Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Thiêng liêng giây phút lễ Giao thừa

Giao thừa là thời khắc trời đất giao hòa, âm dương hòa quyện để mọi vật bừng lên sức sống mới. Đối với người Việt Nam phút giao thừa rất thiêng liêng và trang
Thiêng liêng giây phút lễ Giao thừa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giao thừa là thời khắc trời đất giao hòa, âm dương hòa quyện để mọi vật bừng lên sức sống mới. Đối với người Việt Nam phút giao thừa rât thiêng liêng và trang trọng. Lễ cúng giao thừa (hay còn gọi Lễ Trừ Tịch) được tiến hành đúng vào lúc giao thừa (hết giờ Hợi ngày 30 sang giờ Tý ngày mồng 1 Tết).


Theo tục lệ của người Việt xưa, tại thời điểm giao thừa nhà nhà đều cúng lễ ngoài trời và cúng lễ trong nhà.

Thieng lieng giay phut le Giao thua hinh anh
Lễ cúng Giao thừa

Người xưa tin rằng: mỗi năm đều có một vị hành khiển trông coi nhân gian, hết năm thì vị thần năm cũ lại bàn giao công việc cho vị thần của năm mới, nên phải cúng giao thừa ngoài trời để tiễn đưa thần năm cũ và đón rước thần năm mới.

Lễ cúng giao thừa gồm 2 mâm lễ trong nhà và ngoài trời. Lễ cúng ngoài trời và trong nhà gồm: hương, hoa, đèn nến, trầu cau, quần áo, mũ thần linh và mâm lễ mặn với thủ lợn hoặc gà trống luộc, xôi, bánh chưng...tất cả được bày biện trên ban thờ. Mâm cúng lễ giao thừa phải được chuẩn bị chu đáo, trang trọng với lòng thành kính. Vào đúng thời điểm giao thừa, người chủ gia đình thắp đèn, nến, rót rượu, rồi khấn vái trước án. Văn khấn có thể viết vào giấy để đọc, sau khi hết 3 tuần hương thì hóa tờ giấy viết văn khấn cùng vàng mã dâng cúng.

Cúng giao thừa là một nét đẹp văn hóa của người Việt trong một năm mới mà không một gia đình nào có thể bỏ qua. Cúng giao thừa để tiễn năm cũ, đón năm mới với tấm lòng thành kính của mọi thành viên trong gia đình, cầu chúc một năm mới hạnh phúc, bình an và nhiều may mắn. 

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiêng liêng giây phút lễ Giao thừa

Mơ thấy bó hoa: Được người khác giới yêu thích –

Bó hoa rực rỡ truyền tải tin tức của tình yêu, truyền tải sự lãng mạn và nhẹ nhàng của tình yêu. Nếu nam giới mơ thấy bó hoa, sẽ được một cô gái vừa xinh đẹp vừa thông minh yêu mến. Nếu nữ giới mơ thấy bó hoa, sẽ làm chủ trái tim một chàng trai vừa t
Mơ thấy bó hoa: Được người khác giới yêu thích –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bó hoa: Được người khác giới yêu thích –

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1966 Bính Ngọ –

Hướng kê giường tuổi Bính Ngọ 1966 - Năm sinh dương lịch: 1966 - Năm sinh âm lịch: Bính Ngọ - Quẻ mệnh: Đoài Kim - Ngũ hành: Thiên Hà Thủy (Nước trên trời) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh - Hướng tốt: Tây Bắc (Sinh Khí); Đông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng kê giường tuổi Bính Ngọ 1966

– Năm sinh dương lịch: 1966

– Năm sinh âm lịch: Bính Ngọ

– Quẻ mệnh: Đoài Kim

– Ngũ hành: Thiên Hà Thủy (Nước trên trời)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh

– Hướng tốt: Tây Bắc (Sinh Khí); Đông Bắc (Diên Niên); Tây Nam (Thiên Y); Tây (Phục Vị);

– Hướng xấu: Bắc (Hoạ Hại); Đông (Tuyệt Mệnh); Đông Nam (Lục Sát); Nam (Ngũ Quỷ);

2

Phòng ngủ:

  Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Thủy, Kim sinh Thủy, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Kim, là hướng Tây Bắc; Tây;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Trắng, Xám, đây là màu đại diện cho hành Kim, rất tốt cho người hành Thủy.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1966 Bính Ngọ –

Sinh tháng mấy dễ gặp vận xui tình cảm trong năm 2015

Nếu bạn sinh vào tháng 3, 6, 9, 12 âm lịch thì nên cẩn thận chuyện tình cảm trong năm nay nhé.
Sinh tháng mấy dễ gặp vận xui tình cảm trong năm 2015

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh vào tháng 3 âm lịch

Trong năm 2015, những người sinh vào tháng 3 âm lịch sẽ chịu nhiều điều không may mắn về tình cảm. Tình yêu không được như ý, dễ có kẻ thứ 3 chen ngang khiến tình cảm đôi bên nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp không ngừng. Tình cảm có khả năng rạn nứt, nghiêm trọng hơn là dẫn đến chia tay.

Sinh vào tháng 6 âm lịch

Trong năm 2015, tình yêu của những người sinh vào tháng 6 âm lịch sẽ gặp nhiều trắc trở, tình cảm giữa anh chị em trong gia đình sẽ gặp nhiều mâu thuẫn, nếu có thể nhịn, họ tốt nhất nên nhẫn nhịn.

51068506-9456-1422349553.jpg

Sinh vào tháng 9 âm lịch

Người sinh vào tháng 9 âm lịch, trong năm 2015, dù đang độc thân hay có tình yêu cũng đều không mấy suôn sẻ. Những người độc thân trong năm nay có thể tìm thấy những đối tượng vừa ý nhưng sẽ gặp sự phản đối gay gắt từ phía gia đình, chuyện tình cảm không thuận lợi. Những người đang yêu sẽ nảy sinh mâu thuẫn với người thân trong gia đình khiến chuyện tình cảm bị ảnh hưởng.

Sinh vào tháng 12 âm lịch

Trong năm 2015, những người sinh vào tháng 12 âm lịch sẽ gặp nhiều trắc trở trong tình cảm. Nửa kia có làm gì cũng khiến họ cảm thấy không thuận mắt, hở chút là chỉ trích đối phương, tình yêu lại càng khó bảo toàn.

Chocopie (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sinh tháng mấy dễ gặp vận xui tình cảm trong năm 2015

Mơ thấy khăn áo tang: Sẽ thù địch với nhiều người –

Một chàng trai kể lại giấc mơ của mình: Tôi mơ thấy mình khoác áo tang trắng toát, một mình lầm lũi bước đi trong khí trời âm u lạnh lẽo, thi thoảng lại nghe vang những tràng cười ma quái. Tôi thật sự đang rất đau khổ, nhưng tiếng cười kia cứ thi nha
Mơ thấy khăn áo tang: Sẽ thù địch với nhiều người –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy khăn áo tang: Sẽ thù địch với nhiều người –

Xem bói nốt ruồi trên ngón tay

Cuối đốt có nốt ruồi: Biểu thị có sức cuốn hút người khác giới, trở thành nhân vật tiêu điểm. Nói chung là họ thường gặp phải sự lao đao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nốt ruồi ở Ngón cái

 Cuối đốt có nốt ruồi: Biểu thị có sức cuốn hút người khác giới, trở thành nhân vật tiêu điểm. Nói chung là họ thường gặp phải sự lao đao trong chuyện tình cảm, bản thân luôn chìm đắm trong đó, lãng phí nhiều thời gian và tiền bạc, dần sa vào cảnh xuống dốc.

Giữa đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị khả năng phán đoán kém, đầu óc ảo tưởng, rối loạn, ngạo mạn, tự phụ.

Đầu đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị tính cách cố chấp, không thế kết bạn được với người khác. Khả năng ứng biến kém, khi gặp khó khăn trở ngại thường sẽ bị rơi vào cảnh hỗn độn, đặc biệt là về mặt tiền bạc.

not-ruoi-tren-ban-tay

 2. Nốt ruồi ở Ngón trỏ

Cuối đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị không đồng tình với mọi người, không biết tha thứ và yêu thương người khác, nói chưng là họ tạo thành thế đối lập với mọi người xung quanh, tạo thành khoảng cách. Khả năng giao tiếp kém, đối với người khác họ luôn có lòng đố kỵ, không đế ý gì tới xung quanh.

Giữa đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị có ý chí xây dựng sự nghiệp cao, ý chí ngoan cường, không sợ khó khăn nguy hiểm, dũng cảm đối mặt với nhiều khó khăn. Nhưng đôi khi họ lại quá liều lĩnh khiến người khác phải kinh ngạc.

Đầu đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị tinh thần hoảng hốt, khả năng tập trung kém, thường là do bế tắc mà bị phân tâm, thậm chí họ còn có thể gặp tai họa ngoài ý muốn. Trên phương diện xử lý công việc họ cũng có mặt quá tiêu cực, hành động phân tán, không chịu được áp lực, không thích hợp làm những nghề mang tính cạnh tranh và hay bị kích động.

3. Nốt ruồi ở Ngón giữa

Cuối đốt có nốt ruồi: Biểu thị tính cách mông lung, thường không thể tập trung tinh thần vào công việc, làm việc không có tinh thần trách nhiệm, không muốn đảm nhận trọng trách. Vê mặt chi tiêu, đối với bạn bè thì họ hào phóng, xa hoa, mà đối với bản thân và người thân thì lại rất tằn tiện.

Giữa đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị tư tưởng nhỏ nhen, có thế xử lý công việc cẩn thận. Nhưng do là người tình cảm hóa, hỷ nộ vô thường, có cái nhìn phiến diện đối với người khác, làm việc luôn tận tâm tận lực cho nên dễ bị mọi người xung quanh chỉ trích, rất hiếm khi được người khác giúp đỡ, là số khổ hạnh, luôn lo lắng muộn phiền.

Đầu đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị tính khí hung bạo, tính tình dễ bị kích động, thích gây hấn với mọi người vì thế mà tranh chấp xảy ra liên miên. Nếu cong sang ngón vô danh cho thấy người này mang lại phiền muộn cho người trong nhà.

 4. Nốt ruồi ở Ngón vỗ danh

Cuối đốt có nốt ruồi: Biểu thị sự quá coi trọng cái tôi, ngược với thiên tính, không thích bị ràng buộc, xử lý công việc độc đoán, chuyên quyền, thích lập dị, không hòa nhập với quần chúng, về mặt tiền bạc, tiền tới rất nhanh, đi cũng rất nhanh. Bởi vì quan niệm tiền bạc rất đơn giản nên họ thường vung tay quá trán, không biết quý trọng vật chất.

Giữa đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị tài vận không tốt lắm, không thích hợp với những việc mang tính đầu cơ quá lớn. Đặc biệt người này không được đánh bạc, nếu không sẽ bị khuynh gia bại sản, nhưng do vì tính cách quá ngoan cố, quá coi trọng thể diện thường dẫn tới cảnh sai lầm, không nghe lời người khác khuyên can.

Đầu đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị cá tính dễ bị kích động, vội vàng hấp tấp, làm việc thiếu nhiệt tình, không có hứng thú với công việc. Họ hay làm việc nửa chừng bỏ dở, khó làm thành đại sự. Khi đôi diện với chuyện tình cảm họ thường bị thất hại liên tiếp, thậm chí còn dùng tình cảm vào công việc.

 5. Nốt ruồi ở Ngón út

Cuối đốt có nốt ruồi: Cho thấy là người có nhiều toan tính, thích động não. Về phương diện vật chất, tiền bạc họ quá tôn sùng, cố gắng giành giật, thái độ với bạn bè hoặc con cái quá thờ ơ, lãnh đạm.

Giữa đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị cho thấy đây là người thích bịa chuyện, vì vậy mà họ thường bị người khác ghét bỏ. về mặt tiền bạc họ không biết tính toán, khả năng phán đoán kém, khi đầu tư thường thất bại lớn, không thích hợp làm việc trong lĩnh vực thương mại.

Đầu đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị là kẻ ăn nói lỗ mãng, làm tổn thương tới người xung quanh, quan hệ xã giao không tốt. Người này tính cách quá bảo thủ, tư tưởng nhu nhược, về phương diện nắm bắt kỹ thuật khá yếu kém, tư duy tiến triển rất chậm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói nốt ruồi trên ngón tay

Con đường sự nghiệp của người tuổi Dậu

Có thể nói cuộc đời của người tuổi Dậu gặp phải khá nhiều khó khăn, trắc trở. Vào những thời điểm quyết định, nếu xử lý công việc không tốt họ sẽ gặp phải
Con đường sự nghiệp của người tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhiều khó khăn, thất bại trên con đường sự nghiệp.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Họ không phải là những người luôn có cuộc sống sung túc nhưng cũng không đến mức nghèo khổ, chật vật. Tuy gia cảnh từ nhỏ có thể gặp nhiều khó khăn hơn người khác nhưng với ý chí kiên cường chắc chắn họ sẽ vượt qua. Nếu biết nhìn nhận thực tế và luôn giữ vững tinh thần lạc quan, không chạy theo hư vinh thì cơ hội thành công dành cho họ sẽ rất lớn.

Với óc sáng tạo, tầm nhìn xa, trông rộng, biết định hướng cho tương lai, thái độ làm việc nhiệt tình, chu đáo, người tuổi Dậu luôn đi trước người khác một bước trong mọi việc. Cũng chính vì những ưu điểm đó mà tuy có tài nghệ thuật, âm nhạc, văn học nhưng rất ít người tuổi Dậu hứng thú khi theo đuổi những ngành nghề này.

Ngay từ nhỏ, người tuổi Dậu đã có nhiều ước vọng lớn lao. Họ sống có lý tưởng cao đẹp nên họ thường được rất nhiều người yêu mến, giúp đỡ, tạo cơ hội tốt để phát triển sự nghiệp.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con đường sự nghiệp của người tuổi Dậu

Đặt tên cho con – Bí ẩn số mệnh –

Chọn tên đối với một sinh linh mới ra đời là một bước quan trọng và đầy trách nhiệm. Cùng với tên mẹ đặt cho, con người theo nó suốt cuộc đời, trở thành một phần máu thịt của cá nhân họ. Trong thời kỳ tiền sử, việc chọn tên diễn ra rất tự nhiên, bản

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn tên đối với một sinh linh mới ra đời là một bước quan trọng và đầy trách nhiệm. Cùng với tên mẹ đặt cho, con người theo nó suốt cuộc đời, trở thành một phần máu thịt của cá nhân họ.

Trong thời kỳ tiền sử, việc chọn tên diễn ra rất tự nhiên, bản thân cái tên phải xác định được vị trí đứa trẻ không chỉ trong xã hội loài người, mà còn trong cả thế giới tinh thần. Mỗi một tên gọi biểu hiện một loạt đặc điểm cá nhân của con người, tính chất cội nguồn của nó, vị thế xã hội mà nó giữ theo sự ra đời của mình, cũng như hoàn cảnh đi cùng với sự xuất hiện một sinh linh mới trên cõi đời, hoặc thời điểm nào đó từ phía gia đình trong khoảnh khắc ra đời của bé.

1345519496-anh2

Bởi thế, hiện nay một số nước đặt tên theo cách cũ hoặc theo thói quen: Petr (theo tiếng Hy Lạp): – “, tảng đá, đá”; Natalia (tiếng Hy Lạp) – “quan hệ với sinh nở”, “hoài thai”, “ruột thịt”; Greb (theo tiếng một dân tộc trên thế giới) – “hậu sinh của Chúa”, v.v…
Phong tục chọn tên ngày nay rất phong phú: một số người đặt tên cho những đứa trẻ theo phong tập cũ vì danh dự của ông nội, bà nội, những người khác theo danh dự của các nghệ sỹ yêu thích, các nhà du hành vũ trụ. Thí dụ: năm 1960 ở Liên Xô nổi lên phổ biến tên Iuri theo danh của nhà du hành vũ trụ đầu tiên Iuri Gagarin. Vào những năm 90, ở Liên Xô trình chiếu bộ phim truyền hình nhiều tập châu Mỹ La tinh “Nô tì Izaora”, lập tức xuất hiện nhiều tên Izaora, Mariann, Luisov- Alberto…Hiện nay lại rất phổ biến các tên ‘cũ’ thời Xô viết như Danil, Nikita, Arkhiv, Arina. Vì thế, rất thường xuyên để đặt tên thường gọi cho con mình các mẹ thường nhờ đến các cha cố.
Thực tế, trong xã hội hiện đại phát triển việc xác định tên, họ được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ.

Ở nhiều dân tộc, từ trước đến nay vẫn giữ phong tục đặt cho trẻ cái tên buồn cười hoặc vô nghĩa, xấu như cái Đĩ, mẹ Đĩ, thằng Sài, thằng Tèo, cu Theo, con Dậu, mẹ Hĩm…ở nước ta. Cho rằng, những cái tên xấu qủy dữ không quan tâm, không quấy nhiễu, nhờ đó cuộc sống đứa trẻ sẽ thuận lợi và may mắn. Ở xã Kim Lộc, huyện Can Lộc (tỉnh Hà Tĩnh), cạnh nhà tôi có người khi mới sinh có cái tên được mẹ đặt rất bình thường, không xấu, nhưng vừa mới hoài thai, mẹ đã tự cắn mất một ngón chân cái của con, khiến đứa trẻ thành tật, để cho dễ nuôi. Anh này giờ đã gần tuổi 60, giáo viên, hiện là chủ tịch Công đoàn một Phòng Giáo dục thuộc tỉnh Hà Tĩnh.

Việc đặt tên con đòi hỏi sự suy nghẫm, cân nhắc, nghiên cứu nghiêm túc, cẩn trọng của các bậc cha mẹ, nhiều người phải nhờ đến thầy giỏi, cha cố, sách tử vi, vì cái tên người không chỉ đơn giản là cái tên, mà nó theo ta suốt cuộc đời, gắn liền với số phận của mỗi đời người, gắn liền với danh vọng, sự thành đạt. Neeesy không cẩn thận, cái tên ‘phản chủ’ sẽ ám ảnh con người từ khi sinh ra cho đến lúc đậy nắp quan tài như một mặc cảm tội lỗi.

Có người không muốn đặt tên con có vần A, B vì sợ con lớn lên đi học rồi đi thi phải luôn trong danh sách đầu trong sổ đầu bài, ngồi bàn đầu, thầy cô, cán bộ coi thi hay “chiếu tướng”, nhiều bất lợi, tội con.

Cái tên phải xứng với cái danh, với nhan sắc vốn có của chủ sở hữu nó, nhưng từ lúc mới sinh điều này khó xác định, trừ những gia đình vốn có dòng dõi thông minh và tài sắc lâu đời. Còn phần lớn ‘sự đã rồi’, sửa sai không khó nhưng ngại phiền phức. Quả thật, tên là Đặng Anh Tài, mà lớn lên bất tài, ăn bám vợ thì cảm giác xấu hổ suốt đời. Tên đẹp như Kiều Hoa, lớn lên ‘nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày’ thì ân hận lắm! Сái tên đẹp, hoành tráng được tôn vinh bởi tài sắc, đức hạnh của chủ sở hữu nó.

Trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam nói chung, trước Cách mạng tháng 8 nói riêng chúng ta thường bắt gặp rất nhiều nhân vật có tên Huệ, Lan… Những nhân vật mang tên các loài hoa này là các tiểu thư lá ngọc cành vàng, có vẻ bị bệnh tim, khiến ta ‘ngẩn ngơ đi trong vườn mộng’, để ngắm để yêu thì tuyệt vời, nhưng thường có số phận éo le, bạc mệnh bởi duyên tình trắc trở.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho con – Bí ẩn số mệnh –

Xem phong thủy cửa chính –

Trong quan niệm phong thủy học truyền thống, cửa chính có ảnh huởng rất lớn tới phong thủy nhà ở. Đây cũng là yếu tố quan trọng quyết định tói sự lành dữ của ngôi nhà. Để mua được một mảnh đất xây nhà ưng ý là điều rất khó. Chúng ta biết "đồng loại t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong quan niệm phong thủy học truyền thống, cửa chính có ảnh huởng rất lớn tới phong thủy nhà ở. Đây cũng là yếu tố quan trọng quyết định tói sự lành dữ của ngôi nhà.

av

Để mua được một mảnh đất xây nhà ưng ý là điều rất khó. Chúng ta biết “đồng loại tắc tương phối, bất đồng tắc tương khắc”. Nếu người Đông tứ mệnh (Thủy, Mộc, Hỏa) ở vào Tây tứ trạch (Tây, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam) và ngược lại, người Tây tứ mệnh (Thổ, Kim) ở vào Đông tứ trạch (Đông, Đông Nam, Nam, Bắc) thì bài toán sỡ được giải như sau:

Theo “Bát trạch minh kính” nếu nhà gặp hướng xấu thì bạn phải sửa cửa chính. Tức nếu trạch mệnh không tương đối, chủ nhà phải khiến cửa chính và quẻ mệnh tương phối. Dùng “Môn mệnh tương phối” thay cho “Trạch mệnh tương phối” cũng có thể bổ trợ được. Nói một cách khác, với người Đông tứ mệnh, cửa cần mở ở 4 phương vị quẻ Đông tứ: Đông, Đông Nam, Nam hoặc Bắc. Người Tây tứ mệnh thì đặt cửa chính ở Tây tứ: Tây, Tây Nam, Tây Bắc hoặc Đông Bắc.

Ngoài ra, đối với trường hợp cửa chính đặt vào hướng chưa tốt, bạn có thể hóa giải theo hai cách: thêm cửa trong nhà và dùng màu sắc hóa giải tà khí. Nếu bạn thuộc Tốn, cửa chính nhà bạn tại Tây Nam thuộc Khôn (Ngũ Quỷ), hóa giải bằng cách làm thêm một cửa phụ trong nhà thuộc hướng tốt (ví dụ: chính Nam). Với cách này, gia đình sẽ gặp dữ hóa lành và tránh được những điều không tốt.

Tuy nhiên vói những ngôi nhà có diện tích hẹp, bạn có thể dùng màu sắc để hóa giải bằng cách trải thảm ở cửa chính với các màu sắc khác nhau tùy theo Ngũ hành của từng gia chủ: Mộc: màu xanh, lục; Hỏa: màu đỏ, tím; Thổ: màu nâu, vàng; Kim: màu trắng, vàng sẫm; Thủy: màu lam, xám.

Trong trưòng họp mệnh Đông tứ gặp cửa Tây tứ. Cửa ở Tây và Tây Bắc gặp tà khí của Kim vì vậy bạn thuộc Thủy, Mộc nên trải thảm màu lam hoặc màu xám ở cửa chính, bạn thuộc Hỏa trải thảm màu đỏ hoặc tím. Cửa ở Tây Nam và Đông Bắc gặp tà khí của Thổ vì vậy bạn thuộc Thổ trải thảm màu trắng hoặc vàng sẫm, bạn thuộc Hỏa, Mộc trải thảm màu xanh hoặc lục.

Với mệnh Tây tứ gặp cửa Đông tứ. Cửa hướng Đông và Đông Nam gặp tà khí của Mộc nên bạn thuộc Thổ trải thảm hồng hoặc tím, nếu bạn thuộc Kim trải thảm trắng hoặc vàng nhạt là thích hợp. Cửa hướng Nam gặp tà khí của Hỏa nên bạn thuộc Kim, Thổ trải thảm màu nâu hoặc vàng để hóa giải. Cửa phía Bắc gặp tà khí của Thủy, nếu bạn thuộc Thổ, Kim thì trải thảm màu nâu hoặc vàng để hóa giải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem phong thủy cửa chính –

9 đường chỉ tay cả đời may mắn, sung sướng

Nếu trên bàn tay bạn xuất hiện chỉ tay hình chữ thập, chỉ tay hình ngôi sao hay chỉ tay hình cá, vậy xin chúc mừng bạn - Cuộc đời bạn sẽ gặp nhiều may mắn, hạnh phúc.
9 đường chỉ tay cả đời may mắn, sung sướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn sở hữu đường chỉ tay nào trong số những đường chỉ tay dưới đây?

9-duong-chi-tay-ca-doi-may-man-sung-suong 9-duong-chi-tay-ca-doi-may-man-sung-suong-1 9-duong-chi-tay-ca-doi-may-man-sung-suong-2
Chỉ tay lãnh đạo Chỉ tay hài hước Chỉ tay trí tuệ
9-duong-chi-tay-ca-doi-may-man-sung-suong-3 9-duong-chi-tay-ca-doi-may-man-sung-suong-4 9-duong-chi-tay-ca-doi-may-man-sung-suong-5
Chỉ tay cưng chiều Chỉ tay hy vọng Chỉ tay chữ thập
9-duong-chi-tay-ca-doi-may-man-sung-suong-6 9-duong-chi-tay-ca-doi-may-man-sung-suong-7 9-duong-chi-tay-ca-doi-may-man-sung-suong-8
Chỉ tay hình cá Chỉ tay ngôi sao Chỉ tay vòng xoắn gia đình

Maruko (theo Meiguoshenpo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 đường chỉ tay cả đời may mắn, sung sướng

3 chòm sao ngốc nghếch, lỡ mất tình yêu

Tình yêu đâu dễ kiếm tìm, người ngang đời nhiều, người ở lại thì ít, vậy mà 3 chòm sao ngốc nghếch có rồi còn không biết giữ, vừa đáng thương, vừa đáng trách.
3 chòm sao ngốc nghếch, lỡ mất tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu đâu dễ kiếm tìm, người ngang đời thì nhiều, người ở lại thì ít, vậy mà 3 chòm sao ngốc nghếch dưới đây có rồi còn không biết giữ, thật là vừa đáng thương, vừa đáng trách.


3 chom sao ngoc nghech, lo mat tinh yeu hinh anh 2
 

Nhân Mã

  Đối với Nhân Mã, tình yêu đến rất bất ngờ, không báo trước. Họ quảng giao, rộng rãi, tâm hồn tự do phóng khoáng nên rất dễ cảm nắng người khác và cũng dễ được đáp lại. Tình cảm đôi bên tiến triển nhanh, ngọt ngào, nhiều thú vị và rất say đắm.   Cuồng nhiệt là thế nhưng nhanh đến nhanh đi, dễ đạt được thì không biết trân trọng. Nhân Mã là chòm sao ngốc nghếch, thích chơi hơn yêu, một khi cảm thấy tù túng và phải chịu trách nhiệm, họ sẽ rời đi. Nhưng bạn đâu thể đi mãi cả đời mà không có một chốn quay về phải không Nhân Mã.  

Cự Giải

  Rụt rè và không an toàn, Cự Giải đến với tình yêu bằng một trái tim sợ hãi, nhiều nỗi mông lung. Họ dịu dàng, quan tâm nhưng cũng rất nhạy cảm, bất an và không lúc nào thôi nghĩ đến những tình huống xấu. Cự Giải luôn cần người khác dẫn dắt, không tự làm chủ được.   Vì thế, chòm sao ngốc nghếch ấy lúc nào cũng ở thế bị động, chờ người khác bày tỏ mới nhỏ nhẹ đồng ý, chờ người khác yêu thương mới lẳng lặng đáp lại. Đối phương không kiên nhẫn hoặc không cảm thấy tình yêu ở Cự Giải, sẽ buông tay, lúc ấy bạn mới cảm thấy hối hận.

3 chom sao ngoc nghech, lo mat tinh yeu hinh anh 2
 

Ma Kết

  Lạnh lùng, thâm trầm, Ma Kết khiến người khác cảm thấy vô cùng áp lực. Kể cả người yêu của Ma Kết cũng thấy khong thể hiểu hết được họ, lúc nào cũng phải đoán ý, sợ Ma Kết không hài lòng. Mà chòm sao ngốc nghếch này có gì cũng đều giữ trong lòng, không lộ ra ngoài.   Lâu dần, đối phương cũng cảm thấy mệt. Yêu mà không nói, thương mà không tỏ bày thì có nghĩa lý gì chứ. Ma Kết nên chấn chỉnh lại bản thân và cởi mở hơn đi nhé. Nắm chặt người mình yêu thương, kẻo khi mất rồi, tìm đâu cũng không thấy nữa.
Toát mồ hôi khi chinh phục 3 chòm sao nữ cao thủ Tiết lộ vận trình của 12 chòm sao trong tiết Lập Đông Báo động những chòm sao trắc trở tình duyên trong tháng 11
Trình Trình

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao ngốc nghếch, lỡ mất tình yêu

Hướng dẫn tư thế bái Phật đúng chuẩn

Cùng ## theo dõi tư thế bái Phật đúng chuẩn.
Hướng dẫn tư thế bái Phật đúng chuẩn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xưa kia khi Đức Phật còn tại thế, mỗi lần may mắn gặp Ngài, các đệ tử từ quan vua đến dân chúng đều cúi xuống ôm chân và đặt trán mình lên chân Ngài để bày tỏ lòng thành kính, tôn thờ bậc tối thượng. Sau khi Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem Ngài như còn tại thế, cử chỉ bái lạy Phật như vậy vẫn tồn tại cho đến ngày nay.


Lễ Phật, mỗi người có quan niệm và lời giải thích riêng, không đồng nhất và tất cả đều đúng. Tư thế bái Phật sao cho thể hiện sự tôn kính tột cùng tới bậc tối thượng là được. Tuy nhiên, dưới đây là cách bái lạy Phật phổ biến, dễ làm và đúng chuẩn, bạn có thể tham khảo trong việc thờ cúng Đức Phật.

Bước 1

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Tư thế đứng thẳng, nhẹ nhàng chắp hai lòng bàn tay, ngón tay khép sát với nhau, khuỷu tay để cong tự nhiên, tạo góc 45 độ với ngực. Khi chắp tay, tầm mắt hướng xuống dưới, tập trung vào đầu các ngón tay, để tâm thanh tịnh, loại bỏ ý nghĩ không chính đáng. Đứng trước đệm cói, hai chân tạo hình chữ bát, gót chân cách nhau khoảng 2 tấc (tương đương 6,5cm), đầu ngón chân cách nhau khoảng 8 tấc (tương đương 24cm).

Bước 2

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Bàn tay phải hướng xuống dưới và đặt vào giữa đệm cói, tay trái giữ nguyên tư thế, mở hai đầu gối, quỳ trên đệm cói.

Bước 3

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Bàn tay trái đặt về phía bên trái của đệm cói.

Bước 4

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Bàn tay phải từ vị trí trung tâm dịch chuyển sang bên phải của đệm cói sao cho hai bàn tay cách nhau 6 tấc (tương đương 20cm), đầu cúi xuống và đặt tại ví trí giữa hai bàn tay.

Bước 5

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Lật ngửa hai bàn tay (lòng bàn tay hướng lên trên, có ý nghĩa hai tay hứng chân Phật, cúi đầu hành lễ).

Bước 6

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Hai bàn tay úp sấp, lòng bàn tay vẫn đặt trên tấm đệm cói, đầu ngẩng lên, bàn tay phải dịch chuyển ra giữa tấm đệm cói.

Bước 7

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Thu bàn tay trái rời khỏi đệm cói rồi đặt trước ngực như tư thế chắp tay. Bàn tay phải dùng lực đẩy người lên (hai đầu gối đồng thời rời khỏi đệm cói) rồi hợp lại với tay trái, tạo tư thế bái Phật.

10 bí quyết Phật dạy giúp tướng mạo từ xấu hóa đẹp
Theo kinh Phật, hành động quyết định tướng mạo, muốn đẹp đẽ hãy chăm làm điều thiện.
Ngoài ra, còn tư thế bái lạy Phật khác mang tính tượng trưng dâng hương hoa hướng Phật như sau:

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
1. Đầu tiên thành kính chắp hai tay, hướng tầm mắt tập trung vào đầu ngón tay giữa.

2. Sau đó gập lưng khoảng 90 độ rồi chuyển tư thế đứng thẳng người, hai tay vẫn chắp trước ngực.

3. Dùng ngón giữa, ngón áp út, ngón út của tay trái che đi ngón giữa, ngón áp út, ngón út của tay phải. Hai đầu ngón tay cái và ngón trỏ của hai bàn tay từ từ tiếp xúc với nhau, sao cho ngón trỏ và ngón cái tạo thành hình tam giác.

4. Lúc này, hai bàn tay tạo thành tư thế như hoa sen chớm nở, như dâng hoa hướng Phật, tràn đầy lòng thành kính và thể hiện sự cát tường.

5. Hai tay giữ nguyên tư thế này, đưa lên chạm Ấn đường (điểm giữa hai lông mày). Điều này thể hiện thái độ thành kính và khiêm tốn.

6. Cuối cùng, hạ hai tay xuống và chắp tay trước ngực rồi tiếp tục buông xuống.

► Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Chi Nguyễn (Theo Ebaifo)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn tư thế bái Phật đúng chuẩn

Đặc điểm của người thuộc mệnh Kim trên các phương diện

Trong thuyết ngũ hành bao gồm Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, người thuộc mệnh Kim sẽ tượng trưng cho loại kim khí và kim loại trong đất trời,
Đặc điểm của người thuộc mệnh Kim trên các phương diện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

     Trong thuyết ngũ hành bao gồm Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, người thuộc mệnh Kim sẽ tượng trưng cho loại kim khí và kim loại trong đất trời, "Kim" được nuôi dưỡng bởi đất trời, được thiên nhiên, được khoáng vật đất đá nuôi dưỡng, tôi luyện và kết tinh. Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng Kim được sinh ra từ Thổ. Như vậy người thuộc mệnh Kim sẽ có những đặc điểm, đặc trưng, những nét tính cách nào nổi bật. Chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu nhé.

1. Đặc điểm của hành kim

    Hành Kim chỉ về mùa Thu và sức mạnh. Đại diện cho thể rắn và khả năng chứa đựng. Mặt khác, Kim còn là vật dẫn. Khi tích cực, Kim là sự truyền đạt thông tin, ý tưởng sắc sảo và sự công minh. Khi tiêu cực, Kim có thể là sự hủy hoại, là hiểm họa và phiền muộn. Kim có thể là một món hàng xinh xắn và quý giá mà cũng có thể là đao kiếm. Màu sắc đặc trưng của Kim là vàng đồng hoặc trắng bạc. Kim còn là biểu tượng chân khí, hư âm, chi môn, và sắc thái. Thuộc tính Kim thường mang giá trị tìm ẩn, nội lực vững chắc, gia cố bền bỉ

2. Tính cách của người mệnh Kim

   Người mệnh Kim có những nét tính cách đặc trưng sau: Mệnh Kim có tính độc đoán và cương quyết. Họ dốc lòng dốc sức theo đuổi cao vọng. Là những nhà tổ chức giỏi, họ độc lập và vui sướng với thành quả riêng của họ. Tin vào khả năng bản thân nên họ kém linh động mặc dù họ tăng tiến là nhờ vào sự thay đổi. Đây là loại người nghiêm túc và không dễ nhận sự giúp đỡ.

Tích cực – mạnh mẽ, có trực giác và lôi cuốn.

Tiêu cực – cứng nhắc, sầu muộn và nghiêm nghị.

3. Người mệnh kim sinh năm nào?

Mệnh Kim gồm các tuổi:

Nhâm Thân – 1932, 1992

Ất Mùi – 1955, 2015

Giáp Tý – 1984, 1924

Quý Dậu – 1933, 1993

Nhâm Dần – 1962, 2022

Ất Sửu – 1985, 1925

Canh Thìn – 1940, 2000

Quý Mão – 1963, 2023

Tân Tỵ – 1941, 2001

Canh Tuất – 1970, 2030

Giáp Ngọ – 1954, 2014

Tân Hợi – 1971, 2031

hanh-kim.jpg

4. Vạn vật thuộc hành này

Tất cả các kim loại.

Hình dáng tròn bầu.

Mái vòm

Vật dụng kim khí

Cửa và bậc cửa

Đồ dùng nhà bếp

Màu trắng, xám, bạc và vàng ươm.

Tiền đồng

Đồng hồ

Đồ điện tử

hanh-kim-1.png

5. Mệnh Kim hợp với mệnh nào và xung khắc với mệnh nào?

5.1. Mệnh hợp với Mệnh Kim:

– Tương sinh thì hợp:  Mệnh Kim sinh ra bởi Thổ vậy mệnh Kim hợp Mệnh Thổ.

– Cùng mệnh thì hợp:  Lưỡng thổ thành sơn, Lưỡng mộc thành lâm

– Cũng có trường hợp tương khắc cũng tốt cũng hợp (nhưng ít) ví dụ : Mệnh Đại Hải Thủy mà gặp mệnh Thổ là rất tốt, vì nước lớn và nhiều thì có bờ sẽ không bị tràn lan thất thoát. Nhưng gặp Thổ yếu thì không đủ lực mà Thổ lại bị khắc ngược lại.

5.2. Mệnh xung khắc với mệnh Kim:

– Tương khắc với mệnh Kim là mệnh Hỏa. (Hỏa thiêu đốt nung chảy Kim).

– Xung mệnh với mệnh: Lưỡng Kim ( Kiếm Phong Kim ) gặp nhau thì khắc nhau.

Mệnh Kim nên mang đồ vật gì?

Kim được bao bọc bởi đất đá , người mệnh Kim nên đeo trang sức làm từ đá, nhất là đá quý. Các loại đá có màu nâu đất, vàng sẫm …

hanh-kim.png

6. Người mệnh kim hợp màu gì nhất?

- Màu tương sinh: Bạn là người mệnh kim điều kiện tốt nhất có thể có được là được tương sinh. Thổ sinh Kim. Đất bao bọc và sinh ra, và nuôi dưỡng tất cả các kim loại. Do vậy, người mệnh Kim nên sử dụng các màu của đất mẹ, là màu nâu đất, màu vàng hoàng thổ.

Cũng như các mệnh khác, người mệnh Kim sẽ tốt nếu dùng  màu tương hợp. Hợp với mệnh Kim chính là Kim. Màu của kim là màu trắng, màu ghi.

- Màu tương khắc: Nếu bạn thuộc mạng Kim, thì tốt nhất là nên tránh những màu như màu hồng, màu đỏ, vì những màu này ứng với hành Hỏa, mà Hỏa thì khắc Kim.

Màu hợp với mệnh Kim hợp nhất là màu vàng, trắng

Người mệnh kim nên lựa chọn những gam màu sáng và những sắc màu ánh kim vì màu trắng là Màu sắc của người mệnh Kim. Ngoài ra nên kết hợp với các tông màu nâu, màu vàng trong việc lựa chọn xe, màu sơn nhà, nội thất, hay trang phục hằng ngày. Vì đây là những màu sắc sinh vượng (Hoàng Thổ sinh Kim). Những màu này luôn đem lại niềm vui, sự may mắn đến cho gia chủ.

7. Người mệnh Kim hợp số sau:  7, 8, 2, 5, 6 . Không hợp số 9.

7. Mệnh Kim hợp với hướng nào? Trong phong thủy, Mệnh Kim hợp hướng Tây hoặc Tây Bắc

Những người thuộc mệnh Kim có những đặc điểm tính cách khá rõ nét như sự sắc sảo, thông minh, khả năng truyền đạt ý tưởng tốt. Nhưng cũng có những lúc kim trở nên khá khó hiểu và nhiều phiền muộn. Bài viết trên đã cho chúng ta thấy được những  đặc trưng cơ bản, cũng như sự kết hợp của Kim với các mệnh khác, các màu sắc, số, hướng phù hợp nhất. Hy vọng sẽ giúp bạn có được cái nhìn tổng quát về Kim.

Những thông tin hấp dẫn về tử vi 2017 người mệnh Kim:

Nữ Nhâm Thân hợp với tuổi nào?

Xem tử vi tuổi Nhâm Thân nam mạng 1992

Xem tử vi 2017 tuổi Ất mùi nam mạng 1955


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc điểm của người thuộc mệnh Kim trên các phương diện

Bạn sẽ chọn tên gì cho con gái yêu?

Việc đặt tên cho con thực sự rất quan trọng để Con có được thời vận tốt. Nếu sinh con gái, bạn có thể tham khảo một số tên hay và ý nghĩa...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tên là mệnh, là vận mệnh của mỗi con người, tên gọi luôn gắn liền với mỗi người trong suốt cuộc đời. Việc đặt tên cho con thực sự rất quan trọng để Con có được thời vận tốt. Trong thời đại công nghệ thông tin, Bạn có thể dễ dàng chọn cho con yêu một cái tên đẹp, hay và ý nghĩa. Nhưng quan trọng, hãy xem tên đó có thực sự phù hợp với con bạn không nhé. Khoa học cổ dịch đã cho thấy, nếu tên gọi đúng ngũ hành mệnh, hợp với giờ sinh của bé, sẽ mang lại cho bé nhiều may mắn, sức khỏe, thuận lợi trong cuộc sống sau này.

ten-cho-con

Nếu sinh con Gái, Bạn có thể tham khảo một số tên hay và ý nghĩa:

Tên "An" mang ý nghĩa bình an, yên ổn: Thanh An, Bình An, Diệp An, Hoài An, Ngọc An, Mỹ An, Khánh An, Hà An, Thùy An, Thúy An, Như An, Kim An, Thu An, Thiên An.

Tên "Anh" mang ý nghĩa thông minh, sáng sủa: Diệp Anh, Quế Anh, Thùy Anh, Mỹ Anh, Bảo Anh, Quỳnh Anh, Ngọc Anh, Huyền Anh, Vân Anh, Phương Anh, Tú Anh, Diệu Anh, Minh Anh.

Tên "Bích" mang ý nghĩa màu xanh quý tuyệt đẹp: Ngọc Bích, Lệ Bích, Lam Bích, Hồng Bích, Hoài Bích

Tên "Châu" quý như châu ngọc: Bảo Châu, Minh Châu, Diệu Châu, Ngọc Châu, Diễm Châu, Quỳnh Châu, Thủy Châu, Trân Châu.

Tên "Chi" mang ý nghĩa dịu dàng, tràn đầy sức sống như nhành cây: Diệp Chi, Mai Chi, Quế Chi, Phương Chi

Tên "Diệp" mang ý nghĩa tươi tắn, tràn đầy sức sống như lá cây: Bích Diệp, Quỳnh Diệp, Khánh Diệp, Ngọc Diệp, Mộc Diệp, Thảo Diệp,

Tên "Dung" mang ý nghĩa diện mạo xinh đẹp: Hạnh Dung, Kiều Dung, Phương Dung, Thanh Dung, Ngọc Dung, Hoàng Dung, Mỹ Dung.

Tên "Đan" mang ý nghĩa của viên thuốc quý/màu đỏ: Linh Đan, Tâm Đan, Ngọc Đan, Mỹ Đan, Hoài Đan, Khánh Đan, Nhã Đan, Phương Đan.

Tên "Giang", "Hà" mang ý nghĩa một dòng sông mát lành: Phương Giang, Khánh Giang, Lệ Giang, Hương Giang, Quỳnh Giang, Thúy Giang, Lam Giang, Hà Giang, Trà Giang

Bảo Hà, Thu Hà, Ngọc Hà, Khánh Hà, Thủy Hà, Bích Hà, Vân Hà, Ngân Hà, Thanh Hà, Cẩm Hà,

Tên "Hân" mang ý nghĩa của niềm vui, tính cách dịu hiền: Gia Hân, Bảo Hân, Ngọc Hân, Thục Hân, Khả Hân, Tường Hân, Mỹ Hân.

Tên "Hạnh" mang ý nghĩa đức hạnh, hạnh phúc: Hồng Hạnh, Ngân Hạnh, Thúy Hạnh, Bích Hạnh, Diễm Hạnh, Nguyên Hạnh.

Tên "Hoa" mang ý nghĩa xinh đẹp, rực rỡ như hoa: Ngọc Hoa, Kim Hoa, Phương Hoa, Quỳnh Hoa, Như Hoa, Mỹ Hoa, Diệu Hoa, Mai Hoa

Tên "Hương" mang ý nghĩa hương thơm của hoa: Mai Hương, Quế Hương, Khánh Hương, Ngọc Hương, Thảo Hương, Quỳnh Hương, Lan Hương, 

Tên "Khánh" mang ý nghĩa của tiếng chuông, của niềm vui: Ngân Khánh, Bảo Khánh, Vân Khánh, Mỹ Khánh, Kim Khánh, Ngọc Khánh

Tên "Khuê" mang ý nghĩa của ngôi sao khuê (tượng trưng của tri thức), hay tiểu thư khuê các: Diễm Khuê, Ngọc Khuê, Minh Khuê, Diệu Khuê, Mai Khuê, Anh Khuê, Hà Khuê, Vân Khuê

Tên "Lan" mang ý nghĩa của loài hoa quý và đẹp: Phong Lan, Tuyết Lan, Bảo Lan, Chi Lan, Bích Lan, Diệp Lan, Ngọc Lan, Mai Lan, Quỳnh Lan, Ý Lan, Xuân Lan, Hoàng Lan, Phương Lan, Truc Lan, Thanh Lan, Nhật Lan.

Tên "Loan" mang ý nghĩa một loài chim quý: Thúy Loan, Thanh Loan, Bích Loan, Tuyết Loan, Kim Loan, Quỳnh Loan, Ngọc Loan, Hồng Loan, Tố Loan, Phương Loan

Tên "Linh" mang ý nghĩa cái chuông nhỏ; linh lợi, hoạt bát: Truc Linh, Mỹ Linh, Thùy Linh, Diệu Linh, Phương Linh, Gia Linh, Khánh Linh, Quế Linh, Bảo Linh, Khả Linh, Hạnh Linh, Mai Linh, Nhật Linh, Cẩm Linh, Hà Linh.

Tên "Mai" mang ý nghĩa của loài hoa tinh tế, thanh cao, nở vào mùa xuân: Thanh Mai, Nhật Mai, Trúc Mai, Hoàng Mai, Diễm Mai, Ban Mai, Phương Mai, Ngọc Mai, Xuân Mai, Hồng Mai, Tuyết Mai, Diệp Mai, Chi Mai, Thu Mai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn sẽ chọn tên gì cho con gái yêu?

Cách cục Kim sáng quang huy

Sao Thái Dương trấn Mệnh tại cung Ngọ, lại gặp các sao Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn gia hội là hợp cách cục này. Lá số gặp cách cục này, chủ một đời cực hiển quý, giàu sang. Nếu không gặp Xương, Khúc, Phụ, Bật hoặc gặp Không, Kiếp sẽ bị giảm tốt. Người sinh năm Canh, Tân sẽ được phú quý song toàn, tiếp đến là người sinh năm Giáp, Quý, Đinh, Kỷ.
Cách cục Kim sáng quang huy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kinh văn có đoạn: " Thái dương tại cung Ngọ là " Nhật lệ trung thiên" (Mặt trời giữa trời), hiển quý có quyền lực, giàu có nhất nước, " Cự Môn, Thái Dương củng chiếu là cách cục rất tốt".
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách cục Kim sáng quang huy

Phong thủy tình yêu. Tạo vận may trong hôn nhân –

Chim uyên ương là biểu tượng hạnh phúc và quen thuộc cho đôi tình nhân. Trưng bày một đôi uyên ương, chúng sẽ tạo một loại khí rất thuận lợi… Chim uyên ương là biểu tượng hạnh phúc và quen thuộc cho đôi tình nhân. Trưng bày một đôi uyên ương, chúng s

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chim uyên ương là biểu tượng hạnh phúc và quen thuộc cho đôi tình nhân. Trưng bày một đôi uyên ương, chúng sẽ tạo một loại khí rất thuận lợi…

uyen-uong-thach-anh-hong-dt2342

Chim uyên ương là biểu tượng hạnh phúc và quen thuộc cho đôi tình nhân. Trưng bày một đôi uyên ương, chúng sẽ tạo một loại khí rất thuận lợi giúp đôi lứa trở thành vợ chồng. Một đôi uyên ương có lẽ là biểu tượng mạnh nhất về hạnh phúc trong hôn nhân. Nếu muốn cung cấp năng lượng cho cuộc sống tình cảm, hãy trưng bày hình ảnh của cặp đôi uyên ương này. Tuy nhiên, không nên chạm khắc hình đôi uyên ương trên gỗ, bởi gỗ là hành Mộc tương khắc với hành Thổ cần phải cung cấp năng lượng tại khu vực Tây-nam của phòng ngủ. Tiểu Mộc thì không sao nhưng chạm khắc hình đôi uyên ương thường tạo thành Đại Mộc. Do đó, người độc thân đang tìm kiếm tình yêu hãy trưng bày bức tranh đôi uyên ương hoặc một đôi uyên ương làm bằng đá. Điều này sẽ tăng cường hành Thổ, sẽ kích hoạt quẻ Khôn ở góc Tây-Nam của phòng ngủ. Quẻ Khôn rất thuận lợi cho hôn nhân. Quẻ này thuộc khu vực Tây-Nam của phòng ngủ, khu vực tượng trưng cho tình yêu và hôn nhân. Vì vậy, hãy đặt một cặp uyên ương ở góc Tây-Nam của phòng ngủ, hoặc phòng khách, để kích hoạt khí may mắn chủ về tình yêu và hôn nhân. Nếu kết hợp với một lẵng hoa mẫu đơn, và chiếu sáng đầy đủ, thì như gấm thêu hoa.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy tình yêu. Tạo vận may trong hôn nhân –

Phương vị cát lợi treo tranh cho gia chủ

Treo tranh trang trí ngoài việc phải khảo sát quan hệ sinh trợ và tiết hao giữa Ngũ hành của tranh và Ngũ hành của phương vị treo tranh còn phải chú ý khảo sát phương vị treo tranh có cát lợi hay không.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Treo tranh trang trí ngoài việc phải khảo sát quan hệ sinh trợ và tiết hao giữa Ngũ hành của tranh và Ngũ hành của phương vị treo tranh còn phải chú ý khảo sát phương vị treo tranh có cát lợi hay không.

1. Phương vị cát lợi của căn phòng

Một bức tranh trang trí nếu treo ở phương vị cát lợi trong phòng thì thông tin cát lợi của bức tranh sẽ truyền ra ngoài và có thể truyền cho con người một năng lượng cát tường. Nếu treo tại phương vị xấu trong căn phòng thì thông tin không tốt của bức tranh sẽ truyền ra bên ngoài, làm giảm bớt năng lượng cát lợi của con người. Do vậy trong tình huống thông thường, tranh trang trí phải treo ở phương vị cát tường.

hoa-mau-don-1 

Tuy nhiên trong một số tình huống, căn cứ vào nhu cầu khác nhau không nhất định phải tuân thủ quy tắc trên. Vậy phải làm thế nào để tìm ra phương vị cát lợi trong một căn phòng? Dưới đây xin giới thiệu một số phương pháp đơn giản giúp bạn đọc tham khảo.
Căn cứ vào phương vị cửa phòng, nhà ở có thể phân thành Đông tứ trạch và Tây tứ trạch, phương vị tốt xấu được thể hiện ở bảng dưới đây.

bang-phuong-vi-xau-tot-nha-o

2. Phương vị cát lợi của bát vận

Thời gian từ 2004 - 2023 là Hạ nguyên bát vận, chúng ta hiện đang ở thời kỳ bát vận.

Phương vượng khí: Trong thời kỳ bát vận có ba phương vượng khí là Đông Bắc, chính Nam và chính Bắc. Phương Đông Bắc là phương chính thần Vượng khí, là phương đương vượng; phương chính Nam là phương Sinh khí, là phương thứ vượng; phương chính Bắc là phương tiến khí, là phương tiểu vượng.

Phương Đông Bắc chính thần vượng khí, chính Nam là phương Sinh khí, chính Bắc là phương tiến khí, ba phương này đều là phương nạp khí. Nếu treo tranh trang trí ở ba phương này thì thông tin cát lợi trong bức tranh sẽ được phát huy một cách đầy đủ nhất, từ đó thúc đẩy linh khí của căn nhà.
Nhưng cần phải chú ý, phương Đông Bắc chính thần vượng khí kỵ Thủy, vì phong tục lưu truyền rằng chính thần gặp nước chủ tổn tài, cho nên phương vị này không nên treo tranh trang trí Ngũ hành thuộc Thủy.

Tranh vượng tài: Trong thời kỳ bát vận, có hai phương vượng tài là Tây Nam và chính Đông. Phương Tây Nam là phương Linh thần (tên đầy đủ là phương Chính cát linh thần), phương chính Đông là phương Chiếu thần (tên đầy đủ là phương Thôi cát Chiếu thần), hai phương
này rất thích hợp gặp Thủy. Phong tục lưu truyền cho rằng phương Linh thần Tây Nam gặp Thủy chủ vượng tài, phương Chiếu thần
chính Đông gặp nước chủ tụ tài, cho nên phương Tây Nam và phương chính Đông thích hợp nhất là treo tranh trang trí có Ngũ hành thuộc Thủy, có thể tăng cường linh khí, thúc đẩy tài vận.

3. Phương vị cát lợi của con giáp

Phương vị cát lợi của con giáp mỗi người đều có phương tốt tam hợp và phương tốt lục họp, cụ thể như bảng sau

bang-12-con-giap

Tại phương tốt tam hợp và phương tốt lục hợp thích hợp treo tranh trang trí, có thể được quý nhân phù trợ, giúp tăng tiến tài lộc và phúc thọ cho chủ nhân. Trong đó, phương vị lục hợp sẽ sinh ra linh khí nhiều hơn.

4. Bốn phương vị cát tinh

Bốn phương vị cát tinh bao gồm: Phương vị Tài tinh, phương vị Văn xương, phương vị Đào hoa và phương vị Dịch mã. Treo tranh tại bốn phương vị cát tinh này có tác dụng mang lại những hiệu ứng khác nhau.

+Treo tranh trang trí ở phương vị Tài tinh có tác dụng vượng tài khí:
Treo tranh trang trí ở phương vị Linh thần và phương vị Chiếu thần sẽ có thể vượng tài tiến khí, treo tranh ở phương vị Tài tinh cũng có tác dụng tương tự. Vậy làm thế nào để xác định được phương vị Tài tinh?
Từ cách cục trong nhà mà nói, phương vị tụ khí nhất là trên đường chéo của cửa, phương vị tụ khí này cũng chính là phương vị Tài tinh, cũng có thể gọi là phương vị Tài khí. Phương vị Tài tinh thuộc phương vị tụ khí, khí tụ tất tài tụ, tương tuyền đây là phương vị Thần Tài quang lâm; đồng thời phương vị Tài tinh cũng là tượng trưng cho sức khỏe, trường thọ, cát tường. Vì vậy, nên treo tranh trang trí ở phương vị Tài tinh, đặc biệt là nên treo tranh cát tường để vượng tiến tài khí, đồng thời cũng có tác dụng tăng cường sức khỏe, tuổi thọ, hạnh phúc cho mọi người trong gia đình.

+Treo tranh trang trí ở phương vị Văn xương có lợi đối với việc truy cầu công danh lợi lộc: Tương truyền sao Văn xương là ngôi sao nắm giữ công danh lọi lộc, phương vị Văn xương là vị trí sao Văn xương đến, còn gọi là “phương vị Thông minh”. Treo tranh trang trí ở phương vị này rất có lcd đối với tiền đồ học nghiệp, cầu công danh lợi lộc. Dưới đây xin giới thiệu phương vị Văn xương hằng năm và phương vị Văn xương của mỗi người.

Phương vị Văn xương của lưu niên: Tùy vào lưu niên mỗi năm khác nhau mà phân bố trên những phương vị khác nhau, mỗi năm đều có hai phương vị Văn xương, 9 năm một vòng.

bang-phuong-vi-van-xuong

Phương vị Văn xương của cá nhân: Mỗi người đều có phương vị Văn xương của riêng mình, nó là vĩnh viễn bất biến. Phương vị Văn xương của mỗi người căn cứ vào năm sinh của mỗi người để xác định.

bang-phuong-vi-van-xuong-ca-nhan

Treo tranh trang trí ở phương vị Đào hoa sẽ có lợi cho đờị sống tình cảm:

Phương vị Đào hoa, tức chỉ vị trí sở tại của sao Đào hoa. Tương truyền sao Đào hoa, thứ nhất có thể tăng thêm nhân duyên, xúc tiến mối quan hệ tốt đẹp giữa con người; thứ hai có thể tăng thêm tình, cảm và cá tính hài hước, đối nhân xử thế tương đối linh hoạt; thứ ba là tăng thêm cá tính chuộng cái đẹp, khả năng thẩm mỹ; thứ tư là tăng thêm sự mẫn cảm với màu sắc, nghệ thuật, mỹ học; thứ năm là
tăng thêm tình cảm và nhân duyên đối với người khác giới, thứ sáu lá tăng cường sở thích hưởng thụ vui chơi, ẩm thực, du lịch; thứ bảy là tăng thêm tính cách thích hưởng lạc sợ vấtvả khổ sở.

Nếu treo tranh trên phương vị Đào hoa, đối với những người chưa có gia dinh sẽ tăng thêm cơ hội kết giao với người khác giới, tìm được đối tượng thích hợp.Đối với những người đã kết hôn có thể làm phong phú thêm tình cảm của minh khiến cho cuộc sống tràn ngập niềm vui. Nhưng nếu là người vốn đã đào hoa ướt át thì không nên treo tranh ở phương vị Đào hoa.

Phương vị Đào hoa có thể căn cứ vào thuộc tướng của mình để xác định, phương vị Đào hoa này chính là phương vị Đào hoa suốt đời của mình.

Phương vị Đào hoa 12 con giáp:

-Thân, Tý, Thìn phương vị chính Tây

-Tỵ, Dậu, Sửu phương vị chính Nam

-Dần, Ngọ, Tuất phương vị chính Đông 

- Hợi, Mão, Mùi phương vị chính Bắc

Treo tranh trang trí ở phương vị Dịch mã có lợi đối với sự thăng tiến trong sự nghiệp:

Phương vị Dịch mã là chỉ vị trí sở tại của sao Dịch mã, tương truyền sao Dịch mã là vị thần đại diện cho sự thăng tiến, buôn bán làm ăn, phát triển nghiệp vụ, di chuyển chỗ ở...Nếu treo tranh trang trí trên phương vị Dịch mã sẽ giúp ích cho việc thăng chức, hoặc tìm cho mình được công việc tốt, hoặc đạt được mong muốn trong việc di chuyển chỗ ở.

Phương vị Dịch mã có thể căn cứ vào thuộc tướng của mình để xác định, đồng thời phương vị Dịch mã cũng là phương vị cố định suốt đời.

Phương vị Dịch mã 12 con giáp:

-Thân, Tý, Thìn phương vị Đông Bắc

-Tỵ, Dậu, Sửu phương vị Tây Bắc

-Dần, Ngọ, Tuất phương vị Tây Nam 

- Hợi, Mão, Mùi phương vị Đông Nam


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương vị cát lợi treo tranh cho gia chủ

Thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu?, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu?, tu vi Thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu?, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu?

Trong tình yêu thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu? Khi bị người yêu nói lời chia tay, bạn sẽ bình thản đón nhận hay cảm thấy bị tổn thương sâu sắc? Trả lời câu hỏi dưới đây bạn sẽ biết bạn là người như thế nào.

Câu hỏi: Bạn cảm thấy nơi nào dưới đây có thể giúp tình yêu của bạn tiến triển thuận lợi?

A. Trung tâm thương mại

B. Vườn bách thú

C. Rạp chiếu phim

D. Quán cà phê

Xem bói kết quả lựa chọn của bạn:

A. Chia tay không có gì đáng sợ

Bạn biết chuyện tình yêu không thể miễn cưỡng, nếu duyên phận hai người đã hết, bạn cũng có thể thoải mái “bye bye” người ta và chúc họ hạnh phúc. Với bạn, mỗi lần yêu là một lần trải nghiệm để hiểu và học cách yêu. Bạn có suy nghĩ tích cực và sáng suốt về tình yêu mà không phải ai cũng có.

 

B. Bị tổn thương nặng nề   

 

Bạn rất dễ bị tình yêu làm tổn thương sâu sắc, bởi bạn là người rất trọng tình cảm, luôn dành toàn bộ tâm tư tình cảm cho đối phương. Nếu thất tình, bạn sẽ lập tức lạc mất phương hướng, không biết phải làm sao. Bạn không chỉ đau khổ vì tình mà còn tự nhốt mình trong phòng, cần thời gian rất dài để hàn gắn vết thương lòng.

C. Chia tay là chuyện nhỏ

Bạn không coi thất tình là chuyện gì quá nghiêm trọng. Với bạn, tình yêu như một trò chơi, mất cái này thì còn cái kia, người cũ đi sẽ có người mới tới. Bạn có thể nhanh chóng điều chỉnh tâm tình, chuyển hướng đến đối tượng khác một cách dứt khoát.

D. Nhớ mãi không quên tình cũ

Bạn rất tôn trọng ý kiến của đối phương, nếu tình yêu đi đến hồi kết, bạn sẽ chấp nhận chia tay trong hòa bình. Tuy nhiên, trong lòng bạn lại tràn đầy tiếc nuối, không lúc nào nguôi nhớ đến những hồi ức về người cũ. Dù đã qua một quãng thời gian, cuộc sống dần trở lại bình thường, nhưng trong sâu thẳm trái tim bạn vẫn hy vọng có cơ hội nối lại tình xưa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Cách hóa giải hướng nhà gặp Thái Tuế

Theo phong thủy, mỗi năm sẽ có vài con giáp gặp năm tuổi (năm không tốt) hay còn gọi là xung Thái Tuế. Vì thế, bạn hãy tham khảo cách hóa giải hướng nhà để được sao Thái Tuế phù hộ bình an.
Cách hóa giải hướng nhà gặp Thái Tuế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy học cho rằng, Thái Tuế có ảnh hưởng rất lớn đến gia chủ nhưng ảnh hưởng đó lại không tốt. Khi Thái Tuế bay tới hướng nhà ta đang ở sẽ gây ra nhiều chuyện như kiện tụng, tranh chấp, thị phi, tai ương, tiểu nhân... mà người ta thường gọi là gặp thời vận xấu. Tuy nhiên, ít ai ngờ là hướng nhà mình đang sống gặp phải Thái Tuế sát.

Bạn có thể tham khảo vào sự sắp xếp như sau đây để biết hướng nhà của mình tới năm nào thì phạm Thái Tuế sát.

Nhà tọa lạc hướng Bắc thì tới năm Tý là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Đông Bắc thì tới năm Dần, Sửu là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Đông thì tới năm Mẹo là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Đông Nam thì tới năm Tỵ, Thìn là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Nam thì tới năm Ngọ là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Tây Nam thì tới năm Thân, Mùi là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Tây thì tới năm Dậu là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Tây Bắc thì tới năm Hợi, Tuất là phạm Thái Tuế.

Đặc biệt, trường hợp người tuổi Tý, nhà tọa lạc hướng Bắc mà gặp Thái Tuế sát vào năm Tý, vận hạn lại càng xấu hơn...

Cách hóa giải hướng nhà:

Để hóa giải khi gặp phải Thái Tuế sát, bạn chỉ cần đặt một chiếc gương bát quái trước cửa chính. Nhưng gương bát quái không phải lúc nào cũng phát huy tác dụng khi ta mua từ cửa hàng về để dùng. Vì thế, bạn phải làm thủ tục “khai quang” cho gương bát quái ở chùa thì mới sử dụng gương mới mang lại hiệu quả.

Đặc biệt, bạn cần lưu ý rằng việc đặt bất cứ vật phẩm nào để hóa giải sát khí trong phong thủy cũng đều phải xem giờ tốt và ngày Trực trừ.

(Theo CafeLand)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải hướng nhà gặp Thái Tuế

Tên gọi có ảnh hưởng đến tương lai của Bé không?

nếu tên gọi đúng ngũ hành mệnh, hợp với giờ sinh của bé, sẽ mang lại cho bé nhiều may mắn, sức khỏe, thuận lợi trong cuộc sống sau này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đã bao giờ cha mẹ băn khoăn, việc đặt tên cho con ảnh hưởng như thế nào đến tương lai của bé? Khoa học cổ dịch đã cho thấy, nếu tên gọi đúng ngũ hành mệnh, hợp với giờ sinh của bé, sẽ mang lại cho bé nhiều may mắn, sức khỏe, thuận lợi trong cuộc sống sau này. Cha mẹ có thể tham khảo thêm dưới đây là một số mối liên hệ mà các nhà khoa học đã tìm thấy dựa trên nhiều thống kê và nghiên cứu:

ten-goi-co-anh-huong-den-tuong-lai

Nếu tên bé dễ phát âm, mọi người thường sẽ thích bé hơn

Theo một nghiên cứu của Đại học New York, người ta đã nhận ra rằng những người có tên dễ phát âm thường có địa vị cao hơn ở nơi làm việc. Nhà tâm lí học Adam Alter cho biết: “Thường khi con người ta tiếp nhận một nguồn thông tin nào đó dễ dàng, người ta sẽ thích nó hơn.”

Trong một nghiên cứu khác, Alter còn chỉ ra rằng các công ty có tên gọi đơn giản cũng thường có hoạt động tốt hơn trên thị trường chứng khoán.

Người có tên phổ biến dễ được nhận vào làm việc hơn

Khảo sát của Đại học Marquette cho thấy, những cái tên thuộc loại phổ biến, được nhiều người đặt thường sẽ được yêu thích hơn trong chuyện tuyển dụng việc làm.

Người có tên nghe có vẻ “quý tộc” có xu hướng được vào làm vị trí cao

Một khảo sát ở Đức giữa các nhân viên trong nhiều công ty cho thấy, những người có tên bao gồm chữ Kaiser (nghĩa là “hoàng đế”) hay König (nghĩa là “vua”) thường có vị trí nghề nghiệp cao hơn so với những người có tên Koch (nghĩa là “đầu bếp”) hoặc Bauer (nghĩa là “nông dân”).

Các nhà tâm lí học giải thích nguyên nhân có thể do tư duy liên tưởng ở con người – liên kết những kiến thức đã có sẵn trong đầu với những từ hoặc cụm từ mang nghĩa tương tự. Nếu điều này là sự thật thì ở Việt Nam, những cái tên có chữ “Hoàng”, “Phi”, “Vương”,... hứa hẹn sẽ đem lại nhiều may mắn cho sự nghiệp em bé sau này.

Bé trai có tên dễ bị nhầm là tên con gái thường bị bắt nạt ở trường học

Nghiên cứu vào năm 2005 của Đại học Florida cho thấy, những bé trai mang tên gọi dễ bị nhầm là tên con gái có xu hướng hay bị bạn bè đồng trang lứa trêu đùa và bắt nạt. Điều này cũng ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến kết quả học tập và tính cách của trẻ.

Ngược lại, Bé gái có tên dùng được cho cả con trai thường thành công trong một số lĩnh vực

Ở một số lĩnh vực nhất định như kĩ sư, kĩ thuật, luật,..., phụ nữ có những cái tên dùng được cho cả nam và nữ thường sẽ thành công hơn.

Một nghiên cứu khác còn cho thấy phụ nữ mang tên “nam tính một chút” thường sẽ rất thành công trong lĩnh vực luật pháp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tên gọi có ảnh hưởng đến tương lai của Bé không?

Ăn gì để vượng vận trong tiết Hạ Chí?

Hạ chí là một trong 24 tiết khí, bắt đầu từ ngày 21 tháng 6 và kéo dài tới ngày 7 tháng 7 Dương lịch. Theo truyền thống, để vận khí vượng thì chúng ta có thể
Ăn gì để vượng vận trong tiết Hạ Chí?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

sử dụng một số loại thực phẩm như mì, khổ qua, tỏi, hành tây…


► Xem lịch âm và giờ hoàng đạo chuẩn xác tại Lichngaytot.com
1. Ăn khổ qua (mướp đắng) – Thanh nhiệt

An gi de vuong van trong tiet Ha Chi hinh anh 2
 
Hạ Chí có rất nhiều loại thực phẩm bổ dưỡng nhưng ăn nhiều thì nóng. Ăn nhiều đồ ăn có tính nhiệt sẽ khiến cho tâm hỏa, tâm hỏa quá vượng sẽ khắc với phế kim. Căn cứ vào các mối quan hệ tương hỗ ngũ hành, ngũ thành, ngũ tạng và ngũ vị thì vị đắng có thể hỗ trợ tâm khí và chế phế khí nên khổ qua (mướp đắng) được xem là loại thực phẩm tốt nên dùng trong tiết Hạ Chí.   2. Ăn Tỏi, hành tây – Giảm bớt bệnh truyền nhiễm
 
Mùa hạ mưa nhiều, ẩm ướt là điều kiện tốt để muỗi sinh sản và phát triển, truyền nhiễm các loại bệnh tật, đặc biệt là các bệnh kiết lị. Để phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm, bạn có thể ăn nhiều tỏi và hành tây, ngoài tác dụng phòng ngừa, 2 loại gia vị trên còn có tác dụng giảm bớt tà khí.
3. Ăn cơm gạo mới – Ngon miệng
An gi de vuong van trong tiet Ha Chi hinh anh 2
 
Trên thị trường ngày nay, xuất hiện rất nhiều các loại gạo khác nhau, trong số đó không ít là gạo “giả”, chắc chắn các loại gạo này không tốt bằng chính những loại gạo mà nông dân vừa mới thu hoạch. Trải qua thời gian lữu trữ dài, lại thêm phần vận chuyển, vệ sinh môi trường lưu trữ không đảm bảo khiến cho hạt gạo có thể mang mầm bệnh. Trong tiết Hạ Chí, ăn gạo mới vừa thu hoạch xong vừa ngon miệng, tạo cảm giác ngon miệng trong tiết trời nóng bức lại vừa phòng tránh được một số loại bệnh. Khi ăn cũng nên nhai kỹ để tốt cho sự hoạt động của dạ dày.   4. Ăn đồ lạnh – Tiêu nhiệt

Mùa hạ thời tiết oi bức rất khó chịu, ai cũng muốn ăn một món gì đó “man mát” để đỡ nóng hơn. Những ngày này, bạn có thể ăn kem, ăn chè, uống nước mát, sinh tố, nước hoa quả… nhưng nên ở chừng mực nhất định nếu không sẽ bị về đường hô hấp.
Lichngaytot.com
Đôi điều cần biết về tiết Hạ Chí
Hàng năm, từ 21 hoặc 22 tháng 6 tới ngày 5 hoặc 6 tháng 7 là tiết Hạ Chí, một trong 24 tiết khí, đánh dấu những ngày nắng nóng cực điểm đã tới.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ăn gì để vượng vận trong tiết Hạ Chí?

Cô nàng tuổi nào thu hút ngay từ ánh nhìn đầu tiên

Cô nàng tuổi Dậu bề ngoài có vẻ cứng nhắc nhưng lại tiềm ẩn nét đẹp duyên dáng và thanh lịch từ trong nội tâm.
Cô nàng tuổi nào thu hút ngay từ ánh nhìn đầu tiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Dậu

dau-1813-1422024031.jpg

Cộng với đôi mắt long lanh biết nói, họ khiến những ai gặp gỡ, dù chỉ là lần đầu tiên, đều có ấn tượng khá sâu sắc. Đặc biệt, những anh chàng cá tính mạnh mẽ rất muốn che chở và bảo vệ cho cô nàng có trái tim yếu đuối này.

Tuổi Mão

Con gái sinh năm Mão khá ôn hòa và dễ mến. Hơn thế, mọi ngôn từ cử chỉ của họ đều nho nhã, điềm đạm, khiến mọi người cảm thấy thoải mái và thu hút ngay từ cái nhìn đầu tiên. Những cô nàng tuổi Mão lại rất coi trọng tình cảm nên dễ trở thành “mục tiêu” lý tưởng cho những anh chàng muốn có được cuộc sống gia đình hạnh phúc. 

Tuổi Tý

ty-5169-1422024032.jpg

Duyên dáng nhưng hơi nhút nhát là đặc điểm thường thấy ở những cô nàng tuổi Tý. Lần đầu tiếp xúc với họ, hội đầu keo đều cảm thấy có sức hút kỳ lạ nào đó. Càng nghĩ như vậy, những anh chàng đó càng quyết tâm tìm hiểu, chinh phục và bảo vệ cô nàng tuổi Tý.

Tuổi Ngọ

Cô nàng tuổi Ngọ sở hữu tính cách vui vẻ, phóng khoáng và vô cùng nhiệt tình. Điều đó khiến họ nổi bật ở bất cứ nơi đâu. Nhiều anh chàng bị thu hút ngay từ ánh nhìn đầu tiên là điều khó tránh khỏi. Dù chỉ nhìn thấy nàng tuổi Ngọ mỉm cười hay nghe thấy tiếng cười sảng khoái của họ, những “vệ tinh” xung quanh sẽ nhanh chóng tìm tới để góp vui cũng như hòa mình với họ.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cô nàng tuổi nào thu hút ngay từ ánh nhìn đầu tiên

Ngũ hành và ảnh hưởng tài vận lên 12 con giáp

Ngũ hành là một thành phần quan trọng trong phong thuỷ. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ - mỗi nguyên tố có một đặc trưng và đại diện các khía cạnh cụ thể của cuộc sống.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo văn hóa truyền thống, phong thủy tốt mang lại may mắn, trong khi phong thủy xấu mang lại tai ương. Bạn có muốn biết làm thế nào mang lại may mắn cho chính mình theo con giáp đại diện. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn hé lộ phần nào.

Tuổi Chuột - thêm thủy ở hướng Bắc

Yếu tố nước giúp những người sinh ra trong năm Chuột phát tài. Họ nên đặt một bể cá vàng ở phía Bắc của văn phòng, và sau đó may mắn sẽ tìm đến họ.

Tuổi Trâu - thêm hỏa

Theo ngũ hành, người tuổi Trâu có thể tìm cách gia tăng tài sản với sự trợ giúp của yếu tố lửa mạnh mẽ. Vì vậy, họ nên đặt một số bình gốm trong văn phòng hoặc phòng ngủ của mình để mang lại may mắn, vì đồ gốm được nung nóng bởi lửa.

Tuổi Hổ - thêm thổ

Nguyên tố đất (thổ) bổ trợ cho người tuổi Hổ. Trong nhà gia chủ tuổi hổ cần có những vật phẩm đại diện cho đất, ví dụ như chậu cây, để cuộc sống viên mãn hơn. Chậu cây càng tươi tốt thì gia chủ càng thu nhập dồi dào.

 ngu hanh va anh huong tai van len 12 con giap - 1

Tuổi Mèo - thêm thổ ở hướng Đông Bắc

Khác một chút với người tuổi Hổ, người sinh năm mèo chỉ khi bày bảo bối phong thủy tại hướng Đông Bắc mới mang lại may mắn về tiền tài. Họ nên bày một miếng ngọc bích tại góc này của phòng ngủ. Theo các chuyên gia, ngọc bích bị chôn vùi trong lòng đất hàng ngàn năm, là tinh hoa của trời đất, do đó sẽ mang lại may mắn cho người tuổi mèo.

Tuổi Rồng - thêm thủy ở Tây Bắc

Hướng Tây Bắc lý tưởng cho những người sinh ra trong năm con Rồng. Họ nên đặt một chậu nước ở góc này trong phòng ngủ. Nếu thích trang trí thêm thì có thể thêm một vài bông sen giả cho sáng góc nhà.

Tuổi Rắn - thêm kim ở hướng Tây

Trong ngũ hành, người tuổi Rắn hợp nguyên tố Kim và hướng Tây. Đeo trang sức kim loại, đặc biệt là vàng hoặc bạc, sẽ mang lại may mắn. Người ta tin rằng đeo đồ trang sức vàng và bạc sẽ đảm bảo những người tuổi Rắn sẽ không cần phải lo lắng về thực phẩm và quần áo, thậm chí họ có khả năng sở hữu khối tài sản khổng lồ.

 ngu hanh va anh huong tai van len 12 con giap - 2

Tuổi Ngựa -thêm kim ở hướng Tây Bắc

Người tuổi Ngựa nên đặt một con cóc bằng đồng (hay một đồ vật tượng trưng cho nguyên tố kim loại) ở phía Tây Bắc của phòng ngủ. Nó sẽ mang lại cho họ may mắn cả trong sự nghiệp và tài sản.

Tuổi Dê - thêm mộc ở hướng Bắc

Người tuổi Dê nên quan tâm đến hướng Bắc nếu muốn mở rộng sự nghiệp, tiền bạc. Đặt một hộp gỗ gụ tại góc phía Bắc của văn phòng của họ, và sau đó đặt một vật phẩm liên quan đến công việc của họ trong hộp. Ví dụ, một đầu bếp có thể đặt một con dao trong hộp.

Tuổi Khỉ - thêm mộc ở hướng Tây

Những người sinh ra vào năm khỉ hợp hướng Tây. Họ nên đặt một chậu cây (tốt hơn nếu cây cao hơn người) ở phía Tây ngôi nhà.

Tuổi Gà - thêm mộc

Nếu muốn hút nhiều tài lộc, gia chủ tuổi gà nên trồng cỏ trong chậu gốm (tuyệt đối không phải chậu bằng kim loại). Cỏ sẽ sinh sôi nảy nở vô vạn trong chậu, tương ứng với vận may tiền tài của người tuổi gà.

Tuổi Chó - thêm mộc

Những người sinh ra trong năm Tuất nên tránh các yếu tố nước và đất trong cuộc sống. Họ nên đặt một số nhánh cây khô trong văn phòng, tuy nhiên không nên cắm chúng vào nước hoặc đất.

Tuổi Lợn - thêm Hỏa

Những người sinh ra trong một năm Lợn cần thêm nguyên tố hỏa trong cuộc sống để mang lại may mắn. Họ nên bày một loạt các bình gốm sứ trong phòng khách của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành và ảnh hưởng tài vận lên 12 con giáp

3 cách trang trí nội thất truyền cảm hứng cho phòng ngủ

Phòng ngủ là không gian riêng tư cho phép chủ nhân trang trí sáng tạo, thể hiện được cái “tôi” của bản thân. Vì thế bạn hãy thử những phong cách nội thất mới giúp phòng ngủ của mình thoải mái nhất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có rất nhiều phong cách nội thất khác nhau có thể sử dụng trong phòng ngủ của bạn. Tùy vào sở thích hoặc tích cách mà bạn nên chọn phong cách cho phù hợp. Nếu bạn đang có kế hoạch trang trí lại phòng ngủ với ý tưởng mới để truyền cảm hứng sống tốt hơn thì dưới đây sẽ là một số gợi ý thú vị giúp bạn phong phú hơn trong các lựa chọn của mình.

1. Chủ đề dễ thương và đơn giản


Phong cách dễ thương và đơn giản của phòng ngủ này giúp người nhìn tưởng tượng đến một bức tường đầu giường có hình ngôi nhà gọn gàng với hình minh họa động vật hết sức lôi cuốn. Đây là một ý tưởng khá hay phù hợp với nhiều lứa tuổi.


Nhờ thiết kế đơn giản nên trông toàn cảnh phòng ngủ rất thoáng mát, gọn gàng, nhẹ nhàng và khoan khoái tạo được cảm giác cực dễ chịu cho người sử dụng.


Ở góc bên này của căn phòng bàn làm việc và tủ để sách được sắp xếp gọn gàng giúp mở rộng thêm chức năng phòng làm việc bên trong phòng ngủ một cách hợp lý.
2. Chủ đề tươi sáng


Đây là một phòng ngủ mang phong cách tươi sáng. Màu chủ đạo được sử dụng là màu trắng, ngoài ra sàn gỗ độc đáo với họa tiết hình học, trang trí tường bằng lá điêu khắc, rèm cửa đặc biệt với hoa tươi sáng và bướm bay quyến rũ tạo nên một vẻ đẹp nền nã.


Vừa tạo sự kín đáo, riêng tư chiếc rèm cửa này còn là điểm nhấn chính của căn phòng. Nó giúp không gian trở nên sinh động, hấp dẫn và tinh tế hơn hẳn.


Bức hình điêu khắc con chó theo hình khối hình học này khá sáng tạo và lạ mắt. Nó được đặt ngay canh đầu giường để canh giấc ngủ cho chủ nhân.


Một chiếc tủ đựng đồ và quần áo lớn là điều rất nhiều người mong muốn. Ở đây chiếc tủ đựng với kích thước lớn màu trắng này được bố trí ngăn nắp, gọn gàng không bị choáng diện tích nên trông ngôi nhà vẫn rộng rãi.


Màu trắng tiếp tục được sử dụng hết phần còn lại của ngôi nhà. Hai chậu cây cảnh xanh tươi được đặt ngay cạnh ti vi tạo sự thoải mái hơn cho không gian.


Những chi tiết trang trí nhỏ nhặt thế lại lại đem lại hiệu quả cao cho không gian. Vừa thú vị lại sáng tạo, tinh tế.
3. Chủ đề hình học hiện đại


Chủ đề hình học luôn đem lại cho người sử dụng cái nhìn đa chiều và mông lung. Cái hay ở thiết kế có chủ đề hình học là sự cân bằng giữa các khối hình, nội thất và không gian. Nếu như bạn làm tốt được điều đó thì tác dụng truyền năng lượng sống cho bạn của chủ đề này rất lớn.


Hãy xem đi người chủ này rất thông minh khi dùng cửa chữ nhật dài để thâu tóm được toàn bộ hình ảnh đường chân trời.


Việc sử dụng thảm trải hình lục giác và cắt dán những hình khối trên tường đã thể hiện được chủ nhân của ngôi nhà là người rất giỏi trong việc thiết kế.


Và đối diện giường ngủ một chiếc kệ gỗ nâu mắc nối với bàn dưới ti vi mang một nét nghệ thuật nào đó.


Hiếm khi một chiếc ghế lại có thể trở thành điểm nhấn của một không gian. Nhưng với cách trang trí sọc đậm này vô hình chung chiếc ghế đã nổi bật nhất. Đây là một cách trang trí khá mới mẻ.


Ánh sáng trên chiếc bóng đèn hình cầu lạ mắt này sẽ chiếu sáng cho toàn bộ căn phòng.


Dễ nhận thấy trong thiết kế này việc sử dụng triệt để các hình khối là chủ yếu. Chúng đem lại sự linh hoạt, thông minh và hiện đại cho toàn bộ không gian phòng ngủ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 cách trang trí nội thất truyền cảm hứng cho phòng ngủ

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

8 mẹo trang trí nội thất để đón tài lộc

Trong phong thủy, mộc và thủy được xem là những yếu tố có thể mang lại vận may và tiền tài cho gia chủ. Sau đây là một số mẹo nhỏ giúp đem lại may mắn cũng như
8 mẹo trang trí nội thất để đón tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tài lộc cho gia đình bạn.


1.Thêm nhiều cây xanh
Bố trí không gian xanh trong nhà với những loại cây như cây phát tài, cây phát lộc (lucky bamboo), cây kim tiền hay những loại cây có tác dụng thanh lọc không khí khác như cau trúc, cây dây nhện, thiết mộc lan…
2. Trang trí thêm đồ vật đặc trưng cho yếu tố thủy
Đài phun nước rất phổ biến trong phong thủy bởi vì chúng đem theo năng lượng của hành thủy. Ngoài ra, phong thủy cũng xem trọng vai trò của gương trong bài trí. Có thể xây dựng một đài phun nước trong nhà nhưng đảm bảo nước phải sạch và dòng chảy nước phải thường xuyên, liên tục hoặc trưng bày bất cứ đồ vật hiển thị hình ảnh của nước như tranh thác nước, sông, hồ, đại dương…
3. Chú ý hình dáng đồ vật bố trí trong khu vực tài lộc
Khung ảnh, trang trí giấy dán tường, bình hoa, đồ vật, dụng cụ mang hình dáng cụ thể như chữ nhật (đại diện cho mộc), hình vuông (đặc trưng cho yếu tố thổ) hay hình lượn sóng (đại diện cho thủy) được sắp đặt trong khu vực tài lộc có thể giúp mang lại năng lượng tốt cho vận nay của bạn.
4. Hình ảnh về rừng cây, công viên hay những đồng cỏ xanh rực rỡ

8 meo trang tri noi that de don tai loc hinh anh
Tranh vẽ về rừng cây tốt cho sự thịnh vượng
Bất kỳ tranh vẽ, hình ảnh, trang trí mang hình ảnh thiên nhiên, rừng núi, bãi biển đều tốt cho sự thịnh vượng của bạn.
5. Lựa chọn màu sắc phù hợp
Nên lựa chọn vải, sơn tường, khăn trải bàn hay các họa tiết trang trí màu nâu, xanh lá, xanh dương, đen, ánh đỏ hoặc sắc vàng cho khu vực tiền tài trong nhà. Những màu sắc nổi bật như đỏ tươi, đỏ san hô, tím hoặc hồng cũng có thể sử dụng tuy nhiên nên tránh dùng những màu sắc này như gam màu chủ đạo.
6. Trang trí bằng những đồ vật, hình ảnh đặc trưng cho sung túc và dư giả
Có thể lựa chọn những hình ảnh hoặc cá nhân đại diện cho sự giàu có hay những vật có thể tạo động lực thúc đẩy nguồn năng lượng của sự giàu có cho bạn.
7. Bày biện theo phương pháp phong thủy cổ điển
Bể cá phong thủy, thuyền tài lộc, tiền xu cổ, bình tài lộc, tượng Phật cười, đá phong thủy (citrine, pyrite)… đã được sử dụng nhiều trong nhiều thế kỷ với ý nghĩa có thể thu hút sự giàu có.
8. Luôn giữ nguồn năng lượng vui vẻ, sôi động bằng những mùi hương dễ chịu, tốt cho sức khỏe bằng hoa tươi, tinh dầu hoặc nến thơm.

Không chỉ thu hút năng lượng phong thủy của sự thịnh vượng và giàu có, ánh sáng vừa đủ, những bản nhạc không lời, những mùi hương dễ chịu còn có tác động tích cực đến hệ thần kinh, giúp tâm trạng thư giãn, thoải mái.
Theo Báo Xây dựng  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 mẹo trang trí nội thất để đón tài lộc

Chùa Tự Khánh - Hà Nội

Chùa Tự Khánh có tên nôm là chùa Vẽ, chùa Cả, gọi theo địa danh là chùa Đông Ngạc. Chùa tọa lạc tại xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, TP. Hà Nội
Chùa Tự Khánh - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Tự Khánh có tên nôm là chùa Vẽ, chùa Cả, gọi theo địa danh là chùa Đông Ngạc. Chùa tọa lạc tại xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, TP. Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 10km về phía Đông Bắc.

Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được xây dựng vào đời Hậu Lê. Tấm bia đời Lê Thần Tông (1653-1661) đã ghi công đức của ông Nguyễn Phúc Ninh và bà Trần Thị Ngọc Luân đã hưng công sửa ngôi chùa to lớn. Hai nhân vật trên được chọn là hậu Phật của chùa.

Chùa Tự Khánh có 59 gian, kiến trúc nội tự chữ “Đinh”, ngoại tự chữ “Quốc”. Chùa Tự Khánh với phong cách nghệ thuật thế kỷ 18 – 19. Chùa có quả chuông đúc năm Diên Hựu thứ 2 (1315). Trong chùa hiện còn có tấm bia có niên đại Thịnh Đức ghi rõ công đức của vợ chồng ông Nguyễn Phúc Ninh, cúng gia tư điền sản để tu bổ, dựng lại chùa, và được dân làng tôn làm Hậu Phật.

Hiện tại, chùa còn 53 tượng đẹp, 1 quả chuông nặng 750kg treo ở gác chuông có niên đại Gia Long 16 (năm 1817) và 2 quả chuông nhỏ hơn cũng được đúc vào thời Nguyễn. Chùa còn 3 bộ cửa võng, nhang án, hoành phi, câu đối được chạm trổ tinh xảo.

Kiến trúc chùa gồm tam quan, gác chuông, nhà vuông với mái chồng diêm, chùa chính, nhà Tổ. Chùa chính có kết cấu hình chữ Đinh gồm: tiền đường 3 gian 2 chái, hậu cung có mái chồng diêm.

Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa còn giữ được 5 pho tượng được tạo tác công phu mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII – XIX và nhiều đồ thờ tự cổ. Chùa được liệt vào danh sách “Chùa có ít tượng nhất” trong bảy cái nhất của chùa Hà Nội.

Chùa Đông Ngạc đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1993.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Tự Khánh - Hà Nội

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd