. Đối với Ách, Huynh, Điền (Thuận chiều Sinh) người này nhờ anh em gánh chịu hết tai ương, và nhờ anh em mà tậu được nhà cửa; ngược lại không bao giờ gặp rắc rối vì việc nhà cửa. Đối với Thê, Di, Phúc (Thuận chiều Sinh) thường xa nhà vì Thê có sao khắc với đương số và khi ra ngoài thường gặp qúy nhân và được giúp đỡ, hưởng phúc. Đối với Tử, Phụ, Nô (Thuận chiều Sinh) con cái người này hiện ở với ông bà nội (cha mẹ đương số) và ông bà cụ giúp đỡ cho bạn bè người này rất nhiều.
- Trường hợp 3:
Người này tuổi Qúy Dậu, có Mệnh đóng tại Tý, hiện có quan chức và nhờ đó mà làm ra tiền của, luôn luôn lo nghĩ về tiền bạc. Nghịch chiều lại, tiền bạc không giúp cho địa vị của người này được thăng tiến và người này cũng không mấy vui thú với chức vị hiện tại của mình, lúc nào cũng nghĩ đến việc thoái vị để đổi sang nghề khác. Đối với Nô, Phụ, Tử vì ở xa nên thường nhờ bạn bè giúp đỡ cha mẹ và hiện tại ông bà cụ săn sóc các cháu nội, nhưng ngược lại bạn bè của người này thì ít vì người này mà săn sóc con cái cho ông khi ông ở xa. Đối với Phúc, Di, Thê người này càng đi ra ngoài, càng được nhiều người coi trọng, nhờ đó giúp cho vợ nhiều lợi lộc. Đối với Huynh, Điền, Ách, người này cũng nhờ anh em mà có đất đai, nhưng các rắc rối trên đường đời lại chẳng có liên hệ gì đến sản nghiệp hoặc anh em.
- Trường hợp 4:
Người này tuổi Qúy Mùi, có Mệnh đóng tại Dậu, cũng là người có chức việc, đặc biệt cung Tài Bạch rất tốt. Trên thực tế lại không được hưởng tiền của mà phải sử dụng vào việc giữ vững địa vị của mình. Đối với Ách, Bào, Điền, anh em thường gánh chịu tai họa và cũng anh em phá tán sản nghiệp. Đối với Thê, Phúc, Di, vì có cung Phúc-Đức xấu nên mỗi lần đi ra ngoài là gặp chuyện không vừa lòng. Tuy nhiên, Thê cũng không chịu ảnh hưởng của Di và Phúc, bởi vì vợ của người này luôn luôn gặp may mắn (chúng tôi cũng có nghiên cứu lá số của bà vợ và thấy cung Mệnh và cung Phúc Đức rất tốt). Đối với Nô, Tử, Phụ, con cái được bạn bè giúp đỡ và hiện giờ hai vợ chồng đi làm; con cái do ông bà ngoại nuôi giữ.
Trên đây là những trường hợp có thật, chúng tôi cũng đã phối kiểm một số khá nhiều lá số của người nhà, nhưng vì khuôn khổ của tờ báo hạn hẹp, chúng tôi xin phép được tạm ngừng dành cho các bạn thích nghiên cứu, tự phối kiểm lấy các lá số của người thân để có một ý niệm chính xác hơn trong việc luận đoán.
Chúng tôi cũng hy vọng trong tương lai gần sẽ tiếp tục nêu những kinh nghiệm của chúng tôi về sự đơn giản các thế Nhị hợp và xung chiếu để các bạn đỡ mất thời giờ và nhất là không phải nản chí khi nghiên cứu một môn lý học mà mình ưa thích.
KHHB số 74J2
Khi trồng cây trong vườn cũng cần chú ý đến những yếu tố phong thủy để cuộc sống của con người hài hòa hơn vói thiên nhiên.
Khi quy hoạch tổng thể sân vườn cần phải chú ý đến bố cục chung trong đó, cây cỏ hoa lá là một trong những yếu tố quan trọng.
Khi trồng cây phù hợp với yêu cầu phong thủy sẽ có lợi cho sức khỏe, tài vận và sự nghiệp của con người.
Đây cũng là một phương thức tạo cảnh quan môi trường thuần chất trong phong thủy truyền thống.
Lưu ý khi trồng các loại cây
– Những cây trồng trong vườn nên chọn loại cây có thân thẳng đều, vươn cao như chuối, tre, trúc, cau, dừa… sẽ mang lại nhiều may mắn và thuận lợi trong công việc của các thành viên trong gia đình.
