Tam đình trên mặt bao gồm Thượng đình, Trung đình và Hạ đình. Trong đó, Thượng đình là chỉ bộ vị từ đinh đầu mép tóc xuống đến 2 lông mày, Trung đình là chỉ bộ vị từ đường lông mày xuống đến mũi; Hạ đình là chỉ bộ vị từ Nhân trung ở dưới Chuẩn đầu xuống đến cằm. Tam đình là tượng trưng cho Tam tài, trong đó Thượng đình là tượng trưng cho trời, Trung đình là tượng trưng cho người, còn Hạ đình là tượng trưng cho đất.
Lưỡng nghi tương ứng
Âm khí bắt nguồn từ trời, dương khí phát ra từ đất, 2 khí âm dương hài hòa mới sinh ra vạn vật, đây là kết quả tương ứng của Lưỡng nghi trong vũ trụ. Có thể có vạn vật là do có 2 khí âm dương. Mà lưỡng nghi giống với thiên địa, đầu là trời, hàm là đất hoặc Thiên đình (giữa trán) là trời, Địa các (cằm) là đất. Cả hai đầy đặn và hướng vào nhau như trời và đất, trên dưới tương ứng mới có thể phú quý, có phúc lộc.
Sơ lược xem tướng Tam đình trên khuôn mặt
Người có Thượng đình dài mà nổi cao, vuông mà rộng thoáng là người tôn quý. Thượng đình nhọn, khiếm khuyết hiểm trở tất sẽ gặp họa hình thương giáng xuống, lại khắc hại cha mẹ.
Người có Trung đình cao lớn mà thẳng, nguy nga mà điềm tĩnh là người có tuổi thọ rất dài. Trung đình ngắn hẹp, chẳng giảng bàn chuyện nhân nghĩa, kiến thức ít ỏi, không có trí tuệ, cũng chẳng thể giúp đỡ được anh em, vợ con, thời kỳ trung niên sẽ gặp tổn thất.
Người có Hạ đình bằng phẳng mà đầy đặn, đoan chính mà dày dặn tất sẽ phát tài phát phúc. Hạ đình dài mà hẹp, nhọn mỏng, không có ruộng vườn, gia nghiệp, sinh ra trong gia đình nghèo khổ, khi về già cuộc sống cũng rất gian khổ vất vả. Tam đình đều cân xứng đầy đặn là hình tướng rất tốt.
Luận bàn về Tam tài, Tam đình: Cân xứng hài hòa, tài vận thịnh vượng
Tam tài chỉ trán, mũi và cằm. Trán tuấn tú đầy đặn, chủ người có tài lộc, cằm vuông tròn, chủ người đó có nhiều gia sản. Giữa Tam tài phải có sự tương ứng phù trợ lẫn nhau, nếu không sẽ không cân xứng, cũng không có cách gì thịnh vượng được.
Trong tướng thuật, trán ở trên cao là trời, phải tròn bóng, có cách gọi trời là quý; mũi ở giữa mặt được gọi là nhân, phải vuông ngay ngắn, như thế có cách gọi người là thọ; cằm vuông ở dưới mặt, là địa, phải vuông mà rộng, như thế có cách gọi địa là phú.
Thông thường, từ Thượng đình có thể nhìn ra vận thế đầu đời của một người, từ Trung đình có thể nhìn thấy được vận thế thời kỳ trung niên của một người, còn Hạ đình thì có thế thấy được vận thế về già. Người có Thượng đình dài cao, cả đời chẳng phải lo âu. Người có Trung đình dài chủ người có tài trí hơn người, có thể là nhân tài bên cạnh bậc đế vương. Người có Hạ đình dài chủ người già có phúc.
Tóm lại Tam đình cân xứng là tướng quý, tương lai có thể được hiển đạt, ngược lại, có khả năng nghèo khổ không nơi nương tựa, khi còn nhỏ yểu mệnh, nghèo khổ, không có ai giúp đỡ, trời sinh nghèo hèn.
Sách xưa chép rằng: Nhìn kỹ Tam đình trên mặt, trán rất cao, tai rộng dài chủ người được quan cao hậu lộc.
Ba bộ vị Học đường, tức 2 lỗ tai, đến 2 răng cửa đều không có hình tướng, chẳng có tài năng văn chương cũng chẳng thể làm quan.
Sống mũi nổi cao, Chuẩn đầu tựa như hình túi mật là người phú quý, có thể sẽ làm quan. Người có mũi ngắn hẹp, thọ mệnh không dài, là tướng đoản mệnh. Người mà cằm vuông rộng có được nhiều ruộng đất.
Người có Thiên đình cao rộng, chủ có nhiều con cháu.
Tam đình tướng pháp: Tam đình đoan chính là quý tướng
Tướng mạo của mỗi ngươi khác nhau vì vậy trước tiên phải xem Tam đình là trán, mũi, miệng xem có đoan chính hay không. Đồng thời xem Ngũ nhạc, Tứ độc có hô ứng hay không, nếu dài ngắn không cân thì không tốt.
Thông thường mà nói, trán rộng, mũi thẳng, miệng giống chữ “tứ” (0) thì không phải lo gì đến việc ăn ở. Đầu tròn, lông mày cong thì học thức sâu rộng. Đầu lông mày vểnh lên thì tính cách cứng cỏi, kiên cường.
Người hay nhìn xuống dưới thì thường là có tâm địa độc ác, mắt người như mắt dê thì dễ phải sống cảnh cô độc.
Người mà mũi cong lệch thì phải chịu nỗi khổ cô độc. cổ ngắn mà cổ họng lại lộ hầu thì thường thần khí không đủ. Nam giới trông như nữ hoặc nữ trông như nam thì thường tính cách bủn xỉn, độc ác lại có tính phong lưu đa tình.
Mắt nhỏ có thần, trắng đen rõ ràng, nhìn xa có uy vũ, nhìn gần mày thanh tú, người này nếu làm hòa thượng hoặc đạo sỹ thì sẽ có danh tiếng tốt. Người mà mắt có lòng trắng nhiều lòng đen ít thì tính tình hung ác. Mày dài mắt nhỏ là mệnh đa tình. Mắt lồi môi vểnh lên trên, nếu là nam giới thì thường vận mệnh chẳng thể dài lâu, là nữ giới thì thường khó khăn trong sinh nở.
Phần đầu tròn trịa, đường nét phân minh thì không phải lo chuyện cơm ăn áo mặc. Nếu người nhỏ đầu to thì là người bủn xỉn keo kiệt, người to đầu nhỏ thì vận mệnh chẳng được thuận thông.
Thông thường mà nói khi ngồi thì phải đoan chính, đứng thì phải ngay thẳng. Ngồi không đoan chính, đứng không ngay thẳng là người không hiểu biết. Người cười rồi mới nói thì không phải người lương thiện, người mà không nói năng gì thì rất khó để người khác suy đoán. Lông mày nếu mọc sợi dài sợi ngắn, hình dáng như con sâu thì cho dù là người thân thuộc cũng khó mà sống cùng.
Ngày nay có rất nhiều người lựa chọn đầu tư bằng cách mở cửa hàng. Nhưng điếu đó thật chẳng đơn giản chút nào, nó còn dính dáng đến nhiều quy trình như tìm địa điểm, vốn đầu tư, loại hàng để bán, cách tiêu thụ thế nào... Mà đối với những người lần đầ
Ngày nay có rất nhiều người lựa chọn đầu tư bằng cách mở cửa hàng. Nhưng điếu đó thật chẳng đơn giản chút nào, nó còn dính dáng đến nhiều quy trình như tìm địa điểm, vốn đầu tư, loại hàng để bán, cách tiêu thụ thế nào… Mà đối với những người lần đầu tiên mở cửa hàng, sau nhiều tháng suy tính để quyết định mở vốn đầu tư mở cửa hàng thì lựa chọn địa điểm của cửa hàng là một yếu tố vô cùng then chốt. Vậy tìm cửa hàng thế nào đây?
Thông thường một cửa hàng sang trọng, có nhiều vượng khí trở thành sự lựa chọn đầu tiên của rất nhiều người. Nhưng với những ai khởi nghiệp lần đầu thì tiền thuê đắt đỏ và phí chuyển nhượng của nó khiến cho đồng vốn của họ vơi đi thấy rõ. Lúc này, vấn đề đầu tiên phải suy nghĩ chính là tính toán giá trị của cả cửa hàng. Đối với người mới thì giá thuê vị trí rất quan trọng, nhưng kinh doanh quản lý cả cửa hàng càng quan trọng hơn.
Những ông chủ giỏi không nhờ dựa vào vị trí mà bán hàng thành công, họ suy nghĩ cách quản lý kinh doanh lâu dài bảo đảm đầu tư có lãi, tìm cách nâng tầm vị trí của cửa hàng mình lên.
Vì cửa hàng nhỏ mới khai trương nên mức độ danh tiếng và lượng khách hàng phải trải qua quá trình tích lũy. Có nhiều cửa hàng trong vòng một năm sau khi khai trương đã phải đóng cửa. Nếu cửa hàng của bạn mở ngay bên cạnh một cửa hàng nối tiếng thì xin chúc mừng vì bạn có thể được hưởng nhờ nó. Nếu hàng của bạn giống như hàng bán của cửa hàng nổi tiếng bên cạnh thì cửa hàng nhỏ của bạn vừa khai trương sẽ có ngay khách hàng tiêu thụ ban đầu.
Ưu tiên lựa chọn cửa hàng bên tay phải
Theo hướng dòng người đi thì hướng để người ta đến là bên tay phải. Nguyên nhân là do quy tắc giao thông của nước ta, phần lớn những người đi dạo thường đi bên tay phải của mình. Do vậy các cửa hàng, quầy hàng lớn nhỏ đều bày bên phải cao hơn bên tay trái là như vậy.
Không nên chọn cửa hàng ở gần những cửa hàng thường xuyên giảm giá
Nếu cửa hàng của bạn kinh doanh hàng tương đối chật chẽ chỉ giữ đúng giá thì bạn tuyệt đối không được chọn ở gần với những cửa hàng thuờng xuyên giảm giá (Ví dụ như cửa hàng quần áo, trang sức cho nữ giới…). Bởi vì người ta thích số đông, không khí mua sắm cũng vậy. Nếu một cửa hàng giảm giá thì các cửa hàng khác cũng phải làm theo thì khách hàng mới mua. Trong khi đó, cửa hàng của bạn không được giảm giá thì làm sao thu hút được khách hàng.
Không nên thuê truyền tay
Khi thuê cửa hãng, cố gắng tìm người chủ đích thực mà ký hợp đồng. Bởi vì nếu qua tay nhiều người sẽ gây tôn thất về tiền nong và nhiều vấn đề khác nảy sinh mà ta không giải quyết được.
Không nên tham thuê rẻ
Nếu nhà chủ đưa ra giá thuê rẻ hơn giá thuê bình thường thi bạn hãy cẩn thận. Có thể quyền sở hữu của ngôi nhà hoặc người chủ đang có vấn đề, hoặc ngôi nhà đó trong một thời gian ngắn sẽ bị giải tỏa. Nếu sau khi chứng minh ngôi nhà đó không nảy sinh vấn đề nào thì bạn đã may mắn rồi đó.
Cẩn thận thuê phải cửa hàng có lối đi ngang qua
Cửa hàng có lối đi ngang qua là chỉ cửa hàng có cửa nối thẳng với lối thoát của cửa, hình thành đường đi thông qua cửa hàng. Cửa hàng này luôn bị khách hàng cho rằng nó là một lối đi mà không chú ý gì đến hàng hóa bày trong cửa hàng. Ngoài ra, người qua lại rất nhiều, không những ảnh hưởng đến việc chọn lựa hàng của khách mà còn làm người bán hàng mất tập trung không giới thiệu được món hàng mình cần bán. Hơn nữa còn hay bị mất đồ gây nên tổn thất ngoài ý muốn cho doanh nghiệp.
Phải có tầm nhìn xa
Không phải cứ có địa điểm tốt là kiếm được tiền. Có khi vấp phải sự thay đổi trong quy hoạch của thị chính mà từ một nơi sầm uất cũng có thể trở nên vắng vẻ, tiêu điều.
Có rất nhiểu mảnh đất đang trong giai đoạn khai thác lại nhận được không gian đầu tư cực lớn. Do vậy, nhà đầu tư phải có tầm nhìn xa, hiểu biết được tình hình phát triển trong tương lai của mảnh đất mình cần sử dụng. Tất nhiên, ngoài việc tập trung tìm hiểu quy hoạch ra còn phải chú ý đến tình hình cạnh tranh đồng nghiệp trong tương lai.
Cùng liên minh biến khó thành dễ
Hiện nay có rất nhiều nhà cao tầng, khu đô thị mới mọc lên như nấm. Người ta dành những gian hàng ở tầng một để cho thuê. Tuy nhiên những gian hàng đó có diện tích rất to nên rất khó cho thuê mà giá cà thì không rẻ.
Trước tình hình như vậy, một số doanh nghiệp liên minh với nhau mua cửa hàng to đó rồi chia nhau. Tính ra thì họ tiết kiệm được một khoản tiền khá. Tất nhiên các doanh nghiệp cần chú ý đầu tư vào cửa hàng phải có tầm nhìn xa để hiểu rõ kinh tế khu vực đó, mức thu nhập của người dân, quy hoạch khu nhà… để từ đó đưa ra biện pháp kinh doanh thích hợp như cần phải bán hàng loại nào, chất lượng và giá cả ra sao để người dân ở đó có thể chấp nhận được mà mình lại có lợi nhuận… Bời vì chọn được địa điếm tốt kinh doanh cũng phải tốt mới là điều quan trọng.
Có câu, ngày có mưa gió bất trắc, người có sớm tối họa phúc nhưng tị hung tránh cát chính là bản tính của con người.
1. Đổ vỡ
Đây là dấu hiệu xui xẻo, kém may mắn đầu tiên, có độ ứng nghiệm rất cao, nhất là rơi vỡ đồ vào sáng sớm. Ví dụ như ăn sáng không may làm vỡ bát đĩa, uống nước làm vỡ cốc thì nhất định phải cẩn thận, hôm đó làm việc từng bước, không nóng vội. Vỡ gương được coi là điềm cực kì xui, vỡ gương buổi sáng thì khuyên bạn không nên ra ngoài. Ngoài ra những đồ vật thường xuyên mang theo người như miếng ngọc, mặt đá mà bị vỡ cũng không phải việc tốt lành, biểu thị cho việc bản thân sắp gặp tai họa.
