Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Điểm danh 3 con giáp hay phạm sai lầm trong tình yêu nhất

Những con giáp dưới đây được coi là dễ khiến người yêu ngán ngẩm vì những lỗi lầm mình gây ra nhất, cùng xem bạn có nằm trong số đó không nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Top 1: Tuổi Thìn
Những người sinh nhằm tuổi Thìn thường khá mâu thuẫn. Khi yêu họ sẽ dành trọn tâm trí và tình cảm cho người ấy, tuy nhiên cách thể hiện của họ lại khiến đối phương vô cùng ức chế. Với tuổi Thìn, “yêu nhau lắm cắn nhau đau” là điều hoàn toàn đúng. Tuổi Thìn rất yêu nhưng sẽ dùng những hành động, cử chỉ khiến đối phương ghét nhất để đối đáp. Đó là cách để đối phương phải luôn nghĩ và họ, dù muốn tránh xa nhưng lại không thể làm gì nổi, cuối cùng là phải khuất phục cách yêu có phần quái dị này của họ. Sau khi được ở gần người yêu rồi, tuồi Thìn mới thể hiện sự yêu thương và bù đắp nhiều nhất cho đối phương. Có thể bạn sẽ thấy kì lạ, nhưng đó chắc chắn là cách thể hiện tình yêu vô bờ của tuổi Thìn dành cho một nửa của mình đấy. 
Top 2: Tuổi Tuất
Tuổi Tuất thường yêu khá sớm. Họ sớm trưởng thành trong suy nghĩ đặc biệt là trong tình yêu. Tuổi Tuất cũng dễ trúng phải “tiếng sét ái tình” và sẽ theo đuổi tình cảm ấy đến suốt cuộc đời. Họ là người chung thủy trong tình yêu nhưng lại rất hay ghen. Chính vì sự ghen tuông quá mức cần thiết mà họ dễ gây ra những sai lầm khó gì sửa chữa nổi. Người yêu của tuổi Tuất sẽ không thể chịu nổi sự vô lí, ngang tàng và “bá đạo” của tuổi Tuất, ham muốn sở hữu của tuổi Tuất sẽ là thủ phạm hàng đầu khiến tình yêu của họ “chết yểu”. Tuổi Tuất hãy khắc phục điều này sớm nhé, nếu không người yêu của bạn sớm muộn cũng sẽ rời xa bạn mà thôi. Top 3: Tuổi Dậu
Những bạn cầm tinh con gà thường là những người có khả năng ngoại giao rất tốt. Tuổi Dậu giao thiệp rộng rãi, có nhiều bạn bè và thường xuyên có những buổi gặp gỡ, giao lưu với nhiều tầng lớp người trong xã hội. Chính nhờ đặc điểm đó mà tuổi Dậu có nhiều cơ hội gặp được nhiều đối tượng tiềm năng để trở thành bạn đời trong tương lai. Tuy nhiên tuổi Dậu lại khá dễ yêu, thậm chí danh sách người yêu còn kéo dài bất tận mà chưa biết khi nào mới dừng lại. Chính vì việc tình yêu bị san sẻ với nhiều người như vậy nên tuổi Dậu khá hời hợt và lạnh nhạt trong các mối quan hệ, họ đối xử với người yêu một cách thờ ơ, lãnh đạm đồng thời bản tính đào hoa của họ có thể “nổi dậy” bất cứ lúc nào khiến người yêu thường xuyên phải chịu ấm ức, thiệt thòi. Lời khuyên chân thành dành cho những ai có người yêu sinh nhằm tuổi Dậu là hãy quản lí tuổi Dậu thật chặt nhé, còn nếu không thể chấp nhận bản tính lăng nhăng của họ thì hãy sớm rời xa để đỡ phải chịu nhiều đau khổ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 3 con giáp hay phạm sai lầm trong tình yêu nhất

Bói vui: Xem vận số của người tuổi Tỵ theo tháng sinh

Người tuổi Tỵ sinh tháng Giêng: Đầu xuân là lúc dương khí đang lên, cuộc đời tuy có phong sương nhưng sau 30 tuổi sẽ có cơ hội thăng tiến.
Bói vui: Xem vận số của người tuổi Tỵ theo tháng sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Bạn có biết tháng sinh sẽ tiết lộ rất nhiều điều về vận thế cuộc đời của mình không? Cùng xem bói vận số của người tuổi Tỵ thay đổi thế nào theo tháng sinh nhé.



Sinh tháng Giêng:
 Đầu xuân là lúc dương khí đang lên, cuộc đời tuy có phong sương nhưng sau 30 tuổi sẽ có cơ hội thăng tiến.

Sinh tháng 2: Là người có tài nhưng thiếu quyết đoán, không có ý chí; tài lộc không nhiều, gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Tuy có phúc nhưng phải trải qua nhiều sóng gió.

bói vui tuổi rắn
 

Sinh tháng 3: Sinh vào tiết Thanh Minh nên rất có ý chí. Là người thông minh, giỏi giang, tinh thần hăng hái, vui vẻ. Số được như ý, có thể lập nên đại nghiệp. Càng vất vả càng nhiều công lao, phúc lành ít ai sánh kịp.

Sinh tháng 4: Thông minh, tham vọng lớn, có tấm lòng nghĩa hiệp, cuộc đời gặp nhiều may mắn, hạnh phúc trọn vẹn, được mọi người quý trọng. 

Sinh tháng 5: Là người tài giỏi, hiểu thời thế và nhân tâm. Có số quý cách, công lợi vinh đạt, phúc lộc lâu dài, cả đời bình an.

Sinh tháng 6: Sinh vào tiết Tiểu Thử là người nhiệt tình, trung thực, dễ đạt được thành công, quyền  thế cao sang, vợ chồng vinh đạt, con cháu hiển quý. Số này nếu biết tận dụng cơ hội và thời thế sẽ có vinh quang tột đỉnh, danh lợi vẹn cả đôi đường.

Sinh tháng 7: Là người tính khí ôn hòa, tự thân lập nghiệp, đỗ đạt cao, kinh doanh giỏi, có khả năng làm lãnh đạo. Số giàu sang, được mọi người ngưỡng mộ.

Sinh tháng 8: Là người tài năng, trung hậu, được mọi người kính trọng, có thể gây dựng đại nghiệp, gia đình yên vui. 

Sinh tháng 9: Sinh vào tiết Hàn Lộ thường là người dĩ hòa vi quý, có ý chí và hoài bão cao đẹp nhưng lại thiếu năng lực. Tài vận tốt, sự nghiệp thành công nhưng không lớn.

Sinh tháng 10: Là người có ý chí lớn lao, trung thành, nghĩa hiệp, giỏi giao tiếp. Số có tài vận và sự nghiêp tốt nhưng không lớn; đời sống vợ chồng hòa hợp.

Sinh tháng 11: Vận số ít may mắn, sự nghiệp dở dang, vất vả. Là người sống nội tâm, về già mới được thanh nhàn.

Sinh tháng 12: Sinh vào mùa đông giá lạnh nên cuộc đời nhiều ưu phiền, sự nghiệp khó thành. Cuối đời mới có cơ hội về tài vận và hạnh phúc. Là người thẳng thắn, sống theo nguyên tắc.

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)

 

 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói vui: Xem vận số của người tuổi Tỵ theo tháng sinh

Vị trí đặt bàn ăn đại kị trong phong thủy phòng ăn

Dù là đặt bàn ăn đối diện cửa ra vào, cửa bếp hay có xà ngang chạy qua... đều không tốt cho sức khỏe của mọi thành viên trong gia đình, thậm chí còn gây bất
Vị trí đặt bàn ăn đại kị trong phong thủy phòng ăn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hòa, lục đục nội bộ.


► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất

1. Bàn ăn đối diện với cửa ra vào   Cách sắp đặt bàn ăn này sẽ khiến gia chủ dễ bị tiêu tán tiền tài vì nguyên khí trong nhà sẽ chạy thẳng ra ngoài cửa mà không tụ lại.

Ngoài ra, nếu bàn ăn và cửa ra vào nằm trên một đường thẳng, người đứng ngoài cũng dễ dàng nhìn thấy việc ăn uống, sinh hoạt của gia đình, điều này không mang lại may mắn, trái lại dễ sinh chuyện thị phi.
 
Vi tri dat ban an dai ki trong phong thuy hinh anh
Ảnh minh họa
  2. Có đường xông thẳng vào bàn ăn   Trong phong thủy nhà bếp, vị trí đặt bàn ăn cần đảm bảo không gian yên tĩnh, ổn định và tạo cảm giác an toàn khi mọi người quây quần bên nhau dùng bữa. Do đó, nếu có đường xông thẳng vào bàn ăn sẽ phá phong thủy, đồng thời khiến cả nhà mất hứng ăn uống.   3. Bàn ăn kê đối diện với phòng bếp   Phòng bếp là nơi diễn ra hoạt động nấu nướng thường xuyên nên khó tránh khỏi mùi dầu mỡ khó chịu và nhiệt độ cao. Nếu kê bàn ăn đối diện cửa phòng bếp sẽ tạo cảm giác bức bối, ảnh hưởng đến tâm lí và sức khỏe của mọi thành viên trong gia đình. 
4. Bàn ăn đối diện với cửa nhà vệ sinh   Nhà vệ sinh dù được dọn dẹp, lau chùi thường xuyên nhưng vẫn là nơi có nhiều luồng khí tiêu cực nhất. Nếu bài trí bàn ăn đối diện cửa nhà vệ sinh về lâu dài sẽ không tốt cho sức khỏe của cả nhà.
5. Bàn ăn nhiều góc cạnh   Những góc cạnh sắc nhọn của bàn ăn hình tam giác hoặc của những hình dáng kì dị sẽ chĩa thẳng vào người ngồi ăn, tạo cảm giác khó chịu và gây ra mâu thuẫn hoặc bất hòa nội bộ. Tốt nhất nên sử dụng bàn ăn hình tròn, vừa an toàn lại hợp phong thủy.   6. Phía trên bàn ăn có xà ngang, cầu thang hoặc kiến trúc bị nghiêng lệch   Theo phong thủy nhà bếp, nếu ngay phía trên bàn ăn có xà ngang, cầu thang hoặc kiến trúc nghiêng lệch nào đó sẽ gây tổn hại cho sức khỏe của mọi người. Dù là vị trí kê bàn ăn, giường ngủ hay sofa đều rất kị bị xà ngang chèn ép phía trên, tạo cảm giác ức chế, phá vỡ cục diện phong thủy.   Tâm Nhân (Theo Tubatu)    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị trí đặt bàn ăn đại kị trong phong thủy phòng ăn

Có nên bỏ Tết âm lịch, gộp Tết Tây với Ta?

Nhiều người cho rằng nên bỏ Tết âm lịch và gộp Tết Tây với Ta bởi Tết càng ngày càng nhạt. Liệu rằng có nên bỏ Tết truyền thống của dân tộc để hội nhập?
Có nên bỏ Tết âm lịch, gộp Tết Tây với Ta?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để không lỡ việc giao thương, tránh lãng phí thời gian, trì trệ trong nhịp sống, liệu chúng ta có nên bỏ Tết âm lịch, gộp chung Tết Ta với Tết Tây? Bạn lựa chọn sự phát triển hay lưu giữ truyền thống?


► Mời các bạn xem tuổi xông nhà 2017 hợp tuổi gia chủ để rước tài, rước lộc vào nhà
  Trong thời gian vừa qua, hàng loạt các báo đã đăng tải loạt bài gộp Tết Tây với Ta để Việt Nam có một cái Tết hội nhập, để không bỏ lỡ việc giao thương với nước ngoài, tránh lãng phí, trì trệ trong nhịp sống. Sự kiện này đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận. 

Quan điểm của giới trẻ về vấn đề này như thế nào?


Co nen bo Tet am lich, gop Tet Tay voi Ta hinh anh
Ảnh minh họa

Nhà văn trẻ Tuệ Nghi: "Tết Ta và Tết Tây: Chúng ta chọn phát triển hay chỉ quẩn quanh với vài nước láng giềng?".

Theo nhà văn trẻ Tuệ Nghi: Tết cổ truyền mới đúng là Tết sum họp của người Việt nhưng nó không còn phù hợp với tốc độ phát triển xã hội hiện nay.
 