– Nếu cành lá của cây cối xung quanh sinh trưởng hướng về các phòng trong nhà đều có lợi, nếu ngược lại là bất lợi.
– Hướng Tây Bắc là hướng Càn, cây cối là Mộc tinh, vì thế hướng nhà ở hướng Tây Bắc nên trồng cây to sẽ bảo vệ được chủ nhân của nhà đó.
– Bạn có thể trồng xung quanh sân vườn một dãy tre, trúc để mang lại những điều tốt lành cho người trong nhà. Tre, trúc cũng là các loại cây dễ sống, cành lá tươi tốt bốn mùa nên có chức năng cải thiện môi trường và điều tiết phong thủy rất tốt.
– Nếu như cây cối trong vườn luôn xanh tốt là biểu hiện cho đất đai màu mỡ, môi trường trong lành.
– Nếu cây cối sinh trưởng thưa thớt là biểu hiện một môi trường không tốt, đó cũng là cách giúp bạn cải thiện môi trường, tránh những ảnh hưởng bất lợi đối với sức khỏe.
Lưu ý với hướng khi trồng cây
– Theo quan niệm của phong thủy, khi trồng cây nên trồng hướng cát tránh hung. Nên trồng những loại cây mang vận cát và chú ý hướng trồng cây.
Ví dụ đào nên trồng trước nhà; liễu nên trồng bên cạnh ao, bể nước; trồng các loại cây hoa trước hiên nhà, “trước cau sau chuối”…
Bên cạnh đó, nên tránh trồng những loại cây như hoa sứ vì nó chỉ thích hợp trồng nơi chùa chiền, miếu mạo.
– Nếu nhà hướng Tây hoặc Tây Bắc thì nên chọn những loại cây chịu nắng tốt, đó là những cây mang khí dương như hoa mai, hoa đào, thiên thanh, đinh lăng…
Nếu nhà hướng Bắc hoặc Đông Bắc thì cây trồng nên có lá màu sáng để phản xạ thêm ánh sáng, hoặc lá dày thân chắc để ngăn gió lạnh như cau, dừa, bàng, mật cật…
Những điều không nên khi trồng cây trong vườn
– Trước cửa ra vào hoặc cửa sổ không nên để các cây khô héo hoặc cây to che lấp cửa.
– Với vườn trước nhà, đặc biệt là vị trí trước cửa ra vào hay cửa sổ không nên trồng những cây có hình dáng không đẹp, cây có nhiều gai.
– Không nên trồng nhiều loại cây lá rộng, rậm rạp trước nhà làm mất cân bằng âm dương cho sân vườn.
Bố cục của căn nhà toạ Thìn hướng Tuất: Đây là bố cục thượng sơn hạ thuỷ, suy thoái cả đinh và tài. Chỉ khi đằng sau nhìn thấy thuỷ (sông, hồ, biển, đầm,…) thì mới chuyển tài vận được.
Tài vận: Phải đặt chậu rửa trong nhà bếp hướng Đông Nam. Hướng Đông Nam là vị trí vượng khí tài thần, lại gặp cát tinh Lục Bạch. Vị trí này đặt thuỷ thì có thể thúc vượng tài thần. Phía Đông Nam của phòng khách cũng nên đặt vật phong thuỷ như đồng tiền ngũ đế, quả cầu thuỷ tinh để tăng tài vận.
Sức khoẻ nhân đinh: Đặt lò vi sóng, nồi cơm điện ở hướng Tây Bắc phòng khách có thể tăng vận gia nhân, sức khoẻ.
Từ xưa, việc hai nhà có cửa đối diện nhau được coi là không tốt về phong thủy
Dân gian quan niệm rằng: “Trong một ngôi nhà, cửa sổ đại diện cho con mắt còn cửa chính đại diện cho cái miệng của con người”.
Có 2 trường hợp cửa đối cửa
Thứ nhất là cửa đối cửa trong nội thất nhà
Thứ hai là cửa nhà mình đối diện với cửa nhà người ta
Trường hợp 1: Cửa đối cửa trong chính ngôi nhà của mình
Ảnh hưởng : Hai vợ chồng chủ nhà khó tránh khỏi tình trạng thường xuyên bất hòa, tranh cãi với nhau.
Phong thủy học gọi đây là tình trạng “đấu khẩu sát”, tức là do loại khí trường xấu (còn gọi là sát khí) gây ra. Sát khí gây nên cảnh bất hòa, tranh chấp, đôi co, mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là giữa hai vợ chồng chủ nhà.