2. Gãy nứt
Ví dụ như lúc chải đầu không cẩn thận làm lược bị rơi gãy hay đũa ăn cơm bị rơi gãy cũng là dấu hiệu kém may mắn, báo rằng buồn phiền đang đến rất gần. Nếu như đang biểu diện nhạc cụ mà dây đàn đứt thì tức là trong lòng có lo toan, mọi chuyện tiến hành không thuận lợi, nhất là càng linh nghiệm với chuyện tình cảm, có khả năng tan vỡ chia ly. Xem thêm bài viết Nằm lòng những ngày kiêng cắt tóc để tránh xui xẻo
3. Quên đồ
Một trong những điềm xui theo dân gian là quên đồ vật, ví dụ như ra ngoài nửa đường mới nhớ không mang cái này cái kia, biểu hiện rằng mọi chuyện không hanh thông suôn sẻ, mang tới lo lắng hốt hoảng.
4. Cãi vã
Hai người tranh chấp, to tiếng với nhau vốn đã là chuyện không vui rồi, lại xảy ra vào buổi sáng sớm thì lại càng không hay, ảnh hưởng tới vận trình tài lộc. Ví dụ như người kinh doanh buôn bán mà sáng sớm cãi vã với khách hàng hay người nhà đều cho thấy hôm nay làm ăn cực kì kém.Hòa thuận thì phát tài, một khi sinh sự hòa khí bị phá hỏng thì Thần Tài sẽ không ghé thăm nữa. Vốn là ngày tài khố nhập kho, tài nguyên cuồn cuộn đến mà vì tức giận cự cãi nên đi mất rồi. Xem thêm bài viết Lý giải nguyên nhân vì sao có người liên tiếp gặp xui xẻo
5. Nhặt đồ rơi
Người bình thường trong lòng đều nghĩ rằng nhặt được đồ vật trên đường là chuyện tốt, bắt được của từ trên trời rơi xuống nhưng thực sự không hẳn là như vậy. Rất có thể những đồ mà mình nhặt được là đồ người khác bỏ đi, đồ xui xẻo, đồ dùng trong đám tang, đồ có năng lượng xấu. Mang về nhà tức là tự rước điềm xui tới cửa, nên cân nhắc thận trọng.
6. Mèo chạy tới
Mèo tự dưng chạy tới cửa hoặc theo về nhà là một trong những dấu hiệu xui xẻo rất rõ ràng. Người xưa vẫn truyền: chó đến thì giàu, mèo đến thì nghèo. Nếu chó chạy tới nhà thì là dấu hiệu tốt, biểu thị gia đình sẽ càng ngày càng thịnh vượng , sự nghiệp và tài vận càng ngày càng phát triển. Nếu là mèo chạy tới thì ngược lại nên không tùy tiện nhặt con mèo bị bỏ rơi trên đường về nhà nuôi nấng, mèo tới nhà thì nên khép cửa lại để nó tự động rời đi. Xem thêm bài viết Bật mí những chiêu hóa giải khi gặp vận xui
7. Nến tắt
Ngày nay ít gia đình còn dùng nến thường xuyên nhưng với một số trường hợp như khi mất điện hoặc muốn tạo không khí lãng mạn đêm tân hôn, khi hẹn hò, tỏ tình thì không thể thiếu nến. Nên lưu ý, chăm sóc cẩn thận không để nến bị tắt giữa chừng vì đây là dấu hiệu xui xẻo. Tuy nên tắt có thể châm lại nhưng sẽ ảnh hưởng tới tình cảm vợ chồng trong nhà, không hài hòa thuận lợi. Ngoài ra, trong thực tế cuộc sống còn có rất nhiều điềm báo trước mà nếu chúng ta nhanh nhạy, giỏi lĩnh hội và cảm nhận thì nhất định có thể thấu hiểu, từ đó đón cát tránh hung, giữ bình an cho bản thân. Trên đây chỉ là một số nhắc nhở, một số dấu hiệu để bạn đọc tham khảo.Do dân gian truyền lại nên tính đúng sai, độ tin tưởng đều chỉ mang tính chất tương đối. Người tin thì là có, người không tin thì là không có, có kiêng có lành vẫn là một điểm tốt, dẫu sao những việc ở trên cũng không hề khó khăn. Trong nhà xuất hiện những điềm này, XUI RỦI cận kềCách hóa giải khi làm vỡ gương để tránh gặp chuyện chẳng lànhMẹo phong thủy: Cách hóa giải vận xui hiệu quả bất ngờTâm Lan Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Hướng bếp hợp người sinh năm 1962: - Năm sinh dương lịch: 1962 - Năm sinh âm lịch: Nhâm Dần - Quẻ mệnh: Khôn Thổ - Ngũ hành: Kim Bạch Kim (Vàng pha bạc) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắ
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y);
– Hướng xấu: Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát);
Trong trường hợp này, có thể đặt bếp tọa các hướng Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát); , nhìn về các hướng tốt Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y);
Ngoài ra, bếp nên tránh đặt gần chậu rửa, tủ lạnh, tránh có cửa sổ phía sau, tránh giáp các diện tường hướng Tây.
Chậu rửa, cũng như khu phụ, được hiểu là nơi xả trôi nước, tức là xả trôi những điều không may mắn, nên đặt tại các hướng xấu như hướng Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát);
Điểm danh những con giáp lãng mạn vô đối - Tử vi - Xem Tử Vi
Điểm danh những con giáp lãng mạn vô đối, Tử vi, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Điểm danh những con giáp lãng mạn vô đối, tu vi Điểm danh những con giáp lãng mạn vô đối, tu vi Tử vi
Mão, Mùi, Dậu, Thân... là những con giáp được biết đến bởi tâm hồn lãng mạn vô đối.
Tuổi Mão
Đa số những người cầm tinh con mèo đều có tính cách ôn hòa và tài xã giao “tuyệt cú mèo”. Họ chăm chỉ làm việc nhưng cũng không quên tạo tiếng cười sảng khoái, hài hước cho mọi người xung quanh. Tinh thần lạc quan của con giáp này phần nào giúp họ vượt qua mọi khó khăn trước mắt và “mơ mộng” về một tương lai tươi sáng.
Đặc biệt trong tình yêu, người tuổi Mão tôn sùng chủ nghĩa lãng mạn. Dù là tình đầu hay tình cuối, nó luôn đậm “chất Hàn Quốc”, vô cùng sướt mướt như những bộ phim dài tập.
Tuổi Mùi
Thuộc tuýp người không ngừng tìm kiếm cảm giác mới lạ trong cuộc sống, người tuổi Mùi sẵn sàng thức cả đêm để nghĩ ra ý tưởng tỏ tình hay tặng quà cho đối tượng mà họ đang “nhắm” đến.
Với con giáp này, tình yêu như một cuốn sách, tu vi mỗi ngày là một trang với nhiều sắc thái tình cảm khác nhau, nhưng có cùng chung một điểm đó là sự lãng mạn ngoài sức tưởng tượng. Điều đó giải thích tại sao phần lớn những anh chàng tuổi Mùi đều thích dùng nến và hoa để chinh phục trái tim nửa kia của mình.
Tuổi Thân
Người tuổi Thân không bao giờ thích sự ổn định. Với họ, cuộc sống là không ngừng biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Dù họ có suy nghĩ khá hiện thực, nhưng khi hành động lại thường “lãng mạn hóa” mọi chuyện.
Nếu bạn tinh ý sẽ thấy ngay, mỗi lời nói, cử chỉ của con giáp này đều như chứa đựng “chất thơ” trong đó. Được bên cạnh “gấu” tuổi Thân, cuộc sống của bạn biến hóa đa sắc và vô cùng lãng mạn.
Tuổi Dậu
Thoạt nghe có vẻ vô lý khi người tuổi Dậu cũng được “liệt” vào danh sách này. Tuy nhiên, nếu tiếp xúc với họ lâu ngày, bạn sẽ phát hiện tâm hồn lãng mạn, thậm chí có chút mộng mơ thái quá của con giáp này.
Người tuổi Dậu sẵn sàng sẻ chia mọi cung bậc tình cảm của mình với bạn bè, người thân. Tuy nhiên, đôi khi họ rụt rè không muốn nói ra vì sợ làm phiền người khác. Hãy yêu một cô nàng tuổi Dậu đi, hơn ai hết, bạn sẽ cảm nhận được sự lãng mạn như vô giới hạn của họ.
Xăm 3D nghệ thuật đang khiến nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, phát cuồng vì vẻ đẹp sống động của nó trên cơ thể. Một số mẫu hình xăm 3D của Moreno :một nghệ sĩ xăm mình người Venezuela, rất nổi tiếng bởi những tác phẩm xăm 3d đầy nghệ thuật, trong
Xăm 3D nghệ thuật đang khiến nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, phát cuồng vì vẻ đẹp sống động của nó trên cơ thể.
Một số mẫu hình xăm 3D của Moreno :một nghệ sĩ xăm mình người Venezuela, rất nổi tiếng bởi những tác phẩm xăm 3d đầy nghệ thuật, trong đó ấn tượng nhất là những hình xăm kiểu 3D trông sống động và chân thực không khác gì tranh vẽ.
Nét độc đáo trong những “tác phẩm” của Moreno là sự tỉ mỉ trong từng chi tiết, kể cả những chi tiết nhỏ nhất. Bên cạnh đó, “biệt tài” của ông là tính toán tỉ lệ, “gia giảm” độ bóng… khiến cho các hình xăm trông “thật” đến kinh ngạc, dù tất nhiên, tất cả chỉ được tạo bằng mực!
Những hình xăm của Moreno luôn ấn tưởng bởi các chi tiết tỉ mỉ, rõ nét
Tìm hiểu về đặc tính của sao Thiên Đồng trong tử vi
Tên sao
Đẩu phận
Âm dương ngũ hành
Hóa
Chủ
Khả năng
Tứ hóa
Thiên đồng
Nam đẩu (thứ 4)
Dương thủy
Phúc
Phúc đức
Giải ách, kéo dài tuổi thọ, chế hóa
Bính: Lộc, Đinh: Quyền, Canh: Kị
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên đồng là dương thủy. Là chòm sao thứ tư trong chòm sao Nam Đẩu. Hóa khí là phúc, cung chủ là cung phúc thọ, có khả năng kéo dài tuổi thọ, giải ách, chế hóa. Nếu miếu vượng thì không sợ kiếp sát xâm hại, không sợ nằm đồng cung với các hung tinh, Thiên đồng nằm ở 12 cung đều chủ phúc thọ. (Tuổi trẻ chủ về Phúc, tuổi già chủ về Thọ, phúc nhiều thì Thọ ít, phúc ít thì Thọ nhiều.)
Sao Thiên Đồng có phúc, nên không cần phải nỗ lực cũng có thể hóa giải được hung hại của sáu sát tinh Hỏa Linh Kình Đà Không Kiếp một cách tự nhiên, hơn nữa, lực xung sát của các sát tinh lại có thể tăng cường sức sáng tạo của sao Thiên đồng, nhưng lại dẫn đến cảm giác "có phúc không biết hưởng" hay "số vất vả".
Sao Thiên đồng có khả năng tăng tuổi thọ, bảo vệ sinh mệnh, là sao hưởng phúc, chủ về cuộc đời bình yên, coi trọng hưởng thụ vật chất. Mệnh nam gặp sao này sẽ thiếu ý chí, thiếu quyết tâm, thường chỉ biết nói mà không biết làm, không có nỗ lực phấn đấu vươn lên, không có quyết tâm sáng tạo đổi mới, bởi vậy, sao này hợp với mệnh nữ không hợp với mệnh nam.
Thiên đồng hóa Lộc là tốt, chủ về hưởng thụ, có "khẩu phúc" (được ăn ngon), nhưng tính cách dễ lười biếng uể oải. Sao Thiên đồng hóa Quyền chủ về vất vả, không được hưởng phúc. Nếu đồng thời gặp sao Khoa và Quyền, thì không những không lười biếng, mà còn là người lạc quan, tích cực tiến thủ. Thiên đồng hóa Kị chủ về bận rộn vất vả, kỵ nhất lại gặp hai sao Văn xương và Văn khúc, vì hai sao này đều là sao Giờ, nên tính hung của chúng (kém hài hòa, gặp nhiều bất mãn, hoặc mất vân bằng chức năng cơ thể) sẽ ập đến rất nhanh, khiến cho những phúc đức của Thiên đồng sẽ nhanh chóng tiêu biến.
Sao Thiên Đồng gặp cát tinh sẽ tốt lành, gặp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên lương, chủ về hiển quý. Hợp với người sinh năm Nhâm Ất, miếu vượng mà trấn mệnh tại cung Tị, Hợi, không hợp với người sinh năm Canh. Đóng tại cung Thìn, Mão không tốt, đóng tại cung Dậu Tuất chủ về oán hận, không nên rơi vào cung mệnh, thân. Gặp bốn sát tinh Kình Đà, Hỏa Tinh trấn tại Tị Hợi là hình và hãm, dễ bị tàn tật cô độc.
Sao Thiên đồng chủ về hài hòa, dễ tính, có phúc, nhưng đến trung niên hoặc về già mới được hưởng phúc, tuổi nhỏ và lúc trẻ phải vất vả nỗ lực. Nếu như sao Thiên đồng chỉ chủ về sống để hưởng phúc, thì thời trẻ không thể tự lập nghiệp, vận thế dễ gặp trở ngại.
Sao Thái âm và Thiên Đồng nếu trấn tại cung mệnh, hoặc cung Điền Trạch tại Tý, là cách cục "Nguyệt sinh thương hải" (trăng mọc trên biển) chủ về sẽ có được chức quan cao quý. Nếu bốn sao Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương tập hợp lại ba cung Mệnh - Tài - Quan là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" có lợi cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, truyền thông đại chúng. Nếu Thiên Đồng và Thái âm trấn mệnh tại Ngọ, lạc hãm lại gặp sát tinh, tạo thành cách "Nguyệt Đồng ngộ sát", chủ về thân hình gầy gò hư nhược, gặp nhiều chuyện không như ý.
Các lễ hội ngày 15 tháng 12 Âm Lịch -Hội Nghinh Cá Ông tỉnh Khánh Hòa
Hội Nghinh Cá Ông
Thời gian: Tổ chức vào ngày 15 tháng 12 âm lịch.
Địa điểm: một số làng chai ven biển thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Cá Ông.
Nội dung: Buổi lễ diễn ra với hai phần:
Phần lễ:
Thông thường lễ hội nghinh Ông có lễ rước và lễ tế truyền thống.
Lễ rước kiệu của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Dọc theo đường rước, ngư dân sống trên biển và bà con bày lễ vật nghênh đón, khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Trước mũi ghe là hương án và mâm lễ vật. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng (nếu có ở địa phương đó). Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng.
Lễ tế diễn ra trang trọng sau lễ rước với nghi thức cổ truyền. Các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng.
Phần hội:
Trước thời điểm lễ hội, đã có hàng trăm chiếc tàu đánh cá của ngư dân được trang trí cờ hoa neo đậu dưới bến sông. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng.
Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời thỉnh lẫn nhau, kể cả khách từ nơi xa đến cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình đây là một lễ hội đậm đà và mang bản sắc thuần phong mỹ tục sâu sắc.
Những câu nói hay nhất về đạo đức con người. Tuyển tập những câu nói hay về đạo đức con người mà chúng tôi sưu tầm được từ các nhà thơ, nhà văn, nhà triết học nổi tiếng trên thế giới. Các bạn hãy cùng đọc, cảm nhận và suy ngẫm về những gì gửi gắm qua các câu nói hay về chuẩn mực đạo đức con người này nhé.
Những câu nói hay nhất về đạo đức con người
1. Quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ không có đạo đức.
——
2. Không bao giờ có một người thực sự vĩ đại mà lại không phải là một người thực sự đạo đức.
——-
3. Tri thức trong đầu và đạo đức trong tim, thời gian cống hiến để nghiên cứu và lao động thay vì hình thức và lạc thú, đó là cách để trở nên hữu dụng, và nhờ vậy, có được hạnh phúc.
——–
4. Đức hạnh là nền tảng của mọi thứ và chân lý là bản chất của mọi đức hạnh.
——-
5. Hạnh phúc, cho dù dưới chế độ chuyên quyền hay dân chủ, cho dù trong sự nô lệ hay tự do, không bao giờ đạt được nếu ta không có đạo đức.
6. Giáo dục là nghệ thuật biến con người thành có đạo đức.
7. Tôi phản đối mọi học thuyết tôn giáo không phù hợp với lý trí và xung đột với đạo đức.
8. Đạo đức là những hành động mà một người làm để hoàn thiện tính cách nội tâm của mình.
9. Một người chỉ thực sự có đạo đức khi anh ta phục tùng sự thôi thúc muốn giúp tất cả mọi sinh mệnh anh ta có thể giúp được và lùi lại không làm tổn thương tới bất cứ sinh linh nào.
10. Xuất thân và sự giàu sang kết hợp cùng nhau đã thắng thế đạo đức và tài năng trong mọi thời đại.
11. Sự khác biệt giữa người có đạo đức và người có danh dự là người sau hối tiếc hành động nhục nhã, ngay cả khi nó thành công và anh ta không bị bắt quả tang.
12. Hiếu thảo là nguồn gốc của đạo đức.
13. Có lẽ chẳng có hiện tượng nào chứa nhiều cảm xúc tiêu cực như sự phẫn nộ vì đạo đức, nó cho phép ghen tị được hoành hành dưới vỏ bọc của đức hạnh.
14. Con người cần ít đổ rắc rối của mình lên môi trường xung quanh, và học cách thể hiện ý chí – trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực niềm tin và đạo đức.
15. Người không có đạo đức giống như con thú hoang bị thả rông vào thế giới.
16. Chuẩn mực đạo đức tự biến đổi phù hợp với điều kiện môi trường.
17. Đừng làm việc trái đạo đức dưới cái cớ đạo đức.
18. Không có nhận thức nào về đạo đức lại không dẫn tới điều gì đó bất tiện.
19. Một người có danh dự nếu anh ta giữ mình kiên trì theo đuổi lý tưởng về đạo đức cho dù nó bất tiện, không đem lại lợi lộc hoặc thậm chí là nguy hiểm.
20. Mọi vấn đề đều liên quan tới một mặt là xúc cảm, và mặt khác là đạo đức. Trò chơi của tư duy là trước sự hiện diện của một trong hai mặt, phải tìm được mặt còn lại: được trao mặt trên, đi tìm mặt dưới.
21. Con người bình đẳng; không phải sự sinh ra mà là đức hạnh mới tạo nên sự khác biệt.
22. Nhận thức về cái đẹp mà một bài kiểm tra đạo đức.
23. Đức hạnh là cuộc chiến, và để sống trong nó, chúng ta luôn phải chiến đấu với bản thân mình.
24. Mức cao nhất có thể đạt được của văn hóa đạo đức là khi chúng ta nhận ra mình phải kiểm soát suy nghĩ của mình.
25. Khi luật pháp trở nên bạo ngược, đạo đức bị buông thả, và ngược lại.
26. Đạo đức là một sự xa xỉ riêng tư và tốn kém.
27. Tôi sẽ cho anh định nghĩa về đạo đức: Luôn tốt khi duy trì và nuôi dưỡng cuộc sống, luôn xấu khi gây thương tổn và phá hủy cuộc sống.
28. Đạo đức không gì hơn là lòng tôn kính cuộc sống.
29. Đạo đức ở tất cả mọi quốc gia là sản phẩm của pháp luật và chính quyền; chúng không phải Châu Phi, Châu Mỹ hay Châu Âu: chúng tốt hoặc xấu.
30. Thứ tốt vừa phải chẳng tốt được như người ta nghĩ. Biết kiềm chế tâm tính luôn là đức tốt; nhưng kiềm chế nguyên tắc đạo đức luôn là xấu xa.
Những bài vè chúc Tết ý nghĩa vào đầu năm Đinh Dậu 2017
Những bài vè chúc Tết thường khác ngắn gọn, mang nhiều màu sắc dân gian, thân thuộc. Dưới đây, Phong thủy số giới thiệu tới bạn một số bài vè chúc Tết hay và ý nghĩa được phổ biến trong dân gian:
Vè là một trong những thể loại văn học dân gian Việt Nam. Những bài vè chúc Tết có cách gieo vần đơn giản, đọc lên có nhịp điệu, nhạc điệu, sử dụng những ngôn từ hàng ngày của cuộc sống.
Những bài vè chúc Tết thường khác ngắn gọn, mang nhiều màu sắc dân gian, thân thuộc. Dưới đây, Phong thủy số giới thiệu tới bạn một số bài vè chúc Tết hay và ý nghĩa được phổ biến trong dân gian:
Những bài vè chúc Tết ý nghĩa vào đầu năm Đinh Dậu 2017 - Ảnh 1
Những bài vè chúc Tết ý nghĩa vào đầu năm Đinh Dậu 2017 - Ảnh 2
Những bài vè chúc Tết ý nghĩa vào đầu năm Đinh Dậu 2017 - Ảnh 3
Ngoài những bài vè chúc Tết thì những câu thơ chúc Tết, những lời chúc Tết ý nghĩa cũng là một trong những phong tục không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền Việt Nam.
: Tết 2017 Những lời chúc mừng năm mới hay Những câu thơ chúc tết hay nhất Những bài thơ chúc tết hay Những câu chúc mừng năm mới Những câu chúc tết hay Những lời chúc năm mới hay nhất cho bạn bè Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Theo truyền thuyết, El Dorado là một thành phố ở Nam Mỹ được làm hoàn toàn bằng vàng, gắn liền với những chuyến thám hiểm truy tìm kho báu bí ẩn nhất hành tinh.
Theo truyền thuyết, El Dorado là một thành phố ở Nam Mỹ được làm hoàn toàn bằng vàng. Có rất nhiều đoàn thám hiểm và cá nhân không màng hiểm nguy quyết truy tìm kho báu vô giá nhưng mất tích bí ẩn này.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?
Truyền thuyết xuất hiện vào thế kỷ 16 và 17 cùng với sự phát triển của thế giới mới và không có nguồn gốc rõ ràng. Khi những nhà thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên đặt chân lên thế giới mới, họ được người dân trong các bộ tộc khác kể về một vị vua ném thần dân của mình cùng đồ trang sức quý giá xuống hồ Guatavita để xoa dịu vị thần sống trong hồ. Đây là một truyền thuyết lâu đời và có nhiều dị bản được truyền miệng xung quanh thành phố huyền thoại được làm bằng vàng này. Dù những câu chuyện không hề logic nhưng nhiều người vẫn muốn tin rằng thành phố vàng thực sự tồn tại. Người Tây Ban Nha cố gắng tát nước từ chính chiếc hồ đó và tìm thấy một ít vàng nhưng không thể tát cạn nước hồ để lấy được số vàng lớn được cho là nằm sâu dưới đáy nước. Nhiều người mạo hiểm đi vào vùng hoang dã của Nam Mỹ để tìm kiếm thành phố này nhưng hầu hết các cuộc thám hiểm đều kết thúc trong bi kịch. Một nhà thám hiểm mất con trai của mình trong khi tìm kiếm thành phố El Dorado huyền thoại. Sau đó, do mặc cảm tội lỗi về cái chết của con trai, ông cũng tự sát. Nhưng những bài học nhãn tiền đó không làm lung lay ý chí của những người muốn sở hữu kho báu khổng lồ này. Họ tin rằng, sẽ có cơ hội sống sót để tìm được sự giàu có vượt ra ngoài những giấc mơ ngông cuồng nhất, dựa vào một thành phố mất tích từ lâu. Tuy nhiên, gần đây, những dấu vết khảo cổ mới được phát hiện, cho thấy giấc mơ El Dorado chưa chắc đã là viển vông. 3 nhà khoa học đã tiến gần tới việc chứng minh sự tồn tại của El Dorado. Tạp chí Antiquity vừa đăng bài viết của họ về việc phát hiện hơn 200 vết tích lớn của El Dorado tại khu vực lòng chảo Amazon, gần biên giới Brazil và Bolivia. Từ trên cao, trông các vết tích này như những đường kẻ địa lý được khắc vào mặt đất. Nhưng các nhà khoa học nói rằng những đường nét này là phần còn lại của các con đường, cây cầu, hào sâu, các đại lộ và quảng trường từng là nền tảng của một thành phố văn minh nằm trên một khu vực dài hơn 200km. Thành phố này có thể đã là nơi sinh sống của một cộng đồng dân cư khoảng 60.000 người và những tàn tích mới được phát hiện có niên đại từ năm 200 - 1283 sau Công nguyên. Đó là một phát hiện đáng kinh ngạc do lâu nay không ít người vẫn nghi ngờ sự tồn tại của El Dorado. Và biết đâu, đây là bước ngoặt lớn, đánh dấu sự trở lại của những hành trình đi tìm giấc mơ vàng. Theo Thế giới văn hóa tâm linh
Bố thí là một trong những biện pháp hành thiện tích đức cực kì tốt lành. Nhưng, bố thí cũng phải tùy duyên và theo sức của mình, không cần quá cố chấp.
Bố thí là một trong những biện pháp hành thiện tích đức cực kì tốt lành mà Phật dạy nên làm, khuyên nên theo. Nhưng, như bất cứ điều gì trên đời này, bố thí cũng phải tùy duyên và theo sức của mình, không cần quá cố chấp.
► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm
Nhiều người cho rằng, bố thí là rất tốt nên ra sức bố thí, cung dưỡng cho nhà chùa. Điều này không xấu, nhưng cần ghi nhớ nguyên tắc hài hòa, hợp lý. Bố thí nhất định phải dựa vào tùy duyên, theo điều kiện của mình. Phật pháp không khuyến khích chúng đệ tử bố thí vượt qua những gì bản thân có, tăng cường gánh nặng, thống khổ và áp lực cho bản thân.Học Phật quan trọng nhất là phải thật vui vẻ, thoải mái, nếu nương theo Phật mà càng lúc càng khổ cực, mượn tiền để bố thí, thì sớm đã mất đi tinht hần của Phật giáo. Học Phật phải là sự hưởng thụ cao nhất, bố thí phải là sự bố thí tùy duyên nhất.Tài sản không phải thước đo của sự bố thí, tấm lòng mới chân chính có ý nghĩa. Có 1 đồng bố thí 1 đồng, có 10 đồng bố thí 10 đồng, có nhiều bố thí nhiều, có ít bố thí ít. Bố thí không mong đền đáp. Chứ đừng nghĩ rằng cứ bố thí thật nhiều, thật nhiều Phật sẽ phù hộ cho phát tài, bố thí 1 được hồi lại 100. Sai lầm như vậy chỉ tự làm khổ mình mà thôi.
Ngoài sinh hoạt, trang trải cuộc sống, thừa bao nhiêu mới bố thí bấy nhiêu, mới đúng là bố thí tùy duyên. Vì lẽ đó Phật đối với tất cả chúng sinh đều hợp tình, hợp lý, hợp pháp, tuyệt đối sẽ không tăng thêm gánh nặng, áp lực cho bất cứ ai. Học Phật không thể mê tín, phải biết phân biệt đúng sai, phải trái, không thể cuồng nhiệt chạy theo tôn giáo mà mêm muội, tán gia bại sản. Phật giáo không chỉ hướng ta tới cái thiện, cái lành, cái thoải mái mà còn là đường hướng để chúng sinh tự chủ, tự cường, giáo dục phát triển tư duy, trí tuệ tiến bộ. Thế nên, hãy là Phật tử hiểu biết.Cung dưỡng Phật, cung dưỡng chúng tăng, bố thí nhân sinh đều là việc phát tâm thiện nguyện, có lòng ắt được chứng cho. Mỗi người chung sức, làm theo điều kiện để Phật pháp thấm nhuần, cuộc đời trở nên đẹp đẽ, nhân văn và tình người hơn.Hiểu thế nào cho đúng thứ nhất tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùaKhám phá 5 vị trí đắc đạo đặt tượng Phật Di Lặc sẽ hái tài lộcNgười sinh tháng nào dễ dàng được Bồ Tát phù hộ?Thái Vân Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Trúc Loan (##)
Eleanor của Aquitaine (1122? – 1204) là một trong những phụ nữ có ảnh hưởng lớn nhất đến tiến trình lịch sử. Sau khi cha qua đời, Eleanor chính thức kế vị và thừa hưởng tài sản của cả gia đình khi mới 15 tuổi với tước hiệu Nữ công tước xứ Aquitaine và Bá tước của Poitiers.
Đến năm 1137, bà trở thành hoàng hậu Pháp khi kết hôn với vua Louis VII. Trong thời gian cầm quyền, bà hoàng Eleanor đưa Aquitaine thành một trong những thành phố tri thức và văn hóa lớn nhất Tây Âu thời Trung cổ cũng như đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển hiệp định thương mại giữa Tây Âu, Constantinople và Thánh Địa.
Vào năm 1152, hoàng hậu Eleanor kết thúc cuộc hôn nhân với vua Louis VII. Đến năm 1154, bà trở thành hoàng hậu Anh của vua Henry II.
Hatshepsut (1508? -1458 TCN) là một trong những người phụ nữ quyền lực nhất thế giới cổ đại. Bà là vợ của Pharaoh Thutmosis II thuộc Vương triều thứ 18. Nữ Pharaoh này có thời gian trị vì lâu hơn bất cứ vị nữ Pharaoh nào trong lịch sử Ai Cập.
Nữ Pharaoh Hatshepsut đã đồng cai trị với chồng và có nhiều quyết định quan trọng thay đổi diện mạo tình hình chính trị - xã hội. Ngay cả khi chồng qua đời, nữ Pharaoh quyền lực Hatshepsut tiếp tục cai trị Ai Cập cho đến năm 1458 TCN.
Trong 22 năm cầm quyền, bà hoàng Hatshepsut còn chỉ huy những chiến dịch quân sự thành công tại Nubia, miền Cận Đông và Syria.
Maria Theresa (1717 - 1780) là nữ hoàng của Đế quốc La Mã Thần thánh, nữ hoàng của Hungary và là công chúa nước Áo. Bà trở thành người phụ nữ quyền lực sau khi thừa kế vương vị từ cha. Dưới sự cai trị của bà, nền kinh tế, văn hóa của Đế quốc Áo phát triển mạnh.
Bên cạnh việc đẩy mạnh giáo dục và chính trị tự do, Maria Theresa còn bãi bỏ việc thiêu chết phù thủy, việc tra tấn và thiết lập nền giáo dục bắt buộc. Bà cũng tổ chức lại quân đội, cải thiện sức mạnh quân sự của nước Áo lên 200%, tăng thuế để đảm bảo nguồn thu ổn định cho chính quyền.
Thêm vào đó, Maria Theresa còn là một nhà ngoại giao lỗi lạc với nhiều thành công trên mặt trận này điển hình là thiết lập được liên minh với Pháp (trước đó hai nước từng là kẻ thù của nhau) trong cuộc chiến chống lại nước Phổ và Anh. Võ Tắc Thiên (625 - 705) là nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Bà sinh ra trong một gia đình giàu có, cao quý và được học hành đầy đủ. Trải qua rất nhiều thăng trầm từ khi tiến cung, Võ Tắc Thiên từng bước trở thành người phụ nữ quyền lực nhất lịch sử Trung Quốc.
Võ Tắc Thiên được đánh giá là nhà lãnh đạo có tính cách mạnh mẽ đến khắc nghiệt, chuyên quyền độc đoán, đầy mưu mô thâm độc. Để leo lên đến ngôi vị cao nhất, bà hoàng này sẵn sàng đánh đổi nhiều thứ, trong đó có cả việc hy sinh tính mạng của chính những người con đẻ.
Võ Tắc Thiên là người có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của Phật giáo ở Trung Quốc khi đưa Phật giáo thành tôn giáo chính thức thay thế cho Đạo giáo. Bà cũng gặt hái được nhiều thành công trong các chính sách giảm thuế, tăng sản xuất nông nghiệp. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Bài viết trích từ phụ lục của tác giả Cam Vũ viết trong cuốn Tử Vi Chỉ Nam của Song An Đỗ Văn Lưu
* Tác giả Cam Vũ chính là nick name MinhMinh trên trang tuvilyso.org
Theo quan niệm: thiên địa vạn vật đồng nhất thế của triết học Trung Hoa, thì sự hình thành và biến hóa của vũ trụ đều do sự sinh hóa không ngừng của 7 yếu tố chính gọi là âm dương ngũ hành, phát xuất từ khối nguyên thủy gọi là Thái Cực, cũng là 1 lối quan niệm về sự hình thành và biến hóa của vũ trụ này cũng được cổ nhân Trung Hoa đồng hóa cho con người vì con người là 1 nhân thân tiểu thiên địa hay còn gọi là tiểu vũ trụ. Nên những sinh động biến hóa trong con người cũng được hình thành do 2 khí âm dương và 5 chất ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Thủy tổ khai sáng ra nền tư tưởng này là:
Vua Phục Hy: 4447 - 1142 trước Tây lịch Vua Văn Vương: 1144 - 1142 trước Tây Lịch.
Ðức Khổng Tử: 551-479 trước Tây Lịch.
Khổng Tử đã hoàn chỉnh và lập thành sách để dạy cho môn sinh. Bắt đầu từ thời Châu được gọi là Kinh Dịch. Nội dung nói về sự biến hóa của trời đất, ứng dụng sự hiện diện của âm dương ngũ hành và quy tắc sinh khắc biến hóa vào mọi lĩnh vực từ lý số đến chính trị quân sự xã hội, kinh tế văn hóa, y học, dạy con người xử thế nào cho hợp thời phải đạo – giúp cho con người hiểu được thời để xuất sử, tiến thoái cho đúng lúc nhất nhất đều không ra khỏi căn bản là sự sinh động của âm dương ngũ hành.
Vào đời nhà Tống lúc mà nền văn hóa Trung Hoa rất thịnh vượng, các triết gia thời ấy đều chuyên tâm vào việc nghiên cứu con người để tìm giải pháp cho cuộc sống, tìm nguyên tắc cho việc xử thế ngõ hầu mưu cầu hạnh phúc cho mọi người. Tất cả bộ môn nhân văn đều tập trung vào môn khảo cứu con người và xã hội cần thiết cho việc tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ. Tất cả đều thấm nhuần tinh thần nhân bản thật hoàn mỹ, thủy tổ của Tử Vi: Trần Ðoàn, còn gọi là Hy Di Lão Tổ, một đạo gia kiêm nho gia thời Bắc Tống đã thấm nhuần tinh hoa của nền triết học này. Môn Tử Vi ra đời như một một học nghiên cứu hoàn con người hiện tại cho con người biết được bản dự thảo cuộc đời mình, cũng vẫn đưa trên nguyên lý âm dương ngũ hành, nên cũng không đi ngoài tư tưởng của Dịch Học. Trên tinh thần biến hóa không ngừng, hẳn bản dự thảo kia cũng không ngừng cố định ở 1 điểm A là A nào đó, nó có thể là A, rồi đến Á rồi đến B hay xa hơn nữa mà cái hàm súc của Tử Vi sẽ chỉ cho ta biết phải làm thế nào vậy.
1. Can Chi của tuổi tương ứng với quái dịch
Khi biết được can chi của tuổi thì nạp âm của can chi ấy đã tạo thành 1 quẻ dịch của một trong 64 quẻ. Ý nghĩa của cuộc đời của tuổi ấy. Và phải sống thế nào để có lợi cho sự nghiệp.
a. Thập can tương ứng với bát quái
Giáp là Cấn: Là sơn: Núi.
Ất là Chấn: Là lôi: Sấm sét.
Bính là Tốn: Là Phong: gió
Ðinh là Tỵ: Là hỏa: Lửa
Mậu là Tốn: Là phong: gió
Kỷ là Ly: Là hỏa: là lửa
Canh là Khôn: Là địa: đất.
Tân là Ðoài: Là Trạch: Hồ, Ao, Ðầm
Nhâm là Càn: Là Thiên: Trời
Quí là Khảm: Là Thủy: Nước
b. Thập nhị chi tương ứng với bát quái
Tý là Khảm
Sửu là số 5 thuộc trung ương
Dần là Cấn
Mão là Chấn
Thìn là số 5 thuộc trung cung
Tỵ là Tốn
Ngọ là Ly
Mùi là số 5 trung cung
Thân là Khôn
Dậu là Ðoài
Tuất là số 5 thuộc trung cung
Hợi là Càn
Lưu ý: số 5 thuộc trung cung thì tùy nam hay nữ luân giải: nam là quái khôn, nữ là quái Cấn.
Như vậy mỗi nạp âm (tức can chi của năm sinh, của tuổi 1 người) cho ta ý thiên về 1 quẻ dịch của 1 đời người.
Thí dụ: đàn ông, tuổi Canh Dần, Canh là Khôn vi Địa, Dần là Cấn vi Sơn, Quẻ Khôn ở trên, kết hợp với quẻ Cấn ở dưới thành ra quẻ địa sơn khiêm có nghĩa là: ở đời càng nhún nhường khiêm tốn càng có lợi cho sự nghiệp.
Như trên ta thấy cách thành lập quẻ được xếp theo: lấy hàng Can làm thương quái, lấy hàng Chi làm hạ quái.
Thượng quái và hạ quái kết hợp với nhau ra 1 trong 64 quẻ.
Thí dụ: Tuổi Ất Dậu, đàn bà, Ất là Chấn vi Lôi, Dậu là Ðoài vi Trạch, quẻ Chấn ở trên quẻ Ðoài ở dưới tạo thành quẻ lôi trạch quy muội có nghĩa là: những công việc làm vì vui thú, vì cao hứng thì chẳng được lành, càng đi càng vất vả, có nhiều ngang trái trong cuộc sống.
c. Sau đây là phần ý nghĩa các quẻ dịch
1. Phong thiên tiêu súc Mây u ám mà không mưa, chưa có gì, việc làm nên đợi chín mùi hãy hành động.
2. Phong trạch trung phù Trứng sắp nở không nên do dự nữa mà hỏng việc phải có gan tới phút cuối cùng.
3. Phong hỏa gia nhan Ngọn lửa ở bếp, thời vẻ vang đã hết, cần an phận thì yên ổn hơn.
4. Phong lôi ích Biết mình trong lợi ích chung, nên nhường nhịn để cùng hưởng lợi.
5. Phong thủy hoán Buồm căng trước gió cơ hội tốt đang dần dần tới nên thận trọng mà đón nhận, vẫn có thử thách và nguy hiểm.
6. Phong sơn tiệm Dục tốc bất đạt, loài chim biển khi cất cánh bay lên phải biết giữ sức để bay xa vì sông nước quá mênh mông.
7. Phong địa quan Gío đang lớn thành bão, chớ vội vàng mà hỏng việc, nên nại chờ thời có thuận lợi.
8. Thuần tốn Tự lượng sức mình thấy chưa đủ khả năng thì nên tìm cách ẩn náu kẻo có hại.
9. Thủy thiên nhu Hãy trau dồi cho có khả năng để khi thuận lợi mà phát huy không nên vọng động sớm mà có hại.
10. Thủy trạch tiết Phải chừng mực, tiết đồ để khỏi bị suy thoái.
11. Thủy hỏa ký tế Thành công viên mãn.
12. Thủy lôi trân Mầm non trong khối băng tuyết, tuy hy vọng mà nhiều bấp bênh gian nan, cần tu bổ khả năng chu đáo hơn.
13. Thủy phong tinh Giếng nước ngọt có trước mắt người đang khát, ở đời nếu làm việc gì nên quyết định ngay kẻo lỡ mất cơ hội.
14. Thủy sơn kiển Tưởng băng giá làm tê cóng tay, phải biết khi nguy hiểm ở trước mắt thì không nên làm, hay dừng lại là thuận lý.
15. Thủy địa tỵ Khi thuận lợi vui vẻ phải cẩn thận đang có mầm khó nhọc xảy ra.
16. Thuần Khảm Khi cảm thấy nhiều khó khăn đang đến như thác lũ kéo về. Cần nhẫn nại mới đương đầu vượt thắng được.
17. Trạch thiên quải Tượng Hổ gầm dưới trăng, khi có tài mà chưa gặp thời chớ nên bất mãn, sẽ có lúc thuận lợi để khai triển sở trường.
18. Trạch hỏa cách Khi việc cần đến phải bỏ cũ để làm mới hơn, chớ nuối tiếc do dự, càng gây cấn càng vẻ vang và thành công lớn.
19. Trạch lôi tùy Khi hoàn cảnh khó thay đổi, cần ở thế nhu thuần là biết phận, không nên vọng động mơ tưởng thái quá.
20. Trạch phong đại quá Tham thì cực thân, phải cận thận khi đến đích là lúc hết sức lực.
21. Trạch thủy khôn Chịu vất vả thì sau này tốt tươi hơn.
22. Trạch sơn hàm Những hỉ sư đến, với tầm tay, nên cố giữ mà hưởng thụ lâu dài.
23. Trạch địa tụy Khi làm việc gì học hỏi cho kỹ; thành công đòi hỏi nhiều về quá trình kinh nghiệm của người khác.
24. Thuần đoài Miệng lưỡi là gốc của họa phúc, thuận lợi xen lẫn với hiểm nghèo, làm việc gì cũng phải cẩn thận.
25. Ðịa thiên thái Cuộc đời gặp được nhiều việc đắc ý sở cầu nhưng đừng nên thái quá.
26. Ðịa trạch lâm Mềm dẻo, dĩ nhu chế cương thì thành công, tuy cơ mà ứng biến.
27. Ðịa hỏa minh di Khi có nhiều tai họa vây quanh, nên tìm cách ẩn hơn là tranh đua, chỉ mua lấy bất lợi.
28. Ðịa lôi phục Khi gặp thất bại nên rút tỉa kinh nghiệm thì sẽ thành công.
29. Ðịa phong thăng Muốn thoải mái chớ tự phụ, khả năng nhiều cần giúp đỡ người khác.
30. Ðịa thủy sư Khi gặp nổi khổ tâm, đừng nản chí, sáng suốt thì thoát khỏi thất bại.
31. Ðịa sơn Khiêm Ở đời càng nhường nhịn là khôn ngoan, sẽ đạt thắng lợi nhiều.
32. Thuần Khôn Nhu hòa và phải biết lùi đúng lúc là đã thành công thì tránh được họa hại.
33. Hỏa thiên đại hữu Tương mặt trời ở chính ngọ phải thận trọng, lúc cao nhất là sắp bước sang kỳ suy thoái vất vả.
34. Hỏa trạch khuê Phải tranh đấu mới được việc, vẫn cần đề phòng tất cả chỉ là tạm thời, phải chịu đựng.
35. Hỏa lôi phệ hạp Phải quyết định dứt khoát mọi trở ngại mới mong thành công ở đời.
36. Hỏa phong đỉnh Ở đời khi mong ước điều gì, cần góp nhặt tất cả khả năng, điều kiện.
37. Hỏa thủy vi tế Khi thành công một phần, chớ tự mãn vì sự việc cần, đòi hỏi tiến tới nữa.
38. Hỏa sơn lú Cuộc đời như người lữ khách nhiều lo âu, đang trong cơn thất thế, cần an phận, bình tĩnh.
39. Hỏa địa tấn Vạn sự khởi đầu nan, cần vững tâm để có khí thế ban đầu.
40. Thuần ly Ở đời, sự việc khi khí thế đang phát triển thì đừng nên quá đà mà trở thành ảo mộng.
41. Lôi thiên đại tráng Không kìm hãm được mình, thành ra hỏng việc.
42. Lôi trạch qui muội Vì tình mà quên lý, cái thế lỡ làng, nên nhẫn nhục là hơn.
43. Lôi Hỏa Phong Lúc thành công nhất cũng là lúc báo hiệu suy tàn tới nơi, cần phòng xa.
44. Lôi Phong Hằng Cố gắng tạo căn bản, đó là nắm vững lẽ thường, nên trầm tĩnh mà làm việc.
45. Lôi thủy giải Tượng que: tuyết tan được nắng xuân. Khi thuận lợi đã đến nên nắm lấy mà hành động.
46. Lôi sơn tiểu quá Cuộc sống ở đời thiếu thuận hòa, điều bất lợi càng lúc càng nhiều.
47. Lôi địa tụ Phải biết lo xa để khỏi phiền gần, có phòng xa thì mới vui vẻ
48. Thuần lôi Sau cơn mưa trời lại sáng, cứ yên tâm với những nỗi biến động của cuộc đời.
49. Thiên trạch lý Ở đời khi đã bắt tay vào việc phải tùy cách đối phó khéo léo mà cư xử.
50. Thiên hỏa đồng nhân Sự việc ở đời cần sự giúp đỡ của những người chung quanh cho nên quyết định một mình.
51. Thiên lôi vô vọng Khi gặp lúc thất vọng cần trầm tĩnh để phân biệt cái thất bại với cái thành công. Thủ phận chờ lúc không phải là đã chịu an phận.
52. Thiên Phong cấu Cuộc đời gặp lúc họa vô đơn chí, có nhiều tai họa dồn dập, phải bình tĩnh mà nhận định, chớ cuống cuồng.
53. Thiên thủy Tụng Ở đời càng bớt va chạm càng tốt, giảm cứng rắn để đoạt thắng lợi.
54.Thiên sơn độn Khi cơn nguy đến, chạy trước là thượng sách, tìm nơi ẩn mình mà tu dưỡng, sẽ vinh quang sau này.
55.Thiên Ðịa Bỉ Ở đời khi gặp lúc cũng ví như vào ngõ cụt thì nên chịu phận nhục mà thu hồisức lực, chớ vong động rồi sẽ gặp thoải mái hơn.
56.Thuần Cấn Bay cao quá sẽ rớt đau hơn, khi thành công chớ khinh thường, nên củng cố kinh nghiệm để tạo thành công mới.
57. Sơn thiên đại súc Ở đời mọi sự việc càng chuẩn bị chu đáo, sẽ vững lòng tiến đến thành công.
58. Sơn trạch tổn Ở đời nếu biết hy sinh những cái lợi trước mắt cách tạm thời, sẽ hanh thông hơn trong tương lai kế cận.
59. Sơn hảo bi Ở đời nhưng cơ hội tốt đến với mình chỉ thoáng qua ví như sự huy hoàng của ngọn đèn sắp tàn.
60. Sơn lôi hi Trước khi làm việc gì phải mất công quan sát nhiều điều kiện thì mới được tốt đẹp.
61. Sơn Phong Cổ Ở đời mỗi lần sự việc xấu đến với mình, hay lan rộng từ trong ra ngoài nên phải đề phòng, nên tĩnh thì hơn.
62. Sơn Thủy Mông Càng gặp chua cay thất bại càng nên học hỏi, chớ nản cứ kiên nhẫn, thời cơ sẽ đợi mình.
63.Sơn địa bác Khi gặp tình thế bi quan, chớ nản lòng, trong đó vẫn còn lối dẫn đến thành công. Cứ bình tĩnh mà tìm sẽ thấy.
64. Thuận Cấn Ở đời phải biết chữ tùy khi ngại ở trước mắt.
Trên đây chỉ là tóm tắt ý chính, lời khuyên bảo cho mỗi quẻ, để cho dễ nhớ, nếu muốn đào sau cho tường tận, ngọn nguồn, nên tìm đọc thêm các sách Chu–Dịch-vì ở đây không hoàn toàn thuộc phạm vi của Dịch Lý nên chỉ xin được phép khái lược để gây cho độc giả ý niệm về Dịch. Tuy vậy những lời bảo của mỗi quẻ dịch tương ứng với mỗi tuổi, vẫn được trình bày cách đơn giản và dễ hiểu.
2. Ý Nghĩa của mệnh và Thân
Theo các sách Tử Vi của người xưa để lại, đều thấy nói, từ lúc mới sinh cho đến năm 30 tuổi thì cuộc đời ảnh hưởng do cung mệnh, do đó lấy cung Mệnh làm chính. Cuộc đời ngoài 30 tuổi trở ra tới lúc chết thì ảnh hưởng do cung Thân (Thân đây là cung an Thân chứ không phải cung Thân trong địa chi Tý Sửu Dần..). Do đó phải lấy quan niệm tam thập nhi lập – con người sống ở đời trong vòng 30 tuổi. Là cái thời gian để trui luyện dùi mài kinh sử, luyện tập khả năng để khi rời mái gia đình tức là từ 30 tuổi trở ra, mới đem cái sở trường ra để tạo sự nghiệp giúp đời, lúc ấy mới chính là lúc hành động. Thế cuộc biến đổi, quan niệm tam thập nhi lập ngày nay không còn nữa, để phù hợp với đại cuộc, cung mệnh chỉ được khả coi nặng khi đương số có trong mái gia đình và khi ra hoạt động với không không phân biệt tuổi tác thì ấy chính là lúc Thân hoạt động. Nhưng mỗi động tác con người đều là sự kết thúc của những năng lực tiềm tàng trong nội giới
Thân chính là cái ứng dụng của Mệnh - hay nói một cách rõ ràng dể hiểu hơn:
Mệnh là tư tưởng của con người
Mà Thân là cái ta hành động vậy
Trên địa bàn một lá số, chỉ thoáng nhìn cung mệnh, rồi đến cung an thân, ta có thể hiểu được con người của lá số ấy có tư tưởng gì và hành động ra sao? Mà mọi kết thúc của hành động chính là những tác nhân (nguyên nhân tác động) gây nên những điều hoặc có lợi, hoặc có hại cho bản ngã.
Vậy phải hành động thế nào cho có lợi cho bản ngã, khi nào chiều theo tư tưởng vẫn tự nó phát sinh, khi nào nên dứt bỏ, phải xét lại; ấy chính là cái “biệt” của người trí giả vậy.
Muốn biết về ý nghĩa của mệnh, thân, thế nào chỉ căn cứ vào vòng Thái Tuế và các sao ở cung mệnh hay Thân và ý nghĩa các sao liên hệ để luận.
Thí dụ: 1 lá số dương nam Canh Dần tháng 9 ngày 3 giờ Thân. Như vậy mệnh Lập tại Dần có Tham Lang gặp Thái Tuế. Thân đóng ở Ngọ có Quan Phù gặp Thất sát ngộ Tuần Triệt - có nghĩa là con người trong tư tưởng lúc nào cũng mang niềm tự hào, thích ra tay nghĩa hiệp nhưng hành động thì lại hay nóng nảy (quan.???? Thất sát) mà hỏng việc (Tuần Triệt cản) mà như vậy thì lại sinh ra bất mãn ở con người. Thái Tuế càng thất bại, càng gặp việc khó càng kiêu kỳ, chính vì cái tư tưởng (mệnh) Tham Lang nên khi làm việc chỉ hăng hái buổi đầu rồi tư tưởng sẽ thay đổi để dễ bỏ dở công việc để làm việc mới khác. Vậy muốn sống cho được thành công, người này phải biết mềm mỏng, kiên nhẫn và cương quyết trước sự việc, khi gặp trở ngại đừng nản chí, cứ tiếp tục làm sẽ thành công.
3. Thiên Tài, Thiên Thọ hay Nhân Quả
Sao THIÊN TÀI được khởi từ cung mệnh là cung tý tính theo chiều thuận đến năm sinh.
Sao THIÊN THỌ được khởi từ cung an thân là cung tý cung tính theo chiều thuận đến năm sinh.
Như, trên đã trình bày cái lý hàm súc của mệnh, Thân Thiên tài đi theo mênh, Thiên Thọ lại tùy với Thân như ngầm bảo cho thấy phải gieo cái Nhân ở đâu thì sẽ gặt hái kết quả cho đời, vậy nêu tính ra sẽ thấy người sinh năm:
Tý sao Thiên tài ở Mệnh
Sửu sao Thiên tài ở Phụ Mẫu
Dần sao Thiên tài ở Ðiền
Thìn sao Thiên tài ở Quan
Tỵ sao Thiên tài ở Nô
Ngọ sao Thiên tài ở Di
Mùi sao Thiên tài ở Ách
Thân sao Thiên tài ở Tài
Dậu sao Thiên tài ở Tử
Tuất sao Thiên tài ở Phối
Hợi sao Thiên tài ở Bào
Dần sao Thiên tài ở Phúc
Sao Thiên Thọ nằm ở đâu thì những kết quả gặt hái được sẽ do từ cung ấy.
Thí dụ: Tuổi Canh Dần ngày 3 tháng 9 giờ Thân. Thân cư quan Lộc, Thiên tài Phúc Ðức, Thiên thọ cư tài bạch, ở người này nếu muốn được sự thoải mái may mắn về tiền bạc, phải đối xử với họ hàng bà con thật rộng lượng, cho phải đạo, gạt bỏ mọi tị hiềm.
Người tuổi Tý THIÊN TÀI ở Phụ Mẫu nghĩa là phải đối xử với cha mẹ cho ra người hiếu tử.
Người tuổi Dần THIÊN TÀI ở Phúc: phải đối xử với họ hàng cho phải đạo.
Người tuổi MÃO, THIÊN TÀI ở Ðiền: lo nhà cửa, nơi che mưa trú nắng là quan trọng.
Người tuổi THÌN, THIÊN TÀI cư Quan: phải chăm lo bồi đắp cho công danh của mình.
Người tuổi TỴ, THIÊN TÀI cư Nô: phải đối xử rộng rãi và cho có nhân tình với bạn bè, với người giúp việc.
Người tuổi Ngọ, THIÊN TÀI ở Di: phải có những hoạt động xã hội giúp đỡ tha nhân.
Người tuổi Mùi, THIÊN TÀI ở Ách:phải chăm lo đến sức khỏe của mình.
Người tuổi Thân, THIÊN TÀI ở Tài: phải biết chi tiêu rộng rãi nhưng lo xa.
Người tuổi Dậu, THIÊN TÀI ở Tử Tức: nếu chăm lo cho con cháu sẽ được hưởng phúc.
Người tuổi Tuất, THIÊN TÀI ở cung Phối ngẫu: nên cư xử cho đúng đạo vợ chồng.
Người tuổi Hợi, THIÊN TÀI ở Bào: nếu biết lo toan bao bọc xây dựng cho anh em, sẽ được đền bù xứng đáng.
Tử Vi là 1 khoa học nhân văn nghiên cứu về con người hiện thực, cho nên Tài, Thọ ở đây là cái Nhân quả nhãn tiền có ngay từ cuộc sống này. Những thoải mái, may mắn mà ta đạt được (Thiên Thọ), sẽ xảy ra ngay sau cái nhân là Thiên Tài mình gieo được.
4. Ðạo lý ẩn tàng trong chính tinh của Tử Vi
Người nghiên cứu Tử Vi, nếu đặt bút làm con tính thì ai cũng có thể thấy cứ 1 hội (60) thì có được 512.640 lá số tử vi khác nhau, nhưng trong khi ấy thì nhân loại có khoảng 6 tỉ người như thế, tính trung bình thì cứ 12,000 người có cùng 1 lá số giống nhau; thế nhưng trên thực tế số người số người có cùng một lá số lại vẫn có những sứ mệnh khác nhau. Ðiều này đã gây thắc mắc không ít cho học giả. Thật ra khi truyền bá môn lý học này. Cổ nhân có ý muốn hệ thống hóa các đặc loại con người, rồi theo đó mà có lời bảo cho từng loại phải sống sao cho chan hòa cùng nhau (xã hội hoàng kim thịnh vượng là vậy) chứ không hẳn chỉ nhằm vào việc đoán vận mệnh phú quý, thọ yểu mà thôi. Mỗi lá số đều có những cấu trúc tinh đẩu khác nhau chỉ thoáng qua thế chính tinh đã thấy rõ 3 cách phân bố.
a. Nhân cách: là thể nhị hợp của Liêm trinh với Thiên Lương, của Thiên Cơ với Phá Quân, của Vũ Khúc với Thái âm, của Thiên Phủ với Thái Dương và của Tham Lang với Thiên Ðồng. b. Ðịa cách: là tính xung đối của Thiên tướng với Phá Quân, của Thất Sát với Thiên Phủ. c. Thiên cách: là tính hình hại của chính tinh, xin nhắc lại tính hình hại của 12 cung địa chi, còn gọi là Lục Hại.
Tỵ hình Dần
Thìn hình Mão
Ngọ hình Sửu
Mùi hình Tý
Thân hình Hợi
Dậu hình Tuất
Ở thế này luôn luôn thấy tính cách hình Hợi của Tử Vi với Cự Môn, của Thiên tướng với Thiên Cơ, của Thái Dương với Thất Sát.
Sự hình thành chặt chẽ các thế đứng của 14 chính tinh trải đều trên địa bàn 12 cung dù trong bất cứ ở cung nào cũng không ra ngoài 3 thể cách đã nêu trên, đây cũng là 1 trong những huyền ảo của Tử Vi. Chính là ẩn tàng cái đạo lý làm người khi ta nghiệm lý về Tử Vi.
Mỗi cách số của Tử Vi đều có cái thuận lợi riêng và cũng có cái bất lợi riêng của nó, người thâm cứu về Tử Vi không phải là chỉ biết khi nào đáo vận Thái tuế, lúc nào đáo hạn Thiên Không, cái biết này chỉ là cái dụng sơ đẳng, tầm thường. Quan trọng hơn là ta phải biết cái “thể” rõ nét mà xử lý với đời như thế nào cho phải đạo.
SUY NGẪM VỀ NHÂN CÁCH: Chính tinh ở thế nhị hạp. Ta thấy bàng bạc lời khuyên bảo chí tình: sống thanh bạch nhưng giữ cho phẩm chất thanh cao (thế Liêm trinh hỏa sinh Thiên lương mộc). Muốn đổi cũ thay mới phải biết cân nhắc tính toán cho cẩn thận khôn ngoan, không thể phủ định tất cả (Phá quân thủy sinh Thiên cơ mộc), sống có tình cảm chan hòa nhân ái chứ không nên vì đồng tiền mà thành cô đơn ti tiện (Vũ khúc Kim sinh Thái âm thủy - khi phú quý song toàn, có nghĩa là khi được địa vị cho sang cả phải có lòng nhân hậu trong sáng (Thái dương hỏa sinh Thiên phủ thổ). Phải thành khẩn tu tâm, hối cải các lỗi lầm để diệt bớt dục vọng, đừng tham lam mà chỉ tính chuyện canh cải sửa đổi hời hợt (Thiên đồng thủy sinh Tham lang mộc).
SUY NGẪM VỀ ÐỊA CÁCH: Chính tinh thế xung đối thấy rõ ràng thuật xử thế lấy độc trị độc, cao nhân tất hữu cao nhân trị (Phá quân xung với Thiên tướng ). Lấy đạo cương nhu mà dung nạp nhau, đạo đức kiềm chế hung bạo (Thiên phủ xung với Thất sát).
SUY NGẪM VỀ THIÊN CÁCH: Tính hình hài của tinh đẩu cho thấy lời chỉ dạy về kinh nghiệm sống ở đời phải biết. Khi đạt địa vị cao sang phải biết nghe lời phê phán sự bình phẩm của xã hội là cách tu sửa bản thân chính đáng, hoàn mỹ đó là Cự Môn với Tử Vi.
Trí và Dũng không cân xứng là đau khổ, thiếu cái này sẽ mất cái kia đó là Tướng quân với Thiên cơ.
Quân tử khó chung đụng với tiểu nhân, sự trong sáng, nghiêm túc không dung chứa tà mị vũ phu đó là thế hình nhau của Nhật với Phá quân. Ðời người theo tính lý của Tử Vi chỉ là 1 bản dự thảo của một con người.
Không một thế lực nào có thể độ mạng cho ta được, đời ta do tay ta gầy dựng tùy ý ta chọn lựa để tiếp nhận lấy những sự xảy đến với ta.
Không nên chê trách MẪU THIÊN KHÔNG. Những cũng chớ vội tôn sùng người THÁI TUẾ, vấn đề khẩn yếu là dựa vào cấu trúc của các tinh đẩu ở lá số của mình mà xử thế với đời sao cho nên người tốt lành trong xã hội.
Toàn bộ nội dung bài viết về phần quẻ dịch năm sinh và nguyên lý Tài Thọ đã được lập trình vào trong Hệ Thống Giải Đoán Lá Số Tử vi Xem Tướng. Bạn đọc có thể truy cập vào: ## để lấy lá số
(lưu ý nhập ngày tháng năm và giờ sinh là âm lịch) sau đó vào phần "LỜI KHUYÊN ỨNG XỬ" để đọc nội dung hướng dẫn lời khuyên ứng xử theo nội dung bài viết.
Nếu có dịp ghé thăm đất nước Lào bình yên và xinh đẹp thì bạn chớ nên bỏ qua địa danh vườn tượng Phật Wat Xiengkuane – đây là một địa điểm du lịch nổi tiếng
Công viên tượng Phật Xieng Khuan tọa lạc bên bờ sông Mekong, phía trên cửa khẩu Nongkhai, cách trung tâm Viêng Chăn khoảng 25 km.
Công viên được xây dựng vào năm 1958 với hơn hơn 200 bức tượng Phật và các vị thần Hindu.
Đây là điểm đến lý thú với cảnh vật thanh bình, bên phải là vườn, rừng, suối róc rách, bên trái là Mekong mênh mang.
Bước chân vào Vườn tượng Phật, du khách dễ cảm thấy choáng ngợp bởi có lẽ chưa ở đâu người ta lại thấy một tập hợp nhiều tượng đến thế.
Ở trung tâm của vườn có một bức tượng Phật nằm khổng lồ. Bức tượng dài khoảng 40 mét với gương mặt thanh thoát, bao dung, vầng trán rộng, mắt khép nhẹ, môi mỉm cười, dáng vẻ thảnh thơi như tư thế Phật tổ nhập Niết Bàn hơn 25 thế kỉ trước.
Ở đây còn có một công trình lớn được gọi là động Âm phủ mang hình dáng trái bí ngô khổng lồ. Cửa động là miệng của con ác quỷ cao hơn 2 mét.
Ngoài tượng Phật, tượng thần, nơi đây còn có một số tượng linh vật, ác quỷ, con người (nhạc công, vũ nữ) được đúc bằng xi măng.
Bổ sung cho hình ảnh Đức Phật từ bi lúc nhập điện là hình ảnh thần Vishnu với chủ đề khuấy biển sữa cứu khổ nhân loại. Đó là hình ảnh thần Vishnu toạ trên mình con rắn vũ trụ nhiều đầu.
Sự pha trộn của Hindu giáo, Phật giáo hòa quyện với những thần nhân trong sử thi Ramayana như Shiva, Visnu, Rama, Sita… tạo nên không gian vừa linh thiêng mà cũng rất sinh động.
Cảnh vật ở khu vườn Phật rất thanh bình, giữa không gian thanh bình ấy là những khuôn mặt tượng mộc mạc rong rêu với vẻ kỳ bí, huyền diệu thần thái của những bức tượng làm cho nơi đây trở nên thu hút hơn.
Đến với công viên tượng Phật Xieng Khuan, du khách có thể cảm nhận được nét bình dị, ấm cúng và gần gũi của một vùng đất Phật, đồng thời gửi gắm nguyện ước và niềm tin của mình ở chốn linh thiêng này.
=> Đọc thêm: Thế giới tâm linh huyền bí bốn phương
Lichngaytot.com Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Cát Phượng (##)
Mơ thấy hoa sen: Tượng trưng cuộc sống giới tính của con người –
Hoa sen vẻ ngoài thanh tao cao nhã, thân lại vùi sâu trong bùn lầy nước đọng, tượng trưng cho đời sống của con người. Nam giới đã kết hôn mơ thấy hoa sen, với hàm ý có năng lực mạnh mẽ, vợ chồng thuận hòa. Nam giới chưa kết hôn mơ thấy hoa sen, dự bá
Nhân tướng học từ lâu đã nhận định rằng, trên khuôn mặt thì lông mày tượng trưng cho vua, mắt tượng trưng cho thần tử. Xem tướng lông mày đàn ông có hình rồng thì chắc chắn là giàu có, lông mày đàn ông mà thanh tú, cách xa nhau là biểu hiện của người thông minh.
1. Lông mày rồng giàu sang phú quý
Đặc điểm của lông mày hình rồng (còn gọi là Long Mi) như sau:
Sợi lông mày dài
Độ rậm thưa thớt
Đầu lông mày mỏng
Đuôi lông mày phải cao hơn đầu lông mày
Lông mày đàn ông có hình rồng như vậy thì thuộc tướng người giàu có, hoặc tương lai sẽ trở nên phú quý. Có cha mẹ được sống lâu, anh chị em trong nhà đều đầy đủ, đuề huề.
2. Khoảng cách hai đầu lông mày rộng cởi mở thông minh
Đặc điểm:
Lấy khoảng cách giữa hai đầu lông mày
Khoảng cách này phải hơn 1 đốt tay trỏ thì coi là rộng, tầm 1 đốt rưỡi thì là đẹp nhất
Xem tướng lông mày đàn ông mà có hai đầu rộng thì tính tình cởi mở, đầu óc thông mình, tài năng xuất chúng. Họ rất tự tin vào bản thân và khả năng của mình. Dù đang nghèo khó họ cũng không tự ti, luôn phấn đấu để đạt được đỉnh cao danh vọng. Cũng bởi họ thông minh nên không bao giờ cam chịu số phận.
Tuy nhiên nếu khoảng cách lông mày này quá xa, khoảng trên 2 đốt ngón tay thì tính cách có phần khác. Người đàn ông này thường hay do dự, thiếu quyết đoán, suy tính không cẩn thẩn. Nên cho dù có thông minh nhưng thành công đến với họ khá chắc trở.
3. Tướng lông mày đàn ông rậm thì tài năng hoạt bát và có trí tuệ
Người đàn ông mà lông mày rậm rạp thì luôn chủ động trong cuộc sống, có trí tuệ mạnh mẽ. Lông mày rậm nam giới thể hiện rằng những người này luôn vượt qua những giới hạn của bản thân và không ngừng thử thách mình. Khả năng giải quyết vấn đề một cách rõ ràng, thấu đáo. Thường họ cũng rất thẳng thắn và chân thành với mọi người
4. Lông mày đàn ông có hình mũi kiếm, chức cao vọng trọng có nghĩa khí
Đặc điểm lông mày hình kiếm (còn gọi là Kiếm Mi) như sau:
Lông mày tạo hình tam giác, đầu lông mày và đuôi lông mày có dáng nhọn, đỉnh của tam giác nhô cao, gần với phần đuôi lông mày
Có hình giống lưới kiếm hoặc thanh đao
Khác với lông mày tam giác ở chỗ góc cạnh nhọn hoắt, dáng sắc nhọn và gọn gàng, thưa thớt hơn.
Những người đàn ông này nếu không làm quan chức thì cũng làm chủ doanh nghiệp, nhà hàng. Nếu không có quyền cao chức trọng thì sẽ là người nổi tiếng hoặc cũng thuộc loại giàu sang khá giả. Đặc điểm chung nhất của họ là rất có nghĩa khí, nam nhi anh hùng. Có trí thông minh và lòng tự trọng cũng khá cao. Thường là người học vấn sâu rộng, tính tình cứng cỏi, chính trực, thẳng thắn, trọng nghĩa khí, sẵn sàng giúp đỡ hay bênh vực kẻ yếu thế. Họ cũng thích mạo hiểm, phiêu lưu, thích tìm hiểu những điều mới mẻ để tích lũy thêm công việc. Do đó, họ thường có những biểu hiện xuất sắc trong công việc của họ.
5. Lông mày nhỏ và thanh ôn hòa tốt bụng và hướng nội
Đặc điểm:
Độ rậm lông mày vừa phải, hơi thưa nhưng mượt mà, đẹp, có hàng lối, không bị lộn xộn
Lông mày hơi ngang, vẫn có độ dốc xuống
Độ dài kéo đến phần đuôi bằng hoặc hơn mắt một tẹo
Đàn ông có lông mày này gọi là Kinh Thanh Mi, khá thanh tú, thông minh, sống có đạo đức, biết phải biết trái. Tính tình thì hoạt bát mà lại có nghĩa khí, luôn quan tâm giúp đỡ tới người bị thua thiệt hơn. Lông mày thanh tú thể hiện đây là người đàn ông ôn hòa, và có phần hướng nội nhiều hơn, cho dù bề ngoài họ có vẻ năng nổ.
6. Lông mày cọp có tướng làm quân nhân, cảnh sát, lực lượng phòng vệ
Đặc điểm lông mày hình cọp (con gọi là Hổ Mi) như sau:
Toàn bộ lông mày (bản lông mày) to
Chiều dài bằng hoặc hơn mắt một chút
Sợi lông mày có phần thô
Phía đuôi lông mày mọc dài và vểnh lên trên
Phần đầu lông mày hơi thưa
Lông mày cọp hay còn gọi là lông mày hổ là tướng lông mày quý. Đàn ông có tướng lông mày trên sẽ thuận lợi ở đường binh nghiệp, làm tướng tá oai phong lẫm liệt. Tính tình cương trực, có ý chí, mạnh mẽ và quyết đoán. Tuy nhiên sẽ không giàu sang, nhưng có thể khá giá, nhà cao cửa rộng.
7. Tướng lông mày đàn ông giống sư tử công danh thành đạt phú quý
Đặc điểm lông mày sư tử (còn gọi là Sư Tử Mi) như sau
Màu sắc lông mày thì đậm rõ nét
Sợi lông mày có phần thô
Bề ngang khá lớn (1/3 đầu lông mày to và võng xuống)
Đuôi lông mày cong
Xem tướng lông mày đàn ông sư tử thì sẽ có công danh to lớn, càng nhiều tuổi thì sự nghiệp càng vẻ vang, giàu sang theo đó cũng đi lên. Về bản chất, đây là mẫu đàn ông thông minh, hoạt bạt, có vẻ uy nghiêm, con mắt sắc sảo. Người khác nhìn vào cũng bảy, tám phần nể trọng. Lông mày sư tử nam giới có tính tình cương trực, quyết đoán. Đã hạ quyết tâm thì làm đến cùng, đạt được kết quả chứ không bao giờ bỏ cuộc giữa chừng. Hay theo nghiệp binh đao hoặc thể thao, nhưng cũng có thể làm quan chức chính phủ. Đây quả là tướng đàn ông thành đạt mà biết bao người phụ nữ mơ ước.
Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm - Bói tình yêu - Xem Tử Vi
Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm, tu vi Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm, tu vi Bói tình yêu
Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm. Chọn 1 trong 3 lá bài dưới đây bạn sẽ biết tình yêu của bạn hiện tại, bạn cần quan tâm tới người ấy hay cắt bớt đào hoa của bản thân mình? Cùng xem tình yêu của bạn nhé.
Quy tắc bói bài:
1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.
2. Tự hỏi thầm bản thân: “Mình cần làm gì để chuyện tình cảm được yên bình?”.
3. Chọn một lá bài theo trực giác và xem đáp án.
Lựa chọn 1: Wands
Lựa chọn 2: The World
Lựa chọn 3: Justice
Xem kết quả
Lựa chọn 1: Wands – Quan tâm tới cảm xúc của “gấu”
Bốc được lá bài này cho thấy dường như bạn đang quan tâm thái quá tới đối phương. Bạn yêu chân thành, nhiệt tình và không toan tính. Từ trong thâm tâm, bạn muốn dành điều tốt đẹp nhất cho người ấy, thậm chí không ngần ngại lo toan từ điều nhỏ nhặt như chuyện ăn uống, vệ sinh cá nhân… Tuy nhiên, thực tế cho thấy nửa kia đang cảm thấy ngộp thở.
Khoảng cách cần thiết giữa hai người để tạo ra thế giới riêng đang bị bạn phá vỡ. Bạn thì nghĩ rằng mình yêu và mình có quyền làm điều đó. Thói quen đó vô tình khiến người ấy khó chịu và hờ hững trước những cử chỉ, lời nói quan tâm của bạn. Bạn sẽ hiểu lầm tình cảm đã thay đổi. Tuy nhiên, hãy nhìn lại cách hành xử của bản thân, trước khi phán xét “gấu”, bạn nhé!
Lựa chọn 2: The World – Bỏ thói quen hay cằn nhằn
Hai người thường là hai thế giới đối lập, nên sẽ có sức hút kỳ lạ với nhau. Bạn thường nói rất nhiều, hay để ý chuyện vụn vặt, mặt khác nửa kia lại lạnh lùng, kiệm lời và phóng khoáng. Bạn thích tỏ ra mình là người chủ động và có tầm ảnh hưởng nhiều hơn, nên hay phán quyết và đưa ra lời nhận xét thẳng thắn.
Do vậy, “gấu” e ngại tính cách cằn nhằn của bạn sẽ vượt quá sức chịu đựng. Sự cao thượng cũng không thể là đòn bẩy để giải gỡ được nút thắt trong mối quan hệ giữa hai người. Hoặc nếu bạn để tâm, hãy thể hiện sự ân cần, nhẹ nhàng, thay vì vẻ khó chịu thường xuyên.
Lựa chọn 3: Justice – Trừ giải vận đào hoa
Nếu lưu tâm, bạn sẽ thấy mối quan hệ của mình với người ấy bắt đầu xuất hiện những vết rạn nứt chỉ vì tính ghen tuông. Nguồn gốc sâu xa của vấn đề xuất phát từ vận đào hoa, thói hay “nhìn ngang, liếc dọc” của bạn. Bạn thuộc nhóm người thích được là trung tâm, mọi người phải chú ý và coi bạn là thành phần quan trọng. Vậy nên, trước bất kỳ ai tấn công, bạn đều “vô tình” bật đèn xanh để họ nuôi hy vọng.
Nửa kia lại là người nhạy cảm, nên cảm nhận rõ sự đào hoa và tính cách ấy của bạn. Nếu muốn chuyện tình cảm êm ấm, gắn kết bền chặt, bạn cần xác định nghiêm túc về tình yêu mình dành cho đối phương, có đủ vững chắc để duy trì lâu dài. Ngược lại, hãy giải thoát cho con tim mình được tự do bay nhảy.
Người Mông là một trong những tộc người thiểu số có đời sống tâm linh phong phú nhưng có những phong tục hết sức lạc hậu, mê tín dị đoan như tục “ma chài”.
Người Mông là một trong những tộc người thiểu số có đời sống tâm linh phong phú còn được lưu truyền đến ngày nay. Tuy nhiên, có những phong tục hết sức lạc hậu, mê tín dị đoan, gây ảnh hưởng tới đời sống như tục “ma chài”.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật
Người Mông ở Tây Bắc ngày nay vẫn duy trì tục cúng ma mỗi khi có người nhà đau ốm. Họ không chịu mời bác sĩ, không đi khám bệnh lấy thuốc mà mời thầy mo về cúng vì cho rằng đó không phải bệnh mà do bị ma nhập, ma hành, “ma chài”. Theo quan niệm của người Mông, người bị “ma chài” thường là trẻ con; nam, nữ thanh niên độ tuổi dậy thì, thậm chí cả những người phụ nữ đã có chồng vẫn có thể bị “ma chài”. Người bị “ma chài” thường có biểu hiện ốm quặt quẹo, khó chữa và thường bị chết sau thời gian ốm, đau lâu ngày, hoặc lơ ngơ như người bị mất hồn, sống vất vưởng, khác người, làm theo ý người khác như có ma xui, quỷ khiến. Nguyên nhân dẫn đến “ma chài” là bị người khác chài, yểm ma vào người để giải quyết tư thù cá nhân hoặc chài để người khác phải lệ thuộc, làm theo ý người biết chài. Cộng đồng người Mông thường có tâm lý nể, sợ người biết làm “ma chài”. Dựa vào tâm lý này, những năm qua, nhiều người Mông tự cho mình là “ma chài” để nhận sự nể, sợ của cộng đồng. Và để muốn biết người nào là “ma chài”, người Mông thử bằng cách để quả trứng gà lên ngưỡng cửa, trên cái chai hoặc để trên sống dao sau đó gọi tên người cần thử, tên người nào khi được gọi lên mà quả trứng rơi thì người đó không phải là “ma chài”, người nào khi gọi tên, quả trứng vẫn đứng im thì đó chính là “ma chài”. Cũng theo phong tục của người Mông, người nào bị “ma chài” thì phải cúng đuổi ma ra khỏi người, không cúng là ma không đi và không khỏi bệnh. Đây là một trong những phong tục thể hiện đời sống tâm linh của tộc người. Tuy nhiên, hậu quả mà nó mang lại thì hiện hữu và thực tế hơn nhiều. Hậu quả nhãn tiền là có hàng trăm người mất mạng bởi có bệnh mà không chạy chữa, chỉ cúng bái. Tới khi bệnh đã quá nặng, tới bệnh viện thì có biến chứng và không thể qua khỏi. Đến khi chết người ta vẫn cho rằng đó là do ma chài quá nặng, người chài quá cao tay chứ không hề nghĩ sự thiếu hiểu biết của mình dẫn tới mất mạng một cách đáng tiếc. Mỗi lần mời thầy cúng và làm lễ đuổi ma tiêu tốn nhiều tiền của, gây tốn kém cho gia chủ. Đời sống của đồng bào người Mông trên núi cao gặp nhiều khó khăn nhưng mỗi lần biện lễ đuổi ma chài đều phải có đầy đủ xôi, lợn, gà, thậm chí cả trâu, bò, là những món tài sản rất lớn. Có nhiều trường hợp vay nợ, tán gia bại sản vì cúng đuổi ma mà vẫn không cứu được người thân. Hệ quả đau lòng hơn nữa từ hủ tục này là những vụ thảm án giữa những người đồng bản, đồng xóm với nhau vì nghi ngờ dùng ma chài làm hại gia đình mình. Đã có rất nhiều vụ giết người, nhiều cái chất đau lòng, nhiều người vướng vòng lao lý vì thứ tâm linh vô hình này.ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Quỳnh Mai (##)
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Trả nợ có hai cách:
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Khám phá tình yêu qua độ dày của đôi môi - Xem bói - Xem Tử Vi
Khám phá tình yêu qua độ dày của đôi môi, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Khám phá tình yêu qua độ dày của đôi môi, tu vi Khám phá tình yêu qua độ dày của đôi môi, tu vi Xem bói
Điều này cho biết bạn tràn đầy hy vọng và cảm xúc trong chuyện tình yêu của mình. Bạn rất quan trọng con đường tình yêu, hôn nhân của mình như thế nào và có xu hướng thích sự lãng mạn. Bạn bước vào cuộc sống hôn nhân một cách điềm đạm, bình tĩnh, luôn giữ sự cân bằng cho gia đình và quan tâm chu đáo đến người bạn đời của mình.
2. Môi trên và dưới đều mỏng
Bạn thích những điều đẹp đẽ và nói ra những lời ngọt ngào. Dù là nam hay nữ, bạn cũng sẽ rất tháo vát với mọi tình huống như bản năng của mình. Đôi khi, bạn lo lắng tình yêu sẽ làm tổn thương trái tim mình, vì thế bạn luôn nghĩ đến việc phải bảo vệ bản thân.
Bạn không phải chỉ biết nói “lời hay ý đẹp” mà bạn còn có một đức tính rất tốt, đó là sự nhẫn nại chịu khó. Điều này sẽ giúp vun đắp cho cuộc sống hôn nhân của bạn sau này.
3. Môi trên dày, môi dưới mỏng
Làn môi này thể hiện bạn có suy nghĩ khá tiêu cực về tình yêu, đối với chuyện này bạn cảm thấy mệt mỏi. Bạn hay thử thách tình cảm của mình và chỉ tin vào bản thân mà thôi. Đồng thời, bạn ít khi hài lòng với hiện tại và thường tỏ thái độ “khinh miệt, đùa giỡn” với mối quan hệ cần sự nghiêm túc, trong khi đó trái tim bạn cũng chẳng hề yên lòng ngày nào.
4. Môi trên mỏng, môi dưới dày
Bạn thụ động trong các vấn đề tình cảm vì bạn cho rằng bản thân không thể tin tưởng vào chuyện tình yêu, nó không đáng tin cậy. Điều đó làm bạn trở nên lạnh nhạt với chuyện yêu đương và luôn hoài nghi về tình cảm.
Nếu bạn cứ mãi từ chối sự ngọt ngào của tình yêu, thì cuộc sống bạn sẽ buồn lắm, hãy thử đón nhận nó một lần nhé.
Phái Thiên Lương triển khai ý nghĩa vòng Thái tuế một cách chi tiết để dùng vào luận đoán. Đại khái vòng Thái tuế có tính tích cực, có tinh thần chính nghĩa chính phái, tư cách đàng hoàng, cơ bản được đắc ý. Điều này trong ứng dụng có khi đúng nhưng rất nhiều trường hợp sai hoàn toàn, tuy sai nhưng ai cũng nhận thấy vòng Thái tuế quả là có cái gì đó đặc biệt, không thể hoàn toàn vứt bỏ được. Trong luận đoán vận hạn, vòng Thái tuế tỏ rõ ảnh hưởng không thể phủ nhận được.
Vậy vòng Thái tuế thực chất là gì, tôi trong quá trình tìm hiểu thấy rằng, vòng Thái tuế chính là vòng năng lượng địa chi năm sinh.
Như ta biết hệ thống sao Thái tuế có 12 sao, gồm : Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn, Thiếu âm, Quan phù, Tử Phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ, Phúc đức, Điếu khách, Trực phù.
Coi vòng Thái tuế là vòng năng lượng thì Thái tuế chỉ sự thái quá, mạnh quá, nên ứng với vị trí Đế vượng của năng lượng. Từ đó suy ra Bạch hổ chính là vị trí Trường sinh, Phúc đức là vị trí Mộc dục, Điếu khách ở vị Quan đới, Trực phù vị Lâm quan, Thiếu dương vị trí Suy, Tang môn vị trí Bệnh, Thiếu âm vị trí Tử, Quan phù vị trí Mộ, Tử phù vị trí Tuyệt, Tuế phá vị trí Thai, Long đức vị trí Dưỡng.
Để chứng minh điều này, ta sẽ kiểm tra tính lý các sao của hệ Thái tuế, nếu đó đúng là vòng năng lượng địa chi trải qua 12 giai đoạn thì các sao phải có tính chất nào đó của các vị trí mà nó rơi vào, dù có thể nó không được đặt ra hoàn toàn để chỉ cái mức năng lượng đó. (Ví dụ: sao Thái tuế không phản ánh hết ý nghĩa mạnh mẽ, thái quá, kích phát xung động của vị trí Thái tuế, theo tử vi truyền thống, sao Thái tuế chỉ lời nói, biện thuyết, cãi cọ, lạnh lùng khinh người)
Quả vậy, Bạch Hổ có tính chất Trường sinh rất mạnh, rất rõ, hạn gặp Bạch Hổ thường có những sự phát sinh đột ngột, mới mẻ, có hoạt động mới sinh ra, có nhiều việc phát sinh bận rộn khiến người ta phải hoạt động đến mệt mỏi.
Phúc Đức có đặc tính yếu kém, phải cầu mong sự hỗ trợ, giúp đỡ, làm phúc, đó chính là đặc tính của Mộc dục, non yếu, bại, vô lực.
Điếu Khách có tính khoe khoang khoác lác, đó là vì tương ứng vị trí Quan đới đang tiến tới, đi lên thịnh trị, gặp lúc thịnh mà ra vẻ, thể hiện.
Trực Phù ở vị Lâm quan, nhưng lại nhiều cái xấu vì nó luôn đồng cung với Thiên Kiếp, ngôi sao rủi ro, xui xẻo.
Thái Tuế vị trí Đế vượng rõ rồi, nó kích phát các tổ hợp sao rất mạnh, vì vị trí đó chứa mức năng lượng tối đa.
Thiếu Dương ứng với vị trí Suy, chú ý là Thiếu dương đi sau Thái tuế nên luôn có sao Thiên Không chỉ sự đổ vỡ suy bại rất rõ.
Tang Môn ứng với vị trí Bệnh, nên Tang Môn có tính u buồn, không hoạt bát vui vẻ, khi đang yếu mệt bệnh tật thì người ta vui sao được.
Thiếu Âm ứng với vị trí Tử, đặc tính kín đáo, khéo léo của Thiếu âm rất rõ, giống tính lý sao Tử.
Quan Phù ứng vị trí Mộ, tính lý truyền thống sao này không có ý thu tàng nhưng sau này ta sẽ thấy nó có đúng các đặc tính đó.(Điếu khách vung phí, Quan phù giữ gìn cẩn thận)
Tử Phù ứng với vị trí Tuyệt, thực tế Tử phù có ý nghĩa là buồn thảm, u uất, chính vì nó bị tuyệt khí, hết sức sống, hết năng lượng mà ra như vậy.
Tuế Phá ứng vị trí Thai, Tuế phá được cho là có hành động chống đối, phá phách, thực ra chính vì đặc tính Thai nên Tuế phá u mê tăm tối, hành vi nhầm lẫn, trái khoáy, ngược đời.
Long Đức ứng vị trí Dưỡng, điều này rất rõ, vì Long Đức có tính trợ giúp, cẩn thận, phù trì lâu dài.
Như vậy tất cả các sao trong hệ thống Thái tuế đều có một số tính lý cơ bản giống như các vị trí tương ứng của vòng Tràng sinh, với Bạch Hổ ứng vị trí Trường Sinh khởi đầu, Thái Tuế ứng vị trí Đế vượng, Quan Phù vị trí Mộ. Vậy vòng Thái tuế chính là một phản ánh của vòng năng lượng địa chi, thể hiện sự phát triển đi lên tuần tự theo chu kỳ 12 giai đoạn của mức năng lượng.
Vòng năng lượng địa chi chính là mẹ đẻ, cội rễ của vòng Thái tuế. Tam hợp Thái tuế chính là 3 vị trí Sinh, Vượng, Mộ của khối năng lượng địa chi nên có sức mạnh lớn, khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ.
Việc coi trọng vòng Thái tuế của phái Thiên Lương là có cơ sở, đó chính là vòng năng lượng rất mạnh trong lá số. Cũng như hàng năm đều có Thái tuế lưu niên, sự chuyển vận của thời gian tạo ra sức mạnh thể hiện bằng can chi lưu niên, trong đó chi lưu niên được coi là Thái tuế, được rất nhiều các môn huyền học khác coi trọng, sử dụng trong luận đoán.
Tam hợp Thái tuế có tính xung động, tiến lên, phát triển, trợ lực nên về cơ bản là tốt. Khi gặp các sát tinh thì vòng năng lượng này tiếp tay cho sát tinh, kích phát hung tính đến cực điểm nên xảy tai vạ, đổ vỡ dữ dội, đó chính là lý do vì sao Mệnh, Thân, hạn đắc vòng Thái tuế mà xấu, bị họa.
Hiểu được ý nghĩa vòng năng lượng địa chi này sẽ thấy rằng phái Thiên Lương cho tam hợp Thái tuế toàn nghĩa tốt là chỉ nhìn thấy một mặt của vấn đề, đó là tính tích cực của năng lượng. Vậy mặt tiêu cực của vòng Thái tuế là gì ? Cũng như chất kích thích, dùng sai chỗ tất có hại. Thái tuế gặp sát tinh ví dụ Không Kiếp Kình Đà hãm chả khác nào nối giáo cho giặc, khiến tai vạ thêm nặng nề. Cho nên sát tinh rơi vào tam hợp Thái tuế phải được chú ý đặc biệt, vì chúng luôn sẵn sàng bùng nổ dữ dội !
Chú ý đến âm dương và tụ tán như thế nào khi bố cục và trang trí phong khách? –
Phong thủy phòng khách phải cát tường, không được đảo lộn âm dương. Chú ý vấn đề tụ, tán và thông, tắc, trời đất và con người hoà hợp. Theo Kinh dịch thì phòng khách phải ở dương vị, nó phải được đặt ở mặt trước của nhà, có vậy mới bảo đảm yên tĩnh v
Phòng khách là bộ mặt gia đình, bài trí bên trong có tao nhã hay không thể hiện phẩm cách của chủ. về trang trí, số lượng ít nhưng tinh tế là tao nhã, nhiều mà ô tạp ngợp mắt là thô tục; về đồ dùng, gọn sạch là dẹp, lộn xộn do bẩn là thô tục; về màu sắc, trang nhã là đẹp, nhiều màu loè loẹt là thô tục; về dùng tranh, tranh sơn thuỷ là trang nhã, cố gắng tránh treo tranh ảnh người đẹp.
Thiết kế nhà ở hiện đại nên theo phong cách đa năng tổng thể, biến tủ tường và các tổ hợp thành các đơn nguyên chính trong thiết kế nội thất Xử lý không gian phòng khách lấy nền nhà làm bề mặt kê đặt đồ đạc. Phương pháp xử lý đối với một không gian 3 chiều chủ yếu lấy việc sử dụng mặt tường làm chính. Trần phòng khách không nên quá rực rỡ, màu nền nhà không nên quá tối, ví dụ màu xi măng, màu đen, nếu không sẽ đảo lộn âm dương. Màu sắc trần nhà nên dùng màu xanh da trời, màu trắng. Trần nhà tốt nhất không nên dùng trần treo, vì nếu dùng trên trần nhà sẽ như có ‘Thiên la địa võng”, tầng tầng lớp lớp, góc cạnh rườm rà làm tăng giác sát về phong thuỷ. Trong phòng thấp mà treo đèn to sẽ làm tăng cảm giác bị đè nén. Con người hiện đại thông minh đần lên, trần nhà được trang trí bằng các đường chỉ làm cho không gian phòng như rộng thêm, đẹp mắt và thực dụng. Ngoài ra, ở những chỗ tối trong phòng thì trang trí tranh hoặc kính nghệ thuật, đây cũng là một cách làm cho không gian phòng thêm rộng hơn. Tuy nhiên, không nên trang trí toàn bộ không gian phòng bằng kính, người sống trong môi trường nhiều gương kính (gương kính trong ngủ hành thuộc hoả) theo phong thuỷ là hung sát, tim và thần kinh sẽ bị ảnh hưởng. Chú ý đến vấn đề tụ và tán của phòng khách. Chỗ nào tụ, chỗ nào tán; chỗ nào đóng, chỗ nào cách; chỗ nào thông, chỗ nào chắn; chỗ nào sáng, chỗ nào tối đều phải chú ý đến phong thuỷ. Trung tâm phòng khách là tụ, các khu chức năng là tán. Các hướng Tây Bắc, Tây và hướng Bắc cần đóng; phòng tắm, bếp cần phải cách; gió Đông Nam, gió Nam, đường cứu hoả, nhà vệ sinh, rãnh nước, ống khói cần phải thông; phòng khách, phỏng sách phái sáng; phỏng ngủ, phòng chứa đồ phải tối.
Người xưa rất coi trong đạo đức làm người, mọi điều giáo huấn đề đề cao những tấm gương đạo đức nổi tiếng về hiếu thảo, trung thực, khiêm tốn của con người
Người xưa rất coi trọng về đạo đức làm người. Những câu chuyện về tấm gương đạo đức, bài học giáo huấn luôn được lưu truyền trong dân gian nhằm gìn giữ nền tảng đạo đức cho xã hội. Câu chuyện của ba nhân vật dưới đây sẽ giúp chúng ta cảm nhận được phần nào quan niệm về “đạo đức” của người xưa.
1. Nghệ nhân điêu khắc băng không có người nối nghiệp
Kinh thành có một người có thể dùng những tảng băng điêu khắc ra đủ loại hình tượng người, muôn hình vạn trạng, yểu điệu thướt tha lay động lòng người, vô cùng đẹp đẽ.
Trong những ngày giá rét, hình nhân băng có thể giữ được mấy ngày mà không tan chảy. Người đến đây tham quan luôn tấp nập không ngừng.
Một ngày nọ, nghệ nhân điêu khắc này hét giá hô to giữa đám đông: “Ai đưa ra được ba đấu gạo kê, ta sẽ đem kỹ thuật của môn này truyền cho người ấy“.
Ông hô liên tục mười lần, nhưng không một ai hưởng ứng. Cuối cùng, có người nói với ông rằng: “Kỹ thuật này của ông, tuy rằng rất tinh xảo; hình dáng tướng mạo cũng rất sinh động, nhưng không hề lưu giữ được chút giá trị nào. Chỉ cần hễ trời nóng lên, tượng băng lập tức tan chảy ngay. Không ai bỏ tiền ra đi học cái kỹ năng không giải quyết được bất kể vấn đề thực tế nào này đâu. Ông nên buông bỏ suy nghĩ đó đi!”
Lời bàn:
Những thứ dù đẹp đẽ và đặc sắc đến đâu nhưng không bền vững thì nó cũng như “băng tan thành nước”, mau chóng mất đi mà không hề để lại giá trị thực tế nào.
2. Người lái thuyền mất hồn mất vía
Một người đàn ông nọ học lái thuyền từ một vị thuyền phu. Ngay từ lúc bắt đầu, vô luận là tiến thoái nhanh chậm, hay là xoay qua trái phải, anh ta đều rất nghiêm túc nghe theo sự chỉ huy của thuyền phu.
Một ngày nọ, người đàn ông này tự mình lái thuyền, ở khu vực nước chảy êm, đã thử một chút, phát hiện rằng bản thân mình đã học vững kỹ thuật lái thuyền, đạt đến trình độ thuần thục muốn sao được vậy.
Thế là, ông ta đã chia tay vị thuyền phu, tự mình lái thuyền, xông thẳng ra dòng nước nguy hiểm.
Lúc thuyền mất kiểm soát ở trong xoáy nước, người đàn ông này hốt hoảng nhìn quanh, mất hết hồn vía. Chẳng những mái chèo trong tay rơi mất, ngay cả thuyền cũng bị nước cuốn trôi không còn dấu vết.
Lời bàn:
Tính kiêu căng, sự nóng vội trong công việc cũng như học tập sẽ chỉ khiến bạn chuốc lấy thất bại mà thôi.
3. Kế hoạch hối cải của kẻ trộm gà
Mạnh Tử nói:
Có một người, mỗi ngày bắt trộm một con gà của hàng xóm, có người khuyên bảo y rằng: “Đây không phải hành vi của người đứng đắn, nhà người hãy mau mau sửa sai hướng thiện mới đúng”.
Người ăn trộm gà nói: “Tôi đã có một kế hoạch, chính là lần lần giảm thiểu số lần bắt trộm gà. Sau này mỗi tháng chỉ bắt trộm một con gà. Đợi đến sang năm, ngay cả một con gà cũng không trộm nữa. Thế nào?”.
Lời bàn:
Nếu như người ta đã biết việc làm của bản thân mình là không đúng; vậy thì nên lập tức dừng lại, cớ sao lại còn phải chờ đến năm sau?
3 chòm sao có gia đình hạnh phúc dưới đây hãy cảm ơn trời đất khi có được một chốn đi về bình yên và đầy ngưỡng mộ. Top 3 chòm sao này may mắn nhất trong các
Mỗi gia đình đều có câu chuyện riêng, trong cuộc sống hiện đại bộn bề như hiện nay thì những câu chuyện gia đình tan vỡ, gia đình bất hạnh không còn hiếm. Vì thế 3 chòm sao có gia đình hạnh phúc dưới đây hãy cảm ơn trời đất khi có được một chốn đi về bình yên và đầy ngưỡng mộ.
Song Tử
Chòm sao may mắn Song Tử là người hướng ngoại, tính tình sôi nổi và hiểu biết rất rộng rãi. Ấy là vì họ trưởng thành trong một gia đình hạnh phúc, có nhiều người lớn ở bên cạnh chỉ bảo, dạy dỗ, rèn luyện. Cũng bởi thế nên chòm sao có gia đình hạnh phúc Song Tử biết cách yêu thương người khác và biết cách để cân bằng gia đình. Khi họ đến tuổi trưởng thành, tự lập cho mình một gia đình riêng thì dù có những lúc vợ chồng tranh chấp, đối lập Song Tử cũng biết dung hòa. Song Tử còn nổi tiếng là những ông bố bà mẹ rất tâm lý. Song Tử biến những yêu thương, vun đắp mà mình được nhận từ người thân thành những yêu thương, vun đáp mình dành cho gia đình nhỏ, nên hạnh phúc nối tiếp hạnh phúc.
Song Ngư
Song Ngư là chòm sao may mắn, không phải chỉ bởi sinh ra đã ngậm thìa vàng mà họ còn rất biết cách biến cuộc sống của mình và của người khác trở nên tốt đẹp hơn. Đây cũng là chòm sao có gia đình hạnh phúc đáng ngưỡng mộ. Song Ngư biết cách chăm sóc mọi người, để cùng người thân trải qua hạnh phúc sẽ tình nguyện hi sinh, tận lực dốc sức, không bao giờ nề hà. Dù cho bản thân chịu thiệt thòi một chút nhưng đối phương vui là Ngư nhi cảm thấy mãn nguyện rồi. Thật may là Song Ngư cũng rất biết cách yêu thương bản thân mình, không giấu tâm sự trong lòng, lúc nào cũng để cho nhau biết rõ tâm tư. Một gia đình chính là như vậy, cùng nhau san sẻ, cùng nhau nhường nhịn, cùng nhau trải qua những tháng ngày tràn ngập tiếng cười.
Cự Giải
Chòm sao yêu gia đình như Cự Giải chắc chắn sẽ nỗ lực để xây dựng một gia đình hạnh phúc. Sở thích của Cự Giải là cống hiến cho người thân, rất chuyên cần, rất thật thà, oan ức giấu trong lòng, buồn phiền cũng giấu trong lòng, chỉ cần người thân vui vẻ là được. Chòm sao có gia đình hạnh phúc Cự Giải chỉ cần vì gia đình là sẽ không bao giờ so đo tính toán, cũng không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, đau khổ. Vì thế mà gia đình của họ thường rất hiền hòa, yên ấm, được gắn kết với nhau qua những nỗ lực của Cự Giải. Giải Giải của chúng ta thật sự là người bạn đời tuyệt vời. Các chòm sao sinh ra có phú quý mệnhTỏ tình liền tay, thoát ngay kiếp ế với 3 chòm sao may nhất mùa Thất Tịch4 chòm sao tình tiền như ý, gặp vận may đỉnh nhất tháng 8Trình Trình Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Xem hướng phòng ngủ tuổi Mậu Tý 1948 theo phong thủy , tuổi Mậu Tý nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Mộc, là hướng Đông; Đông Nam;Tuổi Mậu Tý 1948 có thể sử dụng cây xanh trong phòng ngủHướng kê giường trong phòng ngủtuổi Mậu Tý:- Năm sinh dương lịch: 1948
– Năm sinh âm lịch: Mậu Tý
– Quẻ mệnh: Đoài Kim
– Ngũ hành: Thích Lịch Hỏa (Lửa sấm sét)
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Tây Bắc (Sinh Khí); Đông Bắc (Diên Niên); Tây Nam (Thiên Y); Tây (Phục Vị);
– Hướng xấu: Bắc (Hoạ Hại); Đông (Tuyệt Mệnh); Đông Nam (Lục Sát); Nam (Ngũ Quỷ); Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Xem boi tuổi Mậu Tý mang mệnh Hỏa, Mộc sinh Hỏa, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Mộc, là hướng Đông; Đông Nam;
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Xanh lá, đây là màu đại diện cho hành Mộc, rất tốt cho người hành Hỏa.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
Nếu tuổi Mậu Tý 1948 muốn tính hướng cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.