Những năm trở lại đây, cứ mỗi dịp xuân về lại bùng nổ dữ dội tranh cãi vấn đề nghỉ Tết. Cái việc tưởng chừng đơn giản nhưng lại khiến các nhà kinh tế hội nhập "sởn hết gai ốc" vì lo sợ.    Người ta hô hào hội nhập kinh tế nhưng vẫn muốn giữ khư khư lề lối văn hoá truyền thống đó là Tết cổ truyền. Tôi không phủ nhận, Tết cổ truyền mới đúng là Tết sum họp của người Việt nhưng nó không còn phù hợp với tốc độ phát triển xã hội nhanh vũ bão như hiện nay.   Chúng ta chọn mở rộng phát triển kinh tế, giao thương với các nước châu Âu, châu Mỹ hay chọn chỉ quanh quẩn làm ăn với các nước láng giềng cùng đón Tết như ta?   Trên lý thuyết, Tết là sum họp, là tình thân và cũng có người cho rằng Tết cổ truyền là hồn của dân tộc, Tết còn thì dân tộc Việt mới còn (?!) Tôi không nghĩ vậy, cá nhân tôi cho rằng nếu đã sống có tình thì 365 ngày trong năm đều tình nghĩa với nhau, đều sum họp với nhau chứ cần gì nhân danh Tết để bày mâm cao cỗ đầy?
Co nen bo Tet am lich, gop Tet Tay voi Ta hinh anh
Ảnh minh họa

Và cái hồn ở dân tộc vốn dĩ nằm ở sự thịnh vượng, sự phát triển vượt bậc về kinh tế, sự hội nhập khéo léo về văn hoá cũng như chuẩn mực trong đạo đức, lối sống của con người. Hà cớ gì đạo đức xã hội càng xuống cấp, kinh tế thì thụt lùi, Tết thì ngày càng “nhạt” mà cứ phải khăng khăng “giữ hồn”?
  Thực chất, cái mà chúng ta đang quyến luyến đó chính là Tết xưa, những cái Tết có lẽ chưa đủ đầy như bây giờ nhưng trọn vẹn vị Tết, những ngày chuẩn bị phơi phóng củ kiệu, lục tục làm dưa món, kho nồi măng hột vịt hay ở miền Bắc thì có thịt nấu đông. Sên mứt gừng mứt dừa hương thơm bay đến cuối ngõ.  Những ngày ba cố làm gắng cho đủ tiền mua cho con tấm áo mới kịp đón giao thừa, mẹ thì lấy tiền để dành mua cành mai, cành đào để nhà có không khí xuân.   Ngày 23 đưa ông Táo, cả nhà quây quần bên nhau cung kính thắp hương. Ngày đó nghèo, nhưng ấm áp. Còn giờ đây, chúng ta đang sống ở cái thời mà giáp giao thừa vẫn còn có thể chạy ra mua vội mớ củ kiệu đóng hộp, mấy cái bánh chưng làm sẵn, đống mứt nhiều màu của tây của tàu đủ cả. Rồi chúng ta bỏ tiền tỷ ra để tái hiện những không gian tết xưa, vô cùng lãng phí và gượng ép.   Các nước nghỉ Tết tây, chúng ta cũng nghỉ. Rồi khi các nước quay trở lại vào guồng làm việc hăng hái suốt một năm, chúng ta lại rề rà vì chuẩn bị nghỉ Tết cổ truyền. Hết Tết cổ truyền vẫn uể oải, thậm chí là kiêng kỵ tiền vào tiền ra cho tới hết tháng Giêng. Trong khi với tốc độ kinh tế phát triển chóng mặt như hiện nay, các doanh nghiệp đua nhau tới từng phút từng giây, sự thắng thua trên thương trường quốc tế nó khác lắm với cái sự chém gió hơn thua nhau trên bàn nhậu những ngày Tết.   Cứ tới gần Tết, tất niên tổng kết một năm, hô hào chúc mừng nhau phát triển vượt bậc, hội nhập thành công, hô hào xong thì ai về nhà nấy, giải tán nghỉ Tết! Mặc cho cái thành công hội nhập, kinh tế thịnh vượng chỉ nằm trên giấy, trên kế hoạch, trên miệng. Mặc cho hàng hoá nằm trong kho phải đội thêm chi phí lưu kho, mặc cho mỗi một ngày nghỉ là một ngày thất thoát tiền của, GDP sụt giảm. Và mặc cho thế giới đi xa tới đâu, ta cứ vừa đi vừa nghỉ, nhưng ước muốn với hoạch định thì cao vời.   Có lẽ, thay đổi thói quen truyền thống là một điều khó khăn, nhưng bất kỳ dân tộc nào muốn phồn thịnh đều phải có những giai đoạn đau đớn như thế.   

Admin diễn đàn Tinh Tế: "Tết Nguyên đán không còn phù hợp với thời đại"


Co nen bo Tet am lich, gop Tet Tay voi Ta hinh anh
Thời đại mới chúng ta hoàn toàn có thể du nhập một cái Tết mới, bỏ cái Tết cũ.
  Anh Trần Hiệp (cu Hiệp), người xây dựng diễn đàn công nghệ Tinh tế và đưa nó lên top đầu các diễn đàn công nghệ thông tin hiện nay chia sẻ quan điểm với VTC News: “Tết Nguyên đán không còn phù hợp với thời đại. Về yếu tố kinh tế, việc chúng ta để hai cái Tết tạo thành sự lệch pha về thời gian với các nước trên thế giới, ảnh hưởng đến mối quan hệ làm ăn.   Về văn hóa, khi gộp Tết cổ truyền vào Tết tây, người Việt Nam vẫn giữ gìn những giá trị tâm linh vốn có, chỉ chuyển nó vào một thời điểm sớm hơn chứ không có gì thay đổi. Thậm chí nó sẽ còn tốt hơn do lúc này tâm linh và văn hoá phù hợp với cuộc sống thực tế chứ không chỉ là lễ.   Tết cổ truyền được du nhập và phù hợp với nền văn hoá cổ xưa của Việt Nam nên thời đại mới chúng ta hoàn toàn có thể du nhập một cái Tết mới, bỏ cái Tết cũ.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: "Một nước còn nghèo, năng suất lao động còn rất thấp như Việt Nam mà lại nghỉ nhiều hoặc làm việc với một nhịp độ thấp như vậy thì rất khó cho việc phát triển".

Bà Phạm Chi Lan, nguyên Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, có quan điểm xét trên góc độ kinh tế: "Một nước còn nghèo, năng suất lao động còn rất thấp như Việt Nam mà lại nghỉ nhiều hoặc làm việc với một nhịp độ thấp như vậy thì rất khó cho việc phát triển. Dịp đó có thể dài hơn nhưng nghỉ một kỳ. Hiện nay thời gian nghỉ giữa hai cái Tết đang gây ảnh hưởng ghê gớm tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty".   Cũng theo bà Chi Lan, việc gộp hai cái Tết còn có cái lợi vẫn duy trì được truyền thống gia đình và truyền thống sum họp nhưng có kỳ nghỉ chung với thời gian nghỉ dài thì con cháu ở các nơi khác, ở nước ngoài cũng vẫn có thể về sum họp vì hiện "nếu gia đình nào có con cái đang ở nước ngoài thì khó có thể về được vào dịp này. Như vậy, con cháu cũng không thể sum họp được với gia đình vào dịp Tết Nguyên đán."
 

Tết cổ truyền cũng chỉ là du nhập vào Việt Nam
 

Tết được sinh ra hay được du nhập vào nước ta do nó phù hợp với văn hoá và cuộc sống. Ngày nay văn hoá và cuộc sống có nhiều thay đổi nên chúng ta có cái Tết mới cũng bình thường.   Việc gộp Tết cần có lộ trình nhưng không phải là quá phức tạp. Tôi nghĩ, sang năm chúng ta bắt đầu nghỉ Tết như các nước khác và có thể thêm vài ngày nghỉ cho Tết cổ truyền. Sau đó ít năm sẽ gộp luôn hai Tết làm một.
* Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo.

Thăm dò ý kiến

Có nên bỏ Tết âm lịch, gộp Tết Ta với Tết Tây hay không?

Bạn lựa chọn một mục. Bình chọn của bạn sẽ được công khai.

Có nên bỏ Tết âm lịch, gộp Tết Ta với Tết Tây hay không?Có nên bỏ Tết âm lịch, gộp Tết Ta với Tết Tây hay không?

Infographic: Tết cổ truyền 3 miền Bắc - Trung - Nam và sự khác biệt thú vị Cách sắm lễ, văn khấn Lễ tạ mộ phần những ngày cuối năm Mất lộc nếu tỉa chân nhang trên bàn thờ gia tiên ngày Tết?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên bỏ Tết âm lịch, gộp Tết Tây với Ta?

Mơ thấy hạt giống: Sẽ xuất hiện cơ hội mới trong hy vọng của bạn –

Hạt giống trong mơ là tượng trưng của hy vọng và cơ hội. Trong mơ xuất hiện hạt giống, cho thấy bạn đang ấp ủ hy vọng trong lòng. Mơ thấy hạt giống, dự báo sẽ xuất hiện cơ hội mới cho hy vọng của bạn, từ đấy sẽ giúp bạn đúc kết được những kinh nghiệ
Mơ thấy hạt giống: Sẽ xuất hiện cơ hội mới trong hy vọng của bạn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy hạt giống: Sẽ xuất hiện cơ hội mới trong hy vọng của bạn –

Bật mí những chiêu hóa giải vận xui

Vận xui chẳng ai mong muốn nhưng chúng lại cứ tới một cách bất ngờ và đôi khi là liên tiếp. Trong dân gian có lưu truyền những mẹo nhỏ có thể hóa giải vận xui.
Bật mí những chiêu hóa giải vận xui

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vận xui chẳng ai mong muốn nhưng chúng lại cứ tới một cách bất ngờ và đôi khi là liên tiếp, khiến cuộc sống trở nên vô cùng khốn khổ. Trong dân gian có lưu truyền những mẹo tâm linh nhỏ có thể hóa giải vận xui, bạn nên tham khảo!

 

Rắc muối

  Theo người xưa truyền lại, muối có công dụng xua đuổi tà ma và hóa giải vận xui rất hiệu quả, vì vậy, khi chúng ta gặp nhiều điều xui rủi trong cuộc sống hãy lấy một ít muối ném qua vai trái của mình. Mặt khác, việc rải muối xung quanh nhà hay phòng ngủ còn góp phần cho gia đình ấm êm, tình cảm của các thành viên ngày càng thêm mặn mà.   Ngoài ra, bạn có thể tẩy trần bằng việc tắm nước muối. Cách làm rất đơn giản, thêm 2 đến 3 muỗng canh muối vào trong nước ấm và tắm bình thường, ngoài việc xua đi điều rủi, nó còn giúp bạn cảm thấy thoải mái hơn.

Có thể bạn quan tâm: Vì sao nhà nào cũng đặt một bát nước muối trong nhà đúng ngày mùng 1 Tết?

Bat mi nhung chieu hoa giai van xui hinh anh 2
Ảnh minh họa

 

Thắp hương

  Nếu cuộc sống bạn đang gặp nhiều khó khăn, hãy thắp hương cho tổ tiên hoặc các vị Thần Phật để giúp xua đi vận xui. Khi thắp hương, nên thắp số hương lẻ chứ không nên thắp số chẵn và nên chọn những loại hương có mùi cay nồng như hương hoa nhài hoặc hương gỗ để vừa tỏ lòng thành kính, vừa mang lại cho chúng ta cảm giác thư thái. Xem thêm bài viết: Cách thắp hương và bài cúng xua đuổi vận xui trong nhà.
 

Chôn gương vỡ

  Gương vỡ là điềm báo vô cùng xấu. Để hóa giải điều này, khi vô tình làm vỡ gương hãy gom tất cả mảnh vỡ vào một bao đen, sau đó chôn nó xuống một khoản đất trống chính là một cách hóa giải vận xui. Điều này vừa giúp bạn tránh được những điều không may còn hạn chế việc các thành viên trong gia đình bị thương.  

Trưng bày đá phong thủy

  Đá phong thủy có nhiều loại khác nhau, mỗi loại cũng sẽ có những công dụng riêng. Bạn có thể dùng đá phong thủy để trưng trong nhà, đặt ở phòng làm việc hoặc mang theo bên người đều có thể giúp bạn tránh được những luồng khí xấu.   Nếu bạn gặp trắc trở trong chuyện tình yêu, hãy dùng đá hồ ly để hóa giải. Đá thạch anh sẽ giúp bạn tránh xa được ta khí, không cho chúng xâm nhập làm hại chúng ta. Còn đá xà cừ, sẽ ngăn chặn không cho những linh hồn bơ vơ lại gần làm hại bạn.
Bat mi nhung chieu hoa giai van xui hinh anh 2
Ảnh minh họa

Tích cực làm việc tốt

  Trước nay ông bà ta luôn quan niệm rằng khi bạn cho đi thì thứ bạn nhận lại đôi khi còn nhiều hơn. Nếu bạn làm việc thiện bằng cả tấm lòng từ bi của mình, thì chắc chắn bạn sẽ được nhận lại những điều tốt lành. Tu nhân tích đức, làm việc thiện, trời không phụ lòng.   Bên cạnh đó, khi bạn giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn hơn mình, bạn sẽ nhận thấy cuộc đời bạn vẫn còn may mắn hơn so với những người khác. Những việc bạn phải trải qua bây giờ không là gì trong cuộc sống của họ, từ đó bạn sẽ có thêm ý chí để vươn lên vượt qua những khó khăn mà bạn đang gặp phải.   