Sát khí lớn nhất mà cấu trúc “cửa đối cửa” gây nên là làm ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ tình cảm giữa chủ nhân của hai gian phòng ấy.
Nếu như đối diện với phòng ngủ là phòng kho, phòng thay đồ… tức là những không gian không thường xuyên có người sống trong đó thì sát khí sẽ ảnh hưởng đến chủ nhân của phòng ngủ ấy.
Còn nếu như đối diện với phòng ngủ là phòng vệ sinh, phòng bếp hoặc thậm chí là cửa chính của ngôi nhà thì ngoài việc xảy ra những ảnh hưởng thường gặp do “sát khí cửa đối cửa” gây nên như nêu trên thì nó còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sức khỏe của chủ nhân ngôi nhà ấy.
– Đối diện cửa phòng ngủ của cha mẹ hoặc thư phòng: Ảnh hưởng dến mối quan hệ giữa hai vợ chồng hoặc với cha mẹ phía vợ hoặc có những bất hòa về mặt tình cảm với cha mẹ ruột của mình.
Cửa phòng ngủ và cửa chính cũng không nên đối diện nhau.
– Đối diện cửa phòng ngủ của con cái hoặc thư phòng: Có những bất hòa trong quan hệ tình cảm với con cái. Con cái hay cãi lại, không chịu nghe lời, khó dạy bảo, quản lý.
– Đối diện cửa phòng kho hoặc phòng thay quần áo: Xích mích xảy ra trong quan hệ tình cảm vợ chồng, hay cãi vã, đôi co không ai nhường ai, chiến tranh lạnh.
– Đối diện cửa phòng bếp: Bất hòa, xích mích xảy giữa hai vợ chồng, tình cảm sứt mẻ, sức khỏe bị ảnh hưởng..
Đa số mọi người gọi tình huống này là phạm vào môn xung sát. Phạm vào “môn xung sát” chịu ảnh hưởng trực tiếp sẽ là người trong gia đình, gặp nhiều chuyện thị phi, mọi người rất dễ vì những chuyện nhỏ như “cây kim trong cọng chỉ” mà phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn. Nghiêm trọng hơn là nảy sinh những mối bất hòa với những người khác trong công việc, mâu thuẫn với đồng nghiệp, với cấp trên…
Nhưng, môn đối môn sẽ không gây ra vấn đề quá nghiêm trọng, trừ khi cửa chính vốn đã bị xung với một hành lang thẳng và dài, cộng thêm cửa đối diện cửa, khi đó mới thật là vấn đề đáng nói.
Cách hóa giải khi cửa đối diện cửa trong một ngôi nhà
Cách hóa giải trường hợp này Để hóa giải sát khí do cấu trúc “cửa đối cửa” gây nên thì biện pháp cơ bản nhất là chỉnh sửa vị trí của một trong hai cánh cửa ấy để chúng không còn đối diện với nhau nữa. Chú ý là cánh cửa mở ở vị trí mới cần có kích thước đúng tiêu chuẩn và không trùng với kích thước của cánh cửa kia.
Nếu vì một lý do nào đó mà biện pháp hóa giải căn bản ấy chưa thể thực hiện được thì có thể dùng biện pháp hóa giải tạm thời bằng cách treo ở hai cánh cửa đối diện nhau ấy những bức rèm vải hoặc những bức mành sáo bằng các vật liệu nhẹ, trang nhã và không gây tiếng động ồn ào.
2 .Cách hóa giải khi cửa đối diện cửa nhà hàng xóm
“Kinh Lỗ Ban” ghi rằng: “Hai nhà không thể đối diện nhau vì như thế sẽ có một chủ bị suy. Hai nhà không thể đối nhau vì như thế sẽ có một nhà bị dữ”. Nhưng ngày nay, thành phố chật hẹp, người đông, nhiều nhà cao tầng chuyện đối cửa khó tránh khỏi, nếu phạm vào điều kiêng kỵ này thì sẽ hóa giải bằng cách nào?
Có không ít người quan tâm tới điều này, có người treo gương: Tam xoa, bát quái, bạch hổ để hóa giải, nhưng làm như vậy lại gây lo lắng cho nhà đối diện nên cần hai bên cùng tìm cách hóa giải.
Cũng có một số gia đình, vì cố muốn nhà được tốt mà làm ảnh hưởng tới nhà đối diện, gia chủ không nên dùng các cách hóa giải như: dùng bùa ngải, dùng gương phản, tượng đá, treo đầu thú… vì các cách trên đều làm cho việc hóa giải của hai gia đình không bao giờ kết thúc, hai bên cùng tìm cách hóa giải, không ai chịu kém ai, gây nên bất hòa. Ví dụ, một nhà dùng đầu sư tử để hóa giải, nhà đối diện lại dùng hai thanh kiếm đan chéo nhau hóa giải. Như thế sẽ có một nhà bị lụi. Bởi thanh kiếm có nguy cơ gây hại cho chiếc đầu sư tử. Vì thế mà việc hóa giải của hai gia đình sẽ kéo dài mãi.
Tuy nhiên, việc hai cửa đối nhau không quá nghiêm trọng và khó hóa giải như vậy. Do đó gia chủ không nên quá lo lắng nếu chẳng may ngôi nhà bị rơi vào thế cửa xấu này.
Muốn xóa bỏ sự uy hiếp về tâm lý “hai cửa đối nhau” lại vừa không để hàng xóm có cửa đối cửa với mình bị mặc cảm, cách làm tốt nhất để giải quyết là trên dạ cửa treo 4 chữ “Thiên Quan Tứ Phúc” (Ông trời ban phúc bốn phương). Có thể bàn với nhà hàng xóm cùng treo bốn chữ này lên cửa chính là điều vô cùng lý tưởng. Như thế cả hai nhà cùng có phúc lớn trời ban.
Ngoài ra, nếu không thể đảo cửa thì nên lấy bình phong (bằng gỗ, tủ kệ hay thậm chí là chậu cây) làm giải pháp che chắn hữu hiệu. Nên xem xét lại việc gắn mảng lớn kính thuỷ lên đầu cửa, lên tường ngoài nhà như một số người vẫn làm để “phản khí”, vì gương có thể gây chói mắt và mang nhiều tính đối chọi.
Tránh mảnh đất hình con rết
Mảnh đất “con rết” nằm ở tuyến điện, tuyến xe điện hoặc ống nước vây xung quanh trông xa như con rết hoặc con côn trùng đang chuyển động. Vì thế chúng tôi gọi đó là “sát khí con rết”.
Sát khi này dễ gây những hiện tượng như: đau dạ dày, chuyện thị phi, công việc không thuận lợi…
Có thể trang trí tượng con gà trống bằng đồng hoặc bằng gỗ để hóa giải, lấy hình ảnh đó chế ngự con rết.
Tránh mảnh đất “Thiên tràm sát”
Phía trước mặt cửa hàng có hai tòa nhà rất gần án ngữ, phần giữa hai tòa nhà hình thành một dải không gian rất hẹp, ngẩng đầu nhìn lên dường như chỉ thấy tòa nhà to lớn bị chia ra làm đôi. Đây gọi là “thiên trảm sát”.
Mảnh đất này không có lợi cho bản thân, hay mắc bệnh nguy hiểm phải làm phẫu thuật, hoặc tai nạn xe cộ.
Cách hóa giải “thiên trảm sát” một cách đơn giản là lắp đặt ngựa đồng hoặc treo tiền đồng to và tiền cổ ngũ đế. Nếu tình hình nghiêm trọng thì dùng một đôi kỳ lân hoặc một đôi sơn hải trấn lắp đối diện với nơi sát khi tiến vào để ngăn chặn.
Kỵ nơi “ngao phong sát khí”
Hình dáng xung quanh cửa hàng như một lòng máng, khiến cửa hàng hút gió rất mạnh, hình thành “ngao phong sát khí”. Chủ cửa hàng bị “ngao phong sát khí” chiếu vào thì đầu óc, thần kinh suy yếu, tâm thần bất ổn, sức phán đoán không nhanh nhạy, hay mắc sai lầm.
Cách hóa giải: Lắp đặt sơn hải trấn.
Kỵ nơi gần ống khói
Xung quanh cửa hàng có ống khói cao, dễ khiến người chủ hay đau đầu, ăn uống không tiêu. Bởi vì ngoài việc ống khói gây ô nhiễm môi trường ra, khí lưu gặp phải vật thể hình ống sẽ xoay ngược lại ảnh hưởng tới các khí xung quanh cửa hàng khiến cửa hàng kinh doanh không ổn định.
Cửa hàng bị khí này chiếu vào ắt sẽ hung.
Cách hóa giải: Lắp đặt sơn hải trấn hoặc kính lồi bát quái.