Tướng các kiểu móng tay –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Tên sao | Đẩu phận | Âm dương ngũ hành | Hóa | Chủ | Tứ hóa |
Thái âm | Trung thiên Đẩu | Âm thủy | Phú | Tài bạch, điền trạch | Ất: kị, Đinh: Lộc, Mậu: Quyền, Canh quý: khôi |
Thuộc tính âm dương của sao Thái Âm là âm Thủy, là tinh túy của nước, là cát tinh trong chòm trung thiên Đẩu, hóa khí là phú (giàu) và tài bạch, chủ cung điền trạch. Tiền tài của sao Thái Âm được do tích lũy dần, một đời tiền bạc ổn định.
Sao Thái Âm và sao Thái Dương đều là ghi biểu trên trời, chia ra trưởng quản đêm (Thái Âm), và ngày (Thái Dương), đồng thời cũng chia ra Thái Dương trưởng quản "sang cả" (quý) và Thái Âm trưởng quản "giàu có (phú). Trong mệnh bàn mức độ sáng miếu hay hãm của sao Thái Âm sẽ thay đổi theo từng cung giờ. Cung Dậu, Tuất, Hợi, Tý là "đắc viên" (sáng); các cung Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi là "hãm địa" (mất sáng); các cung Dần, thân là điểm mọc và lặn".
Sao Thái Dương chủ về phát sớm, sao Thái Âm chủ về phát muộn. Sao Thái Âm chia thành thượng huyền nguyệt (Trăng thượng huyền) và hạ huyền nguyệt (trăng hạ huyền), thượng huyền là cơ yếu, hạ huyền thì luận giảm uy. Theo âm lịch, ngày mồng 1 là ngày sóc, là mất sáng, đến khoảng mồng 8 là trăng thượng huyền, sau đó trăng tròn dần, đến ngày 15 ngày vọng, trăng tròn và sáng. Tiếp theo trăng sẽ khuyết dần, đến khoảng ngày 22 trăng hạ huyền. Sao Thái Âm tốt nhất (tối cát) đối với người sinh vào ngày trung thu tháng 8, tốt kế đó là người sinh vào ngày 15 mỗi tháng. Những người sinh vào trăng thượng huyền, sao Thái Âm nằm ở cung nào, sự việc ở cung đó sẽ dần dần trở nên tốt đẹp. Nếu sinh vào trăng hạ huyền, sao Thái Âm ở cung nào, sự việc ở cung ấy sẽ xấu dần đi.
Nếu sao Thái Âm đồng cung hoặc hội chiếu với các sát tinh như Cự Môn, Kình Dương, Đà La, Liêm Trinh, Thất Sát là tổ hợp bất lợi, chủ về thương tật tàn phế, nhưng nếu là sư tăng, đạo sĩ lại tốt lành. Sao Thái Âm rơi vào hãm địa lại gặp sát tinh, chủ về lộc chỗ khuyết, tiền đến rồi lại đi, một đời vất vả, tốt nhất là đi xa quê hương tìm cơ hội phát triển, đồng thời cần chú ý tới các vấn đề tiền bạc mà gâp phải rắc rối, hơn nữa dễ bị lo âu, mổ xẻ phẫu thuật.
Sao Thái Âm ưa gặp ba sao hóa cát là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa khá có tác dụng trợ lực cho nó. Sao thái Âm gặp sao Lộc Tồn và Hóa Lộc sẽ tăng thêm độ sáng, một đời được hưởng nhiều nguồn tiền tài không cạn. Sao Thái Âm gặp sao Hóa Khoa thì nhờ tiền tài mà được nổi danh. Sao Thái Âm nếu ở cung hợi thì không sợ sao Hóa Kị, gọi là "biến cảnh" tuy có thay đổi nhưng cát lợi. Người sinh năm Canh không sợ sao Thái Âm Hóa Kị, vì đã gặp sao Thái Dương Hóa Lộc; nếu sao Thái Dương và sao Thái Âm đồng cung hoặc hội chiếu có thể dung Hóa Lộc của sao Thái Dương để khống chế sao Hóa kị của sao Thái Âm, vì vậy sẽ giảm bớt mức độ tổn hại. Nếu sao Thái Âm lạc hãm mà Hóa Kị, do bản thna6 không sáng, nên không có uy hiếp gì đáng kể.
Sao Thái Âm ưa gặp lục cát tinh Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt và Lộc Tồn, nếu ở cung nào miếu địa, vượng địa mà gặp Địa Không, Địa Kiếp, tuy bất lợi cho tiền tài, nhưng không ảnh hướng đến khoa cử danh tiếng.
Sao Thái Âm (mặt trăng) chuyển động quanh trái đất liên tục không ngừng nghỉ, cho nên cũng chủ về bôn ba vất vả, đặc biệt là khi ở vào bốn cung Mã (Dần, Thân, Tỵ, Hợi), mệnh vất vả càng rõ nét. Nếu đồng cung với sao Thiên Cơ cũng mang tính động, dễ có hiện tượng lưu lạc tha hương, mưu sinh nơi xa để tìm hướng phát triển.
Tiền tài của sao Thái Âm là thu nhập cố định, thường làm nhiều nghề, là tiền có được do tích lũy dần dần, chứ không phát tài đột ngột.
Nếu sao Thiên Phủ hoặc hai sao Vũ Khúc, Tham Lang thủ cung mệnh tại sửu hoặc mùi mà sao Thái Dương, Thái Âm kèm 2 cung bên cạnh (giáp cung), là cách cục "Nhật nguyệt giáp mệnh", chủ về một đời giàu có. Nếu sao Thái Âm nhập miếu, thủ mệnh tại cung hợi, lại sinh vào ban đêm là cách cục "nguyệt lãng thiên môn", (trăng sáng cổng trời), là chủ về rất giàu sang. Cung mệnh an tại Mùi, sao Thái Dương tại Mão, sao Thái Âm tại cung hợi nhập miếu hội chiếu, là cách cục "Minh châu xuất hải" (ngọc sáng ra khỏi biển), đường công danh rộng mở. Cung mệnh an tại sửu, mùi, sao Thái Dương và Thái Âm tam hợp, thế vượng hội chiếu; hoặc sao Thái Dương tại thìn, tỵ, sao Thái Âm tại tuất, dậu, đế vượng thủ mệnh và triều chiếu lẫn nhau, là cách cục "Nhật nguyệt tịnh minh" (mặt trăng mặt trời cùng sáng, hoặc gọi là "Đan trì quế trì" thềm son bậc quế), chủ về sớm được công danh. Sao Thái Âm, Thái Dương cùng ở cung sửu, mùi thủ mệnh hoặc chiếu về cung mệnh, là cách cục "Nhật Nguyệt đồng lâm" (mặt trăng và mặt trời cùng đến), sẽ làm quan to. Thái Dương,Thái Âm ở cung điền trạch tại sửu mùi, hoặc chia ra ở hai cung thìn và tuất chiếu về cung điền trạch, là cách cục "Nhật Nguyệt chiếu bích" (mặt trăng và mặt trời soi vách), là mệnh phú hào. Sao Thái Âm và Thiên Đồng cùng thủ mệnh hoặc ở cung điền trạch tại tí, là cách cục "Nguyệt sinh thương hải" (trăng mọc trên biển xanh hoặc còn gọi là "Thủy trùng quế ngạc" nước trong hiện cành quế), sẽ được chức quan cao quý. Các sao Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương tụ hội tại ba cung mệnh quan tài là cách cục "Cơ nguyệt đồng lương", thích hợp trong lĩnh vực văn hóa giáo dục, truyền bá. Sao Thái Âm, Văn Khúc cùng đóng tại cung phu thê (sao Thái Âm tất cả sẽ ở thế miếu địa, vượng địa), gặp cát tinh là cách cục "Thiềm cung chiết quế" (bẻ quế cung trăng), nam mệnh sẽ gặp vợ sang, nữ mệnh sẽ sinh quý tử. Cung mệnh an tại Thìn, Mão, sao Thái Âm lạc hãm thủ cung mệnh, sao Thái Dương lạc hãm ở cung thiên di, là cách cục "Nhật Nguyệt phản bối" (Mặt trời, mặt trăng trở mặt) là mệnh vất vả. Sao Thiên Đồng, Thiên Lương lạc hãm thủ mệnh tại cung ngọ lại gặp sát tinh, là cách cục "Nguyệt Đồng ngộ sát", mọi việc không thuận lợi. Sao Thái Âm, Thái Dương lạc hãm ở cung tật ách là cách cục "Nhật Nguyệt tật ách", chủ về cơ thể trở ngại. Sao Thái Âm lạc hãm tại cung mệnh tại cung thìn, sao Thiên Lương ở cung thân (quan lộc) lạc hãm và hội chiếu; hoặc sao Thiên Lương lạc hãm thủ mệnh tại cung thân, sao Thái Âm cung thìn (tài bạch) cũng lạc hãm mà hội chiếu, là cách cục "Thiên lương củng nguyệt" (Thiên lương chầu mặt trăng), chủ về một đời nhiều biến động, phiêu bạt tha hương, dễ mất mạng vì tửu sắc, hoặc phá hoại gia sản.
Giáp Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1924, 1984 và 2044
Cung CHẤN.
Trực BẾ Mạng HẢI TRUNG KIM (vàng dưới biển)
Khắc BÌNH ĐỊA MỘC Con nhà BẠCH ĐẾ (phú quý)
Xương CON CHUỘT
Tướng tinh CON CHÓ SÓI
Luận xem số mạng tuổi này,
Giáp Tý số cực chịu nhiều nổi trôi.
Ly hương tổ quán xứ xa,
Anh em cô bác ai giàu nấy ai.
Lỗi sanh phải chịu bơ vơ,
Cực nhọc lo lắng tại giờ sinh ra.
Số người chết hụt nhiều lần,
Người nào thất đức phải sa ngục hình.
Tu nhân tích đức hiển vinh,
Rủi bị tai nạn thánh thần độ cho.
Số này hậu vận mới no,
Tiền vận làm có của kho chẳng còn.
Cuộc sống tuổi nhỏ nhiều đau buồn, cuộc đời có nhiều rủi hơn may. Nhưng bây giờ và trở đi, cuộc sống có phần bảo đảm và vững chắc hơn. Năm Bính Ngọ không tốt lắm. có nhiều việc không hay đưa đến cho cuộc đời. Nhưng vượt qua được thì nắm lấy nhiều thắng lợi lớn lao vào năm 44 tuổi. Tuy có nhiều khổ tâm nhưng bản thân ít cực khổ. Cuộc sống bắt đầu thay đổi mạnh hơn vào năm 44 tuổi. Tuổi 43 quá xấu không được tròn đẹp, nên cẩn thận, dè dặt và đề phòng. Tóm lại, cuộc đời nhiều rủi, có thể làm nên sự nghiệp được vững chắc phải chịu đựng hết năm 43 mới có thể vững được. Tuổi Giáp Tý hưởng thọ trung bình từ 60 đến 66 tuổi đó là phước đức, biết làm phước tu thân, lấy đạo đức làm căn bản cho sự sống. Nếu có trường hợp ác độc, hoặc không làm phước đức thì giảm kỷ. Cuộc sống theo tử vi của tuổi Giáp Tý tuy có nhiều giai đoạn khó khăn nhưng ít khổ cực về thân thể, có một mức sống trung bình hơn là bần tiện.
Số tuổi Giáp Tý có đau khổ nhiều về việc tình duyên từ lúc nhỏ. Tình duyên được vững chắc. Tình duyên được vững chắc vào năm 30 tuổi trở đi. Về vấn đề này có rất nhiều khe khắt buổi đầu. Sự tạo lấy hạnh phúc rất khó khăn. Tuy nhiên ngay bây giờ thì đã hưởng được nhiều êm ấm trong gia đình. Nếu bạn sanh vào những tháng này thì có nhiều thay đổi về lương duyên hay ít ra cũng có nhiều đau khổ về đ àn bà. Đó là những tuổi Giáp Tý sanh vào những tháng 1, 5, 6, 9, 11 và 12. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng này thì số lương duyên phải thay đổi 3 lần, đó là những tháng 5,6 và 9. Và những tháng này thì bạn hai lần thay đổi lương duyên, đó là những tháng giêng, 2, 7, 10, 11 và 12. Ngoài ra nếu sanh vào những tháng này thì cuộc lương duyên trở nên chung thủy, đó là những tháng 3, 4 và 8. Về lương duyên có nhiều khe khắt tùy theo tháng sanh của bạn mà tạo lấy hoàn cảnh xảy ra trong cuộc đời. Vậy bạn nên cần nhớ xem sanh vào tháng nào để xem cuộc đời còn có thay đổi nữa hay không.
C ông danh vẫn còn ở mức trung bình và khó mà lên đến tột đỉnh của danh vọng, nếu có cũng chỉ là một thời gian ngắn ngủi, không được vững chắc và lâu bền. Tuy công danh không sáng tỏ lắm, nhưng có nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ. Nếo có chí sáng suốt và biết nhận định, gia đạo tuy có một vài khe khắt, nhưng sau cùng được ấm êm , cuộc đời ít bị trở ngại về vấn đề gia cảnh, số trùng phùng, được nhiều mến thương, không đến nỗi phải bận tâm cho lắm về vấn đề này. Tuổi Giáp Tý hoàn thành sự nghiệp rất sớm, tuy không vững chắc, có khi lại bị sụp đổ bất ngờ, nhưng ít ra cũng thâu được nhiều kết quả mong muốn, không đến đỗi phải nghèo túng như những kẻ khác. Qua 44 tuổi thì sự nghiệp vững chắc hơn, còn phải chịu đựng năm 43 tuổi nữa. Tiền tài liên quan đến sự nghiệp rất nhiều, vấn đề tiền tài cũng thăng trầm lắm, tuy có nhiều nhưng lại ra vô bất thường, không nắm được sự vững chắc của nó. Nhờ sáng trí mà sự nghiệp lẫn tiền tài mới có được như ngày nay. Số hoàn thành vững chắc sự nghiệp và tiền bạc điều hòa vào năm 44 tuổi. Bây giờ hãy còn là một vấn đề mong manh lắm vậy.
Muốn làm ăn cho vững vàng khỏi sợ bị thất bại liên miên, làm hao hụt tiền bạc, làm cho gia cảnh thêm phần túng thiếu. Sự làm ăn cũng liên quan đến cuộc sống rất nhiều, cho nên trong vấn đề làm ăn, hùn hạp hay tự mình đứng ra gánh vác. Sự lựa chọn người làm công hay giúp đỡ công việc cũng rất cần thiết cho sự hợp tuổi, hợp tình. Có khi gặp tuổi kỵ, bạn phải mang lấy thất bại. Vậy muốn làm ăn cho phát đạt và thâu nhiều kết quả, bạn cần lựa những tuổi này: Giáp Tý, Bính dần, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Nhâm Thân. NHững tuổi này rất hạp với tuổi Giáp Tý của bạn. Nên tìm những tuổi này mà làm ăn thì phấn chấn và phát đạt mạnh mẽ.
Sự lựa chọn vợ chồng được sống cao sang quyền quý:
Khi yêu thương nhau, người ta không nghĩ đến sự trùng hợp tuổi tác, cũng như việc lương duyên không lựa chọn, vì việc vợ chồng có liên quan mật thiết đến sự sống rất nhiều, nếu sự lựa chọn không đúng sẽ phải có nhiều khổ tâm, sống một cuộc đời bần tiện. Bởi vậy trong việc lương duyên cũng cần lựa chọn cho kỹ càng.
Những tuổi hợp với tuổi mình mới làm ăn phát đạt được, và sau đây là những tuổi trùng hợp, có thể tạo được một cuộc sống cao sang quyền quý cho bạn, đó là những tuổi hạp với tuổi Giáp Tý như: Giáp Tý hai vợ chồng cùng một tuổi, Bính Dần, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Quý Hợi. Tuổi Giáp Tý (gái) làm cho cuộc đời có nhiều danh giá, nhiều người mến thương, tạo cho chồng có quyền tước, vợ chồng êm ấm.
Tuổi Bính Dần hưởng được sang giàu về sau, tuổi nhỏ thì có nhiều long đong, lớn mới thành.
Tuổi Kỷ Tỵ rất tốt cho vấn đề danh vọng, con đủ nuôi, tài lộc phát triển mạnh mẽ, sống cuộc đời sung túc.
Tuổi Canh Ngọ sanh con giá đầu lòng thì hạp, cuộc sống bình thường nhưng không đến đỗi thiếu thốn, công danh ở mức trung bình.
Tuổi Quý hợi thì tánh người vợ hiền và thông minh, gia đình giàu có, có chức phận, thuận hòa gia đạo.
Trong sự lựa chọn hôn nhân, bạn muốn không xảy ra những chuyển rắc rối, hay cuộc sống có nhiều đau buồn, lắng đọng tâm tư, thì nên tránh đi những tuổi như Đinh Mão, Quý Dậu, Kỷ Mão, Tân Dậu. Những tuổi này rất đại kỵ với tuổi Giáp Tý. Nếu có sự yêu thương nhầm lẫn thì sẽ xảy ra cảnh biệt ly và tuyệt mạng bất ngờ; vậy nên khi lựa chọn lương duyên, bạn cần nên tránh đi những tuổi đó, để không có sự đổ vỡ hay đau buồn cho cuộc đời. Tuổi Giáp Tý đại kỵ những tuổi Đinh Mão, Quý Dậu, Kỷ Mão và Tân dậu. Năm nào gặp phải sao hạn, phải cúng sao nhằm ngày 18 âm lịch đốt 22 ngọn đ èn, lấy 22 chén nước lạnh vái về hướng Tây, và tùy theo mỗi năm có một vì sao mà cúng. Nếu gặp những tuổi kỵ trên cần phải tránh xa hay van vái Phật, Trời, nên làm những điều phát thiện, nên tu tâm, dưỡng tánh, làm phước đức nhiều thì tốt.
Tuổi Giáp Tý thuộc mạng kim, tánh ôn hòa và nhẫn nại, những năm khó khăn nhất mà bạn phải trải qua, đó là những năm mà bạn vừa đủ 20, 24, 25, 29 và 30 tuổi. Những năm này chẳng những khó khăn về việc làm ăn, mà gia đạo hay có sự xích mích, tánh tình thường sôi động, không định được một đường hướng hay căn bản cho cuộc sống. Bạn vượt qua được là một sự may mắn cho cuộc đời, tuy những năm quá nhiều khó khăn, đau buồn, lo nghĩ dồn dập, bạn nhờ ở sự an ủi của bạn bè nhiều hơn là gia đình thân tộc. Bạn nên nhớ lại, lấy kinh nghiệm đó mà làm căn bản cho cuộc sống ngày nay vậy.
Bất kỳ ngày nào trong cuộc đời, không cần ghi rõ ngày, tháng, bạn cũng có thể xuất hành được, mà không sợ tai nạn, thất bại hay phát triển tài lộc. Tuổi Giáp Tý hạp ngày chẵn, giờ chẵn và tháng lẻ. Khi muốn xuất hành bạn phải lựa, thí dụ: 8 giờ ngày 2 tháng 1, đó là giờ chẵn, ngày chẵn và tháng lẻ vậy. Cứ như vậy mà làm thì chắc chắn khôngbao giờ bạn gặp trường hợp khó khăn cả.
Từ 43 đến 44 tuổi: Năm 43 tuổi gặp sao Kế Đô, hạn địa võng, trong nhiều năm có nhiều đau buồn, bịnh tật hay tang khó bất ngờ, cần nhẫn nại, cầu Trời Phật cho qua khỏi tai ương. Năm này có nhiều khó khăn nhứt xảy ra trong đời bạn, nên sáng suốt và bình tĩnh trước mọi biến động trong gia đình cũng như về mặt xã hội tình cảm. Những vấn đề này thường xảy ra ở khoảng giữa năm. Qua 44 tuổi thì vững vàng bù đắp lại những đau buồn đó. Sự nghiệp cũng tiến lên, tiền tài đầy đủ, gia đạo trở nên yên hòa, êm ấm.
Từ 45 đến 47 tuổi: Hai năm này, cuộc sống bắt đầu trỗi dậy và phát vượng mạnh mẽ nhất, nghề nghiệp và tiền bạc cũng phát triển mạnh mẽ hơn nữa, gia đạo vui tươi, phần con cái có bịnh hoạn, hay thay đổi nghề nghiệp, việc làm, phần cá nhân có đau bịnh nhỏ vào năm 46 và 47 tuổi, mộ lần đau nặng vào năm 47. Ngoài ra việc làm ăn, gia đạo vẫn tiến triển đều đặn.
Từ 47 đến 50 tuổi: Việc gia đạo có nhiều bê bối, cá nhân thường có bịnh tật trầm trọng, nếu vượt qua được thì có phần ảnh hưởng con cái phải chịu lấy, gia đạo thường có sự bất an hơn. Năm 48, tạm yên, 49 có nhiều thay đổi nhà cửa hay việc làm. Vào tuổi 47 con cái có thăng quan, tấn tước hay làm nên cơ nghiệp.
Từ 51 đến 55 tuổi: Khoảng thời gian này trung bình, tiền bạc ra vô đều đặn, không có những sự thất bại nữa mà chỉ còn nắm lấy thành công. Tuổi Giáp Tý qua năm 51, 52 tuổi con cháu có tấn phát, tài lộc điều hòa, tuổi 53 và 54, phần con cái tấn phát mạnh hơn, phần cá nhân trong tình trạng bình thường, cuộc sống không có gì thay đổi quan trọng.
Từ 56 đến 60 tuổi: Số này có thể biến đổi về thân thế trong những năm 55-56, hai năm giằng co với sự sống. Tuy nhiên nhờ ở phước đức gia tộc có thể kéo dài. Con cháu có phần phát đạt tột độ vào những năm từ 55 đến 60 tuổi. Lúc này tiền bạc ít hao hụt, vào nhiều ra ít, cẩn thận cho bản thân vào những năm này
Xem thêm:
Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết
Xem bói tử vi tuổi Tý
Xem tử vi năm mới
Nếu chỉ dùng 4 từ để mô tả mối tình đầu của 12 chòm sao thì họ sẽ nói gì nhỉ? Hãy cùng xem 12 chòm sao tự thú về
► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu |
Cầu vượt có ảnh hưởng nhất định đến căn nhà, nó còn phân giới tuyến các nhà cao tầng. Năm tầng trên cùng và năm tầng dưới cùng sẽ chịu ảnh hưởng của cầu vượt còn các tầng khác lại không bị sao.
Đương nhiên, những hiện tượng đó chỉ xét theo phương diện Loan đầu. Chúng ta cần phải hiểu rõ một điều: Bất cứ Loan đầu nào cũng đều phải phối hợp cùng với lý khí thì mới có thể sản sinh ra ảnh hưởng tốt hoặc ảnh hưởng xấu đến phong thuỷ. Do đó, cửa sổ của căn nhà đối diện với cầu vượt không nhất định xuất hiện vấn đề ngay. Mà phải tiến hành nghiên cứu thêm về lý khí để suy đoán rốt cuộc khoảng thời gian nào sẽ xuất hiện vấn đề.
Giả thiết hung tinh của một năm đồng thời bay đến hướng của cầu vượt, cơ hội xảy ra chuyện tương đối lớn. Còn ngược lại thì chẳng xảy ra chuyện nguy hiểm nào. Vì thế, đừng có nhìn thấy cầu vượt là nhất định cho đó là Thiên trảm sát, ảnh hưởng không tốt đến phong thuỷ mà phải kiểm tra vị trí của sát đó và vị trí ấy bị Phi Tinh nào ảnh hưởng thì mới tạo thành sát. Nói một cách đơn giản, Loan đầu không tốt phải kết hợp với lý khí xấu thì mới xảy ra chuyện không hay.
Một số gia đình khi thấy cửa sổ nhà mình đối diện với cầu vượt liền lắp thêm một tấm phản quang để tránh. Tuy nhiên cách này không có tác dụng.
Đầu năm 2017, Phong thủy số gửi tới các bạn độc giả những câu chúc mừng năm mới hay và ý nghĩa. Ngoài những tấm thiệp, nhưng phong bao lì xì hay những món quà chúc Tết, thì những lời nói, câu chúc mừng năm mới không thể thiếu.
Những câu chúc mừng năm mới hay nhất năm 2017 - Ảnh 1
Những câu chúc mừng năm mới hay nhất năm 2017 - Ảnh 2
Những câu chúc mừng năm mới hay nhất năm 2017 - Ảnh 3
Những câu chúc mừng năm mới hay nhất năm 2017 - Ảnh 4
Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn bạn được ngọt ngào.
Vừa đủ THỬ THÁCH để giữ bạn luôn kiên nhẫn.
Vừa đủ HY VỌNG để cho bạn được hạnh phúc.
Vừa đủ THẤT BẠI để bạn mãi khiêm nhường.
Vừa đủ THÀNH CÔNG để giữ bạn mãi nhiệt tâm.
Vừa đủ BẠN BÈ để bạn được an ủi.
Vừa đủ NHIỆT TÌNH để đời bạn được thêm hân hoan.
Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan những thất vọng.
Chúc mình năm mới gặp may
Nhà ai vẫn mãi bóng ngây đợi chờ
Tuy rằng năm trước thờ ơ
Năm nay phải ráng qua vơ được nàng.
- Chúc mọi người năm mới, tiền vào bạc tỉ, tiền ra rỉ rỉ, miệng cười hi hi, vạn sự như ý, cung hỉ, cung hỉ!
- Mỗi năm là một mùa hoa nở, mỗi năm là một mùa bội thu.
Cuộc sống như cái cây đang lớn. Đó là lời chúc bạn trong năm mới.
- Năm hết. Tết đến. Đón hên về nhà. Quà cáp bao la. Một nhà không đủ. Vàng bạc đầy tủ. Gia chủ phát tài
Trên đây là tổng hợp những câu chúc mừng năm mới hay nhất, bạn không cần phải đau đầu suy nghĩ về những câu chúc nào hay, câu chúc nào ý nghĩa để chúc mừng ông bà, bố mẹ, thầy cô giáo, bạn bè.
: Những lời chúc năm mới hay Những lời chúc năm mới hay nhất cho bạn bè Tết 2017 Thơ vui chúc tết Những lời chúc mừng năm mới hay Những câu thơ chúc tết hay nhất Những bài thơ chúc tết hay Những câu chúc mừng năm mới Những câu chúc tết hay
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật? |
Quán quân: Tuổi Thìn
Nguyên nhân “đứt gánh giữa đường” trong tình yêu: Quá chú trọng đến bản thân mà không quan tâm đến cảm giác của đối phương.
Bản tính trời sinh của người tuổi Thìn là tự tin, thậm chí có đôi chút tự cao tự đại, dễ gây bất hòa với mọi người. Hơn thế họ còn khá nóng tính, không kiên trì và nhưng lại thích nắm quyền lực trong tay.
Trong tình yêu, những tính cách này của người tuổi Thìn sẽ gây ra không ít phiền toái chẳng hạn như tranh cãi, gây mâu thuẫn hoặc gò ép đối phương phải nghe theo ý kiến của mình. Nếu không sửa đổi bản tính, tuổi Thìn chỉ có thể yêu nửa vời hoặc bị “đứt gánh giữa đường”.
Á quân: Tuổi Tuất
Nguyên nhân chủ yếu: Quá coi trọng sự nghiệp mà dành ít thời gian quan tâm tới nửa kia.
Tính cách kiên trì của người tuổi này sẽ khiến họ thực hiện tốt công việc được giao mà không có chuyện bỏ dở giữa chừng. Với họ, công việc là tất cả những gì tốt đẹp nhất trên cuộc đời này, nếu không làm việc, họ sẽ không thấy mình được sống.
Vì quá coi trọng sự nghiệp nên người tuổi Tuất có thể hy sinh cả tình yêu của mình nếu như phải chọn một trong hai điều này. Điều này khiến đối phương cảm thấy buồn tủi vì không dành được sự quan tâm nhiệt tình từ người yêu của mình.
No3: Tuổi Sửu
Nguyên nhân chủ yếu: Tính cách bảo thủ, không biết cách tạo sự lãng mạn.
Tính cách cố chấp và có phần bảo thủ, không linh hoạt của người tuổi Sửu chính là rào cản khiến họ khó có được một tình yêu lãng mạn, tuyệt vời.
Hơn thế, lòng tự trọng của người tuổi Sửu quá cao nên sẽ không có chuyện họ chủ động tỏ tình hay thổ lộ nỗi lòng, sự quan tâm của mình cho đối phương biết. Họ cứ âm thầm đợi chờ, không chủ động tạo sự lãng mạn nào cả, chờ cho đến khi đối phương tự gật đầu đồng ý là coi như xong. Thái độ nửa vời này của người tuổi Sửu sẽ khiến đối phương cảm thấy khó chịu và ức chế.
No4: Tuổi Ngọ
Nguyên nhân chủ yếu: Không quan tâm tới vẻ ngoài nên không biết cách làm đẹp.
Người tuổi này thường mong muốn có được cuộc sống bình yên và thoải mái. Tính tình thì cố chấp và không dễ thay đổi bản tính của tuổi Ngọ khiến họ khó tiếp thu những điều mới lạ mà cứ bảo thủ những gì mà mình cho là đúng.
Ngay trong chuyện ăn mặc cũng vậy. Họ cho rằng mặc sao cho thoải mái là được chứ không cần phải câu lệ chuyện xinh đẹp hay phô trương trước mặt người khác. Điều đó khiến họ “mất điểm” trong mắt đối phương. Đó cũng là một trong những lý do chủ yếu khiến mối tình của họ không đi đến tận đích cuối cùng.
No5: Tuổi Dần
Nguyên nhân chủ yếu: Tham vọng và tính chiếm hữu quá cao, khiến đối phương cảm thấy ngột ngạt và khó nhẫn nhịn được.
Vốn ghen tuông vô đối, người tuổi Dần khó mà tin tưởng tuyệt đối vào người khác. Ngoài ra, vì quá yêu và yêu một cách chân thành, cuồng nhiệt đối phương nên tuổi Dần luôn muốn người ấy phải kè kè bên mình hoặc phải biết đích xác “tung tích” của nửa kia đang làm gì và ở đâu.
Điều đó khiến đối phương cảm thấy ngột ngạt, khó chịu vì bị gò ép và không tin tưởng. Đôi lúc nửa kia sẽ cảm giác như không thể nhẫn nhịn được nữa mà nghĩ tới chuyện chia tay. Tình duyên của tuổi Dần theo đó mà sẽ bị đặt dấu chấm hết vô cùng bi thương.
Mr.Bull
Thói quen trò chuyện của 4 nhóm máu Nhóm máu cũng ảnh hưởng đến cách nói chuyện và tính cách của mỗi người đấy nhé, chúng mình cùng tìm hiểu thui. |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Hóa Kị là dương thủy, hóa khí là thị phi, chủ về đa sự, nhiều lỗi lầm và đố kị, còn có tên gọi khác là sao Kế Đô, chủ về thị phi. Sao Hóa Kị có hàm ý mở rộng là trắc trở, không thuận lợi; hiển lộ là biến hóa bề ngoài, đem lại tai họa, nhiều điều tiếng thị phi, cụ thể hóa tình trạng bất lợi.
Sao Hóa Kị chủ về đa sự, chuyện gì muốn xen vào, nên dễ chuốc nhiều điều tiếng thị phi, gặp nhiều phiền phức, khiến cho mọi thứ biến động bất an.
Sao Hóa Kị tuy chỉ về một đời nhiều tai họa, mất mát, chuyện gì cũng không thuận lợi, nhưng nếu theo đuổi các lĩnh vực nghiên cứu triết học, y học, khoa học kỹ thuật, chính trị, sẽ tạo được thành tựu và biểu hiện tốt.
Sao Hóa Kị đồng cung với các sao Tử Vi, Thiên Phủ, Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc thì có thể hiển quý. Nếu đồng cung với tứ sát tinh Hỏa, Linh, Kình, Đà thì tuy có phát đạt cũng không giữ được tiền của. Sao Hóa Kị nếu độc tọa tại gặp tứ sát tinh và Phá Quân, Thiên Sứ, Địa Kiếp, Thiên Không thì chủ về bôn ba vất vả còn mang bệnh tật, là tăng ni đạo sĩ phải hoàn tục, nữ mệnh nghèo khổ suốt đời.
Sao Thái Dương, Hóa Kị tại các cung miếu vượng, Dần, Mão, Thìn, Tỵ; sao Thái Âm Hóa Kị tại các cung miếu vượng Dậu Tuất, Hợi, Tí lại luận là có phúc, những trường hợp còn lại Hóa Kị đều phải xem lại thuộc tính ngũ hành của bản thân sao đó; thí dụ như sao Liêm Trinh Hóa Kị tại cung Hợi, là hỏa nhập cung thủy, nếu lại là người mệnh thủy, thì sao Hóa Kị sẽ không hại. Sao Thiên Đồng, Hóa Kị tại cung Tuất, lại là người sinh năm Đinh, là cát. Các sao nếu Hóa Kị tại các cung miếu vượng là không kị. Các sao Hóa Kị tại cung hãm thì càng thêm kị. Thái Dương, Thái Âm, Hóa Kị tại cung hãm, là đại hung. Sao Liêm Trinh Hóa Kị tại cung hãm, càng thêm kị.
Hai Hóa Kị (mệnh, đại hạn, lưu niên, lưu nguyệt) trở lên, lại gặp thêm hung tinh, sát tinh hội chiếu; hoặc bốn cung Hóa Kị đồng cung, thì sẽ là bĩ cực thái lai, nhưng vẫn phải chú ý tình hình sức khỏe bản thân.
Sao Hóa Kị tại cung Tí, Sửu nhập miếu; đắc địa tại cung Mão; lợi tại cung Thìn, Mùi; không đắc địa tại cung Thân, Dậu lạc hãm tại bốn cung Dần, Ngọ, Tuất, Tỵ.
Buông xả mọi phiền não trong cuộc sống để tâm bình an là niềm hạnh phúc lớn nhất của mỗi người…
Ai cũng biết hạnh phúc được xây dựng trên nền tảng sự bình an và tự tại. Đây là ước mơ của cuộc đời mà con người chúng ta ai cũng mong mỏi đạt tới.
Theo vòng quay thời gian khiến cho nhịp sống càng trở nên hối hả và gấp gáp hơn. Con người luôn lo toan và tất bật với miếng cơm manh áo để sinh tồn thì việc tìm được sự thanh thản trong tâm hồn không phải điều dễ dàng. Bởi vậy, tại sao có rất nhiều người giàu sang, đạt được những gì mình mong muốn nhưng vẫn không cảm nhận được hạnh phúc. Bởi họ luôn gặp phải căng thẳng, đấu tranh để giữ vững những gì mà mình đang có.
Trong cuộc sống, khi cảm thấy quá mệt mỏi và căng thẳng thì có rất nhiều người tìm tới nguồn cội tâm linh như đi chùa lễ Phật để cầu may, cầu an hoặc đọc những cuốn sách Phật Pháp với mong muốn tìm về sự bình an và giải tỏa những bế tắc.
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt một câu hỏi cho một vị Sa môn là: “Tuổi thọ của con người dài trong bao lâu?” và vị Sa môn đã trả lời là: “Chỉ dài bằng một hơi thở”. Đức Phật nói: “Đúng vậy. Ông là người hiểu đạo” (trích trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương).
Cuộc sống mỗi con người chúng ta chỉ tồn tại trong một hơi thở vậy tại sao chúng ta cứ để tâm mình mãi luẩn quẩn trong “u mê” và “phiền não”?
Nếu như con người biết buông xả trong đời sống hiện tại. Buông đi những lợi danh, buông đi những hận thù chấp nhặt. Đồng thời xả đi những mưu cầu tính toán cho bản thân, xả đi những “tham – sân – si” trong cuộc sống thường nhật thì sẽ tự tìm thấy cho mình niềm an vui và thanh thản trong tâm hồn.
Bởi khi biết buông xả thì tâm ta mới trong sáng để vượt qua những cám dỗ của tham, sân, si, của mạn nghi ác kiến để rồi nhìn thấy niềm vui xung quanh ta.
Có buông xả được thì lòng ta mới rộng mở, ai nói gì không vừa ý cũng bỏ qua mà không chấp. Nếu ai có làm điều gì xúc phạm cũng dễ dàng tha thứ, mà nếu có giận có buồn thì chỉ một vài phút hoặc một vài giờ, cùng lắm qua một đêm rồi quên hết đi cho đời mình được an vui.
Nhưng hãy hiểu rằng buông xả không có nghĩa là buông bỏ, dẹp hết tất cả để chỉ lo cho bản thân mình. Không có nghĩa là chối bỏ, trốn tránh trách nhiệm trong cuộc sống.
Là người con Phật, chúng ta buông xả nhưng phải luôn giữ trọn vẹn trách nhiệm của một con người. Để bồ đề tâm thêm vững chắc, để trả ơn công lao sinh thành của cha mẹ, để vẫn chu toàn mọi việc, mọi bổn phận.
Tất cả được làm với tấm lòng bao dung mở rộng như một vị Bồ tát, xử xự theo tinh thần “Từ – Bi – Hỷ – Xả”. Còn đích đến nào tuyệt với hơn khi biết tìm lại và trở về với chính cuộc sống nội tâm của chúng ta, để trở về với sự thanh thản trong tâm hồn.
Bởi khi tâm hồn trong sáng, vui vẻ, là chúng ta đang tiến dần đến mục tiêu, thành công của cuộc sống mà chúng ta mong đợi. Chúng ta làm việc sẽ tốt hơn, sống đam mê hơn, nhân hậu, tha thứ và rộng mở, học thêm được nhiều điều…
Song quan trọng nhất là chúng ta được hạnh phúc, nhận nhiều yêu thương khi biết buông xả, có lẽ đó chính là quy luật và cũng là nghệ thuật sống, mang lại sự bình an cho mỗi người..
ư nên xem xét kỹ cả giờ, ngày sinh và tháng sinh của con trước khi đặt tên cho con.
Theo phong thủy, tất cả vạn vật trong vũ trụ đều phát sinh từ năm nguyên tố cơ bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Theo nguyên lý cơ bản, năm ngũ hành này tương sinh, tương khắc với nhau.
– Trong mối quan hệ Sinh thì Mộc sinh Hỏa; Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
– Trong mối quan hệ Khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.
Với mệnh Mộc cha mẹ có thể đặt tên con liên quan đến lửa (Hỏa), kim loại (Kim) hay đất (Thổ) bởi Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim.
Hành Thổ chỉ về môi trường ươm trồng, nuôi dưỡng và phát triển, nơi sinh ký tử quy của mọi sinh vật. Thổ nuôi dưỡng, hỗ trợ và tương tác với từng Hành khác. Khi tích cực, Thổ biểu thị lòng công bằng, trí khôn ngoan và bản năng; Khi tiêu cực, Thổ tạo ra sự ngột ngạt hoặc biểu thị tính hay lo về những khó khăn không tồn tại.
– Tích cực: Trung thành, nhẫn nại và có thể tin cậy.
– Tiêu cực: Có khuynh hướng thành kiến.
– Cho bé gái, có những cái tên đẹp như:
– Cho bé trai, có những cái tên đẹp như:
Đó là những cái tên thật ý nghĩa để các bạn có thể lựa chọn và đặt tên phong thủy mệnh Thổ cho bé. Những cái tên này sẽ đơn giản hóa cho các mẹ mỗi khi phải bỏ nhiều thời gian để lựa chọn một cái tên phù hợp với con yêu của mình.
No1: Tuổi Ngọ
Đây là con giáp thích cuộc sống tự do bay nhảy và đặc biệt coi trọng thế giới riêng của mình, với tình yêu cũng không ngoại lệ. Đôi khi, tính cách này trở nên thái quá và bị nhiều người đánh giá là cứng nhắc. Bù lại, người tuổi Ngọ khá chân thành và dành tình cảm nồng nhiệt cho đối phương. Song, sự nồng nhiệt này chỉ tồn tại ở giai đoạn đầu - khi tình yêu thăng hoa. Ngay sau đó, hoặc khi gặp phải trở ngại trong tình yêu, họ như biến thành con người khác, vô tâm, lạnh lùng và có thể "dứt áo ra đi" tìm niềm vui mới ngay tức thì.
Bởi vậy, trong mắt mọi người, mức độ phong lưu đa tình của con giáp này luôn cao ngất ngưởng.
No2: Tuổi Thìn
Người tuổi Thìn không những đa tình mà còn "ham của lạ". Họ thích chinh phục và trải nghiệm những điều mới lạ thay vì phải gò bó và thủy chung với những thứ cũ rích.
Hơn nữa, tính cách hài hước, chủ động của con giáp này rất dễ làm xao lòng người khác giới. Do đó, trong chuyện tình cảm, họ có rất nhiều "vệ tinh" vây quanh và thoải mái lựa chọn.
Hiểu được thế mạnh này của bản thân, người tuổi Thìn thường tỏ vẻ bất cần trong tình yêu. Nếu là người yêu của họ, bạn phải kiên nhẫn, hết mực chiều chuộng và thường xuyên "hâm nóng" tình yêu của mình để có thể giữ "trong ấm, ngoài êm".
No3: Tuổi Dậu
Mức độ phong lưu đa tình của người tuổi Dậu lại được thể hiện rõ nét trong cách tư duy dứt khoát và thẳng thắng khi chọn nửa kia cho mình. Hơn ai hết, họ biết rõ điều gì là cần thiết cho bản thân, hiểu thế nào là yêu thương hay hờ hững.
Sẽ không có chuyện họ đứng núi này trông núi nọ đâu nhé! Bởi khi đã không còn cảm giác yêu thương, người tuổi Dậu sẽ chủ động ra đi không hối tiếc. Với họ, thà đau một lần còn hơn phải day dứt suốt cuộc đời. Vậy nên, tốt nhất đường ai nấy đi để cả hai cùng thanh thản và thoải mái.
Mr.Bull (theo Dyxz)
Bàn thờ không phải cứ càng to càng linh nghiệm, đặc biệt ở các thành phố lớn, bàn thờ trong gia đình không nên quá to, cũng cần chú ý đến việc đặt vào vị trí thích hợp trong nhà, không nên vội vàng quyết định.
Bà mẹ nọ luôn lo lắng cho con, dù con cái đã thành gia thất bà rẫn luôn quan tâm đến sức khỏe và sự nghiệp của chúng. Đôi lúc quan tâm quá dẫn tới những ép buộc vô lý. Bà ép buộc con trai lớn nhất định phải đặt bàn thờ trong nhà để cầu cho gia đình bình an.
Trong phòng khách nhỏ hẹp của con trai, bà đã mua một ban thờ khá lớn, ép con đặt vào đó. Kết quả là nửa phòng khách là dùng để đặt bàn thờ. Xem bát tự của con trai và con dâu, hai người đều kỵ Hỏa, từ sau khi gia đình lập bàn thờ, do con dâu không tin thần thánh, thường xuyên giục chồng chuyển bàn thờ đi nhưng người con trai thì không muốn cãi lời mẹ, thế là chỉ vì việc ày mà hai vợ chồng thường xuyên cãi cọ.
Sau cùng bà mẹ đồng ý chuyển bàn thờ lớn ấy đi, thay bằng một chiếc bàn thờ nhỏ, đặt ở một vị trí thích hợp, tránh hướng Tây Bắc, hướng Tây Nam, từ đó hai vợ chồng người con không những không cãi cọ mà còn nhanh chóng sinh con. Sau khi sinh con xong, phát hiện bát tự của đứa trẻ cần Hỏa, mà vị trí của bàn thờ vừa khéo cũng nằm ở hướng Đông.
Bày bàn thờ chủ yếu chia thành thiên bộ thần và địa chủ thần, thiên bộ thần chỉ Quán Âm Bồ Tát hoặc thiên thần như đại thần tài (Mahakana)...
Thờ các thần như Thiên bộ, Bồ Tát bộ thậm chí phật bộ thần đều chọn dùng các pháp khí, dùng pháp khí bằng dồng thích hợp hơn cả. Đồ cúng có thể dùng đồ đồng màu vàng kim, nhang hương, cốc thờ, đều nên chọn các vật bằng đồng.
Còn thổ địa thần thuộc linh thần thấp, trong lục đạo chúng sinh, các thần dưới Thiên bộ thường là người chết mà không đạt được đến Thiên bộ hoặc không thể đầu thai nhưng bản thân khi tại thế lại tích lũy phúc đức hoặc có tu trì, sau khi chết đương nhiên vẫn còn lưu lại ở trần thế một thời gian, vì vậy được làm thần thố địa, có thể cai quản một tòa nhà hoặc một khu đất. Đây là lý do vì sao có thần thổ địa.
Thần thổ địa khi đạt được một thứ nguyên hoặc một thời không nào đó, công đức đã hoàn thành sẽ rời bỏ nơi cư trú cũ để được đầu thai. Trong cuộc sống hằng ngày những khu đất được cúng bái đều là chỉ cúng bái thần thổ địa.
Những đồ vật dùng để cúng bái địa chủ thần, đồ sứ là hợp nhất bởi gốm sứ thuộc Thổ, đồ cúng bái cũng nên chọn loại có hương hơm. Thần thổ địa thích những đồ ăn có hương thơm. Lý tưởng nhất đương nhiên là thức ăn ngọt hoặc rượu và những loại thịt ăn thường ngày, bởi vì thần thổ địa cũng có những sở thích giống của con người.
Nếu bàn thờ chỉ cúng bái thiên bộ thần, chỉ nên cúng bánh ngọt rượu hoặc các hoa quả khác, không nên cúng bằng các loại thịt cá.
Thông thường, những người chưa quy y, tốt nhất nên đặt bàn thờ hướng Bắc Nam, hướng Tây Đông, bàn thờ cao chừng 4 thước, đương nhiên tốt nhất không nên để tựa vào nhà vệ sinh hoặc áp vàc bên dưới dầm ngang nhà, đó là những hạn chế thường phải lưu ý.
Vạn vật của vũ trụ được quy về 5 phương diện, được gọi là ngũ minh, ngũ âm. Trong vũ trụ những thứ tốt đẹp, có lợi cho chúng sinh đều được gọi là minh, còn hỗn độn không chi tiết gọi là âm, đây chính là ý nghĩa chân chính của ngũ minh theo Phật giáo.
Dùng nguyên tắc trên để xác định vị trí của bàn thờ vừa có tác dụng cúng bái thần vừa phù hợp với hiệu ứng phong thủy:
Lễ nghi Phật giáo có thuật ngữ gọi là “ngũ minh cụ túc”, đó là phải cúng dường một đôi hoa mãn, tức hoa tươi và trúc phú qúy, một đôi trường minh đăng tức là đèn sáng suốt 24 giờ, thêm hương là hoàn thành lễ phẩm cúng dường đơn giản nhất.
Nếu thờ cúng tài thần, có thể cúng rượu van3 bánh ngọt, sôcôla, nhưng cần chú ý sau đó phải ăn hết đồ cúng mới tạo ra được hiệu ứng.
► Xem thêm: Bí mật 12 cung hoàng đạo cùng những tin tức Horoscope được cập nhật mới nhất |
Tuyển tập những câu nói hay của Beethoven. Ludwig van Beethoven (17 tháng 12 năm 1770 – 26 tháng 3 năm 1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Phần lớn thời gian ông sống ở Wien, Áo. Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng trong giai đoạn giao thời từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông có thể được coi là người dọn đường (Wegbereiter) cho thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Beethoven được khắp nơi công nhận là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại và ảnh hưởng tới rất nhiều những nhà soạn nhạc, nhạc sỹ, và khán giả về sau.
Năm 1781, Beethoven 11 tuổi, ông đã biểu diễn như một nghệ sĩ piano điêu luyện tại Hà Lan. Cũng trong thời gian này, ông cũng được cử làm phụ tá chơi đàn organ trong nhà thờ tại Bonn. Năm 1782 chính Neefe đã cho xuất bản tác phẩm đầu tiên của Beethoven, bản “Các variation cho clavecin của bản march của Ernst Christoph Dressler”. Cũng chính trong năm này, Beethoven trở thành người đại diện cho Neefe ở dàn nhạc hoàng gia với vai trò nghệ sĩ đại phong cầm. Năm 14 tuổi, Beethoven giành được vị trí chính thức là nghệ sĩ chơi đại phong cầm trong dàn nhạc này. Tuy nhiên trong thời gian này ông vẫn tiếp tục luyện tập dương cầm.
Năm 1795, Beethoven bắt đầu nổi danh là một nghệ sĩ piano với bản Concerto cung do trưởng. Nhưng chẳng may từ năm 1780 ông bắt đầu bị lãng tai. Lúc đầu ông mất hết hy vọng nhưng rồi cố gắng thích nghi với điều kiện sống và bắt đầu tập trung tư tưởng tình cảm cao độ hơn bất cứ lúc nào hết trong sáng tác.
Những tác phẩm của Beethoven hoàn thành trong khoảng 1803-1805 vượt trổi hẳn những gì mà ông sáng tác trước đó. Đó là bản Sonate Kreutzar (1803) viết cho violon và piano. Bản Giao hưởng Số 3 Anh hùng ca (1804) có sức cuốn hút mạnh mẽ và gây xúc động sâu xa, lúc đầu ông đề tặng Napoléon nhưng khi Napoléon lên ngôi Hoàng đế thì ông đã xé đi lời đề tặng. Các Sonate cho piano, Bình minh (1804) và Appasionta (1805), Bản Giao hưởng Số 4 (1806), Bản Giao hưởng Số 5 Định mệnh (1808) đều có giá trị nghệ thuận lớn lao. Ông muốn lột tả trong âm thanh về một cuộc sống trong sự đấu tranh với cái chết bằng một sức mạnh khủng khiếp cuối cùng đã ca khúc khải hoàn, như nhân vật nữ trong vở Opera Fidelio (1805) ra sức bảo vệ người chồng của mình chống lại sự xấu xa bạo tàn, và trong khúc Missa Solemnis là lời cầu nguyện để giải thoát khỏi đau thương chiến tranh.
Trong số những tác phẩm lớn của ông phải kể đến các bản giao hưởng như Eroica (giao hưởng Anh hùng ca), Giao hưởng Định mệnh, số 9, The Pastoral (Giao hưởng đồng quê), các tác phẩm cho dương cầm như Für Elise và các sonata Thống thiết (Pathétique) và Ánh trăng (Moonlight)…
Âm nhạc là nhà hòa giải giữa cuộc sống thể xác và cuộc sống tâm linh.
Music is mediator between spiritual and sensual life.
Âm nhạc là sự giác ngộ cao hơn cả triết học và tri thức.
Music is a higher revelation than all wisdom and philosophy.
Âm nhạc khơi ngọn lửa trong tim người đàn ông và dâng lệ lên mắt người phụ nữ.
Music should strike fire from the heart of man, and bring tears form the eyes of woman.
Hãy dạy cho con cái anh đức hạnh; bởi chỉ có nó chứ không phải tiền bạc là có thể đem lại cho con cái anh hạnh phúc. Tôi nói điều này từ trải nghiệm bản thân.
Recommend virtue to your children; it alone, not money, can make them happy. I speak from experience.
Người nào nói dối không có trái tim trong trắng, và không thể nấu súp ngon.
Anyone who tells a lie has not a pure heart, and cannot make a good soup.
Nghệ thuật! Ai hiểu được nàng? Ta có thể gặp ai để hỏi về vị nữ thần vĩ đại này?
Art! Who comprehends her? With whom can one consult concerning this great goddess?
=> ## cung cấp công cụ Lấy lá số tử vi của mỗi người chuẩn xác |
- Thứ nhất là khác nhau về hình thức, bói dịch dùng thi thơ để giảng còn Chu dịch dùng văn xuôi để giảng.
- Thứ hai là bói dịch có nhiều lọai gồm :
8 Quẻ ba hào như Liên Sơn dịch đời Hạ có quẻ đầu là Cấn, Qui tàng dịch đời Thương có quẻ đầu là Khôn.
32 Quẻ năm hào như “Tam Bửu Hiệp nhứt” người Việt hay thường sử dụng
64 Quẻ sáu hào “ Bói dịch cổ truyền” người Việt hay thường sử dụng
Khác với bói dịch, Chu dịch chỉ có một lọai là 64 quẻ sáu hào, được ghi chép có hệ thống dạng kinh điển , còn dùng để nghiên cứu, không như những sách bói “diệc” chỉ dùng cho việc chiêm bói được lưu hành trong dân chúng.
Trước hết xin nói về cách trình bày của các lọai bói dịch người Việt hay xử dụng
Quẻ năm hào .Ví dụ: quẻ Giá sắc
Nội dung : Dịch nghĩa :
Thả thủ quân tử phận. Quân tử nên giữ phận
Vật dụng tiểu nhân ngôn. Chớ nghe lời tiểu nhân
Phàm sự giai đương cẩn Mỗi việc nên cẩn thận
Tác phước bảo an nhiên Làm lành vậy mới yên
Quẻ sáu hào . Ví dụ : Phong Sơn Tiệm ( Hồng nhạn phi cao)
Ý nghĩa : Chim Hồng nhạn được sổ lồng bay xa.
Tiến từ từ bay lên mây trong sự thông đạt thong dong.
Không có gì cản trở.
Nhưng không thể bay vụt từ trong lồng lên mây ngay được.
Giải đóan : Vận khí thịnh đạt dần dần. Công việc mỗi ngày đều phát triển đều đặn. Không gặp trở ngại. Thành quả rất to lớn so với lúc khởi sự.
Lời khuyên: Giữ tiết hạnh thanh cao. Ung dung không vội vả.
Phụ chú : Giải trừ mọi tai ương. Tuy tiến chậm nhưng rất yên ổn.
Hào 1 : trung bình, tiến hơi chậm
Hào 2 : rất tốt
Hào 3 : trung bình
Hào 4 : tốt
Hào 5 : tốt
Hào 6 : rất tốt, đại cát
Ứng hạp : Tuổi Bính : Thìn, Ngọ, Thân
Tuổi Tân : Mão, Tỵ, Mùi
Tháng 1
Hành thổ
Lời giảng của của quẻ này viết theo văn xuôi nhưng được ngắt ra 4 đọan, có lẽ vào đời Tần bị cấm thi thơ, các lọai sách đều phải chép lại bằng văn xuôi.
Tiếp đến là cách trình bày quẻ trong Kinh Dịch : Quẻ Phong Sơn tiệm ( xin không trích giảng hào từ)
Thóan từ: Tiệm, nữ qui cát, lợi trinh.
Dịch : Tiến lần lần, như con gái về nhà chồng, tốt; giữ đạo chính thì lợi.
Giảng : Quẻ này là Tốn ( cây), dưới là Cấn( núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt là Tiệm.
Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tỉnh như nội quái cấn, vẫn hòa thuận như ngọai quái Tốn thì không bị vấp váp, không bị khốn cùng.
Hào từ :
- Sơ lục : Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn vô cửu.
Dịch : Hào âm 1, con chim Hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại cho là nguy, than thở nhưng không có lỗi.
- Lục nhị : Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
Dịch: Hào 2 âm, chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt
- Cửu tam : Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung lợi ngự khẩu.
Dịch: Hào 3 dương, chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có mang không nuôi, xấu, đuổi cướp thì có lợi.
- Lục tứ : Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắ kỳ giốc, vô cửu.
Dịch : Hào 4 âm, chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi.
- Cửu ngũ : Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dụng, chung mạc chi thắng, cát.
Dịch : Hào năm dương, chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không có gì thắng nổi điều chính, tốt.
- Thượng cửu : Hồng tiệm vu qui, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
Dịch : Hào trên cùng dương, chim hồng bay bổng ở đường mây. Lông nó có thể dùng làm đồ trang sức, tốt.
Hai lọai dịch trên mặc dù có khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung tất cả đều có đặc điểm là có hào âm,hào dương. Âm dương được hình thành do sự vận động của vũ trụ. Sự vận động này thuận theo chiều hướng sinh của ngũ hành hình thành bát quái. Đó là học thuyết Âm dương- Ngũ hành của người xưa.
1/ Thư yết Âm Dương- Ngũ Hành :
a- Sự hình thành Âm Dương :
Thái cực vận động sinh ra lưỡng nghi, tức là hai khí : Âm và Dương. Phần dương thì động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên sinh ra khí dương và nơi tích lũy nhiều khí dương là bầu trời được ký hiệu là ( ). Dương được sinh ra từ cực Bắc và bên trái chủ dương.
Phần âm thì tỉnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới sinh ra khí âm và nơi tích lũy nhiều khí âm là đất được ký hiệu là ( ) . Âm được sinh ra từ cực Nam và bên phải chủ âm.
Cực Nam
Cực Bắc
Hình lưỡng nghi
Âm dương có sự liên hệ thần bí, đó là sự hấp dẫn lưỡng tính thần kỳ. Theo Lôi Đạc, trong tác phẩm Mỗi ngày 10 phút với Chu Dịch, nhà ảo thuật Trung quốc nổi tiếng là Tàng quốc Chân đã phát hiện điều này khi đem hai con thạch sùng đực, cái ném mạnh xuống đất. Khi đuôi của hai con thạch sùng bị đứt, chúng nhảy nhót trên mặt đất, rồi hai chiếc đuôi ngày càng gần lại với nhau, dựa sát vảo nhau sau đó bám chặt lấy nhau thành hình “bánh quấn thừng:. Thế nhưng dùng hai con thạch sùng cùng giống thì không thấy có hiệu ứng này. Một thử nghiệm khác nữa là bắt vài con thạch sùng có bốn chân, phân biệt đực – cái, chặt đuôi và lột da chúng ra, sau khi đốt cháy nghiền thành bột, đổ vào hai cây nến rỗng ruột, đặt trên bàn cách nhau 30 cm, châm lửa trên hai cây nến đó. Điều kỳ dị đã xuất hiện, hai ngọn lửa hấp dẫn nhau, dần dần dựa sát vào nhau, cuối cùng dính lại tạo thành một tuyến lửa nằm ngang như chiếc cầu vồng được đặt tên là “ cầu lửa”.
Qua phát hiện đó có thể thấy được tuy âm dương là hai yếu tố tương phản nhau nhưng trong mọi vật hai yếu tố âm dương luôn dung hòa lẫn nhau, tương giao cùng nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau rất mật thiết. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của muôn vật, tất cả sự biến hóa trong vũ trụ đều có thể giải thích bằng hiện tượng chuyển biến của âm dương. Âm trưởng thì dương sẽ tiêu, dương trưởng thì âm sẽ tiêu, âm tăng đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ phải thóai dần, khi dương tăng đến chỗ cực thịnh thì âm sẽ phát sinh và dương sẽ thóai dần, đó là lẽ tuần hòan của âm dương trong trời đất như : Mùa đông âm khí nhiều khí hậu lạnh. Cuối đông âm khí thịnh, dương khí bắt đầu phát sinh. Qua xuân dương khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm áp dần dần. Đến mùa hạ dương khí tăng trưởng, khí hậu nóng. Cuối hạ dương khí cực thịnh khí hậu nóng bức và âm khí sẽ phát sinh. Qua mùa thu âm khí mới phát sinh còn non khí hậu mát, âm khí dần dần tăng trưởng lại bước qua đông.... cứ như thế mà tiếp diễn ; hoặc cũng như chuyển biến âm dương trong ngày đêm : từ nửa đêm – sáng sớm – giữa trưa – buổi chiều – lại nửa đêm. Sự âm tiêu dương trưởng và dương tiêu âm trưởng tiếp diễn nhau rất cần thiết để điều hòa sự tuần hòan của trời đất, nếu dương cực thịnh mãi mà âm khí không phát sinh hoặc ngược lại thì trời đất bất hòa và sự sinh hóa của của muôn vật sẽ rối lọan như : chỉ có đêm mà không có ngày hay ngược lại, thời tiết nóng mãi hoặc lạnh mãi đều bất lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật. Mặt khác, trong sự chuyển hóa để tương giao với nhau, dương khí có khuynh hướng thăng cao lên tức ly tâm, âm khí có khuynh hướng giáng xuống thức hướng tâm. Đó là dương thăng, âm giáng.
Ví dụ : không khí nóng có khuynh hướng bay lên cao, không khí lạnh có khuynh hướng hạ xuống thấp. Sự kiện không khí vùng lạnh thay thế vùng nóng sẽ sinh ra gió.
Sự vận động của âm dương sẽ sinh ra 4 khí gọi là tứ tượng : Thái âm –Thiếu dương – Thái dương – Thiếu âm
Hình tứ tượng
Từ bốn khí này giao hòa thăng giáng với nhau, tạo ra sự đối kháng, chuyển dịch. Đây chính là động lực phát triển cũa sự vật, hiện tượng, con người. Động lực ấy thể hiện ra 8 dạng thức trong không gian, đó là bát quái. Bát quái với 5 thuộc tính ngũ hành đã tạo ra vũ trụ, vạn vật, trong đó có con người với hành vi của họ.
Bát quái với tính chất gắn liền với bầu trời xin được tạm gọi là “Thiên Bát Quái”
Bát quái có tính chất gắn liền với trái đất xin được tạm gọi là “ Địa Bát Quái”
b- Ngũ Hành :
Ngũ hành được cho là 5 dạng vật chất gồm :
- Hành Thủy tượng trưng cho nước
- Hành Mộc tượng trưng cho cây cối
- Hành Hỏa tượng trưng cho lửa
- Hành Thổ tượng trưng cho đất
- Hành kim tượng trưng cho kim lọai.
Căn cứ vào tính chất các hành trên có sự sinh, khắc với nhau
Ngũ hành tương sinh :
Thủy sinh Mộc
- Mộc sinh Hỏa
- Hỏa sinh Thổ
- Thổ sinh Kim
- Kim sinh Thủy
Ngũ hành tương khắc :
- Thủy khắc Hỏa
- Hỏa khắc Kim
- Kim khắc Mộc
- Mộc khắc Thổ
- Thổ khắc Thủy
Năm hành trên được xếp thành các phương vị trên Hà Đồ, Lạc Thư.
3/ Thuyết Thiên Địa Nhân : Thuyết Thiên Địa nhân nói lên sự chi phối của trời đất đối với con người.
- Thiên : Thiên can là tọa độ không gian được thể hiện ở 10 vị trí : Giáp , Ất , Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quí. Thiên là khỏang không gian bao la, trong Thiên có ba yếu tố hợp thành là Nhật ( mặt trời) ; Nguyệt ( mặt trăng) ; Tinh ( các vì tinh tú). Vạn vật con người chuyển dịch trong không gian theo 10 thiên can, được Nhật, Nguyệt, Tinh chiếu vào tác động ảnh hưởng suốt cả cuộc đời, do vậy yếu tố năm, tháng, ngày, giờ sinh được người xưa cho là có thể quyết định được vận mệnh của từng người.
- Địa : Địa chi là tọa độ thời gian được thể hiện ở 12 vị trí thời gian trong năm , tháng, ngày, giờ gồm : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Địa được cấu thành bởi 3 yếu tố thủy , hỏa , phong. Từ yếu tố địa , người xưa hình thành nên môn địa lý phong thủy dùng để xem xét sự vận động hài hòa của thủy hỏa phong, nếu mất cân bằng trong vận động của ba yếu tố này ở một địa điểm mà một người đang sinh sống thì người đó sẽ gặp trở ngại và tai họa.
Tóm lại, nói Thiên Địa Nhân là nói con người luôn luôn bị chi phối bởi Thiên và Địa, ba yếu tố này tương tác lẫn nhau, con người muốn tồn tại, sinh sống bình thường phải có sự cân bằng giữa bản thân với thiên địa. Không gian Dịch là không gian Thiên Địa Nhân, là thế giới của âm dương giao hòa, chuyển hóa cho nhau, thế giới giữa hai mặt đối lập tồn tại và bổ xung cho nhau nên khi nắm bắt được chuyển động đó người xưa đã lập ra mô hình trạng thái không gian gọi là âm, dương ( lưỡng nghi). Âm, dương vận động sinh ra bốn khí gọi là tứ tượng, lại tiếp tục vận động thành ra bát quái
2/ Hà Đồ – Lạc Thư :
Hà Đồ- Lạc Thư đã được người Trung hoa xem như nguồn gốc của bát quái có nghĩa là sự hình thành của bát quái phải được gợi ý của Hà đồ-Lạc Thư, thánh nhân mới dựa vào đó mà phỏng theo. Hình dạng của Hà Đồ - Lạc Thư ra sao không ai biết được , chỉ nghe nói đến từ cháu của Không Tử là Khổng An Quốc nhưng mãi đến đời Tống hai đồ hình đó mới thấy phổ biến.
Căn cứ vào “ Dịch học Tượng số luận” của Hòang Tông Nghi thì Trần Đòan đã truyền cho Chủng Phóng, Chủng Phóng truyền cho Lý Khái, Lý Khái truyền cho Hứa Kiên, Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngọc Xương, Ngọc Xương truyền cho lưu Mục. Lưu Mục căn cứ vào Hà đồ-Lạc Thư trước tác ra “ Dịch số câu ẩn đồ”, bức đồ của ông mới được đông đảo người biết đến. Cho đến nay người ta cũng chưa hiểu được, vào đời Tống, vị đạo sĩ ở Hoa Sơn là Trần Đòan đã lấy ở đâu ra được những hình Hà đồ-Lạc Thư ấy.
Sau khi Hà đồ-Lạc Thư ra đời, một bộ phận trong học phái này chia rẽ. Một số người không tin vào những thứ này, nhà Đại văn học Âu Dương Tu cho rằng : “đầu độc sai lầm vào những người học giả, gây tác hại đâu có nhỏ”. Cuộc tranh luận này kéo dài tới cuối đời Thanh, Dân quốc, thậm chí đến sau ngày giải phóng .
a- Hà Đồ: Theo ghi chép của người Trung Hoa, Hà đồ là vật mà Hòang Đế được trời ban cho từ sông Hòang Hà, trên lưng con long mã, đồ hình có 5 cặp số được sắp xếp như sau : 1 với 6 ở dưới là số sinh thành của thủy ở phía Bắc
2 với 7 ở trên là số sinh thành của hỏa ở phía Nam.
3 với 8 ở bên trái là số sinh thành của mộc ở phương Đông
4 với 9 ở bên phải là số sinh thành của kim ở phương Tây
5 với 10 là số sinh thành của thổ ở trung ương.
Hà đồ là bức đồ đầu tiên của kinh dịch, sự vận hành của nó theo chiều hướng sinh của ngũ hành. Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông.
Hình Hà đồ
b-Lạc Thư : Theo truyền thuyết Lạc thư do thần qui mang trên lưng nên có tượng con rùa đầu đội 9, đuôi mang 1, bên trái mai mang 3, bên phải mai mang 7, vai bên trái mang 4, vai bên phải mang 2, chân trái mang 8, chân phải mang 6, giữa lưng mang 5
Hình Lạc Thư
Theo các nhà nghiên cứu thì Lạc thư là một dạng Cửu tinh Đồ, là Cửu trù Hồng Phạm, nếu đọc theo chiều nghịch kim đồng hồ là biểu đồ phương vị ngũ hành được vận hành theo hướng khắc.
Do vậy, theo thiển nghĩ, bát quái phải được dựa vào Hà đồ để thiết lập vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới được sinh hóa, nói lên sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch.
Thử vẽ Bát quái :
1/ Thiên Bát quái : ( biểu đồ tiết khí)
Bốn Mùa
Từ 4 mùa âm dương lại biến đổi thành 8 tiết khí dựa trên cơ sở 2 cụm tứ tượng, bắt đầu từ điểm cực âm. Theo lẽ tự nhiên, cực âm sẽ sinh dương , cụm tứ tượng bên trái sẽ được sinh dương, khi dương thịnh đến điểm cực dương cụm tứ tượng bên phải sẽ được sinh âm, từ đó có được hệ thống bát quái gắn liền với trời như thời tiết, gió mưa, là biểu đồ bát tiết.
Xem xét biểu đồ trên, có thể thấy các tiết khí chuyển biến theo hướng sinh, bắt đầu từ điểm cực âm theo chiều thuận kim đồng hồ : Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân ; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông. Hướng sinh trên thuận theo lẽ tự nhiên thành ra tám tiết khí :
- Khôn : cực âm ( ) tiết đông chí - dương thủy- vị trí số 1
- Chấn : bắt đầu sinh dương ( ) tiết lập xuân - âm mộc- vi trí số 8
- Ly : âm tiêu dương trưởng ( ) tiết xuân phân - dương mộc - vị trí số 3
- Đòai : dương thịnh ( ) tiết lập hạ - âm hỏa - vị trí số 2
- Kiền : cực dương ( ) tiết hạ chí - dương hỏa - vị trí số 7
- Tốn : bắt đầu sinh âm ( ) tiết lập thu - âm kim - vị trí số 4
- Khảm : dương tiêu âm trưởng ( ) tiết thu phân-dương kim-vị trí số 9
- Cấn : âm thịnh ( ) tiết lập đông - âm thủy - vị trí số 6
Thứ tự của bát quái trên thuận theo hướng sinh là : Khôn, Chấn, Ly , Đòai , Kiền , Tốn , Khảm , Cấn, được hiểu như một hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trời như : thời tiết, khí tượng , gió mưa.... Hệ thống này được Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Tuy vậy , người Trung hoa không dùng Tiên thiên bát quái để giải thích thời tiết mà dùng để giải thích về địa lý, phương hướng như sau :
- Khôn : là đất nên ở phương Bắc, vì phương bắc giá lạnh nên thuộc thủy
- Chấn : ở Đông bắc vì gió từ Tây nam thổi qua đông bắc gây tiếng động, hoặc sáng (ly) tối (khảm) cọ sát nhau sinh ra sấm.
- Ly : là mặt trời nên ở phương đông,vì mặt trời mọc ở phương đông
- Đòai : ở Đông nam vì phía Đông nam Trung hoa nhiều đầm hồ
- Kiền : là trời nên ở phương nam, phương nam nóng thuộc hỏa
- Tốn : ở Tây nam là nơi nóng (nam) và lạnh (tây) xô xát sinh ra gió
- Khảm : là mặt trăng nên ở phương Tây, vì mặt trăng hiện ra ở phương tây
- Cấn : ở Tây bắc vì tây bắc Trung hoa có nhiều đồi núi.
2/ Địa bát quái : ( biểu đồ địa lý phương hướng)
Về Địa bát quái, hiện nay chưa rõ được kết cấu như thế nào nhưng cũng xin đề xuất đồ hình để tham khảo
Ví dụ : Địa bát quái Hậu Thiên bát quái
Có lẽ để thuyết minh cho vấn đề sai lệch về các hành của hệ thống này, thuyết quái truyện viết : “ Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Trí dịch hồ Khôn. Thuyết ngôn hồ Đòai. Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn.”
Thuyết quái truyện cũng có lời giải thích cho đọan văn khó hiểu trên : “Vạn vật xuất ở Chấn , Chấn thuộc phương đông . Gọn gàng ở Tốn , Tốn thuộc đông nam, gọn gàng là muốn nói muôn vật đều sạch sẽ . Ly là sáng, vạn vật cùng thấy nhau, là quẻ ở phương Nam, đấng thánh nhân quay về phương nam mà nghe thiên hạ, hướng vào nơi ánh sáng mà trị là tượng ở đấy. Khôn là đất, muôn vật đều được nuôi dưỡng ở đó, cho nên nói là làm việc ở Khôn. Đòai là chính thu, vạn vật đều vui vẻ, nên nói vui vẻ là nói ở Đòai. Đánh nhau ở Kiền, Kiền là quẻ ở tây bắc, đó là nói về âm dương xô xát vậy. Khảm là nước, là quẻ ở chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật đều ở đó nên nói khó nhọc ở Khảm. Cấn là quẻ đông bắc, nơi muôn vật thành ở lúc cuối và lúc đầu, nên nói thành là nói Cấn”.
Lời giải thích trên khi đọc xong lại càng thấy khó hiểu, nên xin được đề xuất lời giải thích khác như sau :
- Đế xuất hồ Chấn : là mặt trời mọc ở phương đông.
Vấn đề chính là đây. Theo tôi, vị trí mặt trời mọc là vị trí bước qua số 1 của Hà Đồ, là qua cực Bắc đã sinh dương, về thời khắc thì vào giờ Dậu nên Chấn phải ở vị trí số 8 thuộc mộc. Đối với người tạo ra Hậu thiên bát quái thì Chấn phải ở vị trí số 3 thuộc mộc là nơi mặt trời ló dạng, về thời khắc thì vào giờ Mẹo.
- Tề hồ Tốn : do mang Chấn đặt vào vị trí số 3 , là chỗ của Tốn, nên phải sắp xếp lại vị trí của Tốn.
- Tương kiến hồ Ly : Tốn bị bỏ ra phải vào vị trí số 2 thuộc hỏa, là vị trí của Ly, nên nói là gặp nhau ở cung Ly.
- Trí dịch hồ Khôn : dể Ly có chỗ phải suy tính dời Khôn đi.
- Thuyết (duyệt) ngôn hồ Đòai : Khôn được dời vào vị trí số 4 thì Đòai phải vào vị trí của Càn ở số 9 thuộc kim, đến Đòai thì thuyết phục được.
- Chiến hồ Càn : tranh cãi ở Càn. Khi Đòai vào vị trí của Càn thì Càn phải dời vào chỗ của Khảm số 6 thuộc thủy mà Càn thì thuộc kim.
- Lao hồ Khảm : mặc dù Càn thuộc kim nhưng vì muốn thực hiện việc chỉnh sửa trên nên phải ép Càn vào ở vị trí của Khảm nên nói là lao hồ Khảm
- Thành ngôn hồ Cấn : đến cung Cấn thì kết luận, đã quyết định xong.
Đọan văn khó hiểu trên có lẽ ghi lại sự tranh cãi giữa Hoa tộc và người đại diện cho Hoa Hạ là Cộng công. Cộng công được biết như là một chức quan trông coi về khoa học kỹ thuật ở thời ấy. Theo ghi chép của Trung Hoa, giữa cháu nội Hòang đế là Chuyên Húc và Cộng Công vào thời ấy đã có sự bất đồng ý kiến về khoa học kỹ thuật qua truyện kể về Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu như sau :
Cộng Công là người có công lao rất lớn trong phát triển nông nghiệp của Trung hoa được dân chúng tôn là Thủy sư tức thần nước. Con của ông là Hậu thổ cũng có năng lực trong nghề nông được dân chúng tôn là Xã thần tức thần đất, là các thần quản về thủy lợi. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình đất ở 9 châu họ đã thống nhất là phải sửa bằng đất đai, tuy nhiên ý đồ này không được Chuyên Húc đồng ý. Cộng công vì giận mà húc đầu vào núi Bát Chu.
Bát Chu là núi Côn Lôn, ngọn núi có những quái thạch nhọn hoắt, cao chạm tầng mây. Sau cú húc mạnh của Cộng Công, quả núi này lập tức gảy gập ngay, đất đá lở xuống ầm ầm, cây cối ngã nghiêng, trời đất mù mịt, tưởng như xảy ra động đất, bầu trời nghiêng ngã. Thì ra theo lời đồn đại, núi này chính là cây cột chống trời, cột trời sụp thì dây chằng đất đứt rời từng khúc, do đó phía Đông nam sụp xuống lấp bằng chỗ trũng khiến cho sông ngòi đều theo dòng chảy về phía đông rồi đổ vào biển đông. Bầu trời khi đó nghiêng về phía Tây Bắc cho nên các vì tinh tú , mặt trời, mặt trăng ngày ngày đều mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây....
Phân tích câu truyện trên có thể suy ra : núi ( Cấn) Bát Chu sụp xuống làm dây chằng đất (Khôn) đứt rời, có nghĩa trục Khôn-Cấn trở lại là trục thẳng ; phía Đông nam (Tốn) sụp xuống , bầu trời nghiêng về phía Tây Bắc (Càn), có nghĩa là trục Tốn Càn trở lại là trục ngang, các vị trí đó là Càn-Khôn-Cấn-Tốn trong tư nam thời Xuân thu chiến quốc. Cuối cùng là mặt trời lại mọc ở phương Đông là vị trí số 8 trên Hà đồ.
Nhưng tại sao Cộng Công lại phải húc đầu vào núi Bát Chu ?
Bởi vì núi là tượng Cấn. Liên Sơn Dịch của Hoa hạ lấy quẻ đầu là Cấn. Nói là Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu có nghĩa là muốn sửa bái quái của tộc Chu cho đúng với vị trí ban đầu. Sự bất đồng này có lẽ cũng nghiêm trọng, vì sau đó những người tộc Hạ sống trên đất Tề thường lo sợ về chuyện bị “trời sập”.
Tư Mã Thiên cho rằng Hậu Thiên bát quái là sản phẩm của Văn Vương có lẽ do trong các quẻ bói mà người Việt đang dùng có một số quẻ đã đề cập đến những vấn đề liên quan đếnVăn Vương như:
Quẻ “Vị thủy phong hiền” còn gọi là Sơn Lôi di :
Khương Tử Nha là bậc đại hiền.
Ngồi câu cá chờ thời bên bờ sông Vị thủy.
Vua Văn Vương nghe tiếng đích thân đến tận nơi thỉnh ra giúp nước.
Rước về tôn làm thường phụ.
Quẻ “ Phượng minh Kỳ sơn”- Thiên trạch lý :
Phượng hòang bất thần xuất hiện ở núi Kỳ sơn cất tiếng gáy.
Báo hiệu điềm lành.
Vua Văn Vương ra đời.
Tạo dựng một thời đại thái bình thạnh trị.
Quẻ “Trảm tướng phong thần” - Thủy trạch tiết :
Đời nhà Thương có vua trụ bạo ngược.
Khương Tử Nha vì đại nghĩa diệt được Trụ vương.
Muốn cho óan khí của quân thù tiêu tán để quốc thái dân an.
Nên đã lên “Vạn phong Sơn” cầu siêu, phong thần cho tướng sĩ tử trận.
Về nguồn gốc Kinh dịch, một số nhà nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không thực sự là của Trung quốc. Ông Hondanariyouki nhận xét “ Ở Chu dịch, các từ thóan tượng đều lấy tên từ các lọai muông thú phương nam (chim hồng). Thêm vào đó, ở Chu dịch có “phi long”; “tiềm long” càng khiến cho người ta cảm thấy Chu dịch là trước tác của người nước Sở viết ra, và ra đời sau khi Trung quốc đã mở đường giao thông về phía nam Kinh Sở”.
Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo ##/img/www.uglychinese.org thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ Suiren ( Tọai Nhân), sau đó họ You Chao ( Hữu sào) đã thay thế họ Tọai nhân, tiếp nữa là họ Fuxi ( Phục Hy) và Nuwa ( Nữ oa) đã thay thế họ Hữu sào, sau cùng là họ Shennong (Thần nông) đã thay thế họ Phục Hy.
Theo truyền thuyết cũng như thuyết quái truyện của kinh dịch thì họ Tọai nhân đã phát minh ra “lửa” ; họ Phục Hy đã phát minh ra “ cái lưới” và chữ viết dưới dạng “thắt nút kết thằng” ( chữ khoa đẩu ?) để ghi việc, đã biết trồng trọt chăn nuôi ; họ Thần Nông phát minh ra “cái cày” , mở chợ lập làng , tìm ra cây thuốc. Đó chính là Tam Hòang. Ngòai ra không thấy đề cập đến Hữu Sào đã phát minh ra những gì.
Gần đây khảo cổ học đã khai quật được một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang có niên đại cách đây hơn 8000 năm, cho thấy rằng họ Tọai Nhân là người Hòa Bình ở di chỉ Hemudu ở bờ nam sông Trường Giang có lẽ đã di cư lên phía Bắc đến di chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khỏang 4300 tr.cn khi vùng này bị ngập mặn do nước biển dâng. Họ Tọai Nhân đã bị họ Hữu Sào , tổ tiên của người Hàn quốc đến thay thế vào khỏang 3898 tr.cn. Họ Hữu sào lại bị họ Fuxi, có lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là Viêm Đế từ phía Tây đến thay thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngòai họ Khương ra Tộc Khương còn có họ Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai (Fu chai), Phù nam......v.v . Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó có thể Tộc Khương sau khi đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông Nam Á để phát triển nông nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví : bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng .
Ở Trung hoa vào thời Phục Hy, người xưa có lẽ đã hiểu được qui luật âm dương và sự vận động của nó, đã thuận theo những qui luật ấy để phát triển nông nghiệp. Trong kinh dịch cũng có đề cập đến Phục Hy đã trông trời, trông đất, trông vạn vật mà vẽ quái, thời diểm này có thể là họ Phục Hy không chỉ vẽ quái mà ít nhất đã biết đến tứ tượng tức là bốn mùa để theo đó mà trồng trọt. Khi Thần Nông đến thì Phục Hy bị thay thế vì họ Thần Nông đã phát minh ra cái cày và phương thức tát nước vào ruộng để cải tiến và phát triển nền nông nghiệp của Phục Hy và Nữ Oa. Họ Thần Nông đã từng vượt biển nên ắt phải có kiến thức về thiên văn khí tượng và địa lý phương hướng, ắt họ phải là chủ nhân của Hà đồ.
Với các chi tiết đã trình bày trên, tôi cho rằng học thuyết Âm dương ngũ hành và thuyết Thiên Địa Nhân có nhiều hy vọng là của người tiền Việt nam. Nó được ra đời không nhằm mục đích chiêm bói mà trước tiên để tiên đóan thời tiết và xác định phương hướng nhằm phục vụ cho nghề đi biển và nghề nông , các vì sao được quan tâm trước tiên là sao Bắc Cực và sao Bắc đẩu.
“Bói diệc” là lọai sách bói được phổ biến trong dân gian tương tự như nông lịch đã được giải thích sẵn, ai xem cũng hiểu. Kinh dịch của người Trung quốc, được dựa vào quẻ bói diệc, được kết hợp với những ghi chép của các ẩn sĩ ở Giang nam thời ấy để sọan thảo ra dưới hình thức một lọai sách triết , trong bộ kinh dịch này yếu tố tương quan giữa con người với trời đất không được thể hiện đầy đủ như trong các sách bói cổ truyền người Việt thường xử dụng.
Một điều rõ ràng là việc sáng tạo ra học thuyết Âm dương ngũ hành , Thiên Địa Nhân không phải từ trí tuệ của một người mà là trí tuệ của nhiều người được tích lũy từ thời đại này sang thời đại khác do đó trong những ghi chép của người xưa cũng không thấy khẳng định ai là chủ nhân của học thuyết này. Việc cho rằng 64 quẻ dịch là do Văn Vương sáng tạo ra và Khổng Tử biên sọan thực chất là một sự gán ghép có lựa chọn. Khổng Tử là một người đã từng nghiên cứu kinh dịch, những tài liệu ấy Khổng tử lấy từ đâu ra thì không nghe nói đến, chỉ biết rằng trước kia Khổng Tử chưa thực sự nghiên cứu bói dịch cho đến khi ông bói được quẻ “Lữ” và mời một người họ Thương Cù trong dân gian để giải quẻ cho ông. Thương Cù thị nói : “ Tiểu hanh, cố bào thánh trí, nan đắc thánh vị” ý nghĩa là ôm ấp có hùng tâm xây dựng sửa sang đất nước nhưng không giành được quyền vị. Tức thì Khổng Tử rớt nước mắt, ngộ cảm thấy rằng đường đạo của mình khó được thi hành, từ đó mới bắt đầu nghiên cứu dịch. Tuy nhiên việc bắt đầu nghiên cứu dịch và việc hòan thành bộ Kinh dịch là hai việc hòan tòan khác nhau. Theo tôi, những phát minh ở đất Trung hoa đều đã có từ xa xưa nhưng việc người thời sau tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh trước chỉ ở chừng mực nào đó. Ví dụ như lịch pháp nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng mở đầu cho một năm, khi nhà Ân Thương lên thay, lấy tháng Sửu làm tháng mở đầu cho một năm, đời Chu lấy tháng Tý làm tháng đầu năm, nhà Tần lấy tháng Hợi làm tháng đầu năm. Đến thời Hán các biến cố như nhật thực , nguyệt thực, hạn hán lũ lụt đều xảy ra khác với thời điểm được ghi trong lịch. Đúng vào lúc Tư mã Thiên đến Giang nam tìm sử liệu được một cụ già ở đất Thương ngô tặng cho bộ sách trúc giản vớt được trên sông Tương. Đó chính là bộ “nhật thư” bí truyền của người Hạ . Hán vũ đế đã theo lời tấu của Tư mã Thiên, truyền chiêu mộ ẩn sĩ ở miền Giang nam để điều chỉnh lịch theo phương pháp của nhà Hạ, sau khi hoàn thành đặt tên là lịch Thái sơ.
Để giải thích, Chu Hy viết : “Về cách tính thời gian nên theo nhà Hạ, nghĩa là nên lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu cho bốn mùa. Hàng năm lấy thời kỳ vạn vật sinh sôi nảy nở phồn thịnh làm kỳ mở đầu cho bốn mùa. Cách tính của nhà Hạ giản tiện hơn cả vì thế nên theo… trời mở đầu cung Tý, đất mở đầu cung Sửu, người mở đầu cung Dần. Tam đại lần lượt thay đổi mà noi theo. Nhà Hạ coi cung Dần là nhân chính phù hợp với người nên lấy kiến dần chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Ân coi cung Sửu là Địa chính phù hợp với đất nên lấy kiến Sửu chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Chu coi cung Tý là Thiên chính phù hợp với trời nên lấy kiến Tý chi nguyệt làm chính nguyệt. Tính tháng năm dịnh bốn mùa cốt để cho dân tiện làm ăn sinh sống, tiện hoàn thành mọi việc. Vì vậy khi tính năm tháng, định bốn mùa nên lấy sự phù hợp với người làm đầu mối. Chính vì vậy mà nhà Hạ lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu của một năm”
Ngoài ra không thấy Chu Hy giải thích vì sao nhà Tần lại lấy kiến Hợi chi nguyệt làm chính nguyệt.
Như vậy đã thấy rằng việc tiếp thu tinh hoa của tộc Hạ chỉ bắt đầu vào thời Hán.Thời điểm ấy tinh hoa của Trung hoa phát ra ào ạt nhờ vào chủ trương chiêu hiền đãi sĩ của Hán Cao tổ. Vào thời này, những nhân tài Việt trên đất Hoa ban đầu sống như những ẩn sĩ. Sĩ là một từ để chỉ tầng lớp tri thức ở Trung quốc. Ẩn sĩ là những người có tri thức, hoàn toàn vượt ra ngoài vòng chính trị, có thái độ bất hợp tác và phản kháng chính quyền đương thời, họ là những nhân sĩ tinh anh sáng tạo văn hóa, giáo hóa quần chúng. Thấy được tác dụng tiềm ẩn trong lớp nhân sĩ, Hán Cao tổ Lưu Bang khi lên ngôi được 11 năm đã có chiế
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Tính cách, vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Dần mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Mão mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ
Người tuổi Thìn trời sinh được quý nhân phù trợ, đường đời gặp nhiều may mắn, cũng có vận thế rất tốt. Họ thông minh đĩnh ngộ, lỗi lạc hơn người, thường làm nên nghiệp lớn.
Vậy ngũ hành có ảnh hưởng gì tới con giáp này không? Vận mệnh người tuổi Thìn theo ngũ hành Kim, Mộc, Thủy Hỏa, Thổ như thế nào? Hãy cùng Lịch ngày tốt xem bói tử vi và tìm hiểu bí mật này nhé.
Ngũ hành theo năm sinh tương ứng của người tuổi Thìn được chia ra như sau:
Người sinh năm Canh Thìn ngũ hành thuộc Kim: 1940, 2000
Người sinh năm Mậu Thìn ngũ hành thuộc Mộc: 1928, 1988
Người sinh năm Nhâm Thìn ngũ hành thuộc Thủy: 1952, 2012
Người sinh năm Giáp Thìn ngũ hành thuộc Hỏa: 1904, 1964
Người sinh năm Bính Thìn ngũ hành thuộc Thổ: 1916, 1976
Bảng tra mệnh theo năm sinh cho tất cả các tuổi trên ## cũng sẽ giúp bạn tra cứu mệnh ngũ hành của mình một cách nhanh chóng.
Để tìm nội dung cần xem nhanh hơn, mời bạn click vào Mục lục dưới đây.
MỤC LỤC
Tuổi Thìn mệnh Kim
Tuổi Thìn mệnh Mộc
Tuổi Thìn mệnh Thủy
Tuổi Thìn mệnh Hỏa
Tuổi Thìn mệnh Thổ
Kim Tinh là chủ tinh, hợp màu trắng, hướng may mắn là hướng Tây.
“Bạch Hổ” làm đại diện, linh vật cũng là Hổ.
Người tuổi Thìn mệnh Kim tính tình thẳng thắn, cương trực. Họ có suy nghĩ thuần khiết, đơn giản, không có mưu đồ hãm hại ai. Có điều, người này cảm xúc lên xuống, thay đổi thất thường, cũng hay thay đổi chủ kiến nên dễ khiến cho người khác cảm thấy họ không được trầm tĩnh, khó nắm bắt.
Đây là người có ý chí phi thường, có nhiều ý tưởng sáng tạo và có tính xây dựng cao, nhưng họ chỉ giỏi trong việc đưa ra ý tưởng, còn hay thất bại khi đưa chúng vào thực hiện. Họ bối rối và không xác định được thứ tự tiến hành trước sau, thường làm cho mọi chuyện trở nên lộn xộn và thiếu khoa học.
Do đó, muốn có được thành công, người tuổi Thìn mệnh này bắt buộc phải rèn luyện bản thân, tạo cho mình thói quen tư duy logic cũng như sắp xếp công việc sao cho khoa học, có thế mới không uổng phí tài năng mà làm nên cơ nghiệp.
Ấn tượng đầu tiên mà Kim Thìn để lại cho người khác thường không mấy tốt đẹp, điều này gây bất lợi khá nhiều cho họ. Nên thân thiện cởi mở, để cho người khác có cơ hội hiểu và làm bạn với mình.
Người này có cái tôi cá nhân khá lớn, lại luôn có ham muốn thể hiện bản thân nên dễ gây phản cảm với những người xung quanh. Bạn hãy nhớ, điều quan trọng nhất hiện giờ là phải học cách khiêm nhường hơn, đừng lúc nào cũng tỏ vẻ mình biết hết, chuyện gì cũng muốn xung phong thể hiện.
Bạn luôn mong muốn gia đình hòa thuận yên ấm, cũng luôn muốn có những chuyện vui như cưới hỏi, thăng chức tăng lương để mọi người trong nhà thấy vui tươi. Tuy nhiên, bạn nên chú ý chăm sóc sức khỏe người già trong nhà nhiều hơn. Người lớn tuổi dễ mắc các bệnh lặt vặt, tuy không nghiêm trọng nhưng cũng khiến cơ thể mỏi mệt. Hãy để tâm đến vấn đề ăn uống ngủ nghỉ của họ hơn, cũng hiếu thuận làm vui lòng họ.
Người tuổi Thìn mệnh Kim sống có phần hơi phù phiếm, thích những đồ xa xỉ. Họ thích quần áo đẹp, trang sức phụ kiện lộng lẫy, song yêu cầu phải thoải mái và tinh tế, khiến bản thân luôn cảm thấy tự tin.
Người này đôi lúc thể hiện nhu cầu với những thứ đẹp đẽ hơi quá mức, cũng thích được chăm sóc. Nếu có người quan tâm chu đáo tận tình thì họ lại dễ trở nên ỷ lại. Song không thể nói họ là người lười biếng, như thế sẽ không công bằng vì họ luôn cố gắng làm việc hết mình, cũng nghiêm túc và cực kì có trách nhiệm trong công việc.
Trong tình yêu, người tuổi Thìn mệnh Kim khá đào hoa, dường như khắp nơi đều có người được họ lưu tâm để mắt, nhưng xét kĩ thì lại có phần hơi ảo tưởng về sức lôi cuốn của bản thân. Bạn có biết Tuổi Thìn hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân không?
Thìn Kim tài vận ổn định, hanh thông, tuy bước tiến không lớn nhưng ngược lại có khả năng kiếm tiền bằng nghề tay trái rất giỏi. Cơ hội Thứ Tài không ít, nên nhanh tay nắm bắt, nhưng cũng đừng quá tham lam, phải biết điểm dừng.
Mộc Tinh là chủ tinh, ưa màu xanh, hợp đi về hướng Đông.
Lấy “Thanh Long” làm đại diện, linh vật là Rồng.
Tính cách người tuổi Thìn mệnh Mộc có phần hướng nội, trầm tĩnh ít nói. Họ khá bị động trong chuyện đối nhân xử thế, không quá nhiệt tình, cũng không có nhiều bạn bè thân thiết, các mối quan hệ xã hội khá lạnh nhạt.
Kì thực, họ là người có tài năng xuất chúng, khả năng làm việc và xử lý vấn đề rất tốt, chỉ có điều họ là người không thích nổi bật, không thích thể hiện bản thân, tựa như viên ngọc còn ẩn mình trong đá vậy. Nếu họ muốn và thoải mái thể hiện năng lực của mình thì sẽ tỏa sáng như viên ngọc minh châu giữa bóng đêm đen tối.
Thìn Mộc sẽ không thích những công việc quá đơn giản và nhẹ nhàng, họ cần có mục tiêu để luôn luôn phấn đấu theo đuổi. Có khó khăn thì nghĩ cách khắc phục, có kẻ địch thì nghĩ kế đẩy lùi, có như vậy họ mới thấy cuộc sống muôn màu muôn vẻ và cảm nhận được niềm vui. Đây quả thực là mẫu người chinh phục, chiến công chính là điều mà họ mong muốn hướng đến, còn thất bại là kẻ thù.
Có điều, người này lại khá nhỏ nhen trong chuyện tiền bạc. Tuy không mất nhiều công sức cũng có thể kiếm được bạc tiền nhưng họ rất khắt khe với bản thân, chỉ tiêu tiền vào những việc thực sự quan trọng. Lúc nào họ cũng than vãn không biết tiền của mình ở đâu. Tiền bạc và gia đình là hai thứ mà Thìn Mộc cực kì coi trọng. Họ không thích bị mắc nợ, nếu có lỡ nợ tiền của người khác thì cũng sẽ tìm đủ mọi cách xoay sở để trả hết số tiền đó.
Sức khỏe của người này không có gì đáng ngại, tuy nhiên đôi lúc vẫn bị khó chịu vì bệnh dạ dày. Nên đặc biệt cẩn trọng trong chuyện vệ sinh ăn uống. Mùa xuân mùa hạ đề phòng các bệnh truyền nhiễm. Ngoài ra, phải giữ cho tinh thần thoải mái, đừng tự tạo áp lực cho mình.
Phụ nữ tuổi Thìn mệnh Mộc là người có thể giữ yên ấm cho gia đình, nhưng nên chú ý tiết kiệm tiền bạc, đề phòng khi kinh tế gia đình lâm nguy. Cũng nên chú ý hơn đến trật tự trị an nơi mình sinh sống, cửa nẻo đóng khóa cẩn thận.
Những cô gái độc thân mệnh này khá hoạt bát và nhân duyên rất tốt, nhưng có thể có người theo đuổi dai dẳng, phải nghĩ cách để ứng phó. Nam giới có phần ít nói nên không có lợi cho việc kết giao với bạn bè khác giới. Nhưng vốn khí chất bất phàm nên cũng gây được không ít sự chú ý cho mình.
Theo tính cách của Thìn Mộc thì người này khá thích hợp đi xa quê hương để tìm kiếm cơ hội phát triển sự nghiệp. Đặc biệt, họ rất hợp với các công việc có liên quan đến ngoại thương và thu được nhiều lợi ích từ đó. Cùng tìm hiểu Phong thủy cho người tuổi Thìn để công danh sự nghiệp thêm thuận lợi.
Vận mệnh người tuổi Thìn mệnh Mộc khá thịnh vượng đường tài lộc, dù là Chính Tài hay Thứ Tài thì đều tiền về đầy kho. Người này rất thích đi rút thưởng có giá trị lớn, hay tham gia các trò chơi giải trí trên báo hoặc truyền hình, tỉ lệ thắng cuộc cũng lớn hơn người khác.
Tuy nhiên, người này có khá nhiều khoản phải chi tiêu lớn, nếu có thể đầu tư kinh doanh bất động sản hoặc mua các đồ có giá trị như trang sức, đá quý hay đồ cổ thì tỉ lệ thất thoát bạc tiền ở những lĩnh vực khác cũng sẽ ít đi.
Thủy Tinh là chủ tinh, hợp màu đen, nên đi về hướng Bắc.
“Huyền Vũ” là biểu tượng, linh vật là con Rắn.
Người tuổi Thìn mệnh Thủy có tầm nhìn xa trông rộng, kiên nhẫn, có nghị lực, tuy nhiên có phần thiếu cá tính, thường hành sự theo lẽ thường tình, thuận nước đẩy thuyền, không có bước đột phá đáng kể.
Người này khá công bằng trong cuộc sống, nhưng đôi khi tỏ vẻ bảo thủ, cố chấp, cũng ưa danh lợi. Vì thế mà khi xử lý những công việc liên quan đến tiền bạc, tài sản, họ không khỏi tỏ ra nhỏ nhen, keo kiệt, vì cái lợi nhỏ mà bỏ qua cái lợi lớn.
Thìn Thủy nên khoan dung độ lượng hơn, hành xử thận trọng hơn, phải phóng tầm mắt ra xa thì cơ hội thành công mới cao. Các mối quan hệ xã hội khá tốt, cũng có nhiều bạn bè có máu mặt. Tuyệt đối đừng vì những chuyện nhỏ nhặt mà đắc tội với họ, cũng đừng quá chi li tiền bạc thì sẽ nhận được nhiều sự giúp đỡ của bạn bè.
Vận mệnh người tuổi Thìn này đường công danh sự nghiệp có phần trắc trở, công việc bề bộn mà vất vả, nhưng cuối cùng nhờ biểu hiện xuất sắc nên thành quả đạt được cũng không tồi, có nhiều cơ hội tăng lương, thăng chức, nhận thưởng…
Người này có khả năng chịu áp lực tốt, sức chiến đấu tốt, giàu sức sống, song dễ bị mỏi mệt và thất vọng. Thìn Thủy luôn chú ý tới từng chi tiết nhỏ, nhớ kĩ sinh nhật của những người xung quanh, nếu không nhớ nằm lòng thì họ cũng sẽ cẩn thận ghi lại vào cuốn sổ nhỏ và chuẩn bị quà vào ngày đó.
Sự nhiệt tình chu đáo, phong cách mới mẻ, lại nói chuyện vui vẻ thú vị nên người này là mục tiêu theo đuổi của khá nhiều người khác giới, cũng luôn có người xếp hàng xin hẹn. Hãy nắm bắt cơ hội, tìm cho mình một người phù hợp để chung bước trên đường đời.
Chuyện tiền bạc, người này không cần lo lắng nhiều, dù làm công ăn lương hay kinh doanh buôn bán thì thu nhập đều khá ổn định và có chiều hướng tăng tiến. Họ cũng dễ trúng thưởng hay có một khoản tiền nho nhỏ từ trên trời rơi xuống.
Song không may là cũng có khá nhiều điềm phá tài, nên đầu tư nhiều hơn vào bất động sản hay các đồ có giá trị lâu dài để tránh bị thất thoát do tiền bạc mất giá. Nếu bạn có ý định mua xe, hãy tham khảo thêm Chọn màu xe hợp tuổi cho người cầm tinh con Rồng nhé.
Hỏa Tinh là chủ tinh, ưa màu đỏ, hợp đi về hướng nam.
“Chu Tước” là biểu tượng, linh vật là Phượng hoàng.
Người tuổi Thìn mệnh Hỏa dù là nam hay nữ thì cũng đều sở hữu ngoại hình thanh tú, dễ chiếm được cảm tình của người khác, cũng có khá nhiều hoa đào nở rộ.
Tuy không thông minh tuyệt đỉnh nhưng họ là người nhạy bén với thời cuộc, biết khéo léo lợi dụng hoàn cảnh và con người xung quanh để làm lợi cho mình, vì thế mà họ thường dễ dàng có được thành công.
Tuy nhiên, có thể do họ quá khéo léo, ứng biến linh hoạt, biết tuân theo quy tắc ngầm nên có thể khiến người khác cảm giác rằng họ giả tạo, sống không thật, gió chiều nào xoay chiều ấy.
Thìn Hỏa thường dễ bị kích động, cũng cố chấp, miệng lưỡi sắc sảo, giỏi ngụy biện gây chuyện thị phi. Họ luôn làm việc theo từng bước có sẵn, chỉ có vậy mới cảm thấy an toàn, song người này cũng có lúc tỏ vẻ tự mãn và coi thường người khác.
Khi họ phát hiện ra những cố gắng không ngừng nghỉ trên con đường chính nghĩa của mình bị người khác, đặc biệt là bạn bè, ra tay dùng thủ đoạn cướp mất để lấy thành quả thì sẽ có cảm giác bị phản bội nặng nề, vừa tức giận vừa bị tổn thương. Song có lúc mất đi lại là được, là ý trời khó tránh, đừng nên quá muộn phiền.
Họ không có tâm cơ, không giỏi giấu người khác những mục tiêu của mình mà thường thoải mái chia sẻ với mọi người sở thích hay quá khứ lỗi lầm của mình nên dễ bị thất bại bởi âm mưu của kẻ tiểu nhân.
Đôi khi giấu đi sự thẳng thắn của mình không phải là điều xấu, cuộc sống này ẩn chứa quá nhiều điều xấu xa, con người cũng hiếm khi thành thật nên tốt nhất cẩn thận vẫn hơn. Khi hành động, nên chú ý đến từng chi tiết nhỏ, khi gặp phải trở ngại nên dứt khoát chặt đứt quan hệ với những con người, sự việc khiến mình thất vọng. Đừng để tới khi lún sâu vào thì muốn thoát thân cũng đã muộn.
Về sức khỏe, người này ít khi ốm đau nặng, song nên thay đổi những thói quen sinh hoạt không tốt, nhất là về vấn đề ăn uống.
Vận mệnh người tuổi Thìn mệnh Hỏa về nhân duyên khá tốt, biết cách mở rộng mối quan hệ. Song bạn có phần dễ tin người nên hay bị mắc lừa. Tính cách không được tốt lắm, dễ cãi cọ với người yêu, đây là điểm bạn cần chú ý và sửa đổi.
Người này không có ý thức cao về tiền bạc, không biết cách thắt chặt chi tiêu hay tính quan trọng của việc đầu tư tiết kiệm khi xảy ra vấn đề về tài chính. Nên nhớ nhanh chóng trả hết những khoản nợ, đừng để dây dưa kép dài. Vận may tài lộc thường đến khá nhanh và mạnh như vũ bão, hãy nắm bắt thời cơ để đầu tư sinh lời.
Thổ Tinh là chủ tinh, hợp màu vàng.
“Thổ Địa” và “Hoàng đế” là đại diện, linh vật là Kì lân.
Người tuổi Thìn mệnh Thổ có tinh thần cầu tiến, lại chăm chỉ nhẫn nại, luôn tích cực làm việc không quản khó khăn. Đầu óc tư duy linh hoạt, nếu tiếp tục nỗ lực thì chắc chắn sẽ giành được thành công lớn, có điều bỏ dở giữa chừng lại là một trong những thói xấu của người này.
Thìn Thổ rất lương thiện, dễ mủi lòng. Đây là bản tính của họ chứ hoàn toàn không có chút gì giả tạo. Tuy họ luôn có mong muốn “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” nhưng tính cách mờ nhạt không rõ ràng nên thường cuộc sống của họ khá bình yên và tẻ nhạt.
Thực ra người này chỉ cần cố gắng chăm chỉ thì với tố chất của mình, họ hoàn toàn có thể trở thành lãnh đạo xuất sắc, có quyền lực trong tay, đủ sức tạo phúc cho nhân dân.
Về sức khỏe, Thìn Thổ nên chú ý đến các bệnh về đường tiết niệu và một số bệnh nhỏ khác như cảm cúm, đau dạ dày. Nên ăn uống và nghỉ ngơi hợp lý để giữ gìn sức khỏe.
Người này có phần sống hoang phí, những đồ đạc mua về thường theo sở thích, nhưng nhanh chóng chán ghét hoặc dễ bị hư hỏng. Nên suy nghĩ kĩ càng trước khi tiêu tiền để tránh lãng phí tiền bạc. Sống tiết kiệm cũng chính là 1 trong 10 điều tạo nên những sự khác biệt của người thành công đó.
Riêng bệnh thích mua sắm, nên dùng ý chí để kiểm soát bản thân, nhắc nhở chính mình chi tiêu hợp lý, mua những thứ đáng mua. Có nguyên tắc cho riêng mình và giữ vững nguyên tắc đó thì mới giữ được tài lộc bên mình.
Hy Vũ
- Khóe miệng hướng lên trên: tính tình lạc quan, thân thiện, ai gặp cũng mến, là người nồng nhiệt trong tình yêu.
- Khóe miệng hướng xuống dưới: trầm lắng u sầu, lãnh đạm đa nghi, đa sầu đa cảm, tình yêu hay gặp cản trở, khó thành.
- Khuôn miệng rộng lại hay cười nói: có tướng hại chồng, dễ yêu đương lăng nhăng.
- Khóe môi hạ xuống: thái quá trong tình yêu, dễ oán hận người khác, tâm địa không tốt, hay bị người yêu cũ oán hận.
- Khuôn miệng như chiếc cung: quanh họ ngập tràn tình yêu.
- Xương hàm lớn: có ham muốn mạnh mẽ trong tình yêu, thích mạo hiểm. Tuýp người này không biết lùi bước nên hay gặp thất bại trong tình yêu.
- Đôi môi đầy đặn: tề gia nội trợ tốt, tài lực ổn.
- Môi trên đè môi dưới: người biết yêu thương, trân trọng người xung quanh mình.
- môi dưới đè môi trên: không tôn trọng chồng, hay tư lợi.
- Môi thâm dày: tình yêu hỗn loạn và phức tạp.
- Miệng nhỏ nhưng môi đầy đặn, hơi nhô lên: tình yêu không như ý, môi mỏng dẹt và thẳng thì cả đời không hiểu về tình yêu.
- Khuôn miệng tròn, môi lớn: rất coi trọng bản thân.
- Miệng rộng, môi mỏng: tình yêu không thuận lợi
Kunie (theo lnka)
Một thanh niên học hành xuất sắc nộp đơn vào chức vụ quản trị viên của một công ty lớn. Anh ta vừa xong đợt phỏng vấn đầu tiên, ông giám đốc công ty muốn gặp trực tiếp để có quyết định nhận hay không nhận anh ta. Và ông thấy từ học bạ của chàng thanh niên, tất cả đều tốt và năm nào, từ bậc trung học đến các chương trình nghiên cứu sau đại học cũng đều xuất sắc, không năm nào mà anh chàng thanh niên này không hoàn thành vượt bậc.
Viên giám đốc hỏi:
- Anh đã được học bổng của những trường nào?
- Thưa không
- Thế cha anh trả học phí cho anh đi học sao?
- Cha tôi mất khi tôi vừa mới một tuổi đầu. Mẹ tôi mới là người lo trả học phí.
- Mẹ của anh làm việc ở đâu?
- Mẹ tôi làm công việc giặt áo quần.
Viên giám đốc bảo chàng thanh niên đưa đôi bàn tay của anh cho ông ta xem. Chàng thanh niên có hai bàn tay mịn màng và hoàn hảo.
- Vậy trước nay anh có bao giờ giúp mẹ giặt giũ áo quần không?
- Chưa bao giờ. Mẹ luôn bảo tôi lo học và đọc thêm nhiều sách. Hơn nữa, mẹ tôi giặt áo quần nhanh hơn tôi - Chàng thanh niên đáp.
- Tôi yêu cầu anh một việc. Hôm nay khi trở lại nhà, lau sạch đôi bàn tay của mẹ anh, và rồi ngày mai đến gặp tôi.
Ðến lúc ấy thì chàng thanh niên có cảm tưởng là công việc tốt này đang sẵn sàng là của mình. Về đến nhà, chàng ta sung sướng khoe với me, và chỉ xin được cầm lấy đôi bàn tay của bà. Mẹ chàng trai cảm thấy có điều gì đó khác lạ. Với một cảm giác vừa vui mà cũng vừa buồn, bà đưa đôi bàn tay cho con trai xem.
Bàn tay của mẹ, bài học của con
Chàng thanh niên từ từ lau sạch đôi bàn tay của mẹ. Vừa lau, nước mắt chàng tuôn tràn. Ðây là lần đầu tiên chàng thanh niên mới có dịp khám phá đôi tay mẹ mình: đôi bàn tay nhăn nheo và đầy những vết bầm đen. Những vết bầm làm đau nhức đến nỗi bà đã rùng mình khi được lau bằng nước. Lần đầu tiên trong đời, chàng thanh niên nhận thức ra rằng, chính từ đôi bàn tay giặt quần áo mỗi ngày này đã giúp trả học phí cho chàng từ bao nhiêu lâu nay.
Những vết bầm trong đôi tay của mẹ là giá mẹ chàng phải trả dài đăng đẳng cho đến ngày chàng tốt nghiệp, cho những xuất sắc trong học vấn và cho tương lai sẽ tới của chàng.
Sau khi lau sạch đôi tay của mẹ,chàng thanh niên lặng lẽ giặt hết phần áo quần còn lại cho mẹ.
Tối đó, hai mẹ con tâm sự với nhau thật là lâu.
Sáng hôm sau, chàng thanh niên tới trụ sở công ty. Viên giám đốc còn thấy những giọt nước mắt chưa ráo hết trong đôi mắt của chàng thanh niên, ông hỏi: “Anh có thể cho tôi biết những gì anh đã làm và đã học được hôm qua ở nhà không?”
Chàng thanh niên đáp: “Tôi lau sạch đôi tay của mẹ, và cũng giặt hết phần áo quần còn lại.”
Viên giám đốc: “Cảm tưởng của anh ra sao?”
Chàng thanh niên nói: “Thứ nhất, bây giờ tôi mới thấu hiểu thế nào là ý nghĩa của lòng biết ơn: Không có mẹ, tôi không thể thành tựu được như hôm nay. Thứ hai, qua việc hợp tác với nhau, và qua việc giúp mẹ giặt quần áo, giờ tôi mới ý thức được rằng thật khó khăn và gian khổ để hoàn tất công việc. Thứ ba, tôi hiểu sâu xa được tầm mức quan trọng và giá trị của liên hệ gia đình.”
Viên giám đốc nói: “Ðây là những gì tôi cần tìm thấy ở nơi con người sẽ là quản trị viên trong công ty chúng tôi. Tôi muốn tuyển dụng một người biết ơn sự giúp đỡ của những người khác, một người cảm thông sự chịu đựng của những người khác để hoàn thành nhiệm vụ, và một người không chỉ nghĩ đến tiền bạc là mục đích duy nhất của cuộc đời. Em được nhận.”
Sau đó, chàng thanh niên làm việc hăng say, và nhận được sự kính trọng của các nhân viên dưới quyền. Tất cả nhân viên làm việc kiên trì và hợp tác như một đội. Thành tựu của công ty mỗi ngày mỗi được cải thiện.
Câu chuyện nói về sự hi sinh của người mẹ. Nhưng em tự hỏi, điều gì sẽ xảy ra nếu không có người Giám đốc nọ, chắc hẳn người mẹ vẫn phải hi sinh thầm lặng mà người con không hay biết. Em mong rằng mỗi người mẹ trên thế gian này ngoài sự yêu thương không giới hạn, bàn tay làm việc không mệt mỏi thì hãy sớm để cho đứa con sớm nhìn ra bàn tay đó, để họ biết đươc giá trị từng giây phút hạnh phúc.
Theo Bài Học Cuộc Sống
► Xem ngày tốt xấu nhập trạch chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thùy Dung (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
=> Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
Alexandra V (theo vonvon)