Dọn dẹp nhà cửa

  Sống trong một căn nhà bừa bộn có thể chặn năng lượng tích cực chảy vào và tạo ra những cảm xúc tiêu cực và kém may mắn. Hành động đơn giản này có thể mang đến cho bạn nguồn năng lượng mới và trao quyền cho bạn để thay đổi vận may của mình.   – Vứt bỏ tất cả những món đồ cũ không còn sử dụng.
 
– Quét sạch mạng nhện và bụi bẩn trong nhà.
 
– Hãy thử sắp xếp lại đồ nội thất của bạn để cải thiện dòng chảy của năng lượng. Sơn lại tường nhà để mang luồng gió mới cho không gian và cuộc sống của bạn.
 
– Khi dọn nhà có thể bật chút nhạc và mở cửa sổ để nắng và gió ùa vào. Điều này sẽ khuyến khích năng lượng tích cực để chảy vào không gian sống mới của bạn.
Bat mi nhung chieu hoa giai van xui hinh anh 2
Ảnh minh họa

Mang theo chìa khóa

  Bùa hộ mệnh là một cách tuyệt vời để mang may mắn cho bạn. Đó có thể là một chiếc dây chuyền, vòng đeo tay,…bất li thân của bạn. Bảo bối phong thủy phổ biến nhất có thể là chìa khóa: Một chùm dây đeo chìa khóa đã được sử dụng để mang lại may mắn từ thời xưa. Đeo chùm ba chìa khóa sẽ giúp bạn mở cánh cửa của giàu có, sức khỏe và tình yêu.  

Tắm nước lá

  Trong nhiều nền văn hóa, các loại hoa lá luôn mang ý nghĩa “tẩy trần” giúp con người sạch sẽ, đón vận may. Bạn có thể tắm bằng lá bưởi với ý nghĩa mang phúc lộc hay dùng 7 loại hoa nhiều màu (trừ màu trắng) ngâm nước tắm. Đặc biệt lưu ý sau khi tắm hãy gói chúng vứt ngay vì lúc này, chúng được tin là đã tẩy sạch xui rủi của bạn và hấp thụ hết.   *Theo phong thuỷ là như vậy, nhưng những thông tin về cách hóa giải vận xui trên chỉ mang tính chất tham khảo. Nếu mọi người lạc quan và dám đương đầu với thử thách trong cuộc sống, con người hoàn toàn có thể xoay chuyển tất cả.

Bạn nên tham khảo thêm những cách khác: 6 thuật phong thủy đánh bay vận xui

ST.
 
Phương pháp tiêu tai giải nạn - nói dễ, khó làm 6 đạo lý cơ bản của việc tụng kinh niệm Phật Sống thiện, sống lành, bao giờ mới được hưởng phúc báo?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bật mí những chiêu hóa giải vận xui

Bát hương, di ảnh đặt sai sẽ ảnh hưởng xấu đến gia chủ?

Theo phong thủy, nếu việc thờ cúng không tốt, vị trí đặt bàn thờ, sắp xếp các đồ thờ không phù hợp sẽ ảnh hưởng xấu đến vận khí và sự may mắn của gia chủ...
Bát hương, di ảnh đặt sai sẽ ảnh hưởng xấu đến gia chủ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, nếu việc thờ cúng không tốt, vị trí bàn thờ, sắp xếp các đồ thờ không phù hợp sẽ ảnh hưởng xấu đến vận khí và sự may mắn của gia chủ...

Bat huong, di anh dat sai se anh huong xau den gia chu hinh anh
 
Theo ông Luyện Văn Dũng – một người am hiểu về phong tục cúng giỗ ở Yên Mỹ, Hưng Yên, một bàn thờ thường đặt 3 bát hương trên đế Tam sơn. Ba bát hương này khi đứng từ ngoài nhìn vào thì ở giữa là bàn thờ thổ công, hội đồng gia tiên, còn hai bên thì đặt bát hương thờ bà tổ cô và bát hương thờ ông mãnh theo quan niệm “trai bên trái, gái bên phải”.

Ảnh đặt cũng sắp xếp theo “trai bên trái, gái bên phải” và theo cấp bậc, mỗi bát hương để cách nhau khoảng 10cm. Trong đó bát hương thổ công bao giờ cũng to hơn 2 bát kia và đặt ở vị trí cao hơn. Nhiều nhà đặt quá nhiều bát hương trên bàn thờ là không đúng cách sẽ không tổ hợp được sức mạnh tâm linh. Ngoài ra, không thể để thờ hai họ nội và ngoại cùng bát hương bởi quan niệm trần sao âm vậy.
  Tuy nhiên, theo chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương (Hội Nghiên cứu Phát triển Khoa học Việt Nam - Đông Nam Á) tùy thuộc vào hoàn cảnh từng nhà mà đặt bàn thờ cũng như lập các bát hương, chứ không nên quá máy móc. “Điều quan trọng là cái tâm thành kính.

Nhiều người cho rằng, không nên thờ chung họ nội và ngoại trong một bàn thờ nhưng theo tôi điều đó không sao cả bởi bàn thờ giống như một lịch sử của một dòng họ là để tưởng niệm, biết ơn với những người quá cố đã sinh thành, nuôi dưỡng mình. Hơn nữa, việc đặt vị trí bàn thờ là điều quan trọng rồi nhưng điều quan trọng hơn cả là bạn phải luôn giữ cho bàn thờ phải luôn sạch sẽ, thường xuyên thắp hương để tưởng nhớ về tổ tiên và người đã khuất, bàn thờ thần tài cầu may”, ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh nói.
  Về vị trí đặt bàn thờ, ông Luyện Văn Dũng cho biết, theo tập tục của dân gian thì ban thờ gia tiên thường được đặt giữa gian nhà hướng ra mặt tiền. Tuy nhiên, việc đặt bàn thờ có một nguyên tắc là hướng về cái đẹp và tùy theo tuổi của gia chủ. Mỗi gia đình tùy theo hoàn cảnh rộng, hẹp, nhiều tầng hay nhiều phòng mà chọn chỗ đặt bàn thờ cho thích hợp nhưng phải hướng về cái đẹp: Thiên y, Sinh khí, Phúc đức hoặc Phục vị, chứ không được đặt bàn thờ hướng về cái xấu: Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Họa hại, Lục sát.   Dù là nhà ở truyền thống hay hiện đại, bàn thờ cũng luôn phải đảm bảo được đặt tại vị trí cao, không bị các không gian sinh hoạt khác đè lên để khi cúng bái, con cháu trong nhà tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính của mình với ông bà tổ tiên. Với một gia đình riêng có nhiều tầng thì tầng trên cùng của tòa nhà đặt phòng thờ là hợp lý nhất. Nó không chỉ mang đến sự trang nghiêm, kín đáo, tĩnh lặng mà còn thuận tiện cho việc cúng ngoài trời, hóa vàng mã trên sân thượng.   Nếu không có không gian làm phòng thờ riêng có thể bố trí trong phòng khách, không nên bố trí tại phòng ngủ, phòng ăn, phòng bếp. Việc đặt ban thờ ở tầng 1 cũng không sao, tuy nhiên cần tránh tầng trên không được kê giường ngủ, phòng vệ sinh… bởi nó sẽ làm giảm tính tôn nghiêm của không gian trang trọng này.   Có phòng thờ riêng là tốt nhất bởi bàn thờ thuộc tĩnh không hợp với sự phô trương. Điều đó cũng sẽ tránh được việc đi từ ngoài cửa vào đã nhìn thấy bàn thờ tổ tiên, hình ảnh tổ tiên. Hơn nữa, bàn thờ ngay cửa chính sẽ đón nhận nhiều sát khí từ ngoài vào, dễ có gió thổi làm động bát hương”, ông Luyện Văn Dũng cho hay.   Đồng quan điểm về vấn đề này, chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng cho rằng, về mặt nghi lễ, bàn thờ cần đặt ở nơi cao ráo, trang trọng nhất; còn về phong thủy bàn thờ cần đảm bảo thêm yếu tố vượng khí tức cần thoáng khí, rộng rãi. Tốt nhất nên cân nhắc vị trí đặt bàn thờ ngay khi bắt đầu thiết kế xây nhà sao cho phù hợp. Với nhà chung cư, bàn thờ vẫn phải đảm bảo sự thông thoáng, nhưng kín đáo và thống nhất về hình thức sao cho tương ứng với không gian căn hộ.   Tượng Phật có được đặt cùng bàn thờ gia tiên?   Theo ông Luyện Văn Dũng, việc đặt bàn thờ Phật cũng cần lưu ý nếu không sẽ không mang lại may mắn cho gia chủ. Nơi đặt bàn thờ Phật cần tránh: Không hướng ra nhà vệ sinh, không hướng ra cửa phòng, không hướng ra bàn ăn bởi vì Phật ưa thanh tịnh, giới sát tinh.

Cúng Phật chỉ dùng hoa quả tươi, không được cúng tam sinh (một con ngan, một thủ lợn, một con gà hoặc cá là những thứ chỉ nhà trình đồng mở phủ mới cúng) như gia thần và gia tiên. Vì vậy, bàn thờ Phật phải đặt riêng, có thể là trước bàn thờ gia tiên và cao hơn bàn thờ gia tiên. Tranh, tượng Phật chỉ để khi có bàn thờ Phật, không nên để cùng với gia tiên để thể hiện lòng tôn kính Tam bảo.
  Khi lau rửa, có bài vị của thần Phật thì lau trước, sau đó đổ nước mới để lau bài vị của tổ tiên, tuyệt đối không lau bài vị của tổ tiên trước. Bởi người xưa quan niệm như vậy là bất kính.   Theo chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trên bàn thờ bắt buộc phải có bát hương, chân đèn, nước. Đồ bày trên bàn thờ quan trọng nhất là hương hoa, tức hương thắp, hoa quả tươi, nước sạch. Bàn thờ bé chỉ nên đặt một bình hoa, không nhất thiết là hoa gì nhưng thường là cúc biểu hiện dương khí, hoa sen, hoa hồng, loa kèn…

Không nên để quá nhiều hoa nhựa, bởi theo quan niệm đó là sự giả dối. Bàn thờ phải thoáng sạch, bình hoa, đĩa quả, đèn/nến đặt hai bên, chính giữa đặt chén nước để bát hương thần linh thoáng. Nước của bình hoa cũng chú ý nên thay thường xuyên. Đồ thờ cúng xong rồi nên bỏ xuống để thụ lộc, tránh để từ tháng này qua tháng khác.
  Giấy công đức không đặt lên bàn thờ   Trước quan niệm của nhiều người cho rằng, giấy công đức chùa khi về nên để lên bàn thờ để báo cáo tổ tiên, ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho hay, giấy công đức là ghi nhận sự đóng góp của người đã làm việc công đức cho chùa. Vì lẽ ấy mà nhà chùa ghi nhận việc cúng dường đó bằng một tờ giấy công đức. Không nên để lên bàn thờ vì nó là thứ không liên quan đến thờ cúng. Nếu nhiều quá thì hóa đi rồi bỏ cũng được. Quan trọng là tâm mình hoan hỷ.

Theo GĐ&XH

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát hương, di ảnh đặt sai sẽ ảnh hưởng xấu đến gia chủ?

Con giáp nam tính tỉ lệ thuận với thời gian

Những con giáp nam tính bao gồm đàn ông tuổi Mùi, tuổi Ngọ...
Con giáp nam tính tỉ lệ thuận với thời gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Theo dòng chảy của thời gian, mức độ nam tính, cuốn hút của những con giáp nam này tăng lên theo cấp số nhân.


1. Đàn ông tuổi Mùi

Ai cũng dễ nhận thấy rằng, đa phần đàn ông tuổi Mùi tính tình ôn hòa, điềm tĩnh. Bên cạnh đó, năng lực làm việc cũng như khả năng xử lý tình huống bất ngờ của con giáp này ngày càng “chín” dần theo thời gian. Chính vì thế, khi bước vào tuổi trung niên, đời sống vật chất và tinh thần của người này phong phú vô cùng, yên tâm hưởng thụ cuộc sống.

Cũng theo dòng chảy thời gian, sức cuốn hút và nam tính của con trai tuổi Mùi cũng được tăng lên trông thấy. Không chỉ dừng lại ở đời sống vật chất dư dả, vốn kiến thức mà họ tích lũy được không thể dùng đơn vị nào để định lượng được.

Con giap nam tinh ti le thuan voi thoi gian hinh anh
 
2. Đàn ông tuổi Dậu


Không khó để nhận ra một điều, tuổi thành đạt của đàn ông tuổi Dậu đa phần sẽ là sau tuổi 35. Đây chính là thời điểm phù hợp để họ trưởng thành về mọi mặt trong cuộc sống. Công danh, sự nghiệp phát đạt, đời sống tình cảm, hôn nhân bền vững.

Chính những điều đó đã làm nên sức hút khó cưỡng của đàn ông tuổi Dậu. Đi tới đâu, họ cũng được mọi người, đặc biệt là nữ giới yêu mến. Do đó, cuộc sống ngày càng có xu hướng thuận lợi, gặp nhiều may mắn.

Con giap nam tinh ti le thuan voi thoi gian hinh anh 2
 
3. Đàn ông tuổi Thìn


Cuộc đời của đàn ông tuổi Thìn cũng trải qua không ít thăng trầm. Nhưng kết quả cuối cùng khiến họ cũng thở phào nhẹ nhõm, bởi bao công sức trước đây được đền đáp xứng đáng. Đời sống vật chất ổn định, công danh sự nghiệp song toàn, hôn nhân cũng hài hòa, yên ấm.

Thế mới nói, sức hút và độ nam tính của đàn ông tuổi Thìn tỷ lệ thuận với thời gian. Dòng chảy thời gian không làm mờ đi tất cả, nó chỉ là bước đệm cho con giáp này “chín” về mọi mặt trong cuộc sống mà thôi. Đây đích thị là một trong những con giáp nam tính vượt thời gian.

Con giap nam tinh ti le thuan voi thoi gian hinh anh 3
 
4. Đàn ông tuổi Ngọ

Không thể phủ nhận, đàn ông tuổi Ngọ làm việc bảo thủ nhưng vẫn khá nhiệt tình, vì lợi ích chung của tập thế chứ không phải tư lợi cá nhân. Họ quyết đoán, mạnh mẽ và tự tin nên một khi đã hạ quyết tâm là làm cho bằng được. Tỉ lệ thành công trong sự nghiệp rất cao.

Bước vào tuổi trung niên, theo độ dài của thời gian, “độ chín” về tính cách, trải nghiệm cuộc sống của con giáp này cũng tăng lên trông thấy. Chính về thế mà đàn ông tuổi Ngọ đi tới đâu cũng được phái đẹp dành tình cảm yêu mến và sự ưu ái vô cùng.

=> Xem thêm: Tử vi trọn đời các con giáp chuẩn xác theo Lịch âm

Việt Hoàng

Chàng trai tuổi nào còn dịu dàng hơn cả nữ giới?
– Thật không thể tin nổi khi chàng trai tuổi Dần lại lọt danh sách con giáp nam dịu dàng hơn nữ giới.

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nam tính tỉ lệ thuận với thời gian

Nam sinh năm1990 hợp với nữ tuổi nào nhất?

Đàn ông sinh năm 1990 tức năm Canh Ngọ, mệnh Lộ Bàng Thổ. Vậy nam sinh năm 1990 hợp với nữ tuổi nào nhất, nên yêu nữ tuổi nào để hạnh phúc và phú quý?
Nam sinh năm1990 hợp với nữ tuổi nào nhất?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Muốn cho vấn đề hôn nhân và hạnh phúc được tốt đẹp, bạn cũng nên biết qua về những tuổi mà bạn có thể kết hôn và xây dựng hạnh phúc, bạn nên thận trọng trước khi bước chân vào con đường hạnh phúc. 

  Đàn ông sinh năm 1990 tức năm Canh Ngọ, mệnh Lộ Bàng Thổ.

Nam sinh nam1990 hop voi nu tuoi nao nhat hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Đàn ông tuổi Canh Ngọ, cuộc đời có nhiều ngang trái, không tạo được nhiều phúc đức. Gia đình và việc làm ăn luôn có nhiều biến động. Tuổi trẻ có thể gặp nhiều chuyện thương, không thành công hoàn toàn trên con đường danh vọng nhưng sẽ có nhiều tài lộc và gặp may mắn trong chuyện tình cảm. Vào tuổi 30 trở đi cuộc sống mới yên bình. Tóm lại, tuổi Canh Ngọ cuộc đời lúc nhỏ nhiều thăng trầm và biến động. Nhưng sau 30 tuổi gia đình mới được êm ấm và hạnh phúc, giai đoạn này cũng sẽ gặp nhiều may mắn và tài lộc.    Tuổi Canh Ngọ có nhiều phúc đức có thể thành công trên bước đường sự nghiệp, công danh, nhưng về vấn đề tình duyên tiền vận lại lắm gian truant, trắc trở. Tuổi thọ trung bình khoàng từ 65 đến 70 tuổi. Nhưng gian ác thì sẽ bị tổn thọ, làm phúc đức mới được hưởng tới tuổi đó.   Trong việc xây dựng hạnh phúc hôn nhân, nếu bạn lựa được những tuổi hợp với tuổi mình thì công việc làm ăn sẽ phát đạt, gia đình hạnh phúc đầm ấm và yên vui.    Trong việc lựa chọn người bạn đời, bạn cũng nên chọn những tuổi này: Tân Mùi, Giáp Tuất, Đinh Sửu, Mậu Thìn.    Nếu kết hôn với tuổi Tân Mùi (1991): bạn sẽ có nhiều cơ hội thăng tiến đường công danh và sự nghiệp, vạn sự như ý.    Nếu kết hôn với tuổi Giáp Tuất (1994) thì công danh và sự nghiệp lên cao, cuộc sống hoàn toàn đầy đủ, có thể hưởng được sự giàu sang phú quý bất ngờ.    Kết hôn với tuổi Đinh Sửu (1997): Con đàn cháu đống, của cải dồi dào, đường công danh sáng tỏ. Kết hôn với tuổi Mậu Thìn: Cuộc sống đầy đủ, sung túc, tiền bạc dư dả và con cái xum vầy.   Nếu đàn ông sinh năm 1990 đã kết hôn với một trong số các tuổi trên thì sớm hay muộn bạn cũng sẽ được hưởng giàu sang phú quý.   Khi bạn đã gặp hay định kết duyên với những tuổi Kỷ Mão (1999), Đinh Mão (1987), Nhâm Ngọ (2002) thì cuộc sống bạn chỉ có thể  ở vào một mức sống trung bình của xã hội mà thôi. Tiền tài và con cái không có gì nổi bật, không quá thiếu thốn và không quá dư dả. Vì đây là những tuổi chỉ hợp với tuổi Canh Ngọ về vấn đề tình duyên mà không hợp về vấn đề tài lộc và công danh.     
Nam sinh nam1990 hop voi nu tuoi nao nhat hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Nếu kết hôn với những tuổi: Canh Ngọ(1990), Ất Hợi (1995), Bính Tý (1996), Kỷ Tị (1989) thì cuộc sống của bạn có thể sẽ gặp nhiều khó khăn, luôn luôn ở trong tình trạng túng thiếu liên miên. Những tuổi này khi kết hôn làm ăn không được tốt, luôn luôn phải chịu cảnh thiếu nghèo, khó sống sang giàu và đầy đủ được.   Có những năm mà bạn ở vào số tuổi rất xung khắc với bạn, nếu bạn tính chuyện hôn nhân thì sẽ không thành, hay nếu thành thì cuộc đời thường chịu cảnh xa vắng liên tục. Đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 21, 25, 27, 33, 37, 39 và 43 tuổi. Bạn nên chú ý nhé.   Cuộc đời do số mệnh, bạn nên tin tưởng vào số mệnh của mình, những tháng mà số bạn phải chịu nhiều vợ hay gặp khó khăn trong hôn nhân là những tháng mà bạn sinh nhằm vào một vì sao ngân hà, nên việc vợ con thường có thê thiếp, đó cũng không phải do bạn muốn mà số phận bạn phải chịu như vậy. Nếu bạn sinh vào những tháng này, thì chắc chắn, bạn sẽ chịu cảnh thê thiếp, đó là bạn sinh vào những tháng 1, 2, 3, 4, 8 và 9 Âm lịch.   
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Lichngaytot.com
Xem tử vi tháng Năm âm lịch của người tuổi Ngọ
Xem tử vi tháng 5 âm lịch của người tuổi Ngọ, vận trình sẽ chuyển tốt nếu biết cách vận động, trong động lấy tài. Dương khí thịnh vượng thúc đẩy công việc của
Tử vi tình duyên năm 2016 của người tuổi Ngọ: Giáp Ngọ, Bính Ngọ, Mậu Ngọ, Canh Ngọ, Nhâm Ngọ
Tử vi tình duyên năm 2016 của người tuổi Ngọ: Giáp Ngọ, Bính Ngọ, Mậu Ngọ, Canh Ngọ, Nhâm Ngọ diễn ra như thế nào?
Bật mí những con giáp cầu được ước thấy trong năm 2016
Bước sang năm 2016, mọi phương diện của người tuổi Ngọ đều tốt đẹp. Dù là công việc, sự nghiệp hay chuyện tình yêu, hôn nhân đều thuận buồm xuôi gió như là

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nam sinh năm1990 hợp với nữ tuổi nào nhất?

Nhìn tướng miệng đoán sức khỏe

Miệng là nơi thông khí của tỳ, lưỡi, là mầm của tâm; răng là phần của xương. Người cơ miệng chắc, lại có tính đàn hồi thì tỳ và gan tốt.
Nhìn tướng miệng đoán sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Miệng ngậm mà vẫn hở răng hoặc khi ngủ không ngậm miệng, chủ nhân sức khỏe không tốt, đoản thọ; cộng thêm mắt có nhiều tròng trắng, ngực mọc nhiều lông là dấu hiệu cho thấy lá lách suy yếu.

- Khi ngủ, miệng có chảy nước miếng, nếu chủ nhân trung tuổi thì sức khỏe không tốt, đoản thọ; chủ nhân trên 70 tuổi thì trường thọ, sức khỏe dồi dào.

- Thừa Tương (phần tiếp giáp với môi dưới ở ngay chính giữa) không có râu mà có mụn ruồi, chủ nhân mắc chứng bệnh liên quan về tiêu hóa, dễ gặp họa liên quan đến nước.

- Miệng rộng quá mức cho thấy, khả năng ăn uống và sinh nở của chủ nhân tốt.

- Râu quanh miệng quá rậm, mọc cả ở mép cho thấy, chủ nhân có bệnh ở hệ thống đường ruột.

- Miệng nhỏ, mắt to, chủ nhân khó sống qua tuổi 50.

(Theo Tìm hiểu Nhân tướng học theo Kinh Dịch)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tướng miệng đoán sức khỏe

Đinh Dậu mệnh gì –

Người sinh 1957, Đinh Dậu, có Ngũ hành năm sinh là Sơn Hạ Hoả, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung ĐOÀI, hành KIM, hướng Tây, quái số 7, sao Thất Xích, Tây tứ mệnh (Hướng nhà tốt: Tây Bắc, Đông bắc, Tây Nam, Tây). Đeo đá màu Vàng, Nâ
Đinh Dậu mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đinh Dậu mệnh gì –

Hóa giải xung khắc giữa người tuổi Mão và tuổi Dậu

Về mặt tính cách, sự ngay thẳng, bộc trực của Mão dễ làm cho Dậu bực bội. Trong khi đó, sự kiêu căng, tự phụ của Dậu khiến Mão phải nổi nóng. Mão nhún nhường
Hóa giải xung khắc giữa người tuổi Mão và tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trong khi Dậu tự mãn, cho rằng mình biết tất cả. Những xung đột này khiến quan hệ của 2 người không thể tiến xa được.

(Ảnh minh họa)

Xét theo vòng tử vi, Dậu và Mão ở vào vị trí xung khắc, con giáp này bị ảnh hưởng bởi âm tính từ những mũi tên độc của con giáp kia. Do đó, cả 2 sẽ phô bày tất cả những điều xấu nhất của nhau. Tính dè dặt cố hữu của Mão trở thành thái độ thờ ơ, khinh miệt. Trong khi đó, sự khoe khoang, kiêu căng của Dậu ngày càng trở nên khó chịu, đáng ghét.

Nếu 2 người này không sống với nhau, hoặc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau thì họ có thể là bạn tốt. Nhưng khi đã kết hôn, họ rất dễ bất hòa và coi thường nhau. Tệ hại hơn, cuộc sống hôn nhân giữa Mão và Dậu có thể chỉ còn là quan hệ tầm thường.

Dậu thuộc hành Kim, Mão thuộc hành Mộc. Kim và Mộc tương khắc. Trong mối quan hệ này, Dậu đóng vai trò kiểm soát và điều khiển Mão, hay ít ra cũng cố gắng để được như thế. Vấn đề là Mão có chấp nhận vị trí lãnh đạo của Dậu hay không. Căn cứ vào vòng tử vi thì điều này khó có thể xảy ra. Là con giáp âm, Dậu không khẳng định được vai trò và uy tín của mình trong việc thống trị Mão - cũng thuộc âm.

Biện pháp hóa giải

Để cải thiện mối quan hệ này, cả 2 cần phải được tăng cường năng lượng 1 cách đúng đắn dựa vào đặc điểm của ngũ hành. Cụ thể là, người tuổi Dậu nên đeo đồ trang sức bằng vàng, người tuổi Mão nên sử dụng nhiều màu xanh lá cây. Ngoài ra, cả nam và nữ đều sẽ gặp may mắn khi đeo ngọc.

(Theo Phong thủy trong tình yêu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải xung khắc giữa người tuổi Mão và tuổi Dậu

Chùa Duệ Tú - Hà Nội

Chùa Duệ Tú thường được gọi là chùa Duệ hay chùa Quảng Khai. Chùa Duệ thuộc thôn Tiền trước đây là xã Dịch Vọng – huyện Từ Liêm – Hà nội
Chùa Duệ Tú - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Duệ Tú thường được gọi là chùa Duệ hay chùa Quảng Khai. Chùa Duệ thuộc thôn Tiền trước đây là xã Dịch Vọng – huyện Từ Liêm – Hà nội . Nay là Phường Quan Hoa – Quận Cầu Giấy – Hà nội , cách trung tâm Thành Phố khoảng 6 km về phía Tây Bắc. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Tương truyền chùa được xây từ đời Lý Nhân Tông, là nơi tu trì của pháp sư Lê Đại Điên. Đại Điên đã dùng phép thuật giết Từ Vinh, nên con của Từ Vinh là Từ Lộ (Từ Đạo Hạnh sau này) đã giết chết Đại Điên để báo thù cho cha. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Nguyên dạng hiện nay là đợt trùng tu vào các năm 1936, 1985 và 1994.

Kiến trúc chùa gồm tam quan, chánh điện, điện Mẫu và nhà phụ. Tam quan có đại hồng chung đúc năm 1815. Ngôi chánh điện hình chuôi vồ, tiền đường 5 gian, hậu cung 1 gian.

Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa còn giữ một số tượng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII, XIX. Đặc biệt, chùa có pho tượng Pháp sư Đại Điên, tạc to bằng người thật, ngồi trong khám thờ. Bên cạnh có tấm bia (1941) ghi 3 đạo sắc phong cho Đại Điên vào các đời vua Gia Long, Duy Tân và Khải Định. Trụ trì chùa hiện nay là Thượng tọa Thích Thanh Điện, đương nhiệm Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Chùa Duệ Tú đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1989. Đây là một trong những địa danh tâm linh thu hút phật tử tứ phương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Duệ Tú - Hà Nội

Tử vi Ất sửu Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Trong tử vi đẩu số Ất sửu Là trâu trên đồng cỏ, tính cách cương trực dũng mãnh, làm việc chính trực, công bằng vô tư, không ức hiếp người hiền lành, không sợ kẻ ác.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ẤT SỬU: HẢI TRUNG KIM 

Trong tử vi đẩu số Ất sửu Là trâu trên đồng cỏ, tính cách cương trực dũng mãnh, làm việc chính trực, công bằng vô tư, không ức hiếp người hiền lành, không sợ kẻ ác.

Là Kim tự khô, Hỏa không thể khắc, Kim ẩn tàng. Nếu không có hình xung phá hại, chủ hiển quý.

Kỵ Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa, Kỷ Mùi Thiên thượng Hỏa. Phạm vào chủ một đời vất vả khổ cực.

Ât Sửu là Chính ấn, có đại phúc đức, sinh vào 2 mùa thu, đông chủ phú quý trường thọ, sinh vào mùa xuân, hạ, trong cát có hung. Nhập cách tất lập công hưởng phúc. Nếu phạm sát, mệnh chủ gian giảo.

Trong tử vi đẩu số Ngũ trụ có Giáp Tý, quý nhân trùng trùng, chủ cát lợi. Can chi tương sinh liên hoàn vẫn cần có Hỏa luyện, nếu không nhìn bề ngoài như quả táo ngon, bên trong đã bị hỏng. Hoặc tọa nguyệt trụ, mệnh chủ làm quan nhỏ, tài lộc ít.

Mệnh nữ lấy chồng nghèo khổ, chồng có tài năng nhưng lại không có tài lộc.

Chi khác kỵ nhất có Dần, phạm Kiếp sát, Cô quả giống Thìn. Tuổi trẻ gia cảnh giàu có, trung niên thất bại, bán hết ruộng vườn, phạm pháp mất cha, gia bại nhân vong. Kỵ nhất nhật trụ là Mậu Dần Thành đầu Thổ.

Chi khác có Sửu, vợ chồng duyên mỏng, nếu phạm Phá toái, Hoa cái, chỉ nên làm tăng ni. Chi khác có Mùi, con cái duyên mỏng.

Phàm nạp âm đều kỵ gặp Không vong, duy Giáp Tý, Ât Sửu Hải trung Kim không kỵ Không vong, do đó chi khác nếu có Tuất hoặc Hợi trái lại luận là cát. Đây gọi là Châu tàng uyên hải cách. Nhưng do Sửu mã tại Hợi, mã lạc Không vong, mà mã còn bị thụ hình, tuy luận là cát nhưng cũng phải vất vả bôn ba. Còn chủ bỏ mạng nơi đất khách quê ngưòi.

Mệnh nữ ưa nhất nhật chi có Thân, có thể lấy được người chồng ưu tú giàu có mà con cái ngoan ngoãn giỏi giang.

Mệnh nữ sẽ có một giai đoạn tình cảm gặp đau khổ, rất dễ phát sinh tư tưởng bi lụy chán chường.

Nguyệt can hoặc can khác có Đinh, được Thực thần, chủ phú quý. Chi khác có Tý, đắc Quý nhân, chủ cát tường. Chi khác có Ngọ là người bất nghĩa, hôn nhân qua 2 lần đò.

Ất lộc tại Mão, chi khác có Mão là cát lợi, ưa nhất tọa thời chi. Chi khác có Thìn là phạm Dương nhẫn, chủ hung họa.

Chi khác không ưa có Mùi, Tuất là phạm hình, chủ người tính cách nóng nảy, tự đánh giá mình quá cao, tự tin thái quá, tất gặp thất bại.

Trong tử vi đẩu số Người mệnh Hải trung Kim là ngưòi hay xấu hổ, nhưng đối với cha mẹ vô cùng hiếu thuận.

Gặp năm Ngọ, Mùi thưòng trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.

Bạn đời chớ nên gặp người sinh năm Canh, Tân. Nên tìm người sinh năm Mậu, Kỷ.

Hải trung Kim là bảo vật dưới long cung, là trân châu của giao long, thành khí không cần sức mạnh của Hỏa. Là Kim chưa thành khí thì gặp Hỏa tất thành khí gặp nhiều là vô cùng cát lợi.

Nếu gặp Phúc đăng Hỏa, Sơn hạ Hỏa, Sơn đầu Hỏa quá yếu, không thể luyện được Kim thì cần Mộc đến tương trợ. Nếu không là ngoài giống như quả táo ngon nhưng bên trong đã hỏng. Kỵ nhất Giáp Tuất Sơn đầu Hỏa, mệnh nam phá bại mệnh nữ sống cảnh phòng không.

Sách Tam mệnh thông hội nói rằng: Ất Sửu gặp Ất Sửu, giống như đồng loại tương trợ, trong trụ ưa gặp Dần, hợp nhất gặp Mậu Dần Thành đầu Thổ, đây gọilà Côn sơn phiến ngọc cách. Người sinh năm Sửu cần chú ý, không chỉ Ất Sửu mà phàm nhật chi có Sửu đều chủ về khắc bạn đời. Khi kết hôn, nếu đối phương là người sinh năm Sửu mà nhật chi có Sửu nên tránh hoặc tìm phương pháp hóa giải hợp lý, chớ bị mê hoặc để rồi hối hận.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Ất sửu Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Những lĩnh vực may mắn - xui xẻo của 12 con giáp năm 2017

Cùng đọc để biết năm sau bạn cần nắm bắt cơ hội ở lĩnh vực nào nhằm đạt được thành công, hay sẽ gặp phải rủi ro gì cần tránh và đề phòng nhé.
Những lĩnh vực may mắn - xui xẻo của 12 con giáp năm 2017

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Những con giáp có cơ hội được tăng lương hoặc thăng chức:

xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-1 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-2
Hạng 1: Dậu Hạng 2: Thìn Hạng 3: Tuất

2. Những con giáp có khả năng phát tài nếu tự kinh doanh, buôn bán hoặc mở doanh nghiệp và làm chủ:

xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-3 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-4 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-5
Hạng 1: Ngọ Hạng 2: Tuất Hạng 3: Dần

3. Những con giáp dễ gặp thị phi, tai tiếng và bị xúc phạm: 

xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-6 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-7 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-8
Hạng 1: Mùi Hạng 2: Hợi Hạng 3: Tý

4. Những con giáp tâm trạng lên xuống thất thường và gặp nhiều vấn đề tiêu cực về cảm xúc:

xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-9 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-10 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-11
Hạng 1: Mùi Hạng 2: Sửu Hạng 3: Dậu

5. Những con giáp được quý nhân phù trợ, ra tay cứu giúp: 

xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-12 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-13 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-14
Hạng 1: Thìn Hạng 2: Ngọ Hạng 3: Tuất

6. Những con giáp có khả năng sinh lời nếu đầu tư:

xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-15 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-16 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-17
Hạng 1: Thìn Hạng 2: Dậu Hạng 3: Ngọ

7. Những con giáp nên kết hôn hoặc lập gia đình:

xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-18 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-19 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-20
Hạng 1: Thìn Hạng 2: Ngọ Hạng 3: Tý

8. Những con giáp cần đề phòng bệnh tật, sự cố và tai nạn:

xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-21 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-22 xep-hang-do-may-man-va-nhung-linh-vuc-may-man-cua-12-con-giap-nam-dinh-dau-2017-23
Hạng 1: Sửu Hạng 2: Mão Hạng 3: Thân

Alexandra V (theo wayfengshui)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lĩnh vực may mắn - xui xẻo của 12 con giáp năm 2017

Nguồn gốc và ý nghĩa ngày cá tháng tư

Vào ngày Cá tháng Tư, mọi người trên khắp thế giới được phép trêu đùa nhau mà không ai được quyền cáu giận.
Nguồn gốc và ý nghĩa ngày cá tháng tư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chúng ta vẫn biết ngày ngày 1 tháng 4 là ngày Nói Dối – hay ngày Cá tháng Tư. Vào ngày này, mọi người trên khắp thế giới được phép trêu đùa nhau mà không ai được quyền cáu giận. 

Nguồn gốc ngày Nói Dối
 
Ngày Cá tháng Tư có nguồn gốc từ nước Pháp. Từ thời trung cổ cho tới cuối thế kỷ 16, người dân châu Âu nói chung và người dân Pháp nói riêng thường tổ chức đón năm mới vào ngày 1 tháng 4, đây được coi là ngày bắt đầu của mùa xuân. Thế nhưng vào năm 1564, đức vua Pháp là Charles IX đã quy định lại ngày đầu tiên của năm mới là ngày 1 tháng 1 và ban hành thống nhất trong cả nước. Do phương tiện liên lạc thời xưa khá lạc hậu, tin tức được truyền đi bằng cách chạy bộ truyền tin cho nhau nên nhiều người dân vẫn chưa được biết tới sự thay đổi này. Và một số khu vực, người ta biết tin này nhưng lại không chấp nhận, vẫn cố chấp coi ngày 1 tháng 4 là ngày đón năm mới. Việc này được cho là “ngớ ngẩn” và trở thành trò đùa của mọi người.

Nguon goc va y nghia ngay ca thang tu hinh anh
Ảnh minh họa
Truyền thống này được lan truyền từ Pháp sang Anh và Scotland (thế kỷ 18). Người Anh và người Pháp đưa tục lệ nói dối sang các thuộc địa ở Bắc Mỹ. Từ đó, ngày Cá tháng Tư trở thành một lễ hội quốc tế được chấp nhận ở nhiều nước khác nhau.
 
Ý nghĩa ngày Cá tháng Tư
Trong ngày Cá tháng Tư, bạn có quyền thỏa thích đùa cợt người khác mà không hề bị giận hờn trách móc, tuy nhiên, hãy chắc chắn rằng những lời đùa cợt này không gây ra hậu quả nghiêm trọng. Để mọi người có được tiếng cười sảng khoái trong ngày này thì rất nhiều trò đùa độc đáo, thú vị cũng ra đời, giới truyền thông cũng sẽ đứng ngoài cuộc trong ngày này.
 
Du có chung mục đích là mua vui và mang lại tiếng cười cho mọi người trong ngày nay, thế nhưng tại mỗi quốc gia, ngày Cá tháng Tư lại có một ý nghĩa khác nhau và người dân mỗi nước lại có cách riêng để trêu chọc gia đình và bạn bè.  
 
Ngày Nói dối tại đất nước Mexico sẽ diễn ra vào ngày 28 tháng 12. Theo lịch sử, vào ngày này, nhà vua Herod đã ra lệnh thảm sát trẻ em vô tội, chính vì vậy mà những trò đùa chỉ mang tính chất nhẹ nhàng. Bạn bè có thể “ăn trộm” đồ của bạn và nếu muốn lấy lại chúng bạn phải đổi bằng kẹo. 
 
Ở Scotland lại có tới 2 ngày Cá tháng Tư. Ngày thứ hai đặc biệt để trêu ghẹo phần sau lưng của mỗi người nên được gọi là “Ngày vuốt đuôi”. Đây được coi là ngày phát sinh của trò đùa “Hãy đá tôi một phát”. Và những người bị lừa được gọi là “gowk” (kẻ ngốc).
 
Ngày 1 tháng 4 tại vương quốc anh được gọi là “April Fool”, từ “fool” cũng có nghĩa là kẻ ngốc. Những trò đùa  sẽ được tiến hành trong buổi sáng và kết thúc vào 12h trưa, nếu bạn bị “mắc câu” thì bạn sẽ bị coi là một “con cá”.  

Nguon goc va y nghia ngay ca thang tu hinh anh 2
Ảnh minh họa
Người dân Pháp thì gọi ngày này là “Poissons D’Avril”, và do ảnh hưởng của văn hóa Pháp nên ở Việt Nam chúng ta cũng gọi ngày này là ngày Cá tháng Tư hay ngày Nói Dối.
 
Ngày nay, ở Anh người ta gọi những người bị lừa trong dịp 1/4 là “April Fool” cũng có nghĩa là fool – kẻ ngốcNgười Pháp thì gọi những người bị lừa là Poissons D’Avirl có nghĩa là “những con cá tháng Tư”. Và có lẽ do ảnh hưởng của người Pháp nên ở Việt Nam chúng ta gọi ngày này là ngày Cá tháng Tư - ngày nói dối.
 
Tại sao lại chọn con Cá?
Quay lại thế kỷ XVI ở nước Pháp, mọi người thường tặng quà cho nhau là thực phẩm. Tuy nhiên, vào dịp lễ ăn chay, thịt hay những đồ ăn có liên quan tới thịt sẽ bị cấm đối với người dân theo đạo Thiên Chúa, nhưng Cá thì lại được phép thoải mái sử dụng. Khi truyền thống này được phổ biến thì Cá giả là những “bẫy lừa” được người dân sử dụng phổ biến nhất, họ có thể dán những mẩu giấy hình con cá vào sau lưng áo của người khác.    Tại một số quốc gia khác, người ta tin rằng ngày cá tháng Tư bắt nguồn từ những trò đùa tai hại của những người đánh cá, họ cho rằng ngày 1 tháng 4 thuộc thời kỳ cá giao phối nên việc câu cá bị cấm. Tuy nhiên, một số người thì tin rằng việc sử dụng hình ảnh cá lại liên quan đến vòng quay của mặt trời. Bởi lẽ trong những ngày đầu tháng Tư, mặt trời  sẽ quay quanh cung Song Ngư theo chiêm tinh thì chùm sao có hình con cá.
 
=> Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Lichngaytot.com
 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc và ý nghĩa ngày cá tháng tư

Phụ nữ xông đất đầu năm là xui xẻo?

Trong dân gian của chúng ta thường vẫn hay kiêng phụ nữ xông đất đầu năm, vậy nhiều người hỏi nguyên cớ làm sao lại vậy?
Phụ nữ xông đất đầu năm là xui xẻo?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Phu nu xong dat dau nam la xui xeo hinh anh
Phụ nữ kiêng đi xông đất đầu năm

Theo các cụ xưa nay vẫn kiêng phụ nữ xông đất vì phụ nữ tính âm, mà xông đất đầu năm cần dương khí vào nhà, thì năm đó gia đình sẽ được mạnh khỏe, làm ăn phát tài.
 
Nếu phụ nữ xông nhà, nên đi theo đoàn có đủ ngũ hành để tạo thành vòng bổ sung cho mệnh chủ. Ví dụ mệnh chủ hành Hỏa, Thái Tuế hành Kim, phụ nữ hành Thổ (Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim) thì nên bổ sung cả người hành Thủy – Mộc thành vòng khép kín sẽ tốt hơn.
 
Trong văn hóa Việt thì trẻ con là con trai hay đi xông nhà và thường thì đến mỗi nhà đều được gia chủ mừng tuổi, chia cho bánh kẹo ngụ ý là cảm ơn người đến xông đất.

Xem thêm: Xem tuổi Xông Nhà Hợp Mệnh Gia chủ Năm 2017 Đinh Dậu- Mang lại May mắn và Bình An 


10 việc nên làm đêm Giao thừa để cả năm mới may mắn, tiêu tiền không phải nghĩ Có nên làm chuyện ấy trong đêm giao thừa? Sưu tầm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phụ nữ xông đất đầu năm là xui xẻo?

Giải mã vận mệnh người tuổi Đinh Mùi theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử vi của người sinh năm Đinh Mùi có Đinh là âm Hỏa, Mùi là âm Thổ, Hỏa thổ tương sinh, có năng lực, có phú quý trong đời.
Giải mã vận mệnh người tuổi Đinh Mùi theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi của người sinh năm Đinh Mùi có Đinh là âm Hỏa, Mùi là âm Thổ, Hỏa thổ tương sinh, có năng lực, có phú quý trong đời.


Giai ma van menh nguoi tuoi Dinh Mui theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh 2
 
Xem tử vi cho người sinh năm Đinh Mùi thì thái độ ngay thẳng, cả đời phú quý, cơm áo sung túc, quy tụ được bạn bè hào kiệt, chí lớn, mưu sự thắng ý trời. Lục thân (cha, mẹ, vợ/ chồng, anh, em, con cái) tình cảm không gắn bó, tuổi trẻ nhiều sóng gió, trung vận sự nghiệp mới có thành tựu. Nữ mệnh tuổi già thịnh vượng, vợ chồng tình cảm tốt đẹp nhưng hình khắc con cái nên chỉ có một con duy nhất.   Người tuổi Đinh Mùi sinh vào mùa xuân, hạ thì ctgioir thu vén, cần kiệm, sinh vào mùa thu, đông thì sáng tạo, độc đáo, cơ mưu xuất chúng, trải qua nhiều tranh đoạt.    Lục Thập Hoa Giáp của Đinh Mùi tọa Quan, có xinh đẹp bề ngoài cùng tài ăn nói, nho nhã lễ độ, hòa đồng. Đinh Mùi nạp âm Thiên Hà Thủy, mưa trên trời làm dịu mát vạn vật nên có tâm từ bi, nhân từ, đức độ, trí tuệ rộng rãi, theo đường chính đạo.   Tử vi của người sinh năm Đinh Mùi này không cần lo ăn lo mặc, thích trưng diện, phô trương. Vì có sao may mắn nên nhân duyên tốt, nhận được sự dẫn dắt của người đi trước, vượng vận có thể phát huy tài nghệ, công thành danh toại. 
Giai ma van menh nguoi tuoi Dinh Mui theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh 2
 
Thiên Hà Thủy Đinh Mùi là mưa nhỏ, Thủy nhỏ, phong sương tận xương, chỉ đủ làm dịu mát, không đủ để úng ngập nên gặp Thổ tất bị khắc, cũng không thế áp chế được Hỏa nên nếu kết hợp với người nạp âm Thổ hoặc nạp âm Hỏa thì sẽ yếu thế, đối đầu sẽ thua thiệt.
 
Người này tính khí dịu dàng, nhược điểm là không kiên nghị, không quyết liệt, hay mềm lòng nên chí có thể phát nhỏ, không thể phát lớn, chỉ làm nhân viên chứ không thể làm lãnh đạo. Nữ mệnh nhu hòa tốt hơn nam mệnh nhu nhược. 
► Khám phá Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác

Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 6) Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 5) Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 4)
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã vận mệnh người tuổi Đinh Mùi theo Lục Thập Hoa Giáp

Năm loại quần khiến tài vận xa lánh bạn

Quần là vật dụng được sử dụng hàng ngày, song lại chứa rất nhiều yếu tố phong thủy. Nếu gia chủ không để tâm đến chiếc quần giản đơn đó, có thể tài vận đang
Năm loại quần khiến tài vận xa lánh bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quần là vật dụng được sử dụng hàng ngày, song lại chứa rất nhiều yếu tố phong thủy trong đó. Nếu gia chủ không để tâm đến chiếc quần giản đơn ấy, rất có thể tài vận đang dần dần rời xa họ


Nam loai quan khien tai van xa lanh ban hinh anh
 
Quần rách
Nam loai quan khien tai van xa lanh ban hinh anh 2
 
Kiểu dáng quần này tượng trưng cho việc phá sản, về lâu về dài sẽ khiến vận thế của gia chủ giảm sút, tiền tài không thể tích tụ, vung tay quá trán. Nếu gia chủ có niềm yêu thích với loại quần này, hãy kiểm tra lại tài khoản của bản thân và ra quyết định đúng đắn.   Quần lâu ngày không mặc   Nhiều người do công việc bận rộn nên khó có thời gian sắp xếp quần áo, để quần tại đáy tủ, sau vài mùa mới lôi ra mặc, điều này đặc biệt ảnh hưởng đến vận khí của gia chủ. Vật phẩm phong thủy quan niệm rằng,  cách giải quyết tốt nhất là giặt sạch hoặc phơi dưới ánh nắng một ngày.
3 con giáp phải học cách lùi một bước để tiến nhiều bước trong sự nghiệp
Ai cũng hy vọng bản thân có sự nghiệp thành công, ngoài kỹ năng và sự may mắn thì thái độ là nhân tố không thể thiếu. Ba con giáp sau muốn thăng tiến cần phải
Quần được giặt và phơi vào ban đêm   Do không có thời gian, nhiều gia chủ chọn cách giặt và phơi quần vào ban đêm, tuy nhiên đây là lỗi phong thủy do quần sẽ hấp thu những năng lượng xấu vào ban đêm. Để thay đổi lỗi này, gia chủ nên phơi vào ban ngày hoặc tối hôm trước giũ sạch rồi sáng hôm sau phơi.   Quần có màu sắc không phù hợp
Nam loai quan khien tai van xa lanh ban hinh anh 3
 
Màu sắc là một nhân tố quan trọng trong phong thủy, nếu mặc quần có màu sắc kiêng kỵ với bản mệnh bản thân thì tài vận luôn kém. Đối với nam mệnh, họ không có nhiều lựa chọn về màu sắc của quần. Vậy nên, nếu thuộc mệnh Kim Thủy có thể dùng các gam màu lạnh, còn hành Mộc Kim có thể tham khảo màu nóng. Khi không biết màu sắc nào phụ hợp hay kiêng kỵ, gia chủ có thể xem mùa sinh của bản thân, sinh mùa đông mặc gam màu nóng, còn mùa hè thì ngược lại. Đối với nữ mệnh, họ có thể chọn màu theo khí chất hoặc khí trường mệnh cách của bản thân cho phù hợp.   Quần không phù hợp hoàn cảnh   Đối với những nơi nghiêm túc, gia chủ nên chọn quần có phong phạm, nếu không sẽ mang đến nhiều phiền phức cho bản thân, xuất hiện nhiều năng lượng xuất ngăn cản tài vận.
Chi Nguyễn

=> ## tổng hợp những kiến thức phong thủy và tâm linh hữu ích

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm loại quần khiến tài vận xa lánh bạn

Ngày không phòng - kỵ giá thú

Trong việc xem ngày cưới, ngày Không Phòng được đặt lên hàng đầu trong việc loại trừ các ngày được coi là bất lợi cho hôn thú. Ngày này có một bài thơ để cho dễ nhớ như sau :
Ngày không phòng - kỵ giá thú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không Phòng kỵ giá thú 

Trong việc xem ngày cưới, ngày Không Phòng được đặt lên hàng đầu trong việc loại trừ các ngày được coi là bất lợi cho hôn thú. Ngày này có một bài thơ để cho dễ nhớ như sau : 
Xuân : Long - Xà - Thử kỵ Không Phòng 
Hạ : Khuyển - Chư - Dương phá bại vong
Thu : Mã - Thỏ - Dần vô nghi dụng 
Đông : Kê - Hầu - Sửu kết hôn hung 

Giảng nghĩa : 
Vào mùa Xuân, tức là vào các tháng Giêng, Hai, Ba ( tháng Dần, tháng Mão, thángThìn ) những ngày là Thìn ( Long), Tỵ ( Xà), Tý ( Thử ) là ngày Không Phòng.

Vào mùa Hạ, tức là vào các tháng Bốn, Năm, Sáu ( tháng Tỵ, tháng Ngọ, tháng Mùi) những ngày là Tuất ( Khuyển ), Hợi ( Chư), Mùi ( Dương ) là ngày Không Phòng.

Vào mùa Thu, tức là vào các tháng Bảy, Tám, Chín ( tháng Thân, tháng Dậu, tháng Tuất) những ngày là Ngọ ( Mã), Mão ( Thỏ) , Dần là ngày Không Phòng 

Vào mùa Đông, tức là vào các tháng Mười, Mười Một, Mười Hai ( tháng Hợi, tháng Tý, tháng Sửu) những ngày là Dậu ( Kê), Thân ( Hầu ), Sửu là ngày Không Phòng. 

Kết hôn vào ngày Không Phòng chủ việc cô đơn, bất lợi, không hạnh phúc lâu dài. Cuộc sống gia đình hay trục trặc dễ đổ vỡ. Hôn nhân không được thuận lợi. 
Đây chỉ kỵ việc kết hôn, việc ăn hỏi không kỵ.

Nguồn gốc sự tích ngày Không Phòng như sau: 

Xưa, có vị tiên gia tên hiệu Không Phòng Hôn Thú Thị Đẳng Thần là một trong số những thuộc hạ dưới quyền của Đức Nguyệt Lão Nhân Duyên Phu Thê Tử Tôn Tác Hợp. Được giao nhiệm vụ tra cứu sổ sách duyên nghiệp, tác hợp nhân duyên cho chúng sanh bá tánh nơi cõi trần. Vì tình cờ gặp gỡ mà thân quen với một tiên nữ có tên là Lan Tiên - thị nữ của Hằng Nga Tiên Nữ, ở cung Quảng Hàn. 

Trải qua thời gian biến đổi, nam nữ tình thân, phát sinh mối quan hệ tình cảm yêu thương tha thiết. Tuy nhiên, luật của thế giới thần thông đối với Tiên, Thần là không được phép có ái tình nhục dục, không được yêu đương, tình cảm nam nữ không được vượt quá giới hạn tình bạn.

Hai người bàn tính việc bỏ trốn xuống trần gian. Sự việc bị bại lộ, Lan Tiên bị giáng xuống làm phàm nhân, đầu thai vào cõi Nhân làm người, vĩnh viễn không được trở lại Tiên giới. Không Phòng Hôn Thú Thị Đẳng Thần bị bãi miễn chức vụ, bắt giam 100 ngày rồi sau khi thụ hình giáng xuống làm người trông coi vườn Thượng Uyển ở cung Đâu Suất.


Mặc dù phải chịu hậu quả do làm trái Thiên Quy, nhưng Không Phòng vẫn không hề hối tiếc. Trong tâm trí của chàng, hình ảnh nàng Lan Tiên xinh tươi, dịu dàng, đằm thắm lúc nào cũng hiển hiện không phai mờ. Xa cách ngàn trùng, nỗi bi ai chán chường, buồn phiền vô hạn. Chàng Không Phòng giờ đây không còn thanh tao, đạo mạo như xưa nữa. Mái tóc chàng nửa thì đen, nửa thì trắng, lại dài đến tận thắt lưng. Một khuôn mặt ưu tư, khắc khổ, âu sầu, đôi mắt chỉ toát lên nỗi nhớ nhung và tiếc thương khôn tả. Khoác trên người chiếc áo choàng dài màu xám, bộ dạng của chàng đáng thương tới mức Thần Tiên gặp mặt cũng buồn lây, Ma, Quỷ trông thấy cũng hờn dỗi.

Mỗi khi nhớ đến Lan Tiên, chàng xin phép đi ngao du nơi trần gian . Mục đích là xuống cõi trần để tìm gặp lại một lần bạn tâm tình xưa cũ. Nhưng Lan Tiên đã bị giáng đầu thai làm người phàm , giờ đây dung mạo và hoàn cảnh đã đổi khác, biết tìm ở nơi đâu?

Chàng nhìn thấy trong những đám cưới , cô dâu nào cũng xinh đẹp như là tiên nữ giáng trần. Chàng tự hỏi: “Biết đâu trong số đó chính là Lan Tiên?"

Thôi thì nhầm còn hơn bỏ sót, chàng liền dùng cây gậy Bạch Trúc chỉ vào cô dâu, chú rể mà niệm thần chú, khiến cho người con gái nọ phải thay lòng, người con trai kia phải đổi dạ, để họ không thể có được sự tâm đầu ý hợp, hòa đồng, hạnh phúc, để không ai có thể cướp đi người trong mộng của chàng.

Từ đó, cứ vào 3 ngày cố định của bốn mùa, chàng Không Phòng lại xuống cõi nhân gian kiếm tìm trong hy vọng. Gây ra cho chúng sanh biết bao nhiêu hậu quả nhân duyên trái ngang.

Đức Hiệu
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày không phòng - kỵ giá thú

Phương pháp hóa giải các tuổi tương xung lẫn nhau

Có tương hợp thì cũng có tương xung, xét dưới góc độ tử vi, cầm tinh tương xung hại thì có hại nhưng vẫn có cách để hóa giải.
Phương pháp hóa giải các tuổi tương xung lẫn nhau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có tương hợp thì cũng có tương xung, xét dưới góc độ tử vi, cầm tinh tương xung hại thì có hại nhưng vẫn có cách để hóa giải.


Phuong phap hoa giai cac tuoi tuong xung lan nhau hinh anh
 
Nhiều người muốn kết hôn, hợp tác công việc nhưng lại ngại cầm tinh tương xung. Vậy làm thế nào để hóa giải cầm tinh tương xung? Cùng xét từng trường hợp cụ thể nhé.   1. Tý Ngọ tương xung   Người hai tuổi này xung với nhau có thể dùng Mộc để hóa giải. Bởi Tý là Thủy, Ngọ là Hỏa, xung nhau như nước với lửa, chỉ có Mộc mới có thể phối hợp với cả hai bên, Thủy dưỡng Mộc, Mộc sinh Hỏa, thông qua đó mà dữ hóa lành. Hãy tìm người tuổi Dần, Mão làm trung gian tác hợp.   2. Sửu Mùi tương xung   Để hóa giải cầm tinh tương xung Sửu Mùi thì cần tới Kim để giảm bớt nhuệ khí của hai Thổ. Kim khai thông, xóa bỏ thế đối kháng của song Thổ.
3. Dần Thân tương xung   Cần viện đến Thủy để giải quyết trường hợp này vì Dần là Mộc, Thân là Kim, Kim khắc Mộc, Kim chiếm thế thượng phong, Mộc bị quản chế. Có Thủy thì giảm bớt nhuệ khí của Kim, chuyển thành Thủy kiếp dưỡng Mộc, biến hại thành lợi.
Luận giải lá số tử vi có thiên can địa chi tương xung Màu sắc phù hợp với người mệnh Hỏa Cách hóa giải đơn giản quan hệ tương khắc của các cặp con giáp
4. Mão Dậu tương xung

Thủy có thể điều hòa Mão và Dậu. Mão ở phương Đông, Dậu ở phương tây, Kim khắc Mộc, Kim được lợi, Mộc bị tổn hao. Có Thủy vào thì song phương kiềm chế, giải trừ mâu thuẫn, nhưng Thủy phải vừa đủ, không quá nhược, không quá vượng, bằng không cũng không có tác dụng.   5. Thìn Tuất tương xung   Song phương đều là Thổ, đối kháng lẫn nhau, mạnh yếu không phân cao thấp, không bên nào khoan nhượng. Chỉ có thể dùng Kim để tiết chế, điều hòa cục diện.
Phuong phap hoa giai cac tuoi tuong xung lan nhau hinh anh
 
6. Tỵ Hợi tương xung
  Tỵ là hỏa, Hợi là Thủy, nước lửa tương cung, Thủy đắc lợi, Hỏa bị thương, khó có thể cùng dung nạp. Lấy Mộc giải nguy, biến can qua thành tơ lụa, khơi thông năng lượng Thủy, nhóm lại Hỏa, từ thù địch thành bạn bè.  
► Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn

Trả lời 4 câu hỏi ai cũng thắc mắc về tử vi số mệnh Tuổi Tỵ tuyệt đối không nên hợp tác với con giáp nào? Hai tuổi tương khắc chỉ dựa vào tứ hành xung liệu có chính xác?
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp hóa giải các tuổi tương xung lẫn nhau

Top 4 con giáp khổ vì số đào hoa

Số vượng đào hoa ai chẳng muốn, nhưng cái gì quá cũng không tốt, có những con giáp phải than trời than đất khi khổ vì số đào hoa.
Top 4 con giáp khổ vì số đào hoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng điểm mặt trong 12 con giáp, người tuổi nào sẽ phải chịu cảnh đào hoa dữ nhé.   Ai nghe nói mình có đào hoa nở rộ, tình duyên vượng phát thì cũng vui mừng hớn hở. Nhưng đâu phải ai cũng biết rằng cái nạn đào hoa gây ra bao phiền phúc như thế nào. “Lắm mối tối nằm không”, xong còn mắc công bị nói là kén chọn, kì thực người theo thì nhiều nhưng người hợp đâu có ai.   Rồi cả những người đã có nơi có chốn mà vẫn không thiếu kẻ ong bướm dập dìu, lòng mình chung thủy nhưng miệng lưỡi người đời cay độc, thị phi từ trên trời rơi xuống, lắm lúc phá vỡ cả nhân duyên. Đào hoa như vậy chẳng thà không có cho xong. Có nhiều chỉ càng thêm đau đầu mệt mỏi.    Vậy bạn có biết trong 12 con giáp, ai là người khổ vì số đào hoa không? Cùng Lịch ngày tốt xem bói tử vi và khám phá ngay nhé.  

Tuổi Mão

  Người tuổi Mão có tiếng là tính tình ôn hòa, nhã nhặn, lại có khí chất bất phàm, có sức thu hút riêng với những người xung quanh. Phàm những ai đã từng tiếp xúc với con giáp này thì dù ít dù nhiều cũng thấy có cảm tình, chỉ muốn lập tức kết bạn làm quen.


Top 4 con giap kho vi so dao hoa hinh anh 2
 
  Những anh chàng cô nàng sinh năm Mèo đối với ai cũng rất tốt, còn hay được phong danh “Hoa hậu thân thiện” nữa. Chỉ cần người khác đủ dũng khí đến bắt chuyện thì họ sẽ chẳng ngại ngần gì mà cười nói vui vẻ, kéo gần khoảng cách.   Cũng chính vì thái độ như vậy nên nhiều người đem lòng yêu mến, thậm chí còn chẳng buồn che giấu tình cảm của mình, bởi họ nghĩ người tuổi Mão sẽ chẳng nỡ lòng nào làm tổn thương người có tình cảm chân thành. Cứ thế, biết bao nhiêu chuyện thị phi chỉ vì cái số đào hoa luôn vây quanh con giáp này. Tuy nhiên, với những người theo đuổi không hợp, họ sẽ nhẫn tâm từ chối chứ không chỉ nhẹ nhàng phát tín hiệu dừng như vẻ ngoài dịu dàng thân thiện bên ngoài đâu.

Xem thử bạn có phải là người Bát tự mang đào hoa, cả đời hấp dẫn người khác phái không nhé.

 

Tuổi Tị

  Người sinh năm Rắn chẳng bao giờ thiếu người theo đuổi, tuy tính cách lạnh lùng và có phần khó gần, được phong danh “Nữ hoàng băng giá”, “Hoàng tử lạnh lùng” nhưng có sá gì, chính khí chất lạnh lẽo mang tinh thần quý tộc cao sang khiến những người khác phái càng thêm có lý do để đổ nghiêng đổ ngả trước con giáp này.   Có điều, chỉ những người theo đuổi mặt dày mày dạn mới đủ sức để gây chú ý với người tuổi Tị. Họ không quan tâm đến sự đời, yêu là yêu mà ghét là ghét nên ai có cảm tình mà chẳng đủ dũng cảm nói ra thì trong mắt họ chỉ là người qua đường mà thôi. 

Cùng xem Tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân để tìm được người tâm đầu ý hợp nhé.


Top 4 con giap kho vi so dao hoa hinh anh 2
 
  Khổ vì số đào hoa, con giáp này lúc nào cũng trong tình trạng phải cảnh giác như minh tinh đi đến đâu cũng có fan cuồng bám theo. Song con mắt nhìn người của con giáp này rất tốt, họa đào hoa chẳng thể đeo bám họ lâu dài mà sẽ sớm phải chùn bước vì những chiêu trò của người tuổi Tị.  

Tuổi Dậu

  Người sinh năm Dậu luôn mơ ước về người tình lý tưởng. Họ đi “thả thính” khắp nơi, chỉ sợ mình để lọt mất chỗ nào mà để lỡ nhân duyên tốt đẹp. Nhưng hậu quả của việc “thả thính” không đúng trọng tâm, bừa bãi mọi nơi mọi lúc đó là đào hoa tốt chẳng thấy đâu mà đào hoa xấu thì ùn ùn kéo tới, đuổi không đi mà đánh cũng không bỏ.


Top 4 con giap kho vi so dao hoa hinh anh 2
 
  Thậm chí, tồi tệ hơn là cái số đào hoa còn khiến cho kế hoạch tìm kiếm người trong mộng của con giáp này bị đình trệ. Người tuổi Dậu chỉ còn biết than trời số khổ vì đào hoa, nhưng có gấp thế nào mà không chịu sửa cái tật “thả thính” lung tung thì còn phải khóc dài dài nữa.

Mời bạn tham khảo: Phong thủy đuổi đào hoa dữ, thuận duyên lợi tình trong năm 2017.
 

Tuổi Hợi

  Người tuổi Hợi bề ngoài vô tư trong sáng, tâm hồn cũng trắng trong chẳng chút bụi trần. Họ nghĩ ai cũng là người tốt, luôn tìm ra ưu điểm của những người xung quanh, cũng chẳng có chút tâm lý phòng bị nào với những người ở gần mình.


Top 4 con giap kho vi so dao hoa hinh anh 2
 
  Thế nên người tuổi Hợi được không ít bạn bè khác phái để mắt, đào hoa từ bé đến lớn chẳng lúc nào ngơi. Không may là trong số đó đào hoa dữ cũng chiếm số lượng không hề ít. Thậm chí khi đã có người yêu hay lập gia đình, vẫn có không ít người bày tỏ tình cảm với con giáp này.   Song không phải vì thế mà họ đa tình, đây là mẫu người chung thủy trước sau như một, tình cảm đã xác định là rất khó đổi thay. Trong suy nghĩ của người tuổi Hợi không bao giờ có phản bội hay lăng nhăng. Họ thấy phiền vì đào hoa quá vượng, nhưng tính cách hiền lành nên chẳng biết làm sao, chỉ thầm cầu mong cho những người kia nản lòng tự bỏ cuộc mà thôi.  
Hy Vũ

Phân biệt đào hoa duyên và đào hoa kiếp trong tử vi Tướng người vượng đào hoa, thuận nhân duyên trong năm 2017 Dùng cây xương rồng đuổi đào hoa dữ, tìm lại bình yên
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp khổ vì số đào hoa

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Đức Phật dạy về Nhân - Quả

Niềm tin nhân quả, sự sợ hãi quả báo trong đời này và những đời sau sẽ góp phần tác thành nên nhân cách, đạo đức cho mỗi người góp phần làm xã hội bình an
Đức Phật dạy về Nhân - Quả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với luật nhân quả, ta biết rằng tiến trình từ nhân đến quả, có thể báo ứng ngay trong hiện tại mà cũng có thể xảy ra ở tương lai gần hoặc xa. Chỉ cần quan sát trong hiện tại, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra quả báo nhãn tiền của những việc làm ác

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại khu vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ kheo:

Này các Tỷ kheo, có hai loại tội. Thế nào là hai ? Tội có kết quả ngay trong hiện tại và tội có kết quả trong đời sau.

Thế nào là tội có kết quả ngay trong hiện tại ? Này các Tỷ kheo, khi thấy nhà vua bắt được kẻ trộm, kẻ vô lại, liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ bị đánh bằng roi cho đến bị chặt đầu. Thấy vậy liền suy nghĩ: Do làm ác nghiệp nên mới bị các hình phạt như vậy.

Nghĩ vậy, người ấy sợ hãi tội lỗi trong hiện tại.

Và này các Tỷ kheo, thế nào là tội có kết quả trong đời sau? Ở đây, có người suy xét như sau: Nghĩ vậy, người ấy sợ hãi tội lỗi trong đời sau.

Do vậy, này các Tỷ kheo, cần phải học tập như sau: Chúng ta phải sợ hãi đối với tội có kết quả hiện tại và trong đời sau. Chúng ta phải thấy rõ sự nguy hiểm và tránh xa các tội.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 2, phẩm Hình phạt, phần Hai loại tội [lược], VNCPHVN ấn hành 1996, tr.94)

LỜI BÀN:

Nhân quả ở đời vốn rất chính xác và rõ ràng, gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Đức Phật cũng từng dạy: Dù lên núi cao hay xuống vực thẳm cũng không tránh được nghiệp quả. Do nhận thức đúng về nhân quả nên người con Phật luôn thận trọng trong mỗi việc làm, lời nói và suy nghĩ của chính mình.

Tiến trình từ nhân đến quả, có thể báo ứng ngay trong hiện tại mà cũng có thể xảy ra ở tương lai gần hoặc xa. Chỉ cần quan sát trong hiện tại, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra quả báo nhãn tiền của những việc làm ác như: trộm cướp, đua xe, hút chích, phụ tình, trù dập, hãm hại, buôn lậu, tham ô…..dẫn đến bị bắt, bị truy tố, giam cầm cho đến xử tử.

Ngoài những tội có kết quả trong hiện tại còn vô số những việc ác sẽ kết thành quả xấu trong tương lai. Con người thường sợ quả báo hiện tại mà xem thường quả báo ở vị lai. Vì thế, những người đã phạm tội nhưng chưa bị phát hiện hoặc đã “hạ cánh an toàn” thì ung dung hưởng thụ, thản nhiên như người vô tội, thậm chí đắc ý cười thầm. Sự thật thì không như vậy, lương tâm luôn cắn rứt và tội báo sẽ đến với những người ấy, không thể nào thoát khỏi.

Vì thế, người học Phật thấy rõ nhân quả nên luôn sợ hãi với quả báo, quyết không làm điều ác, tránh xa tội lỗi. Niềm tin nhân quả, sự sợ hãi quả báo trong đời này và những đời sau sẽ góp phần tác thành nên nhân cách, đạo đức cho mỗi người. Xã hội sẽ bình an, thiện lành và phát triển ổn định hơn khi mỗi người đều có nhận thức đúng đắn về nhân quả và nghiệp báo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đức Phật dạy về Nhân - Quả

Văn khấn tết Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm

ăn khấn tết Đoan Ngọ hay còn gọi là tết Giết sâu bọ vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm, theo phong tục cổ truyền về thời vụ tiết khí của người Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn khấn tết Đoan Ngọ vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm. Đây là tết truyền thống của người Việt thường được gọi theo cách dân gian là tết Giết sâu bọ, được tiến hành vào chính Ngọ (12 giờ trưa) cùng ngày.

van khan tet doan ngo

Sắm lễ cúng tết Đoan Ngọ

  • Mâm lễ cúng gia tiên ngày Tết Đoan Ngọ gồm:
  • Hương, hoa, vàng mã;
  • Nước;
  • Rượu nếp;
  • Các loại hoa quả:
  • Mận
  • Hồng xiêm
  • Dưa hấu
  • Vải
  • Chuối…

Văn khấn tết Đoan Ngọ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy Tổ tiên, Hiển khảo, Hiển tỷ, chư vị Hương linh (nếu bố, mẹ còn sống thì thay bằng Tổ khảo, Tổ Tỷ)
Tín chủ chúng con là: …………
Ngụ tại: ………………………….
Hôm nay là ngày Đoan Ngọ, chúng con sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, hoa đăng, trà quả dâng lên trước án.
Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng, Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần, cúi xin các Ngài giáng lâm trước án chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ …………………, cúi xin các vị thương xót con cháu chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.
Tín chủ con lại kính mời các vị Tiền chủ, Hậu chủ tại nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, độ cho chúng con thân cung khang thái, bản mệnh bình an. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng bình an thịnh vượng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn tết Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm

Bạn có là người hào phóng

Sao Thái dương quang minh lỗi lạc, là quảng Tài tinh, tọa cung Tài bạch thì thu nhập nhiều, kiếm tiền có đạo đức, tiền tài xuất nhập nhiều, hào phóng. Tử vi bạn có đặc điểm này?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thái dương quang minh lỗi lạc, là quảng Tài tinh, tọa cung Tài bạch thì thu nhập nhiều, kiếm tiền có đạo đức, tiền tài xuất nhập nhiều, hào phóng. Ngoài việc cần thương mại, tư pháp, quân cảnh, bác sỹ y tá, công chúng phúc lợi ngành bảo hiểm, thường đầu tư mua tài sản, về già hưởng phúc.

hao-phong

Sao Thái dương trong Âm dương Ngũ hành thuộc dương Hỏa, là cát tinh Trung thiên đẩu, chủ của cung Quan lộc, hóa khí thành quyền quý. Thái dương (mặt trời) mỗi ngày lên từ phía Đông và lặn xuống phía Tây, vì vậy hào quang của nó cũng biến đổi theo tuần tự khi ở các cung vị khác nhau trên mệnh bàn. Tại Dần, Mão là “Sơ thăng”, tại Thìn, Tỵ là “Thăng điện”, tại Ngọ là “Nhật lệ trung thiên”, tại Mùi, Thân là “Thiên viên”, tại Dậu là “Tây một”, tại Tuất, Hợi, Tý, Sửu là “thất huy”.

Sao Thái dương chủ quý không chủ phú, danh lớn hơn lợi, thanh cao quý hiển, cho dù thêm sao Lộc tồn thì cũng vất vả kiếm tiền. Sao Thái dương miếu vượng không có sát, kỵ tinh đồng cung, thường nổi tiếng, tài lợi quảng đạt, quyết đoán, giỏi việc quản lý tiền bạc, tiêu tiền tương đối tiết kiệm, có thu nhập cao, dễ được tiền tài hiển quý, hoặc vì hiển quý mà tiến tài. Sao Thái dương rơi vào thế hãm, tiến tài hao công tốn sức, tiêu tiền không biết tiết kiệm.

Sao Thái dương nhiệt tình vì lợi ích chung, tích cực tiến thủ, có khả năng hành động, miếu vượng kinh thương thì dễ tạo lập thương hiệu riêng, thường mức độ nổi tiếng cao hơn thu nhập, nên theo đuổi kinh doanh độc quyền hoặc kinh doanh có tính chất như văn hóa, sách vở, xuất bản, giáo dục, pháp luật.

Sao Thái dương thích gặp sao Thiên lương, Thái âm, Lộc tồn, Hóa lộc, Hóa quyền, phú quý lưỡng toàn, danh lợi song toàn. Sao Thái dương gặp 6 cát tinh thì thường có quý nhân phù trợ, hành sự suôn sẻ. Mặt khác sao Thái dương lại thích gặp sao Tam đài, Bát tọa, Ân quang, Thiên quý, có thể làm tăng thêm sự quang minh, thanh danh địa vị cao.

Sao Thái dương “thất huy” (mất đi ánh sáng) rất kỵ 6 sát tinh, sao Hóa kỵ, bôn ba vất vả, làm thật hưởng ít, thường vướng vào thị phi, nam giới thì càng bất lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có là người hào phóng

“Lộ” cảm xúc khi mơ thấy bụng

Nằm mơ thấy cái bụng là điềm báo bạn đang gặp trục trặc về cái bụng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
“Lộ” cảm xúc khi mơ thấy bụng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nằm mơ thấy cái bụng là điềm báo bạn đang gặp trục trặc về cái bụng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.


►  Tham khảo thêm: Giải mã nằm mơ thấy cámơ thấy ma

Lo cam xuc khi mo thay bung hinh anh
Ảnh minh họa

Cái bụng trong giấc mơ biểu thị cho bản năng tự nhiên và cảm xúc đau khổ mà bạn đang phải chịu đựng. Tuy nhiên, đây cũng có thể là cảnh báo về vấn đề sinh lý là bạn đang bị chứng táo bón hoặc đầy bụng khó tiêu.

 

Chiêm bao thấy cái bụng cũng có thể là gợi ý gián tiếp rằng trong cuộc sống hiện tại bạn đang lâm vào cảnh"ăn không ngon, ngủ không yên" hoặc gặp phải những khó khăn và bạn đang muốn tống khứ những điều phiền toái ấy.

 

Giấc mơ về cái bụng cũng thể hiện niềm hi vọng và sự dễ bị tổn thương của bạn. Có thể bạn đang có khát vọng muốn thể hiện năng lực cũng như bộc lộ cảm xúc của chính mình.

 

Cái rốn trong giấc chiêm bao tượng trưng cho sự tồn tại và cái tôi của bạn. Giấc mơ này là điềm báo bạn đang cần tìm một chỗ đứng vững chắc cho riêng mình trong cuộc sống thực tại.

 

Nam giới mơ thấy cái rốn là có tình cảm thân thiết với người mẹ.

 

Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: “Lộ” cảm xúc khi mơ thấy bụng

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd