Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Phòng sách bố trí phù hợp với phong thủy –

Phòng sách là bộ phận cấu thành quan trọng trong môi trường nhà. Phòng sách, tên này vốn có ý nghĩa là phòng để lưu giữ và đọc sách. Hiện nay ở thành phố đang lưu hành rất nhiều kiểu phòng lưỡng dụng ở các công ty củng như gia đình, nhiều công ty nhỏ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hay người bán hàng chọn đặt văn phòng tại nhà và như vậy phòng sách vừa là văn phòng vừa là nơi sinh hoạt.
Những gia đình có diện tích nơi ở rộng thì có thể bố trí phóng sách độc lập; gia đình nào tương đối hẹp thì bỏ ra một khu nhỏ làm nơi học tập và làm việc, che chắn cho khu này có thể dùng tủ sách hoặc rèm.

Bố trí phòng sách thể hiện cá tính và nội tâm của người chủ, thực ra, đó là một học vấn. Phòng sách là nơi rèn luyện bản lĩnh, tu thân dưỡng tính của mỗi người. Thường thì phòng sách được bài trí bàn viết, bàn để máy vi tính, tủ sách, ghế ngồi. Bàn viết và ghế phải được thiết kế tinh tế, hợp với tư thế ngồi và thuận tiện trong thao tác.

A 1202562
Đồ dùng trong phòng sách ngoài tủ, bàn, ghế ra, ở phòng sách dùng cho khách có thể bố trí thêm một bộ bàn ghế uống nước, tạo không khí ấm cúng. Bàn sách nên đặt trước hoặc bên phải cửa sổ để đảm bảo ánh sáng, mặt bàn tránh bị che bóng. Đèn bàn nên dùng loại cơ động, có thể điều chỉnh và đảm bảo góc độ chiếu sáng và độ sáng. Ngoài ra có thể bố trí thêm chậu cây và tranh ảnh để thể hiện không gian đặc trưng của một phòng sách.
Rèm cửa thường dùng loại vải màu nhạt, vừa có thể che được ánh sáng vừa tạo được cảm giác thông thoáng, dùng được rèm bạch diệp cao cấp càng tốt, ánh sáng cường độ mạnh khi qua rèm sẽ trở nên dịu và ẩm.
Quy mô và đầu tư phòng sách thường được xem xét căn cứ vào kích thước phòng và nghề nghiệp, thân phận và lượng sách cần có của người chủ, nếu diện tích có hạn có thế kéo không gian ra thêm khi điều kiện cho phép; củng cần căn cứ vào khả năng thu nhập kinh tế của người chủ để chọn. Bình thường, nhu cầu của một phòng sách là thực dụng, gọn gàng sạch sẽ, không nhất thiết phải đầu tư những thứ quá đặt tiền.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phòng sách bố trí phù hợp với phong thủy –

Vật phẩm phong thủy cầu con –

Trong cuộc sống, rất nhiều người đã biết dùng đến vật phẩm “kỳ lân biếu con” và núi ngọc thái sơn (núi có 3 đỉnh) với ý nguyện sớm có con cái cho gia đình thêm đông đúc, nhưng vẫn còn những mẹo phong thủy khác để sớm có tử tức được lưu truyền trong d

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ân gian như sau:

1. Liên sinh quý tử

vật phẩm phong thủy cầu con

Với những người sốt ruột muốn có con ngay, hãy sử dụng miếng ngọc bội cổ mang tên “liên sinh quý tử”.

Hình dạng của miếng ngọc bội này là 1 cậu bé ngồi trên lá sen hoặc tay cầm bông sen (loại này còn có tên là “trì hà đồng tử”) “liên” là hoa sen, lá sen nhưng lại đồng âm với chữ “liên” là liền ngay, nên tấm ngọc bội mang ý nghĩa cầu chúc có con sớm.

2. Miên miên qua điệt

“Qua” có nghĩa là quả dưa, “điệt” là dưa nhỏ. Hình ảnh giàn dưa leo trái to, trái nhỏ và trái nhỏ thì nhiều hàm ý là “con cháu đầy đàn”. Cho nên khắc hình tượng “con cháu đầy đàn” trên cẩm thạch, người đeo sẽ nhanh chóng sinh con, vẽ trên tranh thì treo trong phòng ngủ.

“Điệt” là hài âm cho “điệp” (bướm). Từ đó, hợp lại thành “qua điệp”. Hình ảnh phú quý đồng tử tay cầm bướm, chân đạp dưa là hàm ý con cháu đầy đàn, phú quý cát tường.

3. Bầu bí đầy đàn

Giàn bầu bí dây leo chằng chịt, quả to quả bé treo lủng lẳng là biểu tượng 1 gia đình sum họp, con đàn cháu đống.

Người ta khắc họa hình giàn bầu trĩu quả trên đá ngọc làm bùa cho những đôi vợ chồng hiếm con, nếu vẽ thành tranh thì treo trong nhà, với ý cầu chúc đẻ nhiều con.

4. Thạch lựu

vật phẩm phong thủy cầu con

Để có nhiều con, có thể sử dụng viên bạch ngọc tạc hình quả lựu. Hình quả lựu ở đây được bổ làm đôi, 1 nửa lộ ra rất nhiều hạt, mang ý nghĩa “lựu khai bách tử” (tức là lựu nở nhiều con). Việc mang tặng bức tranh “lựu khai bách tử” cho đôi vợ chồng mới cưới, được coi là lời cầu chúc tốt đẹp.

5. Cát khánh hữu dư

Treo tranh có hình 2 đứa trẻ tay cầm khánh, tay cầm cá. Khánh với ý nghĩa là “cát khánh” (điều vui mừng, tốt lành), cá biểu tượng là “hữu dư” (có dư).

6. Phú quý đồng tử

Là tranh 2 đứa trẻ khả ái tay cầm kim câu thiêm tài tiến bảo, sau lưng là cây phú quý đầy tiền vàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy cầu con –

Sao Hóa Kỵ

Hành: Thủy Loại: Ác tinh Đặc Tính: Thâm trầm, xảo quyệt, ganh ghét, trở ngại, đố kỵ, thị phi Tên gọi tắt thường gặp: Kỵ Phụ tinh. ...
Sao Hóa Kỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThủyLoại: Ác tinhĐặc Tính: Thâm trầm, xảo quyệt, ganh ghét, trở ngại, đố kỵ, thị phiTên gọi tắt thường gặp: Kỵ
Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ.

Vị Trí Ở Các Cung

  • Đắc địa: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
  • Hãm địa: Tý, Sửu, Dần, Mão, Tỵ, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi.
Ý Nghĩa Hóa Kỵ Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Sao Hóa Kỵ ở cung Mệnh thì tính thâm trầm, thâm hiểm, ích kỷ, đa nghi, hay đố kỵ, ganh tị, ghen ghét người khác, và cũng hay gây sự với người ta. Nếu gặp các sao tốt thì trở thành người khôn ngoan, sâu sắc, có tay nghề sắc sảo, đặc biệt, tính tình cẩn trọng, được nhiều người kính nể.
Những Bộ Sao Tốt
Hóa Kỵ đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp Nhật, Nguyệt sáng đồng cung: Đây là một cách rất tốt. Hóa Kỵ trong trường hợp này được ví như mây ngũ sắc bên cạnh Nhật, Nguyệt sáng sủa. Có cách này sẽ hưởng phú quí lâu dài. Riêng ở Sửu, Mùi đồng cung với Nhật, Nguyệt nếu được thêm Tuần, Triệt án ngữ thì rất rực rỡ. Nhưng hay bị đau mắt hoặc đau thần kinh.
Hóa Kỵ ở Tý, Hợi có Hóa Khoa hội chiếu: Người khôn ngoan cẩn thận từ lời nói đến việc làm, được nhiều người kính trọng.
Hóa Kỵ ở Tý có Khoa Lương hội chiếu: Nếu có thêm cát tinh sáng sủa hội họp thì người có đức độ, danh vọng được người quý mến, hậu thuẫn. Đây có thể là một nhà hiền triết, nhân sĩ, dân biểu, nghị sĩ hữu danh.
Hóa Kỵ đồng cung với Liêm Trinh, Tham Lang tại Tỵ, Hợi: Hóa Kỵ khắc chế được sự bất lành, hóa giải nhiều hung họa do Liêm Trinh, Tham Lang tại Tỵ, Hợi gây nên. Tuy đây không phải là cách tốt, nhưng cũng khá giả, ít lo ngại về bệnh tật, tai nạn.
Những Bộ Sao Xấu
Hóa Kỵ gặp Nhật hay Nguyệt cùng hãm địa: Trong trường hợp này ánh sáng Nhật, Nguyệt vốn không có lại bị thêm mây che nên rất xấu. Người hay bệnh hoạn, cô đơn, cực khổ, bị tai họa lớn, phải tha phương lập nghiệp và yểu tử.
Hóa Kỵ, Cự Môn hay Hóa Kỵ, Đào Hoa (Hồng Loan) hay Hóa Kỵ, Tham Lang đồng cung: Rất dễ bị thủy tai (chết hụt, chết đuối) hay bị bắt bớ giam cầm. Riêng phái nữ gặp bộ sao này rất bất lợi, bị tai nạn trinh tiết như mất trinh, thất tiết, bất chính hoặc hôn nhân trắc trở, có thể không chồng hay phải lo buồn về gia đạo.
Hóa Kỵ gặp Xương Khúc, Khôi, Việt: Học hành trắc trở, thi trượt hay vất vả, dù có đỗ cũng không thành danh. Trong quan trường hay bị dèm pha, ly gián.
Hóa Kỵ, Thiên Riêu, Đà La ở liền cung: Họa vô đơn chí.
Hóa Kỵ, Phục Binh, Thái Tuế: Có sự thù hằn, cạnh tranh, kiện tụng lo lắng vì sợ bị mưu hại, trả thù.
Hóa Kỵ, sát tinh đắc địa: Danh tài hoạch phát nhưng hoạch phát suốt đời lưu lạc. Nếu sát tinh hãm địa thì nguy cơ càng tăng, nghèo khổ, tai họa khủng khiếp, giảm thọ. Đó là họa hại của hung tinh hội tụ, sức phá gia tăng theo hệ số.
Ý Nghĩa Hóa Kỵ Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ bất hòa, xung khắc. Nếu không thì cha mẹ và con cũng không hạp tính nhau. Càng đi với sát tinh ý nghĩa càng nặng.
Ý Nghĩa Hóa Kỵ Ở Cung Phúc Đức
  • Bị giảm thọ. Mồ mả tổ tiên, ông bà có nơi bị úng thủy, ngập nước. Trong họ có người bị điên, bị bệnh về thần kinh, tâm thần hoặc bị bệnh phù thủng. Giòng họ có tay nghề khéo, có danh tiếng, nhưng hay bị cạnh tranh, gặp chuyện thị phi, nói xấu. Gặp các sao Địa Không, Địa Kiếp, thời vận giòng họ suy bại, nghèo nàn.
Ý Nghĩa Hóa Kỵ Ở Cung Điền Trạch
  • Trong đời, phải có lần bán nhà, hoặc bán đất, phá sản.
Ý Nghĩa Hóa Kỵ Ở Cung Quan Lộc
Trừ phi gặp những bộ sao tốt nói ở trên, Hóa Kỵ ở cung Quan chủ sự trắc trở về công danh, cụ thể như:
  • Chậm thăng tiến.
  • Bị chèn ép, bị tiểu nhân dèm pha.
  • Không được tín nhiệm.
  • Bất đắc chí trong quan trường.
  • Chính mình cũng hay dùng tiểu xảo hại đồng nghiệp.
Ý Nghĩa Hóa Kỵ Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn, nhân viên, đồng nghiệp, người giúp việc hay nói xấu, oán hại mình. Gặp các sao Phá Quân, Tang Môn, làm ơn nên oán.
Ý Nghĩa Hóa Kỵ Ở Cung Tật Ách
  • Sao Hóa Kỵ đóng trong Tật Ách thì hay bị bệnh tật, tai nạn, khó sinh đẻ, đau mắt, yếu về khí huyết, dễ bị đau bụng, đau ở bộ phận tiêu hóa, đường ruột, đại tràng, bệnh trỉ hoặc bị ngộ độc do thức ăn.
  • Sao Hóa Kỵ là âm tinh cho nên đi với bộ phận nào của cơ thể đều gây trục trặc cho bộ phận đó. Chỉ có thể nói gây trục trặc mà thôi, chớ chưa hẳn làm cho bộ phận đó bị thương tàn vì sức phá của Hóa Kỵ rất tầm thường về mặt bệnh lý.
  • Hóa Kỵ với Nhật hay Nguyệt ở bất luận cung nào: Mắt kém hoặc cận thị, viễn thị, hay đau mắt. Hóa Kỵ đi với mắt nào thì mắt bên đó bị trục trặc.
  • Hóa Kỵ, Cự Môn: Miệng méo.
  • Hóa Kỵ, Kình Dương hay Đà La: Hay ù tai, cứng tai, đôi khi bị điếc. Có tật ở chân tay.
  • Hóa Kỵ gặp Đại Hao, Tiểu Hao: Hay đau bụng, tiêu chảy.
  • Hóa Kỵ, Thai: Bào thai không được mạnh.
  • Hóa Kỵ với Nguyệt (nữ mệnh): Người nữ máu huyết xấu, có hại cho sự thụ thai.
  • Hóa Kỵ, Thiên Riêu: Đàn ông thận suy, dương hư.
Ý Nghĩa Hóa Kỵ Ở Cung Tài Bạch
  • Hao tán tiền bạc, Hóa Kỵ ở Tài ví như Đại Tiểu Hao.
  • Hóa Kỵ, Phục Binh: Bị trộm cắp, bị người ở lấy của.
Ý Nghĩa Hóa Kỵ Ở Cung Tử Tức
  • Cha mẹ và con cái xung khắc nhau, con cái không hòa thuận nhau, giành giựt tài sản, tranh hơn thiệt.
Ý Nghĩa Hóa Kỵ Ở Cung Phu Thê
  • Vợ chồng lục đục hay cãi vã. Sao Hóa Kỵ đi thêm với sao xấu khác, ý nghĩa bất lợi nặng hơn.

  • Hóa Kỵ, Phục Binh: Vợ chồng bất hòa, khi ở khi đi. Lúc lấy nhau, hôn nhân bị cản trở. Khi đồng cư thì hay nói xấu nhau, có thể mưu hại nhau, hoặc bị người chia rẽ.
  • Hóa Kỵ, Đào Hoa (Hồng Loan): Vợ chồng dễ lừa dối nhau, ngoại tình.
  • Hóa Kỵ, Thiên Riêu: Vợ hoặc chồng là người ham chơi bời, phóng đãng.
  • Hóa Kỵ, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Riêu: Âm mưu hại vợ, chồng, giết chồng, giết vợ.
Tóm lại, Hóa Kỵ rất bất lợi ở cung Phu Thê, nhất là khi gặp sát tinh đi kèm.
Ý Nghĩa Hóa Kỵ Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em xung khắc, tranh giành nhau về tài sản, không ở chung nhau được.
Hóa Kỵ Khi Vào Các Hạn
  • Hạn gặp sao Hóa Kỵ thì việc làm bị trắc trở, bị người oán thù, mưu hại mình.
  • Gặp các sao Phục Binh, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Đại Hao, Địa Không, Kình Dương, Thất Sát, Địa Kiếp chiếu là vào hạn nguy hiểm, chết người.
  • Hóa Kỵ, Thái Tuế, Phá Quân là hạn hay gặp chuyện thị phi, tranh cãi, tranh chấp lôi thôi.
  • Hóa Kỵ, Thiên Hình, Địa Kiếp, nên đề phòng nạn dao kéo, đâm chém, cưa cắt, mổ xẻ.
  • Hóa Kỵ, Cự Môn là hạn đề phòng sông nước và lắm chuyện lôi thôi bực mình.
  • Hóa Kỵ, Hồng Loan thì tơ duyên rắc rối.
  • Hóa Kỵ, Thái Âm, Thái Dương thì bị đau mắt, có tang cha mẹ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Hóa Kỵ

Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 2)

Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên tiết lộ nét riêng của từng người để bạn hiểu thêm về cá tính của chính bạn hoặc người bạn cần tìm hiểu.
Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên tiết lộ nét riêng của từng người để bạn hiểu thêm về cá tính của chính bạn hoặc người bạn cần tìm hiểu.  
Tiếp nối Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 1), chúng ta cùng khám phá tính cách, nét riêng của bạn thông qua chữ cái đầu tiên của tên.
 

N là chữ cái đầu tiên của tên

  Dự đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên cho biết nếu bạn bắt đầu bằng chữ N cho thấy bạn là người thông minh với trí tưởng tượng phong phú. Bạn rất giỏi và khéo léo khi chuyển những bản kế hoạch thành thực tế.   Bạn không ngại khó, ngại khổ, sẵn sàng vượt qua các chướng ngại vật để tìm ra lối đi thành công cho cuộc sống của mình. Chính sự mạnh mẽ này của những người có tên bắt đầu bằng chữ N đã tạo nên nét cuốn hút rất riêng. Tuy nhiên, điểm tiêu cực là khi nỗ lực mà không thành công họ trở nên rất ủ rũ và sống nội tâm hơn.   Nếu còn độc thân, họ rất thích chia sẻ với mọi người những mong muốn về tình yêu trong mơ của mình. Một khi tìm được một nửa đích thực họ sống rất cuồng nhiệt nhưng lời khuyên là nên tỉnh táo nếu không sẽ bị phản bội lúc nào không hay.
Doan tinh cach nho chu cai dau tien cua ten Phan 2 hinh anh
 
 

O là chữ cái đầu tiên của tên

  Những người này có rung động tinh thần mạnh mẽ và có cách nhìn sâu sắc trước nhiều vấn đề. Họ yêu thích sự công bằng, kiên cường và rất dũng cảm.    Trong những cuộc tranh cãi, họ nhất định là người hòa giải tuyệt vời và có những kỹ năng để dễ dàng đạt được mục tiêu nghề nghiệp của mình. Yếu điểm của họ là thường không thực tế, hay mơ mộng.   Trong tình yêu, những người có tên bắt đầu bằng chữ O thích có nhiều mối quan hệ cùng một lúc và đó là bởi vì muốn có nhiều trải nghiệm hơn trong chuyện tình cảm trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Tuy mãnh liệt, đam mê nhưng đôi khi quá sở hữu và ghen tuông. 

Bạn có thể tham khảo thêm bài viết: Chiếc rốn nói gì về tương lai sướng khổ của bạn?
 

P là chữ cái đầu tiên của tên

  Những người có chữ P là chữ cái đầu tiên của tên là người tổng hòa giữa sự lý trí và bài bản, lại xen lẫn sáng tạo. Họ thích tìm hiểu và học hỏi tất cả những gì có thể và niềm vui là được chia sẻ những gì mình đã học với mọi người càng nhiều càng tốt.   Họ đam mê theo đuổi thành công và luôn muốn những bạn bè là những người tài năng để cùng họ khám phá thế giới xung quanh. Tuy nhiên, những người có tên bắt đầu bằng P đang bị mắc kẹt giữa sự sáng tạo và tuân theo sự sắp đặt. Đây là lý do chính bản thân họ mâu thuẫn.
Về mặt tình cảm, họ giỏi tán tỉnh người khác giới và thích thử những điều mới mẻ trong tình yêu.

Doan tinh cach nho chu cai dau tien cua ten Phan 2 hinh anh 2
 
 

Q là chữ cái đầu tiên của tên

  Người có chữ cái đầu là Q là người tự tin, kiên trì và rất giỏi trong việc giữ bình tĩnh trước mọi vấn đề trong cuộc sống. Họ mạnh mẽ, nhanh nhạy với trực giác tuyệt vời. Họ sinh ra đã có khả năng để trở thành người lãnh đạo. Những thứ bất thường trong cuộc sống kích thích con người và thu hút mối quan tâm của họ.   Dự đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên cho biết nếu bạn bắt đầu bằng chữ Q tức là bạn có sự tự tin tuyệt vời và đây là bệ phóng đưa bạn đến thành công. Điểm yếu là đôi lúc vì mục đích cá nhân nên sinh ra tính ích kỷ.   Bạn vừa lãng mạn và nội tâm nên có cảm giác khó tìm thấy đối tác phù hợp, vì thế phần lớn thời gian bạn chơi với một nhóm bạn để giải tỏa cảm giác cô đơn trước khi tìm ra một nửa của mình.  

R là chữ cái đầu tiên của tên

  Những người bắt đầu bằng chữ R là người dịu dàng, tốt bụng và hiền lành. Họ có lý tưởng và suy nghĩ tích cực về cuộc sống, luôn mong muốn được giúp đỡ người khác. Dường như họ trở thành người lập dị vì quá bao dung và yêu thương tất cả mọi người cũng như luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. 
 
Bản chất trung thực và đáng tin cậy của họ khiến mọi người xung quanh rất tôn trọng và ngưỡng mộ. Tuy nhiên, điểm yếu của những người này là đôi lúc hơi hời hợt.
Tham khảo thêm bài viết: Soi chữ ký biết tính cách những nhân vật có tầm ảnh hưởng thế giới
 

S là chữ cái đầu tiên của tên

  Những người nàycó tính cách nhút nhát, có xu hướng che giấu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân. Họ là sự kết hợp giữa tinh thần mạnh mẽ và biết hi sinh, họ có khả năng để vượt qua bất kỳ khó khăn nào trong cuộc sống. 
 
Họ có đủ sức mạnh ý chí để thực hiện ước mơ của mình và xây dựng tương lai lý tưởng của mình. Nhược điểm của con người mạnh mẽ này là dễ nổi nóng khiến họ mất cần bằng trong cuộc sống.
Doan tinh cach nho chu cai dau tien cua ten Phan 2 hinh anh 3
 
 

T là chữ cái đầu tiên của tên

  Nếu bạn có tên chữ cái đầu tiên là T thì chắc chắn một trong những người đam mê nhất trên hành tinh này. Bạn khá nhút nhát, dè dặt và rất lãng mạn và thường mơ mộng nghĩ về bữa tối lãng mạn trên bãi biển để được cùng người ấy ngắm sao đêm. Vì thế, bạn khó yêu vì quá lý tưởng hóa tình yêu.   Bạn cũng là người rất kiên nhẫn, khoan dung và tốt bụng. Bên trong bạn ẩn chứa phẩm chất lãnh đạo tuyệt vời vì thế ở nơi làm việc hay trong các nhóm bạn luôn nổi bật.
 
Bạn thoải mái chia sẻ kiến thức và sẵn sàng chi tiền để hỗ trợ người mà mình dẫn dắt. Tuy nhiên, điểm yếu là bạn luôn cần sự ủng hộ từ nhiều người nên dễ bị phục thuộc vào cảm xúc, dễ nảy sinh lo lắng, thờ ơ.
 

U là chữ cái đầu tiên của tên 

  Dù là người yêu thích sự tự do và những cuộc phiêu lưu nhưng những ai có tên bắt đầu bằng chữ U mang nét gì đó rất thần bí. Họ tài năng và may mắn trong cuộc sống, nhưng bên trong con người họ thường bị giằng xé giữa bổn phận và những mong muốn cá nhân.
 
Nếu họ có thể vượt qua những ham muốn vật chất đời thường thì sẽ hứa hẹn một tương lai thành công rực rỡ.
 
Tình yêu của họ mang nghĩa rất rộng. Nếu chưa tìm thấy một nửa của mình, bạn vẫn rất yêu đời và chỉ những mối quan hệ tích cực, hào hứng, thú vị mới đủ níu chân bạn.     

V là chữ cái đầu tiên của tên

 

Bạn có nét tính cách thu hút với nhiều người ở những độ tuổi hoàn toàn khác nhau. Bạn đặc biệt hấp dẫn với những người cá tính, có nét lập dị như là có phong cách ăn mặc hoặc hành xử khác biệt. Bạn thích tự do và mong muốn có không gian riêng của mình.   Nếu bạn là người bắt đầu bằng chữ V nghĩa là bạn là người sáng tạo, cần cù, chân thành. Bạn thường mong muốn phát triển không ngừng nghỉ và luôn nắm bắt cơ hội để di chuyển và khám phá. Bạn tận hưởng những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống. Điểm yếu là không có khả năng quản lý tiền bạc chặt chẽ.   

X là chữ cái đầu tiên của tên
 

Bạn thường lý tưởng hóa tình yêu mà có thể bạn sẽ không bao giờ gặp được trong cuộc sống. Để hỗ trợ lý tưởng của mình, bạn thường nói rất nhiều để bày tỏ cho mọi người biết về suy nghĩ của mình.   Những người có tên xuất phát bằng chữ X rất bản lĩnh, họ không ngừng phấn đấu để vươn lên, tìm kiếm sự hoàn hảo và cân bằng trong mọi việc.    Họ có nét sống động tự nhiên, đặc biệt dũng cảm, thoải mái đón nhận sự thay đổi trong cuộc sống trong khi đi tìm kiếm sự hài hòa. Tuy nhiên, những người này có thể trở nên tiêu cực khi mọi thứ không đi theo kế hoạch.

Có thể bạn quan tâm: Cách ký tên nói gì về bạn?


Y là chữ cái đầu tiên của tên
 

Nếu tên bạn bắt đầu bằng chữ Y nghĩa tức bạn là nhà thám hiểm vĩ đại và nhiều đam mê. Bạn luôn luôn tìm kiếm ý tưởng mới, luôn cố gắng đáp ứng nhu cầu của người thân thiết. 
 
Dự đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên cho biết nếu bạn bắt đầu bằng chữ Y nghĩa là bạn mang quyết tâm rất lớn về cả năng lượng thể chất và tinh thần. Bạn có khả năng phân tích và rất thông minh, nhanh chóng tìm giải pháp cho vấn đề của mình. Điều này hứa hẹn thành công và cơ hội tỏa sáng trong nghề nghiệp mà bạn đã chọn. Ngoài ra, người bị ảnh hưởng bởi Y có thể lãng phí rất nhiều năng lượng cho việc suy diễn vấn đề.


KaThy

Dự đoán tính cách theo họ tên Dự đoán tính cách của từng cung hoàng đạo khi làm mẹ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 2)

Mối lái là gì ?

Trong xã hội phong kiến xưa "Nam nữ thụ thụ bất thân" nên hôn nhân cần phải người môi giới. nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê trách là "Phải lòng nhau" "Mắc phải bùa yêu". Nguyễn Du đã vạch đường cho Kim Trọng. Thuý Kiều cứ yêu nhau rồi sẽ "Liệu bài mối manh" nên các cụ nhà nho mới kịch liệt phản đối khuyên con cháu rằng:
Mối lái là gì ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 "Đàn ông thì chớ Phan Trần,
Đàn bà thì chớ Thuý Vân, Thuý Kiều"

Chu Mạnh Trinh vịnh Kiều còn nói: "Chỉ vì một tội mối manh chưa có, thề thốt đã nhiều; trăng gió mắc vào, phồn hoa dính mãi"...Nếu không có "Nhà băng đưa mối" thì nhà trai làm sao biết được người thục nữ trong cửa các phòng khuê.

Trong xã hội cũ, có những người chuyên làm nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa thì bà mối sẽ trở thành ân nhân suốt đời. lễ tơ hồng xong, tạ bà mối một nửa mâm xôi, nửa con gà kèm theo chiếc áo lụa. Chẵn tháng con đầu lòng thế nào cũng cố mời bà mối đến dự, để tỏ nghĩa tri ân. Nhưng cũng có nhiều tai hoạ do những bà mối có động cơ bất chính gây nên, để đôi trẻ suốt đời mang mối hận vì phận hẩm duyên hiu:

..."Hoặc là bởi "Mẹ thầy lộn quýt", quên những thói mơ tôm mảng cá, qua lại ít nhiều ngọt miệng, ép uổng duyên cô nông nỗi thế, nặng tiền tài mà nhẹ gánh tình chung. Hay vì chưng "Mối lái đèo bòng", chẳng nhằm khi vào lộng ra khơi, nói phô mật ngọt rót vào tai, dỗ dành phận gái ngẩn ngơ tình, già nhân sự để non quyền tạo hoá"...
(Trích "Văn tế sống người con gái" - Một bài văn tế khuyết danh được truyền tụng ở Hà Tĩnh vào đầu TKXX).

Ở xã hội mới cũng cần có bà mối, bà mối thời nay là người cố vấn, người đỡ đầu cho đôi trẻ xây dựng hạnh phúc lâu dài. trong tương lai, có lẽ vai trò của bà mối là những phương tiện thông tin đại chúng (như quảng cáo trên Đài truyền thanh truyền hình, báo chí, chụp ảnh) và những công ty du lịch, câu lạc bộ những người độc thân...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối lái là gì ?

Sao Thiên Cơ -Thiện tinh chủ huynh đệ và phúc thọ

Sao Thiên Cơ tại mệnh dù miếu địa vượng địa hay đắc địa gặp tả, hữu, hỏa, linh, hình là người khéo tay thường chuyên về kỹ nghệ máy móc hay thủ công.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thiên Cơ -Thiện tinh chủ huynh đệ và phúc thọ

Sao Thiên Cơ -Thiện tinh chủ huynh đệ và phúc thọ

Sao Thiên Cơ thuộc Nam Đẩu tinh (thuộc tính Âm mộc).

Là một thiện tinh chủ huynh đệ, phúc thọ.

Sao Thiên Cơ miếu địa tại: Thìn, Tuất, Mão, Dậu.

Vượng địa tại: Tỵ và Thân.

Đắc địa tại: Tý, Ngọ, Sửu, Mùi.

Bình hòa tại: Mão, Dậu, Sửu. (kém sáng suốt, từ thiện).

Thiên Cơ tại mệnh dù miếu địa vượng địa hay đắc địa thì thân hình cao, xương lộ, da trắng, mặt dài nhưng đều đặn. Rất thông minh, khôn ngoan, có óc kinh doanh, có mưu trí, biết quyền biến, tính nhân hậu, từ thiện được hưởng giàu sang và sống lâu.

Thiên Cơ tại mệnh dù miếu địa vượng địa hay đắc địa gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phù, Hữu Bật, Tiểu hao, Đại Hao, Hóa Khoa, hóa quyền, hóa lộc tất được hưởng phú quý song toàn và có uy danh lừng lẫy.

Sao Thiên Cơ tại mệnh dù miếu địa vượng địa hay đắc địa gặp tả, hữu, lộc, hình, y, Quang, Qúy hội họp chắc chắn chuyên về y khoa hay dược khoa.

Sao Thiên Cơ miếu địa tại mão và dậu gặp đại hoa và tiểu hao hội họp là người đa tài được hưởng phú quý tới tột bậc, cung mệnh có cách này mà lại sinh năm Ất, Tân, Kỷ, Bính thì thật là hoàn mỹ.

Sao Thiên Cơ đắc địa gặp nhiều sao văn tinh hội họp dĩ nhiên là rất tốt và quý hiếm. Tuy nhiên nếu đương số sinh vào năm Ất, Bính, Đinh mà cung mệnh có cách này lại lập được sự nghiệp lớn lao và được hưởng giàu sang trọn đời.

Thiên Cơ tại mệnh dù miếu địa vượng địa hay đắc địa gặp tuần triệt, án ngữ, phải ly tổn bôn ba, suốt đời vất vả, chân tay thường có tật. Lại khó thoát khỏi tai nạn do xe cộ, dao súng, tuổi thọ bị triết giảm. Có cách này thật chỉ có tu hành mới được yên thân, hưởng phúc và sống lâu.

Sao Thiên Cơ hãm địa thì thân hình nở nang nhưng hơi thấp, da trắng, mặt tròn, kém thông minh, cũng có óc kinh doanh, nhưng có tính gian xảo, thường phải buôn bán ngược xuôi hay làm nghề thủ công để kiếm ăn. Tuy vậy vẫn được no ấm và sống lâu.

Sao Thiên Cơ hãm địa gặp tuần triệt, án ngữ, tuy khá giả nhưng cũng phải xa quê hương để lập nghiệp, bản quán hay mắc tai nạn về xe cộ và dao súng.

Sao Thiên Cơ hãm địa gặp nhiều sao xấu, mờ ám hội họp nhất là sát tinh, hình, kỵ tất phải có tàn tật, có bệnh khó chữa, thường phải lang thang phiêu bạt, lại hay mắc chứng tai họa khủng khiếp, nếu không cùng khổ cô đơn, chắc chắn là yểu tử.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Cơ -Thiện tinh chủ huynh đệ và phúc thọ

Chu Dịch với Cơ đốc giáo

Ngày đưa lên mạng: 1-2-2003 Cử nhân Kinh tế: Dương Kiện Toàn (Saigon, Việt Nam) KINH DỊCH - KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN Tác giả giữ bản quyền. Tout droits réservés. All rights reserved. Mọi trích dịch vui lòng ghi tên tác giả. Rất cám ơn !
Chu Dịch với Cơ đốc giáo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chu Dịch ra đời trước sự kiện Jesus xuất hiện được ghi trong Tân Ước khoảng hơn 1000 năm. Với khoảng cách thời gian như thế ta có thể chấp nhận tính khách quan của Chu Dịch với Đạo Giáo Cơ Đốc. Chu Dịch nói gì về câu chuyện Jesus ? Tinh thần Bác Ái của Cơ Đốc Giáo nằm trong hình thái nào của Chu Dịch ? Hình thái ấy nói gì ?

Chu Dịch nói gì về Jesus ?

Theo Tân Ước, Jesus đi truyền đạo không câu nệ phân biệt người giàu kẻ khó. Ngài tiếp xúc với tất cả loại người, gần gũi va chạm không e ngại cả những kẻ tật nguyền cùi hủi. Cách Ngài thể hiện với mọi người tương ứng với hình thái Thuỷ Địa Tỉ (Gần gủi) Hình thái ấy nói gì ?

Hào 1 : Mới đầu có lòng thành tín mà đến với nhau.
Đến với mọi người, được mọi người tin yêu.
Hào 2 : Tự trọng mà gần gủi với ngoài.
Gần gủi thân thiết với mọi người.
Hào 3 : Gần gủi người không xứng đáng.
Đến và gần gủi với những người bị xã hội xa lánh ruồng bỏ.
Hào 4 : Gần gủi với bên trên
Tiếp cận và gần gủi với những bậc trên.
Hào 5 : Như khi săn thú, vua chỉ vây 3 mặt còn mặt trước bỏ ngỏ cho cầm thú thoát ra phía đó. Người trong ấp được cảm hoá không phải răn đe.
Tỏ rõ thái độ cao thượng của người được kính trọng. Sự ngưỡng mộ có được là từ tấm lòng thiện tâm.
Hào 6 : Không có đầu mối để gần gủi
Khúc bi tráng của người dành cả đời mình vì người khác.

Hình thái Thuỷ Địa Tỉ mô tả cuộc đời con người mang tính cách gần gủi chẳng khác với những gì Kinh Tân Ước đã ghi về Jesus. Chu Dịch không dừng lại ở đây. Nó còn có một hình thái khác mô tả hiện tượng bất thường rất giống với câu chuyện kể về hiện tượng sáng loà “Sống Lại” của Jesus được ghi trong Tân Ước. Trùng hợp ngẫu nhiên đến lạ kỳ ! Hình thái mô tả này ở hào thứ 7 của Thuần Càn. Tôi sẽ đề cập đến hào thứ 7 này ở bài khác.
Tinh thần Bác Ái của Cơ Đốc Giáo, Chu Dịch nói gì ?
Bác ái là khoan dung, là độ lượng. Tinh thần này tương ứng với hình thái Phong Hoả Gia Nhân (Khoan dung). Hào cuối cùng của hình thái này nói gì ?
“Có lòng chí thành và uy nghiêm”
Chu Dịch cho rằng : Tinh thần Bác Ái sẽ tồn tại với niềm thán phục và nể trọng của loài người.
Tôi không rõ lắm về cơ cấu và cơ chế hoạt động của Cơ Đốc Giáo, nhưng với cung cách hoạt động tổ chức rất hiệu quả trong công việc truyền đạo, tế bần, làm việc thiện thông suốt từ trên xuống đến giáo dân thì thật khó lòng cho rằng họ không đáng nể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chu Dịch với Cơ đốc giáo

Sao Tử Vi

Phương Vị: Cả Nam lẫn Bắc Đẩu Tinh Tính: Dương Hành: Thổ Loại: Đế Tinh Đặc Tính: Quyền Uy, Phúc Đức, Tài Lộc Tên gọi tắt thường gặp: Tử
Sao Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử Vi là sao chủ của chòm sao Tử Vi gồm có sáu sao: Tử Vi, Liêm Trinh, Thiên Đồng, Vũ Khúc, Thái Dương, Thiên Cơ. Sao Tử Vi là một trong 14 chính tinh và còn là sao chính trong khoa tử vi nên còn gọi là đế tinh (sao vua) và được an đầu tiên trong lá số tử vi.
Hai chòm sao Tử Vi và Thiên Phủ hợp lại để tạo thành 14 chính tinh (sao chính) trong lá số tử vi. Trường hợp một cung trên lá số không có chính tinh thì được gọi là cung Vô Chính Diệu tức là cung này không có sao chính tọa thủ.
Sao Tử Vi được an theo cục và ngày sinh.
Vị Trí Ở Các Cung

  • Miếu địa (tốt nhất) ở các cung: Tỵ, Ngọ, Dần, Thân.
  • Vượng địa (tốt) ở các cung Thìn, Tuất.
  • Đắc địa (tốt vừa) ở các cung Sửu, Mùi.
  • Bình hòa (bình thường) ở các cung Hợi, Tý, Mão, Dậu.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Cung Mệnh có Tử Vi miếu, vượng hay đắc địa thì thân hình cao lớn, hồng hào. Còn Tử Vi bình hòa thì thân hình vừa phải.
Tính Tình
  • Miếu địa: Thông minh, trung hậu, nghiêm cẩn, uy nghi, sáng tạo, lãnh đạo.
  • Vượng địa: Thông minh, đa mưu túc trí, bất nghĩa, có oai phong.
  • Đắc địa: Thông minh, thao lược, can đảm, liều lĩnh.
  • Bình hòa: Kém thông minh, nhân hậu.
Công Danh Tài Lộc
Nếu Tử Vi ở các vị trí miếu, vượng hay đắc địa thì không cần các phụ tinh tốt khác đi kém theo cũng vẫn có sự phú quý và quyền uy. Tuy nhiên nếu được các sao sau đây đi kèm thì sự phú quý càng chắc chắn hơn.
- Có Thất Sát đồng cung: Thất Sát như lưỡi gươm báu, đi chung với Tử Vi càng làm cho Tử Vi có thêm uy lực hơn.
- Thiên Phủ đồng cung hay hội chiếu: Thiên Phủ là kho trời nên càng có ý nghĩa dồi dào về tài lộc khi đi kèm với Tử Vi.
- Thiên Tướng đồng cung: Thiên Tướng có nghĩa là tướng Trời, cho nên Tử Vi có Thiên Tướng đi kèm như vị vua có tướng tài bên cạnh phò tá nên càng thêm vững chắc trên đường lãnh đạo chỉ huy.
- Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt: Đây là các sao phụ như quần thần theo hộ giá cho vị Vua. Các sao này sẽ khiến cho Tử Vi bảo đảm thêm phần tài lộc, công danh. Sự hội tụ của các sao này chung quanh Tử Vi làm nổi bật khả năng lãnh đạo, chỉ huy của sao vua.
Ở vị trí bình hòa, Tử Vi cần phải có các sao tốt đi kèm mới bảo đảm được sự phú quý hưng vượng.
Tử Vi gặp các sao xấu như Tuần, Triệt, Kình, Đà, Không, Kiếp thì diễn tả một tính nết xấu xa và thường gặp tai nạn trong cuộc đời. Nếu là nữ mệnh thì tính tình đê tiện, dâm đãng, khắc hại chồng con tuy là có tiền bạc khá giả.
Phúc Thọ Tai Họa
Tử Vi là một phúc tinh nên còn đem đến phúc đức cho cung tọa thủ. Đặc biệt Tử Vi chế giảm được hung tính của hai sao Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy nhiên năng lực cứu giải tai nạn của Tử Vi sẽ bị kém đi rất nhiều khi đóng tại các cung Hợi, Tý, Mão, Dậu. Thêm nữa nếu Tử Vi bị hai sao Tuần hoặc Triệt án ngữ hay sát tinh xâm phạm thì càng bất lợi hơn. Trường hợp này đương số sẽ gặp phải những nghịch cảnh trong cuộc đời như:
  • Sớm mồ côi cha mẹ, hoặc phải chịu cảnh góa bụa, cô độc.
  • Khắc anh chị em hay khắc chồng con, hay vợ con.
  • Thường bệnh hoạn hay yểu tử.
  • Phải tha phương lập nghiệp.
  • Gặp nhiều cảnh hiểm nguy trong cuộc đời.
  • Nghèo khổ, xui xẻo.
  • Công danh trắc trở, khổ nhọc cả đời.
  • Nữ mệnh thì phải chịu cảnh muộn chồng hay vợ lẽ.
Riêng trường hợp Tử Vi ở cung Mão hoặc Dậu và đồng cung với Tham Lang thì Tử Vi tượng trưng cho sự bi quan, yếm thế, thường gặp nghịch cảnh và luôn có chí xuất trần. Nếu đương số đi tu thì sẽ đạt được sự thanh nhàn và phúc đức.
Những Bộ Sao Tốt
  • Tử Vi, Thiên Phủ tọa thủ (ở ngay cung Mệnh) hay giáp Mệnh (ở hai bên cung Mệnh).
  • Tử Vi, Thiên Tướng.
  • Tử Vi, Thất Sát.
  • Tử Vi, Vũ Khúc
  • Tử, Phủ, Vũ, Tướng
  • Tử Vi và các sao tốt Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Khoa, Quyền, Lộc, Long, Phượng, Quang, Quý, Đào, Hồng v.v...
  • Tử, Phủ, Kỵ, Quyền hay Tử, Sát, Quyền ở Tỵ hoặc Hợi.
Nhất là cách Tử Phủ Vũ Tướng có kèm các sao tốt kể trên. Đây là cách đế vương, báo hiệu một sự nghiệp lãnh đạo to lớn của một vị nguyên thủ quốc gia. Nếu không gặp sát tinh thì ngôi vị vững vàng, dễ tạo quyền bính trong thời bình. Ngược lại, nếu bị Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh đắc địa đi kèm thì sẽ đắc vị trong thời ly loạn, chiến tranh hoặc đất nước gặp cảnh gay go thử thách cần phải có sự tranh đấu với nhiều khó khăn, trở ngại.
Những Bộ Sao Xấu
  • Tử Vi gặp Tuần hay Triệt thì trong đời thường gặp tai nạn, dù có chí lớn cũng không thể mưu thành đại sự được.
  • Tử Vi, Thất Sát gặp Tuần hay Triệt thì mưu sự bất thành, chỉ có hư danh và hay gặp tai nạn trong cuộc đời.
  • Tử Vi ở các cung Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) diễn tả một con người bất trung, bất nghĩa, bất hiếu vì khi Tử Vi đóng ở các vị trí này sẽ gặp Thiên La, Địa Võng (Thìn, Tuất) và có Phá Quân đi kèm. Nếu có được cát tinh đi kèm thì mới có uy quyền và danh tiếng. Tại các vị trí này, nếu Tử Vi gặp cả sao tốt lẫn sao xấu thì sẽ là người rất đặc biệt có nhiều mưu lược, và thủ đoạn, dám làm những việc bất nhân, bất nghĩa nhưng vẫn sử dụng được cả người tốt lẫn người xấu.
  • Nếu Tử Phá thiếu các sao tốt thì con người bất nhân, bất nghĩa, độc ác, khát máu, tham nhũng và thường bị thất bại nặng hoặc phải phá sản một lần trong đời.
  • Tử Vi có Tham Lang đồng cung biểu diễn một cuộc đời của một vị tu hành, xuất thế. Nhất là khi có hai sao Địa Không và Địa Kiếp thì điều này càng chắc chắn hơn nữa.
  • Tử Vi gặp Không, Kiếp, Đào, Hồng là sổ yểu tử, chết sớm.
  • Tử Vi gặp Kình, Đà, Quyền, Lộc là người có quyền lực danh vọng nhưng lòng dạ hung hiểm, độc ác, vô đạo, bất nhân.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phụ Mẫu
Tử Vi ở các cung Ngọ, Tý, hay có thêm Thiên Phủ, hoặc Thất Sát đồng cung thì cha mẹ giàu sang, sống lâu, giúp đỡ được con cháu, và có di sản để lại cho con cái.
Riêng trường hợp Tử Sát hay Tử Tham tại cung Phụ Mẫu thì cha mẹ bất hòa với nhau hay cha mẹ bất hòa với con cái. Trường hợp cung Phụ Mẫu có Tử Vi và Phá Quân đồng cung thì người con khắc cha mẹ, hoặc phải chịu cảnh mồ côi, hoặc phải sống xa cha mẹ, hạnh phúc gia đình bị kém. Gặp trường hợp này cần phải xét thêm hai sao Thái Dương (cha) và Thái Âm (mẹ) để biết rõ thêm sự tốt xấu nghiêng về cha hay mẹ.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phúc Đức
Những trường hợp tốt của sao Tử Vi với cung Phúc Đức là:
  • Ở Ngọ hay Tý. Tốt nhất là ở Ngọ.
  • Thiên Phủ hay Thiên Tướng đồng cung.
  • Thất Sát đồng cung. Nhưng trường hợp này vì gặp sát tinh nên phải xa họ hàng hay sống cuộc đời lưu lạc tha phương mới tốt.
Những trường hợp xấu cho cung Phúc Đức có sao Tử Vi là:
  • Tử Vi, Phá Quân đồng cung.
  • Tử Vi, Tham Lang đồng cung.
  • Tử Vi gặp các sao xấu, nhất là Không, Kiếp, Kình, Đà, Linh, Hỏa. Đây là trường hợp bất lợi nhất.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Điền Trạch
Tương tự như cung Phúc Đức, nếu cung Điền Trạch có sao Tử Vi và ở vào các trường hợp đã ghi cho cung Phúc Đức thì đương số sẽ có nhà cửa rộng lớn, tài sản phát triển dồi dào, có thể do thừa hưởng gia tài hoặc tự tay tạo dựng sự nghiệp vẻ vang.
Nếu cung Điền Trạch có Tử Vi mà gặp phải các sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang thì không giữ được của dù có gia sản lớn lao, hoặc phải chịu cảnh sa sút dần và có thể đi đến phá sản khi có Phá Quân đồng cung. Đặc biệt nếu có thêm các hung tinh khác thì có thể đi đến khánh tận và chịu cảnh vô sản, nghèo khổ.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Quan Lộc
Những bộ sao tốt và xấu cho sao Tử Vi ở cung Mệnh đều có thể áp dụng cho cung Quan Lộc. Tốt nhất là Tử Vi ở Ngọ hoặc đồng cung với ba chính tinh Thiên Phủ, Thiên Tướng và Thất Sát. Nếu cung Quan Lộc có Tử Vi đi với Thiên Tướng thì con người độc tài, hay tranh giành quyền lực. Tử Vi đi với Thất Sát thì có năng khiếu về võ nghiệp. Nếu đồng cung với Phá Quân và Tham Lang thì sẽ gặp sự thăng trầm, tai họa trong đường công danh, quan lộc, để cuối cùng phải chuyển qua doanh nghiệp, thương mại.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Thiên Di
Các cách Tử Vi ở Ngọ, Tý hay Tử Phủ, Tử Tướng, Tử Sát đều tốt. Có nghĩa là đương số sẽ gặp hoàn cảnh xã hội thuận lợi tốt đẹp, cuộc sống luôn gặp môi trường thuận tiện. Đây là một con người sinh ra đã gặp mọi thời cơ thuận lợi, tốt đẹp, nhiều người giúp đỡ, thường giao tiếp với bậc quyền quý, cao sang, càng ra ngoài xã hội nhiều thì cuộc đời càng may mắn, luôn được nhiều người tín nhiệm giúp đỡ.
Trái lại nếu Tử Vi ở cung Thiên Di mà gặp các sao Phá, Tham hay các sát tinh khác thì thường gặp nhiều nghịch cảnh xã hội, thường bị người ngoài dèm pha, hãm hại, có thể chết tha phương hoặc bị ám sát.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tật Ách
Tử Vi là sao vua và là phúc tinh nên đóng ở cung Tật Ách có năng lực giải trừ mọi tai nạn, bệnh tật, hiểm họa trong đời. Đây là sao cứu giải hoạn nạn mạnh nhất trong các sao và có hiệu lực cứu giải như Thiên Phủ, Thiên Lương. Trong trường hợp cung Tật Ách có sao Tử Vi và đồng cung với sao Phá Quân thì năng lực giải cứu của sao Tử Vi cũng không bị suy giảm.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tài Bạch
Tử Vi cũng là một sao chủ về tài bạch cho nên Tử Vi đóng ở cung Tài Bạch mà được miếu địa hay vượng địa và không gặp Tuần hay Triệt án ngữ thì sẽ bảo đảm được một gia sản tiền bạc đồi dào.
Thêm nữa, nếu sao Tử Vi đi kèm với các sao chủ về tiền bạc, của cải như Thiên Phủ, Vũ Khúc thì càng thịnh vượng hơn nữa. Gặp những trường hợp này, đương số sẽ có trách nhiệm giữ về tiền bạc, kho lẫm như ngân hàng hay tài chánh. Nếu đồng cung với Thất Sát cũng sẽ làm giàu dễ dàng nhanh chóng. Nhưng nếu cung Tài Bạch ở Tý thì sẽ kém hơn các trường hợp trên. Nếu Tử Vi đồng cung với Phá Quân thì trong đời sẽ trước nghèo sau giàu nhưng cũng có lần phá sản. Đồng cung với Tham Lang thì tài sản sư nghiệp tầm thường, dù có của cải gia sản thì cũng sẽ bị sa sút dần. Cuối cùng nếu Tử Vi ở cung Tài Bạch mà gặp các sát tinh nặng khác thì trong đời ít nhất cũng có một lần bị phá sản.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tử Tức
Tử Vi ở cung Tử Tức thì đương số sẽ có cả con trai lẫn gái. Nếu miếu địa, vượng địa hay đắc địa hoặc đồng cung với Thiên Phủ hay Thiên Tướng thì nhiều con cái và con cái đều khá giả. Nếu Tử Vi đi với Thất Sát thì khó nuôi con, nhất là gặp thêm các sao xấu thì có thể ít con hoặc phải chịu cảnh hiếm muộn. Nếu cùng với Phá Quân hay Tham Lang thì ít con cái và con sẽ xung khắc với cha mẹ.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phu Thê
Tốt nhất là cung Phu Thê ở Ngọ và có Tử Vi đồng cung với Thiên Phủ. Trường hợp này diễn tả một gia đình vợ chồng tương đắc tâm đầu ý hợp, luôn có hòa khí và chung thủy trong đời sống vợ chồng.
Cung Phu Thê có Tử Vi và Thiên Tướng thì cả hai vợ chồng đều rất can trường cứng cỏi. Vì vậy vợ chồng có thể gặp cảnh xích mích, bất hòa nhưng cuộc sống gia đình vẫn tốt đẹp. Thông thường thì vợ hay chồng sẽ là người con trưởng trong gia đình, nếu không là con trưởng thì cũng sẽ đoạt trưởng, nghĩa là có quyền quyết định trong gia đình và được các anh chị em nể phục, kính trọng.
Nếu Tử Vi gặp Sát hay Tham thì muộn lập gia đình mới tốt. Nếu gặp Phá thì vợ chồng thường bị hình khắc chia ly. Nếu gặp Tham thì chỉ sự bất hòa vì Tham Lang là sao chỉ về sự ghen tuông, chiếm hữu.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Huynh Đệ
Cung Huynh Đệ có sao Tử Vi thì đương số có anh cả hoặc chị cả vì sao Tử Vi chỉ về người đứng đầu trong anh chị em. Trường hợp cung Huynh Đệ có sao Tử Vi ở Ngọ hoặc đồng cung với Thiên Phủ hay Thất Sát thì gia đình có đông anh em, khá giả và hòa thuận. Nếu có Thiên Tướng đi kèm thì anh em tuy khá giả nhưng hay có sự bất hòa vì Thiên Tướng là sao chủ về sự cạnh tranh, cứng cõi, ương ngạnh. Trường hợp Tử Vi đồng cung với Phá Quân thì sẽ có anh em dị bào, cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha và anh em ruột thường hay bất hòa. Nếu Tử Vi đi với Tham Lang thì anh em ly tán, nghèo khổ, vất vả và nếu gặp các sát tinh khác thì anh em có thể có người bị tử nạn, hao hụt lần lần hay trong anh chị em có người là phần tử xấu trong xã hội.
Tử Vi Khi Vào Các Hạn
Sao Tử Vi là đế tinh, không có vị trí hãm địa nên khi vào các đại hạn, hay tiểu hạn tại các cung miếu, vượng hay đắc địa hoặc đồng cung với các sao Thiên Phủ, Thiên Tướng, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc thì rất tốt mọi việc đều may mắn, thuận lợi. Nếu gặp Khôi, Việt thì càng vẻ vang hơn. Riêng các vị trí bình hòa như Tý, Hợi, Mão, dậu thì năng lực sẽ kém tốt hơn, nhưng nếu gặp bất lợi thì khó tránh khỏi.
Sao Tử Vi gặp các sát tinh Không, Kiếp, Kỵ, Hình thì bị đau ốm, bệnh hoạn hoặc mất của hay bị kiện tụng. Gặp Kình, Đà, Kỵ thị bị đau ốm hay bị lừa gạt. Đặc biệt khi Tử Vi gặp Tuần và Triệt ở cả đại hạn lẫn tiểu hạn lại thêm Kình, Đà, Không, Kiếp (chưa kể các nguyệt hạn, nhật hạn và thời hạn) như một vị vua mà bị nhiều quân phiến loạn vây hãm thì tính mạnh có thể bị lâm nguy.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Tử Vi

Thân cư Quan Lộc

Những người sinh vào giờ Dần hoặc vào giờ Thân là những người có số Thân cư Quan Lộc. Như chúng ta đã biết, cung Quan Lộc trong lá số của mỗi người biểu hiện con đường công danh và sự nghiệp của người đó. Hai chữ “Công Danh” và “Sự Nghiệp” nghe có vẻ rộng lớn và mơ hồ qúa. Nếu nói một cách gần gũi và rõ ràng hơn thì cung Quan Lộc diễn tả nghề nghiệp của một người và có thể chỉ rõ một ngành nghề nào đó như y khoa, điện tử, giáo sư, cảnh sát, quân nhân, ngân hàng, ngoại giao, văn học, nghệ thuật, kinh doanh thương mại v.v… Cung Quan Lộc cũng nói lên sự thành bại trong nghề nghiệp của một người.
Thân cư Quan Lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Như chúng ta đã nói trước đây, Thân cư cung nào thì cung đó sẽ trở thành lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người ấy. Do đó, người Thân cư Quan Lộc ngay từ khi còn trong trường học, họ đã có những ý tưởng rõ ràng về ngành học mà họ chọn lựa vì đó là cửa ngõ đưa họ vào đời, là nghề nghiệp của họ sau này. Họ rất cân nhắc và thận trọng trong việc chọn nghề và thường là những nghề mà họ đã có sẵn năng khiếu và ưa thích.

Người Thân Cư Quan Lộc không thích làm những nghề có tính cách tạm bợ. Cho nên khi họ đã bước vào một ngành nghề nào thì đó sẽ là công việc mà họ sẽ theo đuổi suốt cả một đời. Mẫu người này cho dù làm công hay làm chủ cũng không thích đổi nghề. Nếu đi làm công thì ít khi bị mất việc. Có thể nói, họ là những người mà việc tìm họ chứ họ không phải vất vả đi tìm việc như những người khác.  
 
Thân cư Tài Lộc là mẫu người thừa hành đắc lực nhất. Họ là những nhân viên, những thuộc cấp và là những người cộng tác rất có tinh thần và trách nhiệm trong chức vụ của họ. Điều này dễ hiểu vì họ là những người yêu nghề, thích học hỏi.

Người Thân cư Quan Lộc coi sự làm việc như một lạc thú ở đời chứ không phải là một nghề để sinh sống. Họ rất hăng say với công việc.

Những đặc điểm nêu trên là mẫu người Thân cư Quan Lộc mà có cung Quan Lộc tốt đẹp. Ngược lại nếu cung Quan Lộc xấu xa thì đó là hình ảnh của một người chậm công danh, lận đận trên đường công danh, và đây cũng là người sống chết với nghề của mình một cách vất vả, lao đao, hoặc là trường hợp đặc biệt của những người mà chúng ta thường gọi là “sinh nghề, tử nghiệp”, chết vì tai nạn nghề nghiệp, thân bại danh liệt, hay bị tù tội vì nghề nghiệp nếu có thêm hung sát tinh, bại tinh hội hợp. Như vậy, quan niệm cho rằng người có Thân cư Quan Lộc sẽ làm Quan là một điều sai lầm. Làm quan hay làm công, thành đạt hay thất bại trong nghề nghiệp cũng phải tùy thuộc vào cung Quan Lộc tốt hay xấu.

Nhìn xa hơn, trong khoa Tử Vi Đẩu Số, sự sắp xếp của 12 cung trên một lá số rất có ý nghĩa. Cung Quan Lộc nằm đối diện với cung Phu Thê cho nên cung Quan Lộc có thể xem như cái bóng phản chiếu của cung Phu Thê vậy. Do đó khoa Tử Vi cho rằng đối với những người có số 2 đời vợ, 2 đời chồng thì cung Quan Lộc là hình ảnh của người vợ hay người chồng thứ hai của đương số.

Điều này rất có ý nghĩa đối với những người Thân cư Quan Lộc, cuộc đời còn lại của họ và cả nghề nghiệp của họ sẽ bị ràng buộc một cách chặt chẽ với người vợ/chồng thứ hai. Điều này chúng ta sẽ bàn kỷ hơn trong mẫu người Thân cư Phu Thê.

Riêng đối với nữ Mệnh, các bà có số Thân cư Quan Lộc thì ngoài những nét đặc biệt đã nêu trên, cung Quan Lộc trong trường hợp này còn có ý nghĩa như một cung Phu, và một vài trường hợp điển hình mà chúng ta nói đến như: Một người đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị Tuần hay Triệt án ngữ thì đường tình duyên cũng trắc trở không khác gì Tuần hay Triệt án ngữ ngay tại cung Phu vậy.

Trong trường hợp như vừa nêu trên, một quan điểm khác của nhà tướng số Thiên Đức trong một bài viết về “Tai Nạn Trinh Tiết” ông khẳng định một cách mạnh mẽ rằng “…bất cứ là lá số của một người phụ nữ nào khi cung Quan Lộc hay cung Thân có Tuần hoặc Triệt, bất luận về yếu tố sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái khi về nhà chồng”

Như vậy theo quan điểm này thì bất cứ cung Thân an tại đâu và bất kể cung Thân hay Quan Lộc cho dù có các sao đoan chính tọa thủ, nếu bị Tuần/Triệt thì hai chữ “trinh tiết” của đương số cầm bằng như không có khi bước lên xe hoa lần đầu trong cuộc đời.

Cũng trong trường hợp nữ Mệnh có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị Tuần/Triệt án ngữ mà còn gặp nhiều hung tinh hay sát tinh thì đương số nên lập gia đình muộn hoặc lập gia đình với một người đã trải qua một lần đổ vỡ trên đường tình thì mới có thể tránh được cảnh cô đơn góa bụa về sau.

Một điểm đặc biệt nữa là đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị nhiều hung tinh sát tinh ảnh hưởng thì đó cũng là số của những người có thể gặp những hoàn cảnh hay tai nạn làm mất danh tiết của mình.

Riêng đối với các ông, nếu là những người có quan niệm sống bảo thủ như ông bà của chúng ta ngày xưa, cho rằng người vợ chỉ là người hiền nội, chỉ là người đàn bà ở trong nhà lo việc nhà, săn sóc cho chồng cho con thì mẫu người đàn bà Thân cư Quan Lộc hoàn toàn không thích hợp với quý ông có quan niệm “chồng chúa, vợ tôi”. Lý do dễ hiểu là những người đàn bà có Thân cư Quan Lộc có khuynh hướng độc lập rất mạnh. Họ muốn ra đời và muốn có một nghề nghiệp như đàn ông để suốt đời không bị lệ thuộc vào người chồng.

Cuối cùng, trong ý nghĩa về nghề nghiệp, dù nam hay nữ, khi cung Quan Lộc bị Tuần/Triệt thì trong đời của đương số phải thay đổi nghề nghiệp ít nhất 1 lần. Bao nhiêu lần và đổi qua những ngành nghề gì thì còn tùy thuộc vào cung Quan Lộc và toàn bộ lá số. Đặc biệt đối với những người Thân cư Quan Lộc thì nghề nghiệp mà họ thay đổi thường là cùng nghề hay cùng trong một lãnh vực với người chồng hay người vợ thứ hai của đương số.

Tóm lại, cung Quan Lộc biểu hiện cho công danh, sự nghiệp, tiền tài và danh vọng của một người, cho nên những người có số Thân cư Quan Lộc thì những yếu tố trên là mục đích mà họ sẽ mang hết tâm huyết của họ để đạt được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thân cư Quan Lộc

Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào - Phong thủy phòng bếp - Xem Tử Vi

Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào, Phong thủy phòng bếp, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào, tu vi Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào, tu vi Phong thủy phòng bếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào

Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào. Nhiều gia đình thường đặt phòng ăn thường đi liền với nhà bếp hoặc bố trí phong ăn với nhà bếp là một. Cách này có ưu điểm tận dụng được không gian, tiện sử dụng. Tuy nhiên, theo phong thủy, nếu khu vực nấu nướng không được ngăn nắp sẽ làm mất mỹ quan và ảnh hưởng không tốt đến bữa ăn.

Theo quan niệm phong thủy, phòng ăn không bố trí gần cửa ra vào, nếu không sức khỏe và tiền bạc đến rồi lại đi, khó mà giữ lại được.Theo quan niệm phong thủy, phòng ăn không bố trí gần cửa ra vào, nếu không sức khỏe và tiền bạc đến rồi lại đi, khó mà giữ lại được.

Không ít gia đình dù chật chội một chút nhưng vẫn bố trí phòng ăn tách riêng khỏi nhà bếp. Về tầm quan trọng, các nhà phong thủy xếp phòng ăn ngang với nhà bếp, tức là nó liên quan, ảnh hưởng đến sức khỏe và tình hình tài chính trong nhà.

Theo quan niệm phong thủy, phòng ăn không bố trí gần cửa ra vào, nếu không sức khỏe và tiền bạc đến rồi lại đi, khó mà giữ lại được. Trong trường hợp không thể bố trí khác được, khắc phục bằng cách treo một tấm mành thưa (bằng dải hạt chẳng hạn…) để ngăn tầm mắt của người ngoài đi vào nhưng người trong phòng ăn vẫn quan sát được bên ngoài. Cũng có thể treo một quả cầu thủy tinh có tính chất tượng trưng để thay thế cho tấm rèm trên. Gia chủ cũng nên lưu ý khi sắp xếp chỗ ngồi: người chủ gia đình phải được ngồi ở vị trí quay mặt ra cửa; nếu có khách ăn, vị trí này phải được dành cho một vị khách danh dự.

 

Xét thấy bữa ăn không những chỉ là sự bổ sung năng lượng cho cơ thể mà còn là một hứng thú và là những giây phút thư giãn, cùng với sự nghỉ ngơi giúp con người cân bằng lại trạng thái tâm, sinh lý, tạo hưng phấn cho công việc tiếp theo.

Vì vậy, để tạo bữa ăn ngon, giúp cho sự tiêu hóa tốt, cần có sự yên tĩnh tương đối. Bố trí phòng ăn gần cửa ra vào, trong bữa ăn dễ bị ảnh hưởng của những tác động bên ngoài gây ức chế về tâm lý và cả sinh lý, cản trở đến việc tiết dịch vị, làm cho bữa ăn trở nên căng thẳng, “mất ngon” và sự tiêu hóa cũng bị cản trở nghiêm trọng.

Việc treo tấm rèm chẳng qua là để hạn chế bớt ảnh hưởng của những tác động bên ngoài. Còn quan niệm phong thủy trong việc bố trí chỗ ngồi cũng có cơ sở khoa học nhất định. Người chủ gia đình hoặc vị khách danh dự là đối tượng quan trọng nhất trong bữa ăn cần được tôn trọng.

Ở vị trí đối diện với cửa ra vào giúp người ta quan sát được những diễn biến bên ngoài, để không bị động, “giật mình” khi có người đột ngột bước vào giữa bữa ăn.Vì vậy trong trường hợp này, quan niệm của phong thủy không phải không có “cái lý” của nó.

Nếu gia đình có phòng ăn rộng, thông thoáng thì tốt nhất. Còn nếu như phòng chật hẹp, chỉ có một cửa ra vào, không có cửa sổ nào khác thì nên treo gương cả bốn mặt tường. Gương chiếu tượng trưng cho sự tăng thêm bát đĩa cũng như của cải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào - Phong thủy phòng bếp - Xem Tử Vi

Xem tướng mặt kiểu Châu Âu –

Các tướng gia CHÂU Âu cũng đề xuất những kiểu mặt theo tinh tú (Les étoiles et planètes) áp dụng cho người Âu Châu (Eropienes) như các ngài: Joself Renald, Kur Levin, Somon. Các ông gọi các kiểu mặt như: 1. Mặt của thần Le Génie Soleil (kiểu mặt của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các tướng gia CHÂU Âu cũng đề xuất những kiểu mặt theo tinh tú (Les étoiles et planètes) áp dụng cho người Âu Châu (Eropienes) như các ngài: Joself Renald, Kur Levin, Somon. Các ông gọi các kiểu mặt như:

ktt_12.6_vuongphuitchtu6_kienthuc_npbi

1. Mặt của thần Le Génie Soleil (kiểu mặt của thần Mặt trời).

2. Mặt của thần La Lune (kiểu mặt của thần Mặt trăng).

3. Mặt của thần Le Génie Venus (kiểu mặt của sao Kim).

4. Mặt của thần Le Génie Saturne (kiểu mặt của sao Thổ).

5. Mặt của thần Le Génie Mars (kiểu mặt của sao Hỏa).

6. Mặt của thần Le Génie Mercure (kiểu mặt của sao Thủy).

7. Mặt của thần Le Génie Jupiter (kiểu mặt của sao Mộc).

Các ông quan niệm bản chất và tính cách theo quan niệm Âu Châu (Europa) cho người Châu Âu (Europienes). Do đó không mấy áp dụng ở Việt Nam.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mặt kiểu Châu Âu –

Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày, là phúc hay họa?

Lông mày có nốt ruồi thường là điềm báo tốt lành. Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày là người gặp được nhiều may mắn, giàu sang phú quý, vượng phu ích tử
Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày, là phúc hay họa?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nốt ruồi trên lông mày được ví là hạt ngọc nằm trên cỏ. Lông mày có nốt ruồi thường là điềm báo tốt lành. Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày là người gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống, giàu sang phú quý, vượng phu ích tử.   Nốt ruồi có thể xuất hiện ở nhiều vị trí trên cơ thể, nốt ruồi cũng phân thành loại tốt và loại xấu. Những nốt ruồi tốt là điềm báo bạn có cuộc đời thuận lợi như ý, còn nốt ruồi xấu sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh cả đời. Với phụ nữ, qua nốt ruồi ở lông mày còn có thể đoán định được chuyện tình duyên và vận mệnh tương lai của người đó. Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày trái là tướng vượng phu, còn trên mày phải thì khỏe mạnh, sống thọ trăm tuổi. 


Phu nu co not ruoi o long may, la phuc hay hoa hinh anh goc

Xem tướng phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày 


Nốt ruồi ở xung quanh lông mày
 

Khu vực xung quanh lông mày bao gồm các cung Gian Môn, Thiên Thương, Phúc Đường. Nếu nốt ruồi xuất hiện ở khu vực này có nghĩa là vào tuổi trung niên hôn nhân sẽ có vấn đề. Khi người phụ nữ đến tầm 33 – 34 tuổi, gia đình dễ xảy ra lục đục, vợ chồng 1 trong 2 người có quan hệ ngoài luồng.

Đặc biệt, nếu cung Gian Môn (Phu thê cung) có nốt ruồi, là đàn ông thì vợ ngoại tình, là phụ nữ thì dâm loạn, không chung thủy. Nếu 2 bên cung Gian Môn lõm khuyết, khí sắc tối tăm, lông mày tán loạn, không ngay ngắn thì dễ gặp biến động lớn trong hôn nhân.
Nốt ruồi ở giữa lông mày
 
Người có nốt ruồi ở chính giữa lông mày thông minh, tài trí hơn người, tài lộc dồi dào, vinh hoa phú quý. Tuy nhiên, những người này trong đời chắc chắn ít nhất một lần gặp chuyện hung hiểm bất ngờ, khiến cho tiền tài thất thoát, danh vọng tiêu tan, người thân cũng chịu vạ lây. Nếu vượt qua được cửa ải khó khăn này thì cuộc sống sẽ sung sướng an nhàn cho đến cuối đời.
 
Lông mày thưa thớt mà có nốt ruồi ở chính giữa thì có thể sẽ gặp phải hỏa hoạn ít nhất 1 lần trong đời. Nốt ruồi thiên về gần giữa lông mày thể hiện việc trong tương lai xa dễ gặp cảnh túng thiếu, khó khăn về tiền bạc.
 

Nốt ruồi ở đầu lông mày
 

Phụ nữ có nốt ruồi ở đầu mày dễ vì vạ miệng mà gặp chuyện bất trắc, thậm chí có thể gặp họa ngồi tù. Người này thường hay nảy sinh tranh cãi, mâu thuẫn với đồng nghiệp, bạn bè, anh chị em. Cuộc sống gia đình cũng không được hài hòa, anh chị em tranh giành tài sản.
  

Nốt ruồi ở đuôi lông mày
 

Đây là điềm báo dễ xảy ra các vấn đề về tình cảm. Đặc biệt, phụ nữ có nốt ruồi ở đuôi lông mày dễ sinh ngoại tình, có thể diễn ra vào năm 19, 28 hoặc 37 tuổi.
 
Ngoài ra, người này hay phải lo nghĩ chuyện tiền bạc, thường lâm vào cảnh túng thiếu.
 
Khu vực nửa cuối lông mày trong nhân tướng học được gọi là “thải hà”, tượng trưng cho đám mây nhiều màu sắc, thể hiện trí tuệ và tài năng của con người. Người ở vị trí này có nốt ruồi tốt sẽ giỏi ăn nói, có tài xã giao, rất hợp làm kinh doanh. Còn có nốt ruồi xấu ở đây thì trong anh chị em ruột thịt hoặc họ hàng sẽ có 1 người gặp chuyện bất hạnh, nếu không thì bản thân người này rất dễ bị thương ở chân tay hoặc chịu cảnh bạn đời ngoại tình.


Phu nu co not ruoi o long may, la phuc hay hoa hinh anh goc

Nốt ruồi ở lông mày có thể tiết lộ vận mệnh con người 


Nốt ruồi ở giữa lông mày và mắt
 

Khu vực giữa lông mày và mắt được gọi là “cung Điền Trạch”. Phụ nữ có nốt ruồi ở vị trí này là người ngay thẳng, trong sạch, đa tài đa nghệ. Trong sự nghiệp được nhiều người giúp đỡ và trọng dụng, hôn nhân cũng hạnh phúc mỹ mãn. Đây là nốt ruồi vượng tài vượng vận trên mặt nữ giới.
 
Nếu nốt ruồi xấu thì làm việc khá vất vả, mất công mất sức mà không được báo đáp xứng đáng. Hay phải chuyển nhà, nơi sinh sống thường xảy ra những chuyện kì cục bất thường. Tốt nhất không nên làm những nghề liên quan đến đầu tư nhà đất kẻo gặp họa lớn.

Nốt ruồi ở giữa 2 lông mày 
 

Theo nhân tướng học, khu vực giữa 2 lông mày được gọi là “cung Sự nghiệp”, tượng trưng cho vận thế phát triển và thăng tiến trong sự nghiệp. Qua khí sắc ở cung này có thể đoán định vận mệnh hung cát họa phúc của một người. 
 
Nếu ở vị trí này có nốt ruồi tốt thì người đó sẽ có sự nghiệp thành công. Còn nếu nốt ruồi ở lông mày xấu, sậm đen thì rất có thể sau tuổi 28 sẽ gặp biến cố lớn về tình cảm hoặc hôn nhân.
Hy Vũ

Nốt ruồi tố cáo đàn ông có thói trăng hoa Có 4 nốt ruồi này, cả đời sẽ hưởng tiền tài, phú quý và trường thọ Giải đáp bí ẩn về nốt ruồi đằng sau gáy lành hay dữ?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày, là phúc hay họa?

Ý nghĩa sao Đường Phù - Là một cát tinh chủ về tài lộc

Sao Đường Phù gặp sao Thiên Tướng, Tấu Thư, Long Trì, Phượng Các, Quan Phù thì đi tu thành đạt, có danh vị, làm thầy cúng cũng có tiếng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Đường Phù - Là một cát tinh chủ về tài lộc

Ý nghĩa sao Đường Phù - Là một cát tinh chủ về tài lộc

Hành: Mộc

Loại: Cát Tinh

Đặc Tính: Sự thanh tịnh, thanh nhàn, lợi ích cho việc cầu công danh, điền sản, tài lộc.

Ý Nghĩa sao Đường Phù Ở Cung Mệnh:

Người điềm đạm, khiêm nhường, ưa thích sự thanh nhàn, yên tĩnh. Sao này gặp nhiều sao tốt thì tốt thêm, gặp nhiều sao xấu thì xấu lắm. Gặp sao Thiên Tướng, Tấu Thư, Long Trì, Phượng Các, Quan Phù thì đi tu thành đạt, có danh vị, làm thầy cúng cũng có tiếng.

Đường Phù là cát tinh, có những ý nghĩa sau:

thích sự thanh nhà, giống như hai sao Thai, Tọa

điềm đạm, khiêm nhường lợi ích cho việc cầu công danh, có ý nghĩa may mắn

lợi ích về điền sản, giống như hai sao Thai, Tọa

Tuy nhiên, vì là sao nhỏ nên ý nghĩa không sâu sắc và nổi bật lắm.

Ý nghĩa sao Đường Phù ở một số cung khác:

CUNG MỆNH, QUAN, PHÚC:

Đường phù, Tướng, Tấu, Long, Phượng, Quan phù : đi tu thành đạt có danh vị ; tệ ra làm thầy cúng cũng có tiếng.

CUNG Điền Trạch:

Dưỡng, Cự, Đường, Tam hóa : có nhà cao cửa rộng vững bền.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Đường Phù - Là một cát tinh chủ về tài lộc

Phong thủy không có gì kỳ bí, siêu nhiên

Chỉ cần thay đổi vị trí vài vật dụng trong nhà, thêm đèn, chậu hoa... có thể giúp gia chủ làm ăn phát đạt, cuộc sống gia đình hạnh phúc. Đó là điều kỳ diệu mà
Phong thủy không có gì kỳ bí, siêu nhiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thuật phong thủy mang lại? Thực ra, phong thủy chỉ là khoa học về môi trường sống, cách sắp xếp nơi ở để con người cảm thấy dễ chịu, thoải mái nhất.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa) 

Phong thủy là một môn khoa học của người Á Đông, khởi phát từ Trung Hoa đã hơn 3.000 năm. Người ta thường coi thuật phong thủy là điều gì đó hết sức kỳ bí. Nhưng thực chất, nó hoàn toàn gần gũi với đời sống thường ngày. 

Tháng 9/1999, tạp chí Vogue (Mỹ) đăng bài phóng sự của nhà báo Kristina Zimbalist cho biết, rất nhiều nghệ sĩ, doanh nhân ở Mỹ, châu Âu tin tưởng và “mê” thuật phong thủy. Bài báo nêu dẫn chứng trường hợp của Steven Klein, nhà nhiếp ảnh thời trang chuyên chụp người mẫu cho các tạp chí nổi tiếng như Vogue, Cosmo, Elle… Mùa thu năm 1998, các phòng chụp của nhiếp ảnh gia này trở nên ế ẩm. Có người bạn chỉ cho anh đến nhờ David Raney, người có nhiều năm nghiên cứu thuật phong thủy của người Á Đông và từng giúp nhiều người được hạnh phúc và thành công nhờ thuật này.

David Raney đến nhà và phòng chụp của Steven Klein. Mỗi nơi, ông thay đổi vị trí của một số vật dụng, thêm đèn, chậu hoa, thay cửa kính… Và công việc của Steven Klein tốt hẳn lên. Bài báo còn tiết lộ, ngay cả tỷ phú Donal Trump khi xây khách sạn Trump Tower khổng lồ cũng đến hỏi ý kiến David Raney. Ngoài ra, tỷ phú Kenvin Hart, nhà tài chính Randolph Duke, thiết kế gia nổi tiếng Joyce Ma, hay công chúa Christine của Bỉ, kỹ sư tin học nổi tiếng Wendy Lee, diễn viên Nicole Kidman, Tom Cruise, người mẫu Cindy Crawford… đều là khách hàng thân thiết của David Raney.

David Raney hiện sống ở California, Mỹ. Theo ông, thuật phong thủy hoàn toàn là khoa học chứ không phải là mê tín như người ta nghĩ. Ông cho rằng, thuật phong thủy chỉ là khoa học về môi trường: sắp xếp đồ đạc để trong nhà có nhiều ánh sáng, khí trời, có màu xanh cây cối, có cả nước, lửa; sắp xếp để cửa sổ, cửa ra vào thông thoáng… Nếu sống trong môi trường hợp lý, người ta sẽ khỏe mạnh, vui vẻ, làm ăn phát đạt. Còn sống ở nơi luộm thuộm, thiếu hòa hợp, con người dễ cáu gắt, khó chịu, công việc cũng không được suôn sẻ.

David Raney còn phát biểu, ai cũng có thể học và ứng dụng được thuật phong thủy. Nhưng cũng như những ngành nghề khác, có một số người chuyên chú và trở thành “thầy phong thủy”. Các ông “thầy” này cố giữ bí mật nghề nghiệp để làm ăn chứ phong thủy không có gì là kỳ bí, siêu nhiên cả.

(Theo Việt Báo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy không có gì kỳ bí, siêu nhiên

Ảnh hưởng của Cửu Diệu tinh trong Tử Vi

La Hầu - còn gọi là Khẩu thiệt tinh, là sao xấu ảnh hưởng nặng cho Nam giới và người mạng Kim, phái Nữ thì ảnh hưởng nhẹ. Thường gây ra những trở ngại bất trắc, bệnh tật, khẩu thiệt, thị phi miệng tiếng. Hạn sao này cần phải dè dặt cẩn thận. Ảnh hưỡng vào các tháng giêng và tháng 7.
Ảnh hưởng của Cửu Diệu tinh trong Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thổ Tú - còn gọi là Thổ Đức tinh hay Ách tinh chủ gia đạo bất an buồn phiền, bệnh hoạn hay kéo dài, tiểu nhân phá phách, đi xa bất lợi. Hai tháng 4 và 8 bất lợi.

Thủy Diệu - còn gọi là Thủy Đức tinh là Phúc lộc tinh chủ bình an, giải trừ tai nạn, đi xa có lợi, Phụ nữ bất lợi về đường sông biển. Ảnh hưỡng vào các tháng 4 và tháng 8. Người mạng Kim và Mộc hợp với hạn sao này, riêng người mạng Hỏa thì hơi bị khắc kỵ.

Thái Bạch - còn gọi là Kim Đức tinh, là hung tinh chủ về sự bất toại tâm, xuất nhập phòng tiểu nhân, hao tán tiền bạc, bệnh tật nảy sinh. Phòng tháng 5 xấu, nhất là những người mệnh hỏa, kim và mộc.

Thái Dương - Phúc tinh chủ sự hanh thông, cứu giải nạn tai. Với Nữ giới thì công việc vẫn thành công nhưng rất vất vả. Tốt vào các tháng 6 và 10.

Vân Hớn - còn gọi là Hỏa Đức tinh là Tai tinh chủ hao tài, khẩu thiệt và tranh chấp, kiện tụng bất lợi. Đề phòng những rủi ro bất ngờ. Tháng 4 và 8 xấu.

Kế Đô - được ví như bà hoàng hậu khắc khe, là sao xấu ảnh hưởng nặng nơi phái Nữ, riêng những người có thai hay sinh đẻ trong hạn sao này thì ít bị ảnh hưởng. Gặp hạn sao này những mưu sự thường gặp khó khăn, thành ít bại nhiều, phòng thị phi, đau ốm hay tai biến bất ngờ. Sao Kế đô dù ít ảnh hưởng tới Nam giới nhưng ít nhiều cũng có tác dụng không thuận lợi. Phòng tháng 3 và tháng 9

Thái Âm - Phúc tinh chuyên cứu giải bình an, tốt cho Nữ số. Sao Thái Âm nhập hạn là tài tinh đem lại nhiều may mắn về tài lộc nhưng mang tính chất bất thường, thời vận hay thăng trầm.

Mộc Đức - Phúc tinh chủ may mắn, gặp thời vận tốt. Sao Mộc đức cũng là một phúc tinh cứu giải nên trong trường hợp dù gặp khó khăn gì vẫn có quý nhân giúp sức vượt qua. Tháng 10 và 12 tốt, riêng người mạng Kim thì bất lợi đôi chút vì không hợp với hạn sao này.

Năm hạn trong lá số Tử Vi tốt mà gặp Cửu Diệu tinh nhập hạn tốt thì lại càng tốt thêm. Nếu gặp hạn sao xấu mà năm nhập hạn trong lá số tốt thì sao hạn xấu sẽ được giảm bớt. Ngược lại, nếu năm hạn trong lá số xấu mà gặp thêm Cửu Diệu tinh nhập hạn xấu thì năm hạn xấu sẽ càng xấu thêm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ảnh hưởng của Cửu Diệu tinh trong Tử Vi

Sưu tập các bài viết của tác giả VuiVui

Một bài viết sưu tầm lại các bài viết của tác giả VuiVui. Mời các bạn cùng đọc.
Sưu tập các bài viết của tác giả VuiVui

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả VuiVui trên các diễn đàn lý số

Tứ Trụ

Tứ trụ, trong tử vi cũng như tử bình là thời gian. Nói như thế thì quá tầm thường. Nhưng sẽ không tầm thường chút nào cả khi chúng ta biết rằng. Đông phương, người ta gọi Vũ Trụ, tương ứng với người Tây phương gọi là Không gian Thời gian. Vũ là Không gian, Trụ là Thời gian. Vì thế, tứ trụ không phải là bốn cột trụ, nó là bốn mốc thời gian. Vì thế gọi là Tứ Trụ, diễn nôm là Tứ Thời. Cho nên, Tử vi cũng như Tử bình, được lập bởi 4 trụ – thời gian này. Chứ không phải là 4 yếu tố, hay 4 cột trụ nào của số mạng cả. Nó chẳng khác gì như hàm trạng thái của hệ vật lý được xác định – theo quan điểm cổ điển – là Lagrangien – là một hàm L với hai biến x và t là hai biến không gian và thời gian vậy. Ở đông phương học, yếu tố Vũ được quán xét bởi Phong Thủy. Còn yếu tố Trụ được quán xét ở các môn tử vi và tử bình. Mặc dù ở cả các môn này, cả Vũ và Trụ đều được quán xét, nhưng với phong thủy thì yếu tố Trụ ẩn, còn tử vi và tử bình thì yếu tố Vũ ẩn, mà yếu tố Trụ nổi và được sử dụng trực tiếp. Điều này, nếu liên hệ với vật lý lượng tử thì chúng ta cũng sẽ rất dễ hiểu khi chúng ta xét hàm trạng thái của hạt vi mô. Nó có nguyên nhân sâu sa, bởi ngay từ đầu đông phương học đã không coi không thời gian là tách biệt. Điểm này, Descartes đã không xét đến.

Nhưng nếu chỉ nói đến đây thì rất tầm thường, mặc dù chúng ta đã có thể hiểu tứ trụ là bốn thời – thời gian của tử vi và tử bình. Và có thể cũng thấy ngay rằng, tử vi và tử bình thực chất chỉ là hai phép biểu diễn khác nhau của cùng một bài toán. Chúng ta cũng thấy nó tựa như là sự liên hệ giữa hai biểu diễn cơ học lượng tử như biểu diễn Heidenberg và biểu diễn Srodinger vậy. Và nói theo thời đại thì tử bình và tử vi có một "đối ngẫu Langland" như là đối ngẫu Langland của hình học và đại số vậy. Trong đó, tử vi ứng với hình học, tử bình ứng với đại số.

Nói thế cho dễ hiểu đối với những ai có tây phương học.

Bây giờ ta xét thuần túy đông phương. Bởi có hiểu đó là 4 Trụ, thì mới nói chuyện đông phương được. Do Vũ và Trụ là một cặp âm dương. Vũ âm, còn Trụ dương. Vũ thì tĩnh, Trụ thì động. Đúng với mệnh đề Dương động, Âm tĩnh. Trụ của đông phương đối với tử vi, lịch pháp là sự phối hợp thiên can địa chi. Với ngũ hành, ta có ngũ hành nạp âm. Đó là hình ảnh thời gian vuông – tròn, hình vuông nội tiếp hình tròn – do trời tròn, đất vuông. Trời quay về bên phải, bao lấy đất. Ngược lại Đất quay về bên trái nằm trong vòm trời mà hình thành nên thời gian, đó là Trụ. Được lập bởi thang "đo" thiên can và địa chi. Theo nguyên lý âm dương giao phối, vạn vật sinh. Thì Trụ với lịch pháp và tử vi, mô tả thiên văn khí tượng bốn mùa, con người sinh sinh hóa hóa mà phát triển, thì đương nhiên Trụ của nó phải là sự giao phối âm dương thiên địa. Chính là sự giao phối thiên can địa chi mà thành ra ngũ hành nạp âm.

Bởi vậy, lịch pháp, tử vi cũng như tử bình, dựa trên Trụ mà ngũ hành là ngũ hành nạp âm, đã đảm bảo một tiêu chuẩn khởi đầu, khả dĩ mô tả được vạn vật bốn mùa và đời sống con người!

Nhưng đi tiếp, chúng ta sẽ thấy. Trụ là thời gian. Thời gian động, nên trôi, chảy mãi vô tận. Đông phương cho thời gian tuần hoàn viên miễn. Vậy thời về mặt hình học ta cũng dễ thấy, hình vuông và hình tròn "đều quay". Nhưng hình vuông và hình tròn thì quay không thể đồng bộ được như hai bánh xe tròn của một chiếc xe được. Thể hiện thiên can thì chỉ có 5, còn địa chi thì có 6. Chính sự "khập khiễng" thiếu khuyết này cần được bù lấp để thỏa mãn cho cái gọi là thời gian phải Động. Hay nói theo đông phương thì Trụ phải đồng bộ. Người xưa đã bổ sung sự thiếu khuyết này bằng một chữ Tuần. Mục đích là để san bằng sự lệch giữa thiên can và địa chi trong hành trình của thời gian-Trụ. Theo tây học thì chúng ta gọi Tuần là một Đại lượng. Đông phương học, có nơi xem Tuần như một Thần sát. Tử vi, xem Tuần như một Sao. Qua đây, chúng ta thấy ngay, bản chất của Tuần là Thời gian. Nên chúng ta không lạ gì Tuần là Không – sau này khi đi sâu bản chất sao của tử vi, chúng ta sẽ thấy tuần có cái nghĩa Không. Nhưng ngay ở đây, chúng ta cũng thấy Tuần là Dương, động, ứng với Không. Đối lập với Triệt liên hệ với Vũ nên âm, ứng với Vong!

Đến đây, chúng ta thấy Cơ nhân có một cái gọi rất chặt chẽ, khoa học và thống nhất. Tuần dương, nghĩa Không, và Triệt âm với nghĩa Vong. Tuần có bản chất thời gian, triệt có bản chất vũ nên triệt ứng với phương vị. Nên mới nói là triệt lộ, ngăn cách. Như nói hình ảnh: Đường đi gặp triệt là tắc. Hoàn toàn mang ý nghĩa phương hướng của không gian. Trong khi Tuần có ý nghĩa ngưng trệ, là bản chất của thời gian.

Đến đây, chúng ta có thể thấy chỉ cần hiểu đúng khái niệm mà Cổ nhân đặt cho chúng ta gọi, chúng ta cũng sẽ thấy được nhiều điều bổ ích, thấy được bản chất. Mà ở đây, ví dụ là thấy được Tuần xuất hiện là bởi cái gì. Liệu chúng ta có Dám vứt bỏ Tuần đi không luận nữa không?

Chúng ta thử vứt Tuần đi xem thế nào nhé. Có nghĩa là chúng ta đã xem thời gian đông phương không còn là vuông tròn nữa, không còn là ngũ hành nạp âm, do can chi âm dương phối hợp nữa. Tức là chúng ta đã vứt bỏ điều kiện tiên quyết để cho tử vi khả dĩ mô tả được cuộc đời của một con người!!! Tự nhiên chúng ta đã làm tử vi biến dạng đi một cách đáng sợ.

Chúng ta cũng thấy rằng, các kiến thức về Tuần ở trên, cũng như cách thiết lập Tuần là không có gì mới lạ cả. Có đầy đủ ở trong các sách. Nhưng chúng ta cần phải hiểu được bản chất của Vũ Trụ là không thời gian đông phương. Là một cặp âm dương thì chúng ta mới có thể hệ thống hóa mà thấy được bản chất cũng như thấy sự cần thiết phải có nó.

Nhân đây chúng ta cũng thấy năng lực tư duy siêu việt của cổ nhân. Đã nhìn thấy sự bất đối xứng âm dương của Vũ Trụ và xuyên qua nó mà xây dựng nên một nền lý học đồ sộ – đó không phải là Khoa học thì nó là cái gì? Để có lý đâu chúng ta cứ thắc mắc cái sự bất đối xứng âm dương bởi các quái phối trên đồ thư rồi phán quyết là phải đổi Tốn – khôn? Mới là khoa học? Ngay đến bản chất của Vũ Trụ, cổ nhân đã thấy rằng không có sự đối xứng âm dương!!! Huống chi với một Đồ – Thư. Đó có phải là do chúng ta đã không hiểu lý học đông phương cho tới nơi chốn, nên mới có chuyện sáng tạo vô lối như thế không?

Tiếp nữa, nếu chúng ta suy tư với tư duy tây phương, sẽ thấy rằng. Tây phương với triết học Descartes cho rằng không – thời gian là tuyệt đối độc lập với nhau. Không gian là trống rỗng. Thì tới Einstein không – thời gian không còn tách biệt, và không thời gian cũng không còn là trống rỗng nữa. Chúng đã chứa Vật chất. Vật chất đó là gì? Tây học đang minh thuyết. Nhưng với đông phương học, Vũ Trụ là một Thể thống nhất, không tách rời, đã phối với nhau để "làm ra" vạn vật – theo nguyên lý âm dương giao hòa vạn vật sinh. Vậy bên trong Vũ Trụ là gì? Chu Hy đã nói: "Trong khoảng trời đất, chỉ có một vật là Khí, chia ra làm hai thì là âm, dương (khí âm và khí dương), năm hành gây dựng (khí ngũ hành) muôn vật trước sau bị cai quản ở đó – trích kinh dịch.

Đó là Khí, Khí của Vũ Trụ, là "vật chất" đông phương đó. Chúng ta, những người học tây phương, cứ mãi không hiểu Khí là gì, nó từ đâu tới. Bản chất ra sao. Lại cứ đi tìm cách xác định, định nghĩa, rồi đo nó. Thì đây, có một đối ngẫu với không thời gian tây phương. Choán trong không thời gian là vật chất – như năng lượng. Thì choán trong Vũ Trụ chính là Khí. Nhưng "metric của Không thời gian và Vũ Trụ thì hoàn toàn khác nhau.

Tại sao Chu Hy không nói: Trong khoảng vũ trụ mà lại nói là trời đất? Hậu học không hiểu trời đất của Chu Hy chính là vũ trụ càn khôn. Không hiểu vũ trụ can khôn chứa đầy Khí thì làm sao nắm được cấu trúc của quái dịch! Cho nên có nhiều Vị đã vội vàng phê phán Chu Hy chẳng phải là sự lầm lỡ hay sao?

Đến đây thì các Vị có thể hiểu làm thế nào để có thể khoa học hóa đông phương? Chứ không phải là những mô tả bằng tư duy tây phương mà áp đặt cho đông phương học được. Muốn làm được cái việc áp đặt đó. Trước hết các Vị cần phải hiểu được Vũ Trụ đông phương cái đã. Hiểu rồi thì các Vị sẽ thấy việc áp đặt thật sự là khập khiễng. Bất toàn.

Còn nhiều thứ bất ngờ nữa lắm khi nghiên cứu lý học đông phương. Vấn đề Vũ Trụ mới là tầng thấp nhất của lý âm dương thôi. Nên tôi thấy, khoa học hóa đông phương học không đơn giản như các Vị đã trình bày. Chỉ nội Hiểu sao cho đúng cổ nhân, và có sự so sánh, đối chiếu để thấy được đối ngẫu giữa hai nền lý học, đã vô tận rồi.

Thân ái.

Mệnh Chủ

Trước hết về mệnh chủ. Tôi nhắc lại, mệnh chủ dùng để định cách cục. Cũng như phương trình vật lý toán, muốn giải thích hiện tượng, hiệu ứng,... vật lý được biểu diễn bởi phương trình xác định thì phải xác định nghiệm của phương trình đó. Rồi từ nghiệm đó người ta mới lý giải cái vấn đề được đặt ra. Có nghiệm trực tiếp và có cả nghiệm gián tiếp. Nhưng đều thu được từ việc giải phương trình đó mà ra. Trong tử vi cũng vậy, phải xác định cách cục rồi thì mới luận được. Phép hội sao là phép xác định cách cục cổ điển. Nó đòi hỏi phải có hai điều kiện như tôi đã đưa ra.

Điều kiện thứ nhất nói đên tính xác xuất khả dĩ lớn nhất, tức là tìm ra đặc điểm chung của cách cục. Người ta đã thấy ngay bản chất của điều kiện này. Phụ thuộc vào kinh nghiệm sống, linh cảm, năng khiếu của người giải đoán. Tức là tổng quát hóa.

Điều kiện thứ hai là tính khả dụng, tức là áp dụng cụ thể vào thực tế thì liên hệ trực tiếp tới vốn sống, kinh nghiệm và sự hiểu đời – liên quan tới ngũ sự, … – của người giải đoán. Chả thế mà chúng ta vẫn hay nghe nói những người giỏi luận tử vi nào la cần năng khiếu, cần giác quan thứ sáu, cần trải đời, v. v... Trước kia chúng ta chỉ hay nghe nói thế thôi, nhưng nay thì thấy rõ, bản chất của nó là do cái phép hội sao nó yêu cầu tới hai điều kiện trên, do đó số người giỏi tử vi mới ít như vậy, và cũng ít người có thể theo được đến cùng. Tức là đặc biệt hóa.

Nhưng tiền nhân ta đã không thỏa mãn sớm như vậy. Họ đã nghiên cứu, mày mò để tìm cách hóa giải những khó khăn của hai điều kiện trên. Phép hóa giải đầu tiên là việc đưa ra hai sao chủ mệnh và chủ thân ở thiên bàn của lá số. Nhưng phép này ta thấy ngay là thô thiển – tuy nhiên trong một vài trường hợp, mà đối với xã hội xưa kia thì cũng thấy khá là đủ bởi đâu có phức tạp và phong phú như cuộc sống xã hội hiện đại. Thô thiển là bởi vì, hai sao chu thân mệnh được xác định như là quy tắc cố định theo năm sinh. Mỗi năm có một cặp sao mà thôi. Dễ thấy là cho dù mỗi lá số, với cùng cặp chủ mệnh thân tuy luận sẽ có khác nhau, nhưng cùng một lá số là không có cách gì luận khác nhau được cả. Tinh tế hơn chút nữa chúng ta cũng thấy, mỗi năm có tới hơn 8 ngàn lá số. Chúng ta lại luận theo kiểu xác định cách cục chính tinh phụ tinh thì chúng ta sẽ rơi vào cái thế tự trói chân tay minh. Ví dụ như chúng ta thấy có cách phủ tướng triều viên. Đương nhiên không thể bỏ. Lại chỉ có một cặp chủ thân mệnh, nên không thể thoát ra khỏi hai cái giới hạn đó. Chỉ còn có cách mở bằng gia hội thêm sao, chế hóa, … các bạn nào chưa làm thì bây giờ làm thử xem. Sẽ rơi vào mê hồn trận. Tệ hơn nữa là luận xong rồi, chẳng biết có đúng không nữa. Mà khi biết là sai thì cũng chẳng biết sai ở đâu. Cứ thử đi!. Rồi các bạn sẽ còn gặp nhiều chuyện bất khả, và tức mình hơn nữa. Cái phép chủ mệnh thân này nó cổ lỗ, và thô tới mức nhiều người còn không thèm học. Đặc biệt là những người của phái đông a. Tiền nhân ta khi nghiên cứu tử vi đều nhận ra điểm này mà tìm cách khắc phục nó. Một hướng khác phục có lẽ là phổ biến nhất hiện nay, nhưng nguồn khởi của nó, thú thực tôi không dám xác quyết, vì thực tế nắm được là những gì truyền lại, lại không có những kiểm chứng khoa học. Nên chỉ viết ra đây, xem như là một chút thư giãn, khỏi bức bối mà thôi.

Số là khi giải đoán những lá số mệnh VCD tiền nhân ta đã đúc kết khá nhiều công thức. Nhưng phảng phất thấy vai trò của những hung tinh, cát tinh đặc biệt. Mà một trong các thông số đặc biệt đó là sự đồng hành với ngũ hành bản mệnh của một vài tinh đẩu có trong cách cục được nêu bởi các công thức – tuy không phải là tất cả một cách tuyệt đối – nhưng phảng phất và dễ tìm được cái lý để các tinh đẩu đó lộ diện. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, sẽ gặp ngay cản trở bởi tính hạn chế của sự đồng hành chỉ trong cung mệnh.

Tiền nhân ta tháo gỡ khó khăn này bằng cách không hạn chế xét sao nòng cốt chỉ ở trong khuôn khổ một cung an mệnh, hay cung an thân mà mở rộng ra tới cung thiên ri, tài và quan. Nhưng có một số người không hiểu lại giàu trí tưởng tượng liền mở rộng cho các cung khác nữa, có biết đâu rằng do hạn chế bởi sự mất cân đối của ngũ hành, nên sự mở rộng càng lớn thì tính mất cân đối càng lớn và do đó tính phi lý càng rõ nét, đưa tới sự vận dụng ngày càng mơ hồ hơn, gượng ép hơn. Hơn hết là cho dù sự mở rộng hợp lý, nó vẫn gặp những trở ngại không vượt qua được. Thực tế là phương pháp định cách cục dừng lại ở đây rồi lại loanh quanh trở về với phép hội sao và kết hợp cả hai. Nhưng lối thoát vẫn không thể có, người đời không chịu dừng lại và thế là cách mạng, là sáng tạo. Nhưng hầu hết đều nhằm vào cải tiến cách luận và trên cơ sở đó mà đưa thêm nhiều thông số, nhiều biến hóa của cách cục, tinh đẩu. Phép lưu tứ hóa, phép thái tuế, phép hóa khí, … tất thảy chỉ là những phép nhằm giải quyết vấn đề là do phép định cách cục bị hạn chế, nên phải mở rộng “phạm vi hoạt động” của cách cục, sao cho cải thiện được cái điều kiện thứ nhất là xác xuất khả dĩ lớn nhất – tức là sẽ khắc phục sự mơ hồ của tâm linh phần nào – và khả dụng lớn nhất vì khi cho cách cục biến hóa thì cái kinh nghiệm sống, sự trải đời của người giải đoán mới có “đất dụng võ”.

Như thế, giải đoán đã phát triển thành hai hướng, hướng nâng cấp phép định cách cục và Hướng thứ hai là mở rộng phạm vi hoạt động của cách cục. Rõ ràng hướng thứ hai rất dễ được chấp nhận, và thực tế nó đã được hào hứng tiếp đón. Nhưng rút cục, tình hình tuy có được cải thiện, song vấn nạn vẫn còn đó.

Tổ tiên phái đông a – bằng con đường riêng của minh – đã phát minh ra sao treo. Nhưng giữ thật kỹ. Cho nên, mặc cho đời xoay chuyển, càn khôn nổi sóng gió thế nào Nó vẫn lẳng lặng giữ yên “một bờ cõi”. Thiên hạ bàn tán xôn xao, tò mò hay chọc ngoáy, Nó vẫn sản sinh ra những lời đoán thần kỳ. Ẩn hiện như rồng lượn khiến người đời ngưỡng mộ mà phải liệt nó vào những giai thoại. Phương pháp sao treo, vượt lên phép nòng cốt – mặc dù sự ra đời của sao treo chưa chắc đã là do sự khắc phục hạn chế của các phép định cách cục trên – mà là do họ đã hiểu được bản chất thực của tử vi. Nhưng tự nhiên, nó giải quyết được hàng loạt vấn nạn của môn tử vi. Song, nó vẫn im lặng. Nó trở thành bí truyền.

Phương pháp mệnh chủ tiếp nối nền tảng của phép treo sao. Có vậy thôi. Không nên thấy nó có chữ mệnh chủ mà ngộ chữ rồi hỏi thế còn thân chủ đâu rồi!

Linh Xương Đà Vũ và Cải Số

Những người xem tử vi, có lẽ không ai là không biết cái bộ này?. Sách vở đều cho rằng, gặp bộ này là số: Nào là tự tử, nào là bị bức tử, bị độc tử, …Nhưng có lẽ, khi gặp nó, hầu như chỉ đoán đến thế thôi. Hạn gặp nó, tất bị hung họa nặng, có thể dẫn đến cái chết thảm thương. Bộ này ở cung nào, gây tai ách cho cung đó. Nhưng nặng nhất, và có ý nghĩa xác định phải là ở những cung: Mệnh – Thân, Phu/Thê, Tử tức, Phụ mẫu, Huynh đệ. Và cả những cung trong tam hợp hay xung chiếu với Mệnh.

Khi câu hỏi, có cái gì chế hóa, hay hóa giải được nó không?. Gặp nó thì Cải số như thế nào?. Thì với sự hiểu biết về nó đơn sơ như vậy, thời không thể giải được!. Vì thế, câu hỏi đặt ra, thực thì nó tác hóa như thế nào?. là một lẽ tự nhiên.

Phải nói rằng, Linh Xương Đà Vũ rất độc. Cái độc của nó không phải chỉ là ở cái chết của đương số. Mà cái độc của nó nằm ở chỗ bức tử đương số. Cái chết nào rồi thì cũng là chết. Có cái chết nặng tựa Thái sơn, có cái chết nhẹ tựa Lông Hồng. Có cái chết đau đớn quằn quại, trên phương diện tinh thần cũng như thể xác. Có cái chết tưng tửng. Ra đi vào cõi vĩnh hằng mà cứ như không có chuyện gì xảy ra cả. Thì cái chết do bộ Linh Xương Đà Vũ gây ra, quả thật thuộc về cái chết đớn đau. Nặng nhất về tinh thần. Sau nữa là sự giày vò về thể xác.

Người xem tử vi có kinh nghiệm, thấy rằng đằng nào cũng chết, nếu gặp Linh Xương Đà Vũ thì thà gặp Kiếp sát Hình Hổ hơn. Nhìn về mặt lý số, thấy cái anh Kiếp sát Hình Hổ sát khí nặng như thế, sao lại bảo thà gặp nó hơn là gặp Bộ Linh Xương Đà Vũ?.

Thật ra, tuy sách vở đều đề cập bốn sao, đủ cả bốn sao: Linh tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc. Nhưng thật ra, cái bộ này, nhân của nó là Linh Xương Đà. Mà hạt nhân trung tâm lại chỉ có Xương Đà mà thôi!. Thực ra Vũ khúc không phải là cái nhân họa của bộ này. Người ta có thể thấy, nếu không phải là Vũ khúc, có thể là một sao khác. Chẳng hạn như thế Vũ khúc bằng Kiếp sát, hoặc cả bộ như Cơ Lộc Mã cũng vẫn nguy hiểm như là với Vũ khúc. Nhưng cái cách bức tử con người ta sẽ khác nhau, cũng như nguyên nhân kích hoạt cái bộ Linh Xương Đà sẽ khác nhau mà thôi.

Điểm đặc biệt, nếu là Vũ khúc, thì bất kể Vũ có thể miếu vượng, vẫn hung hiểm như thường. Bởi vì đó là do khả năng chế giải của Vũ khúc với Linh Đà, đặc biệt là Đà la âm hiểm và tàn độc, khi Vũ khúc gặp nó, khác nào Chuột gặp Mèo đang đói. Thế nhưng Linh Xương Đà mà gặp phải Thiên phủ thì đương số chỉ lao đao thôi, chứ sức mấy mà bức tử nổi đương số. Tùy mỗi cách cục gặp Linh Xương Đà, mà gia giảm hung họa khác nhau.

Vũ khúc thì bị bức tử vì cùng quẫn. Âm Dương thì bị bức tử vì tuyệt vọng, bế tắc không tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm. Cơ Lộc Mã thì bế tắc, tuyệt đường sinh nhai, chứ không phải là cứ đi ăn mày là thoát. …

Như đã nói, cái Nhân của nó là Linh Xương Đà. Nhưng cái Hạt nhân trung tâm, chính là Đà Xương. Có điều, nó liên quan đến sự thành cách. Không phải cứ thấy Xương Đà là tá hỏa tam tinh.

Việc thành cách, kiểu gì cũng có những dạng sau đây:

-Mệnh – Thân hay trong tam hợp có cả Xương lẫn Đà, và chỉ khi chúng thực là sao bản mệnh mới đúng là thành cách Xương Đà. Khi ấy, vào Vận, chỉ cần gặp Linh, các cách cục tham gia hội họp ra sao, đều là ở vị thế thay cho Vũ khúc mà thôi, đó gọi là biến cách. Gặp một Linh, là đủ quyết đoán rồi. Nếu ngay trong mệnh thân không có sao hay cách cục hóa giải Xương Đà, hay có sao ngăn chặn Đà la. Thì Họa tất sẽ xảy ra.

-Gặp cả ba sao này trong mệnh – thân và tam hợp, mà không có sao hay cách cục khác chia cắt chúng, thì cách này thành với điều kiện Đà Xương phải là sao bản mệnh, còn nếu chỉ có Linh là sao bản mệnh thì cũng không sợ, cho dù cách cục đã thành.

-Nếu chỉ có một sao Xương hay Đà, dù là sao bản mệnh, khi nhập vận gặp Đà hay Xương, thì cũng không thành cách. Nhưng trái lại, gặp Linh thì vẫn hung hiểm như thường, nhưng khi ấy không phải là hung hiểm của bộ Linh Xương Đà. Vì thế, dù có thấy cả bộ, chớ có đoán rằng đương số sẽ bị bức tử!. Đoán như thế, mu rùa có thể bị đập bể có ngày đó. Hi Hi …

-Xương và Đà gặp nhau kết thành hạt nhân trung tâm của cách, cũng phải xét đoán cho tinh. Đừng thấy khi Đà la độc thủ Dần – Thân là miếu địa mà đã vội cho hạt nhân này là cách cục tốt. Đừng tưởng Văn xương yếu liễu đào tơ, khuê các mà gặp được người anh Hùng – Đà la độc thủ cung VCD tại Dần – Thân là miếu địa, dẫu có gia thêm Bắc đẩu bội tinh (Ấn Tướng) để trở thành anh hùng QDND mà đã vội mừng. Các bậc phụ mẫu chớ có đem gả bán con gái mình vào những nơi như vậy. Đừng tưởng đó là trai anh hùng, gái thuyền quyên gặp nhau. Nhầm to đấy. Ây là đưa con gái mình vào chỗ chết. Sướng cũng chết, mà khổ cũng chết. Còn khi Đà la hãm địa, thì khỏi nói rồi.

-Sợ nhất là khi Xương gặp Kỵ. Nó mà thành cách Xương Đà, thì chả cần gặp Linh. Đơn sơ như vậy cũng đủ hồn về chín suối rồi, bởi khi ấy cả hai đứa đều “tranh nhau” làm sao bản mệnh.

Còn nhiều biến cách nữa, từ cái hạt nhân này. Mỗi biến cách đều có những luận giải khác nhau. Cần cẩn thận xét đoán, không thì nó tốt lại tưởng là xấu và ngược lại. Đơn cử như Linh Xương Đà hội đủ thành cách là cách cực xấu. Nhưng nếu có thấy Vũ được thay bằng Cự – cho dù là hãm địa – mà hóa Quyền thì trước cùng cực, nhưng sau đại phát, cách này là phản vi kỳ cách, người có cách này, làm quân nhân thì lên tướng, cầm quân đánh đông dẹp bắc, uy quyền khét tiếng. Đi buôn thì lỗ lên lỗ xuống, trốn chui trốn lủi, cuối cùng hanh thông, độc bá thiên hạ (đây chỉ là cách dùng hình ảnh thôi nhé, đừng tưởng thành vua thành chúa, rồi khi không được làm vua, làm chúa đến đòi đập mu rùa thì oan khiên lắm).

Xem thế, bộ Linh Xương Đà thật vi diệu, nhiêu khê. Phải tường tận thì mới mong cải được số do nó gây ra.

Không phải cứ thấy Linh Xương Đà, thầy bói kê đơn Cải số, là cứ cho một toa thuốc là sẽ giải được đâu. Có khi uống nhằm thuốc độc, nặng thêm, đẩy con người ta tới chỗ cùng cực hơn đó.

Ví như lá số Endopain. Lá số này, dẫu có thấy Đà la nhị hợp cũng không thành cách Xương Đà được. Vì vậy, lá số này không bị hại về Linh Xương Đà cố định. Nhưng ở vận 44-53 tất sẽ bị hại, lý do chính là bộ Linh Xương Đà Sát lưu động bị Liêm Phủ ở Mệnh rung dữ dội kích hoạt mà sụp đổ.

Số này, đại vận này giàu có, mặc dù từ nay đến lức 44 có một lần bị rung chuyển, nếu nói về số lượng nhà cụ thể, thời tử vi, như Tôi thì bó tay, đơn giản là vì, một triệu đô, người ta có thể mua vài ba căn nhà, nhưng cũng có khi lại chỉ có một căn mà thôi. Cũng có thể dùng Mai hoa dịch hay các môn khác mà đoán ra số lượng nhà cửa đã có. Nếu theo tử vi, chúng ta có thể xem xét ở dạng, tổng số tài sản, ước lượng là bao nhiêu. Thời, cái lá số này, vào thời điểm này thì tiền mặt không có bao nhiêu, đủ dùng xài (tiền mặt có bao nhiêu đều nhăm nhe đầu tư buôn bán). Nhưng tài sản nằm trong bds cũng đã có trên 10 triệu Mỹ kim rồi.

Sơ lược về cách Linh Xương Đà Vũ là như vậy!.

Nên nhớ, không phải là hỏi cách giải bộ này, mà phải là cải số, khi bị bộ này tác hóa. Tuy nhiên, biết được căn nguyên của nó, mới chỉ là bước đầu gọi là chẩn đoán bệnh. Còn giải, tức là kê toa thuốc ra sao, lại là chuyện khác, chuyện của cải số. Có những nguyên tắc của nó.

Tử Vi Lý Số: LẬT LẠI CHỦ ÐỀ CẢI SỐ.

Đây là một vấn đề, về thường lý, nó rất nan giải. Từ đó dễ dẫn đến những ngộ nhận sau:

-Sau khi tìm được phép Cải số, ví dụ như trường hợp của Jany. Việc tìm người có lá số như đã được chỉ dẫn là vô cùng khó. Ngay cả khi đã tìm được rồi, chắc gì người ấy đã có thể cùng với mình kết thành phu thê?.

Về thường lý thì đúng là vậy. Nhưng về lý số thì không như vậy!.

Thật vậy. Lấy ví dụ, người có bệnh. Tìm thầy có khả năng chữa đúng được bệnh cho mình là khó. Nhiều khi, với bệnh nan y, lại vô cùng khó. Nhưng đó là công cuộc, là vận động nhân sinh. Nó không thuộc về cái gọi là lý luận của y học. Vì thế, đương nhiên, không chỉ bệnh nhân, người nhà của bệnh nhân, bạn bè, …cùng nỗ lực tìm kiếm. Đó chính là sự vận động nhân sinh, là sự nỗ lực của con người trong việc chữa bệnh. Còn khi gặp rồi, đương nhiên, khi người thầy thuốc thấy đúng con bệnh mà mình có khả năng chữa. Có khi nào người thầy thuốc đó từ chối không chữa, để mặc cho bệnh nhân chết không?. Có thể có, nhưng ít lắm. Và cái phần trăm nhỏ nhoi đó, nó không thuộc về cái gọi là lý luận y học. Nó thuộc về y đức.

Cải số cũng gần giống như vậy. Tìm được người đúng như đã được chỉ dẫn. Khó thật. Nhưng đó là sự vận động của con người, sự cố gắng, bản lĩnh và nghị lực cùng với biết bao nhiêu nhân tố khác nữa!. Có thể người ta bảo rằng, gặp được đó cũng là Phúc. Vâng!, đúng là Phúc. Nhưng trên phương diện mệnh lý tử vi, thì phúc đó không phải là phúc theo cái lý của tử vi!. Đó là cái Phúc tổng quát hơn nhiều. Nó thuộc về lý luận nào, chẳng ai nói tới cho cụ thể được. Có người thì bảo đó là do Phúc thực tại. Ừ thì là Phúc thực tại. Khi mà ta không sờ được nó, không thấy được nó bằng xương bằng thịt. lại chẳng có một cái lý luận cơ bản nào hướng dẫn. Thì nói thế nào mà chẳng được. Thế nên, nếu nói Mệnh, mà chẳng nói là mệnh lý tử vi, thì nói thế nào mà cũng được. Nhưng ở đây, rõ ràng, bệnh được chỉ ra trên mệnh, chính là theo cái lý của tử vi. Thì muốn chữa cái bệnh đó, thời dùng chính lý tử vi mà chữa. Chứ nếu chỉ nói chung chung như: Bảo con bệnh rằng: cứ tu đi, làm việc thiện, hãy thanh tâm, hãy ăn chay, mà quên đi cái cần có là phải dùng y học để chữa bệnh, thì đó đâu phải là chữa bệnh. Mệnh cũng thế. Phải nói bằng chính cái lý của tử vi thời để chữa cho cái mệnh lý tử vi.

Tất nhiên, trong nhiều trường hợp, mệnh vẫn có thể chữa, hay cải được bằng những phép chữa mệnh tổng quát hơn trên nền tảng mệnh lý tổng quát nhất. Nhưng rõ ràng, người ta, nếu theo phương pháp đó, từ xưa đến nay, vẫn đã và đang, có lẽ cũng là sẽ vẫn làm thì không thể có một môn học xác định. Cũng như kiểu chữa bệnh bằng tập thể dục vậy. Tất nhiên sẽ khỏe mạnh, nhưng y học sẽ không thể phát triển nếu cứ lấy đó làm phương pháp bao trùm cho hết thảy.

Khi đã tìm ra rồi. Thì khỏi lo. Một lá số đã ứng như thế, khi gặp nhau, họ sẽ thấy sự cần thiết phải có nhau. Về mặt lý số, đó gọi là ứng số. Cho dù trên lá số của Jany, người chồng đúng số là người chẳng ra gì!.

xem ra, có vẻ thấy mâu thuẫn?. Nhưng thực không phải vậy. Bởi đây là sự vận dụng những nguyên lý tổng quát nhất, có tính chất nền tảng của tử vi vào thực tiễn đời sống. Có thể hình dung như thế này:

Một chiếc xe ô tô. bạn đang lái nó, nhưng đến giữa đường bị hỏng, chẳng hạn như két nước làm mát bị vỡ. Khi đó, đương nhiên chiếc xe đó bị hỏng, không thể tiếp tục được hành trình. Nếu cố gắng thực hiện hành trình, thời máy sẽ cháy. Hệ lụy của nó là vô lường. Nhưng nếu bạn là người có kiến thức về động cơ, hay xe. Bạn sẽ có cách khắc phục nó để đi tới nơi có thể sửa chữa. Hoặc như bạn có cái quạt điện, nhưng nó lại bị nóng khi chạy, chạy lâu sẽ cháy. Bạn tìm cách làm mát nó, thì bạn sẽ dùng được nó.

Tôi lấy ví dụ đó, để cho thấy rằng, con người ta, đối với hệ động lực hoạt động theo các nguyên lý vật lý, thì khi nó bị sự cố, muốn khắc phục sự cố, người ta cũng phải vận dụng những định luật khác khả dĩ khắc phục được sự cố đó. Các định luật đó cũng vẫn sẽ là những định luật vật lý. Thì ở cải số cũng vậy. Trường hợp trên lá số gặp người chồng chẳng ra gì, thì bằng những nguyên lý vận hành mà tử vi tiềm tàng, chúng ta khai thác nó, vận dụng nó đúng đắn thì những điểm yếu trên lá số, như lá số Jany về người chồng, rồi cả việc sinh đẻ, là có khả năng khắc phục.

Nếu Bạn là cái người có biết về trường hợp giờ Kim sà, mà Tôi đã đưa ra tới ba lá số: Một lá số của người thầy, hai là số của người con nuôi, và cuối cùng là số của người con dâu. Tổ hợp cả ba lá số đó chính là đã có sự sắp xếp về lý số để cho cái mục tiêu Cải số, khắc phục cái tính lý nguy hiểm của giờ Kim sà có thể được thực hiện.

Bạn nói đúng. Việc tìm những lá số đó khả dĩ đối với thời đại ngày xưa. Nhưng ở thời đại ngày nay, người ta vẫn nỗ lực được, và cao nhất là bằng tâm và đức. Cùng với sự kiên tâm, tất sẽ có khả năng thành công. Với sự lần lượt, đầu tiên phải tìm cho được người thầy. sau đến đứa con nuôi. Cứ kiên tâm làm, cánh cửa vào kho tàng dần sẽ mở toang!.Tôi không còn bao nhiêu bài nữa, cũng như đã hứa không tranh luận. Nhưng viết như apollo như trên, thật là chẳng hiểu gì cả. Không chỉ có thể chứng minh ràng mạch cái bộ Linh Xương Đà Vũ, mà cách này còn có thể nhìn từ nhiều khía cạnh để nhìn rõ bản chất.

Vì thế, apollo có hiểu hay không, không còn là vấn đề của Tôi, nhưng trong chủ đề này của Tôi, Là người đề cập đến cách cục này, nên vì trách nhiệm với bạn đọc, ở mức độ cho phép, Tôi viết thêm ý nữa, nếu bạn đọc có hiểu, thì tốt, nếu không hiểu thời đành chịu.

Trước hết cần thấy rõ bản chất hung họa của bộ Linh Xương Đà Vũ. Do bức đương số đến chỗ tự vẫn. Tiến trình của hung họa cũng do đó mà bộc lộ rõ ràng. Từ Hung đến Sát. Ta thấy rõ, Đà chủ hung, Linh chủ sát. Tuy rằng cả hai đều âm độc. Từ đó mà suy, thấy rõ Đà đến trước, Linh đến sau. Ép đương số cho đến chết. Quá trình là rõ ràng, chẳng có cái chết nào chết trước, phiền muộn, lo lắng sau cả!!! Xem Bộ Linh Xương Đà Vũ, thấy ngay Đà là hung, Linh thì Sát, Vũ là kết cục cũng là nội dung của họa hại, bởi thế, nếu không phải là Vũ, mà là Cơ Lộc Mã thì tuyệt đường sinh nhai mà chết. Còn nhiều biến cách nữa.

Biến cách Linh Đà Xương Vũ rất phức tạp và tinh tế. Trong đó, thấy rõ chỉ có ba sao đóng vai biến hóa là Xương Đà Vũ. Mỗi biến hóa là một biến cách. Chỉ có Linh cố định, ngồi ỳ một chỗ. Nhưng như thế không có nghĩa đó là nhân. Cái nhân của cách cục ở đây chỉ rõ là cái nhân gây họa. Chứ không phải là một cái nhân tĩnh tại.

Có hiểu được lẽ biến hóa đó, mới có thể hy vọng vận dụng được biến hóa của Linh Xương Đà Vũ.

Đừng nhìn thấy, đương số nào bị dính Linh Xương Đà Vũ là có kết cục của cái chết, rồi nói rằng Linh chủ Sát, gây nên cái chết mà cho rằng đó là hạt nhân trung tâm. Nắm bộ này theo cách đó, thì làm sao hiểu được biến hóa và vận dụng biến cách của Kiếm chiêu, qua một chiêu này.

Bao nhiêu trường hợp ví dụ mà mọi người đã hỏi, đủ thấy biến hóa của Bộ này như thế nào. Nếu lấy sự cố định của Linh mà luận làm trung tâm, thì làm sao hiểu được căn nguyên, cội rễ của hung họa.

Viết đến thế này là quá nhiều. Tôi sẽ không trình bày thêm.

Phép lưu cung trong đoán hạn

Kể từ lúc ông VDTT phỏng dịch một số bài luận tử vi của ông Trần Thế Hưng, một tử vi gia xứ Đài mà theo thông tin của ông VDTT thì tử vi gia này cũng khá nổi danh. Nội dung của các bài đó có đề cập tới một phương pháp luận vận hạn. Đó là phương pháp lưu cung. Tôi đã có ý định viết một bài giới thiệu về phương pháp này. Không phải nhằm "chạy đua" với những tử vi gia xứ Đài, mà nhằm mục đích lưu ý những người học tử vi cần lưu ý tới những ngộ nhận và sai lầm về sự vận dụng của tác giả đối với phương pháp này. Nhưng công việc bận rộn, cứ lần chần mãi. Mới rồi lại thấy có người cũng có tinh thần cầu thị, nhưng sở học chưa tới đã vội sử dụng phương pháp này và trình bày luận đoán của mình theo phương pháp đó. Sai mà lại không biết là Sai, lại còn phê như sau:

Trích:

Tác giả VuiVui không sao hiểu cách Lưu Cung và các chuyển vận rất động rất tinh tế, nên có lời phê bình ấu trỉ và ganh tị nhắm vào lão HC tại VietLySo cách nay chừng 2-3 ngày. Đó là sự thiếu sót quê mùa đến đáng buồn của lý số gia hàng nội dập theo1 khuôn mà lại cho mình là đỉnh cao của thiên hạ.

Nguồn TVLS.net

.............

Quả nhiên sự lấn cấn của tôi là hợp lý. Tôi thật không hiểu, khi người ta học tử vi lâu năm, lại còn tham gia nghiên cứu mà lại có thể hiểu sai và vận dụng sai một phương pháp sơ đẳng như vậy. Thực ra phương pháp lưu cung không mới. Nói như những người lâu năm lăn lộn trong lĩnh vực bói toán hay nghiên cứu tử vi thì phương pháp này được xem như là phương pháp cổ lỗ. Cổ lỗ cả về hai nghĩa;

-Nghĩa thứ nhất. Cổ quá rồi. Trở thành chuyện "xưa như trái đất" khi mà bàn đến nó.

-Nghĩa thứ hai. Nó không những đơn giản mà còn đầy khiếm khuyết, cần phải được nhiều phương pháp khác bổ trợ một cách trực tiếp. Chứ không phải là bổ trợ theo kiểu như: Anh dùng tử, tôi dùng tử bình, còn anh kia dùng nhân tướng, anh nữa xài Hà Lạc,... rồi chúng ta ráp lại với nhau để có sự luận giải chung nhất, hy vọng đưa ra kết quả luận đoán chính xác nhất có thể.

Nói một cách đơn giản nhất, sự phối hợp, chẳng hạn như: phối phép lưu cung với phép lưu thái tuế và các sao lưu.

Đọc những dòng trên của người lầm lẫn bởi sự thiếu mạch lạc trong tư duy, thiếu căn cơ vững chắc không chỉ nền tảng lý học đông phương mà ngay trong lĩnh vực tử vi cũng mơ hồ. Chung quy cũng chỉ vì học thuật không có căn bản. Nay tôi trình bày ở đây, hy vọng hóa giải phần nào cho các bạn học tử vi, kẻo sai lầm.

Trước hết tôi trình bày phép luận hạn tổng quát. Cái này được trình bày ở hầu hết các sách vở tử vi. Tuy nhiên mức độ hệ thống có khác nhau, chỉ bởi vì nó phụ thuộc vào trình độ thực có của tác giả.

Trước hết nói về Đại vận 10 năm.

Chúng ta cứ thừa nhận đại vận 10 như một sự tất nhiên, đó là giai đoạn 10 năm của mỗi con người trong cả một đời người. Chúng được sắp xếp theo một trật tự xác định, khởi từ mệnh, lấy theo số Cục mà định. Ví dụ, cục thủy là số 2, thì 10 năm đại vận đầu tiên sẽ ở mệnh cung, tính từ tuổi 2 đến hết năm 11 tuổi. Các đại vận kế tiếp được sắp xếp theo quy luật: dương nam âm nữ xếp theo chiều thuận, nghĩa là đại vận kế tiếp, ví dụ 12-21 sẽ ở cung phụ mẫu, tiếp nữa là đại vận 22-31 nhập cung phúc đức, và cứ thế ta an tiếp các đại vận tiếp theo. Đối với âm nam dương nữ thì an ngược lại, đại vận 12-21 nhập cung bào, đại vận 22-31 nhập cung phu/thê, và cứ thế tiếp tục cho các đại vận sau nữa.

Đến đây chúng ta phải tự hỏi. Xác định cung an mệnh trên lá số. Nếu không lý đến vận trình, rõ ràng cung an mệnh, đúng là cung an mệnh của lá số xác định toàn bộ cuộc đời. Nói cách khác, cung an mệnh là một cung cuộc đời. Phải chăng, cung mà đại vận 10 năm nó nhập sẽ là cái gì?. Câu trả lời sẽ rất tự nhiên, nó chính là Cung Vận đại diện cho cung an Mệnh khi Mệnh "trôi" tới đó. Mà người xưa – hãy nhớ là người xưa, chớ không phải là người nay, chứng tỏ rằng tư tưởng, chuyển thành phương pháp, đã Cổ lắm rồi – mới nói, đó là Mệnh Vận. Lẽ tự nhiên, Người xưa cũng dễ dàng coi rằng, Mệnh như "tâm" của lá số, hay nói cách khác, như là Tâm Vị của 12 cung lá số. Vây thì, khi mệnh trôi, tức là mệnh vận dịch chuyển, thì chẳng có lý do gì ngăn cản các cung khác không dịch chuyển theo theo cái thế tương quan bắt buộc. Cái thế tương quan này nó nằm trong luật nhân quả chi phối trong việc xây dựng lá số tử vi. Cái này, khi có dịp trao đổi về triết đông trong bài toán tử vi, tôi sẽ đề cập tới sau.

Theo lẽ đó, khi có mệnh vận, đương nhiên tương ứng sẽ có 11 cung vận là phụ mẫu vận, phúc vận, điền vận,....

Nếu chỉ dừng tới đại vận 10 năm. Sẽ rất là đơn giản, và cũng chẳng có gì đáng phải bàn. Vấn đề sẽ phức tạp hơn ở chỗ, khi ta xét đến vận lưu niên, rồi ứng dụng nó để đoán vận. Hiểu đúng, hay bá láp là ở chỗ này nó lòi ra ngay.

Bởi vì. Chẳng hạn, khi xét vận lưu niên. Chúng ta có ba cung. Lưu niên đại vận, Lưu niên tiểu vận và cung Lưu thái tuế an vị. Có câu hỏi tự nhiên bật ra: Vậy trong ba cung này, cung nào sẽ là Mệnh vận lưu niên đây?.

Chỉ mới tới đây thôi, đã thấy ngay cái người viết nói tôi phê bình ấu trĩ và ganh tị thực đã không hiểu gì về vấn đề này. Chúng ta hãy thực nghiệm khi ông ta luận lá số Đặng Tiểu Bình, về hạn Bố của Đặng chết.

Trích:

Năm cha của Đặng bị Thổ Phỉ chặt đầu là năm 1938 tức năm Mậu Dần, tức các thứ sau đây giải thích tại sao cha chết:

1. Đặng lúc đó đuợc 1938 - 1904 = 35 t AL, gốc DH tại Hợi, tức Lưu cung Phụ tại Tý.

2. Năm Mậu an Lưu Kình trực xạ vào Lưu Phụ tại Tý, gia Lưu Đà La, Tang Hổ cố định, Lưu Tang, Lưu Khốc, Lưu Hư là cách khóc cha.

3. TH năm Mậu Dần an tại cung Thân tức Lưu Phụ tính theo TH, an tại Dậu cũng hứng Kình Đà Kỵ Kiếp Sát Thái Duơng, cũng là cách chết cha.

Nên nhớ Tuần Triệt của lá số Đặng ăn mạnh vào cung Duơng nên thiếu thời Đặng gian nan nếm mùi tân khổ, xa cách cha (Triệt an giữa Mệnh và Phụ) còn Tuần vào Di phá Thiên Mã nhiều lần, gia hại Lộc Tồn làm cho cách Mã Lộc Khốc Khách kém hay, thất bại ê chề. Ngay cả khi hạn hành vào cung Di tức lúc này Tuần và Triệt có cơ hội phá nhau để Đặng đuợc tháo gỡ Triệt tại Mệnh nhưng lúc đó Đặng đã hơn 60 tuổi thì Triệt đâu còn gì để Tuần phá nên Tuần siết cung Di, làm hại Mã, thất Lộc rất nhiều đối với Lưu Mệnh của Đặng.

Nguồn TVLS.net

................

Chỉ cần với những gì tôi đã trình bày ở trên, các bạn cũng đã có thể vạch được chỗ ấu trĩ của lời luận giải này. Xin mời các bạn tự nhiên, rồi tôi sẽ tiếp tục. Chúng ta sẽ đi tiếp tới mục tiêu nhận chân lời giải của Trần Thế Hưng.

Xin nhớ, đây không phải là sự phản biện, mà chỉ là đóng góp giúp các bạn học tử vi nhận rõ đường lối trong việc học tử vi. Khả dĩ nhận ra đúng sai của cái gọi là Lý trong tử vi luận. Bởi như tôi đã nói, tôi chỉ phản biện trực tiếp với tác giả, chứ không muốn phản biện qua bất cứ trung gian nào.

Xin cám ơn sự quan tâm của các bạn.

Thân ái.

...

Chúng ta tiếp tục.

Theo cái lý trên, chúng ta thấy sự xuất hiện các cung lưu, như phụ mẫu lưu, huynh đệ lưu, phúc lưu,... có vẻ như rất tự nhiên. Và chính đó là lý do hết sức thuyết phục về sự tồn tại của các cung này. Điều này đưa tới sự đòi hỏi vận dụng chúng vào giải đoán vận hạn. Song cần nhớ rằng, đó không phải là những chứng minh sự tồn tại của các cung lưu, mà chỉ là những lời biện giải thuyết phục mà thôi. Việc chứng minh bài toán cung lưu phức tạp và khó khăn nhiều. Ta có thể hình dung nó tương tự như việc bổ đề Langlands. Cái bổ đề này được xem là đúng đắn khá là tự nhiên, nhưng đối với các nhà toán học, sự tự nhiên một cách cảm tính, cho dù đó là những cảm tính thiên tài, thì vẫn không thể nào làm cho các nhà toán học yên tâm được, cũng như không thể bảo đảm cho sự đúng đắn tuyệt đối của cái bổ đề ấy. Việc chứng minh các bổ đề ấy khó, vì thế, đã qua hơn 30 năm kể từ khi bổ đề ấy được phát biểu, chẳng có ai chứng minh được nó. Cho dù các nhà toán học vẫn cứ thừa nhận và sử dụng nó. Cuối cùng, người chứng minh nó là NBC, và giải thưởng fields đã dành cho người chứng minh được nó. Vì vậy, chúng ta hãy cứ thừa nhận các cung lưu như một sự tự nhiên, còn chứng minh nó một cách chặt chẽ thì... đành phải chờ một ai đó, nếu như tôi không công bố phép chứng minh của tôi.

Tuy nhiên cần phải nói trước rằng thừa nhận là một chuyện. Còn sử dụng được chúng trong đoán vận lại là một chuyện khác. Sẽ có nhiều người, do sử dụng không được có thể đi tới sự phủ nhận chúng. Nếu sử dụng được chúng hiệu quả, tất sẽ thấy sự hay ho ở chúng. Nhưng cũng có người sử dụng sai. Khi ấy ngoài sự hồ nghi – đó là tốt nhất và chỉ có người thông minh mới có thể được như vậy – còn có người cứ mù quáng tin tưởng theo, rồi giải đoán công ra gà, gà ra vịt. Sai mà không biết mình sai, đó mới là điều nguy hiểm.

Như trên, tôi có đặt ra câu hỏi, trong ba cung niên vận. Cung nào là Mệnh vận lưu niên?.

Thực ra câu trả lời này rất dễ, và cũng rất tự nhiên. Đó chính là cung Đại vận lưu niên. Cái lý rất đơn giản, bởi vì nó được khởi từ đại vận 10 năm tính đi. Khi cung đại vận lưu niên xuất hiện, bây giờ ta gọi là mệnh vận lưu niên cũng được. Đương nhiên, các cung lưu niên cũng sẽ xuất hiện theo đó. Có người nói rằng, xem như vậy thì dường như mỗi hạn ta đều có một lá số mới chồng lên lá số cũ. Mà muốn xem tới vận lưu niên, tức là ta đã có ba lá số chồng lên nhau. Đó là các lá số: Lá số đầu tiên là lá số tổng quát, lá số thứ hai là lá số lưu đại vận 10 năm, lá số thứ ba là lá số đại vận lưu niên. Cùng với nó có tiểu vận lưu niên và cung có thái tuế nhập. Thêm bao nhiêu sao lưu nữa thì... chúng ta sẽ tá hỏa bởi chỉ mới đoán đến vận lưu niên thôi mà đã quá ư là phức tạp. Làm sao xử lý được tới ba lá số chồng đống lên nhau. Rồi các sao sẽ được an vị thế nào?. Tại sao khi lá số lưu xoay chuyển như thế mà các sao lại "đứng ỳ ra đó", chỉ có một số sao là dịch chuyển, đó là các sao lưu mà thôi?.

Chúng ta đã thấy sự phức tạp, và đưa tới ngày càng mơ hồ, khiến cho những ai muốn học và nghiên cứu tử vi cũng phải phát nản lòng?.

Thực ra không phải như vậy. Đó là bởi vì, chúng ta đã có ý niệm sai ngay từ đầu rằng kết quả giải đoán đến vận lưu niên là đã có ba lá số chồng lên nhau. Cũng như bài toán lưu cung. Việc chứng minh hoàn toàn không đơn giản. Nhưng chúng ta có thể tạm đồng ý với nhau bởi vì những lý do sau:

-Lý, mệnh và vận phân ly. Cái lý này, như tôi đã có nghe, ngày trước ông VDTT đã có đề cập tới đó là ý kiến của một số tử vi gia Đài cảng. (tôi tôn trọng trình tự thời gian vì nó đã được công bố trước, chứ thực ra cái lý này tôi đã biết từ khi mới bắt đầu học tử vi, rất lâu trước khi sự kiện này được ông VDTT nhắc đến)Theo ý kiến này, sự thiết lập ba lá số chồng lên nhau là tự nhiên, từ đó đương nhiên, người ta có thể xét chỉ một lá số lưu cuối cùng mà thôi. Nhưng sẽ khiên cưỡng, bởi vì từ đó phải tuyệt đối an sao lưu toàn bộ. Nhưng với những sao an theo năm thì còn có thể. Những sao an theo tháng, ngày giờ thì lấy cái gì để an đây?. Chả nhẽ lại suy từ ngũ hành của cung an mệnh vận?. Đây là điều bất khả do tính đa trị cuả nó, cũng như về lý rất khiên cưỡng.

-Lý, mệnh vận liên kết. Sẽ đưa tới sự lược bỏ rất lớn đối với các lá số lưu, khiến chúng ta, suy cho cùng kỳ lý – bởi sự không nắm được bản chất cấu trúc của tử vi – thì sẽ lược bỏ vô tội vạ, cuối cùng thì chẳng có một lá số lưu nào cả, hay chỉ là những cung lưu về mặt hình thức mà thôi.

Nhưng thực tế thì, cả hai lý trên đều đúng. Có điều, nghiêng hẳn bất cứ về cái lý nào, cũng đều cực đoan cả. Trong tử vi luận, khác với lý luận hay lô gíc thông thường của khoa học là khi suy luận giải các bài toán khoa học, người ta thường "làm quá" các giả thiết, hay các chứng cứ, cũng như điều kiện của bài toán để tìm ra lời giải của bài toán, thì tử vi luôn không được phép làm như vậy. Tại sao vậy. Giải thích nôm na rằng làm như vậy là vi phạm cái lý âm dương. Nhưng để hiểu được thì không đơn giản tý nào.

Đây là một điều rất khó cho người viết khoa học về tử vi, bởi mỗi bước đi phải có chứng minh chặt chẽ. Muốn làm được việc đó, cần phải trình bày hệ thống lý thuyết từ "a đến z". Trong một bài như thế này là không thể, chỉ còn có cách là chúng ta cứ phải thừa nhận những điều, ít nhất là có thể xem như rất hiển nhiên mà thôi.

Quay trở lại hai lý trên, chúng ta đương nhiên phải chọn giải pháp "trung dung". Nhưng trung dung tới mức độ nào, lại còn phụ thuộc vào trình độ của tử vi gia. Ở trình độ này, người giải sẽ phải vận dụng thêm nhiều phép phối hợp khác. Một trong các phép đó, chính là bên cạnh lưu cung còn có lưu sao?. Nên nhớ, cung tiểu hạn lưu niên và lưu thái tuế là do tự thân nó có, chứ không phải là sự phối hợp thêm do yêu cầu của bài toán lưu cung.

Theo lý đó, tử vi gia phải thiết lập một sự phối hợp sao cho việc giải đoán các biến cố sao cho biến cố được giải đoán phải có những biến cố không được phép xảy ra nhiều lần trong đời. Chẳng hạn như trong lá số của họ Đặng. Biến cố cha chết bị chặt đầu không thể được xuất hiện từ hai lần trở lên. Đến đây, chứng ta thấy ngay, với lối giải đoán mà tôi trích dẫn trên, chúng ta hoàn toàn có thể tìm ra và thời điểm mà cha ông ta bị chặt đầu, có nghĩa là phải chết vài lần, thậm chí theo kiểu chết không toàn thây.

Thật vậy. Xét ngay trong đại vận ở Hợi cung, lấy năm mậu dần để thể hiện sao lưu chúng ta thấy lý luận của anh ta thế này:

-Năm 1938 mậu dần Đặng 35 tuổi, đại vận đương nhiên nhập cung Hợi, phụ mẫu lưu sẽ ở cung Tý – đúng.

-Năm mậu lưu Kình trực xạ vào cung phụ mẫu lưu tại Tý, gia lưu Đà cùng tang hổ cố định. Lưu Tang hợp chiếu từ thìn cung, gia hội lưu khốc lưu hư từ tam hợp chiếu về Tý cung lưu phụ mẫu. Nên nhớ, Lưu tang ở tam hợp!.

Chúng ta xét 8 năm sau, đó là vào năm Bính Tuất. Lưu Kình Lưu Đà như lưu năm có can Mậu, vì thế ta cũng sẽ nói được, lưu kình trực xạ vào cung Tý nơi phụ mẫu họ Đặng lưu trú 10 năm. Tang Hổ cố định thì đương nhiên 10 năm cha họ Đặng lưu trú ở đó, tất gặp luôn luôn. Năm bính tuất, lưu khốc lưu hư cũng nằm ở thìn và thân cung, chỉ khác chiều là năm mậu dần thì lưu khốc ở thìn, lưu hư ở thân, năm bính tuất thì lưu hư ở thìn còn lưu khốc ở thân. Nhưng lưu Tang lưu hổ thì mới khiếp, nhè ngay cung Tý, nơi cha Đặng ở mà phạm, chứ không tam hợp chiếu mỗi Tang lưu như năm Dần.

-Còn Tiểu hạn, năm Dần rơi vào Mệnh tại cung thân, kêu rằng lưu phụ mẫu theo tiểu hạn là cung Dậu – học không đến nơi đến chốn, lại còn bịa ra chi tiết này – rồi luận ép rằng: Hứng kình đà kỵ kiếp sát thái dương là cách chết cha. Xin hỏi, thái dương đồng cung thái âm, thái dương ở sửu vượng hơn thái âm, sao chết cha mà không chết mẹ?.

Nay xét năm bính tuất, cứ theo cái lý luận đó thì lưu phụ mẫu theo tiểu hạn lưu niên sẽ là cung Tị, xơi luôn Đà Kỵ Thái dương Kiếp sát Kiếp Không (điạ) cùng thiên không hội thêm nhị hao bại địa. (địa kiếp địa không vỗ mặt)

Chúng ta hãy so sánh:

Năm mậu dần và năm bính tuất, những tiêu chí như nhau là lưu kình trực xạ. Nhưng lưu đà cùng tang hổ cố định, tang lưu và khóc hư lưu thì năm bính tuất nặng hơn nhiều, cũng là lưu đà, nhưng tang hổ hội cả lưu tang lưu hổ nhập cung phụ mẫu lưu, đây mới là cách tang tóc (nhưng nếu chỉ như vậy cũng chưa đủ tang tóc xảy ra, huống chi là nhẹ hơn thì càng khó xảy ra). Còn lưu khốc lưu hư thì như nhau. Vậy xét lưu can chi năm thì năm bính tuất nặng hơn năm mậu dần.

Tiểu hạn năm Dần, rơi vào thân cung, thì năm tuất ở thìn cung. Xét về vị trí thì như nhau – nếu không để ý đến triệt. Thực ra triệt ở đây sẽ làm giảm cái xấu đi, còn năm tuất thì không có triệt, nên cái xấu y nguyên. Nhưng thôi, không xét đến triệt nữa. Nếu năm dần, lưu phụ mẫu cung tại dậu hứng kình đà kỵ kiếp sát, thì năm bính tuất lưu phụ mẫu cung sẽ chịu đà kỵ kiếp sát cùng địa không địa kiếp nhị hao, phối hợp với cách tang tóc lưu tang gặp tang, lưu hổ gặp hổ thì dễ quyết đoán tang cha hơn nhiều so với năm mậu dần. Cùng cách thái dương đà kỵ mà không bị triệt ngăn trở. Như thế theo cùng cách xét như nhau, để khỏi ngụy biện vì nó thế này, còn cái kia thì thế khác, chúng ta cũng thấy tiểu hạn lưu phụ mẫu năm bính tuất cũng nặng hơn năm mậu dần. Chúng ta hãy nhớ, năm bính tuất họ Đặng 43 tuổi là năm cuối của cùng đại vận ở Hợi cung, chung đại vận với năm 35 tuổi.

Như thế, theo cái kiểu xem số như trên,trong một đại vận, cha họ Đặng bị chặt đầu ít nhất là hai lần?. Rõ ràng là vô lý.

Chúng ta cứ theo cái kiểu lý luận lưu cung ấy, dù muốn biện bạch kiểu gì thì cũng thấy năm bính tuất nặng hơn năm mậu dần. Nhưng cha họ Đặng chết năm 1938 là thực tế, chúng ta không thể dịch nó sang năm bính tuất để mà nói năm mậu dần nhẹ hơn năm bính tuất, nên cha họ Đặng suýt chết năm mậu dần, mà đến năm bính tuất mới chết.

...

Bây giờ chúng ta quan tâm tới lưu niên tiểu vận.

Có câu hỏi, tại sao xem vận lưu niên lại có lưu niên tiểu vận, mà xem vận 10 năm – ít nhất là như vậy – thì lại không có lưu niên kiểu như tiểu vận vậy?. Tức là xem đại vận 10 năm, chỉ có hai cung, mệnh vận và thái tuế lưu chứ không có ba cung như xem lưu niên vận.

Trả lời câu hỏi này không dễ, nhưng có thể nói đại lược đó là do tính ước lệ của thời gian. Từ cái điểm khác nhau này chúng ta có thể trả lời tiểu vận lưu niên không phải là mệnh vận lưu niên, mà chỉ có đại vận lưu niên mới là mệnh vận lưu niên mà thôi. Đã không là mệnh vận thì làm sao lấy đó để mà xuất hiện thêm lưu cung phụ mẫu được chứ?!.

Cũng có thể có người ngụy biện rằng, năm mậu dần cha Đặng đã chết, thì dù năm bính tuất có nặng hơn thì lấy đâu ra người cha nữa để mà chết. Chẳng có gì đảm bảo là những năm sau năm mậu dần họ Đặng không bị nhiều tai ách nặng hơn?.

Xin thưa rằng, đó là xem mệnh, biến cố tại mệnh, chứ không phải là xem biến cố cho phụ mẫu. Chả thế mà Thái thứ Lang đã nói. Xem hạn chết là phải tìm đến đại vận xấu nhất, rồi tìm đến năm xấu nhất, tiếp tìm đến tháng, rồi ngày, rồi giờ xấu nhất. Tìm đủ như vậy, khi đó mới dám quyết là hạn chết. Bởi vì, cái chết chỉ có một lần thôi. Còn như tìm không được, chỉ trách đó là vì mình tìm không được cái Xấu Nhất mà thôi.

Thân ái.

...

Lưu niên tiểu hạn (và lưu thái tuế) không phải là mệnh vận lưu niên nhưng ta vẫn xét đến nó khi giải đoán cho mệnh. Nhưng khi xem như thế ta có cân nhắc đến ảnh hưởng của các cung tam hợp và xung chiếu của cung lưu niên tiểu hạn (và lưu thái tuế) lên mệnh không ạ?

Tam hợp và xung chiếu là các quan hệ tạp thành cách cục trong tử vi, nó giống như các phép toán trong các công thức toán học vậy. Sau khi cách cục hình thành, người ta mới dùng để luận giải. Cách cục hình thành từ mệnh vận thì luận đoán cho ra thông tin của mệnh tại vận đó. Có câu hỏi xuất hiện tự nhiên rằng: Luận cách từ mệnh vận cho thông tin của mệnh trong vận đó, vậy thì luận cách cục từ LNTH và Thái tuế thì cho ra thông tin về cái gì?.

Đây là câu hỏi tự nhiên, nhưng là câu hỏi mang tính chất rất trừu tượng, do đó mà câu trả lời cũng không thể hy vọng có tính chất rạch ròi, như hai chia hai bằng một được. Ta nên hiểu như thế này.

Phàm những gì được giải đoán từ lá số tất thảy đều thuộc về những biến cố cuộc đời của đương số. Đoán về mệnh vận dài hạn, cũng như mệnh vận ngắn hạn. Có khi đều cho ra những biến cố cụ thể, mà những biến cố đó chỉ xảy ra trong thời gian một năm, thậm chí còn thời gian ít hơn một năm, nghĩa là chỉ vài tháng thôi. Nhưng cho dù chỉ là vài tháng, chúng ta cũng chỉ thấy nó thể hiện trong đại vận 10 năm, vậy mà trong vận một năm hay nhiều năm trong đại vận đó lại chẳng thấy nó xảy ra. Nhưng rồi trong một năm nào đó, và trong năm đó, chỉ có vài tháng là xảy ra. Chúng ta nói rộng ra cho dễ hiểu, chẳng hạn có số nào đó bị tù đày, nhìn trên số tổng quát thấy rõ là số bị tù. Nhưng trong thực tế thì người có số chỉ bị tù vài năm thôi, chứ không bị tù cả đời. Và vài năm đó chỉ xảy ra trong đại vận nhất định nào đó mà thôi. Đó là một thực tế không thể phủ nhận được. Cho nên mới có câu hỏi: Số bị tù, nhưng khi nào mới bị tù?.

Đấy là nói về vận. Còn với LNTH và Lưu thái tuế thì hiểu thế nào?.

Trên tinh thần hiểu như trên khi nói tính tương đối của Vận, thì cái gọi là thông tin từ LNTH và LTT cũng là thông tin về Mệnh tại vận đó. Một sự tổng hợp thông tin có được từ cả ba cung đó, sẽ cho ta một bức tranh toàn diện hơn về các biến cố đối với mệnh trong bối cảnh toàn diện của các quan hệ mọi mặt của đời sống, hơn là khi mà ta chỉ khu trú, giới hạn trong việc xét thông tin mỗi một cung vận của mệnh. Vì thế, khi thấy một cách cục trong một cung, không nên võ đoán vội ra tiêu chí ngay, mà phải xem xét trên tổng thể, nếu thấy chúng xuất hiện với tần xuất nhiều lần thì tiêu chí, hay biến cố sẽ càng chắc chắn xảy ra. Thay vì chỉ có một lần xuất hiện ở một cung, mệnh vận lưu niên chẳng hạn, thì không nên vội kết luận. Điều này càng có ý nghĩa trong hóa giải. Chẳng hạn như mệnh vận lưu niên thấy tai nạn giao thông xảy ra, nhưng tiểu hạn lưu niên lại thấy được hóa giải và lưu thái tuế lại thấy chẳng hạn như vợ con yên bình thì có thể đoán quyết là tai nạn sẽ không xảy ra, mà chỉ hú hồn thôi, hoặc giả tai nạn có xảy ra nhưng nhẹ và được cứu thoát kỳ lạ,... Cho nên gặp những trường hợp đó rất khó nói ra, bởi khi nói ra rất dễ làm trò cười cho thiên hạ nghe giải đoán, hoặc lại bị cho là hù dọa lấy tiền, lấy danh,... mà không nói ra thì...đáng tiếc những trường hợp như thế lại gặp rất nhiều trong giải số.

Trích:

Theo chú viết thì khi xem đại vận thì ngoài mệnh vận còn có lưu thái tuế phải không ạ? Đây là điều mới đối với cháu nên cháu hỏi cho chắc ạ.

Đúng vậy.

Thân ái.

...

Cháu cảm ơn chú nhiều ạ. Chú có thể giải thích kĩ thêm dùm cháu cách xem lưu thái tuế ảnh hưởng đến vợ con như thế nào không ạ? Tại lưu thái tuế không phải là mệnh vận lưu niên nên cháu không biết nó ảnh hưởng thế nào đến các cung khác ngoài mệnh ạ (vì theo cháu hiểu thì phải là mệnh vận hay mệnh vận lưu niên mới có các cung lưu, không biết cháu có hiểu sai không). Có phải là mình cũng chồng nó vào mệnh vận (cung đại vận) không ạ?

Vận dụng giải đoán bằng cung lưu thái tuế cũng như các cung vận là không đơn giản, cần phải được trải qua nhiều kinh nghiệm để rèn luyện kỹ năng mới có thể hiểu thấu được những gì thu được, rằng tại sao lại đoán như thế, tại sao lại là cách cục này mà không phải cách cục kia và trên hết là tại sao đối với cùng một lá số, hai người sinh đôi, hay cùng một lá số mà khi giải đoán lại thấy giải đoán mỗi khác, đồng thời phối hợp chế hóa các cách cục trên các cung vận khác nhau để luận đoán.

Vì thế, câu hỏi của cháu muốn trả lời được cần phải thông qua những trường hợp cụ thể, sau khi thực sự luận giải được vài trường hợp, người học giải số sẽ nhận thức được vấn đề.

Cho nên, trong chủ đề này, chú cũng đã có ý định đi vào phân tích - phân tích chứ không phản biện - những bài luận của các ông TTH và TV do ông VDTT đăng trên TVLS, nhằm mục đích cho các Bạn học tử vi hiểu được những kiến thức mà các ông ấy phô bày, dù rằng là đơn sơ. Đồng thời, trong quá trình phân tích, chú cũng sẽ cố gắng trình bày các phương hướng khả dĩ phát triển - mà có thể các vị đó cũng đã đạt được rồi - về kỹ thuật luận giải và những lý luận phát khởi.

Từ từ rồi chú sẽ viết ra.

Trích:

Có phải là mình cũng chồng nó vào mệnh vận (cung đại vận) không ạ?

Không ai làm thế cả.

Thân ái.

...

Chúng ta hãy lưu ý. Đây là cuộc đàm thoại về tử vi. Có hỏi và đáp. Nhưng ngay từ đầu bài phrng vấn này, chúng ta không thấy câu hỏi của anh Lý, mà là câu trả lời của ông TV.

Trích:

Đáp: “Tại sao không lấy nổi vợ? Số này giả như sinh sớm một hoa giáp, chỉ cần gia thế trung đẳng, người không tàn tật thì đã kết hôn trong hạn Giáp Dần (hạn thê đắc song Lộc giáp Lộc) (dgc: đây hạn Giáp Liêm hóa Lộc chiếu vào cung Hợi VCD thành thử Tí là hạn thê có Lộc Tồn nguyên thủy đắc hóa Lộc nguyên thủy và đại hạn Lộc giáp). Nhưng ông này sinh vào thời hiện đại, lại học bác sĩ, khi còn đi học thì chuyện hôn nhân sớm nhất phải chờ đến khi tốt nghiệp là hạn Ất Sửu, sau khi vào xã hội làm bác sĩ. Nghĩa là sớm nhất hạn Ất Sửu mới kết hôn. Đó là vì thời đại khác nhau, dính líu đến tao ngộ cá nhân, chẳng thể quy hết vào mệnh lý”.

Tôi không nghĩ là anh Lý chưa kịp hỏi thì ông TV đã Đáp rồi. Nên chắc là có một câu hỏi trước đó đã khiến cho ông TV quyết đoán là BS Dương cho đến thời điểm của cuộc trao đổi là chưa có vợ!. Xét lá số, thấy ngay - như theo bài thì thấy thời điểm đó là năm 1987 - là BS Dương khi ấy cỡ 35 tuổi (tuổi ta). Một người cỡ 35 tuổi, lại là BS, tức là có danh vị trong xã hội, theo anh lý nói lại không đui què mẻ sứt gì, gia thế cũng khá - giảm chút cho chắc, hơi khá - mà vẫn chưa có vợ thì đương nhiên cái chuyện thành gia lập thất của vị BS này có vấn đề. Lẽ tự nhiên ông TV phải xem xét xem hai đại vận 12-21 và 22-31 như thế nfao, nhằm giải thích tại sao hai đại vận ấy chưa có vợ.

Trước hết hãy xét đại vận 12-21.

Phàm xem số, các tử vi gia có chút kinh nghiệm, hay có chút trình độ, khi khán hôn nhân, phải hiểu nằm lòng quy tắc đơn giản sau:

Nói đến hôn nhân, về đại vận, hạn hôn nhân mạnh nhất, có sức thành tựu lớn nhất phải chính là đại vận nhập cung phu/thê hay phúc cung. Khi đó, chỉ cần có dấu hiệu, dù là nhỏ về các tiêu chí hôn nhân, mà mệnh không phá vỡ nó thì tất sẽ có kết quả thành gia lập thất. Vì thế các tử vi gia khi giải đoán đoán hôn nhân trong giai đoạn này thường rất ứng và tương đối dễ dàng.

Nhưng ngoài đại vận này, đoán hôn nhân thuộc các đại vận khác thường rất khó, phải hội tụ nhiều tiêu chí về hôn nhân mới có thể đoán định nổi. Như đã nói ở trên, tình hình đó, thoạt tiên ông TV đã loại trừ được hai đại vận trước năm 32 tuổi là BS Dương chưa có hôn nhân. Vậy thì phải xem xét đại vận từ 32 trở đi. Nhưng một người cẩn thận vẫn phải xem xét hai đại vận trước đó để giải thích cái đáp án đã có sẵn là chàng BS này chưa vợ!.

Điểm thứ hai, bao giờ cũng phải khán Mệnh cái đã. Có khán mệnh mới xem xét nổi các Vận, nếu không thì chỉ là đoán mò, hay rơi vào quan điểm của phái Mệnh - Vận phân ly. Mà ông TV thì không thuộc phái này. (cần nhớ rằng, nói mệnh là phải hiểu đó là tổ hợp mệnh - thân) Vì thế theo ông TV, thấy rằng Thân cư Thê. Ông Tv theo quan điểm bỏ Triệt, vì thế thân tại thê có cách như ông TV đã liệt kê: Tử Phá được cát hóa nên quan niệm về hôn nhân mạnh mẽ. Tại sao nói là cát hóa?. Trường hợp này ông TV thấy Phá hóa Lộc, tử phá thành cách. Vốn Tử Phá bán hung bán cát, gia Kình dương thì hung đa cát thiểu, nói về hôn nhân thì đó là một trở ngại, gặp gỡ dễ thành, nhưng tiến xa thì dễ vỡ. Đồng thời cũng biểu hiện là người dạn dĩ với vấn đề hôn nhân, hoàn toàn không phải là người nhút nhát, e dè thổ lộ tình cảm cảm với người khác phái, mà trái lại có phần mạnh dạn, nhanh nhảu. Khi gia hội thêm liêm tham kỵ thì tính này càng mạnh mẽ, nhiều khi chỉ cần nhận thấy đối phương có chút tình ý với mình, hay có chút hòa ái là đã muốn tiến nhanh tiến mạnh rồi. Tử phá hóa lộc là hóa cát chứ không là hung, nên những vấn đề trên sẽ không còn tính "hung bạo" khiến cho đối phương phải chạy, hay phản ứng ngược lại làm cho cho đương số bẽ mặt, hoặc giả phải chắp vá với loại chả ra gì mà trái lại, mạnh dạn nhưng cố chấp, định kiến. Nói một cách dân dã là khá số sàng nhưng lại xét nét. Thành ra rất bất lọii với những cuộc tình mang tính luyến ái, tìm hiểu.... chỉ thuận cho những cuộc tình mì ăn liền, đồng ý cái rụp. BS Dương, xét về mệnh thân và thông tin từ Lý có thể cho phép ông TV khẳng định BS Dương không phải là loại" mèo mả gà đồng" mà cũng là người có danh và giá. Vì vậy, chỉ có những cuộc tình đồng ý cái rụp là dễ thành.

Trên cơ sở như thế, đại vận 12-21, chúng ta thấy, như ông TV xác định đó là đại vận Giáp dần. Giáp thì liêm hóa lộc, hội với thê cung cố định thành cách song lộc hội hợp, lộc tồn nhập cung Dần giáp với thê cung, cùng với tuồi quý lộc tồn tại Tý nên thê cung thành cách giáp lộc và song lộc hội chiếu. Đó là cách hay với người theo quan điểm bỏ quyền - khoa không xét. Lại thấy có Đào Hồng Thanh long, thái dương hóa kỵ thành cách Thanh long Hóa kỵ thì có thể nói hội đủ điều kiện thành gia lập thất. Nhất là người có gia thế như BS Dương. Thái tuế lưu cũng nhập cùng cung đại vận mà thành cách. Nên cách thành gia lập thất càng mạnh mẽ.

Nhưng trên thực tế thì BS Dương lại chưa có vợ, không thành gia thất trong hạn này. Vậy chỉ có thể giải thích - theo ông TV, đó là do cá tính mạnh và xét nét cùng với thời đại khiến ông coi trọng sự nghiệp. Vì sự nghiệp chưa thành nên chuyện lấy vợ "hãy để lại đã, chưa muộn" đồng thời có có ý "mắt cao quá đầu" nên đại vận có cơ hội mạnh mẽ về hôn nhân đã bị bỏ qua.

Kết luận này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của ông TV, rằng cách cục trên tử vi chỉ là "hình thái ý thức", vì thế cái hình thái ý thức này đã bị quan niệm của chính đương số "làm hỏng", nên đại vận này không có hôn nhân là vì vậy.

(còn tiếp).

Chú ý: Tôi chỉ diễn dịch để mọi người hiểu ý ông TV, chứ không phản biện đúng - sai, nên không có ý kiến riêng của tôi trong các giải đoán này.

Thân ái.

...

Trước khi diễn dịch tiếp những câu Đáp của ông TV, tôi xin lưu ý với quý bạn đọc rằng sự diễn dịch của tôi dựa trên quy tắc suy diễn theo một trật tự có xác xuất lớn nhất, chứ không phải là sự diễn dịch theo những lô gíc nhất định. Bởi lẽ lô gíc của tư duy tuy rằng có những quy tắc chính xác, song cũng có tính tương đối và định xứ. Chẳng hạn như nói, toán học có lô gíc của toán học, sinh học có lô gíc của sinh học, kinh doanh có lô gíc của kinh doanh - như là lô gíc của toán học thì 2 công với 2 đương nhiên phải bằng 4, anh A khác anh B thì không thể anh vừa là anh A vừa là anh B mà chỉ có thể là hoặc anh A hoặc anh B. Lô gíc của sinh học thì có "cá lớn nuốt cá bé", cá thể A mạnh hơn cá thể B thì cá thể A sẽ cạnh tranh thắng cá thể B. Lô gíc của kinh doanh là không có ai là bạn vĩnh viễn và cũng chẳng bao giờ có kẻ thù vĩnh cửu, kẻ có lợi cho ta thì ta gần, kẻ có hại cho ta thì cần tránh xa - xã hội có lô gíc của xã hội,... và theo đó, đương nhiên anh Khùng cũng có cái lô gíc riêng. Đem cái lô gíc này áp chế loại trừ cái lô gíc kia là điều không dễ, cũng khó chấp nhận và cũng chưa chắc đã phải là chân lý.

Vì thế, nếu như ông TV có quá nhiều dị biệt trong tư duy thì lẽ đương nhiên tôi không dám cho rằng những diễn dịch của tôi gần đúng với ý của ông TV. Khi đó, phiền đến các bạn, muốn hiểu được ông TV, cần phải có những suy luận khác thường tới mức - nhưng ông ta lại không trình bày - cỡ như vất tuần triệt, bỏ quyền khoa (nhưng trường hợp này ông ta đã trình bày, nên chúng ta theo đó đã ước lượng được những tầm vóc và chiều hướng suy luận cũng như kiến thức của ông ta. Khả dĩ suy đoán được những hướng suy luận của ông ta.

Vì thế, trong khuôn khổ những gì chúng ta có thể biết được từ ông ta - do đã được trình bày - thì những diễn dịch của tôi, có thể cố gắng được ở mức có xác xuất cao nhât.

Thân ái.

Lý thuyết cung trọng điểm

Gấu Trắng viết tiếp đi.

Ở diễn đàn này, mỗi khi thảo luận học thuật cũng khá buồn tẻ. Ở bên TVLS thì lại quá nhiều rác. Có gấu trắng tham gia, hy vọng sẽ sôi nổi thêm.

Nghiên cứu tử vi, cũng như đông phương học nói chung, người ta rất trọng Lý. vậy mới nói: Lý học đông phương. Nhưng cái Lý này nó như... có chân. Nắm bắt được nó không dễ.

Lý thuyết cung trọng điểm. Có nghĩa là trong nhiều cung khi giải đoán có liên hệ với đối tượng, biến cố giải đoán mà ta quan tâm tới, vốn ta không thể hay không có khả năng đồng thời khảo sát tất cả các cung đó để đưa tới những giải đoán xác định. Nguyên nhân có thể là do khả năng, hoặc do bản chất của phép giải đoán phải tồn tại cái gọi là cung trọng điểm. Nếu là nguyên nhân thứ nhất, tự nhiên lý cung trọng điểm không có ý nghĩa và sự nghiên cứu lý thuyết cung trọng điểm chẳng có giá trị gì. Nếu là nguyên nhân thứ hai, lý thuyết cung trọng điểm trở nên xác đáng. Nhưng điều này không hề được chứng minh. Những người nghiên cứ khi nghiên cứu nó cũng không thấy đề cập đến lý do phải nghiên cứu cung trọng điểm, mà cứ mặc nhiên là phải có cung trọng điểm, rồi lao đầu vào nghiên cứu nó. Đó là việc làm thiếu sót đáng trách của người nghiên cứu. Nó khiến cho tử vi ngày càng nhiều lỗ hổng, và những lỗ hổng đã có ngày càng to ra.

Sự thật, khi giải đoán, ví dụ giải đoán vận hạn. Ta giả sử việc cần giải đoán là có thể phân loại, như thuộc về sự nghiệp, tiền bạc, quan hệ,...và thậm chí, việc giải đoán chỉ biết là việc, như kiện cáo, tù đày, thị phi, tranh chấp,... giải đoán vào việc, rõ ràng chúng ta phải quan tâm tới vận hạn. Như ví dụ trên, hạn vào đại vận canh tý. lưu niên hạn tại tuất. đương nhiên ta thấy ngay có những cung tham gia vào giải đoán là tuất cung, tý cung, thìn cung, cung lưu niên đại hạn, cung lưu niên tiểu hạn, cung mệnh nguyên thủy, cung quan nguyên thủy. Đó là những cung trực tiếp. còn những cung gián tiếp nhưng có ý nghĩa bao trùm, nhiều khi quyết định thành bại của việc giải đoán. Vì thế thực tế cung liên quan đến giải đoán, về lý tự nhiên nhiều lên rất nhiều. số lượng cung càng nhiều, giải đoán càng phức tạp. nếu thêm sao lưu nữa thì càng nhiều sao lưu thì các cung chứa chấp nó cũng bị lôi cuốn vào việc giải đoán. Xuất phát từ thực tế này thì đương nhiên người giải tử vi phải nghĩ tới là làm giảm tối đa sự phức tạp do quá nhiều cung liên hệ. Đây là giải pháp thường lý. Có thể đúng, có thể sai. Nên muốn khẳng định nó là đúng đắn thì phải chứng minh, phải lập luận có lý.

Thế nhưng việc quy thành cung trọng điểm, nhiều trường hợp tự nhiên thành. Như ví dụ trên, khi nhập hạn canh tý, đương nhiên cung thìn là quan vận. việc giải đoán liên quan điến quan nghiệp, đương nhiên phải lấy quan vận cung, quan cung trong sự phối chiếu của các cung tam hợp, xung chiếu - như là lẽ thường tình, một nguyên tắc bất di dịch. Nguyên như vậy, ít nhất đã thấy có 8 cung tham gia luận đoán. không tính đến nhị hợp cung mà đã như vậy. Vì thế thực tế việc lấy cung trọng điểm, mà nếu luận đoán hợp lý, thì như trên đã thấy, thực chẳng có ý nghĩa gì. cho dù ta cứ phát biểu rằng chỉ có hai cung là trọng điểm mà thôi. Rõ ràng, nếu cứ cho là phải có cung trọng điểm, nhưng thực tế giải đoán, chúng ta chẳng thu được cung trọng điểm gì cả. Chưa nói đến áp dụng thái tuế nhập quái thì cung có thái tuế nhập không bỏ qua.

Cho nên, theo tôi, nói là cung trọng điểm, nhưng thực chất chẳng có trọng điểm gì cả. Đó chỉ là phép nói chữ, tự mình làm quan trọng hóa phương pháp bằng ngôn ngữ mà thôi.

Thực chất, muốn giải đoán, phải theo đúng phương pháp về cách cục, chế hóa một cách toàn diện, chứ không thể áp dụng những suy diễn thường lý mà ép cho lý số phải thực hiện những suy nghĩ thường lý đó. Đó là phương pháp sai trong nghiên cứu tử thường rất hay gặp.

Thân ái.

...

Tôi phân tích cho rõ để thấy bản chất của vấn đề nhé.

Trích:

(1) hai người quen nhau năm Ất Hợi.

(2) Bạn gái sinh năm Mậu Thân, nhập vào lá số của B, chúng ta sẽ tìm ra được cung trọng điểm đối với chuyện tình cảm này là cung Thân.

Lý do như sau:

1. Hiện nay là đại hạn Canh Tuất, can Canh Thái Dương hóa lộc do Tý hội nhập đại hạn phu thê cung Thân, khiến nó được cát hóa (trở nên tốt lành).

2. Năm kia (Ất Hợi) quen nhau, can Ất Thiên cơ hóa lộc cũng do cung Dần hội nhập cung Thân.

3. Bạn gái sinh năm Mậu Thân, đem nhập vào lá số, thủ tọa cung Thân của lá số.

4. Vào đại hạn khi quen nhau cũng như năm quen nhau, thiên can hóa lộc ảnh hưởng mạnh nhất là cung phu thê của đại hạn còn cung phu thê tiên thiên cũng như lưu niên đều không có biểu hiện rõ ràng. Thêm vào đó, cung vị nhập quái của bạn gái cũng là cung Thân. Vì thế, chúng ta nên chọn cung Thân là cung trọng điểm để đi sâu phân tích.

Đại vận canh tuất, đương nhiên phu thê vận là cung thân! Vì thế khi xét vấn đề liên quan đến hôn nhân bắt buộc phải xét phu thê vận.

Đại vận Canh thái dương hóa lộc tại Tý chiếu lên cung thân, lý rằng bảo đó là tốt - cát hóa - thì không có mấy chất lượng, bởi vì thái dương hóa lộc mà tốt thì tại mệnh tốt hơn nhiều so với cái cung vận - thân cung. Hà cớ gì lại bảo cung thân tốt do thái dương được cát hóa. Đương nhiên thái dương chiếu lên thân cung thì thân cung cũng được "hưởng" do nó là vô chính diệu được thái dương chiếu theo lý tọa không bằng chiếu của nhật nguyệt. Nhưng thực thì không phải bởi vì thái dương ở tý là hãm địa, cái lý tọa không bằng chiếu chỉ đúng với chính nhật nguyệt, chứ khi đã hóa rồi thì thái dương không còn nguyên vẹn là thái dương nữa, nên cái lý tọa không bằng chiếu không chính xác. hơn nữa, nếu tọa không bằng chiếu thì thái dương hãm chiếu lên thân cung vcd sẽ làm thân cung kém đi. Suy lý thì phải như vậy, nhưng tôi cũng không cần đến cái lý đó vẫn có thể cho thấy lấy thân cung làm trọng điểm chẳng có cơ sở.

Lại thấy thiên cơ hóa lộc thì cho rằng thân cung tốt lên, nhưng thiên cơ tại dần hóa cát mà tốt thì dần cung tốt hay hơn là thân cung tôt. bởi cùng lúc nó chiếu thân cung - phu thê vận - lại chiếu tam hợp cung phu thê cố định. Hà cớ gì lại cứ phải lấy cung thân cho được, mà không thấy cung dần hay hơn, hơn nữa cung dần chính là phúc cung cố định, đồng thời tam hợp với thê cung cố định thì khi sáng sủa phạm vi tác động của nó rộng hơn rất nhiều, nên những cách cục tốt xuất hiện ở nó sẽ cho thấy dễ dàng hơn, và việc luận đoán cũng rõ ràng hơn nhiều, thay vì thân cung cứ phải cố ép cho nó là tốt.

Điểm nữa vô cùng quan trọng là tất cả những cái gì gọi là hóa cát, là tốt thực thì chỉ là những cái tốt chung chung, chẳng liên hệ gì với những cách cục hôn nhân, tình cảm yêu đương trai gái cả. Nếu cứ dựa vào những cách cục đó để mà giải đoán những tiêu chí hôn nhân, tình cảm thì đúng chỉ là bói dựa, nói mò thôi. Muốn giải đoán về hôn nhân, bắt buộc phải tìm đến cách cục hôn nhân, tình cảm, cách cục về hạnh phúc gia đình, về dịch chuyển. Chứ các cách cục trên chỉ là cách cục được hóa cát - đấy là ép cho rằng chúng hóa cát, chứ thực ra có hóa cát thật hay không thì phải xem cụ thể, chứ không phải thấy hóa lộc, quyền khoa rồi cho là hoa cát, hóa thành kỵ thì cho hóa hung đâu! xét phiến diện như vậy thì hoàn toàn sai lầm.

Vì thế những lý do biện minh cho việc lấy thân cung làm cung trọng điểm không đủ trọng lượng. Thêm nữa khi giải đoán, thực chất vẫn phải lấy các cung tam hợp và xung chiếu của nó, mà chính những cung đó mới là những cung gốc của cái tốt, chứ không phải cái cung thân mới là cung tốt. duy nhất phải chú trọng thân cung vì cô gái tuổi thân, phu thê vận nhập thân cung. Nhưng như thế, việc lấy thân cung để giải đoán là đương nhiên, cũng như các cung nhập vận khác, chẳng phải vì thế mà bảo nó là cung trọng điểm.

Thân ái.

...

Tử Vi chế được tính hung ác của Hỏa, Linh. Đây có phải cái lý "chế" mà chú muốn nói đến? Nếu như vậy thì vì sao Tử Vi lại chế được Hỏa, Linh? Nếu lấy lý ngũ hành, Hỏa Linh là hành hỏa sinh xuất cho Tử Vi hành thổ nên bị Tử Vi khắc chế, nếu vậy tại sao Tử Vi lại sợ Không Kiếp?

Còn "hóa" phải chăng chú muốn nói đến Tứ hóa.

Tử vi đúng là chế được hỏa - linh, là một ví dụ về cái gọi là chế!

Nhưng sự Chế không phải là cái lý sinh khắc của ngũ hành. Rất cần phải lúu ý tới vấn đề này. Đừng nghĩ rằng cái cực chế nó có bản chất khắc chế của ngũ hành. Ngay cả chuyện như chuyện khắc chế tam hợp của ngũ hành như phái thiên lương phát biểu là hoàn toàn không hiểu gì về bản chất tương tác của ngũ hành. Ngũ hành có sinh có khắc. Như hóa - thủy khắc nhau, thì người ta nói thủy khắc hỏa. Đó là khi thủy hỏa Gặp nhau thì cái sự khắc mới xảy ra. Chứ trên thiên bàn lá số, tam hợp, chẳng hạn thân - tý - thì là thủy, dần - ngọ - tuất là hỏa mà lại bảo là thân tý thìn khắc thắng dần ngọ tuất? Thế nào là khắc thắng? chúng có gặp nhau đâu mà khắc. Vận hành của chúng là vận hành theo cung số, chứ đâu có trực tiếp khắc nhau đâu. Như vận hành của bốn mùa vậy! Theo vận hành đó, sinh khắc đều tác dụng, nhờ vậy mà bốn mùa biến hóa. Có đúng vậy không! Vì thế mà khi cố gắng áp dụng cái lý sai trái đó vào gaiir đoán, như nói, do thủy khắc hỏa, nên nếu mệnh ở trong tam hợp hỏa thì thua thiên ri ở trong tam hợp thủy. Vì thế người có mệnh như vậy thì ra ngoài sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi, thua thiệt.

Đó là những giải đoán không thực. Hoàn toàn mang tính chủ quan, xuất phát từ nhận thức sai lầm.

Thân ái.

...

Tôi có lưu ý nhỏ với các bạn quan tâm tới lý mệnh chủ;

Trước hết cần hiểu rằng, mệnh chủ – có thể gọi là sao treo, trong một nghĩa hẹp – không phải, và cũng không dùng để ĐOÁN số, mà chỉ được dùng để GIẢI số. Nên khi các bạn thấy tôi xác định được mệnh chủ rồi thì chớ có dùng nó luôn để phục vụ cho việc đoán số, như đoán hạn, đoán việc, đoán hôn nhân, đoán thăng quan tiến chức, đoán phát tài,... chúng ngẫu nhiên được dùng, là bởi vì trong một số trường hợp, nó trùng với chủ cung, hay sao rung mà thôi. Lưu ý này rất quan trọng!

Sao rung khi Rung, không phụ thuộc vào vị trí nó đóng mà phụ thuộc vào vận trình. Vì thế, ở bất cứ cung nào, ở mỗi vận đều có thể xuất hiện sao rung. Không cần cung đó có là cung trọng điểm hay không trọng điểm. Không cần cung đó có liên hệ với cái cung có cái tên liên hệ với việc luận đoán hay không! Chảng hạn, sao rung có thể ở cung nô vận mà không nhất thiết xuất hiện ở cung quan vận cho dù ta đang xét về sự nghiệp. Hoặc cũng cùng một lúc trên nhiều cung, kể cả cung nguyên thủy, cũng như cung nhập vận đều có thể xuất hiện sao rung.

Về nguyên tắc, lý mệnh chủ có thể "hòa nhập" vào hầu hết các phép giải đoán. Cho nên, cung trọng điểm, nếu tồn tại thì sao rung cũng hoàn toàn có thể xuất hiện trong cung trọng điểm. Nhưng nếu lý cung trọng điểm đúng, đương nhiên phải có một mệnh đề: Ở mỗi cung trọng điểm, sao rung chắc chắn sẽ xuất hiện.

Một khi lý cung trọng điểm đúng đắn, thì mệnh đề trên sẽ rất quan trọng, có vai trò như một định lý vậy!

Vì thế, điểm quan trọng là phải chứng minh: Thật sự có cung trọng điểm!

Việc xem xét cung vị như là một sao, đứng về ý tưởng, có thể xem là đột phá. Nhưng về lý thuyết, thật khó chấp nhận. Chúng ta có thể chứng thực được, bằng hình ảnh sau: xét vật thể chuyển động trong không thời gian. Để xác định trạng thái của vật – cơ học cổ điển – thì ta phải có một cặp tọa độ và tốc độ của vật được xác định. Việc đồng nhất cung với sao chẳng khác gì ta đem đồng nhất vật thể chuyển động với tọa độ không gian mà không lý gì đến chuyển động của nó. Nôm na là như vậy. Chưa nói đến đối với lý học đông phương, những quan hệ như vậy thì biện chứng hơn rất nhiều so với quan hệ siêu hình như thế trong cơ học cổ điển. Chúng biện chứng tới mức, có trời mà cũng có ta!

Thực chất, phép luận giải theo cung trọng điểm, nếu tồn tại, thì sẽ làm đơn giản bài toán giải đoán số tử vi đi rất nhiều. Nếu xem xét nó bằng tư duy vật lý thì chẳng khác gì ta giải bài toán nhiều vật bằng lý thuyết trường hiệu dụng vậy! Vì thế nếu như muốn học, hay nghiên cứu về cách giải đoán tử vi, với những người cứ tự nhiên cho rằng nó có cung trọng điểm thì mặc nhiên nghiên cứu. Với những người thận trọng, mỗi bước đi là một bước khẳng định, thì việc khẳng định sự tồn tại của nó là bước khởi sự!

Nhưng muốn khẳng định, đòi hỏi người nghiên cứu, hay giải đoán phải nắm vũng kiến thức tử vi, kỹ thuật giải đoán cơ bản. Có như thế mới có thể có nền tảng để phán xét.

Như nói về cô Kha!

Chúng ta hãy đọc bài dịch của gấu trắng. Thông tin về cô Kha cho thấy cô ta là người thoải mái trong chuyện tình cảm, có tính đồi hỏi cao trong chuyện chăn gối. Trong giao tiếp thì cởi mở như đàn ông... tựu trung, nhìn trên lá số, ta không cần phải vận dụng đến lý mệnh chủ, cũng không cần phải thái tuế nhập quái, hay lưu tứ hóa,...mà chỉ bằng phép hội sao thông thường cũng có thể phân tích được lá số này một cách khá kỹ lưỡng. Hơn nữa, nếu chúng ta đọc kỹ về lý luận các sao, cách cục của tác giả này thì chúng ta sẽ phát hiện thấy kiến thức về tinh đẩu của ông ta có vấn đề. Vì thế trong nhiều trường hợp, biến cố cũng như tính tình của cô Kha đã rõ ràng và rất tự nhiên thì tác giả lại thấy cứ như là mới, sau khi luận ra, lại cứ tưởng đó là kiến thức mới lạ, do mình sáng tạo ra vậy.

Thật vậy, như nói về sao tham lang. Vốn tham lang là Phiếm Thủy Đào Hoa. Là một Đào hoa tinh với tính chất của đào hoa hội với riêu, hình thậm chí trong nhiều trường hợp gia giảm còn mang thêm tính chất hội tụ của kình đà nữa. Bởi vậy, cách tử tham, thì chúng ta đều rõ là tử vi bị tham lang làm hỏng, nên mới nói đào hoa phạm chủ. Tự nhiên với cách này, thân cư thiên ri là người hướng ngoại, ngộ kình dương hãm địa thì làm tình có phần phóng túng, có thể nói là Dâm, thậm chí việc làm tình có tính chủ động và bạo. Anh chàng nào yếu bóng vía mà gặp cô này thì chỉ được ba bữa là chạy mất dép, hi hi... Trong tam hợp thấy cô quả hội đủ sát phá liêm tham gia thêm đào hoa, kình tại thiên ri thân cư thì khỏi cần nói ai sống với cô này cũng hoảng tam tinh, chạy như thoát hoan chui ống đồng ba năm sau cũng còn tim đập chân run, chứ đừng nói là ở chung với cô ta. Thêm nữa xương khúc gặp triệt lại ở quan nữa thì cái nghề cua trai cũng là một sở thích mang tính nghề nghiệp, nhưng sự bất như ý - bởi triệt – thì tính lãng mạn do xương khúc quy định càng mất đi, lòng dục lại càng bốc cao, sự thực dụng lại càng mạnh mẽ. Tính chất này mà mang vào đời sống chức nghiệp thì nó lại càng ghê rợn, khiến người ta phải xa lánh. Vì thế cô ta dính cô quả, hội hợp với các cách cục trên là cái sự cô độc của "trái táo thối" chứ đâu có hàm oan cái gì. Lại thêm kình đẩu quân thì tính tình lại càng khắc nghiệt, hành động càng bất chấp đạo lý. Cứ xem xét cụ thể thì càng thấy có nhiều cách cục hội tụ làm gia tăng ý nghĩa này của cô ta. Nếu ta lấy mỗi cung nệnh là cung trọng điểm mà phớt lưof các cung khác thì thực khi giải đoán đã bỏ sót rất nhiều đặc trưng của con người này, cũng từ đó đi đến khó có thể giải đoán được những uẩn khúc trong con người cô ta, cũng như việc xem xét vận hạn sẽ rơi vào phiến diện vậy.

Ta thấy những kiến thức trên hoàn toàn phổ thông, là những kiến thức có sẵn, hoàn toàn không mới, nhưng tác giả lại luận giải cứ như là những kiến thức mới, từ việc xem tham lang như sinh ra tính đào hoa, nào là tử vi thiếu vắng tả hữu khó tránh khỏi làm việc cô độc, trong khi đó thì cô quả, đẩu quân hội tụ đầy đủ. Mà thực chất tử vi dẫu có thiếu vắng tả hữu đi nữa thì cũng là đế tinh, bản chất của nó là người nào ăn vào sao này đều có tính quảng đại, quần chúng. Có tả hữu giúp vào thì trở thành người lãnh đạo, có tinh thần xã hội cao, luôn có quần thần, người trợ thủ đắc lực. Chứ không phải thiếu vắng là trở thành người cô độc!. Cần chú ý điểm này vì rất dễ đưa người giải đoán đến chỗ nhầm lẫn lung tung, không phân biệt được chính xác tính tình, hay thái độ, cũng như tư cách của đương số.

Cho thấy việc cố ép cho có một hay hai cung trọng điểm gì đó tự nhiên xuất hiện rất nhiều bất cập trong giải đoán, cũng như ngộ nhận nhiều về lý thuyết, kiến thức tử vi vì thế cũng bị tự mình bóp méo mà không biết!

Thân ái

...

Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, khi giải đoán, trong rất nhiều cung liên quan người ta nhận thấy có một số biến cố, thông tin về đương số lại thấy đầy đủ khi khảo sát trên một cung trong số các cung liên quan. Có lẽ vì thế mà có sự suy đoán về sự tồn tại của cung trọng điểm chăng?

Có điều từ một vài trường hợp như thế, việc suy tổng quát mà không chứng minh là một việc thiếu thận trọng. Và như chúng ta đã thấy, có thể đưa đến sai lầm, ngộ nhận trong việc giải đoán. Thậm chí do gượng ép mà nảy sinh ra những quái thuyết!

Thân ái.

...

Chú Vuivui có thể giải thích cho cháu hiểu sự khác nhau giữa GIẢI số và ĐOÁN số từ quan điểm của lý thuyết Mệnh Chủ được không, vì rằng cháu thường nghĩ về giải và đoán là một, có điều giải là nói về quá khứ, đoán là nói về tuơng lai.

Vì rằng cháu rất quan tâm và tò mò về lý thuyết sao rung, nhưng không biết chỗ nào để có thể học về nó, chú có thể kiểm định một giả thuyết như sau:"Trong lá số, cung trọng điểm chính là cung mà sao treo/rung xuất hiện.".

Giải, là quá trình tìm ra cách cục để đoán. Bởi như đã nói, giải đoán tử vi thế nào cũng phải tìm cho ra những cách cục để mà luận được số. Cũng như giải một bài toán vật lý vậy, kiểu gì cũng phải tìm được nghiệm hay đáp số của bài toán.

Đoán, là lý luận, tìm ý nghĩa, thông tin trên cách cục đã được tìm ra đó. Như dựa trên công thức nghiệm của bài toán mà ta đi phân tích ý nghĩa của nó.

Chỉ thế thôi, nhưng từ trước đến nay, mọi người cứ hay gộp chúng làm một, không để ý đến điều tự nhiên này.

Lý thuyết sao rung là của phái đông a, như đã biết, phái này giấu tuyệt các tri thức về tử vi của họ. Ngày trước, tiền nhân tôi, không biết có học được từ phái này không, tôi không được biết. Nhưng tôi được truyền lại, và sau đó phát triển. Kể thì cũng xem như là của gia truyền vậy. Khi tiền nhân mất đi, cũng không cho phép công khai những gì tôi được học. Nay chỉ có thể nói ra những gì thuộc về vòng ngoài cùng, cũng như là câu chuyện trà dư tửu hậu vậy. Để cho mọi người biết là... có cái ấy, chứ không thể hiểu được nó là cái gì vậy.

Mà tôi cũng nói thực, có muốn hiểu thì cũng phải học tới mấy tầng lý học đông phương mới có thể năm được phương pháp. Cho nên, thực cũng áy náy khi nói ra những điều này mà không giúp gì được. Nhất là những người như Gấu Trắng, có lòng với học thuật đông phương. Hơn nữa lại cùng nghề với tôi, mà tôi thì biết rằng nếu thấm nhuần lý học đông phương thì với kiến thức vật lý toán của gấu trắng, chắc chắn cống hiến khoa học vật lý cũng như triết học sẽ rất nhiều. Đơn cử như trả lời câu hỏi: Thời gian là gì?.

Quả thực, tôi, lực bất tòng tâm.

Thân ái.

...

Giả thuyết như sau:"Trong lá số, cung trọng điểm chính là cung mà sao treo/rung xuất hiện.".

Nên sửa một chút: Bỏ chữ sao treo.

Về hình thức thì giả thuyết này cũng hợp lý. Thậm chí nó còn mạnh hơn mệnh đề: Ở mỗi cung trọng điểm chắc chắn có sao rung xuất hiện. Bởi vì giả thiết trên dựa vào sự tồn tại của sao rung mà khẳng định về cung trọng điểm. Trong khi mệnh đề chỉ đúng khi mà có sự tồn tại của cung trọng điểm mà thôi. Cho nên nói, về hình thức khi chấp nhận cung trọng điểm thì giả thuyết của gấu trắng cần phải xem khái niệm cung trọng điểm mạnh hơn khái niệm sao rung, khi ấy thuyết này mới có ý nghĩa.

Nhưng như thế, trong nhiều trường hợp thực tế, một sự việc, hay biến cố - nôm na là thông tin - lại không thể dùng một cung mà giải đoán được. Sao rung cũng vậy, khi có nó, nó lại cần "nhìn" ra nhiều cung mới cho được thông tin cụ thể. Như tôi đã nói, lý mệnh chủ rất tương thích với phép hội sao. Nhưng với cung trong điểm, theo các phân tích trên thì không được tương thích như đúng với đánh giá về cung trọng điểm so với sao rung!.

Theo tôi, nên xem xét kỹ vấn đề này. Mặc dù nó không phục vụ cho việc giải đoán, nhưng lại rất lợi ích cho việc nghiên cứu bản chất lý thuyết tử vi.

Thân ái.

...

Đối ngẫu Langland - tử vi về hình thức thì thì có vẻ như chấp nhận được. Ở góc độ toán học, người ta chấp nhận bởi vì người ta xét được nó về bản chất. Bởi vì có tồn tại những đối xứng xác định, chẳng hạn như đối xứng gương,... Đối với tử vi, thực ra cũng có hàng loạt những đối ứng có thể gán ghép đối ngẫu langland một cách hình thức. Nhưng cách gán đối ngẫu mà Gấu Trắng đưa ra ở trên có vẻ bất hợp lý. Đơn giản chỉ vì giữa bắc phái và nam phái, có một phái đúng và một phái sai!. Chỉ bởi vì tử vi hiện nay chưa làm cho người ta công nhận phái nào đúng, phái nào sai. Nên các cuộc tranh luận mới đi vào ngõ cụt. Chỉ khi nào bài toán thiết lập "phương trình tử vi" được công bố, và những phương pháp giải đoán được phát minh trên những kiến thức phương trình tử vi - như phép giải các phương trình vật lý toán vậy - thì ta mới phân biệt được phái nào đúng, phái nào sai. Chứ không phải dựa vào truyền thuyết mà cãi nhau.

Khi ấy người ta sẽ vứ bỏ phái sai. Và chỉ còn lại một phái mà thôi.

Tôi thấy không có chuyện thống nhất hai phái nam và bắc được đâu!

Thân ái.

...

Bắc phái và nam phái, có một phái đúng và một phái sai

Tại sao lại có thể nói vậy?

Vấn đề này sẽ rất dễ trả lời khi lý thuyết lập "phương trình tử vi" được trình bày. Nhưng hiện nay, lý thuyết đó chưa được thể hiện thì lấy cái gì để khẳng định có một phái sai, một phái đúng?! rõ ràng là khi nói một sai, môt đúng, người ta sẽ hỏi ngay, phái nào sai, phái nào đúng? Đó là đòi hỏi tự nhiên. Nhưng câu trả lời khi mà chưa có lý thuyết vừa nói thì sẽ không tự nhiên chút nào, nên chỉ có thể khẳng định được sự đúng sai của chỉ một phái.

Đó là vì, hai phái này có mâu thuẫn rất lớn, mang tính nền tảng. Có tính chất phủ định lẫn nhau. Thật vậy, mỗi phái đã khẳng định độ tuổi trưởng thành, lập thân khác nhau tới 10 năm, xác định bởi một đại vận!

Nam phái xác định tuổi lập thân từ 22 tới 36. Trong khi đó bắc phái xác định tuổi lập thân từ 12 tới 26. Chính xác từ thực tiến ta không thể xác định tuổi lập thân từ 12 tuổi cho tới 36 tuổi được. Theo mọi quan điểm, từ cổ xưa tới hiện đại, bằng vào các nghiên cứu sinh lý tuổi trưởng thành, thì các chứng cứ khoa học ủng hộ tuổi lập thân từ 17 đến ngoài 30 tuổi. Sớm hơn hay muộn hơn cũng chỉ 1 hoặc 2 năm mang tính chất thống kê. Chứ không thể trải rộng từ 12 tới 36 tuổi. Điều này đi tới kết luận rằng, cung nhập hạn cho tuổi lập thân phải phù hợp với thực tế. Nhưng sự phối hợp cả hai phái không chấp nhận sự phù hợp này, buộc phải loại trừ một phái.

Mặc dù chúng ta dễ thấy rằng, tuổi lập thân cho tới 36 tuổi dễ chấp nhận hơn khởi từ 12 tuổi. Bởi lẽ 12 cho tới 15, thực tế cho thấy người ta còn nhỏ quá, các nghiên cứu tâm sinh lý đều cho thấy ngoài việc chưa vào tuổi dậy thì, còn các mặt tâm lý, sinh hoạt đời sống cũng không đáp ứng các tiêu chuẩn tâm sinh lý của tuổi dậy thì. Hơn nữa theo thống kê, những trường hợp ngoại lệ vào tuổi dậy thì, trưởng thành, khả năng thân tự lập thân cũng rất nhỏ so với thống kê ngoài 36 tuổi còn đang đầy đủ các tiêu chuẩn tráng niên - bởi còn có giai đoạn hồi xuân chờ trước mặt.

Đó là xét vòng ngoài, trên các tiêu chuẩn của khoa học khác nhìn vào tử vi. Cũng là phép nhìn từ "ba chiều" vào "hai chiều" vậy.

Đấy là một ví dụ!

Thân ái.

...

Chúng ta có thể nhận xét sơ bộ trong phần giải đoán cho vị Sư Huynh nọ, tuy tác giả đặt trọng tâm tới lý của cung trọng điểm. Nhưng có thể thấy là dường như trong luận đoán, tác giả đã "quên" mất mà không tập trung sử dụng cung trọng điểm trong giải đoán! Thanh thử, việc phân tích về phép sử dụng lý cung trọng điểm là không còn ý nghĩa.

Nhưng nhân đây, gọi là trà dư tửu hậu, chúng ta nghiên cứu lối đoán của tác giả thêm cho vui.

Như tác giả viết:

Trích:

Đại hạn Bính Tý là cách cục Sát Phá Lang chủ, cách cục này nếu có kị sát tinh dẫn động (ảnh hưởng?) mới xuất hiện khuynh hướng “động”, ngược lại nếu gặp cát tinh thì sẽ chuyển hướng phát triển bình ổn, không có biến động lớn (Tuy có Liêm Trinh hóa kị ở đại hạn nhưng may mắn là không hình thành hung cách (cách cục xấu), nên không có khả năng phát sinh điều dữ. Tuy nhiên, do sự tác động của Liêm Trinh hóa kị, vận thế bình ổn, thuận lợi trước đây sẽ này sinh một chút dao động khiến đương số có ý muốn thay đổi).

Đại hạn tọa quyền hội lộc và đại hạn hóa kỵ tự nhiên (tự nhiên nhi nhiên) sẽ khiến đương số kiên trì hơn người khác trong công việc (?).

Xem ra lối đoán của tác giả về đại vận này có phần khác lạ. Thật vậy, như chúng ta đều rõ, đại vận này thấy có cách sát phá tham hóa quyền gặp tả phù. Tọa cung là cách phá quyền tả phù miếu địa thì có thể thấy ngay được đó là đại vận nhiều xung động - do hung sát tinh miếu vượng thủ - nhưng có nhiều lợi ích bất ngờ. Cái cách hung tinh miếu thủ thì bao giờ chả thế, dẫu có hung sát tinh lâm nhập miễn là sáng sủa thì đều hay cả, là cách anh hùng thời loạn chứ có gì đâu mà phải viện dẫn do liêm trinh hóa kỵ không hình thành hung cách nên không gặp điều dữ? Kỳ thực thì liêm hóa kỵ hội tang linh hổ khốc hư là bại cách, đối với liêm trinh mà hóa kỵ thành cách này thực chất là hung cách, một trong những cách đại xấu, khi mà cung tật ách hội đủ Cự Hình Hao Kiếp Không. Vậy mà tác giả lại nói ngược. Lấy cái cách ép cho không thành hung cách để mà "hóa giải" cái đại nạn này.

Nên nhớ, vào đại vận bính tý, bính đồng cơ xương liêm. Liêm hóa kỵ, đồng thời kình nhập ngọ thuộc cách mã đầu đới kiếm, không là hung cách thì là cái gì, đà la lưu nhập thìn hội chiếu về thì phá quân thủ tại đại vận nơi tý cung thành cách hung phá kình đà liêm kỵ tang hổ là đại hung cách. Chả hiểu sao người ta cứ hay lờ đi nhỉ. Phá quân ở đây miếu địa, hội đủ hung bại tinh hãm, liêm hóa kỵ là cách sát tinh. Tác giả lại muốn giải thích, hay luận đoán bằng cách không muốn hung họa cho người sư huynh này chăng khi mà lấy cái cơ liêm hóa kỵ không hội hung sát thành hung cách?

Cái lý đoán kiểu này, may mà trúng? hay là còn có cái gì đó giấu nghề, có ngón giải đặc biệt, hóa giải hung cách này mà không nói ra chăng?. Chứ mà cứ đoán như thế, hậu học làm sao mà học cho nổi?

Thực ra nhìn vào đại vận này thấy ngay được là sự nghiệp hanh thông, tấn phát, nhưng ra ngoài có va chạm, hung hiểm, thị phi và tranh đoạt. Cuộc sống trong giai đoạn này như con thuyền ra khơi xa, giông tố, nhưng có tay lái vững vàng, thuyền to không ngại sóng lớn. Cái hóa giải là ở chỗ chủ cung mạnh, hợp cách cục, cùng với phúc tiên thiên và phúc vận tương hợp, biến hung thành cát. Chứ đâu cần phải khuyên người sư huynh nọ phải đối đãi phải đạo hay khuyên nhủ sư huynh thế này thế nọ với người sinh năm 41 đâu. Tự số nó thế, gặp hung hóa an, gặp nguy hóa lành ở nơi xa, ra ngoài là như vậy.

Mọi người cứ ngẫm kỹ mà xem có phải vậy không? có cần phải viện dẫn những lý giải rất mơ hồ như vậy không. Cố tình không nhìn thấy cái nó phải nhìn thấy to đùng.

Mới chỉ lược đại vận đã nhận thấy lối giải đoán gượng ép. Chúng ta nên kỹ lưỡng khi đọc.

Thân ái.

...

Bạn đọc thân mến.

Tôi không có thời gian để vô đây phân tích chi tiết. Tuy nhiên chúng ta cũng dễ thấy được vài điều, mà nếu theo yêu cầu xác định để có cung trọng điểm và cung trọng điểm là quan trọng đối với luận đoán. Khiến nó trở thành một phương pháp thì tôi cho rằng không hợp lý. Như các bài trên tôi đã chỉ ra những điểm mà không cho chúng ta thấy vai trò của cung trọng điểm. Bài này, sau khi Gấu Trắng đã post xong phần dịch về luận đoán cho sư huynh của tác giả, chúng ta hãy nhận xét thêm vài điều cho rõ ràng hơn.

Như trên, khi luận đại vận bính tý, tác giả đã có ý kiến với cung ngọ, và cho rằng nó không hình thành hung cách, dù có liêm trinh hoá kỵ.

Trích:

Đại hạn Bính Tý là cách cục Sát Phá Lang chủ, cách cục này nếu có kị sát tinh dẫn động (ảnh hưởng?) mới xuất hiện khuynh hướng “động”, ngược lại nếu gặp cát tinh thì sẽ chuyển hướng phát triển bình ổn, không có biến động lớn (Tuy có Liêm Trinh hóa kị ở đại hạn nhưng may mắn là không hình thành hung cách (cách cục xấu), nên không có khả năng phát sinh điều dữ.

Nhưng tôi đã có phân tích rằng thực theo lý luận đoán thì cung ngọ ở đại vận bính tý đã phải phát sinh hung cách với cách cục: Liêm hoá kỵ ngộ Kình lưu (lưu của đại vận) gia hội Tang môn hổ linh khốc hư. Cách cục này không thể bỏ qua.

Sau đó, khi luận vào tiểu hạn lưu niên bính tý – năm 1996, tác giả lại cho rằng:

Trích:

(4) Lưu niên Bính Tý, can Bính lại khiến cung Ngọ hình thành hung cách. Do đó phát sinh việc bất hòa với cấp trên.

Vậy là sao? Làm sao có thể tác giả lại để xảy ra sự mâu thuẫn như vậy? Đại vận bính tý, và tiểu vận bính tý cùng với lưu sao là như nhau, mà với đại vận thì không thành hung cách, nhưng tiểu vận thì có hung cách. Phải chăng tác giả đã cho rằng đối với đại vận, chỉ cho phép dùng lưu tứ hoá, còn ở tiểu vận lưu niên thì ngoài dùng lưu tứ hoá còn có 9 sao lưu động nữa? Một điểm chúng ta khó chấp nhận.

Điểm nữa, khi xác quyết đại vận bính tý, cung ngọ hình thành hung ccách đưa tới sự giải đoán chuẩn mực hơn khi giải ra được đại vận vùa hung vừa cát. Là đại vận xung động, có nhiều thăng tiến, sự nghiệp hanh thông đồng thời cũng xảy ra những hung ách như lời đoán của tôi trước hai bài luận cụ thể về vị sư huynh nọ. Đến đây, các bạn có thể tự đánh giá vấn đề!

Nói về cung trọng điểm. Tác giả xác quyết cung ngọ và cung tuất là hai cung trọng điểm khi giải đoán. Chủ yếu, ví dụ như năm bính tý, tập trung luận về hung cách. Nhưng thật sự có phải như vậy không?

Ngay khi luận đại vận, tác giả đã nêu một tiêu chuẩn khi xem về vấn đề quan hệ trong công tác của đương số và xác quyết rằng luận về vấn đề đó phải xem cung thiên ri. Ở vận nào thì phải xét thiên ri của vận đó. Đại vận bính tý, ri vận là cung ngọ! Dựa vào đó nên tác giả đã tập trung vào giải đoán cung này!

Thế nhưng ở lưu niên bính tý, tác giả lại lưu tâm tới cung tuất, nhưng lại muốn giải đoán về đúng cái hung ách mà tác giả đã cố lờ đi khi cho rằng cung ngọ của đại vận bính tý không hình thành hung cách. Để rồi bây giờ, ở tiểu vận lưu niên bính tý lại cho rằng cung ngọ hung cách xuất hiện, dodòng thời cùng xử lý trên cung tuất và cho rằng cung tuất lúc này:

Trích:

(5) Lưu niên Bính Tý, đương số và cấp trên nảy sinh bất hòa, lúc này cung Tuất cũng hình thành các hung cách như “Linh Xương La Vũ’, “Hình nhân giáp ấn”...

Thứ nhất, tác giả không nhất quán. Bởi sự việc cũng vẫn là giải đoán về quan hệ công tác. Nhưng ở trên thì xét thiên ri vận của đại vận, nhưng tiểu vận lại xét mệnh vận! Tại sao không xét thiên ri vận của vận lưu niên bính tý này? Phải chăng do tác giả nhìn không ra cácch cục hung cách, mà chỉ xảy ra ở năm bính tý mà thôi?

Tôi cho là như vậy. Vì thực ra chỉ cần xét ri vận của hai loại vận là thấy rất rõ. Đó là cách Đà (lưu) Tuế tại ri vận lưu niên ở cung thìn. Phối hợp hai vận cùng can chi làm tăng hệ số lên gấp bội do hội cùng cách hung đã xác quyết thông tin về năm bính tý, từ đó co thể kết luận qua năm bính tý, cách cục này biến mất, cùng với mệnh của đại vận mạnh mẽ như vậy thì đương nhiên hung ách mau chóng qua đi! Cần già mà phải viện tới cách linh xương la vũ – cách hung cố định, đâu cần phải vào năm bính tý mới có để mà nêu ra? Về thực tế thì sao! Cách linh xương la vũ này không phải là hung cách để mà đem nó luận vào biến cố như thế này. Cách này chỉ là sự cản trở, không may mắn. Là mồi châm cho các loại hung ách trên đời. Mang tính xung động một cách tiêu cực, chứ không đưa người có số tới tai hoạ. Nhưng Đà Tuế là cách ẩu đả, tranh đoạt và thị phi nặng - sách đã dẫn, TTL -, khi tại tài vận ở ngọ chiếu về tuất, hung cách liêm hoá kỵ cùng đà tuế chiếu qua chiếu lại do hai lần bính tý đã đủ đưa người có số gặp biến cố trên rồi.

Sẽ lại càng mơ hồ hơn nữa khi muốn xác định cung tuất làm cung trọng điểm để mà lân la luận cho năm giáp tuất. Bởi sự vận hành của thời gian đâu có ngưng đọng tại chỗ nào?

Còn lý luận để minh chứng hai cung là cung trọng điểm thì như các bạn đã thấy. Gần như tác giả đã luận xong bao nhiêu cung rồi, luận hết tiêu chí bằng việc sử dụng tất cả các cung liên hệ. Sau rốt mới đề ra cái gọi là cung trọng điểm. Mà kỳ thực, trong lập luận đã cho thấy sự gượng ép. Nếu thẳng thắn, khách quan luận đoán một cách tự nhiên, thì cung trọng điểm người ta đã thấy: Đó là Ri vận! Chỉ vậy thôi!Chẳng thể là hai cung như tác giả đã chỉ ra.

Nhưng đó là luận giải tự nhiên, chẳng cần quan tâm gì tới cung trọng điểm cả. Xét mỗi bài toán, sẽ có những chú ý, phép giải thích hợp tương ứng. Vậy thôi.

Hy vọng các bạn đã nhận ra được vấn đề.

Thân ái.

...

Như vậy, thực sự là một điều rất khó hiểu, khi mà giữa Nam Phái và Bắc Phái, chỉ có một phái đúng, vì hai phái này về cơ sở sẽ loại trừ nhau hoàn toàn.

Một câu hỏi được đặt ra một cách tự nhiên, tại sao cả hàng ngàn năm mà hoàn toàn không có nổi một test để xác định xem phái nào đúng, phái nào sai? Chỉ cần lấy một ví dụ không tầm thường rồi giải đoán là có thể quyết đoán, mọi việc cực kì đơn giản. Trừ khi giới tử vi của cả hai bên quá bảo thủ, còn lại thì khó có thể có một lý do nào để giải thích mâu thuẫn cả ngàn năm này.

Không phải chỉ là quá bảo thủ, hơn thế nữa kìa. Là Quá Cuồng Tín về môn phái.

Đồng thời không có lý thuyết chính thống dẫn đường nên mới xảy ra tình huống: "Những người mù dắt tay nhau xuống hố!!!"

Môn phái có thể có lý thuyết chuẩn tắc như phái đông a thì giấu biệt kiến thức của họ?! Âu đó cũng là cái "truyền thống" của người phương đông! Nơi mà "quân tử là những kẻ khờ""người tốt thì phải đi tu, xuất gia nhập phật"...

Nên chẳng lạ gì, khi mà đông phương: Chẳng có thành tựu gì, ngoài việc chém giết và trấn lột của nhau!

Thân ái.

Tuần không

Tứ trụ, trong tử vi cũng như tử bình là thời gian. Nói như thế thì quá tầm thường. Nhưng sẽ không tầm thường chút nào cả khi chúng ta biết rằng. Đông phương, người ta gọi Vũ Trụ, tương ứng với người Tây phương gọi là Không gian Thời gian. Vũ là Không gian, Trụ là Thời gian. Vì thế, tứ trụ không phải là bốn cột trụ, nó là bốn mốc thời gian. Vì thế gọi là Tứ Trụ, diễn nôm là Tứ Thời. Cho nên, Tử vi cũng như Tử bình, được lập bởi 4 trụ – thời gian này. Chứ không phải là 4 yếu tố, hay 4 cột trụ nào của số mạng cả. Nó chẳng khác gì như hàm trạng thái của hệ vật lý được xác định – theo quan điểm cổ điển – là Lagrangien – là một hàm L với hai biến x và t là hai biến không gian và thời gian vậy. Ở đông phương học, yếu tố Vũ được quán xét bởi Phong Thủy. Còn yếu tố Trụ được quán xét ở các môn tử vi và tử bình. Mặc dù ở cả các môn này, cả Vũ và Trụ đều được quán xét, nhưng với phong thủy thì yếu tố Trụ ẩn, còn tử vi và tử bình thì yếu tố Vũ ẩn, mà yếu tố Trụ nổi và được sử dụng trực tiếp. Điều này, nếu liên hệ với vật lý lượng tử thì chúng ta cũng sẽ rất dễ hiểu khi chúng ta xét hàm trạng thái của hạt vi mô. Nó có nguyên nhân sâu sa, bởi ngay từ đầu đông phương học đã không coi không thời gian là tách biệt. Điểm này, Descartes đã không xét đến.

Nhưng nếu chỉ nói đến đây thì rất tầm thường, mặc dù chúng ta đã có thể hiểu tứ trụ là bốn thời – thời gian của tử vi và tử bình. Và có thể cũng thấy ngay rằng, tử vi và tử bình thực chất chỉ là hai phép biểu diễn khác nhau của cùng một bài toán. Chúng ta cũng thấy nó tựa như là sự liên hệ giữa hai biểu diễn cơ học lượng tử như biểu diễn Heidenberg và biểu diễn Srodinger vậy. Và nói theo thời đại thì tử bình và tử vi có một "đối ngẫu Langland" như là đối ngẫu Langland của hình học và đại số vậy. Trong đó, tử vi ứng với hình học, tử bình ứng với đại số.

Nói thế cho dễ hiểu đối với những ai có tây phương học.

Bây giờ ta xét thuần túy đông phương. Bởi có hiểu đó là 4 Trụ, thì mới nói chuyện đông phương được. Do Vũ và Trụ là một cặp âm dương. Vũ âm, còn Trụ dương. Vũ thì tĩnh, Trụ thì động. Đúng với mệnh đề Dương động, Âm tĩnh. Trụ của đông phương đối với tử vi, lịch pháp là sự phối hợp thiên can địa chi. Với ngũ hành, ta có ngũ hành nạp âm. Đó là hình ảnh thời gian vuông – tròn, hình vuông nội tiếp hình tròn – do trời tròn, đất vuông. Trời quay về bên phải, bao lấy đất. Ngược lại Đất quay về bên trái nằm trong vòm trời mà hình thành nên thời gian, đó là Trụ. Được lập bởi thang "đo" thiên can và địa chi. Theo nguyên lý âm dương giao phối, vạn vật sinh. Thì Trụ với lịch pháp và tử vi, mô tả thiên văn khí tượng bốn mùa, con người sinh sinh hóa hóa mà phát triển, thì đương nhiên Trụ của nó phải là sự giao phối âm dương thiên địa. Chính là sự giao phối thiên can địa chi mà thành ra ngũ hành nạp âm.

Bởi vậy, lịch pháp, tử vi cũng như tử bình, dựa trên Trụ mà ngũ hành là ngũ hành nạp âm, đã đảm bảo một tiêu chuẩn khởi đầu, khả dĩ mô tả được vạn vật bốn mùa và đời sống con người!

Nhưng đi tiếp, chúng ta sẽ thấy. Trụ là thời gian. Thời gian động, nên trôi, chảy mãi vô tận. Đông phương cho thời gian tuần hoàn viên miễn. Vậy thời về mặt hình học ta cũng dễ thấy, hình vuông và hình tròn "đều quay". Nhưng hình vuông và hình tròn thì quay không thể đồng bộ được như hai bánh xe tròn của một chiếc xe được. Thể hiện thiên can thì chỉ có 5, còn địa chi thì có 6. Chính sự "khập khiễng" thiếu khuyết này cần được bù lấp để thỏa mãn cho cái gọi là thời gian phải Động. Hay nói theo đông phương thì Trụ phải đồng bộ. Người xưa đã bổ sung sự thiếu khuyết này bằng một chữ Tuần. Mục đích là để san bằng sự lệch giữa thiên can và địa chi trong hành trình của thời gian-Trụ. Theo tây học thì chúng ta gọi Tuần là một Đại lượng. Đông phương học, có nơi xem Tuần như một Thần sát. Tử vi, xem Tuần như một Sao. Qua đây, chúng ta thấy ngay, bản chất của Tuần là Thời gian. Nên chúng ta không lạ gì Tuần là Không – sau này khi đi sâu bản chất sao của tử vi, chúng ta sẽ thấy tuần có cái nghĩa Không. Nhưng ngay ở đây, chúng ta cũng thấy Tuần là Dương, động, ứng với Không. Đối lập với Triệt liên hệ với Vũ nên âm, ứng với Vong!

Đến đây, chúng ta thấy Cơ nhân có một cái gọi rất chặt chẽ, khoa học và thống nhất. Tuần dương, nghĩa Không, và Triệt âm với nghĩa Vong. Tuần có bản chất thời gian, triệt có bản chất vũ nên triệt ứng với phương vị. Nên mới nói là triệt lộ, ngăn cách. Như nói hình ảnh: Đường đi gặp triệt là tắc. Hoàn toàn mang ý nghĩa phương hướng của không gian. Trong khi Tuần có ý nghĩa ngưng trệ, là bản chất của thời gian.

Đến đây, chúng ta có thể thấy chỉ cần hiểu đúng khái niệm mà Cổ nhân đặt cho chúng ta gọi, chúng ta cũng sẽ thấy được nhiều điều bổ ích, thấy được bản chất. Mà ở đây, ví dụ là thấy được Tuần xuất hiện là bởi cái gì. Liệu chúng ta có Dám vứt bỏ Tuần đi không luận nữa không?

Chúng ta thử vứt Tuần đi xem thế nào nhé. Có nghĩa là chúng ta đã xem thời gian đông phương không còn là vuông tròn nữa, không còn là ngũ hành nạp âm, do can chi âm dương phối hợp nữa. Tức là chúng ta đã vứt bỏ điều kiện tiên quyết để cho tử vi khả dĩ mô tả được cuộc đời của một con người!!! Tự nhiên chúng ta đã làm tử vi biến dạng đi một cách đáng sợ.

Chúng ta cũng thấy rằng, các kiến thức về Tuần ở trên, cũng như cách thiết lập Tuần là không có gì mới lạ cả. Có đầy đủ ở trong các sách. Nhưng chúng ta cần phải hiểu được bản chất của Vũ Trụ là không thời gian đông phương. Là một cặp âm dương thì chúng ta mới có thể hệ thống hóa mà thấy được bản chất cũng như thấy sự cần thiết phải có nó.

Nhân đây chúng ta cũng thấy năng lực tư duy siêu việt của cổ nhân. Đã nhìn thấy sự bất đối xứng âm dương của Vũ Trụ và xuyên qua nó mà xây dựng nên một nền lý học đồ sộ – đó không phải là Khoa học thì nó là cái gì? Để có lý đâu chúng ta cứ thắc mắc cái sự bất đối xứng âm dương bởi các quái phối trên đồ thư rồi phán quyết là phải đổi Tốn – khôn? Mới là khoa học? Ngay đến bản chất của Vũ Trụ, cổ nhân đã thấy rằng không có sự đối xứng âm dương!!! Huống chi với một Đồ – Thư. Đó có phải là do chúng ta đã không hiểu lý học đông phương cho tới nơi chốn, nên mới có chuyện sáng tạo vô lối như thế không?

Tiếp nữa, nếu chúng ta suy tư với tư duy tây phương, sẽ thấy rằng. Tây phương với triết học Descartes cho rằng không – thời gian là tuyệt đối độc lập với nhau. Không gian là trống rỗng. Thì tới Einstein không – thời gian không còn tách biệt, và không thời gian cũng không còn là trống rỗng nữa. Chúng đã chứa Vật chất. Vật chất đó là gì? Tây học đang minh thuyết. Nhưng với đông phương học, Vũ Trụ là một Thể thống nhất, không tách rời, đã phối với nhau để "làm ra" vạn vật – theo nguyên lý âm dương giao hòa vạn vật sinh. Vậy bên trong Vũ Trụ là gì? Chu Hy đã nói: "Trong khoảng trời đất, chỉ có một vật là Khí, chia ra làm hai thì là âm, dương (khí âm và khí dương), năm hành gây dựng (khí ngũ hành) muôn vật trước sau bị cai quản ở đó – trích kinh dịch.

Đó là Khí, Khí của Vũ Trụ, là "vật chất" đông phương đó. Chúng ta, những người học tây phương, cứ mãi không hiểu Khí là gì, nó từ đâu tới. Bản chất ra sao. Lại cứ đi tìm cách xác định, định nghĩa, rồi đo nó. Thì đây, có một đối ngẫu với không thời gian tây phương. Choán trong không thời gian là vật chất – như năng lượng. Thì choán trong Vũ Trụ chính là Khí. Nhưng "metric của Không thời gian và Vũ Trụ thì hoàn toàn khác nhau.

Tại sao Chu Hy không nói: Trong khoảng vũ trụ mà lại nói là trời đất? Hậu học không hiểu trời đất của Chu Hy chính là vũ trụ càn khôn. Không hiểu vũ trụ can khôn chứa đầy Khí thì làm sao nắm được cấu trúc của quái dịch! Cho nên có nhiều Vị đã vội vàng phê phán Chu Hy chẳng phải là sự lầm lỡ hay sao?

Đến đây thì các Vị có thể hiểu làm thế nào để có thể khoa học hóa đông phương? Chứ không phải là những mô tả bằng tư duy tây phương mà áp đặt cho đông phương học được. Muốn làm được cái việc áp đặt đó. Trước hết các Vị cần phải hiểu được Vũ Trụ đông phương cái đã. Hiểu rồi thì các Vị sẽ thấy việc áp đặt thật sự là khập khiễng. Bất toàn.

Còn nhiều thứ bất ngờ nữa lắm khi nghiên cứu lý học đông phương. Vấn đề Vũ Trụ mới là tầng thấp nhất của lý âm dương thôi. Nên tôi thấy, khoa học hóa đông phương học không đơn giản như các Vị đã trình bày. Chỉ nội Hiểu sao cho đúng cổ nhân, và có sự so sánh, đối chiếu để thấy được đối ngẫu giữa hai nền lý học, đã vô tận rồi.

Thân ái.

...

Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau: “Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là ngẫu nhiên.

Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi được biết.[Chính là tôi và ba em tôi ]. Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con. Hiện nay, sau nửa thế kỉ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì không thể cho là ngẫu nhiên được. (…)

Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đó phần nhiều đúng, đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh vấn là quan trọng”. (trang 174-175). Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm: lấy theo Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6, 7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai. So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi thấy: – Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không thể cải được mệnh. Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung: mạng, thiên di, tài bạch, quan lộc. phúc đức, phụ mẫu, phu thê, tử tức, huynh đệ… cho nên đoán được nhiều chi tiết: tính tình mỗi người, sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng nương…, nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên khoa đó được nhiều người tin là đúng.

Sự thực, theo tôi thì khoa (Tử vi) đó không hợp lí vì dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống nhau thì số y hệt nhau: điều đó không chấp nhận được.

Ngoài ra, Tử vi còn nhiều điểm mâu thuẫn, chẳng hạn sao phá quân thuộc thủy, ở cung tí cũng là thủy thì tốt; nhưng tại sao ở cung ngọ là hỏa (thủy khắc hỏa) cũng là tốt? Nhất là ở 4 cung thìn tuất sửu mùi (thổ), thủy bị thổ khắc mà sao cũng vẫn tốt? Lại thêm ở cung hợi (thủy), thủy với thủy mà lại cho là xấu, hãm địa? Không thể nào kể hết những điểm khó hiểu đó được. Lại thêm các sách không nhất trí về cách tính sao hỏa, và 12 sao vòng trường sinh, không biết nên theo cách nào.

Tử bình gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng hợp lí. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản với sao khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều người không thích khoa đó.

Hà lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn tử bình ở chỗ đổi những can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ, mỗi hào trong kinh Dịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm). Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con… Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch.

So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử vi thích hợp với đàn bà (?), họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử bình hợp lí, thích hợp với giới trí thức; Hà lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời. Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.

...

Trên đây là đoạn trích hồi ký của cụ Nguyễn Hiến Lê. Cụ NHL tuy nghiên cứu tử vi, nhưng do sách vở tử vi khiếm khuyết nên chưa thể đi sâu vào tử vi. Nhưng cụ đã nhận xét về ba khoa: tử vi, tử bình, bát tự hà lạc " Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau nhưng kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10".

Tử vi đi vào chi tiết; Tử bình ít chi tiết, hợp lí, thích hợp với giới trí thức; Hà lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời. Vì thế, không nên khen chê khoa nào.

Theo Tử bình, bốn cột trụ của số mạng là tứ trụ. Khi lấy số bát tự người ta thường viết thành bốn cột Năm Tháng Ngày Giờ, mỗi cột có can trên, chi dưới. Tử bình là phép toán đơn giản về thời gian và không gian của đời người. Tử vi chi tiết hơn, mô tả con người và xã hội xung quanh, là bài toán phức tạp hơn rất nhiều. Tuy nhiên, phép tính nào cũng nhằm giải bài toán mệnh số. Nghiên cứu lý số chính là nghiên cứu mệnh khí của từng con người trong vũ trụ.

HTD đồng ý với ý kiến của vuivui:

Trích:

tử vi và tử bình thực chất chỉ là hai phép biểu diễn khác nhau của cùng một bài toán. Chúng ta cũng thấy nó tựa như là sự liên hệ giữa hai biểu diễn cơ học lượng tử như biểu diễn Heidenberg và biểu diễn Srodinger vậy. Và nói theo thời đại thì tử bình và tử vi có một "đối ngẫu Langland" như là đối ngẫu Langland của hình học và đại số vậy. Trong đó, tử vi ứng với hình học, tử bình ứng với đại số.

Trong Tử bình, các trụ năm tháng ngày giờ cũng chịu ảnh hưởng rất mạnh của Không vong (Tuần Không) và cũng có nhiều cách cục hay như tử vi.

...

Có thể nói rằng, Cổ nhân xưa với lý học đông phương thực đã rất khoa học mới có thể dựng lên được những thành tựu như tử vi, tử bình, hà lạc, kỳ môn, dịch,... Nhưng có điều, cần phải hiểu rất sâu sắc nền tảng cơ bản của lý học thì mới có đủ huệ nhãn để xây dựng được những tòa lâu đài tử vi, tử bình... đó. Sự xây dựng không những công phu, tầm vóc mà minh triết sâu xa. Nếu chỉ là những đoán mò, xây dựng tù mù, gặp đâu làm đấy như chúng ta hiện nay thì không thể có những thành tựu như thế. Cũng tương tự như khoa học ngay nay vậy. Phải có những nền tảng cơ bản sâu sắc và vững trãi mới có những thành tựu như ngày nay. Đó không thể là kết quả của một vài cá nhân, cũng không phải là kết quả của việc làm hời hợt, mà đó là kết quả của sự nghiên cứu. Nếu cho rằng tây học thâm sâu, quảng bá và chặt chẽ,... thì đông phương lý học cũng có những tầm vóc như vậy. Thậm chí còn nặng về thâm sâu. Có lẽ vì thế mà hậu học ít hiểu, mà không thấy cái logic, cái tư duy hệ thống của nó, đã vội cho chúng là huyền bí. Từ chỗ không hiểu, rồi đến hiểu sai, quy chụp mà sáng tạo ra biết bao nhiêu kiến thức sai lạc, để rồi tự nó trở nên là huyền bí học. Chứ thwujc ra, hiểu cặn kẽ, tôi không thấy có gì huyền bí cả. Chỉ là, thay vì thực nghiệm, người ta có thực tế trả lời bằng những nghiền ngẫm phải trả bằng cả một đời người, nhiều đời người. Nó vô hình mà rất rõ ràng. Nhưng lại cứ tưởng vô hình rồi thì nói gì cũng được.

Có rất nhiều học giả cũng vì hiểu không đến nơi, mà nên nông nỗi.

Thân ái.

...

Chào các bạn.

Tôi vừa trở về từ VN. Suốt cả thời gian ở VN, không có lấy một lần vô internet. Trở lại với D Đ, trả lời câu hỏi bạn Green.

Trích:

xin hỏi bác vuivui: theo quan điểm của bác thì Tuần dương, Triệt âm.

Đời người trải qua 4 quá trình: sinh lão bệnh tử, tức là đi từ dương về âm, từ đó rút ra: càng về già thì "sao âm" ảnh hưởng càng mạnh, tức Triệt - âm ảnh hưởng về hậu vận????

nhưng thực tế vốn là: triệt chỉ tác động mạnh vào trước 30t <lập thân>, sau 30t tác động của triệt suy giảm.

Tại Bạn chưa hiểu hết về lý âm dương, nên mới vậy. Thực ra là thế này.

Phân biệt trẻ già có cường - nhược phân âm dương, phát triển và suy vong phân âm dương. Nhưng trẻ - già về thời gian cũng phân âm dương, trong đó, với quan hệ cường - nhược thì cường dương, nhược âm. phát triển thuộc dương, suy vong thuộc âm. trẻ - già trong quan hệ thời gian thì trẻ âm, già dương. Như quan hệ tôn ti, thì cha dương, con âm. Đại nhân thì dương, mà tiểu nhân thì âm.

Thế nên, tuần dương, triệt âm tác hóa theo thời gian, thì phải lập âm dương theo trẻ - già với quan hệ thời gian. Vì vậy, triệt âm tác hóa mạnh ở tam thập nhi lập, tuần dương mạnh dần về hậu vận. Song đó cũng vẫn chỉ là tương đối, không có nghĩa là tuần không tác hóa đầu đời, mà triệt không có giá trị ở cuối đời. Mà chúng chỉ biểu thị chiều hướng, hay xu thế về cường độ ảnh hưởng, tăng giảm mà thôi.

thân ái.

...

Trích:

1. Quy tắc các phép chiếu

- Phép nhị hợp: có trường phái cho rằng chỉ với cung dương mới lấy sao nhị hợp từ cung âm.

vd: cung Dần sẽ được lấy các sao nhị hợp ở cung Hợi, bởi lẽ Hợi Mão Mùi tam hợp Mộc, Dần Ngọ Tuất tam hợp Hỏa. Mộc sinh Hỏa nên cung Dần sẽ câu hút được các sao từ cung Hợi???

- Phép xung chiếu: vì cung xung bao giờ cũng là "địch- đối đầu với ta" cho nên ta "thắng" thì mới được hưởng.

vd: mệnh ở Tý, Di ở Ngọ. vì Tý thủy khắc Ngọ hỏa nên các sao ở cung Di sẽ hội về mệnh. ngược lại nếu mệnh ở Ngọ, Di ở Tý thì mệnh sẽ ko được hưởng các sao ở Di???

- Phép tam hợp: tam hợp sinh nhập thì có ảnh hưởng mạnh hơn

vd: mệnh tại Tý, quan tại Thìn, tài tại Thân.

do Thìn thổ sinh Thân kim sinh Tý thủy cho nên nếu xét Mệnh thì các sao ở cung Tý và cung Thân ảnh hưởng mạnh, sao ở cung Thìn thì ảnh hưởng ít hơn???

Tôi, trong thực tế không mấy xem trọng Nhị Hợp. Ngoại trừ thấy có cách cục được hình thành là cách minh lộc ám lộc. Nhưng thực tế thấy cách này cũng không mạnh như những gì sách đã ghi, Thậm chí khi xem, thấy có cách này, nhưng lại thấy những thành tựu của đương số không đúng ứng với cách minh lộc ám lộc mà đúng ứng với cách cục khác thủ tại mệnh và trong tam hợp. Ngay như cách minh lộc ám lộc tôi đã thấy như thế, thì việc phân biệt tới mức chỉ có cung duơng mới lấy được sao nhị hợp thật là tế vi, nên khi xem trong thực tế tôi cũng không muốn xét tới.

Phép xung chiếu.

Có nhiều thuyết giải thích ý nghĩa đối địch này, như vận dụng ngũ hành, thấy có sự khắc chế về ngũ hành thì bảo đó là sự đối địch. Điều này là sự hoang tưởng, suy diễn theo cái lý Vơ Vào của nhiều tử vi gia. Sự đối địch này thực sự chỉ là một trường hợp tổng quát về ý nghĩa của cung Thiên ri đối với Mệnh cung mà thôi. Cung thiên ri là cung ngoại đối với cung an mệnh là nội theo nghĩa nội ngoại âm duơng. âm duơng có tương giao, tiêu trưởng. Bởi vậy, ý nghĩa đối địch này nằm trong nghĩa tiêu trưởng, chứ không phải là khắc chế như yêu cầu của ngũ hành. Cần lưu ý điểm này. Vì khắc ngũ hành là khắc triệt để, như nước lửa không dung nhau, và nếu khi lý tới ngũ hành, thì phải xem xét sự khắc chế qua sự tổng hợp ngũ hành các sao trong hai cung - mà điều này là bất khả, chưa nói đến sự chẩn xác về ngũ hành của các sao chưa được thống nhất. Và khi đã theo khắc chế ngũ hành thì không thể xem được vấn đề cung di tốt xấu ảnh hưởng lên số ra sao. Như một cung di tốt. Theo lý ngũ hành, vì là đối địch, nên về lý, càng tốt thì sẽ càng xấu đối với ta - mệnh và cung di càng xấu tệ bao nhiêu, càng nhược bao nhiêu thì ta càng có lợi. Điều này phi thực tế. Hoặc như cách tốt thiên ri giáp song lộc, nếu theo khắc ngũ hành thì tính ngũ hành ra sao với cách giáp song lộc này? Rõ ràng là không thể.

Nên đối địch chỉ có thể là trong nghĩa tiêu trương âm duơng. Tức là ta mạnh quá, thì đối phuơng suy, theo nghĩa nếu thấy nhiều cách cục trong mệnh cung tự chủ, thì đối phuơng, hoàn cảnh nếu có cách cục ứng với nó sẽ bị khuất phục, nhờ thế đuơng nhiên ta sẽ có lợi, theo thế mà âm duơng giao hòa, lợi về mình. Ngược lợi thì mình sẽ làm cho đối phương có lợi. Như Khôi mà thủ mệnh, Việt ở thiên ri. Đương nhiên khi khôi mạnh hơn việt thì việt khôi thành cặp lợi cho mệnh, ta ít nhất sẽ có được nhị Cát. Nhưng nếu khôi yếu hơn việt thì đối phương có lợi hơn mình, mà mình muốn có lợi, thì phải Ra Ngoài mới có lợi, cũng đồng thời là khi ra ngoài, mình theo người ta. Ra ngoài có được danh giá, nhưng về nhà chưa chắc à nghe. Ra ngoài vênh vang một cõi, nhưng ở nhà lại dúm dó ấy chứ.

Tam hợp.

Chuyện sinh nhập, tôi thấy không đúng trên thực tế, mà nếu có tranh luận thì cũng chẳng ai định lượng được để mà so sánh mạnh yếu. Chỉ bằng cảm nhận mà thôi. Mà cảm nhận thì tôi không thấy đúng. Hơn nữa, nếu theo cách làm đó, về lý thuyết thấy không được rồi, lại sa vào cái lý vơ vào, suy diễn lung tung! Thật vậy, tam hợp lập thành ngũ hành. Ngũ hành này là ngũ hành phức hợp, do đó mà sao thành cách. Những cách cục này đã "nguyên khối", nay lại bẻ bó ra, đập vỡ nó ra để xem to nhỏ, thì tính hợp nhất của ngũ hành tam hợp đâu còn nữa?!

Thân ái.

...

Trích:

2. Phân chia chủ - khách

- Khi nào ta gạt người, khi nào người gạt ta?

- Khi nào được lộc, khi nào mất lộc?

- Với người thân cư Phúc, thân cư Phu Thê. khi nào hạn xảy ra với bản thân, khi nào hạn xảy ra với họ hàng, chồng/vợ?

Theo nghĩa biến hóa của cặp âm dương chứ không phải ngũ hành chế hóa. Như đã nói ví dụ ở thiên ri cung vậy, theo đó mà biến hóa áp dụng. Còn muốn rõ hơn, phải có cái cụ thể.

Thân ái.

...

Khác thường hay nghịch thường

Không có ý định tạo chủ đề mới này, mặc dù chủ nhân của topic này có nick tên là buna đã mở bên TVLS.net. Chủ đề này đạo tạo được môt không khí khá "hot". Nhưng không phải vì thế mà tôi muốn đề cập nó ở đây. Mà vấn đề là số của buna đưa ra, thật có những điểm mà những người quan tâm tử vi nên xem xét nó như là một trường hợp đặc trưng cho một thể loại mới.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình, theo đương số tự thuật, có thể nói là tương đối mô phạm. Ấy vậy mà, như lời tự thoại. Các bạn có thể thấy.

Trích:

1. Hồi bé bé, em từng xxx với 2 anh hàng xóm. Chuyện này diễn ra trong 2 năm liền, khá nhìu lần (>100), cái đó các anh í gọi là ‘’chơi’’, cứ cho e kẹo, truyện tranh... rủ e là e:P. Nếu mà xét theo pháp luật thì 2 anh ấy chắc vô tù vì quan hệ với trẻ dưới vị thành niên. Sau đó khi lớn hơn, rùi biết là có thể có bầu nên không dám nữa. Mà suốt sau đó đến chừng 19 tuổi thì cũng thắc thỏm âu lo, kiện cáo thì ko nghĩ đến nhiều, chỉ sợ mất trinh thì về sau chồng biết thế nào (bây giờ thì hok sợ nữa:D tại chả tha thiết j chồng con nữa hé hé).

Vậy đố mọi người biết, mà thật ra cũng hỏi luôn tại vì e chưa nhìn ra cách cục của chuyện đó là gì ạ? (từ đó cho bít chuyện đó xảy ra khoảng năm nào. Với cả tại sao lại xảy ra? )

Tại sao xảy ra thì em thì tạm trả lời là theo kiểu nhân quả là kiếp trước em trước làm gì chuyện gì bậy bạ, hoặc là dâm tính nhiều lắm nên mới thế, nhưng trả lời theo lá số tử vi thì không rõ. Tại cung phúc đức của e có Thiên Riêu, Thiên Y ạ?

2. Nói chung khi đi học em luôn thuộc loại học giỏi top 3 của lớp, nhưng có hồi cấp 2, ngoài môn tự nhiên thì không cần em chứ toàn quay bài mà đứng nhất lớp, dành thời gian viết truyện sex với chơi game khá nhiều +_+ đến cấp 3 thì do vào trường chuyên, lại làm lớp trưởng, bí thư nên mới nghiêm chỉnh ko quay bài, thì vẫn đứng nhất lớp. Về việc học hành như thế, có sao nào mà làm em giảo hoạt thế ạ? (dùng từ này có đúng?)

3. Nhưng mà thời ấy lại có chuyện là dù bên ngoài rất vẻ vang, bạn bè nhiều, nhưng bên trong thì trầm uất, một phần cũng do mắc phải toàn Dovtoeski, Camus, một phần vì tuổi dậy thì (? Nói thế chứ là sao nao đấy?)... em uống thuốc ngủ + rượu tử tử mấy lần (đấy là cách để tự tử dễ nhất) nhưng mà đến đêm thì nôn thốc ra, sáng dậy mới biết. Bản năng sống mạnh thế là do sao nào đấy ạ? Mà hồi đó sao nào/ cách cục nào làm em điều đứng vậy?

Hỏi luôn là cách cục tử tử, trầm uất... mọi người có link nghiệm lý nào không ạ?

Lá số thì chắc đúng mệnh thiên lương, người hơi thấp, mũm mĩm, mũi thẳng, mặt tròn chữ nhật, người yêu quí thì khen xinh vô cùng, người ghét thì bảo xấu như ma cấu +_+

Em vào đọc diễn đàn đã lâu, phục và trân trọng nhiều bác anh, chị. Em rất ít khi reply (mệnh Quan Phủ, nhận ít trả lời nhiều muh), lần này viết chắc vì cái gì đó:D, không expect câu trả lời ngay trong này, vì đã hỏi thì chắc chắn sẽ được trả lời right time, right place, and people, chỉ hi vọng nó có thể giúp được ai đó, khi họ google, hay truyền miệng và have fun với mọi người...

Anw, học hỏi luôn là chính mà.

Mến thân.

...

Cám ơn anh Vân Từ đã link số của buna-hình như là bunatino thì phải?!

Nhân thể anh có đề cập đến một số vấn đề, tôi nghĩ đó cũng là những vấn đề có thể nói là hóc búa, khó tranh luận và cũng khó thuyết phục nhất. Nhưng hiện thực lại cứ sờ sờ trước mắt ta. Vấn đề trùng lặp lá số và vấn đề cải số.

Dù biết rằng vấn đề này có nói đi nói lại, cũng vấn cứ phải nói lại... để rồi nói đi. Tranh luận về nó, chả khác gì người ta tranh luận con gà và quả trứng? con gà có trước hay quả trứng có trước? Mặc dù vấn đề này cũng đã được giải quyết, cũng như cuộc tranh luận vật chất có trước hay tinh thần có trước của triết, hoặc Triết học Mac, CNCS sai ở chỗ nào? Thì cũng đã được trả lời rõ ràng. Nhưng người ta vẫn cứ lấn cấn, vẫn khó rời bỏ nó, vẫn thắc mắc rất là cố chấp. Chung quy, thực cũng chỉ vì người thì không dám rời bỏ nó vì đã "lỡ" xem nó là nền tảng của cuộc sống, của tư tưởng nên không dám, cũng không thể bước ra khỏi cái nền đó. Người thì thấy nó đẹp, nó khoa học - theo tư duy của cá nhân mà không thể nhận thức được cái sai của nhận thức đó. v. v....

Như tôi đã nói nhiều lần. Cải số! Trước hết, không ai định nghĩa, và cũng không định nghĩa được Cải số là gì. Nó chỉ là một thể hiện được hiểu như một cặp từ vựng hàm nghĩa về khái niệm, mà chính khái niệm đó cũng chưa hẳn được xác định. Cũng như khái niệm Số mệnh vậy! Cho nên nói, hiểu được số mệnh là gì, thì sẽ hiểu được ngay thế nào là cải số. Đấy là nói cho thật chặt chẽ, khỏi tranh luận lôi thôi, mà để cho nó đúng như là một mệnh đề mang tính nguyên lý. Còn hiểu đại khái thì có thể hiểu, đó là sự thay đổi cái mà ta gọi là số mệnh của ta nhưng do chính ta chủ động. Vậy thì số mệnh phải được biết nó có hình hình ra sao thì mới nói chuyện ta thay đổi được chứ! Cũng như chiếc ô tô đang chạy vậy, con đường ta phải đi và đích đến lập thành một tổ hợp các điều kiện Buộc ta phải thực hiện. Nhưng ta không đến đó nữa, cũng không đi đường đó nữa, mặc dù ta đang đi trên đúng con đường đó. Bằng cách, thay đổi đích đến, thay đổi hành trình. Thế là ta đã có sự thay đổi do chính ta, hoặc do điều kiện, bối cảnh đã cho phép ta thay đổi, nhưng ta hoàn toàn có quyền quyết định sự thay đổi đó.

Hiểu như thế, rõ ràng ta nói, ta đã chủ động thay đổi, khi mà tổ hợp mục đích và hành trình đã xác định. Nếu số mệnh cũng được tường minh như vậy đương nhiên ta đã nói đúng là ta đã Cải số.

Nhưng bởi vì, ta nói rằng, số mệnh đâu có được tường minh như thế. Đương nhiên, Cải số cũng sẽ không còn tường minh nữa, và người ta khẳng định, không phải cải số. Mà đó là do Phúc, do những gì gì nữa, thiếu gì lý do, nguyên nhân để quàng vào nó, cho nó một cái lý, rằng sự thay đổi đó không phải do ta chủ động mà được, và nó cũng không nằm ngoài cái Số đã định!

Thế cho nên, đi đến tận cùng là không thể. Bởi vì người ta đã sử dụng tính Tuyệt đối của khái niệm số mệnh. Thì lẽ đương nhiên sự Cải số sẽ tự nhiên phải "lùi" về cái Không tuyệt đối. Bởi vì Cải số và Số mệnh là hai thái cực, hai giá trị đối cực. Một khi đã tuyệt đối một cực, thì đương nhiên cực còn lại cũng phải trở nên tuyệt đối. Có nghĩa là, khi người ta đã tuyệt đối hóa Số mệnh - mọi sự đều không nằm ngoài số mệnh - thì đương nhiên sẽ không có Cải số.

Nhưng ta biết rằng, mọi môn, kể cả khoa học chính xác, cái gọi là khoa học nhất của khoa học. Không có cái gì là tuyệt đối cả. Điều này đã thể hiện rõ ràng bởi định lý Golden. Vì thế, ngày nay, ai nói đến tuyệt đối đều bị cho là thiếu hiểu biết. Mọi sự, hay vạn vật trong thế giới, đều là tương đối. Điều này, phù hợp với tinh thần của Dịch. Và trong Dịch có câu: Thái quá thì bất cập. Mọi sự đi quá về một cực đều đổ vỡ.

Vậy thì cái gọi là Cải số và Số mệnh. Nếu chúng ta hiểu một cách tuyệt đối, rõ ràng là Bất cập, là Sai lầm vậy!

Nhưng, hiểu Số mệnh một cách tương đối thì thực là rất khó hiểu. Và thật là dễ hiểu, thật là dễ chịu. Nó làm cho trí não của ta được phép lười nhác một cách sung sướng, tự hào vì cái bộ não đó đã nhận thức được một cái tuyết đẹp. Một chân lý tuyệt đối. Ví như CNCS là con đường mà nhân loại tất phải đi tới. Một chân lý tuyệt đối được tuyên ngôn và rất được hoan hỉ chấp nhận bởi những người nông dân chân lấm tay bùn, suốt đời "nhìn" vào cái đít Trâu, cũng như những người công nhân tay lấm lem dầu mỡ, suốt đời chỉ nhìn thấy mấy cái bánh răng nó quay. Khi ta hiểu Số mệnh một cách tuyệt đối.

Một lá số tử vi, trong hệ thống thuyết tử vi là một bản đồ của số mệnh. Có lý nào ta xem số mệnh chỉ là tương đối mà ta lại có thể cho lá số tử vi là một thứ tuyệt đối? Và khi đã không còn là tuyệt đối, thì đương nhiên, Cải số có giá trị của nó! Giá trị tới đâu thì còn phải phụ thuộc vào giá trị của số mệnh tiến đến tuyệt đối tới đâu. Cho dù trái đất hơn 6 tỷ người, với lý thuyết mệnh chủ, có tới hơn 6 tỷ cuộc đời - nghĩa là mỗi người chỉ có một cuộc đời ứng với số tử vi xác định như quy tắc vân tay, hay vân môi đi nữa, thì tử vi, vẫn chỉ là tương đối. Điều này là sự khẳng định về lý thuyết, chứ không phải là sự khẳng định do trình độ giải đoán. Dù trình độ giải đoán có tới tuyệt đỉnh. Thì tính tương đối vẫn y nguyên!!!

Toàn bộ lý luận trên chính xác đúng theo tinh thần Dịch lý! Đó mới là Dịch lý chân chính.

Xin các bạn nhớ cho, không hiểu điều này, cho dù đã học thuộc Dịch Kinh, đọc thiên kinh vạn quyển của sách thánh hiền, Bói Dịch như thần thì cũng chưa phải là đã hiểu được Dịch lý.

Còn tiếp.

...

Chào các bạn quan tâm.

Bàn luận lá số của một con người. Tốt, hay thì không có gì nghiêm trọng. Cho dù vẫn phải có sự đồng ý, tự nguyện của chính thân chủ. Nhưng với trường hợp không mấy tốt, thậm chí xấu xa thì dù có được sự chấp thuận của đương số. Chúng ta cũng vẫn có gì đó áy náy, bất nhã.

Nhưng ở trường hợp này, khá đặc biệt. Và cũng chính vì sự đặc biệt này mà tôi mạn phép đưa nó từ một trang web lý số khác là TVLS.net về trang nhà để chúng ta cùng nghiên cứu, xem xét và có những nghiệm lý mong rằng là hữu ích cho học thuật. Nhưng nếu như đương số có ý kiến không chấp nhận, hoặc có bất kỳ ace nào phản đối, thì dù bất cứ ở thời điểm nào, với bất cứ lý do gì, cũng xin ban quan trị lập tức xóa đi hộ cho, vâng, xóa tất cả những gì liên quan đến đương số, và đồng thời tôi cũng có lời xin lối đương số cũng như xin dừng ngay chủ đề này lại.

Cũng nhân thể, xin lối đương số trước vì sự thẳng thắn, có sao nói vậy – qua lá số – của tôi, khi giải luận lá số này. Nếu như có những lời nói quá bộc trực, hay sự luận giải thật thà – nhằm phục vụ học thuật.

Thưa các bạn quan tâm. Trước hết ta cứ bỏ quên tất cả những gì mà đương số đã có tự sự, chúng ta cũng cố gắng không có những nhận xét chủ quan – thông qua ngôn ngữ, văn phong của đương số. Bởi thực tế quan sát gần đây về giới trẻ, ngôn ngữ, ứng xử, hành vi và những thể hiện cái gọi là đạo đức đã trở nên quá xa lạ đối với lớp người có tuổi, cũng như truyền thống văn hóa đạo đức của vn ta. Như người ta thường gọi, đó là sự xuống cấp của một nền giáo dục, sự suy đồi của nếp sống văn hóa của con người vn ta những thập niên gần đây dưới sự giáo dục và thấm nhuần nếp sống, đạo đức của những người CS. Cả một xã hội dối trá, sống gấp, duy vật một cách thảm hại. Thì trách sao thế hệ trẻ, sống dưới nền giáo dục suy bại như vậy đã có thể hiện ra lối sống, văn hóa cư xử, nhận thức thiếu lành mạnh, rất con... vật như vậy. Tất nhiên, cũng có những người, những bạn trẻ có thể thoát ra được mà vẫn sống với nhân cách, đạo đức của con người văn minh, văn hóa, và trọng đạo theo truyền thống của cha ông. Có, thậm chí không ít. Nhưng không thể nói số đó chiếm đa số. Mà chỉ là thiểu số. Vì thế, cái đa số, chính là cái ta đang nói đây.

Bunatino là một cô gái, nếu bình thường thì cũng đã có thể có những thể hiện nhân cách qua văn phong như chúng ta chứng kiến. Huống chi, cứ theo số thì bunatino đâu có bình thường. Từ mệnh chủ của lá số, chúng ta xác định được chủ cung an mệnh và chủ cung an thân là sao Kình dương, và Thái dương tại tý. Kình dương tại ngọ, hãm địa, vào cách mã đầu đới kiếm. Ngoài cái sự chủ hung, nó còn là sao nói lên tính cách, cũng như bản năng của một con người của một sao thủ mệnh. Kình dương hãm tại ngọ nói lên điều gì? Có thể gói gọn vào chứ: Loạn!!! Đó là con người nổi loạn, ương bướng, liều lĩnh và bừa bãi. Con người như thế ở đàn ông thì là tên cuồng đồ, lưu manh thuộc hạng nguy hiểm. Sống trong giang hồ, trên đao dưới kiếm. Bất cận nhân tính. Nhưng là con gái, khác với liêm tham tại tị hợi. Con người kình dương thuộc loại bất chấp, gàn bướng và có cá tính nổi loạn cũng kéo theo những hệ lụy chủ về hung ách. Cương thì thì đó là tai họa giang hồ. Nhu thì đó là những dạng tai ương họa hại của những con người sa đọa, sai lầm trong cuộc sống, gặp văn tinh, hoặc sao tinh thần sẽ trở nên ân hận, suy trầm, phiền hận, chán đời, tuyệt vọng. Cụ thể như thế nào do do cách hội với những sao gì.

Ở đây, Kình dương gặp Thiên lương, được thiên lương soi rọi, giáo dục. Thiên lương không chỉ là sao lương tâm, còn biểu thị cho nhân cách, văn hóa, sự mô phạm. Chủ về lương tâm giáo dục, tư cách của một người thầy. Hội thêm văn tinh thì sớm giác ngộ, giàu trí tuệ, tri thức. Nếu thấy khoa là sự giác ngộ. Sự giao thủ kình dương với thiên lương là một đại bất hạnh cho con người này. An mệnh sẽ là đại họa về tâm tưởng. Đó là sự giác ngộ, bị giáo hóa khiến tâm tính bị đảo lộn, chao đảo dữ dội. Nặng thì đi đến tuyệt mệnh. Nhẹ thì cũng gọt tóc đi tu. Đi tu để tránh hồng trần vì tội lỗi. Nếu không gặp thiên lương, thì kình dương tội lỗi đầy mình, thì cứ tội lỗi, đâu biết mình là tội lỗi. Tới hạn thì đúng là mã đầu đới kiếm mà hóa kiếp. Đằng này, gặp thiên lương là sự khổ ải, nhọc nhằn về tinh thần.

Nhưng, ta hãy nhớ, kình dương là bắc đẩu tinh, thiên lương nam đẩu. Sự giao thoa về cường độ sẽ đưa đương số càng về hậu vận thì hoạt động của kình dương càng giảm, mà thiên lương giác ngộ càng mạnh. Chủ về hậu vận nhẹ thì đi tu cho thoát nợ hồng trần, khỏi phải tủi hổ những lỗi lầm của mình gây ra trong quá khứ.

Đó là về thiên hướng.

Thế nhưng, cái sự loạn cụ thể này nó thể hiện ra sao thì phải xét đến cái Thân hành động. Chứ cái sự loạn kia mới chỉ thấy ở trong tâm tưởng, tính cách và cái Tâm bất thiện. Được giáo dục bởi thiên lương, rồi ra hậu vận được hóa giải thế nào mà nương nhờ cửa phật, hay tu đạo, hoặc là tự cô lập bản thân, hoặc là trút những tâm tư tình cảm vào những tác phẩm hoặc là văn học, hoặc là nhật ký, hoặc là sự tư lự để đi tới minh triết về sự đời – cụ thể thì phải phụ thuộc vào sự gia hội thêm các sao khác nữa.

Thân thì sao. Thấy ngay Thái dương hãm hội Riêu Đà Cự Mộc dục là một đám ám tinh, chủ về sự dâm dục. Cái sự dâm dục này thâm căn cố đế, là sự ham muốn từ cội rễ không chỉ giàu sinh lực mà còn phong phú về trí tưởng tượng, sự kích dục bản thân. Ở đây đặc biệt ta thấy sự có mặt của thiên hình thì phải quả quyết rằng sẽ của người này thật quái đản, nhiều hình thức, lắm trò trụy lạc. Nhưng có triệt thì phải thấy rằng những hình thức trụy lạc không được phát huy, bộc lộ mà giàu tính tưởng tượng, dẫn tới sự thủ dâm. Khi thiếu vắng bạn tình thì đó là sự chủ động tự mình làm thỏa mãn cho chính mình.

Sơ lược như vậy, chưa nói tới sự trao đổi giữa mệnh và thân còn có thể bóc ra được nhiều tiêu chí, nghiên cứu được kỹ lưỡng hơn về đương số, và thật hay khi có sự tham gia của cung phu. Một phu cung thật đặc trưng.

Chính cách cục như vậy, nó đã đưa tới cuộc đời của một con người. Khi đi qua các vận hạn, tùy vào những gì mà nó gặp gỡ, sự tao ngộ đó sẽ ra những biến cố. Thậm chí có thể thấy những biến cố khó có thể tưởng tượng. Vì vậy những gì mà đương số bộc bạch, với sự tự thoại, tự trưng bày lên phương tiện đại chúng những "chiến tích" của mình, mà người ta gọi là "show hàng" cũng là một dạng biến cố đáng ngạc nhiên vậy!

Ta thường nói về sự dâm bằng câu: Loạn dâm hay dâm loạn. Nhiều người thường không phân biệt chúng, nhưng qua trường hợp này chúng ta thấy rõ sự phân biệt, loạn dâm khác với dâm loạn. Trường hợp này phải gọi là Loạn Dâm. Loạn rồi mới Dâm. Loạn về tâm tính, mà Dâm trong hành vi. Loạn là sự nổi loạn, không nhất thiết phải lang chạ lung tung như súc vật. Trong khi nếu nói dâm loạn, thì đó là loại dâm của loại như súc vật. Cần nhớ điều này mới thấy rõ cái số này nó minh bạch.

Viết đến đây, tôi cảm thấy bất nhẫn, thật không muốn viết tiếp những gì thấy được ở hạn mà đương số bộc bạch. Vậy thành thật xin lỗi đương số về bài viết trên, và nếu được phép tôi mới viết tiếp.

Thành thật xin lỗi và cám ơn sự thông cảm. Mặc dù chưa biết có được thông cảm hay không!

Thân ái.

Có thể cải số được không?

Chào diễn đàn cùng toàn thể hội viên của diễn đàn Huyền không lý số!

Nhân dịp đầu xuân, khai bút là cái việc của người làm bút, cũng là cái cơ hội của người đi học và được đi học. Âu cũng là để đi tìm cái may mắn về kiến thức, là tìm một chỗ tâm sự cho tâm hồn thư thái, tỉnh táo cùng với hơi ấm của tình người. Tôi xin viết gửi tặng các bạn một bài, là một bài có nội dung trăn trở của bao người làm lý số, những người quan tâm tới vận mệnh của mình, cũng mang hơi thở của tranh luận học thuật trường kỳ. Số lý và Lý số có ý nghĩa gì cho cuộc đời mỗi con người?

Đó cũng là câu hỏi, biết được số mạng, thì có ý nghĩa gì?

Mỗi con người, khi được sinh ra. Bắt đầu từ khi cất tiếng khóc chào đời, "đồng hồ" bắt đầu chạy. Mỗi thời khắc trôi qua, các biến cố cứ theo nhau "mà đến" với người. Phải chăng, thời gian cứ trôi, biến cố cứ đến. Biến cố dù tốt, dù xấu, cho dù ở dạng gì, việc nó đến với ta, liệu ta có thể lựa chọn được chăng?

Cái gọi là mệnh lý, cũng có nhiều quan điểm. Cho rằng vận mệnh an bài, con người ta chẳng thể tự chủ. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, vận mệnh của ta, nằm trong tay ta. Do ta làm chủ. Tranh luận trải hàng bao nhiêu năm, bao nhiêu đời, chẳng thể ngã ngũ. Giải quyết vấn đề phải trên cả hai phương diện. Lý và thực tiễn. Đối với mệnh lý, quan trọng nhất, xuất phát lại không phải từ thực tiễn mà là từ Lý. Tại sao vậy? Bởi vì cuộc đời thực của mỗi con người, khi chưa xảy ra, nếu không có mệnh lý (không nói tới những cái gọi là giác quan thứ sáu,...), chúng ta có thể nói là "chẳng biết gì". Xảy ra tới đâu, thì biết tới đó. Như thế, mọi sự trở nên phức tạp khi chúng ta có cái gọi là mệnh lý. Mệnh lý, dù nói thế nào đi nữa, cũng chỉ là để "tiên tri" cho cuộc đời con người. Tiên tri số phận của ta. Một khi biến cố đã xảy ra, tốt thì hoan hỉ, xấu thì đau buồn cũng đều nói, đó là số phận!

Theo đó, khi nói mệnh lý, ta nói rằng, mệnh lý đã tiên tri, số phận ta sẽ thế này, hoặc thế kia!!! Thế tức là, khi có biến cố xảy ra ở vào cái vận trình mà mệnh lý tiên tri đó. Ta có cái thực tiễn để mà đối chứng. Đúng thì ta nói, số phận đã an bài. Không ứng đúng, ta nói, mệnh lý tiên tri Sai!

Thường thì người ta chỉ hiểu đến đó là hết. Đúng thì nói là mệnh lý đúng, còn được dùng, còn được tin tưởng. Rủi mà sai, thì xổ toẹt, chẳng có giá trị gì, vứt nó vào sọt rác. Rồi cứ thế thành thói quen, thành quan niệm cố hữu, đã là số mệnh thì chẳng thể cải đổi, thượng đế đã an bài!!! Có biết đâu, khi ta quan niệm như thế, chính ta đã vô tình đồng nhất cái gọi là mệnh lý bất kể cái lý của mệnh đó đúng hay là sai, là cứ phải đúng cái đã. Và khi đã đúng, thì cái mà mệnh lý nói tới, chính là cái số mệnh đã được an bài bởi thượng đế rồi. Và do đó, chúng ta, không thể có khả năng nào cải đổi được nó.

Nhưng, như mọi cái Lý khác, như lý của vật mà ta có cái gọi là Vật lý, rồi Lý của hóa học, cũng thành lập nên cái môn Hóa học, Lý của toán thì ta có toán học, Lý của triết thì ta có môn triết học,... Giải một bài toán, giải đúng, ra được đáp số, nhưng khi đem vào thực tiễn lại cũng có thể cho ta nhiều đáp số của cùng một bài toán, chứ cái gọi là đáp số đúng tuyệt đối, thì đã lùi vào dĩ vãng rồi. Ngày nay chúng ta đều biết rõ nghiệm của bài toán có rất nhiều thực tiễn đối ứng với nó. Mỗi nghiệm ứng đúng một thực tế – hay thực nghiệm – đều có sự gia giảm của những điều kiện mà ta gọi là điều kiện phụ, bổ sung, hoặc do chính bản thân tính đa nghiệm, tính hỗn độn, tính xác xuất của hiện tượng, của vấn đề. Đối với khoa học, chúng ta xem xét vấn đề trên phương diện lý thuyết, và đã tìm ra được rằng, cái Lý không có sai. Nhưng sự không ứng đúng theo cách một – một đó có bản chất của tự nhiên, chứ không phải là do chúng ta có một cái khoa học sai. Khi ta có những bổ sung nhất định, thì thực nghiệm chứng minh được cái Lý của khoa học đó sẽ đúng!!!

Nhưng mệnh lý khá bị bất công. Khi không ứng đúng một cách một – một thì lập tức nó bị sổ toẹt. Chỉ để rồi trong bối cảnh nào đó, trong những may mắn nhất định, thì cái tiên tri cho người này, lại ứng đúng đối với người khác – có cùng một lá số. Vậy thì, ta chẳng thể bảo được rằng, mệnh lý đã sai!!! Cũng có nghĩa là chúng ta đã đi tới một sự xác tín rằng, mệnh lý có thể có nhiều nghiệm!!!

Nói như thế, không có nghĩa ta đã vội cho đây là sự chứng minh về khả năng cải được số mạng của ta. Mà ở đây, chỉ đơn thuần là chứng minh sự không đối ứng một – một giữa lý và số, hay nói cách khác là không có sự đối ứng một – một giữa mệnh lý và cuộc đời, hay số phận.

Một cách nhìn khác, tuy rất sơ sài, và không thể hiện được bản chất của vấn đề là sự so sánh giữa số người trên trái đất với số lượng lá số khả dĩ. Nhưng theo cách nhìn này, chúng ta dễ đồng ý với nhau rằng, một lá số có nhiều cuộc đời. Nhưng để thấy rõ bản chất mệnh lý và cuộc đời không ứng một – một thì chúng ta phải xét theo hướng lý luận trên. Nhưng chúng ta cũng không nên đem đồng nhất bản chất hỗn độn của tự nhiên, tính bất định của hạt trong vật lý với tính nhiều nghiệm của mệnh lý. Mà tính nhiều nghiệm của mệnh lý nó có bản chất từ thực tiễn. Có nghĩa là đã có sự "gắn số phận" của mỗi người vào mệnh lý, chứ không phải là từ mệnh lý áp vào số mệnh mỗi con người.

Đây chính là cơ sở của phép giải số theo lý mệnh chủ. Rằng phải có những biến cố cụ thể ứng với mỗi người, gắn vào mệnh lý của họ, rồi ta mới có được một sự đối ứng một – một giữa mệnh lý và cuộc đời. Ngày xưa, tiền nhân ta cũng có những phép giải số như vậy, trên cơ sở nhìn hình tướng mà xem số. Nhưng rõ ràng bản thân phép hình tướng cũng đa nghiệm, chứ đâu có ứng một – một giữa hình tướng của một người với cuộc đời của họ. Nó chỉ là sự chính xác hơn so với phép giải số chung chung như ta đã biết mà thôi.

Bây giờ chúng ta đi đến xét bản chất của việc cải số. Hay nói cách khác là trả lời câu hỏi, biết số thì có ý nghĩa gì?

(còn tiếp)

Thân ái.

...

Trích:

Vận gặp Thiên Không, Hóa kỵ... người biết số thì chọn con đường nghiên cứu huyền học, tu tĩnh thân tâm, học hành --> thu được sở đắc. Người không biết số thì vẫn cứ tưởng mình vẫn thông minh hơn người (Thiên không luôn đi kèm Thiếu dương - chủ thông minh hơn người) nên vẫn lao đầu vào tranh đua --> kết quả thua thiệt hoàn không (hạn gặp Thiên không)...

Tôi trích đoạn này làm ví dụ. Chẳng hạn, khi gặp vận thiên không, người biết số, nghĩ rằng có thể chuyên tâm học hành, tu tập,.... để mà "cải số". Nghĩ rằng chẳng có gì cản trở cái ý muốn của ta. Ta muốn thì ta làm, ai bắt, ai cấm được.

Thế nhưng thực tế, có người vào hạn thiên không, nói rằng sợ buôn bán, sợ làm ăn, vì sẽ phá sản, sợ cứ làm rồi lại hỏng, đổ vỡ. Thế nhưng nếu không làm, lấy gì mà ăn, lấy gì nuôi gia đình? Không đi làm ư, ai nuôi mình đây. Rơi vào tình trạng, không muốn cũng phải làm, biết là thất bại, cũng vẫn phải lao vào. Tính sao đây? Có người sẽ bảo, thế mới là số, biết rồi mà vẫn phải chịu. Chứ mà cứ nói thôi, phương án nào mà chả có, trí tuệ cao thì nghĩ ra được nhiều thứ, nói là để giải, để cải số. Vậy mà chẳng được vậy!!!

Thân ái.

..

Ở bài trên, tôi có viết một đoạn, rằng

Trích:

Chỉ để rồi trong bối cảnh nào đó, trong những may mắn nhất định, thì cái tiên tri cho người này, lại ứng đúng đối với người khác – có cùng một lá số. Vậy thì, ta chẳng thể bảo được rằng, mệnh lý đã sai!!!

Có thể sẽ có người nói rằng, nói như thế, nhưng đã có ai để kiểm chứng. Cho dù tôi có nói, tôi đã kiểm chứng rồi, thì có bao nhiêu người kiểm chứng, do đó cũng không thể mang tính khoa học được. Bởi muốn khoa học, thì sự kiểm chứng phải mang tính phổ biến. Một mình anh nói, ai tin?!

Có thể trả lời vấn đề trên bằng một chứng cứ phổ biến như sau: Khi xét lá số của một người gặp tai nạn đã mất – hoặc bị thương mang tật chẳng hạn. Với một lá số cụ thể, khi ta giải đoán bằng cách nghiệm lý, ta thấy, ừ đúng, với những thể hiện như thế, như thế trên lá số thì việc xảy ra tai nạn ứng đúng. Ta yên trí ta đã giải đúng. Nhưng cũng lá số đó, người ta cũng có thể giải ra rằng, ở vào vận trình đó, người có lá số đó không hẳn sẽ gặp tai nạn. Và câu trả lời rất rõ ràng, có rất nhiều người mang cùng lá số đó, không lẽ vào thời điểm đó, toàn bộ những người đó đều gặp tai nạn? Thực tế, đương nhiên là không!!! và chính khẳng định thực tế này là tương đương với câu nói trên của tôi.

Rồi người ta lại giải thích, sở di nhiều người khác có cùng lá số không bị tai nạn là vì... nào là phong thủy, nào là phúc đức tổ tông, v. v.... đủ thứ cái nào là.... Nhưng lại rất rõ là khi nghiệm lý, chẳng có ai lấy những cái đó, đưa vào giải đoán để rút ra kết luận là chỉ có người tai nạn mới ứng đúng mà thôi, còn người khác tuy có chung lá số, nhưng không ứng?!

Rõ ràng với cách giải đoán, cách nghiệm lý như thế vốn đã không chặt chẽ, phi logic, không khoa học tý nào. Nhưng người ta lại cứ hay coi như là đúng rồi, để bác cái mà người ta muốn bác một cách chủ quan.

Quay trở lại vấn đề. Chúng ta đều dễ chấp nhận một điều, xem như đó là quan niệm phổ biến. Xem con người, như một chủ thể, sinh tồn trong thiên nhiên, nói rộng ra là trong vũ trụ. Như một thể hiện cụ thể đó là Tam Tài thiên – địa – nhân. Trong đó quan hệ qua lại trong tam tài, phần được coi là chủ động là chiều quan hệ từ nhân ra thiên địa, phần còn lại xem ra nhân là bị động. Cái phần bị động và cái phần chủ động tác động qua lại lẫn nhau. Nghiêng về phần nào, người ta xem xét và thấy đó là chủ yếu. Nếu phần chủ động thắng thế, người ta nói rằng, con người làm chủ thiên nhiên, vận mạng của ta, nằm trong tay ta. Nghiêng về bị động, người ta thấy rằng cứ như cuộc đời ta, ý muốn của ta, tham vọng của ta hình như không phải là do ta định đoạt. Cái phần quyết định đó, nhường lại cho thiên nhiên, nằm "ở tận nơi nào đó, xa xăm trong vũ trụ", nên nói hai chữ càn – khôn không chỉ nói đến bề rộng của chiều kích, mà còn nói đến bề sâu của tâm linh, của uy lực thiên nhiên mà sức người thì nhỏ bé, bó tay phó mặc vận mạng của mình cho Chúa Trời vậy.

Con người trong vũ trụ, tương tác với vũ trụ như "đi trong môi trường thiên nhiên, vũ trụ càn khôn (nói theo đông phương học thì đó là cả thiên nhiên và xã hội). Với người thấy mình thật bé nhỏ với thiên nhiên thì số phận là một cái gì đó bất khả cưỡng. Với người thấy sức mạnh của con người, thấy được vai trò của trí tuê,... thì thấy thiên nhiên là cái gì đó có thể điều hành, tác động cải biến, do đó mà thấy số phận của ta phải do ta làm chủ. Hai loại người này mỗi bên đều tự động đi về phía hai cực đối lập nhau, đều rơi vào vị thế của sự cực đoan.

Thực tế lại chẳng như thế, theo quan điểm dịch học thì cũng đã rõ, mọi sự cực đoan đều bất cập. Nhưng nói thì dễ, quả thật để tránh khỏi cực đoan thật là khó, ngay như khoa học cũng thường rơi vào tư duy siêu hình, quan niệm siêu hình. Theo đó mà nhìn thế giới siêu hình – khoa học phương tây thời cận đại là một minh chứng. Nói như thế, thì mỗi cá thể bé nhỏ, dẫu có thiên tài thế nào, cũng khó mà thoát khỏi. Có chăng, chỉ nhờ vào cái gọi là trào lưu, là sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại mà có thể thoát ra được cái sự cực đoan này.

Dịch lý, vốn cung cấp cho nhân loại một cái nhìn không cực đoan, vốn trung thực với thế giới như cái vốn có của nó. Vậy mà, dù có thế nào đi nữa, người học nó, lâu dần rồi cũng tự mình rơi vào cái vòng xoáy cực đoan của phương pháp luận, của tư duy mà ngày càng xa rời dịch lý rất tự nguyện, tự giác. Rồi xem đó là tự nhiên, một sự đúng đắn bất khả cưỡng. Thực tế, bản chất dịch lý trong vấn đề mệnh lý hoàn toàn không khó hiểu. Để dễ hình dung, chúng ta bắt đầu từ một điểm, mà thoạt đầu chúng ta có thể thấy, nó chẳng liên hệ gì đến vấn đề ta đang quan tâm.

Mệnh lý và Quy luật.

Có rất nhiều vấn đề thuộc về quy luật, mà không thuộc về mệnh lý. Đã nói đến những gì thuộc về quy luật, thì không thể dựa vào mệnh lý mà bàn được, ngược lại cũng vậy. Như quy luật: Nhịn ăn mãi, tất chết. Nhịn thở chết nhanh hơn nhịn ăn. Lao lực quá độ, tất sinh bệnh tật. Tội ác trời bất dung thứ, tất có ngày đền tội. Giấy không gói được lửa, tội ác dẫu có bưng bít đến đâu, cũng có ngày được lịch sử phán xét....

Cái gọi là quy luật, dù nó được phát biểu bởi khoa học tây phương, hay của đông phương. Đó thuộc về bản chất vận động của thế giới, mà con người cũng nằm trong sự vận động chung của nó mà thôi. Trong phạm vi đó, con người không tách mình ra được khỏi thiên nhiên để mà có thể phán xét, điều hành, cũng như tự nhiên không thể phân biệt tài nhân như một đối tượng mà nó phải có trách nhiệm tác động lên nó, bắt nó phải tuân theo ý mình. Rơi vào quy luật, con người và thiên nhiên nhập vào làm một, là một thực thể như về toàn bộ. Không có chuyện vạn vật đồng nhất thể ở đây, xin đừng nhầm lẫn – khi nào có dịp, chúng ta có thể trao đổi về vấn đề này, là một đề tài lớn, nhưng rất thú vị. Tuy nhiên mang tính triết học sâu xa, đạo lý thâm sâu. Ở đây, chúng ta chỉ quan tâm tới mệnh lý.

Để tóm lược và minh chứng, tôi xin trích một đoạn mà Không Tử đã nói tới điều này.

Lỗ ai Công hỏi Khổng Tử. Có trí tuệ thì trường thọ phải không? Khổng Tử đáp: "người có ba cái chết không phải do mệnh chủ định, mà là do người tự chuốc lấy. Người nghỉ ngơi không đúng lúc, ăn uống không tiết chế, làm lụng quá độ thì bệnh tật sẽ kéo đén sát hại là một cái chết. Người ở địa vị thấp mà cứ phạm thượng, ham dục quá độ, yêu sách không ngừng thì sẽ bị hình phạt kéo đến sát hại là hai cái chết. Người ít mà xâm phạm chỗ người đông, nhỏ yếu mà khinh khi lớn mạnh, giận dữ mà không tự lượng sức mình, thì sẽ bị binh khí ập đến sát hại là ba cái chết. Ba cái chết kiểu ấy không phải do mệnh mà là do người ta tự chuốc lấy".

(còn tiếp)

Thân ái.

...

Rất vui khi thấy có nhiều bài viết tham luận trong chủ đề này. Đa tạ mỹ ý của mọi người. Qua các bài tham luận, có rất nhiều ý kiến khác nhau, quan điểm khác nhau về vấn đề này. Tôi không thể tranh luận với từng bài tham luận được. Có một nhận xét chung, nhưng ngay từ bài đầu của chủ đề, tôi cũng đã đề cập tới rồi. Thiết nghĩ sự tranh luận cần có, nên có những bài với nội dung trao đổi thẳng vào các vấn đề về mệnh lý. Có được sự hiểu biết – cái mà tôi đã và đang trình bày – về mệnh lý, mới hy vọng làm sáng tỏ vấn đề.

Quay trở lại vấn đề đang trình bày.

Chúng ta hãy xét bài toán mà về hình thức, có sự tương tự hữu lý với bài toán mệnh lý.

Đó là bài toán Đạn Đạo.

Một quả tên lửa được phóng lên không gian, quả tên lửa bay trong trọng trường của trái đất, với một thế hấp dẫn được xác định. Quỹ đạo mà tên lửa đó bay sẽ được xác định bởi nghiệm của phương trình, mà thuật ngữ chuyên môn, người ta gọi là phương trình đạn đạo.

Để giải được phương trình này, có những thông số cần biết trước. Đó là:

-Khối lượng của tên lửa đó.

-Lượng chất đốt cần thiết để tên lửa thực hiện trọn vẹn hành trình được đề ra.

-Loại chất đốt, cho ta sự xác định tốc độ cháy.

-Chương trình định hướng của tên lửa, được xác lập bởi những thiết bị sẵn có, - đơn giản nhất là con quay tự do, chẳng hạn.

-Cấu hình khí động học của tên lửa và vật liệu làm vỏ tên lửa – xác định được ma sát của khí quyển đối với tên lửa.

-Lượng nhiên liệu và loại nhiên liệu cần có để đạt được tốc độ ban đầu của tên lửa khi rời bệ phóng.

-Hướng xác định của bệ phóng – thường là phóng thẳng đứng so với mặt đất – đối với tên lửa hành trình có tầm xa.

Đó là những thông số cơ bản nhất để chế tạo và có được một tên lửa hành trình, có thể tác chiến được nhằm phục vụ yêu cầu chiến đấu. Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác nữa, nhưng về cơ bản của kỹ thuật, đó là những thông số cần thiết. Khi đã có, quỹ đạo của tên lửa khi được phóng lên sẽ được xác định hoàn toàn.

Khi tên lửa bay trong không gian, trong trường trọng lực. Quỹ đạo được xác định, tên lửa "có nhiệm vụ" bay theo quỹ đạo đó. Khi đã rời bệ phóng – nếu không phải là tên lửa thông minh – thì quỹ đạo sẽ không thay đổi được. Và tên lửa chỉ có việc bay đến mục tiêu.

Khi tên lửa rời khỏi bệ phóng, gia tốc và hướng bay được xác định và cùng với các thông số như chúng ta vừa mới liệt kê thì một quỹ đạo cho tên lửa bay tới mục tiêu đã được vạch ra. Quỹ đạo này chỉ có thể thay đổi khi xuất hiện những tác động của ngoại trường lên tên lửa. Những yếu tố này rất nhiều, chẳng hạn như bị tên lửa đánh chặn của đối phương bắn trúng, khi ấy không phải là tên lửa thay đổi đường bay, mà còn có thể bị hủy diệt, vĩnh viễn không thể bay tới mục tiêu. Hoặc nếu là tên lửa thông minh, đường bay được điều khiển bằng thiết bị GPS, có thể tránh được tầm kiểm soát của ra đa đối phương, có thể bay tránh được những vùng khi tên lửa bay qua sẽ bị tấn công, hoặc bay tránh những vùng có điều kiện địa hình hay thời tiết bất lợi cho việc công kích.

Không những thế, lượng nhiên liệu cho tên lửa đảm bảo đầy đủ cho hành trình là yếu tố quyết định cho tên lửa có tới được mục tiêu hay không. Trong hành trình, vì lý do nào đó mà nhiên liệu bị hết sớm, đương nhiên tên lửa sẽ rơi. Hay khối lượng tên lửa quá lớn, loại nhiên liệu không đảm bảo đưa tên lửa đạt được gia tốc ban đầu cần thiết thì quỹ đạo bay cũng sẽ không thể đạt được như mong muốn, như để vượt ra khỏi sức hút của trái đất, bay theo quỹ đạo tròn quanh trái đất mà không bị rơi trở lại thì có tốc độ vũ trụ cấp 1, cỡ 7,9 km/s. Tốc độ vũ trụ cấp 2 cỡ 11,2 km/s, là tốc độ để tên lửa thoát khỏi sức hút trái đất, bay tới mặt trăng, còn có tốc độ vũ trụ cấp 3 là tốc độ thoát ly khỏi sức hút của trường hấp dẫn của mặt trời,... Tùy theo mục đích muốn đưa tên lửa tới đâu mà tốc độ ban đầu sẽ quyết định. Khi đó sẽ ứng với loại nhiên liệu cần thiết, cấu hình và trọng lượng tương ứng,... cho tên lửa, chứ không phải là khi tên lửa có tốc độ cấp 1 rồi, thì lại thay đổi ý kiến muốn đưa tên lửa bay ra khỏi sức hút của mặt trời, nghĩa là ứng với tốc độ cấp 3 mà được đâu! Muốn đạt được, phải xác định ngay từ đầu, để tên lửa rời bệ phóng, tốc độ ban đầu phải đạt được cấp 3 rồi.

Như thế ta thấy rằng, chỉ đối với tên lửa thôi mà muốn thay đổi quỹ đạo bay của nó đã nhiêu khê rồi. Với trang bị GPS, ta có thể thay đổi đường bay tới mục tiêu, nhưng cũng chỉ loanh quanh ở độ cao nhất định, chứ không thể thay đổi độ cao thế nào cũng được, hoặc giả hạ độ cao thì được, hoặc thay đổi quỹ đạo với độ cao không đổi thì được, chứ không thể bắt tên lửa thay đổi hành trình bằng cách bay ra khỏi sức hút trái đất, tiêu dao chán ngoài không gian rồi mới quay trở lại trái đất để tấn công mục tiêu. Cũng thế, phải xác định hành trình bay sớm để cung cấp đủ nhiên liệu ngay từ đầu cho nó, còn khi đang bay, lúc đầu muốn nó có hành trình 1000 km, sau lại đổi ý, muốn nó bay với hành trình 8 km, thì chắc tên lửa cũng bó tay.

Với máy bay thì thông minh hơn, vì có con người lái, có thể tiếp dầu trên không,... nhưng cũng dễ thấy ngay rằng, cũng có giới hạn của nó. Máy bay lạc hậu so với máy bay tân tiến, thì sự thực hiện hành trình bay cũng khác nhau nhiều, chất lượng thực hiện hành trình bay cũng khác nhau xa.

...

Bài toán này có thể mở rộng cho đối tượng bất kỳ, ở dạng tổng quát, đó là bài toán vật thể bay trong trường tác dụng. Xem con người như một thực thể, tồn tại trong mối tương quan chủ thể và khách thể, với cách hiểu, khách thể là tài thiên – địa, mà chủ thể là tài nhân, thì về hình thức, chúng ta có những tương tự với bài toán trên vậy.

Cho nên, về hình thức, chúng ta có thể xét chúng như cặp đối ngẫu. Xin thưa không phải là đối ngẫu Langland. Đó là đối ngẫu về bản chất, đối ngẫu hình học – đại số, đã được chứng minh trong toán học. Còn đối ngẫu ở đây, chỉ là một hình thức mà thôi, xin đừng lôi chuyện nọ xọ chuyện kia, tẩu hỏa nhập ma đó.

Cho nên, về hình thức, chúng ta hoàn toàn có quyền so sánh từng cặp.

Mệnh lý – như bài toán lý thuyết đường đạn vậy. Ở đây, những thông số ban đầu của tên lửa cho ứng với tứ trụ, nghĩa là thời gian mà đương số được sinh ra. Ứng với thời gian xác định – tứ trụ – thì có một lá số xác định – như một tên lửa được ra đời, được đặt lên bệ phóng. Cho nên, muốn tên lửa bay cao tới đâu, phải có loại nhiên liệu tương ứng. Cũng vậy, con người, khi được sinh ra, tứ trụ của họ đã xác định họ có "một khoảng không gian" xác định rồi, mỗi khoảng không gian đó, như một thiên hà đối với một hành tinh vậy. Đi từ lá số này sang một lá số khác, cũng tựa như ta bay từ thiên hà này sang một thiên hà khác. Mà với trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay, tốc độ vũ trụ cấp 4, 5 chúng ta còn khó khăn trong việc thực hiện, thì muốn ra khỏi thiên hà, có làm nổi không?

Nhưng thay đổi trong Khoảng Không Gian của cùng một lá số, thì lại không phải là việc không tưởng. Nhưng cũng là bài toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Không phải thay đổi muốn thế nào được thế ấy. Cũng giống như hành trình tên lửa. Cho dù không bắt nó phải thay đổi độ cao, bay cao hơn, ra khỏi sức hút trái đất, nhưng muốn thay đổi hành trình cũng phải tuy vào trang bị của nó. Như đối với định hướng cổ điển thì chúng chỉ có thể bay theo hành trình xác định. Nếu thay vào đó bằng định hướng có điều khiển, trang bị thêm thiết bị dẫn đường, thì hành trình trong khuôn khổ không thay đổi độ cao, không bắt nó bay xa hơn quá lượng nhiên liệu dự trữ cho phép, thì nó sẽ thực hiện được. Nếu như nó trúng phải tên lửa đánh chặn, thì có khác gì một tai nạn giao thông, Còn nếu muốn nó thay đổi hành trình, hay tiêu diệt nó, lại không dùng tên lửa đánh chặn, mà dùng súng trường, hay súng lục thì sao nhỉ? Không nói cũng tự biết, khác nào đem xe đạp đâm vào vào xe ô tô để hy vọng xe ô tô tan nát, người lái xe bị thương?

Những người nghĩ đến chuyện Cải Số, có bao giờ nghĩ đến chuyện như thế này không nhỉ? Hay là cứ thấy nói đến hai chữ Cải Số, là cho rằng mình đã thử Cải rồi, Cải mà không được, rồi kết luận rằng, Ta đây đã Cải rồi mà còn không được, thì ai có thể Cải được số đây???!!! Vậy Ta là Chúa trời chăng? Khiêm tốn thì bảo, không, ta chỉ là người bình thường!!! thế tại sao, mới chỉ thử Cải, không cải được, đã tự cho là không thể Cải số?

Mỗi mục tiêu cải số, trên tử vi, đều ứng với những cách cục, ứng với những tinh đẩu nhất định. Có sao to, có sao nhỏ. Với sao to, khác nào tên lửa muốn bay vào không gian vũ trụ. Với sao nhỏ, chỉ là tên lửa muốn bay tránh vùng có thời tiết không thuận lợi cho việc công kích mà thôi. Cho nên, ngay trong lòng một lá số, muốn Cải, cũng còn tùy vào mệnh chủ của ta, to hay nhỏ, là cách cục hay sao đơn? Mệnh chủ to, kể từ lục sát tinh trở đi, từ thái tuế trở đi đã là sao to rồi, mà nếu mệnh chủ là cách cục thì nó còn to nữa. Muốn thoát khỏi nó, lấy gì để thoát. Như cách cục đi tu, tử tham kiếp không mão dậu, muốn thoát khỏi tu, muốn làm sư ăn thịt, cũng khó lắm. Nhưng với người trần mắt thịt, cách cục thông thường, ai cấm anh tu, anh không tu được ở chùa, thì cấm gì anh tu tại gia. Anh muốn lấy vợ mà vẫn tu, người khác bảo là anh tu... hú, nhưng cái tâm ta được giải thoát, thế không gọi là tu sao? Ai cấm anh, đâu cứ phải anh chiếm bằng được cái cách tử tham mão dậu phùng kiếp không dán vào mình, rồi mới bảo như thế là Tu, để dạt cho được Chân Tu???? Anh tu rồi, nhưng lại muốn đắc đạo, muốn làm một chân tu, mà anh lại đòi tu tại gia, anh vẫn lấy vợ sinh con, đẻ cái thì làm sao được? Mà cái Không Gian Lá Số của anh, nó có cách cho anh tu không đây? Nếu không có, thế ra anh muốn nhảy từ lá số này sang lá số khác ư? Vậy phải xem anh có đặt được vận tốc thoát ra khỏi thiên hà không cái đã! Với tên lửa, những thông số ban đầu quyết định hành trình – vận mệnh. Với con người, anh muốn quyết định vận mệnh mình – trong khuôn khổ lá số, thì anh cũng phải có cái Tâm, cái Trí, Cái Dũng, Nghị lực. Tùy mệnh chủ của mình mà cái Tâm, Cái Trí,... đó lớn hay nhỏ, vừa phải hay phải rất lớn mới làm nổi. Như anh mắc nghiện cũng vậy, đâu phải việc cai nghiện ai cũng giống ai. Có người cai không khó lắm, có người vật vã, có người phải trả giá bằng sinh mạng. Bởi vì nó còn tùy vào cái cách cục gây ra nghiện của thân chủ vậy. Cách nhỏ thì vượt không khó, nhưng cách đủ to thì khó lắm, vô phúc lại vớ phải cách Hỏa Linh Hình Kỵ Riêu, chỉ một sao thôi, cũng đủ táng mạng rồi. Không phải là anh có đủ Dũng, Nghị lực hay không nữa, mà còn phải có sức khỏe, có Tâm, và Trí cùng với sự giúp đỡ của xã hội nữa.

Sau khi anh thoát ra khỏi bệnh đó, anh sẽ đạt một trạng thái mới, mà thường gọi là vận hội mới. Vận hội này sẽ xác định cho anh một vận tốc và hướng mới, hay là mệnh chủ mới, mệnh chủ này có thể gần với mệnh chủ cũ, như thế sự thay đổi số mệnh sẽ không bao nhiêu, nhưng nếu mệnh chủ mới là sao to, khác nhiều so với mệnh chủ cũ thì cuộc đời anh sẽ có những bước ngoặt. Giải trên lá số, người giải số vẫn giải cùng lá số ấy thôi, nhưng nếu không giải theo lý mệnh chủ, sẽ không hiểu là có cải số, mà vẫn giải trên lá số ấy, với những cách cục xác định, cho ta những tiên tri mới. Có biết đâu, những cách cục cho tiên tri mới đó, người giải số như thế không có cách nào xác minh được người có số đã có số phận khác rồi. Và như thế cứ đinh ninh rằng, chẳng có cải số, nếu anh ta đoán đúng, còn nếu đoán sai thì lại đổ thừa tại giải không trúng, trình độ kém,....Trong khi, với phương pháp giải đoán đúng, chẳng có lý do gì lại phải tự nghi ngờ mình rồi phủ nhận chính mình, phủ nhận học thuật của mình!!!

p/s. Htruongdinh muốn đưa một trường hợp nào đó thì xin cứ tự nhiên. Mọi người cứ thảo luận thoải mái.

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi TanLen73 Xem bài gởi

Bác Vuivui ví con người với tên lửa thì xem ra không hợp lý. Vì nếu tên lửa bị hỏng hóc nhỏ thì nó cứ phải nằm đó thôi nếu không có con người sửa chữa cho, các loại máy móc khác cũng vậy. Nhưng con người thì khác, nếu họ bị bệnh tật, nếu bệnh nhẹ thì cơ thể tự đào thải bệnh tật và bệnh tự khỏi, thậm chí nhiều bệnh nặng mà họ tự luyện tập cũng tự khỏi, còn những đồ vật không thể tự khỏi bệnh được. Chiếc đồng hồ hay Tên lửa tự hỏng chắc nó phải nằm chết, con người thì không vậy. Đó mới là cái hay của con người, cho nên có Bác sỹ còn cho rằng chữa bệnh cực dễ.

Tôi nghĩ đây cũng là lý do để con người có thể cải đổi vận mệnh.

Vài lới tham khảo

Kính

Tanlen nói tôi ví con người như tên lửa là sai. nên đọc kỹ lại bài tôi viết. Tôi nói rẩ rõ rằng, lấy bài toán về đạn đạo là một sự so sánh về hình thức, liền đó còn nhắc nhở đừng lôi cái gọi là đối ngẫu - mà hiện đang trở thành mốt thời thượng bởi cái đối ngẫu Langland với bổ đề cơ bản mà NBC được mề đay đó. Đó là một sự so sánh tương đối, trên hình thức luận là chấp nhận được mà tôi đã chứng minh rõ. Chứ không phải là Ví Như, hay là một sự đồng nhất!!! Vì thế cái vấn nạn mà Tanlen đưa ra, không có ý nghĩa gì ở đây cả. Đây là phương pháp tư duy cơ bản của con người - phương pháp so sánh - mà con người, từ dạng thấp nhất về trí tuệ cũng đã có sự sử dụng, và hơn nữa, trong lý học lại rất hay dùng. Như phép gán Tượng cho Quái là một ví dụ. Quái Càn có tượng là Vua cha, là Con ngựa già, là Trời, là.... Tượng là cái mà Giống, là cái mà được đem ra để so sánh - về tính, về lý của quái, để mà lấy đó mà xét biến hóa của quái, để mà thấy cái Hình của quái,... Nhưng như thế, không có nghĩa là ta đã ví quái càn là vua, cũng không vì thế mà suy ra vua là con ngựa già???

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi HacLongGiangzzz Xem bài gởi

Thưa bác vuivui, bác có nói đến cách Hỏa Linh Hình Kỵ Riêu dẫn đến tên lửa gặp nạn, so với cách Hỏa Linh Hình Việt Phi được lưu truyền giường như có hơi khác, phải chăng không cần Việt thì vẫn thành cách?

Bác có nói rằng bác đã xây dựng thành công lý thuyết về cấu trúc lá số cũng như cách an sao, cháu xin được hỏi lý thuyết này cho kết quả về Hành của sao, Quy tắc an sao, và Vị trí miếu vượng đắc hãm của các sao có khác gì so với Quy tắc an sao trong sách của VĐTTL không? chẳng hạn như: An tứ hóa cho tuổi Canh, Nhâm; sao Thiên trù hành gì, an sao Thiên trù như thế nào; Song Hao đắc tại đâu? Sao Thiên Hình có hành Hỏa hay hành Kim,...

Cháu xin cảm ơn bác.

-Tôi nêu hỏa linh hình kỵ riêu là có tính cách liệt kê những sao, dù chỉ khi đơn thủ, nó cũng tác họa mạnh mẽ, làm ví dụ. Chứ không phải đó là cách cục.

Theo cấu trúc sao của bảng tử vi mà tôi xây dựng, trước hết về 14 chính tinh, và bảng tứ hóa, hầu như là đúng theo Vân Đằng Thái Thứ Lang. Tuy nhiên bảng tứ hóa có một vài khác biệt, có lẽ cũng không phải là khác với VDTTL mà là do các bản in có khác nhau. Theo đó thì tôi xác định, như Tuổi Canh thì tứ hóa sẽ là: Nhật - Vũ - Âm - Đồng, mà không phải là Nhật, Vũ, Đồng, Âm. Tuổi Nhâm là Lương - Vi - Thiên phủ - Vũ khúc. chứ không phải là Lương, Vi, Tả phù, Vũ khúc.

Về miếu vượng đắc hãm của các chính tinh, cũng có một số khác so với bản in của tôi, như tử vi ở hợi là bình hòa, sát ở hợi đắc địa, trong khi ở một số tài liệu khác, hay bản in khác mà tôi được biết thì tử vi thất sát ở hợi đều là vượng địa. Với tôi thì tử sát tại tị mơi vượng địa. Tử vi tại tý là bình hòa. Có một số tài liệu thì cho rằng tử vi tại tý vượng địa.

Chẳng hạn thế.

Song hao đương nhiên hành Hỏa, miếu tại mão dậu và dần thân. Còn lại đều hãm địa. Thiên hình hành kim, là dương kim. Miếu tại Thân, vượng tại Dần. Kỳ dư đều hãm. Thiên trù hành thổ. Cách an như thái thứ lang thôi.

Có nhiều sách viết thiên trù hành hỏa. Điều này sai.

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi Whitebear Xem bài gởi

Thưa chú VV.

Cháu xin hỏi, tại sao Thiên Phủ lại xuất hiện trong bảng an Tứ hóa? Có cơ chế gì không ạ?

@Gấu Trắng

Tất nhiên là phải có cơ chế. Cơ chế này nằm trong nền tảng chung của bài toán tứ hóa, và bài toán tứ hóa lại nằm trong bài toán lớn về nguồn gốc bảng tử vi. Để giải bài toán về nguồn gốc tử vi, việc đầu tiên là phải giải thích được sự tồn tại thiên bàn 12 cung với những mô tả như chúng ta đã biết hiện nay. Phải nắm được bản chất dịch lý của các phép chiếu, hội hợp, phá cách và hợp cách thực chất là gì theo đó chúng có thể được vận dụng như những "phép toán" trong lời giải của các phương trình vậy. Tiếp theo phải lý giải được quy luật nạp âm ngũ hành, sự hình thành cục, hành bản mệnh là cái gì và tại sao cổ nhân lại cho đó là Bản mệnh mà không phải là Mệnh được an tại cung mệnh, hay như cục vậy? Rất nhiều vấn đề, phải làm rõ trước khi đi vào hệ thống tinh đẩu. Cái quan trọng nhất là phải chứng minh rằng chúng thực sự tồn tại, và chúng phải thế trên nền tảng của tử vi - chứ không lại thành môn khác mất rồi! tử vi như là một biểu diễn mệnh cũng như tử bình hay nhân tướng,... vậy, chỉ là những biểu diễn khác nhau về mệnh thôi, do đó nó phải có chung một hệ thống lý thuyết tổng quát mà tử vi chỉ là biểu diễn trong số các biểu diễn khác nhau mà thôi. Như (một cách hình thức) biểu diễn Schrödinger và biểu diễn Heisenberg đối với vật lý lượng tử vậy.

Bởi vậy, việc nói cơ chế tứ hóa, dù chỉ là với một can Nhâm thôi, cũng sẽ là một hệ liền mạch của cả hệ thống.

Nay tôi chỉ nêu một số gợi ý, để có thể thấy tính hệ thống của nó mà thôi.

Không như nhiều tử vi gia khác xem tứ hóa như là Hóa khí của bốn mùa - thực ra chúng ta hoàn toàn có thể thực chứng được vấn đề này, nhưng nhiều người lại "cố tình" lờ đi, hoặc cố tỏ ra là vấn đề phải thực chứng là không tồn tại - để có thể thấy được là hóa khí bốn mùa có "vào" tử vi hay không. Tứ hóa, đơn giản chỉ là Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ Khí mà thôi. Không cần thiết phải vễ vời nào là cho rằng Lộc là hóa khí của mùa xuân, quyền là hóa khí của mùa hạ, khoa là hóa khí của mùa thu, kỵ là hóa khí của mùa đông. Để rồi từ đó tìm những tính chất của bốn mùa mà ghép cho tứ hóa. Từ đó dẫn tới nhiều tính lý của tứ hóa "lạ lẫm" mà người ta cứ thản nhiên chấp nhận.

Khi chúng ta hiểu về Khí trong đông phương học, liên hệ với can chi, với thần sát,... chúng ta sẽ hiểu được khi biểu diễn các tinh đẩu của tử vi, có một số tinh đẩu, khi nạp Can, sự biến hóa sẽ xuất hiện và nảy sinh tứ hóa. Những quy tắc xác định tứ hóa sẽ xác định bảng tứ hóa mà trong đó Can nhâm thì lương vi phủ vũ được thấy rõ.

Sau khi có sự xác định như thế, xét về nhiều mặt ứng dụng và tính lý, chúng ta cũg sẽ thấy sự hợp lý, liên hệ, can nhâm, tử vi hóa quyền thì lương phải hóa lộc, vũ phải hóa kỵ - nghĩa Ẩn đi - thì Thiên phủ phải Hiện ra.

Thân ái.

...

Lan man chút chuyện lý học và tử vi.

Kính chào mọi người - thành viên của diễn đàn huyền không lý số!.

Mấy hôm nay vào diễn đàn mấy lần, mỗi lần vào là một lần viết bài, nhưng kỳ lạ thay, hễ cứ post vào diễn đàn là bài viết biến đâu mất tiêu. Kỳ lạ là ở chỗ, bài viết được viết dưới một chủ đề mới mà tôi lấy tên - tử vi là gì. Mở đầu mỗi bài viết, đều là chúc mừng diễn đàn huyền không lý số cùng với lời chào kính trọng tới toàn thể anh chị em thành viên cũng như các bạn đọc xa gần đã ghé thăm trang web này. Bây giờ cũng vậy, viết thêm một lần nữa lời chúc và kính chào mọi người - nhưng đặt tên chủ đề khác với trước, xem thử thế nào?. Ngồi ngẫm nghĩ, không biết có phải là cái tên chủ đề - tử vi là gì - nó có to nhớn quá hay không?. Hay là "Thiên cơ" chưa được phép tiết lô?.

Thôi thì xem đó như là một "định mệnh". Mọi sự cứ để tự nhiên, tới đâu hay tới đó.

Cũng định mở một "phòng giải đoán tử vi" với ý định, người thiên hạ, giúp người thiên hạ. Nhưng còn đang vướng bận, chưa kết thúc được chủ đề cùng mục đích ở bên tử vi lý số. Đành xin khất lại, khi kết thúc, thì chuyển phòng giải đoán đó sang bên này.

Nói đến đây, lại mấy hôm trước có đọc chủ đề do anh Vân Từ lập ra, "Một lá số nhiều cuộc đời". Thấy cũng có nhiều ý kiến ra vào. Nếu là ở bên Tử Vi Lý Số, thì tôi cũng vốn là bỏ qua. Ai muốn bàn sao thì bàn, nói sao thì nói. Tôi chưa công bố sách, thì cứ "bình chân như vại", "bình thản như không". Nhưng ở bên nay, Tôi không muốn những ai đã vào đây, lại có sự ngộ nhận, cũng như hiểu biết sai lệch về tử vi nói riêng và Đông phương dịch lý nói chung. Nên, nhân đây, cũng có đôi lời:

Vốn Tử vi, những người sáng lập ra nó, hay sự tồn tại của nó, chỉ là - chỉ là thôi, nhưng đã to tát biết nhường nào - xem bói!!!, nói cho có vẻ sang là, nghiên cứu cuộc đời con người, hay nói theo mệnh học, là nghiên cứu về số mạng con người, với một bộ số liệu gồm năm - tháng - ngày - giờ sinh của người xem số. Bởi vậy, hai tiếng, tử vi cùng với người giải số (thày bói) vừa bị người đời coi thường - vì mê tín - vừa bị người đời tò mò. Lại khơi gợi sự tín ngưỡng ở nơi mỗi con người mỗi khi cuộc đời "sa vào địa ngục. Còn khi, cuộc đời lên hương, thì tử vi cùng với thầy bói, lại "được" đặt dưới Đít của các Vị đã từng tín ngưỡng trong một thời khốn khó!.

Nên, Tử vi và cái nghiệp xem Bói. Nó Bạc lắm. Đừng học nó làm gì. Mà ngộ nhận về nó, thì người ngộ nhận lại càng tai hại. Hậu quả nhiều khi vô lường!.

Tử vi, tự bản thân, từ khi nó được sinh ra, vốn nó đã mang trong mình nó nhiều vấn nạn!. Nhưng có thể đoan quyết rằng, những vấn nạn gặp phải này, hầu hết là do... Không Hiểu tận gốc nền lý học đông phương. Mỗi người quan tâm, lại vốn có óc tò mò, vì cái sự huyền bí của nó, thêm vào cái óc tưởng tượng phong phú, mà nhào nặn một cách vô tình, cũng như có ý thức bởi những dục vọng nhất định nào đó, nên mới ra nông nỗi. Rồi thì, vấn nạn thăng hoa, khiến cho tử vi, cũng như lý học đông phương ngày càng trở nên phi lý, mê muội, dần dần trở nên cực đoan cả về hai phía. Phía tích cực thì cố gắng "gào" cho thật to: Nó là Khoa học, mà chẳng làm được cái gì để khẳng định tính khoa học của nó. Phía kia thì cũng La Hét thật lớn rằng: Đồ mê tín - dị đoan. Cũng lại chẳng làm được gì để mà xóa bỏ nó. Bởi vì, chính hắn, khi thất cơ lỡ vận, lại "rón rén" tìm đến để xin "một quẻ" xem khi nào thì Đời Con Khá Lên, Thưa Cụ!. Gớm, sao nói ngọt ngào thế!. Chả bù cái lúc anh chửi người ta!. - hi hi.. Rát Cả Mặt. Thậm chí các Quan lại còn Đốt sách, bỏ tù những các Thày. Khổ thay!!!. Cũng vì điều này. Hậu nhân ngày nay, chịu bao thiệt thòi, Không có Sách (thật), Không còn Minh sư. Thành ra, phần nhiều tự học. Chỉ có Hải Ngoại, một thời, lý học đông phương được coi trọng ở miền nam, năm 1975, những người tâm huyết và một số thầy còn sống sót, may mắn được ra hải ngoại, gìn giữ và sưu tập được một số ít, tuy vẫn còn hiếm hoi. Nên, nếu có một cái nhìn tổng quát, thì không thể phủ nhận, lý học đông phương và tử vi, chắc tử bình cũng vậy ở hải ngoại thì chính tông!. Còn ở quốc nội thì lâm bệnh: Trăm Hoa Đua Nở!. Đáng tiếc, phần nhiều là Hoa Dại!. Về Lý học, mang đạm màu Triết học của đông phương, ngay cả các Vị được xem là những Học giả, mà Tôi biết còn là Hàng đầu, lại rất chi là ú ớ!.

Đáng buồn chứ không đáng vui.

Huyên Không Lý Số, có tham vọng... hay chăng?... dù chỉ là gìn giữ!! Sá gì cái gọi là Dịch Kinh của ai?. Tử vi là của ai?. Bởi vì, ở cả hai nơi, dù là Tàu, hay VN, đều có thể hiện chứng bệnh: Trăm Hoa Đua Nở kia mà. Làm sao có thể lấy cái Khuyết của người ta mà chê, mà bai, để giành cái chân lý về cho mình được?. Cái quan trọng là, cống hiến thế nào, thì được đánh giá như thế. Người cống hiến có quốc tịch gì, thì nước đó đại diện mang danh sáng tạo ra cái cống hiến đó!. Vậy thôi. Như Einstein lập thuyết tương đối, ổng là người Do Thái, mang quốc tịch Đức, thì Dân tộc do thái tự hào, Nước Đức tự hào. Chả đúng hay sao!.

Thế nên, nghiên cứu, tìm tòi, hầu có nhiều cống hiến. Văn hóa là của chung nhân loại. Mấy anh tàu, khi nói chuyện với Tôi, cứ khoe Khổng Tử này nọ. Nhưng khi Tôi phê: Khổng Tử nhà chúng mày là Vạn Thế Sư Biểu. Chúng tao học đến đâu, biết Ổng vĩ đại đến đó. Nhưng có mấy cái, Sai Toét. Nói ra, chúng mày cũng tắc họng. Thì hay ho gì mà khoe. Nếu Tao khoe rằng: Khổng tử nhà chúng mày sai toét, tao đúng, chẳng lẽ Tao hơn được Khổng Tử à?. Sai phải không!!!. Nhưng bảo Khổng tử vĩ đại, lấy đó mà khoe, mà làm cao với chúng tao, thì không được. Kính nhi viễn chi thôi!!!. Đời nào, biết đời ấy. Cái chí là để cho Tâm nó Tĩnh, Óc nó sáng. Thế mới học được cái hay của tiền nhân, biết được cái dở của tiền nhân!.

Thôi, dài rồi. Buổi đầu gặp mặt, mà cứ lan man. Chẳng ra sao cả. Xin thứ lỗi!.

Thân ái.

...

Xin cảm ơn thịnh tình của các anh Vân Từ, anh Văn Hoài cùng anh chị em đã đọc chủ đề này.

Như đã nói, tử vi vốn đã có nhiều vấn nạn, hầu hết là do không hiểu đến nơi đến chốn, rồi phóng tác. Một trong những vấn nạn, mà nhiều người nhắc đến, xuyên suốt một chiều dài lịch sử cận đại. Đó là số lượng lá số tử vi là rất ít so với số người thực tế hiện sinh. Theo tính toán, số lượng đó chỉ hơn nửa triệu lá số. Vậy mà, chả nói đâu xa, ngay chỉ ở việt nam không thôi, đã có số dân lên tới gần 90 triệu người. Cái lý tự nhiên là buộc mỗi lá số phải "gánh" nhiều hơn một cuộc đời. Và như vậy, hiển nhiên, một lá số không thể, dù bằng lý luận kiểu nào, chỉ tương ứng với một người xác định nào đó. Đó là lý do đầu tiên, dễ thấy nhất cho những người không hiểu tử vi, và cũng chả cần hiểu, để bôi bác!. Nếu hiểu thêm chút nữa về chiêm tinh học, thì người ta sẽ ngưỡng mộ chiêm tinh học tây phương, bởi mỗi lá số được chính xác tới từng phút. Thế nhưng, tử vi vẫn là tử vi, vẫn có những lời giải đoán kỳ quái, chính xác tới độ chiêm tinh cũng phải kính ngưỡng!. Người bạn tôi, vốn là một nhà sử học, cũng là một viện sỹ hàn lâm, giáo sư, nghiên cứu nhiều năm về chiêm tinh, cũng phải sửng sốt trước cái uyên thâm của tử vi, cũng như tính cụ thể và độ chính xác của nó!!!. Ông ta có nói. Chiêm tinh học có hạnh phúc một thời đã được các nhà toán học, vật lý học, cũng như triết học châu âu, vì sinh kế mà nghiên cứu nó, như Kopecnik, Gauss,... Chính họ bằng kiến thức và trí tuệ của mình đã tạo nên phong cách, phương pháp luận cho môn chiêm tinh học.

Tử vi, vốn ngày xưa, Tiền nhân đâu có vấn nạn số lá số ít ỏi này. Tiền nhân ta vẫn giải đoán chính xác, nhưng đáng tiếc, những huyền thoại về một lá số đoán cho nhiều cuộc đời lại không thấy ghi lại trong sử sách, cũng như truyền khẩu. Bởi vậy, có thể võ đoán rằng, vấn nạn này đã được lờ đi. Tử vi được sử dụng như một công cụ, mà không được thâm cứu cho đàng hoàng. Có chăng, chỉ là những bổ sung nhằm phục vụ cho những lợi ích trước mắt.

Khái niệm Mệnh chủ - do Tôi được đưa ra, vốn không phải là nhằm vào mục đích giải quyết vấn nạn này. Trên tuvilyso.net có người cũng đưa ra và nghiên cứu nó. Chỉ đáng tiếc, nó được đưa ra hơi muộn, sau khi Tôi đã chứng nghiệm trên dưới 20 lá số bằng pương pháp xác định mệnh chủ - nếu sơm hơn, thì có thể mọi người có quyền nghĩ rằng, Tôi đã học được từ người này chăng?.

Nhưng điều quan trọng mà Tôi cần phải nói, nếu các bạn có quan tâm tới lý thuyết mệnh chủ đó thì hãy tìm hiểu cho thấu đáo, tránh tình trạng Râu ông nọ cắm cằm bà kia. Bởi lý thuyết mệnh chủ mà Tôi đề xướng hoàn toàn không có bản chất như vậy. Cách tìm mệnh chủ, dù người ta cố gắng đoán ra, cũng vẫn cứ là không phải. Và đặc biệt là cách dùng mệnh chủ, lại càng phải thận trọng. Bởi dùng sai, đương nhiên dẫn đến kết quả sai. Như nhiều người, có một thời tôn thờ phương pháp sao treo, sao rung bởi những kết quả giải đoán kinh ngạc của nó. Cũng đã có cố gắng học hỏi và tìm tòi phương pháp đó, để mà sử dụng. Nhưng hỡi ôi, tất cả đều đi vào bế tắc, dẫn đến tẩu hỏa nhập ma. Để rồi khi dùng không được thì nguyền rủa nó, vứt bỏ nó. Thậm chí, khi thấy nó xuất hiện trở lại thì có thái độ kỳ thị!.

Mệnh chủ, tổng quát hơn sao treo rất nhiều. Nền tảng của nó không cùng một nền tảng của sao treo. Song về hình thức, có thể xem sao treo như một người bạn xa nhau lâu ngày gặp lại vậy!. Mệnh chủ có những quy tắc xác định với tính chất khẳng định, chứ không phải bằng linh cảm, không phải bằng sự ứng hợp, như tìm dụng thần trong tử bình. Nếu hiểu như là tìm dụng thần thì đó là một tai họa cho tử vi. Tìm mệnh chủ, có đầy đủ điều kiện cần và đủ. Thiếu chúng, dù chỉ một điều kiện nhỏ, cũng đưa tới sự mơ hồ cho việc xác định mệnh chủ, khiến cho luận đoán rơi vào sự thiếu quyết đoán.

Nhưng vai trò của mệnh chủ không dừng ở chỗ giải đoán. Nếu các bạn quan tâm đã từng nghe nói, Tôi đã từng có một chủ đề gọi là Cải Số, thì Mệnh chủ chính là chìa khóa để giải quyết nó. Tuy rằng, có thể nói, cho đến nay, vấn đề cái số tôi đã chứng minh được nhiều mệnh đề và có tính ứng dụng khá đặc sắc. Song phải nói thẳng rằng, Cải số, thật vô cùng khó.

Một lá số trong chủ đề giải đoán cho những người được hứa bên tuvilyso.net đã được dùng để giải đoán cho người cha - lá số của mylive123 - đã thấy sự đắc dụng của giải số.

Thật vậy, với lá số ấy, Tôi đã giải đoán: Nếu là ngày xưa thời không thể qua khỏi. Nhưng với thời nay thì lại khác. Khả dĩ có thể hóa giải. Và Tôi đã đoán cụ thể cách hóa giải. Sau này được chính thân chủ tường min. Rõ ràng với căn bệnh nhồi máu cơ tim, mà dẫn đến tồn tại cục máu đông nằm ngay trong buồng tim, không có cách nào lấy ra được, trừ phi phải đại phẫu. Thử hỏi, với ca ấy mà ngày xưa, tim làm sao mổ. Vậy có phải là không thể qua khỏi hay không!. Đó là số Chết - đúng không?. Nhưng ngày nay, chuyện mổ tim, lấy máu đông trong buồng tim bằng đại phẫu đã được giải quyết. Nhờ đó mà bệnh nhân được cứu sống!. Đó chẳng phải là Cải Số thì là cái gì đây!.

Giải đoán được đến nhwu thế, chỉ vẽ đường đi được đến như thế, không có mệnh chủ, ắt không thể giải đoán nổi!!!.

Nhưng mệnh chủ, dùng đâu có đơn giản. Các bạn không nên thông qua những gì mà Tôi chưa công bố, làm cái việc râu ông nọ cắm cằm bà kia, để rồi thất vọng mà trách Tôi đấy nhé!. Muốn dùng được mệnh chủ, phải có hệ thống lý thuyết dẫn đường, như giải một phương trình toán học vậy. Phải có phương pháp giải!. Mà muốn có phương pháp giải, thời phải học bao nhiêu lý thuyết toán, lý mới có thể sử dụng được chúng. Chứ đâu có phải là vài câu khơi khơi mà dùng được ngay. Tử vi, nếu đúng về môn học, xét theo khoa học, hay nôm na là lý học, thời nó phức tạp và khó khăn hơn học khoa học như ta học trong trường cho đến bậc đại học, cũng như đi làm tiến sỹ nhiều. Xin các bạn đừng vội vã.

Thân ái.

...

Thân chào anh Vân Từ và Huongvi.

Ý kiến của anh và huongvi, tôi cũng đã có suy nghĩ. Như tôi đã có trình bày trước ở trên, dự định mở một "phòng giải đoán" ở đây, cho diễn đàn vui vẻ. Song còn dang dở bên trang tuvilyso.net. Mà danh sách bên đó, mặc dù đã đóng rồi, nhưng vẫn còn dài quá. Hơn nữa, dạo này phần vì bận rộn, phần vì sức khỏe không mấy tốt, nên tiến độ chậm quá. Nhiều khi nhìn vào danh sách, cũng thấy sốt ruột. Hơn nữa, mỗi lần giải đoán xong cho lá số nào đó là một lần nữa, hàng loạt câu hỏi tiếp theo lại được nêu ra. Cứ với tình hình như thế, thì có đến... tết Công Gô...

Thành ra, suy đi tính lại, có lẽ xin phép ban quản trị ở đây. Tôi mở một Phòng gọi là trao đổi các vấn nạn tử vi, để mọi người vô đó thoải mái đặt vấn đề, đánh đố cũng được, bài xích cũng được. Và trong phạm vi cho phép, nếu không vi phạm vào nguyên tắc bản quyền bí quyết sách vở, kiến thức thì tôi sẽ cố gắng trao đổi cùng quý vị, nhằm, trong chừng mực nào đó giải quyết những vấn nạn, hoặc định hướng lại những kiến thức khả dĩ lệch lạc.

Có câu, một cây làm chẳng nên non. Kiến thức của tôi, cũng chỉ là hạt cát trên sa mạc mà thôi. Nên mong có thêm nhiều cao thủ tham gia, bổ sung, giúp đỡ và trao đổi cùng tôi, thêm mở mang kiến thức.

Xin cám ơn sự quan tâm của tất cả các bạn.

Thân ái.

...

Chào các Bạn quan tâm.

Tôi lại xin phép lan man một chút về một số câu chuyện tử vi!.

Số là hôm trước, có vào đây viết bài. Viết được một bài dài về cái sự vô lý, hiểu sai trong một số câu chuyện huyền thoại tử vi. Bài viết khá dài. Nhưng khi post bài vào diễn đàn, thì....nó lại biến... mất tiêu. Chán quá, nên bỏ, mấy ngày!. Hôm nay mới vào lại. Thôi thì cứ cố "mò" vào đây. Viết lại cái bài này xem sao.

Ngày xưa - vì lâu quá, quên mất tiêu vào thời gian nào của cuộc đời mình - có nghe được câu chuyện, mà là chuyện kể, chứ không đọc trên sách báo. Mãi sau này mới đọc được câu chuyện trên sách báo. Đó là câu chuyện về ông vua khai sáng triều đại Minh bên... Tàu Khựa lận. Ông Chu Nguyên Chương. Tất nhiên, câu chuyện này thì, ối người biết. Nhưng cái vô lý, nó chứng tỏ rằng cái người viết ra câu chuyện đó, có lẽ không phải là một tử vi gia chính tông!. Hay là tác giả có cái máu... bốc phét. Nhưng mà, khổ một cái, ối người tin. Và!. Có bao nhiêu người đọc, thì chí ít, cũng có thể lắm, tới 60 - 70% số đó, là Tin "sái cổ".

Nay xin tóm tắt câu chuyện "hoang đường" này.

Số là khi Chu Nguyên Chương lên làm Vua, một hôm ngồi buồn mới ngẫm lại cuộc đời của mình, mới tự cho rằng: Đúng là cái Số của mình là số làm Vua. Số làm con Trời mà. Chứ không thì làm sao có chuyện lạ lùng. Một thằng đệ tử của Ma Giáo (gọi cho hay là Minh Giáo, nên mới có cách giải thích là triều đại nhad Minh) như mình, ngoi mãi mới lên được chức Đường Chủ. Thế rồi, thời thế tao loạn, mà bỗng chốc có ngày hôm nay. Làm Vua một nước Trung Quốc vĩ đại - to đùng. Không phải là do Trời ban, do Số đã định thì làm sao mà mình thành Vua được chứ?. Mà cái Dân TQ, đa phần là Ngu, Dốt nát - mà Mình thì cũng ở trong số đó. Nhưng cũng có một tầng lớp, hay chí ít, đếm không xuể bao nhiêu thằng nó khôn rách giời, thông minh tuyệt đỉnh. Thế mà chúng nó lại không làm Vua được, lại đi Phò - đúng là Phò - tá cho Mình, phò cho một thằng Ngu như mình lên làm Vua, mở ra một triều đại, rất chi là Văn minh, lại văn minh bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa vĩ đại này mới ác chứ.

Ậy!. Nhưng cái giống đời là vậy. Cái giống dân châu á này cũng lạ thiệt. Sao mà, cứ thằng nào cũng như thằng nào, đều Đội nhưng thằng vừa ngu, vừa ác, vừa bất lương lên đầu. Tự nguyện cho nó đè đầu cưỡi cổ suốt đời mình mới lạ chứ. Đấy có phải là do cái Truyền thống văn hóa nó thế không nhỉ?. Đó có phải là do cái tư tưởng Khổng Mạnh nó chế ngự, nó thấm vào máu cái Dân này như thế không nhỉ?. Nhưng mà thôi. Đó lại là cái chuyện triết học, tư tưởng và chính trị. Trở lại cái chuyện "xưa như trái đất" kia đã.

...

Khi ấy, họ Chu mới nghĩ rằng: Phàm đã là số, thì số mà làm vua, thế nào cũng làm vua. Như thế, không lẽ, những kẻ, mà có cùng năm sinh, tháng sinh, ngày sinh và giờ sinh với mình, cũng phải có số làm vua. Mà như thế, ngai vàng của mình đâu có vững nữa. Sẽ có ngày những kẻ đó thoán đoạt ngôi báu của mình. Âu là ta đi tìm chúng, giết quách hết đi khỏi hậu hoạn.

Thế là họ Chu kia mới sai quần thần đi khắp nơi, cùng chốn trong nhân gian, hòng tìm cho hết những kẻ có cùng ngày sinh tháng đẻ với mình mà đem giết hết đi. Giết mãi, đến một hôm, lại "ngồi buồn" bần thần nghĩ mà rằng, hay là ta cứ thử hỏi xem mấy cái thằng ấy nó làm nghề gì, cuộc đời chúng nó đã ra sao?. Rồi đem giết, cũng chưa muộn!!!.

Hỏi ra, mới biết, có thằng thì nuôi ong,... mà hình như hi hi... cũng có thằng nuôi... chuột thì phải . Như cái thằng nuôi ong, nó nuôi 9 cái tổ ong, mỗi tổ, - đếm theo kiểu của người TQ - thì cũng có tới 9 vạn, 9 ngàn - 9 trăm - 99 con ong lận (nói theo kiểu không cần đếm, nói bừa đi thi cứ gọi là cái 9 vạn 9 nghìn ấy mà) Thế là Họ Chu mới giật mình nghĩa rằng: Mình cũng làm Chúa 9 châu, mà Dân TQ thì cũng thế, cũng là cái loại: 9 vạn 9 nghìn ấy. Thế thì, thằng Chả nuôi ong, làm Chúa của loài ong, mình làm Chúa loài người - chỉ TQ thôi nhé!.

Thế ra, cả Lũ chúng ta, thằng nào cũng làm Vua cả. Thế thì giết chúng làm quái gì cho mệt, lại tổn Đức nữa!. (vậy mà cũng còn nghĩ đến Đức nữa???).

Nghĩ rồi, liền Tha Bổng. Từ đó về sau, yên trí, gối cao, ngũ kỹ.

Lại có chuyện, như trong Nhân Tướng Học của Hy Trương có kể lại.

...

Có hai người cùng ngày tháng năm sinh. Một người thì được Đẻ ở dưới sông (ấy chết, lộn, trên thuyền, thuyền bơi trên sông có nước!!! hi hi ) Còn kẻ kia thì được đẻ ra bên bếp "lò rèn". - Không có nước, chỉ toàn có lửa, lửa tứ bề.

Thế là: một đứa, để dưới sông, sau này làm Quan To... đùng. Còn thằng bé - gọi là thằng, vì nó không làm quan - sinh ra bên lò rèn, thì... nó... làm thợ rèn. Thế là, liền có lối giải thích, vì một đứa đẻ ở dưới sông, nên có Thủy chế Hỏa, mà tứ trụ của hai đứa này Hỏa quá vượng, cần Thủy để cân bằng, nên Ông Bé - gọi bằng ông, vì nó làm quan - sinh ra dưới sông được cân bằng ngũ hành, thế là làm quan. Còn thằng kia, nó phải làm lò rèn, vì không có nước - hình như là nó được sinh ra rồi, bà mụ quên mãi sau mới cắt rốn cho nó, và lâu sau nữa mới cho nó tắm, nên cái Hỏa của lò rèn không được nước trong chậu tắm cân bằng - hi hi .

Rồi lại có chuyện, ở Việt Nam mới ác, lại liên quan đến cái nhân vật có Thật, Thật 100% kia. Là ông Nguyên Công Trứ. Chuyện này, mới được post lại bên chủ đề Một lá số, nhiều cuộc đời. Mà cũng thấy na ná giông giống với cái chuyện hai ông bé sinh ra, một dưới sông, một ở cạnh lò rèn của Hy Trương. Không biết có chuyện "Đạo Chích" văn chương, hay điển tích gì gì đó ở cái nền văn học hai nước khổng nho này hay không? nữa đây!. Mà không biết là ai Đạo của ai, ai Chích của ai?. Thôi thì, đều là học trò Không - Mạnh cả. Cái Giống nó thế .

...

Thế nhưng, tất cả, dù có là thật 100% đi chăng nữa về cốt chuyện, nhưng nếu nhận xét, thảy đều có mục đích nói rằng: Có, một lá số, nhiều cuộc đời, mà lại khác nhau cả. Như vậy, rõ ràng là để nhằm minh chứng cái chuyện một lá số, có nhiều cuộc đời - nhưng mà chỉ tìm được có Hai thôi, còn những thằng kia, đều chết hết cả rồi. Vấn đề là ở chỗ đó. Song lại tự ông lại đấm lưng ông. Bởi vì rằng, nếu muốn minh chứng, một lá số, có nhiều cuộc đời, thì sao lại dẫn chuyện ngớ ngẩn, lối giải thích lại càng ngớ ngẩn hơn nữa. Càng chứng tỏ, chả hiểu quái gì về tử vi cả, chả hiểu gì về lý số cả.

Thật vậy. Với câu chuyện Chu Nguyên Chương. Nếu một lá số, mà thảy đều làm Vua, như họ Chu nghĩ, thì sao có thể một họ Chu lại Giết được cả Lũ kia cho nổi, chỉ còn mỗi Chu sống?. Rồi thì cái Thằng nó làm Chúa ong, nó sinh cùng ngày sinh tháng đẻ với họ Chu, thế những thằng không sinh cùng ngày sinh tháng đẻ, mà nó cũng nuôi ong, thế hóa ra nó là làm Quan ong à?. Thế sao không so sánh thằng làm chúa ong với thằng làm quan ong, xem thằng nào phát đạt hơn thằng nào?. Thằng nào nuôi nhiều ong hơn (vì chỉ cần nuôi mưới vạn con ong, chả cần 9 vạn 9 nghìn là đã thắng rồi)?. Sao không biết khối thằng, đứa nuôi bò, đứa nuôi cá, đứa nuôi lợn, đâu có cần chúng cứ phải có ngày sinh tháng đẻ cùng với họ Chu?. Đó là chưa kể, một quyết định, hay lối suy nghĩ như vậy, chả lẽ triều thần đều ngu cả hay sao mà không lý lẽ nổi. Làm quái gì có chuyện đó. Đúng là hoang đường!.

Rồi thì cái chuyện đứa đẻ dưới sống, đứa trên cạn, mà làm quan hay làm dân đen. Rồi giải thích là làm cân bằng ngũ hành. Nghe đã thấy vô lý. Bởi vì rằng, cái sự bổ sung ngũ hành đó, trong câu chuyện, chưa có thấy nêu tác động hiệu quả của nó thực thụ. Nghĩa là, cái việc đẻ dưới sống, thì ngay khi đó, đã có biến cố gì xảy ra với hai đứa trẻ để chứng minh là hiệu quả điều hầu của ngũ hành?. Không nói được tới cái đó, làm sao có thể minh chứng được cái việc sinh ở dưới sông là có tác dụng thực sự?. Có khác gì là nói lấy được, để mà giải thích cái điều mà hàng chục năm sau mới thấy rõ là khác nhau, mới là cái hiệu ứng của lò rèn, của cái thuyền trên sông?.

Qua đó. Chúng ta đều thấy, cả ba câu chuyện trên, đều là "Bịa" cả. Hậu học, khi học mà không phân tích kỹ, cứ nghe thế nào, rồi đem kể lại. Thành thử, mấy môn Bói Toán, trở nên Dị Đoan cũng là phải!!!.

Thân ái.

...

Cách tính Nguyệt và Thời vận

Chào anh Vân Từ!.

Lâu rồi, không gặp anh. Hôm nay vào đây, lại thấy anh mở chủ đề này. Nên góp vui đôi lời.

Vấn đề nguyệt hạn và thời hạn, chúng ta nên tìm hiểu cả hai phương diện, lý thuyết và thực tế. Sau đó mới rút ra bài học cho chính mình.

-Lý thuyết. Hầu như sách nào cũng đề cập đến vấn đề này. Nhưng chỉ nói sơ sơ. Nhận xét qua các sách, tài liệu mà tôi được biết, thì theo tôi, sách của Vân Đằng Thái Thứ Lang là trung thực nhất. Còn các sách khác, ví dụ như của nguyễn phát Lộc, cũng như nhiều sách khác mà tôi đã xem qua đều cố gắng lựa chọn và chỉ một lựa chọn về cách xem nguyệt vận. Trong khi của VDTTL lại có ghi chép tới ba phương pháp xác định cung nguyệt hạn. Xem xét kỹ một chút là thấy ngay, các vị kia, chỉ ghi một cách xác định cung nguyệt hạn, nhưng kỳ thực là lối trình bày hình thức, cũng không dám nói thẳng là có tới ba cách xác định nguyệt vận - sợ rằng sách sẽ giảm giá trị, vì không xác tín, không có tính quyết đoán chăng?. Theo tôi cũng còn một nguyên nhân nữa, kỳ thực các vị đó cũng chẳng hiểu gì về cách xác định này. Nên không dám đương đầu với thực tế như VDTTL. Nếu có viết ra tới ba cách lận, thì ngộ nhỡ có người hỏi thì cũng sẽ ấm ớ, không trả lời được. Mà đòi nghiệm lý thì cũng ngắc ngoải nốt. Nên tốt nhất là cứ sao chép, và sao cho có vẻ nghiêm chỉnh, hoàn thiện, thì chỉ nêu một cách xác định và chỉ một mà thôi, thế là người đọc, về tâm lý thì chả thể nào có thắc mắc mà lật ngược vấn đề. Thế là, lúc sinh thời, thì sẽ được an toàn. Sách in ra, quý hồ có độc giả, bán được là ok!!! Ngược lại, VDTTL thì khác hẳn, ông ta nói thẳng ra rằng, đây còn đang là vấn đề, cần phải nghiên cứu. Nên người đọc, đến đó tất sẽ phải có suy ngẫm, nghiên cứu mà xác định. Quý hồ, mỗi người đi theo một đường lối, sẽ tự xác định cho chính mình một lối xem nguyệt hạn riêng.

-Về thực tế. Có thể nói, đã xem đến nguyệt hạn, thời phải là đại cao thủ. Phải vượt qua ngưỡng xem đại vận, tiểu vận rồi mới tới được nguyệt vận. Nhưng không phải chỉ có thể. Bởi vì khi xem tiểu vận, người giải đoán đã phải vật lộn với câu hỏi, thưc chất là ngưỡng, là cái Barie rất khó vượt qua. Đó là xem tiểu hạn phải đối mặt với ba cung xác định tiểu vận: Lưu niên, Tiểu vận và Thái tuế, cùng với 9 sao Lưu. Chính ở nơi đây, đoán biến cố thật dễ - bởi vì nó có tới ba cung với 9 sao lưu động, khiến cho người đoán dễ nói nhăng nói cuội, xác xuất trúng vẫn cao, nhưng cũng lại là nơi thể hiện trình độ của người giải đoán rõ nét nhất. Bởi vì, đoán trăm phát trăm trúng, đoán được tới mức cụ thể không thừa không thiếu. Đoán cho ai cũng vậy, đều có độ chính xác tối đa, chứ không đoán theo kiểu người này thì trúng, người kia thì không!. Hoặc đoán về từng vụ việc, có việc thì trúng, có việc thì sai!. Khi đã đoán ở dạng lúc trúng lúc sai, thì đó là Đoán Mò. Chắc chắn là không biết đoán, cho dù nói năng thao thao bất tuyệt, nghiệm lý hoành tráng, cũng chỉ là bốc phét, hoặc giải đoán theo kiểu gọt chân cho vừa giày mà thôi. Kỳ thực là chưa biết giải đoán, hoặc nói cho trung thực là chưa có phương pháp giải đoán.

Phàm đoán vận lưu niên còn chưa được, thì dù có nói rồng, nói phượng đoán cho nguyệt vận thế này thế nọ, cũng chỉ là sao rỗng, lòe người mà thôi!. Khi việc xảy ra rồi mới nghiệm lý, rồi thì phán rằng nó xảy ra là vì cách này, cục nọ. Đó thực là không đúng. Chúng ta hoàn toàn có quyền nghi ngờ trình độ của họ. Bởi vì rằng: TTL đã nói toạc móng heo rằng, có tới ba cách xác định cung nguyệt vận, thì nếu ta nói tới cách cục nào đó, xác định bởi cung nào đó, thì lời đoán phải gắn với một cách xem xác định. Vậy mà có tới ba cách xem, ngay TTL còn chưa xác định nổi, thì bằng vào đâu mà Ta có thể nói như thánh như tướng vậy?.

Chưa hết. Còn có một vấn đề vô cùng quan trọng, mà nếu không nắm được trọn vẹn, thì không thể nào giải đoán được. Đó là ý nghĩa của cách cục nhập vận. Bởi vì khi nhập vận, ý nghĩa của cách cục khác xa so với ý nghĩa của cách cục hay sao khi giải đoán tổng quát. Mà trong sách vở, cũng như phú đoán, thử hỏi chúng ta có được bao nhiêu?.

Ngay như giải đoán tổng quát, có thể nói là tầng thấp nhất mà đã có mấy ai vượt qua cái ngưỡng đoán trăm phát trúng cả trăm!!! ngay như đoán có mỗi việc giàu hay nghèo, sang quý hay bần tiện, quân tử hay tiểu nhân, đáng tin hay không đáng tin, người tốt hay xấu còn ú ớ. Còn như mà đoán được vài chục phần trăm, cũng có nghĩa là đoán chưa tới, trình độ vẫn còn là chưa xác định mà thôi!. Chẳng thể đánh giá được!. Hay nói như các nhà khoa học thì có nghĩa là: Không đáng tin. Thôi, anh đi chỗ khác cho tôi nhờ!!!.

Thì làm sao mà có thể dám đặt cược tương lai cho Chàng, khi chàng đoán Vận???.

Thân ái.

Luận bàn Thiên Không

Xưa nay, sách vở cứ nói. Trước tam thập niên khán mệnh, hậu tam thập niên khán thân. Người học cứ thế dùng. Nhưng nếu đặt câu hỏi. Thế dùng như thế nào?.

Thường có câu trả lời rất ngây ngô rằng: Thì trước 30 tuổi khi xem số nên tập trung vào cung an mệnh. Sau năm 30 tuổi thì tập trung vào cung an thân. Lấy lý rằng, trước 30 tuổi chưa tự lập, còn sau 30 tuổi, con người ta đã trưởng thành, thân tự lập thân. Xem mệnh như Thể, Thân là Dụng, nên mới phân ra cách xem như thế. Nói sai thì chẳng sai, nhưng không biện chứng. Và rốt cuộc, chẳng có ai nhờ xem như thế mà cho lời giải xác đáng cả.

Bởi vì, mệnh thân là một cặp âm dương. âm dương thì tiêu trưởng. Theo tứ tượng thì trong mệnh có thân và ngược lại. Thế nên, ở tuổi nào mà chả có cái thân hành động, ở tuổi nào mà chả có cái ta ở trong đó. Nên nói, mệnh âm thân dương là nói lên động tĩnh, vật chất và tinh thần... ở trong chúng. vì thế, khi giải đoán, khán mệnh thì thì xem xét các sao vật mà luận, khán thân thì xem sao tinh thần, thấy sự tương giao, thích hợp thì đó là tốt, ngược lại thì phẩm chất mệnh thân không mấy hay. Chẳng hạn thấy chủ mệnh là thái âm, mà chủ thân là thái dương thì thật là hay. ấy là người thông minh tuyệt đỉnh, công danh sáng sủa, căn cơ vững vàng, vật chất đầy đủ, phú quý thập toàn và số lại thọ nữa. Nếu ngược lại mà mệnh là thái dương, thân là thái âm thì cương nhu đảo lộn. chỉ là loại vinh thân phì gia, cho dù có được hưởng bổng lộc, hay vật chất thì phú quý chóng tan, thọ mệnh cũng không được lâu, là loại người u tối. dẫu nhật nguyệt có sáng sủa đi chăng nữa cũng chỉ là nhất thời mà thôi.

Hay như mệnh TPVT mà Thân thì SPT đó là hợp lẽ cương nhu, khẳng định được ngay là người có tài, tiến thoái đúng mực, khôn ngoan hơn người, lại có tài chế phục thiên hạ. Người như thế lo gì mà không thành tựu. Nếu có cách cục toàn hảo thì đó là phi thường cách, như VDTTL phê số đâu có sai. Cái lý phi thường nằm ở đó.

Nhiều lắm.

Thân ái.

...

Trích:

Trường hợp Mệnh có chính tinh mà Thân vô chính diệu, không có Tuần Triệt hoặc sát tinh đắc địa tọa thủ thì không tốt

Điều này đúng!. Nhưng nếu hỏi, tại sao lại nói là không tốt?. Các sách mà chúng ta từng biết đều đã trả lời, bởi cung VCD như "nhà không có nóc". Thực ra, câu này nói với mệnh cung - theo nguyên bản. Nhưng nó cũng vẫn đúng đối với cung VCD bất kỳ. Nhưng chỉ đến đấy dừng thì đúng, nếu luận sâu hơn, xa hơn thì lại có khi sai toét. Bởi vì, chẳng hạn như nói vận, gặp vận nhập cung VCD, đúng là nhà không nóc thật. Nhưng chưa chắc đã không phải là hay. Bởi vì, nếu gặp Mệnh có nhật nguyệt sáng sủa thì vận nhập cung đó chỉ cần vắng sát tinh là hay rồi, nếu thấy được khôi việt, xương khúc, hay tam minh cùng tả hữu thì hay nữa. Hoặc mệnh cũng VCD nhưng được Tam không thì vận đó cũng sẽ hay. Nhược bằng mệnh VCD mà có sát tinh nòng cột miểu thủ, vốn là hay, nhưng nhập vận cung VCD, thì thế nào cũng bế tắc, mà dẫn đến tình trạng động loạn, thất bại thê thảm.... Nên nói, VCD như nhà không nóc chỉ là một sự nhắc nhở, cần chú ý tới cái sự không tốt này mà gia giảm, chế hóa sao cho khéo, chứ không dễ thành đoán bậy.

Trích:

Mệnh thể hiện sự thụ hưởng tinh thần, Thân thể hiện sự thụ hưởng thể xác.

Kết luận như thế mà để dùng luận đoán tất sẽ phiến diện, kết quả luận đoán sẽ chỉ dừng ở một điểm nào đó. Khi luận xa hơn, sâu hơn sẽ thành sai. Thực chất, biện chứng mệnh - thân là biện chứng âm dương, cái nền dịch lý đầu tiên nó nằm ngay trong đó. Đi sâu hơn, xa hơn để thấy được cái tinh hần dịch lý trong tử vi là kiến thức cao cấp. Nay chỉ tạm nói với mệnh - thân mà thôi.

Thật vậy, mệnh - thân là một cặp âm dương, vốn chẳng có thể định nghĩa được. Có một khẳng định là, mệnh - thân, bản chất là không thể định nghĩa. Hễ ai muốn định nghĩa, hay nói là định nghĩa được, thế tất có thể kết luận ngay: Sai, sai về căn bản, sai hẳn về gốc rồi.

Mệnh - Thân, không định nghĩa, do hễ đã định nghĩa, hay muốn định nghĩa, tức là ta đã muốn xác định Nó là Cái gì rồi!. sai là ở chỗ đó, không hiểu cũng là ở chỗ đó. Mệnh thân, đơn giản là cặp âm dương, được hiểu theo ngôn ngữ âm dương học. Nên nói, Thể - dúng liên hệ với mệnh - thân, cương - nhu liên hệ với mệnh - thân, vật chất - tinh thần liên hệ tới mệnh - thân, tiền vận - hậi vận liên hệ với mệnh - thân, nhân - quả liên hệ với mệnh - thân, phú - quý liên hệ với mệnh - thân, cường - nhược liên hện với mệnh - thân,... Nhưng chớ tá hỏa mà cho rằng, cao - thấp, phải - trái, điện tích âm - điện tích dương, vĩ mô - vi mô, đực - cái liên hệ với mệnh thân trong cái biện chứng của tử vi. Chúng ta thấy, cái "tổ hợp" mệnh thân như thế, hỏi có thể định nghĩa, nó là cái gì được chăng?.

Vì thế, khi giải đoán, phải lấy tinh thần dịch lý ra mà luận. Hễ gặp cương nhu thì phải xét mệnh cần nhu, thân cần cương, ấy là hợp cách, mệnh thân như thế, lo gì tai họa, sợ gì cường quyền. Thời loạn, gặp người như vậy là có số thọ, làm được việc lớn, tin cậy được bởi biết lùi biết tiến, dám nghĩ dám làm,... Như mệnh Phú, mà Thân Quý thì hay, chứ ngược lại thì chỉ là loại thùng rỗng mà thôi, thậm chí số lại yểu nữa là đằng khác, như thấy luận mệnh cần lấy sao vật làm chủ thời hay, luận thân cần lấy sao tinh thần là đúng cách. Được như thế tất là quý nhân, chứ không thể là phàm nhân tục tử được. Hay ở đây, thân VCD mà có Triệt tức là có Không Vong rồi. Nhưng Thân cần Không hơn cần Vong, nếu có Tuần thì hay hơn. Nhưng không vì thế mà bảo có Triệt không hay, còn phải xem Mệnh có cái gì đã, có tương hợp với luận chứng âm dương hay không không nhất thiết là chỉ có thẩ thành công chỉ về tinh thần được. Chẳng hạn như mệnh mà có sát phá tham thân VCD có Triệt thì phú quý vô tả, nhưng nếu mệnh âm dương thì cũng thường thường thôi, hoặc mệnh mà gặp Cơ Đồng Lương thì với cái Thân ấy cũng nên vất đi, thọ được ngày nào hay ngày ấy, thảng hoặc mệnh mà TPVT thì với thân ấy cũng long đong lận đận, đa hư thiểu thực.

Muốn luận tử vi, bước đầu tiên của luận đoán, cần xem xét chỗ này rồi mới luận tiếp theo được. Bước chân đầu tiên đặt sai vị, thì các bước tiếp theo sẽ hỗn loạn, không nhìn được cái gì cả, dễ thành luận giải lung tung.

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi Thiên Khốc Xem bài gởi

Thưa bác Vuivui,

Mệnh Thân ghép vào Âm Dương TK đọc thấy có mâu thuẫn như vầy

Đầu tiên bác viết: Nên nói, mệnh âm thân dương... Chẳng hạn thấy chủ mệnh là thái âm, mà chủ thân là thái dương thì thật là hay... Nếu ngược lại mà mệnh là thái dương, thân là thái âm thì cương nhu đảo lộn... Hay như mệnh TPVT mà Thân thì SPT đó là hợp lẽ cương nhu.

Nhưng phần sau bác lại viết: Như mệnh Phú, mà Thân Quý thì hay, chứ ngược lại thì chỉ là loại thùng rỗng mà thôi, thậm chí số lại yểu nữa là đằng khác, như thấy luận mệnh cần lấy sao vật làm chủ thời hay, luận thân cần lấy sao tinh thần là đúng cách.

Theo TK hiểu Phú vốn là Dương so với Quí là Âm! Phía trên bác chọn chủ Mệnh nên là sao Âm (tinh thần, nhu, Thái Âm, TPVT) nhưng dưới bác lại luận Mệnh cần sao vật chất (Dương - tức so với trên phải hiểu là cương, Thái Dương, SPT )!!! Như vậy Mệnh cần sao chủ Âm hay sao chủ Dương để được đúng cách??? (Và ngược lại Thân nên luận cần sao Dương hay Âm?)

Thật là quờ quạng đến bối rối!!!!

TK hiểu sai rùi. Thế nên mới bối rối!

Vật chất - Tinh thần là một cặp âm dương, âm chủ vật, dương chủ thần. Thái âm so với thái dương là âm, Thái dương chủ về tinh thần, theo lẽ thì nó chủ về sự tôn quý. Thái âm chủ về vật chất theo thế thì nó là phú tinh. Vì thế mới nói, thái âm chủ về điền trạch, chủ về tài lộc, mà thái dương chủ về quan lộc, là quyền tinh! nên mệnh có thái âm mà thân có thái dương là đúng cách. Dù có là hãm địa, hay xấu nhất là âm dương phản bối đi chăng nữa thì cũng là người có danh vọng, tuy nghèo. Cũng là người thông minh hơn người, đa tài, đa nghệ, mẫn cảm.

Phú - quý là cặp âm dương, phú âm mà quý thì dương. nên mới nói, phú thì giàu có, lắm tiền tài, nhiều của nả vật chất. còn quý thì sang trọng, quyền quý, có danh dự,... đó là những đặc tính thuộc dương.

Thân ái.

...

HTD thấy luận giải của anh MINHMINH ở diễn đàn TVLS khá hay nhưng đáng tiếc là bị phản bác mà anh MINHMINH không đáp trả. Anh MINHMINH không có ở diễn đàn HKLS nên HTD không gửi được lời xin copy lại.

Trích:

CUNG ÁCH: THIÊN PHỦ GẶP KHÔNG KIẾP THÌ ĐÃ DỰ BÁO CHO BIẾT TRONG ĐỜI THẾ NÀO CŨNG CÓ LẦN PHÁ SẢN.

ĐẠI HẠN VÔ CHÍNH DIỆU CHỦ SỰ KHÓ KHĂN BẾ TẮC, ÁCH CÓ KHÔNG KIẾP ĐẾN HẠN GẶP LỘC TỒN LÀ CÁCH KIẾP LỘC HAO TỐN MẤT MÁT VỀ TIỀN BẠC NHÀ CỬA, VIỆC XẢY RA BẮT ĐẦU TỪ NĂM 48 TUỔI LÚC LƯU NIÊN ĐẠI HẠN VÀO CUNG MÃO LÀ CÁCH THỔ KHẮC ĐÔNG NAM PHÙNG CHÂN TỐN < MÃO MỘC KHẮC THỔ >, CUNG MÃO LÀ CUNG CHẤN, CHẤN VI LÔI CHO NÊN SỰ VIỆC XẢY RA RẤT NHANH KHÔNG KỊP TRỞ TAY. NƠI ĐÂY CŨNG HỘI KHÔNG KIẾP Ở HỢI CHIẾU VỀ. NĂM 07 LÀ NĂM ĐINH HỢI, ĐINH HỎA KHẮC CANH KIM, MẤT LUÔN THIÊN THỜI LÀM SAO CHỊU NỔI.

PHẢI CHỜ ĐẾN 52 TUỔI THÌ MỚI PHỤC HỒI MỘT CHUT, NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC NHƯ XƯA.

VỀ VÒNG THÁI TUẾ: CỤ THIÊN LƯƠNG KHÔNG NÓI, SÁCH CỦA TÁC GIẢ THIÊN LƯƠNG CŨNG KHÔNG CÓ CHỖ NÀO NÓI KHI VÀO VẬN THÁI TUẾ THÌ GIÀU CÓ.

KHI VÀO VẬN THÁI TUẾ NGƯỜI TA THƯỜNG HAY ĐƯỢC THỎA MÃN CÁI CHÍ CÁI ƯỚC MUỐN CỦA MÌNH, VÀ SẼ CÓ NHIỀU NGƯỜI BIẾT ĐẾN MÌNH < TỨ LINH >. TUY NHIÊN KHÔNG CÓ GÌ LÀ TUYỆT ĐỐI, NHẤT LÀ CÒN TÙY THUỘC VÀO NHIỀU YẾU TỐ PHỤ THUỘC KHÁC, TRONG TRƯỜNG HỢP NÀY NGƯỜI TUỔI CANH KIM, MỆNH THỔ LÀM SAO HƯỞNG THÁI TUẾ

THÁI TUẾ MỘC KHẮC THỔ, THẾ THÌ CÒN PHẢI HOẠN NẠN VỚI HẠN THÁI TUẾ NỮA LÀ KHÁC, HẠN NÀY NGOÀI VIỆC BẠI SẢN CÒN PHẢI ĐỐI PHÓ VỚI NHIỀU CHUYỆN THỊ PHI, GIẤY TỜ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬT PHÁP.

VẬY NHƯNG AI ĐÓ CỨ NẰNG NẶC NHƯ IN ĐẾN HẠN TAM HỢP THÁI TUẾ LÀ NHẤT ĐỊNH PHẢI THĂNG QUAN TIẾN CHỨC PHẢI GIÀU CÓ... THÌ THẬT LÀ MỘT SAI LẦM.

...

Chào chị htruongdinh.

Như Tôi đã trình bày, mong muốn có được một sự phản biện, nhìn nhận một cách có hệ thống về lý thuyết vòng thái tuế. Bởi vậy, để khách quan và rộng đường dư luận, cần có những trích dẫn chính xác, trung thực với nguyên bản. Chứ không phải là những nội dung được người ta hiểu, hay vận dụng. Bởi vì, khi phản biện, không thể phản biện trên các nội dung ấy. Sẽ mất đi tính chính xác, khách quan về nội dung, cũng như tư tưởng của người khai sáng ra nó. Khi ấy, hậu duệ của họ sẽ có những phản biện có thể phản biện ngược lại rằng, tư tưởng của người khai sáng đã bị hiểu sai, từ đó, sẽ có những lập luận mất đi tính phản biện khoa học. Biến nơi đây thành những cãi vã, xung đột cá nhân.

Nội dung trên của anh MM khi lý giải đại vận thái tuế của anh alan, về đường lối là không khác gì với tôi cả. Cụ thể thì có khác, bởi anh ấy dùng những phương pháp lập luận khác tôi, song kết quả không mâu thuẫn. Hơn nữa, về bản chất, cũng là sự phản đối lý luận thái tuế. Bởi vậy, Tôi không muốn có ý kiến gì cả.

Tôi đã nói nhiều lần. Như theo chỗ tôi biết, cụ Thiên Lương không bao giờ có nói rằng vào vận thái tuế thì PHẢI GIÀU, PHẢI CÔNG THANH DANH TOẠI. Mà chỉ nói vào đại vận thái tuế thì người có số THƯỜNG được THỎA MÃN, DỄ THÀNH TỰU, THÀNH DANH VỚI ĐỜI....nếu như trong đại vận không bị xung phá quá mạnh. Mệnh đề đó nhằm giải thích cho những lá số mà cụ gặp phải khi nhập vận Thái tuế thì những người đó thường có danh tiếng, bộc phát công danh, và mọi sự hanh thông.

Xin hãy nhớ điều này. Nếu viết lệch đi, thì dễ hiểu lầm ý cụ. Nhiều khi, chưa chắc đã bị phản đối, khi mà giải thích lá số thấy đúng với thực tế với trường hợp xác định. Nhưng ngộ nhỡ, ở trường hợp khác không thấy đúng, mà nếu bị phản biện, những người bảo vệ lý thuyết thái tuế sẽ đưa ra phản biện rằng chúng ta đã hiểu sai lý thuyết đó, và lại đưa chúng ta sang những vấn đề mới, nhiều khi chẳng liên quan đến vấn đề đang được quan tâm, và cuối cùng, sự tranh luận là vô hồi kỳ trận, không có điểm nhấn.

...

Chị htruongdinh thân mến.

Khi giải đáp lá số của anh alan giai đoạn vận thái tuế, tôi dã có tiên liệu rằng, những người bảo vệ thuyết thái tuế thế nào cũng tìm cách nắn cái vận trình thất bại của anh alan cho nó đúng vào với vận trình có thiên không. Cách nắn đơn giản nhất, và cũng hiệu quả nhất, khó phản biện nhất là cho anh ấy sinh ở giờ khác với giờ ứng với lá số anh ấy lập ra. Nhưng có lẽ, họ cũng Run khi muốn có kết quả ấy, bởi vì đương số sẽ phản ứng mạnh, ít nhất cũng quyết đoán như là có ý kiến khi anh Vân Từ link sai lá số. Thành ra, họ lựa chọn phương pháp thay đổi việc khởi đại vận. Nhưng khi chọn phương pháp này, chắc hẳn họ quên mất cái điều sơ đẳng, làm như thế có khác nào lạy ông con ở bụi này. Bởi vì, khởi đại vận khac nhau, sai lệch một cung, nghĩa là các tinh đẩu, cách cục tham gia vận trình là hoàn toàn khác nhau. Điều này, tự bản thân nó, lý thuyết về tinh đẩu đã không thể đồng nhất. Cũng như lý thuyết về tinh đẩu của nam phái và bắc phái không thể đồng nhất với nhau vậy. Nay lấy khởi đại vận theo bắc phái, mà lại luận tinh đẩu của nam phái thì khác gì làm cái chuyện râu ông nọ cắm cằm bà kia.

Đó là một vế. Vế khác nữa là thể hiện căn bản học thuật không vững, nghèo nàn. Thật vậy. Khi tôi luận vận thái tuế của anh alan, tôi dùng hoàn toàn lý thuyết sách vỡ cũ, cũ như trái đất mà không hề có lời nào dùng lý luận hóa khí, mệnh chủ và lý quản chế. Trong khi đó, ở vận thiên không, tôi lại dùng nó rất cụ thể. Đồng thời tôi có tuyên rằng, ai đó có khả năng phản biện vận thái tuế thì xin mời. Thực chất là Tôi mong có cao thủ nào khác vào tận đây phản biện. Hy vọng cao thủ đó thực sự là cao thủ chân chính của học phái thiên lương, họ sẽ có những chiêu số tân kỳ để phản biện. Thế nhưng, đáng tiếc chẳng có ai, lại có một con gà chui đầu vào gáy vào buổi chiều tà. Lôi ra cái học phái Bắc phái mà lại hầu như không nắm được kiếm chiêu của bắc phái. dùng lộn kiếm chiêu của nam phái cho bắc phái, mà còn lớn tiếng thách thức.

Thực ra, như tôi đã trình bày ngay từ đầu với lá số của anh alan, rằng có nhiều phương pháp luận vận trình thái tuế cả anh ấy, mỗi phương pháp sẽ cho ra kết quả tổng thể là tương đương nhau, nhưng mỗi phương pháp sẽ có sự cụ thể khác nhau, thậm chí tính cụ thể, chi tiết sẽ tăng dần theo tầm vóc của phương pháp. Phương pháp càng tinh vi thì lời đoán càng tới chỗ cụ thể và tinh tế. Như thế, với phương pháp của tiền nhân mà tôi đã nói, có ở tất cả các sách cũ, thì độ chính xác chỉ đến chỗ đại khái thế thôi. Muốn chi tiết hơn, phải phối chí thêm sao, nhưng cũng sẽ vẫn ngày càng khó khăn, bởi thực sự giới hạn cuả phương pháp đó là như vậy. Với phương pháp hóa khi, mệnh chủ thì đoán chi tiết hơn rất nhiều. Và tôi đã ý tứ đoán cho đại vận kế sắp tới ủa anh alan.

Tóm lại, về mặt thực tiến, với lá số của anh alan làm một ví dụ, tương đối điển hình để bác lý thuyết thái tuế. Và với những gì tôi đã lập luận, thiết tưởng là đã đủ. Nay chỉ còn phản biện về mặt lý thuyết nữa mà thôi. Nhưng cũng là một việc khá dây dưa. Bởi dùn thực tế chứng minh, thì sẽ khả thấy. còn dùng lý mà luận chứng, lại có thể hay không, phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và thái độ nghiêm túc của đối phương. Một khi mà họ thiểu năng trí tuệ, hay sở học kém quá, cũng như không có thái độ nghiêm túc thì cũng Bótay.com. Nhưng thôi, Tôi không quan tâm, chỉ quan tâm tới các bạn đọc của Tôi mà thôi. Theo phương châm: Nói phải củ cải cũng nghe!.

Hẹn bài tới, chúng ta luận chứng trên lý thuyết.

Thân ái.

...

Chào bạn nguoisaigon.

Rất vui khi có bạn vào đây phản biện. Tuy chưa có thể khẳng định Bạn có phải là một cao thủ như tôi mong muốn hay không. Nhưng với lập luận bảo vệ phái thiên lương như vậy, kể cũng là một lập luận xác đáng. Và cũng nhờ lập luận này, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn bản chất của học phái thiên lương, như cách nói của hậu bối học theo lý của cụ Thiên lương.

Khi luận vận trình thái tuế của anh alan, Tôi có nêu ra ba điểm, làm yếu tố chủ đạo để khẳng định sự suy thoái, phá tán của vận đó. Bao gồm:

-Mệnh – Thân đồng cung chính tinh thủ thuộc nhóm CNDL, gặp vận cung VCD – một cách tổng quát – được Nhật Nguyệt sáng chiếu (trường hợp của anh alan) (Tôi không xét hóa khí, vì chỉ dùng lý của tiền nhân, trước cả cụ Thiên lương) là bế tắc, không phát triển được, thiếu may mắn. Nên nhớ tôi không khẳng định về sự phá sản do cái lý này!!!.

-Mệnh Thân đồng cung có Cơ Lương miếu thủ đắc là đẹp, nhưng ngộ Tuần, theo TTL là phản ngược, sáng thành tối. Nên xấu. Bản thân Tôi không cực đoan như vậy, nên chỉ khẳng định mệnh thân cơ lương sáng sủa ngộ tuần là mệnh yếu. Vì thế, vốn khi sáng sủa gặp vận trình cung VCD thì đã bế tắc, khó phát triển. Nay Mệnh bị Tuần án thì yếu, gặp hoàn cảnh không thuận thì đương nhiên sẽ tăng nặng, dẫn đến suy thoái. Vâng, suy thoái, chứ không phải là phá sản, cơ đồ, sự nghiệp đi tong.

-Chỉ khi vào vận, đã VCD, lại có hung tinh, sát tinh hạng nặng – Bạch hổ thủ (trường hợp của anh alan), cho là miếu địa (theo TTL và nhiều sách cũng đồng ý Bạch hổ đắc địa tại Thân) thì về lý thuyết chung, mệnh thân yếu, gặp vận trình có sát tinh thủ nòng cột (xin hãy hiểu nòng cốt ở đây không phải là nòng cốt như là trụ cột của mệnh, để buộc nó phải đồng hành với hành của bản mệnh, mà phải hiểu rộng hơn, đó là sao thủ vai chính cho vận. Vì thế, với cung VCD, như lý thuyết tổng quát khẳng định rằng, cung VCD mà có Sát tinh thủ, thì Sát tinh đó sẽ thủ vai chính cho cung đó. Nếu Sát tinh đó hãm, thì cung đó xấu, nếu sát tinh đó đắc địa thì cung đó như được cứu, nghĩa là sẽ tốt). Bởi vậy, Vận VCD có Bạch hổ đắc thủ, là được cứu. Nhưng Mệnh Thân yếu, nên không thể thủ đắc được, tất phát rã như lôi. Có phát tất rã.

Tổng hợp ba điều trên, có thể phán rằng, Vận thái tuế của anh alan tất phát, rồi tất phá sản. Cụ thể vào thời gian nào thì với lý luận này phải xét vào từng niên vận cụ thể, khó có được cái nhìn tổng quan vào thời gian nào như lý hóa khí, hay lý mệnh chủ. Nhưng như tôi đã nói, Tôi chỉ dùng lý của tiền nhân.

Như vậy, xét ba lý trên, đều xem cung hạn của anh alan như là một cung bình thường, không quan tâm tới sự có mặt của Thái tuế hay không!!!.

Xét lý của nguoisaigon, cho rằng bởi vì mệnh thân gặp tuần, và hỏng là tuần, chứ với bất cứ cung nào, (bởi vì nói rằng không phải là do thái tuế hay VCD gì cả) vận nào mà không có Triệt tháo gỡ đều phải lãnh hậu quả là phá sản. Lập tức sẽ xuất hiện những vấn đề sau:

-Nếu Triệt không nằm trên đường vận hành của đại vận, chẳng hạn như không là dương nam, mà là âm nam, hay cho là dương nam, nhưng triệt nằm ở tý – sửu, chứ không nằm ở ngọ – mùi, thì theo cái lý này, tất đương số sẽ bị phá sản, cả đời không ngóc đầu lên được?. Bạn đọc có thể nghiệm lý điểm này mà đi tới kết luận ngay lập tức!.

-Với cái lý phá sản do tuần tại mệnh, bất kể là thái tuế hay VCD thì như vậy, có thể suy trực tiếp rằng, Vậy Vận Thái tuế chẳng có ý nghĩa gì đối với mệnh ngộ tuần triệt!. Điều này, tự nó trái với lý thuyết thái tuế, cho rằng vào vận thái tuế đương số phải được thỏa mãn, và đối với vận tốt như vận của anh alan thì đương số phải thành tựu (chỉ là lớn hay nhỏ thôi, chứ không thể phá sản, nhưng thành tựu phả là khả dĩ nhất trong đời). Nay chỉ vì Tuần không án mệnh, mà bỏ đi cả, và thậm chí, vào bất cứ vận nào, nếu không được triệt tháo gỡ thì đời cũng đi tong. Bởi vì thái tuế đẹp như vậy mà còn phá sản thì vận khác không đẹp bằng thì đương nhiên phải gánh hậu quả nặng nề hơn rất nhiều. Điều này là vô lý, không đúng thực tê, có thể thấy ngay trên rất nhiều lá số khác. Và điều này, sự bảo vệ cái lý vận thái tuế, vô tình lại tự bác cái lý vận thái tuế là vận đẹp nhất trong đời, thậm chí còn có lý luận cho rằng, vào vận thái tuế, chỉ khi bị xung phá quá nặng mới hỏng, nhưng cũng có tiếng tăm để đời. Hoàn toàn tự mâu thuẫn.

-Với cái lý tuần không án mệnh, phủ nhận hai lý do trong ba lý do tôi trình bày ở trên, có thang bậc, cấp độ tác họa của nó đã cho thấy bằng lý luận này không thể thấy được cấp độ tác hóa của tuần không cho từng trường hợp cụ thể với những cung mệnh khác nhau. Như thế là thiếu biện chứng, bất khả luận giải. Chỉ có tính chất tung hỏa mù về mặt lý luận. Không có khả năng thực tiễn. Trong khi đó, với ba lý do trên, vận trình được gọi là thái tuế vẫn có chỗ đứng, không chỉ vận thái tuế, mà vận nào cũng được, mỗi vận tùy theo cụ thể mà luận, vẫn có thể có thành tựu, hay xui rủi.

Đến đây, bạn đọc có thể tự đánh giá.

Thân ái.

...

Chào chị htruongdinh

Bởi lo rằng người có số mà chị vừa đưa lên sắp tới đây gặp nhiều cơ hội, công danh sự nghiệp sẽ tấn phát mà không biết thì sẽ lỡ làng. Nên tôi giải vận này của lá số này. Đồng thời cũng chứng minh luôn, chẳng có thái tuế gì ở đây cả.

Trước hết cần chú ý. Xem số phải có phương pháp chuẩn. Một phương pháp chuẩn là phương pháp đó phải áp dụng được mọi lá số, mọi trường hợp. Không thể có chuyện, với lá số này thì phương pháp này dùng được, với lá số khác thì lại không dùng được. Chỉ có chuyện là độ chi tiết, tinh tế với những trường hợp khác nhau thì có thể khác nhau đôi chút, do nguyên nhân là cùng một phương pháp, nhưng đối với một lá số nhất định có thể dễ giải hơn lá số khác. Chỉ có vậy thôi.

Khi giải lá số của anh alan ở vận thái tuế. Tôi có đưa ra ba điểm, mang tính phương pháp luận. Điểm thứ nhất là mệnh CNDL, gặp vận VCD. Điểm thứ hai là Mệnh – Thân đồng cung gặp vận VCD. Điểm thứ ba là Vận VCD có Bạch hổ thủ vai chính. Đối với lá số mà chị đưa ra. Lý Mệnh CNDL đương nhiên phải có vận hành, chứ không thể thoái thác, tìm cách vứt nó đi, hoặc cố tình bỏ quên cho được nó. Mệnh cơ lương sáng sủa là tốt, gặp vận VCD cũng sẽ gặp nhiều trở ngại, thiếu may mắn, khó phát triển. Nay gặp Tuần thì mệnh trở nên yếu, gặp Vận VCD, thì như trên chúng ta đã thấy. Nhưng Lá số này khác hẳn với lá số của anh alan bởi cái Thân không đồng cung với Mệnh. Thân này lại VCD gặp Bạch hổ sát tinh thủ đắc được hành bản mệnh tương sinh nên thân này tốt đủ sức cứu mệnh. Tiên lượng hậu vận người này tốt, vâng, rất tốt là đằng khác, bởi vậy, dù vào vận thái tuế này cũng sẽ phát mà không rã. Nhưng với Mệnh yếu bởi Tuần thì muốn phát thì cũng phải chịu năm lần bảy lượt vấp ngã, trục trặc mới nên thân người. Nhưng cái sự phát này là do Bạch hổ đắc thủ tại vận, cũng như thủ thân, chứ chẳng có vai trò của thái tuế gì gì đó ở đây chút nào cả. Có chăng thái tuế ở vận này chỉ làm khổ thêm cho thân chủ bởi vì thái tuế hội cùng Hóa kỵ hợp chiếu về thân, nên phải chịu sự điều tiếng, bất tín nhiệm, sự không hài lòng cùng những nghi kỵ,... là những nguyên nhân tham gia vào việc phải chịu sự thất nghiệp. Chứ chẳng phải gặp thái tuế là một sự bộc phát, sự thỏa mãn, dương danh với đời gì ở đây cả.

Đó là về tổng quan. Khi xét vận này. Với trường hợp của anh alan, thì phải cách nhật nguyệt chiếu cung VCD là cách cục chính. Nhưng với trường hợp của người này thì lại không phải, mà cách cục chính của anh ta là dịch mã động, phùng nhị lộc gia cách minh lộc ám lộc ngộ tuần. Từ cách này mà luận thì khẳng định rằng, bởi có tuần chi phối cách cục minh lộc ám lộc án trên dịch mã thì buộc phải có sự dịch chuyển nhiều lần và thay đổi công việc một cách cơ bản. Sự dịch chuyển này là truân chuyên do Tuần, cùng với bản chất minh lộc ám lộc chủ về cuối vận mới phát. Gia thêm cách nhị lộc hội họp hóa cát, cũng là cách chủ ăn về hậu vận. Vì thế vận này còn mấy năm nữa cuối vận, tất anh ta sẽ phát rất nhanh, để tới cuối vận thì đã định danh. Nhưng xin chớ lầm nó với vận thái tuế, thấy nó phát và hết vận được định danh thì đóng vai thái tuế để cướp công các cách cục khác. Cái trò cướp công, thì trong đời thường là một việc bỉ ổi, không lẽ trong học thuật, vì dốt nát nên để xảy ra tình trạng này chăng?. Tôi thật không hiểu nổi.

Năm nay, từ quý 4 trở đi, anh này sẽ gặp may mắn, thế nào cũng khởi phát từ một hợp đồng công tác. Chị nói anh ta đừng để tuột cơ hội này.

Thực tế sẽ chứng minh lời tiên đoán này. Cũng sẽ cho thấy, chẳng có thái tuế gì ở đây cả. Có chăng, chỉ là sự khó khăn thêm cho đương số. Không phải như sự ngộ nhận cho rằng vận thái tuế thì phát. Một lý thuyết không đúng thực tế, dù có bằng lời văn hoa mỹ bao nhiêu, cũng nên dũng cảm mà vứt bỏ nó đi. Cũng như việc mua thuốc đắt tiền, nhưng vô dụng, thậm chí là thuốc độc bảng A, nhưng vì tiếc tiền mà cứ uống đại. Để tính mạng bị nguy nan. Có phải là dại dột không!.

Thân ái.

...

Anh TuHepluong thân mến.

Cũng chỉ là nhân thể khi phản biện lý thuyết của học phái thiên lương, mà có đôi lời về lá số của anh. Theo luận giải của tôi, số anh về hậu vận khá giả, tuy rằng bản chất công danh, sự nghiệp của anh gắn liền với những thay đổi, dịch chuyển. Nhưng sự nghiệp càng ngày càng ổn định, chứ không thể như anh nghĩ là bất trắc, nhiều khó khăn thât bại được. Bởi thế, khi thấy anh nói rằng những năm sau đây và đại vận tới là xấu thì tôi không nhất trí, vì vậy tôi xin giải tiếp cho anh năm tới và đại vận tới để anh rõ.

Trước hết, do tôi kiểm chứng, phúc của anh chế được tài, nhưng tài cung của anh nhập nhọang những mảng tối sáng khác nhau, chen lấn nhau, tài khí lại yếu mà mệnh chủ vốn yếu nên khẳng định được ngay rằng cuộc đời của anh, tiền tài lên xuống thất thường, kiếm ăn vất vả chứ cho tới nay thì chưa có của họanh tài. Công việc làm ăn khi thông khi tắc. Nhưng dù vậy anh cũng vẫn không bao giờ lâm vào tình trạng thiếu thốn, đói khổ. Chỉ là làm ăn vất vả mà thôi. Từ sau 50 tuổi trở đi, mệnh chủ của anh biến hóa. Đây là điểm hết sức tốt trong lá số của anh, và cũng chính nhờ vậy mà điểm khẳng định của phúc chế tài được ứng chính xác. Khi mệnh chủ đã biến, từ yếu thành mạnh, từ hung hóa cát thì hậu vận trở nên sáng sủa. Nhưng mà nhìn trên lá số của anh, vào đại vận tới thấy có liêm phá hãm thủ, ngộ kình địa không thì ai nhìn mà chả thấy là xấu. Song không phải vậy, khi xét hóa khí, mệnh chủ của anh không những đã biến hóa, mệnh chủ cũ cũng hóa cát, dịch mã trở nên không động, lại no đủ thì chẳng có lý do gì mà xấu cả. Hơn nữa, do mệnh chủ biến hóa, nên cách cục thủ vai chính của đại vận tới không phải là liêm phá kình địa không, mà là Vũ tham quyền. Chứ nếu chúng là liêm phá thì anh khó thóat khỏi án kiện lắm – có thể có người hỏi rằng, tại sao lại không thành bộ SPLT mà xét, lại đi tách chúng ra, rồi lại chọn lấy sao tốt mà luận thì chẳng phải là từ xấu thành tốt không?. Thưa rằng, dó là do quy định từ mệnh chủ. Tuy rằng, trong tổng thể, mệnh cơ lương thì vào vận liêm phá, đương nhiên phải đụng độ. Nhưng khi đã được „người chỉ huy” tài năng, thì hung hóa cát là chuyện đương nhiên -. Khi ấy, không chỉ phải đối mặt với tòa mà còn phải chịu sự trưng biên tài sản. Rất may là không phải chúng. Anh không những không bị các họa này, mà còn vượt lên trên chúng, biến hung thành cát. Những họa đó chỉ là những đe dọa kiểu thị phi, kèn cựa, tranh ăn của những tập đòan đối thủ mà thôi. Nhưng cũng vì điều này mà công việc của anh cũng có xáo trộn. Như đã nói, sự nghiệp dần vào ổn định. Sự xáo trộn lại không phải là những điều không may, mà đó lại là những cơ hội cho anh gặt hái thêm thành công, anh trở nên có quyền hành. Lại trở thành người dễ dãi, dễ thỏa mãn. Âu đó cũng là điều hay khi tuổi xế chiều, vật chất và quyền uy dễ làm hư hỏng người ta, mà lại bị con thiên không nó chiếu vỗ mặt như thế thì nguy hiểm thật. Kỳ lạ là một cách tự nhiên, thiên không nằm đó mà lai chẳng làm gì được anh, bởi tự căn anh đã lọai trừ nó rồi. Chứ không như những người khác, cùng một lá số, nhưng có mệnh chủ khác là rụng rời với thằng thiên không này ngay. Như nếu dính vào cách kình không kiếp hình thì chắc ăn đòn nặng với thằng thiên không, không những ngồi tù, mà còn phá sản. rồi thì ngồi trong tù mà cũng là tu luôn.

Năm tới anh thường có những phi vụ ngon ăn, tiền tới trước miệng như người ta tự đem tới. Đồng thời cũng không phải đi lại nhiều lắm đâu, mặc dù công việc vẫn ở nơi xa mới có lộc nhiều. Đây là năm anh khá sung túc so từ trước tới nay thì anh sẽ cảm thấy no đủ, cuộc đời lên hương. Tự thấy thỏa mãn có một năm hạnh phúc. Song công việc vẫn có biến động, phải thay đổi, hay dịch chuyển, tuy không nhiều, nhưng mỗi lần thay đổi là đáng kể, và cũng làm thay đổi đáng kể tình trạng kinh tế của anh. Đó là những thay đổi tốt. Thời gian cũng không còn bao xa, anh cứ nghiệm xem lời tôi nói có đúng không.

Chúc anh nhiều may mắn.

Thân ái.

...

Các bạn quan tâm thân mến.

Bây giờ, chúng ta tiến hành phản biện về mặt lý thuyết. Có thể nói, nếu chỉ nói khởi khơi, thì việc phản biện sẽ vô nghĩa. Nhưng như đã nói ở trên, trước hết chúng ta phải xem chính tác giả của thuyết này nói gì. Một cách trung thành với nguyên bản.

Trong tác phẩm TVNL toàn thư, Tác giả TL có viết:

BÀN THỂ THỰC CHẤT CỦA THÁI TUẾ

Trên 30 năm học hỏi với nhiều đợt từ biệt Tử vi, đến nay mỗi lần cầm trên tay một lá số, việc đầu tiên là tính coi xem Mệnh Thân ở trong một vị trí nào của Thái Tuế. Thành thực mà nói lòng riêng những kính mến nhưng ai đâu là người được đặt trong vị trí tam hợp tuổi.

Một Mệnh hay một Thân, chứ đứng nói cả Mệnh lẫn Thân hay Mệnh Thân đồng cung Thái Tuế, đó là chuyện quá sức mong chờ hãn hữu. Nhớ lại ngày mới học Tử vi, theo chỉ dẫn của vị ân sư tài tử thì sợ Thái Tuế hơn cọp dữ. Nào là tù tội, nào là miệng tiếng thị phi, tranh chấp tang thương. Nay thì cảm phục không chút trù trừ do dự và thật lòng tin tưởng những công cuộc của người Thái Tuế đã làm như theo có sứ mạng.

Hai mươi năm gần đây, lần chắp nối lại tơ duyên với Tử Vi lần cuối, tự đặt câu hỏi tại sao lại 3 vòng: Thái Tuế, LộcTồn, Tràng Sinh. Sao không 2 vòng, 4 hay 5 vòng. Rồi tìm ngay nguyên nhân nào sinh ra vòng Lộc Tồn, Thái Tuế, và Tràng sinh. Thấy ngay đáp ứng do Thiên can, Địa chi và Nạp âm của tuổi. Tưởng Thanh nhân phân tách đời thế nhân không phải là sơ sài, thật là đầy đủ.

Thái Tuế được đặt theo địa chi của tuổi của số, có nghĩa là người đó có được đặt ngay vào vị trí sở hữu chủ là chính mình hay không? Nếu mình nằm ngay Thái Tuế, tất nhiên mình có bổn phận có trách nhiệm nơi miếng đất mình sanh tồn. Mình dẫu có lòng dạ hững hờ như kiều dân đến ăn bám ở nhờ chỉ nghĩ đến tư lợi, hay thì ở dở thì bước. Nằm trong tam hợp Thái Tuế là ở trong thế liên minh hữu nghị thuộc địa quyền công dân không phải là mất, vẫn được đối đãi ngang hàng cùng người sinh quán, vẫn tự do làm bổn phận mỗi khi đất mẹ cần đến. Một là phải suy tính kỹ càng ( Quan Phù), hai là khi đã vén tay áo là hăm hở cho đến cùng ( Bạch hổ).

Người trong tam hợp Thái Tuế là người có miếng đất cắm dùi có bổn phận trách nhiệm cho miếng đất mình sinh sống, không lẽ mình phá hoại căn nhà mình đã được cha truyền con nối có dầy dẫy kỷ niệm hào hùng hay bi đát, tổ tiên đã gây dựng lên tốn hao biết bao mồ hôi cơm gạo, để mình thụ hưởng mà mình quên bổn phận bảo tồn và tô điểm thêm lên cho khởi sắc. Phải chăng Thái Tuế là chỗ ngồi tinh thần cao đẹp nhất của tuổi số.

Người trong tam hợp Thái Tuế, tối thiểu là có tư cách, từ người làm mướn đến tột đỉnh cao sang tuỳ theo thứ lớp, địa vị người đó đứng trong xã hội. Ví dụ tam hợp Thái Tuế là khu đất chắc nịch, nhà nào được xây dựng lên được yên lòng, không sợ lún sâu như chỗ sình lầy đổ rác phủ qua một lớp đất mỏng, người xấu số không biết cứ lập lên 3, 4 tầng lầu. Rồi ngày qua tháng lại chỉ một cơn mưa dầm, nhà sẽ đổi ngay bộ mặt thành nứt nẻ nghiêng vẹo. Thử hỏi ai là người gan dạ tin ở sự vững chắc của căn nhà mà dám dọn đồ đến trú ngụ.

Người được một Mệnh hay Thân ở tam hợp Thái Tuế, kể như đã có một thành quả nào rồi, nhưng chưa hẳn mãn ý. Như Mệnh ở tam hợp Tuế Phá mà Thân ở tam hợp Thái Tuế là người tuy thiếu thời gặp bước lưu ly nhưng tấc dạ sắt son không thể ùa theo vô nghĩa. Tự mình vẫn vạch lấy con đường lý tưởng mình đi. Thương cho ai mệnh Thái Tuế mà Thân bị lọt vào tam hợp Tuế Phá, cuộc đời của mình không thiếu sót bổn phận. Vậy mà vãn niên thấy như bị ép buộc, không cho phép mình được thi thố theo sở ước, mà còn bị bạc đãi nữa là khác ( có 2 trường hợp: người dương nam mệnh ở Thái Tuế thì ngoài 50 tuổi hết hạn Thái Tuế, tiếp ngay đến hạn Thiên Không. Trái với người âm nam trên 30 tuổi phải gặp Thiên Không như người được huấn nhẫn trước rồi ngoài 40 mới được Thái Tuế bù lại.Tưởng đó là một cuộc thử thách cho người, có chi nhẫn nại và nghịch lý âm dương). Nào phải là người miệng nói đạo nghĩa là thực hiện lại theo ma giáo, vì định mệnh đã tạo cho người đó là Thái Tuế ( Mệnh) thì không thể có đầu óc làm quấy. Sở dĩ không đạt được trọn vẹn ý muốn vì một lẽ gì khiến mình buộc lòng phải theo, mình không thể thổ lộ, cam chịu sự bạc bẽo đành nhận lãnh không đổ trách nhiệm cho người khác ( Thân Tuế Phá). Từ 14 chính tinh đến trung tinh và sát tinh chỉ là đồ trang hoàng, bài trí làm cho căn nhà có vẻ phong phú đài các hay nghèo khó xác xơ, nói toạc ra là chỉ lớp áo phủ ngoài một pho tượng vàng hay đất làm cho người ngoài dễ lầm lạc ngộ nhận.

Như 2 sao Tử Phủ ở Dần Thân hay Phá Quân ở Thìn Tuất chẳng hạn. Người nào được khoác áo Tử Phủ hẳn cho là người đó ở hạng quân tử, đứng đắn, kẻ cả đàn anh, còn Phá Quân ở Thìn Tuất hẳn là quân bất nhân, lừa thầy phản bạn.

Thưa rằng nghĩa nó là thế không phải là không đúng. Nhưng nếu không xét từ cội rễ là một chuyện bé cái lầm. Nếu là Tử Phủ ở Dần với người tuổi Dần Ngọ Tuất, Mệnh ở ngay Dần Ngọ Tuất thì xin khoanh tay kính chào. Đó là người xứng đáng được trọng vọng dầu có bị Không Kiếp trà trộn, chỉ thêm lòng bác ái ngại cho ai không được đời biết đến hay bị đố kỵ mà yếm thế, hạng người này không phải ăn ở hai lòng, xin dâng danh hiệu là Nhạc Bất Quần, ngụy quân tử nếu được thêm 2 ông phụ tá Không Kiếp trợ lực, thật không biết kính dâng ông cái thẻ bài gì để ông đeo cho xứng đáng tư cách chúa trùm của ông.

Còn Phá Quân ở Tuất, nếu là người tuổi Dần Ngọ Tuất chỉ là người mang tiếng phản bội không trung thành, đáng được minh oan. Thật ra chỉ vì một cái thế kẹt gì đó mà oan tình, ngoài ra lòng thành thực chỉ có cao xanh hoạ chăng thấu rõ. Trái lại Phá Quân ở Tuất mà lại tuổi Thân Tí Thìn thì xin miễn nói vì tiếng đặt cho sao và vị trí đóng nó đã đầy ý nghĩa rõ ràng không cần bàn thêm.

Một người Tả Hữu Không Kiếp cũng vậy. Trường hợp ở vị trí tam hợp tuổi có Tả Hữu Không Kiếp là người đa tài mà không đắc dụng. Ngược lại người có Tả Hữu Không Kiếp ở vị trí tam hợp Tuế Phá là người không thể đặt niềm tin, một khi họ chủ trương một công việc gì có thể coi là công ích vị tha, luôn luôn người đó nghĩ đến bản thân trước có thừa thãi mới là lợi chung.

Vậy cung và sao là 2 bộ phận của Mệnh viên, cũng là hình thể chắc hay ốp, khoẻ mạnh hay ốm yếu. Sao là phấn son tô điểm, là quần áo sang trọng hay xềnh xoàng vá rách. Một thân hình khoẻ mạnh lồng trong bộ quần ào rách vá, vẫn thấy người đó đi đứng chững chạc của nội trạng lực sỹ hào hùng, khác xa hẳn mã người chệch choạng lẩy bẩy với bộ gấm vóc mà mặt mũi hốc hác, chân tay khẳng khiu.

Tìm tòi thực chất của Thái Tuế là vạch vòi, với mốc căn nguyên bản số của người, như các cụ xưa kia, mỗi người khi dựng vợ gã chồng cho con cháu, là xem xét dòng giống của đầu rễ cội gốc nào, gia phong ra sao, nay thấy là chuyện không phải không có ý nghĩa sâu xa.

Vòng Thái Tuế có thể nói là phần căn bản của số chỉ 12 chỗ đứng mà thấu đáo hết cốt cách của người, thêm phần sao để biến dạng phần nào. Rồi cùng thời gian đưa dẫn thế nhân từ nơi sáng vào chỗ tối, hay từ chỗ tối dìu dẵt đến nơi sáng, tức là vận hành cũng không ngoài vòng Thái Tuế điều khiển.

Nhớ lại cũng một ngày đầu xuân năm ngoái, đựơc tiếp một cụ tuổi Giáp Dần ( 62 tuổi ). Cụ sợ mất thì giờ của tôi, cụ chỉ xin 15 phút để nói chuyện Tử vi.

Xin thưa ràng tôi có tật ít khi xem số của ai để số trước mặt, chỉ xin cho biết năm tháng ngày giờ sinh và vẽ ngay số bằng hình hỷ hà học theo tam hợp, để người có số dễ hiểu đời mình thế nào. Thấy Mệnh cụ đóng ở Tuất có Phá Quân. Tôi hỏi ngay có phải cụ chỉ thắc mắc ở chỗ Phá Quân Tuất này không? Hỏi rồi, tôi tự trả lời ngay: cụ chỉ bị đời hiểu lầm là Phá Quân, thật ra Cụ một lòng sắt son với bạn hữu. Cụ Tuổi Dần, Mệnh ở Tuất là trong tam hợp Thái Tuế. Người của tam hợp Thái Tuế không có tư cách của Phá Quân thường tình, dầu rằng tuổi Giáp Dần là Thuỷ Mệnh mà Phá Quân lại là thuỷ tinh.

Ông cụ đứng ngay lên, nắm tay tôi, xin phép một ngày trở lại coi. Cụ quá ư cảm động.

Viết lên bài này để kỷ niệm ngày tái tiếp cụ cũng ngày đầu Xuân năm nay ( Ất Mão) với đầy ý nghĩa. Cụ đã cho biết tất cả những gì đã đem đến cho cụ trên 30 năm nay vì Phá Quân ở Tuất cung của người tuổi Dần Ngọ Tuất.

Thân ái.

...

Qua mấy ngày chúng ta suy ngẫm về đoạn văn này của cố tác giả Thiên Lương. Hẳn nhiên chúng ta có nhiều nhận định. Nhưng trước hết, chúng ta cần xác định, đây là vấn đề học thuật. Không vì một bất cứ lý do cá nhân nào, cũng như không vì chuyện phải kính trọng một vị tiền bối mà chúng ta không được phép đặt tính đúng sai lên bàn cân để mổ xẻ. Song dù sao, khi bước vào phản biện. Bất cứ ai, hoặc muốn tham gia phản biện, hoặc bảo vệ. Xin đừng vì lý do cá nhân mà vi phạm. Xin cám ơn sự quan tâm của quý vị.

Tác giả Thiên Lương đã có quan niệm về vòng thái tuế, trong quan hệ với hai vòng lộc tồn và vòng tràng sinh. Tác giả đã đặt vấn đề:

Trích:

Hai mươi năm gần đây, lần chắp nối lại tơ duyên với Tử Vi lần cuối, tự đặt câu hỏi tại sao lại 3 vòng: Thái Tuế, LộcTồn, Tràng Sinh. Sao không 2 vòng, 4 hay 5 vòng. Rồi tìm ngay nguyên nhân nào sinh ra vòng Lộc Tồn, Thái Tuế, và Tràng sinh. Thấy ngay đáp ứng do Thiên can, Địa chi và Nạp âm của tuổi. Tưởng Thanh nhân phân tách đời thế nhân không phải là sơ sài, thật là đầy đủ.

Từ tư tưởng này, cụ Thiên Lương cho rằng ba vòng lộc tồn, thái tuế và tràng sinh lần lượt tương ứng với ý nghĩa mỗi vòng là đại diện của một Tài trong tam tài thiên – địa – nhân. Đó là: vòng Lộc tồn là vòng thiên can, vòng thái tuế là vòng địa chi, và vòng tràng sinh là vòng nhân sinh. Bởi vòng lộc tồn xác định can niên sinh, vòng thái tuế xác định bởi chi của tuổi. Vòng tràng sinh xác định bởi nạp âm của tuổi.

Chúng ta thấy ngay tác giả Thiên Lương đã sai cơ bản ngay từ đây. Lần lẫn cho rằng vòng tràng sinh xác định bởi nạp âm của tuổi. Chúng ta có thể kiểm tra trực tiếp, vòng tràng sinh được xác định bởi nạp âm của cung an mệnh, có tên gọi là Hành của Cục. Chứ không phải được xác định bởi ngũ hành bản mệnh.

Nay có thể có người, để bảo vệ cái ý nghĩa vòng tràng sinh là vòng của tài nhân, bên cạnh vòng thiên và vòng địa tương ứng lộc tồn và thái tuế. Biện lý rằng, vòng tràng sinh được xác định bởi ngũ hành nạp âm. Do nạp âm là sự phối hợp của thiên can và địa chi, vì thế mà tổ hợp thiên can, địa chi và nạp âm của nó cho ta một tam tài. Thưa rằng, đúng như vậy. Một tổ hợp thiên can địa chi và nạp âm cho ta một tam tài, trong tam tài vũ trụ thiên địa nhân có thập thiên can, thập nhị chi và lục thập hoa giáp. Cấu trúc tương ứng, cho phép mỗi ngũ hành nạp âm thuộc tam tài thiên địa nhân với mỗi can và mỗi chi tương ứng, chứ không có chuyện một nạp âm xác định được bởi bất cứ một cặp can chi bất kỳ nào khác. Bởi vậy, ba vòng lộc tồn, thái tuế, và tràng sinh, vốn nó không phải là một hệ thống tam tài cho một lá số. Bởi vậy, khi xét một lá số xác định, ba vòng này không thể đóng vai trò đó là ba vòng thiên địa nhân của đương số được. Từ lý do này, khi giải đoán, chúng ta không được phép râu ông nọ cắm cằm bà kia. Cho rằng đương số đứng trong tam tài, với đại diện của tam tài là ba vòng, lộc tồn, thái tuế, và tràng sinh. Từ đó mà nói, không được xem có sự tồn tại của cái gọi là đắc hay hẵm ba vòng này, tương ứng khi mệnh có thái tuế, lộc tồn và tràng sinh đóng hay thuộc tam hợp của chúng. Để mà nói, đắc được ba vòng, đương số được thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đó là một ngộ nhận căn bản. Không chỉ là đưa chúng ta tới sự giải đoán sai, mà còn sai lầm về minh triết sâu sắc. Bẻ cong lý luận của tử vi. Đẩy lý luận của tử vi vào chỗ suy luận chủ quan.

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi phamphong Xem bài gởi

Rất mong anh vuivui phân tích tiếp để hậu bối hiểu rõ hơn về 3 vòng.

Trân trọng,

Phamphong

Vâng!. Nhưng trước khi đi sâu về ba vòng mà Cố tác giả Thiên Lương đã gọi đó là ba vòng thiên - địa - nhân một cách sai lầm do không hiểu về tam tài một cách thấu đáo. Hơn nữa, hậu duệ của tác giả cũng không có khả năng suy xét thấu đáo về vấn đề này, do đó mà tới nay không hề thấy có sự chỉnh sửa. Vẫn cứ theo khuôn mẫu mà phán xét, khi giải số, đều cố gắng xem xét cái thế thiên thời địa lợi nhân hòa trên lá số tử vi được đẻ ra do bởi ba cái vòng ngộ nhận này. Với Cố tác giả Thiên Lương, thời có thể châm chước ở lẽ Cụ chỉ nghiệm lý thôi. Nhưng ngay những lời bình giải góc độ nghiệm lý chúng ta cũng thấy khiên cưỡng, nhất là khi áp đặt lý thuyết vòng thái tuế với tam tài thiên địa nhân. Tôi thực cũng rất mong có cao nhân thực thụ của trường phái này vô đây. Chí ít thì cũng còn gọi là có tiếng nói bảo về kiến thức của tôn sư, bảo vệ môn phái. Sau là, nếu có nổ ra tranh luận học thuật, thì vấn đề sẽ càng được sáng tỏ.

Còn như những lý số gia theo trường phái này, rời bỏ phạm vi nghiệm lý mà vượt sang phạm vị giải đoán, cho dù chỉ là ở tầng thấp, như cá vượt vũ môn, thì e rằng cá chép vẫn là cá chép, nhưng bị bong vẩy, gẫy vây, chứ không thể hóa thành rồng được.

Chúng ta nên xem xét qua cái hiểu thực sự của Cố tác giả Thiên Lương về âm dương ngũ hành như thế nào!. Bởi điều này cực kỳ quan trọng. Đúng hay Sai, cũng từ đây mà ra. Ai cũng biết, cơ sở của lý học đông phương, mà tử vi chỉ là một ứng dụng, là lý luận âm dương ngũ hành. Ấy vậy mà trang 6 cuốn Tử vi nghiệm lý toàn thư phần nguyên lý nạp âm hoa giáp, có viết:

Trích:

Mọi sinh vật sống trong vũ trụ đã được nhận định theo luật âm dương. Cây cỏ cũng có hoa đực hoa cái, côn trùng con kiến cũng có con cái con đực, cho đến vật dụng hàng ngày hầu như cũng dị biệt giữa đực và cái. Luật âm dương chi phối vũ trụ mọi sự sinh hoạt. Không gian đã có thiên là phải có địa. Thời gian càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn.

Đã có mùa đông giá lạnh, phải có mùa hạ nóng hầm, mùa xuân ấm tươi, phải có mùa thu dịu tàn.

Âm dương là tinh thần, phần vật chất là ngũ hành, Thiên can là dương, Địa chi là âm. Thiên can có ngũ hành của Can, Địa chi có ngũ hành của Chi. Ngũ hành của Can có cái dương và cái âm. Địa chi cũng vậy. Âm dương ngũ hành của Can có 10 chữ rất rành mạch. Nhưng địa chi sao lại 12, thấy trội dư 2 cái Thổ (1 dương và 1 âm).

Thấy rằng thời gian của 4 thời tiết từ cái xanh tươi (xuân) đến nắng gắt (hạ) lần theo mát dịu (thu) kế tiếp lạnh lẽo (đông) rồi lại nối đến xanh tươi (xuan)... thời gian cứ quanh quẩn như thế phải mất trên 365 khoảng mặt trời đồng thời gian đêm tối.

Trong đó chúng ta chú ý phần trích dẫn được in đậm. Thấy ngay rằng, cái hiểu về âm dương ngũ hành của Cụ đã sai một cách nghiêm trọng. Thật vậy.

Như tôi đã từng trình bày trong nhiều tranh luận về âm dương. Trước hết, chúng ta cần phải hiểu rằng, âm dương không có định nghĩa cụ thể, mà chỉ là một sự khái quát vũ trụ như một phạm trù triết học, nó cho chúng ta hiểu, để nhận thức rõ về bản chất và vận động của âm dương. Từ đó mà có thể vận dụng trong các đối tượng quan sát, nghiên cứu và vận hành của mình. Không phải ngẫu nhiên mà có thể nói, hiểu âm dương có nhiều cấp, rất nhiều thang bậc. Như cây cối cũng biết được âm dương mà phân biệt, bởi cành lá ngọn thì vươn lên khỏi mặt đất mà quang hợp, rễ cây thì bám chặt vào lòng đất mà hút chất dinh dưỡng nuôi sống cây, âm dương phối hợp mà cây lớn lên. Động vật cũng biết phân biệt đực cái mà thực hiện giao phối để duy trì nòi giống. Chứ nếu chúng không biết phân biệt thì con cái đến kỳ động đực mà lại tìm con cái thì nòi giống chúng sẽ ra sao?. Như con mèo, con chó cũng phân biệt được cao thấp, để mà nó biết sợ độ cao nên không dám nhảy từ tầng 10 xuống mặt đất chết tan xương. Ấy là cấp thấp cũng biết âm dương. Còn như con người, chẳng cần học cũng biết được âm dương, chỉ bởi vì, họ phải biết được đâu là chân trái, chân phải, đầu và đít, gái và trai, đàn ông cùng đàn bà, có biết hôn phối là sự kết hợp giữa đàn ông và đàn bà để thành lập một gia đình - tế bào của xã hội, rồi phải biết có ngủ có thức, có nghỉ ngơi và lao động. Cũng biết đâu là linh hồn và đâu là thể xác, biết được giá trị tinh thần và giá trị của vật chất. Rồi tới kẻ có học âm dương thì nhận thức âm dương sẽ cao hơn, như thấy đươc không thời gian là âm dương, bốn mùa cũng phân âm dương, rồi như vật chất và tinh thần là một cặp phạm trù âm dương, linh hồn và thể xác thuộc về âm dương, thống nhất để mà có một con người, mà lại được phân thành âm dương, biến hóa, tương phối mà vận động, phát triển....

Thế đấy. Học âm dương, tối thiểu phải hiểu rõ ràng như vậy. Đã rõ ràng là vật chất - tinh thần là một cặp âm dương, sao lại còn phát biểu âm dương là tinh thần, ngũ hành là vật chất ?.

Một khi đã hiểu như vậy, thì tinh thần đâu còn được phân chia âm dương nữa, mà cứ nghĩ tới ngũ hành là thấy vật chất rồi, thì thử hỏi, một cách trực tiếp nhất, làm sao có thể thấy được sự trao đổi, tương tác, quan hệ giữa vật chất và tinh thần theo quy luật âm dương tiêu trưởng, thịnh suy, rồi phản phục,....mà khi đã không hiểu những thứ đó, làm sao có thể suy lý được cái lý âm dương ngũ hành trong tử vi?.

Có phải như vậy?. Thì đến đây, chúng ta đã rõ rằng, thấy cần phải nghiêm túc xem xét lại cái lý luận của môn phái này, mà tiêu biểu cho nội dung của nó là lý luận vòng thái tuế cùng ba vòng thiên địa nhân.

Xin mời các bạn tham luận.

Thân ái.

...

Chào ngươisaigon.

Rất vui về sự có mặt của bạn trong chủ đề này. Xin cám ơn bạn trước.

Bạn có viết:

Trích:

Tôi thấy anh Vuivui có vẻ nôn nóng trông chờ người biện thuyết với anh, ấy không phải là thái độ của Huyền học, bởi vì kẻ đã đến Bờ thì không ai biện thuyết với anh nữa còn kẻ lao nhao thì cãi nhau đến bao giờ, người ta đã không biết thì càng nói lắm càng khiến người ta không biết lắm, tôi thấy anh hay nói về triết Đông vậy thì tư tưởng của Đông phương là khơi gợi để con người tự khải phát sự hiểu biết chứ không phải là biện thuyết tìm đúng sai, phản bác biện luận để tranh hơn kém hoặc tìm sự đúng sai nó gần vời toán học, khoa học thực nghiệm hơn và nếu chỉ có thế thì tử vi cũng chẳng còn gì hứng thú nữa.

Thì tôi có ý kiến như thế này.

Nguyên trong bài khởi tạo chủ đề này, Tôi đã có trình bày về mục đích của chủ đề là minh bạch một hệ thống lý luận, mà nhiều người cho rằng nó xứng đáng được gọi là một trường phái, một môn phái. Thực ra, nếu đó là một cảnh huống nội bộ, mang tính "đóng cửa" bảo nhau, chỉ truyền cho truyền nhân, nội bộ mà thôi. Thì cái việc đúng sai đâu cần minh bạch. Nhưng một khi đã ra công chúng, đó là một sự phổ biến kiến thức, một sự thể hiện về mặt học thuật, có tác động đến sự phát triển hay lụi tàn của cả một nền lý học, một tài sản chung của nhân loại. Điều này có khác gì, như một khoa học, là phải có sự minh bạch. Sự minh bạch, sự tìm kiếm những chân lý, như đã biết, đối với khoa học, thì con đường phản biện học thuật là con đường hữu hiệu và được thế giới xác nhận, ủng hộ nhất. Vì thế, với mục tiêu của chủ đề thì việc phản biện là hợp lý.

Để phản biện cái hợp lý này, Bạn đã đưa ra cái gọi là Thái độ huyền học. Cũng như đã có sự cảnh giác của tôi, sự phản biện học thuật rất dễ bị biến tướng, chuyển thành phản biện phi học thuật, chính bởi đang thảo luận về học thuật, thì lại nhẩy sang nói chuyện thái độ. Và có thể, nếu không có sự phân biệt, thì nó sẽ nhảy sang cả những vấn đề khác, hoàn toàn chẳng liên hệ gì đến với học thuật cả.

Bởi thế, Tôi có đôi lời về vấn đề này:

Bạn nói tới cái gọi là Thái độ huyền học!. Vậy hỏi nhỏ bạn, thế nào là thái độ huyền học?. Tôi cho rằng bạn đã giải thích bởi câu:

Trích:

bởi vì kẻ đã đến Bờ thì không ai biện thuyết với anh nữa còn kẻ lao nhao thì cãi nhau đến bao giờ, người ta đã không biết thì càng nói lắm càng khiến người ta không biết lắm, tôi thấy anh hay nói về triết Đông vậy thì tư tưởng của Đông phương là khơi gợi để con người tự khải phát sự hiểu biết chứ không phải là biện thuyết tìm đúng sai, phản bác biện luận để tranh hơn kém hoặc tìm sự đúng sai nó gần vời toán học, khoa học thực nghiệm hơn và nếu chỉ có thế thì tử vi cũng chẳng còn gì hứng thú nữa

Thì bạn nói đúng, mà lại không đúng. Thật vậy, nói là kẻ đã đến Bờ thì không biện thuyết. Điều đó đã hẳn. Nhưng ai có thể nói là đã đến Bờ của huyền học?. Nói ngay trong khoa học hiện đại đây thôi, cũng chả ai dám nói là đã đến bờ!!!. Nhưng phản biện vẫn cứ phải phản biện. Biết đến đâu, nói đến đó. Biết và nói, tranh luận là để hiểu, để tìm cái đúng, cái sai trong cái mà chính ta đã được biết đến. Nếu như không có tranh luận, một mình mình nghĩ, tự cho là mình đúng, tự cho là mình đã đến Bờ, để khỏi cần biện thuyết với ai nữa, thì làm gì có cái đúng cái sai nữa. Làm gì còn có sự phát triển nữa. Thái độ này, ngày xưa còn có thể hiểu, nhiều khi tặc lưỡi, ok. Nhưng thực tế, dù là ngày xưa, các đạo sĩ, tăng ni đắc đạo thường xa rời hồng trần, xa rời thế tục. Và nhữ vậy, một thái độ huyền học chỉ có thể hữu ích với chính họ. Nhưng các môn phái vẫn mọc ra, các đệ tử vẫn được truyền lại kiện thức, và trong tâm khảm các tổ sư, tôn sư vẫn cứ muốn Phát Dương Quang Đại bản phái. Thế thì, họ có phải là tự mâu thuẫn với chính mình. Một mặt giữ thái độ huyền học, nhưng một mặt lại muốn phát dương quang đạo để ngạo thế. Chung cuộc, thì đó là sự giả dối, có thể quy về cái gọi là Tham, Sân, Si. Chứ đâu còn có sự minh bạch để phục vụ lợi ích của tha nhân, của cộng đồng là sự phát triển chung của tri thức?.

Tư tưởng của triết đông không phải là khơi gợi. Mà là vì nó vốn khó hiểu, trừu tượng và đầy cảm tính - một trong những nguyên nhân khiến người ta gọi nó là huyền bi - nên người ta mới cho rằng nó cần phải được Chiêm Nghiệm. Mà mọi sự chiêm nghiệm, ngoài sự thu thập hiểu biết, nó phải được minh chứng đúng hoặc sai. Sai thì bỏ đi, đúng thì nó là kiến thức. Như Tôi đã nói, chủ đề này cần tìm đúng sai, chứ không phải là để tranh thắng. Kể như, một khi ta đã thấy sai, chả nhẽ lại cứ khư khư ôm lấy nó, bảo là còn phải nghiệm lý nữa. Như thế, có nghĩa là: Chứng tỏ ngay cả cái gốc của Lý học cũng đã không có sự nghiệm lý đúng đắn rồi, thì mới có sự, trên cơ sở minh chứng từ cái gốc đó, thấy lý luận của môn phái này Sai, thì đương nhiên không cần nghiệm lý nữa. Người ta chỉ nghiệm lý, khi mà thấy cái mà mình đề cử, phát kiến ra hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với kiến thức cũ đã được nghiệm lý, hoặc giả là sáng tạo, nhưng vẫn phải đứng trên vai những người khổng lồ thì mới cần nghiệm lý tiếp. Có nghĩa là, về mặt Lý thì phải đúng cái đã, rồi mới có cái sự Học chứ. Đằng này, biết là không có Lý mà lại cứ Học, thì mới đúng không phải là Lý Học!!!

Trích:

Tôi thấy anh Vuivui có vẻ nôn nóng trông chờ người biện thuyết với anh

Thì xin minh bạch thế này.

Vốn diễn đàn này có ít người tham gia, lại nữa, người tranh luận lại còn ít hơn nữa. Thì nếu nói tôi nôn nóng, thì đó là cái nôn nóng để cho diễn đàn có được cái sự bình đẳng về học thuật, biết đến đâu, cứ tranh luận đến đó. Tôn trọng tinh thần học thuật. Đó là sự phát triển chân chính. Tránh vết xe đổ của nhiều diễn đàn, tranh luận hầu như mang tính chỉ trích cá nhân, phi học thuật.

Còn như để phản biện phân thắng thua, thì Tôi không cần, bởi nếu như chẳng có ai phản biện. Thì hoặc là chẳng có ai có thể phản biện, hoặc là phải thừa nhận tôi nói đúng về mặt học thuật. Vậy thì còn cần gì thắng với thua nữa mà sốt ruột hay nóng ruột?.

Đó là vài lời minh bạch, cũng là để chúng ta cùng chú ý, cần có thái độ học thuật, chứ không nên có thái độ huyền học (bởi vì chẳng có ai thực sự thực hiện được thái độ huyền học cả).

Thân ái.

...

Trích:

Mong các bạn đưa lên hộ tôi lá số này: Lá số người nam(đàn ông) sinh ngày 20 tháng 11 năm Tân Hợi giờ Dậu. Đây là lá số của một người rất nổi tiếng ở việt nam mình, chính người mang lá số này cũng vô cùng thắc mắc về lá số của mình vì không biết giải thế nào ở vận Quan Lộc.

Trích:

Xin nói thêm là có thể phần lớn các anh chị đều có biết qua người này, bản thân tôi sau thời gian loay hoay thì thấy nếu không dùng Thái tuế theo cách của Thiên Lương thì không giải được.

Người này chắc sinh năm tân hợi 1911, chứ không phải là năm 1971. Nhưng thực tôi cũng biết người này. Song không thể nói, bằng vào lý thuyết thái tuế là có thể giải thích được trường hợp này. Thật vậy, chỉ bởi vì, một lá số có nhiều cuộc đời. Nên vào vận thái tuế, khi chúng ta cứ khăng khăng cho rằng hạn thái tuế, bất chấp các xung phá của các cách cục hãm địa mạnh mẽ như: SPLT mà Liêm Tham hãm địa ở hợi, hội hình linh hổ hãm địa. Toàn sát tinh hạng nặng cả. Vì vậy, nếu theo thuyết thái tuế, chúng ta phải có một giả thiết là vận thái tuế mạnh đến nỗi át cả những xung phá mạnh mẽ, mạnh đến nỗi mà cả những cách cục sát tinh hạng nặng cũng phải chào thua. Nhường bước cho khí vận thái tuế. Chỉ ngay trong một lá số như thế này, cũng đã khó chấp nhận. Huống chi lại có thể có nhiều lá số khác mà nếu sử dụng giả thiết mạnh mẽ của vận thái tuế thì lại sai lớn.

Thêm nữa, nếu chúng ta đòi hỏi giải đoán sâu hơn nữa vận thái tuế của lá số này với điều kiện là chúng ta không phải nghiệm lý, mà là giải đoán, tất sẽ không giải được, mà chỉ có thể giải đoán một cách chung chung mơ hồ rằng: Vận thái tuế này bộc phát, thỏa mãn.

Nhưng thực tế, lá số này hoàn toàn không cần đến lý thuyết thái tuế của ông Thiên lương mà vẫn giải được. Tuy nhiên, tùy vào phương pháp mà sự cụ thể trong giải đoán có khác nhau.

1, Lý thuyết mệnh chủ. Lá số này có khá nhiều cuộc đời. Ở vận thái tuế, mỗi cuộc đời có những ứng xử khác nhau. Như có một cuộc đời, người này là quân nhân, cuộc đời chinh chiến vào sinh ra tử. Vào vận thái tuế người này bị tù đày và cũng trong đại vận này được thoát tù và thăng tiến, tiếng tăm lẫy lừng. Trong đại vận này, lên tướng. Có một cuộc đời khác, người này làm chính trị, có khiếu chính trị, thuộc gia thế dòng họ tài phiệt, và quyền thế. Nhưng gặp thời tao loạn nên phải bôn ba. Đến vận thái tuế trở nên hanh thông mà thành chính trị gia có tiếng tăm, lại giàu có.

Đó là hai cuộc đời ví dụ ứng với lá số này. Thảy đều không dùng lý luận thái tuế một chút nào.

2, Lý thuyết khí hóa vận. Đại vận thái tuế, hung hóa cát. Nhờ tranh đấu mà thành danh, danh tiếng lớn. Lộc hoạnh tài.

Phối hợp hai lý thuyết trên, có thể mô tả người có lá số này một cách chi tiết ở đại vận thái tuế.

Đây là những phương pháp luận số tử vi không phổ biến. Bởi vậy, tôi chỉ nói kết quả mà không dùng để phản biện lý thuyết thái tuế trên lá số này. Mà chỉ có ý rằng, quả thật cái gọi là phải dùng lý thuyết thái tuế để giải số này chẳng qua là vì chưa biết những phương pháp giải đoán khác khả giải mà thôi. Đồng thời cũng có thể khẳng định rằng với lý luận thái tuế thì thấy có vẻ thuận với lá số này, nhưng lại vấp với lá số khác. Trong khi có những phương pháp khả giải khác lại thuận lý với mọi lá số, mọi trường hợp như những phương pháp mà tôi đã và đang sử dụng – tôi chưa gặp bất cứ một trường hợp nào bất khả.

Nay tôi sẽ dùng những phương pháp truyền thống để giải quyết cho lá số này. Nhưng vì các phương pháp truyền thống đều có tính chung chung, lý luận không chặt chẽ và chắc chắn như những phương pháp của tôi. Thành thử, sẽ là hợp lý và chuẩn tắc khi chúng ta nghiệm lý hơn là giải đoán.

Tôi sẽ tiếp sau.

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi nguoi saigon Xem bài gởi

Thưa các anh chị, đây là lá số tử vi của nhà văn Nguyễn Hiến Lê, Ông sinh năm Tân Hợi 1911. Nhưng khi tới đây tôi lại thấy hình như có một sự ngộ nhận nào về cách hiểu về vận Thái Tuế của chúng ta chăng, vận Thái tuế chỉ cho biết rằng con người ta vào đó thì được thiên thời, mà thiên thời này chỉ có ý nghĩa là được may mắn theo hoàn cảnh lá số của mình thôi, tới Tuế nếu có sao phải đi tù thì vẫn đi tù thôi, có điều là khi ở tù cũng hơn người đồng cảnh ngộ với mình ví như được bạn tù quý mến, cai tù nể sợ, được ăn trên ngồi trước, chứ thực tình Thái Tuế đâu có cho con người ta một danh vọng hay quyền thế hay sự giàu sang nào. Vậy liệu có ngộ nhận nào về cách hiểu vận Thái Tuế giữa chúng ta chăng? Lần sau tôi xin lược lại cuộc đời của nhà văn Nguyễn Hiến Lê từng giai đoạn để các anh chị chiêm nghiệm. Sự hay dở của từng vận còn phải tùy thuộc vào sao của đại vận đó cộng với những tiền đề bất di bất dịch là mệnh, thân chứ làm gì có chuyện Thái Tuế nắm quyền chi phối đại vận và quyết định luôn đại vận đó được.

Cám ơn bạn nguoisaigon.

-Quả thật là tôi không nhớ ra số này là của học giả Nguyễn Hiến Lê. Khi bạn nói tới Nguyến Hiến Lê, thời tôi nhớ lại ngày trước bên TVLS tôi cũng đã có tham gia thảo luận, nhưng không giải lá số này mà chỉ phản biện ông TKTV, khi ông ta phân tích lá số trớt quớt mà thôi. Bởi vậy, nên lá số này chả có ấn tượng gì trong tôi cả. Cho nên hôm qua, khi xem xét lá số. Dùng phương pháp mệnh chủ, mà lại không có chút thông tin nào để xác định mệnh chủ, thành ra, việc liệt kê hai mệnh chủ khả dĩ. Dù đúng một, nhưng vẫn có khiếm khuyết trong việc gia giảm. Bởi vậy, chỉ mới nói được đến người này là chính trị gia. Xem lại thực tế. Nguyễn Hiến Lê là học giả thực thụ, bản thân ông ta viết nhiều sách. Nhưng chuyên môn và các tác phẩm của ông ta hầu là triết học và sử học. Đều mang tư tưởng và có bản chất chính trị. Sự thành danh là danh dự, nổi tiếng về các tư tưởng của ông ta. Thật sự nói là một nhà chính trị, là một sự thiếu khuyết tương ứng với sự thiếu khuyết trong xác định mệnh chủ vậy. Tức là: Mệnh chủ xác định đầy đủ tới đâu, thì sự giải đoán sẽ có độ chính xác tương ứng. Một khi mệnh chủ thiếu khuyết, thì độ chính xác và cụ thể cũng chỉ ở mức độ khái lược, mang bản chất tương tự. Như đã nói ở trên.

Như tôi đã từng nói. Giải đoán, xác định được mệnh chủ, là giải đoán được lá số tới 70 % rồi. 30% còn lại chỉ là sự cụ thể hóa tiêu chí mà thôi. Nay qua lá số này, chúng ta cũng thấy rõ yêu cầu về sự chính xác của mệnh chủ quan trọng như thế nào!.

-Như bạn nói, có hay chăng sự hiểu lầm về lý luận thái tuế. Tôi thấy không đúng như vậy. Tôi đã nói, nếu dùng lý thái tuế trong lá số này, buộc phải nâng tầm vóc của thái tuế, và vận của nó vượt lên trên các sao xung phá thì đời mới thành danh được, cho dù người đó có bị tù đày - nhưng là tù cha, tù chúa, nói như trong trước tác của ông Thiên Lương - hay là dù có bị chết thì cái chết đó cũng thành danh. Lá số này, cứ như theo truyền thống thì quan cung Tử Phá hội đủ các sát tinh hạng nặng như Linh Hình Hổ hãm địa, tài cung hợp chiếu Liêm Tham hãm hội Riêu Y, mà Mệnh Vũ Sát ngộ tuần là cảnh tranh tối tranh sáng của giá trị miếu hãm, với Vũ Sát là cặp tinh đẩu chủ gian truân, tranh đấu sống còn, thì dù có được quang quý hội tụ thì bản thân nó đã nói lên cái đức của một con người sống trong hoàn cảnh khó khăn, tranh đấu (nên nhớ, đó là luận theo truyền thống). Thể hiện đúng đắn về cái đức của Học Giả Nguyễn Hiến Lê, chứ đâu có chỗ cho Thái tuế nhập vào để thành chính nhân quân tử được. Đồng thời, cũng vì thế, làm sao Thái tuế có thể đảo ngược bộ tinh đẩu hung hãn để mà làm cho đương số thành danh được, mà sự thành danh ở đây vốn là do cái đức (quang quý) cùng với một cuộc đời tranh đấu không mệt mỏi (Vũ Sát - Tuần) {nên nhớ Vũ Sát chỉ là chủ tranh đấu chứ không có nói thiện ác hay đức độ} và nổi lên do Thiên phủ được Lộc tồn ở thiên ri chiếu. Chứ chẳng có Thái tuế nào chen vào đây cả. Thái tuế ở Hợi đã hội với Hình Riêu hãm, cùng Liêm Tham đồng độ, làm sao có thể bảo là danh dự được ở đây.

Bởi vậy, nên tôi mới nói, để dùng lý thái tuế chứng minh cho cái sự thành danh của lá số này, rõ ràng là phải phớt lờ những lý giải trên, buộc điều kiện rằng Thái tuế phải đè bẹp được các lý giả trên, và chiến thắng được quang quý để đoạt cái đức của quang quý, thắng cái gan da, tinh thần đấu tranh của Vũ Sát, và thắng cái Danh trong thiên ha của Thiên phủ Lộc tồn từ thiên ri chiếu. Rồi ra, khi chịu sự xung phá của Hình Linh Hổ Riêu Liêm Tham hãm địa để mà nói tới cái gọi là Thành Danh nhưng bị tù đày, hay gì gì đó.

Theo đó, chúng ta thấy rõ, dù là cố ép, thì lý thái tuế cũng khiên cưỡng và đầy sự áp đặt, ngay trong lá số này.

Thân ái.

...

Chúng ta tiếp tục.

Như bài trên, chúng ta có thể đi tới nhận định rằng: Nếu chúng ta quyết tâm áp đặt lý luận Thái tuế, để minh chứng đại vận 43-52 của Nguyễn Hiến Lê (xin viết tắt: NHL) là đại vận Thoả mãn. Thời chúng ta phải đi tới cho rằng, cái Lý của Thái tuế lấn át được các cách cục như đã liệt kê, để xác định NHL là một chính nhân quân tử (tức là, một Thái tuế, hội Long Phượng – xin bỏ Hổ vì Hổ hãm địa – Cái, Mà Long ngộ Tuần, như Long trì là cái ao vua - tượng như vậy, thời phải trong và đẹp. Vậy khi Tuần “nguậy” thì thế nào nhỉ?., phải chăng nước trong ao trở nên “đục ngầu”?. Hay là ao vua không được thay nước, nên trở thành ao tù?. Vậy là, trong Tứ Linh, đã có hai Linh trở nên vô dụng!!!. Chưa nói thực chất đó là Hoạ, chứ không phải là Phúc).

Vì thế, một thái tuế, cứ cho là Quân – thái tuế là Vua – thì vua này cũng không phải là ba đầu sáu tay. Huống hồ lại gặp Liêm Tham loại Trai giang hồ, Gái tứ chiếng, hội Riêu Hình, chủ về sự bại hoại. Trong khi Vũ Sát ngộ Tuần - ốc không lo nổi thân ốc, lo gì được cho ai. Tử vi thì gặp Phá quân, cũng là thiện ác bất phân. Xem ra, muốn định vị cho NHL là một chính nhân quân tử, Thái tuế đây thật là khó khăn. Rõ ràng, bản chất Thái tuế, tự thân nó phải là một Chính nhân mạnh mẽ, như Sen trong Bùn. Là một “Tăng nhân Đắc Đạo” nên dù hoàn cảnh có xấu thế nào đi nữa thì cũng vẫn là Chính nhân quân tử!. Vậy chứ, đâu cần đến Tứ Linh định vị cho Thái tuế ở ngôi Chính nhân quân tử nữa?.

Xin đừng động tới Quang Quý. Bởi vì Lý Thuyết Thái Tuế không có cầu quang quý. Thế nên, phải hiểu, Chính nhân quân tử ở đây, NHL, phải là Thái tuế. Bởi vì xung quanh toàn Sát Nhân Bại Hoại cả rồi.

...

Từ đó, ta có thể kết luận: Từ giả thiết, buộc Thái tuế vốn là chính nhân quân tử bất di bất dịch – không cần đến Tứ Linh, hay nói cách khác, Tứ Linh chỉ là cái áo khoác cho thấy cái cốt cách của chính nhân quân tử. Một khi cái áo có rách, lộ tý “xương sườn”, hay “mảng da” nào đó, thì vẫn cứ là chính nhân quân tử. Để mà NHL là một chính nhân quân tử, khiến ta đi tới kết luận khá cực đoan: Thái tuế là Cát tinh, Tinh đẩu hàng đầu, vượt lên trên cả TPVT. Điều này đã được một số hậu bối của phái này suy diễn ra. Nay với lá số của NHL, đã thấy có sự thống nhất.

Bây giờ chúng ta đặt vấn đề thế này.

Giả sử, trong tay chúng ta không có phương pháp giải số Mệnh chủ, Khí hoá vận, Quản, Lý, Chế. Chúng ta không dựa vào Lý Thái tuế!. Vậy chúng ta, các luận giải như trên, đã có thể Đọc ra: NHL, một học giả, một nhà tư tưởng, một triết gia, sử gia, một nhân cách – theo Khổng Nho (thực ra là một nhà chính trị theo Khổng Nho, nhưng bất phùng thời) hay không?. Và sau đó, với Lý thái tuế, có thể giải được điều này hay không?.

Quả vậy, theo lý thuyết truyền thống, điển hình nhất, được xem như một kinh điển, thì Mệnh Vũ Sát – Kim, đồng hành với bản mệnh thì Vũ Sát là hai sao nòng cốt, một sáng một tối. Vũ Sát một cặp dù không gặp sát tinh xung phá, thì cũng chủ một đời gian truân, hợp với ngành võ. Ngộ Tuần thì càng gian truân hơn nữa. Nhưng cũng có người nói rằng, ngộ Tùân thì hết gian truân, khiến cho không còn hợp với ngành võ nữa. Ví như cây kiếm đã bị Tùân bẻ gãy, thì hết ý chí chiến đấu. Ta lần lượt xét theo hai khả năng đó:

...

-Lý thứ nhất: Ngộ tuần càng gian truân hơn nữa.

Điều này hợp với người tranh đấu. Với một quân nhân, ở thời loạn, đây đúng là người lính thực thụ. Rồi ra, người lính đó phụng sự lý tưởng nào, ái quốc hay phản quốc thì cũng chỉ là quan niệm của đời người, theo những tư tưởng chính trị khác nhau mà phán xét. Chứ bản thân Vũ Sát nào có phân biệt đâu là chính với tà mà phân biệt ra chính nghĩa với phi nghĩa. Nhưng dù không là một quân nhân, hay nói một cách văn học là, không cầm sung, thì cầm bút, thì cái nội dung tranh đấu đâu có mất cái vẻ ác liệt của nó. Cho nên nói, chúng ta cứ có thói quen cho rằng, chỉ có người lính cầm sung mới là chiến đấu, thời không đúng chỗ vậy. Đặc biệt, sống trong các chế độ độc tài, ý nghĩa một người lính cầm bút lại càng tỏ rõ một cuộc chiến tuy âm thầm, nhưng thật sự là khốc liệt. Cái gan tranh đấu chẳng thể so sánh được.

-Lý thứ hai: Ngộ Tuần, cụt hết ý chí tranh đấu.

Thì còn làm gì được nữa?. Suốt đời chả lẩn trốn, an phận thủ thường thì còn có thể có gì khác hơn chứng minh cho cái sự thủ tiêu tranh đấu. Thể hiện ra đời, dù làm nghề gì đi nữa thì cũng là người xu thời, xu mị mà phản bội lý tưởng tranh đấu của mình.

Từ đây, chúng ta nghiệm lý, thấy ngay cái Lý thứ nhất là ứng. Vì thế, cần phải loại trừ cái nghĩa cho rằng Ngộ Tuần thì cụt ý chí tranh đấu.

Thế nhưng, cái gì khiến cho một người Vũ Sát không cầm súng, mà lại cầm bút?. Cái gì đã làm cho một người Vũ Sát có một tầm tư tưởng, một nhân cách cao quý, một chính nhân quân tử?.

Phải chăng một Thái tuế đủ khiến là một chính nhân, một tư tưởng, một người cầm bút?. Hay là Quang Quý đã quy định như vậy?. Hay là đổ cho Thai Cáo Quang Quý?.

...

Xin đừng gộp Thái tuế vào với Thái Cáo Quang Quý nhé. Vì như trên đã phân tích rồi. Chỉ một Thái tuế thôi. Còn như Hình Hổ Lưu hà dẫu có đắc địa cũng chỉ là Hùng biện gia, luật gia, làm chính trị gia thì đúng, chứ đâu có cầm bút mà làm chính trị gia thật như NHL?. Như vậy, chúng ta phải loại trừ hình hổ lưu, vì chúng hãm địa, dẫu có đắc địa và hội với thái tuế cũng không được, không ứng đúng với NHL!. Chỉ còn có Thái Cáo Quang Quý và Thái tuế cô đơn! làm ứng cử viên

Nhưng mà, chúng ta có thấy Thái tuế viết lách bao giờ đâu nhỉ?. Có hàng tá lá số thái tuế đó. Những ¼ nhân loại kia. Mà sao số người viết lách lại không tới con số này nhỉ?. Nếu như đúng là ¼ nhân loại cầm bút làm chiến sỹ trên mặt trận văn hoá tư tưởng – vì họ là chính nhân quân tử, nên khi đã cầm bút thì đương nhiên phải là dạy dỗ nhân loại rồi. Có thế mới phân biệt được loại quân tử cầm bút với tiểu nhân cầm bút chứ!. Thế thì phải loại thái tuế.

Còn Thai Cáo Quang Quý. Thôi thì cứ cố ấn cho đây là cách cục cầm bút đi. Chứ thực thì Thai Cáo cũng là một cặp sao hùng biện mà thôi, nhưng mang nghĩa một giáo sư, nhà sư phạm. Nên có cùng quang quý, thì cũng có tâm của một nhà sư phạm đích thị rồi. Chỉ có điều, xem ra, nó chẳng có gì đặc sắc cả, khi mà một ông giáo lại gặp cơ cảnh Hình Linh Hổ Riêu Liêm Tham thì cũng khó mà có kiến thức để cầm bút viết tràng giang đại hải như NHL. Đó là chưa nói đến cái cảnh tranh đấu - tự bản thân can trường, nhưng cũng là hoàn cảnh phải tranh đấu của Vũ Sát ngộ Tuần.

Nếu đi sâu hơn nữa, xem ra cái cách Thai Cáo Quang Quý khó mà ứng với NHL. Nhưng còn khả dĩ hơn Thái tuế cô đơn.

Tóm lại. Theo cách truyền thống và lý thái tuế. Chúng ta thấy khó mà chấp nhận, với cái lý thái tuế khả dĩ vẽ ra con người của NHL. Và cái lý Thái Cáo Quang Quý thì khiên cưỡng, có vẻ tù mù. Nếu như chấp nhận, thì lại phải trang bị - bịa thêm – cho Thái Cáo nhiều đức tính quá.

Trình bày dài như thế để làm gì?. Chỉ để cho thấy rằng, tổng quát, còn chưa vẽ nổi một con người, thì khi vào vận, làm sao nói cụ thể được. Thật sự như thế nào khi nhập vận, với cách lý giải như trên, chúng ta sẽ thấy.

Hẹn tiếp sau.

Thân ái.

...

Chào anh VuivuiLúc sinh thời chinh NHL đã nhiều lần thắc mắc với nguoisaigon về lá số của mình( NHL cũng có nghiên cứu Tử Vi, Địa lý, Tử Binh và Hà Lạc). NHL vẫn không lý giải thế nào mà lại thành nhà văn (ông đích thị là nhà văn, nhà khảo cứu văn hóa thuần túy chứ không có tư tưởng chính trị gì cả, về khoảng 10 năm cuối đời ông có nghiên cứu, biên khảo về triết học thời Tiên tần và viết ra độ 10 cuốn về Lão tử, Trang Tử vv..còn lại trên 80 phần trăm tác phẩm thuộc vào loại học làm người, tản văn, kinh tế, ngữ pháp VN, vv..Ông là nhà văn đồng thời là nhà giáo) vì thế cho đến cuối đời ông tỏ ra không tin vào Tử Vi lắm, nay khơi gợi lại lá số của NHL thấy anh Vuivui phân tích nguoi saigon thấy có phần hứng thú trở lại, mặc dù không nhận những phân tích của anh vuivui là đúng song nhờ nó nguoi saigon lai ngộ ra được nhiều điều có thể xua tan mọi nghi vấn mấy mươi năm về lá số này, anh vẫn đang phân tích dở dang nên xin mời anh tiếp, để người đọc được liền mạch tư tưởng của anh. nguoi saigon sẽ tiếp lời anh sau. Chúc anh vui và bình an.

Chào nguoi saigon.

Không biết nguoi saigon là anh hay chị. Nhưng một khi đã từng đàm thoại với NHL, chắc cũng có tuổi. Thôi thì cứ gọi bằng tên Nick. Có gì không phải, mong thông cảm.

Như tôi đã nói ngay từ đầu, nay nhắc lại, trước khi tiếp tục về lá số NHL.

-Phương pháp mệnh chủ đòi hỏi phải xác định được mệnh chủ trên cơ sở một tập ít nhất khả dĩ dữ liệu thực của chính đương số. Mệnh chủ được xác định chính xác tới đâu, thì thông tin luận giải được cụ thể và chính xác tới chừng đó. Hai cuộc đời ví dụ của lá số này, tất nhiên lá số này còn có nhiều cuộc đời nữa, song tôi lấy ngay hai cuộc đời điển hình. Và cho rằng cuộc đời thứ hai, có khuynh hướng chính trị là ứng với NHL. Nhưng, với sự chứng thực của nguoi saigon rằng: NHL vẫn không lý giải thế nào mà lại thành nhà văn (ông đích thị là nhà văn, nhà khảo cứu văn hóa thuần túy chứ không có tư tưởng chính trị gì cả, về khoảng 10 năm cuối đời ông có nghiên cứu, biên khảo về triết học thời Tiên tần và viết ra độ 10 cuốn về Lão tử, Trang Tử vv..còn lại trên 80 phần trăm tác phẩm thuộc vào loại học làm người, tản văn, kinh tế, ngữ pháp VN, vv..Ông là nhà văn đồng thời là nhà giáo.

Thì tôi thấy cũng cần có một chút lý giải.

NHL là một nhà văn?. Nhà khảo cứu về triết học, sử học?. Hay viết văn với các tác phẩm thể loại học làm người?. Vậy có thể nói, một nhà văn thuần túy, thì NHL không phải là loại nhà văn lãng mạn, cũng không phải là loại nhà văn hiện thực, mà là một nhà văn xã hội với các tác phẩm mang tính Đạo học, Triết học và Sử học. Như thế, đứng ở góc độ đông phương học, có thể xem NHL như một nhà Nho. Như chúng ta đều biết, một chính trị gia có thể không cần phải tham lý về Đạo học, Triết học và Sử học. Nhưng hầu hết những người có tư tưởng chính chị, hay những chính trị gia lỗi lạc của đông phương đều tham thiền các lĩnh vực này, và đều là những người xuất sắc trong các lĩnh vực này. Như nguyễn trãi, trần hưng đạo, la sơn phu tử, nguyễn du,...rất nhiều nữa. Bảo họ là những nhà văn, nhà thơ cũng được. Nhưng các tác phẩm của họ đều có đầy tư tưởng nhân văn, mang hơi thở của chính trị, và trên thực tế, họ cũng là những chính trị gia thực thụ. NHL không làm quan, có thể xem là không phải là chính trị gia. Nhưng một người là một nhà Đạo học, Triết học và Sử học thì nếu bảo là không mang tư tưởng chính trị thì có lẽ khó thuyết phục. Chỉ có chăng, nếu đưa vấn đề ra tranh luận, thì cũng sẽ mơ hồ, bởi ranh giới giữa chúng rất mơ hồ, dường như không có ranh giới vậy. Khi đưa vào tử vi, một bộ sao của một người làm chính trị lại vẫn không là chính trị gia là chuyện rất thường, như TPVT, CN, hay SPLT chẳng hạn. Song cái chất chính trị gia không thể không có đối với những người này. Khi gia hội với những cách cục khác nữa, thể hiện có thể thay đổi, rất khác với cốt cách của một chính trị gia, như trở thành nhà văn, nhà khoa học,...song, cái chất chính trị vẫn không mất đi được. Chính cái nền này nó quy định cái chất Văn, hay Chất khoa học và do đó nó định hướng cống hiến, công trình của người ta. NHL, nói không có tư tưởng chính trị, không là chính trị gia, song cái chất Văn đã đầy các tưởng, gọi là xã hội nhân văn như đã thấy qua các trước tác của ông, thì không thể phủ nhận được. Như ngày trước, khi tham luận trên lá số NHL, Tôi đã xác định mệnh chủ của NHL là Thiên phủ hội Lộc tồn Khoa Xương Khúc. Nhưng tôi không tham gia giải số, nên cũng chẳng có ấn tượng gì, nay có nhắc lại, thoạt đầu thì chẳng nhớ, nên chỉ xác định mệnh chủ Thiên phủ hội Lộc tồn mà thôi. Giả như, ngay từ đầu mà nguoi saigon đưa ra một chút thông tin về đương số để xác định mệnh chủ, thời nó sẽ nhắc lại cái mệnh chủ của NHL mà tôi đã xác định trước đây.

Chỉ cần nói đến mệnh chủ như vậy, cũng đã đủ để luận giải đúng lá số này rồi. Thậm chí, không cần đến Hóa khí vận, vẫn có thể giải chính xác.

Nhưng cái mà tôi cần ở đây là minh chứng:

-Thuyết thái tuế cũng khiên cưỡng, áp đặt.

-Các phương pháp giải số truyền thống cũng không khắc phục được trong lá số NHL. Có chăng chỉ mơ mơ hồ hồ. Nên NHL cuối đời có không tin tử vi lắm cũng không có gì ngạc nhiên.

Nhưng không nên nghĩ rằng, xác định mệnh chủ mà nói NHL là nhà văn thì dĩ nhiên đưa bậy ra một cách cục văn chương rồi bảo đó là mệnh chủ. Rồi từ đó cho rằng, xác định như thế khác gì bói dựa,... Mà thực ra, việc xác định mệnh chủ đâu có cần nói đó là NHL, đâu có cần nói đó là nhà văn, hay nhà gì gì đó đâu. Chỉ cần một hai thông tin: Như năm nào tốt nghiệp thậm chí chỉ là thành chung, năm nào cưới Vợ. Thế là đủ.

Các bài trên, Tôi lý luận để khẳng định phương pháp giải số truyền thống là khiên cưỡng, phương pháp thái tuế là sai lạc. Nên chú ý rằng, khi giải số, tử vi gia thường mắc tật: Tìm cách cục, phối hợp chế hóa mà định cục, để rồi suy luận ra tiêu chí. Thường đó là phương pháp kinh điển, nhưng hay mắc lỗi là định cục bằng định kiến, phớt lờ những chế hóa rối rắm mà xa rời lô gíc. Bởi vậy, khi đặt trọng tâm là phản biện, Tôi đặt nặng logic chứ không định cục. Huống hồ, trong lá số NHL, việc định cục để giải đoán tất sẽ dẫn đến những lý giải rất ngớ ngẩn.

Bạn nguoi saigon có nói rằng:

mặc dù không nhận những phân tích của anh vuivui là đúng

Thì cũng hy vọng nuoi saigon trình bày những lý giải chứng minh tôi sai, trên cơ sở rằng: Lấy logic làm trọng. Một khi phi logic, thì không có giải đoán nào có giá trị cả.

Phần 1, xác minh tính sai lầm trong việc sử dụng thuyết thái tuế trong lá số NHL và sự khiên cưỡng của phương pháp truyền thống. Nên chú ý rằng, Tôi lấy phương pháp sao nòng cốt là phương pháp mang tính logic cao nhất của tử vi phổ thông hiện nay, xem như đó là đại diện cho phương pháp truyền thống để chứng minh nhận định của mình.

Giờ mời Bạn trình bày lý giải của mình.

Chúc Bạn an khang.

Thân ái.

...

Chào nguoi saigon.

Rất vui khi thấy nguoi saigon đã có một loạt bài trả lời. Dù mới đọc qua, cũng đã thấy sự trao đổi của nguoi saigon thật sự nghiêm túc, và cũng đã có cung cấp không ít thông tin về NHL. Thực tế, về NHL tôi hầu như chỉ nghe nói, chứ không tìm hiểu. Những thông tin mà nguoi saigon đưa ra, thật cũng hữu ích cho việc nghiệm lý một lá số, mà có thể nói - đặc biệt khó - với hầu như tất cả các phương pháp xem tử vi truyền thống.

Tuy nhiên, ở đây tôi xin nhắc lại hai chú ý:

-Lá số này được đưa ra với mục đích nghiệm lý, chứ không phải là giải đoán. Nhưng như Tôi đã nói, ngay từ đầu, tôi lại không muốn xem đó là nghiệm lý – trong khi nguoi saigon thuần tuý là nghiệm lý – mà tôi muốn dùng nó để chứng minh thuyết thái tuế là sai, cùng với các phương pháp giải đoán truyền thống là gượng ép.

-Nhưng trước đó, tôi đã dùng phương pháp mệnh chủ để sơ lược giải đoán, trong điều kiện hoàn toàn không có điều kiện để xác định mệnh chủ. Vì thế, việc để bạn đọc, cũng như nguoi saigon dễ dàng dẫn tới hiểu lầm là bói dựa, cũng không là điều khiến tôi ngạc nhiên. Song chỉ cần lưu ý một chút, không phải chỉ ở diễn đàn này, mà trước đây rất lâu, khi còn ở bên TVLS, Tôi đã nói nhiều lần, phương pháp mệnh chủ là phương pháp mở, khi tập điều kiện để xác định mệnh chủ càng lớn, thì mệnh chủ càng được xác định chính xác. Mệnh chủ được xác định càng chính xác bao nhiêu thì mức độ chính xác của gỉai đoán càng chính xác bấy nhiêu. Nó từa tựa như trong tướng học, khi thầy tướng càng quan sát tinh tế bao nhiêu, kỹ lưỡng bao nhiêu thì sự giải đoán về nhân tướng càng chuẩn xác bấy nhiêu. Điều này rất đúng lẽ tự nhiên. Thực không có gì phải bàn. Mà cái chính, là phải năm được phương pháp mệnh chủ, còn như không biết, tời việc suy luận hay phán xét chỉ như là nhìn từ bên ngoài vào, mắt nhắm mắt mở và phán thôi. Cho nên, Tôi đã nói, đầu tiên là đưa ra mệnh chủ, với một mẫu người có liên quan đến chính trị. Nhưng khi biết được là NHL, hay dù không biết, mà có những thông tin chính xác một hoặc vài biến cố đầu đời, chắc rằng không đến nỗi phải để nguoi saigon phải nghĩ rằng tôi bói dựa.

Nay nhân những bài nguoi saigon viết ra đây, Tôi xin phép lần lượt phân tích từng chi tiết một cho thấy cái sai của thuyết thái tuế, cũng như những nhận định sai về phương pháp mệnh chủ phối với phương pháp hoá khí vận. Mà với những phương pháp này khi phối hợp, sẽ chứng minh chặt chẽ và chắc chắn từng vận mà NHL đã trải qua một cách cục thể, chứ không hời hợt như Thái tuế pháp, chỉ thấy được đến thái tuế là phất lên, mà không thấy được vai trò của các sát tinh ra làm sao.

...

Còn đây là cái sai thứ hai của vuivui trong thực hành giải đoán lá số này đó là: Nếu ta có khiên cưỡng chấp nhận nhà văn NHL là nhà nho, nhà văn hơi hướm chính trị thì nó cũng sai luôn vì NHL chỉ thực sự viết văn, hành nghề viết văn khi ông bước vào vận Quan lộc tức đã ở tuổi 40.

Vậy chẳng lẽ lý thuyết Mệnh Chủ chỉ đoán con người từ 40 về sau, còn một quãng đời rất dài phía trước NHL làm kỹ sư công chánh ta ném nó đi đâu.

Đây là một sự ngộ nhận của nguoi saigon về thuyết mệnh chủ. Thuyết mệnh chủ không có cái lý thô sơ như vậy. Mệnh chủ của một người, có thể nằm ở bất cứ một cung nào trong lá số, có thể là một cách cục, một bộ sao,... Khi giải đoán, hay khảo sát cuộc đời một con người thông qua mệnh chủ, thời phải "soi" mệnh chủ với từng cung, từng vận. Mệnh chủ có thể biến, biến hóa nhiều lần trong đời, cũng có thể không biến hoá. Mệnh chủ được soi vào các cung, nhưng trên cái nền của Phúc đức. Mệnh chủ phải thấu triệt được Hóa khí, nếu không mệnh chủ không có giá trị gì cả.

Nguoi saigon không hiểu mệnh chủ, không nắm được phương pháp giải của nó, nên nói như vậy là sai.

Mệnh chủ có thể, không chỉ phối hợp được với Hóa khí vận, mà còn phối hợp được với hầu như tất cả các phương pháp giải số mà tôi đã biết - từ các phương pháp truyền thống, phương pháp nòng cốt, phương pháp sao rung, phương pháp ngũ hành tướng, phương pháp tự hoá, hóa khi vận, chế, lý, quản, phương pháp phi tinh,.... Và cũng nhờ mệnh chủ, có thể đáng giá được sự đúng sai của bất cứ phương pháp giải số bất kỳ. Vì thế, việc cho rằng mệnh chủ chỉ giải đoán được như trong lá số NHL sau 40 tuôi là không đúng.

...

Trích:

Nếu nói như vầy các bạn thấy có được không: Ông này (NHL) có thân cư thiên di có Thiên Phủ, Lộc Tồn thì khi lập thân đi xa sẽ khá, đám văn tinh Xương, Khúc, Khoa không ở Mệnh nên Mệnh không thấy có số làm văn học nghệ thuật, những văn tinh tụ hết ở Thê, thê bàng chiếu về Thân nến đến vận quan sẽ đổi nghề thành nhà văn, còn nếu không dám đoán chắc nịch là nhà văn thì đoán rộng hơn tí xíu là ông này sẽ đổi nghề mà nghề mới gắn với văn chương nghệ thuật thì cũng nghe lọt lỗ tai.

Điều này không đúng. Bởi vì trong giải đoán số không ai lấy những sao đối diện với quan cung để tìm nghề của đương số cả. Đấy chỉ là gượng ép, cố ép thành thế. Có thể thấy ngay sự vô lý này. Thật vậy, nếu lấy xương khúc để hóa thành nhà văn, thì Tử Phá Linh Hình Khốc bỏ nó đi đâu, và khi nào thì xương khúc mới quy định cho NHL thành nhà văn?. Rõ ràng là chịu. Nhưng mệnh chủ với hóa vận thì xác định rất rõ đầu đời làm việc không dính tới nhà văn, do bộ SPLT quy định, nhưng chất văn chương ở trong ông là vốn có, bởi mệnh chủ quy định. Vào đại vận trước thái tuế, mệnh chủ rung nên bản chất văn chương lộ ra. Xuất phát từ vận thiên không, mệnh chủ do Thiên phủ Lộc tồn làm gốc, chủ vật chất nên dính đòn thiên không mà bại sản - lý luận này tôi đã đề cập nhiều lần khi bàn về thiên không. Xong thành phần mệnh chủ có Xương Khúc Khoa nên bộ này, gặp Thiên không là hiển lộ - tôi cũng đã trình bày nhiều lần về vấn đề này rồi.

Sang đến vận thái tuế, bộ Liêm Tham hóa Cát, đó là phản vi kỳ cách, nên bộ SPLT mà vận nhập cung Tài chứ không phải nhập ở cung Quan, hưởng phản vi kỳ cách mà phất lên. Nhưng do là phản vi kỳ, nên đương số phải đi từ con số âm, từ khó khăn gian khổ mà vươn lên. Song dù là phất lên, nhưng bộ Linh Hình đều hãm địa, bản chất phản vi kỳ cách của Liêm Tham vẫn là sự liên đới, vẫn có hung hiểm của pháp luật, chính quyền. Có bị đe dọa bởi hung hiểm do Linh Hinh Liêm hãm mà ra. Bộ Xương Khúc trong mệnh chủ, tọa tại Thê cung phối với Tham Liêm Riêu triều mệnh thì chủ đa thê là đúng chứ còn thế nào nữa.

Cho nên, qua đây ta thấy ngay, với cái lý thái tuế, chẳng thể nào nói được cái gì trong vận này cả.

Còn như NHL là người như thế nào?. Đó chẳng phải là người Thiên phủ Lộc tồn Xương Khúc Khoa hội Thai Cáo Quang Quý sao?. Khỏi phân tích thêm, cứ thấy cách cục như thế là đã ra con người của NHL rồi!!!. Đâu có chuyện là phải lấy Thái tuế mới cho ra nhân cách cao quý đâu. Bộ Thiên phủ Lộc tồn gặp Quang Quý Thai Cáo thì mẫu mực quá rồi còn gì. Ai dám bảo bộ này là ngụy quân tử?.

Bằng vào bài này, chúng ta có thể thấy toàn bộ những lý giải của nguoi saigon dưới là không đúng. Tất thảy chỉ vì nguoi saigon không biết phương pháp của tôi. Mà Tôi thì không nói cụ thể. Trên đây chỉ là nêu cái kết quả thôi, chứ tôi không đưa lời giải minh thị được. Tin hay không thi tuỳ.

Lưu ý trước năm 40, NHL làm kỹ sư công chánh. Chỉ nhìn vào Mệnh chủ, thấy ngay khi đó mệnh chủ không rung, nhưng liên hệ với mệnh cung rất chặt chẽ, không chỉ có thế, mà cả quan cung và tài cung đều liên hệ chặt chẽ với mệnh chủ qua Thiên phủ cùng Lộc tồn. Chỉ cần chỉ đến đây thôi, NHL không chỉ làm kỹ sư công chánh, mà còn là nhà Kỹ sư thất bại nữa. Một người bất thành tựu trong chuyên mộn kỹ thuật, khi gia hội, Thai Cáo, như đã phân tích ở trên, có hơi hướng của nghề giáo, khi mệnh chủ rung, thì thai cáo cũng phát lộ.

Bám vào lý này, có thể nghiên cứu NHL đến từng chân tơ kẽ tóc. Ai không hiểu thì đành chịu. Không tin cũng không sao.

Thân ái.

...

Chào các bạn quan tâm.

Như tôi đã tường trình, chủ yếu không phải là tôi dùng phương pháp mệnh chủ làm chủ để phản biện lý thái tuế. Mà chỉ cho đó là một ví dụ, để có thể thấy, một khi các phương pháp truyền thống lâm vào bế tắc, thì chúng ta cũng không phải là bế tắc một cách tổng quát, tới mức mà phải dùng đến những phương pháp vốn nó đã sai từ gốc, lại cố khiên cưỡng, ép lý cho bằng được để sử dụng nó. Nay ta quay trở lại, xem xét xem sự khiên cưỡng của lý thái tuế trong việc lý giải lá số NHL.

-Trước hết, về mặt tổng quát, mỗi lá số có nhiều cuộc đời. Các phương pháp truyền thống đều không giải quyết được vấn nạn này. Lá số NHL chắc chắn cũng có nhiều cuộc đời ứng với nó. Lý thuyết mệnh chủ cho phép giải quyết bài toán này một cách triệt để, trên phương diện lý luận. Còn thực tiễn thì phụ thuộc vào "công lực" giải đoán của mỗi người. Người càng giỏi, càng tinh tế thì khả năng phân biệt càng nhiều cuộc đời trong cùng một lá số. Song lý thuyết này, hiện nay chưa được phổ biến và lý thuyết của nó cũng chưa được tiết lộ thì việc dùng nó chứng minh các lý thuyết khác sai là một điều khó chấp nhận. Tuy nhiên, trên thực tế, rõ ràng với những phương pháp truyền thống không cho phép chúng ta phân biệt được các cuộc đời khác nhau trong cùng một lá số, và thậm chí, những lá số gần nhau cũng đưa chúng ta lâm vào tình trạng không phân biệt nổi. Vì thế mới xảy ra tình trạng cãi nhau bất phân thắng bại trong việc định giờ sinh.

Như thế, với những phân biệt tương đối khác nhau, trên những lá số khác nhau, mà còn khó phân biệt nổi giữa chúng với nhau, để tìm ra lá số đúng với cuộc đời thực. Huống chi, lý thuyết thái tuế, hầu như bất biến về nội dung, như: Vào hạn thái tuế thì được thăng hoa. Dẫu có gặp xui rủi mà táng mạng thì cũng được bù trừ là nhiều người thương tiếc. Người thái tuế là chính nhân quân tử – nhưng chính nhân thế nào thì không phân biệt. Nhiều khí đổ cho người tuế phá là không yêu nước, người thái tuế thì nhất định là người yêu nước. Rồi người thái tuế thì tự hào, còn người tuế phá tang môn thì bất mãn. Nhưng lại không nói ta tự hào cái gì?, bất mãn cái gì?. Nếu đem thường lý mà nói, ai được sinh ra trên đời, lại chẳng có chút tự hào cho chính mình!. Làm được một việc, được khen, không tự hào à?. Bị ăn chặn, dù có là người thái tuế cũng không khỏi bất mãn....thế thì cái niềm tự hào hay bất mãn là cái tư tưởng cá nhân, sao lại có thể đem nó quy thành một luật cho xã hội được. Tại sao tôi lại nói vậy. Một khi, chỉ xét trên một lá số, thì tính cách là thuộc sở hữu cá nhân, nhưng khi đã tổng quát hóa thành quy tắc, hễ là người thái tuế thì....đương nhiên, nó sẽ là hiện tượng xã hội, bởi nó trở thành phổ biến, một quy tắc trong thống kê xã hội.

Điều này, dẫn đến cho phép chúng ta thấy rằng, lá số NHL, là người thái tuế, đương nhiên theo lý thuyết thái tuế, sẽ cho ra kết quả một con người chính nhân quân tử, một con người mẫu mực này nọ,... rất nhiều ưu điểm nữa, mà chỉ với vai trò của thái tuế mà thôi. Thì làm sao phân biệt được NHL với người Thái tuế ở lá số khác?. Phải chăng khi đó lại gia giảm?. Xin thưa rằng, lúc đó thái tuế vẫn là cái nền tảng, thì dù xấu tốt thế nào, cũng chỉ là hình thức tăng nặng hay nhẹ mà thôi, chứ làm sao thay đổi được từ người yêu nước thành kẻ phản quốc được. Thế nhưng, điều này hoàn toàn không đúng với thực tế. Lá số NHL rõ ràng thái tuế bị xung phá rất mạnh, không lẽ NHL vẫn còn là một chính nhân quân tử với cái lý thái tuế?. Và như vậy, một phần tư nhân loại là chính nhân quân tử, thậm chí cốt cách còn cao hơn NHL, vì trường hợp NHL bị xung phá rất nặng. Té ra là NHL cũng chẳng có nhân cách cao quý gì lắm theo thuyết thái tuế. Vậy thì có gì mà phải ngợi khen?. Hi hi...

...

Chỉ riêng về mặt này, chúng ta đã có thể bài trừ lý thuyết thái tuế.

-Khi giải thích cái sự hành nghề văn chương của NHL, xem xét như nguoi saigon:

Trích:

Nếu các bạn đi sâu vào Xương, Khúc hơn tí xíu hẳn bạn sẽ thấy Văn Xương vốn là sao giỏi văn tự từ chương, còn Văn Khúc thì tinh thông thuật, Văn Xương sáng tác, Văn Khúc nghiên cứu, có câu Văn khúc cửu lưu thuật sĩ nên Văn Khúc khả dĩ vào âm dương thuật số là hợp cách, 2 thằng này tụ lại làm nên 1 cách cục riêng biệt tạo nên 1 con người mẫn tiệp thuộc hàng thông minh và có công danh, trên thực tế con người NHL nhìn vào sự nghiệp trước tác của ông ta thấy, những tạp văn ông viết đã làm xúc động nhiều thế hệ người đọc như: Làm con nên nhớ, Cháu bà nội tội bà ngoại, Hương sắc trong vườn văn, những sản phẩm này thuộc về Văn Xương, còn những khảo cứu của ông như biên khảo triết học thời tiên Tần, loại học làm người, giáo dục thanh niên, ngữ pháp VN, vv…Những cái này thuộc về Văn Khúc, ngoài ra NHL cũng nghiên cứu âm dương thuật số tuy những môn này ông không muốn đào sâu, thế còn Khoa, xin thưa NHL trước viết văn ông có dạy học cho 1 Tư thục ở Long Xuyên, và những trước tác của ông phần lớn mang nội dung giáo dục, nên nhiều thế hệ đọc sách NHL khi gặp ông ngoài đường đều gọi ông bằng thầy mặc dù họ không học với ông ngày nào, nghề giáo của ông không chính thức bởi Hóa Khoa của ông ở vào cung ban đêm (Tam Hóa là áo gấm cần ở ban ngày mới chính danh). Trên là chỉ dùng mấy cái sao sơ đẳng mà cũng nhìn ra được chứ cần chi đến phương pháp chi bí áo, phức tạp. Phần lớn chúng ta mắc một cái lỗi là càng học sâu chúng ta càng chìm lấp trong những lý thuyết phức tạp, chết luôn trong đó đến nỗi quên cả những quy tắc bất di bất dịch ban đầu khi mới đặt chân vào đó là: Nửa đời đầu của Mệnh, nửa đời sau là của Thân thực sự hai cái lớn này nó sẽ đóng khung những cái chạy theo nó, nó được mình định trước đầu đề thế nào thì cứ phải bám vào nó mà đoán ví dụ nói nủa đời sau khá thì logic là mọi đại tiểu vận đều phải chạy trên cái nền đó, ở lá số này chỉ cần tinh mắt tí là tìm ra văn chương nghệ thuật thôi( Chỉ dựa vào sao, cách cục), chỉ cần nhìn ra bốn thằng Thiên Phủ, Lộc Tồn, Xương, Khúc quản cung Thân của đương số thì cơ bản đã xong không cần nói thêm ( đó là cũng chưa cần kể vị trí của 4 sao này.)

Là hoàn toàn sai lạc bản chất của luận giải tử vi. Thật vậy, trước hết chú ý về hai sao xương khúc. Văn xương là sao âm, văn khúc là sao dương. Đối với âm dương nam nữ đều có sự tương hợp, ăn sao nào nhiều, ăn sao nào it do sự tương thích mà ra. Như ở lá số NHL, tuổi tân khúc hóa khoa, xương hóa kỵ. May mà NHL là nam nhân nên tương hợp với Khúc hơn là xương. Vì thế, xương hóa kỵ tuy có trong thành phần cốt cách của NHL nhưng không chủ đạo, mà chinh là Khúc hóa Khoa mới là chủ đạo. Nay cứ cho là không có lý thuyết mệnh chủ đi nữa, thì với các lý thuyết khác cũng không thể vô tư mà cứ lấy bừa xương khúc khoa, lờ tịt hóa kỵ đi, rồi gán cho thiên phủ vì thiên phủ lộc tồn tọa thủ tại thân cư ri. Bởi vì khi ấy thiên phủ lộc tồn ở thế tuế phá tang môn lại đều hãm địa cả, phải chăng nếu lấy lý thái tuế chính nhân quân tử, thì thân cư tuế phá là hành động của kẻ tiểu nhân?. Lại thêm xương khúc khoa Kỵ nữa thì càng thâm hiểm?, Lý là phải thế, khi mà theo thuyết thái tuế. Và tóm lại, phải kết luận NHL là kẻ Ngụy Quân Tử. Nói một đường, làm một nẻo?. Dù có là nhà văn đi nữa thì cũng là loại dối trá!. Nay theo lý âm dương, thì chỉ có khúc khoa là tương thích. Rõ ràng luận văn chương của NHL là phải lấy cái văn của Văn khúc hóa vi Khoa chủ về khảo cứu, hùng biện, biện giải và danh tiếng, chứ đâu có hoen ố của hóa Kỵ, nếu như văn chương của ông ẻo lả, lãng mạn, tất sẽ bị chê bai lập tức. Thành ra, ông lấy cái Đạo để dạy người, lấy cái sự Khảo cứu tìm chân lý làm cứu cánh để thức tỉnh thiên hạ, đó chẳng phải là cái Dũng trong văn chương mà chỉ có Văn khúc mới đáp ứng nổi với tính chất tuôn chảy, mà đằm của văn khúc, hào hùng cũng của văn khúc.

Còn nếu như mà nói, cái nghiệp văn chương là do thiên phủ lộc tồn cùng xương khúc cai quản theo cái lý nó hội ở Thân thì như đã nói, còn có các cách cục khác mạnh mẽ hơn chi phối quyết định thì làm sao?. Như Cách Phủ Tướng triều viên hội Lộc tồn là cách thực Lộc, lại thêm Tang Kỵ nữa thì sao nó không phá cái cách văn chương cho nát bét ra nhỉ?.

...

Cái cách luận như vậy có giải quyết được vấn đề này không?. Không chứ gì?. Thế thì làm sao dám bảo đảm cho thiên phủ khúc xương vẹn toàn thành cách văn chương, rồi lại bảo vì nó thủ Thân nên chi phối nửa đời sau của NHL nên tới 40 tuổi mới thành nhà văn?. Rồi lại phải trả lời câu hỏi: Chỉ với cách văn chương thủ Thân thì hành nghề văn chương nửa đời sau, liệu có tính ra nổi sao nó lại khởi từ đại vận thiên không mà không khởi từ thái tuế có hợp lý hơn không?.

Rõ ràng, với kiểu ký giải như vậy, sẽ rất vướng mắc, chỉ có thể phán xét một cách chung chung, không đưa ra được một bản chất nào cả. Như vậy, chỉ với nhiệm vụ Nghiệm Lý không thôi, cũng đã thấy bất cập rồi.

Trích:

Ngày nay ta chỉ biết đến NHL là một nhà văn, học giả đó là cũng do 1 bước ngoặt khi ông vào vân Thái Tuế (1 quyết định mà ai cũng cho là ông liều lĩnh, phiêu lưu). Tới đây ta lại nhới tới lý thuyết Thiên Lương cho rằng vận tới Thái Tuế là 1 bước ngoặt làm thay đổii hẳn cuộc đời đương số, còn điểm này nữa, khi đã khá giả phong lưu rồi NHL dành thì giờ chuyển sang viết những loại sách mà ông cho là tuy bán chậm, kén đọc giả nhưng nó rất có giá trị về văn hóa như triết học thời tiên Tần, ở đây ta thấy tư cách của ông, mà theo Thiên Lương Thái Tuế chủ về tư cách.

Như trên chúng ta đã thấy, nếu nói thái tuế chủ về tư cách, thì Thân cư Ri của NHL phải là hành động của người ngụy quân tử. Bởi vì cái Thân là cái Ta hành động. Chứ đừng có xiên thành cái sự khó khăn, lực bất tòng tâm. Bởi vì mệnh đã là Vũ Sát ngộ Tuần thì khó khăn lắm rồi, lực bất tòng tâm là nó ở đó, chứ đâu có chuyện Thiên phủ. Thực tế vào đại vận đó, ổng đâu có khó khăn, nếu như ổng viết văn theo trào lưu. Thế thì chỉ có mỗi cách lý giải là tuế phá chi phối hành động NHL mà buộc NHL hành động không có nhân cách vậy!. Thế chẳng phải là, nếu cố gắng giải cho rằng NHL là người có tư cách hóa chẳng phải là "gọt chân cho vừa giày" đó sao!?.

...

Trích:

Vuivui đã viết rằng sở dĩ không đoán ra là tại chưa biết được những phương pháp đoán khác, nguoi sai gon xin nói thật là, dù có dùng phương pháp gì cũng không thể đổi trắng thay đen được với cái đám Sát Phá Tham hãm địa ở Quan của ông NHL, và sẽ không thể thuyết phục được người học Tử Vi cho dù mình có biện thuyết hùng hồn tới mức nào, cho dù mình có nói mình logic cỡ nào thì thực tế sai nó vẫn cứ sai, học Tử Vi dù Lý thuyết mình có lỗi lạc tới thiên thư bách khoa mình vẫn phải đưa đầu về đối diện với những lá số rất thực tế, rất cụ thể, những cuộc đời cụ thể, chứ không thể ngồi đó thuyết suông mà hiểu được đời người.

Tôi mà viết ra cái vận NHL nó hóa cát như thế nào, và chỉ phối được tốt đẹp đúng với mệnh chủ một cách toàn diện trên phương diện tài lộc và danh vọng thì các vị cũng sẽ giật mình bởi sự chính xác và tính duy nhất của nó chẳng kém gì toán học cả. Khi ấy, thấy rõ mồn một SPLT vận nhập Tài hóa Cát, làm biến chuyển sự nghiệp của NHL như thế nào. Ấy là cái sự "đổi trắng thay đen cái đám SPLT" đấy!. Mà không cần hùng hồn biện thuyết đâu.

Trích:

Tử vi chẳng qua cũng là một môn thường nghiệm, tham vọng đưa nó về 1khoa học thực nghiệm với những logic chặt chẽ như toán học thì sao hiểu nổi Tử Vi, làm sao Tử Vi có thể 2x2=4 được, 1 thuyết về lý luận thì sai, nhưng ốp vào thực tế nó vẫn cứ đúng thì cái sai đây là sai trong lý luận chứ về mặt quan sát và quy nạp nó không sai mà tử Vi thì không phải là lý luận và người ta vẫn cứ dùng nó (vì thực tế xác suất đúng của nó cao). Ngược lại 1 thuyết mà khi lý luận rất chặt chẽ, nhưng ốp vào thực tế nó lại sai thì thuyết đó lại trở nên hư vô và người ta sẽ không dùng.

Không nhìn ra thì không nên có kết luận theo kiểu: Lý sai mà thực tế đúng, và ngược lại được.

Vốn có câu: Danh bất chính thì ngôn bất thuận, Ngôn bất thuận do Lý bất thông.

Từ Lý đã bất thông, sao còn có thể hy vọng một hành động đúng, một việc làm được thiên hạ nhất trí được!!!.

Trích:

Nhưng thưa các bạn, đòi hỏi 1 lý thuyết như thế thì thật là nhảm nhí với Tử Vi, nếu có, thì nó chỉ để thỏa mãn óc nhị nguyên của những kẻ quá thiên về lý thuyết của sự phân tích, của sự phân chia manh mún, trong Tử Vi nếu ta đòi hỏi như thế thì chẳng khác nào ta đòi phải giải thích cho ta rạch ròi tại sao cung an Mệnh thì phải ở chỗ này, còn cung an Thân thì phải ở chỗ khác, hay tại sao người sanh giờ Tý, Ngọ thì Thân Mệnh lại ở đồng cung, trả lời được ta may ra chỉ có Trần Đoàn. Mà tôi đoan chắc rằng nếu Trần Đoàn có sống lại chắc ông cũng phải nát óc với mớ lý thuyết sách vở chất đống có chiều cao hàng cây số của đám hậu học, với đạo học càng học càng xa là thế.

Điều này Trần Đoàn đã làm rồi, và việc lý giải cũng không khó khăn lắm, nhưng với những người mà ngay cả lý âm dương ngũ hành cũng chưa thông thì thật sự là vô cùng khó, bất khả!.

Không có lý thuyết tường minh, thì không có thực tiễn phát triển. Đó là chân lý. Không chỉ đúng với Khoa học Tây phương, mà cả Đông phương học cũng vậy. Và cũng chỉ bởi, Đông phương học với cái lý u u minh minh, nên thực tiễn mới Bó Chân và Bó Tay. Com như ngày nay chúng ta thấy. Vì thế, không nên ngụy biện, bôi sơn, tô vẽ cho cái bế tắc của mình.

Trích:

Có lẽ nguoisaigon cũng có ít lời thô lậu gởi đến các bạn trẻ, nhất là các bạn mới bước chân vào Tửvi đó là: Tử Vi không là Toán học, Tử Vi cũng không phải là khoa học thực nghiệm, nó đặt cái tàng trên kinh Dịch nên nó đầy mâu thuẫn và huyền ảo, nó vốn linh động khó nắm bắt chứ Tử Vi không là một mớ qui tắc khô khan chết cứng mà chỉ cần cất công học thuộc lòng nó là có thể đoán số cho người, bởi thế, dầu sao nó cũng chỉ dành cho người có căn mới vào sâu được.

Không nên hiểu các quy tắc đi liền với sự khô khan chết cứng, mà phải vận dụng được chúng một cách "thấu Dịch" trên nền tảng Dịch Lý. Đừng lấy cái sự khô khan chết cứng ra dọa các quy tắc. Như quy tắc: Âm Dương Bất Giao – Tuyệt, là quy tắc, mà sự vận dụng nó uyển chuyển vô cùng. Hỏi có mấy ai vận dụng cho ra hồn, sao bảo nó là khô khan, chết cứng được?. Tử vi là như thế, quy tắc của tử vi, vốn có, và muốn giải được nó, thời phải nắm rất vững Lý học đông phương?. Nắm không vững thì sự ra đời của lý Thái tuế không có gì lạ, và sự cố gắng vận dụng nó, cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Tôi không biết, như cụ NHL có biết thuyết thái tuế không?. Có lẽ cụ biết, vì cụ sống qua thời đó, cái thời mà thuyết thái tuế một thời vang danh thiên hạ, khi mà cụ đang rất băn khăn về lá số của mình, lại cũng biết về tử vi, thế nào cụ chả biết thuyết thái tuế. Nhưng chắc cụ cho là không đúng về căn bản học thuật, nên cụ không xài. Chứ mà cụ cũng xài cái thứ đó, thời tôi cũng sẽ nghi ngờ luôn kiến thức đông phương học của Cụ vậy!.

Thân ái.

...

WhiteBear

Hôm nay, buồn tay thử so cơ với lá số cụ Hiến Lê một chút:

Lá số sinh tháng 11, cung Tý, nơi có Thủy Đế Vượng. Mệnh hành Kim, cung mệnh tại Mão, có Vũ Sát hành Kim, Thân đóng cung Dậu có Kim đế Vượng. Vậy Đương số thiếu Hỏa một cách trầm trọng, vậy do đó tối ái Hỏa, thứ nhì ái Mộc dưỡng cho Hỏa, và tối kỵ Kim và Thủy quá Vượng. Ông sinh ngày 20, 20/5 =4, vậy Kỳ Số Cục là Kim tứ cục.

Vậy, chúng ta có thể nói gì về đại vận 33-43: Vào cung Thủy đế vượng, gặp Cự Môn hành Thủy. Áp dụng lý thuyết vòng trường sinh lưu, can Bính cung Tý có nạp âm là Thổ, lại là cung Thổ Đế Vượng (thổ an theo Thủy) hút hết toàn bộ hành hỏa của lá số. Vì vậy, dù Cự Môn có vượng thì vẫn gây rất nhiều khó khăn cho đương số, khiến đương số không thể dụng được. Đây ứng với đại vận khó khăn trong cuộc đời của ông dù chính tinh miếu vượng.

Tiếp theo, đến đại vận 43-53, dù Liêm Phá hãm, chủ rất nhiều biến động trong cuộc đời, nhưng Liêm Trinh hành Hỏa dưỡng cho hỉ thần, cung Thủy, vòng trường sinh lưu là Mộc tam cục, vòng hạn ứng với vị trí trường sinh, nên Mộc cực vượng. Thủy đáng nhẽ là kỵ thần của đương số, nhưng được chế hóa vì Thủy dưỡng mộc của vòng trường sinh lưu, Mộc vượng sinh ra hỏa là hỉ thần, đồng thời Mộc cũng dưỡng cho Liêm Trinh hành hoả dù hãm địa. Vì vậy, Liêm Tham hãm địa chủ biến động, khiến đương số đổi nghề, và vì hỉ kỵ phù hợp nên cách đổi nghề này lại khiến đương số phát lên về sự nghiệp-nơi vượng của vòng trường sinh lưu. Xung không điền thật, tướng ấn Mã chiếu về, Vũ Tham được cát hóa bởi hóa lộc xâm vào cung Quan đại vận, Hóa quyền vào Mệnh đại vận.

Đây là dấu chỉ rõ ràng nhất về biến đổi cuộc đời cuả cụ HOàn toàn không liên quan đến Thái Tuế.

Cái xấu của đại vận này chính là Hóa Kị xâm vào cung Phúc đại vận, đồng thời là cung phu thê. Tin chắc rằng vợ của cụ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống quan hệ vợ chồng.

Vậy, đây là một phép giải đoán khác hoàn toàn không sử dụng đến Thái Tuế.

 

Tổng hợp

Thực ra chẳng có ai tranh công, tranh danh vị phát minh trước sau gì cả. Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Như tôi chẳng hạn. Tôi biết nhiều phép giải đoán tử vi từ rất là lâu. Nhưng biết là biết nội dung có những tên gọi mang tính cá nhân – do người truyền lại tự đặt tên. Nên nhiều khi có nói ra cũng chẳng gây hiệu ứng gì, hoặc cũng chẳng có thể so sánh với chính phương pháp đó nhưng khoác một cái tên đã chính danh. Chỉ khi có điều kiện nào đó đem sánh các phương pháp đó với nhau, mới té ngửa ra rằng, chúng cùng một nội dung. Như phép quản, chế, lý chẳng hạn. Tất cả các phương pháp, từ treo, rung, tràng sinh bay, lưu tứ hóa, thái tuế nhập quái mà không có quản chế lý thì có xem cũng khó đi đến quyết đoán. Cùng lắm chỉ có thể liệt kê được ra cách cục, đưa tới lời giải đoán mang tính xác xuất cao. Nhưng mà, nói ra cái tên, nghe thì biết để đấy. Nếu có ai hỏi, nhiều khi muốn trả lời, cũng phải trình bày dài dòng, có khi người đọc chả hiểu. Mà quả thực, cũng chả mấy ai hiểu. Không phải vì người đọc kém cỏi. Mà vì cái nền chung là người học tử vi hiện nay, kiến thức về triết đông phương rất yếu. Lý âm dương ngũ hành chưa thông tỏ thì giải thích, giảng giải sao đây. Đâu phải cứ chỉ chiêu thức là xong. Ví dụ như: Phương pháp luận mệnh thân tôi đã nhiều lần trình bày. Là một trong những phương pháp căn bản của luận giải tử vi. Thông tỏ được nó, chỉ cần có nó, thoạt nhìn lá số đã có thể phân biệt người có số ở tầm mức nào trong xã hội, thọ yểu, phú quý ra sao cũng sơ bộ đánh giá có tính quyết đoán đươc rồi. Nhưng phương pháp này muốn thông tỏ, phải nắm rất vững lý âm dương dịch. Tôi đã thử trình bày đôi lần trên cả TVLS lẫn cả HKLS, nhưng đều rơi vào thinh không. Thế là đủ hiểu, có nên trình bày hay là trình bày ra tới đâu. Và cũng chứng tỏ rằng, muốn để bạn đọc nắm được, rõ ràng phải cần có một khối lượng kiến thức khổng lồ từ âm dương dịch lý, thiên văn, tượng số đến hà lạc đồ thư cũng như không thời gian đông phương học và cả lịch pháp nữa được hệ thống thành một dòng, mạch liên tục rồi mới đưa hậu học tới tử vi được. Điều này là bất khả nếu không viết thành sách. Nên nhiều khi, nói ra ở những chỗ này lại còn bị chửi bới: khoe chữ, khùng, lắm chuyện. Lại còn bị bới móc ở những dấu phẩy, dấu chấm, từ ngữ mà trong bối cảnh sinh hoạt phổ thông thì đáng lẽ nên đọc lời để được ý thì lại không làm. Đúng là một cái chợ. Mà đã là cái chợ, thì ai có tiền, phải thủ cho kỹ. Không thì tiền dễ mất, tật cũng mang!!!

Đến như phép lưu tứ hóa. Tôi có dùng lâu lắm rồi. Nhưng nay có người hỏi tới, tôi mới trả lời. Thực cũng đã có thể có chứng cứ: Như phép này tôi đã từng trao đổi với Longnguyenquang trong chủ đề của aoanh72 đủ để nói rằng, cả tôi và longnguyenquang đã nắm rõ nó từ – ít nhất là tư đó!

Cho nên, nêu người Đài mà tuyên ngôn là họ phát minh. Thực thì cũng chẳng sao. Có quan trọng gì đâu. Bởi Dùng Thế Nào, Hoàn Thiện cả về lý lẫn dụng mới là quan trọng. Bởi cho dù họ có phát minh, mà không có cái Gốc, thì sự phát triển của họ cũng tới cấp coi Lộc tại tị xung chiếu hợi cung là Lộc tại hợi, để mà cố ghép cung Tý có Hóa lộc tại sửu cùng với Lộc tồn tại tị thành cách Giáp song lộc!

Đấy mới là cái đáng phải bận tâm.

Nói như trong chưởng: Nghĩ ra chiêu thức kiếm thì dễ, nhưng chiêu thức mà không có kiếm quyết thì cũng như múa gậy vườn hoang, một mình độc diễn. Đến khi cần biến hóa là biết tay nhau ngay.

Hoặc như khi tôi đề cập đến Cải số. Nhiều người la ó. Đương nhiên thôi. Nhưng mà các Vị đã Học Kant chưa? Đã thấy được Kant đã đi gần đến đông phương học tới mức nào chưa? Chưa chứ gì, Vậy mà đã đòi "chặn mồm" người ta rồi. Có biết đâu, dù không cần Kant, nhưng phái Đông A đã tiến hành Cải số từ cả ngàn năm nay rồi. Nay Tôi có Kant, là có phương tiện để phổ biến cho đại công chúng. Chứ nếu không có Kant, mà cứ trông chờ người của Đông A phái rò rỉ ra, có đến "mùa quýt" cũng chẳng biết được nó là cái gì! Hơn nữa, người của Đông A phái có muốn phổ biến đâu.

Cũng như phép sao treo, vòng tràng sinh bay. Thực thì tôi học từ tiền nhân tôi. Nhưng tiền nhân không có nói đó là của đông a. Cũng chẳng nói là của ai cả. Nhưng khi thấy có người đề cập sơ sơ qua nội dung, tôi mới biết, à, hình như là của đông a thì phải. Rồi chả biết ai là người phát minh ra trước. Mà cũng chẳng cần. Chỉ cần biết vận dụng là đủ. Nhưng tôi nhớ lời dạy của tiền nhân, phải tìm cho được cái gốc của phương pháp này. Khi tôi tìm ra, thì cần gì ai phát minh ra trước. Bởi vì, nói mà không chứng minh được nó thì cũng là để nói mà thôi. Như NBC đâu có phát biểu cái bổ đê cơ bản. Anh ta chỉ chứng minh thôi. Thế là mọt cái fields đã rơi trên đầu anh ta rôi. Nói điều này là ý rằng, người đời đâu có bất công. Công đến đâu, đánh giá đến đó. Và cũng minh bạch lắm. Song đó là ở tầm vóc thế giới. Còn làng tử vi, tôi khuyên, nên thủ cho ký, kẻo tiền mất tật mang! Như bí kíp võ công vậy.

Khi tìm cái gốc của sao treo, tôi mới thấy rằng, thực thì phương pháp này đã có khả năng thống nhất được tất cả các phương pháp mà chúng ta đã biết theo ý nghĩa tương thích. Có nghĩa là có khả năng phối hợp tất cả các phương pháp, và dùng đúng lý các sao nguyên bản để luận ra các kết quả thần sầu. Phương pháp này đã có cả ngàn năm nay rồi, là của Đông A phái. Tàu và Đài; Đâu có, cũng đâu có biết gì về nó? Thế mới biết, tiền nhân ta cũng thâm thúy, và cực kỳ cẩn trọng, nhìn rất xa. Chứ không thì bây giờ, nó là của người Tàu rồi. Song phương pháp này có khiếm khuyết, những trở ngại và cần được giải quyết. Nhờ đó, phương pháp mệnh chủ ra đời, cùng với biện chứng luận mệnh thân và phép quả, chế, lý mà trở nên tổng quát, cho ra những lời giải không chỉ tổng quát, mà còn cả chi tiết nữa.

...

Bác có thể giải thích mệnh chủ và cách chủ khác nhau thế nào ạ? Và ngoài mệnh ra thì các cung khá cũng có một (bộ) sao chủ phải không ạ? Như phụ mẫu chủ?

Mệnh chủ và cách chủ khác nhau ở cách gọi thôi. Tôi thường gọi mệnh chủ là sao đơn lẻ, cách chủ là một tập sao đã thành cách. Như cách gọi thông thường mà thôi. Có khác chăng chỉ là chỗ chúng đóng vai trò “chủ” đối với đương số, là tinh đẩu của lá số tử vi.

Cung an mệnh cũng như tất cả các cung khác trên lá số, cung nào cũng có chủ, gọi là chủ cung. Gọi là chủ cung mệnh, chủ cung phụ mẫu, chủ cung tai, … Gọi là chủ cũng được, hay gọi là gì gì cũng được. Nhưng cần nhớ rằng, sao chủ mệnh hay cách chủ mệnh không phải là sao hay cách cục chủ của cung mệnh. Sao hay cách chủ của cung thì phải thuộc cung, và cũng có khi cung đó không có chủ cung. Nhưng sao chủ cung mệnh hay cách chủ cung mệnh thì bao giờ cũng có, hoặc là sao chủ hoặc là cách chủ gọi chung là mệnh chủ.

Hóa ra là phương pháp Mệnh Chủ mà vuivui tiên sinh xiển dương cũng dùng lưu tứ Hóa.

Nói như thế có nghĩa là Alađin chưa có cái nhìn thống nhất về bức tranh tử vi. Các phương pháp giải đoán tử vi đều phải “mở”, chúng cần phải tương thích với nhau, mặc dù chúng độc lập về sự tồn tại và trong ứng dụng, như về nguyên tắc, phải có một giải đoán tổng hợp sao cho chúng phối hợp được với nhau và tạo nên một bức tranh tử vi thống nhất, như ứng với một cuộc đời, mà sự tồn tại của các cuộc đời như một minh chứng, hiện thực để khẳng định lại sự đúng đắn của sự tương thích đó. Vì thế, phương pháp mệnh chủ có tính bao hàm cả phương pháp nòng cột, sao treo, di cung, tứ hoá, phép gần đúng tuần triệt, vòng tràng sinh bay, lưu tinh, thái tuế nhập quái, chồng chập lá số và cả phép cải số, … Tất nhiên cũng có những phương pháp nó “không chịu” tương thích, như phép tam hợp thái tuế và … chắc chắn, nó cũng không chịu tương thích với phép tử vi nút – cho dù tôi chưa được biết cụ thể phương pháp này, nhưng qua những nội dung mà chúng ta đã được chứng kiến thì có thể khẳng định. Thậm chí ngay cả lối “luận theo truyền thống mà ông TVN vừa nêu ra ở trên, nó cũng không chịu tương thích. Bởi vậy tôi mới trình bày cách giải số Gấu Trắng trước và xem như chúng ta đứng ở không gian 3 chiều mà quan sát không gian hai chiều vậy.

Tính hợp lý cần thiết của điều này cũng tương tự như tính cần thiết của các phương pháp vật lý khác nhau. Nhưng đều phải tương thích với nhau để có sự phối hợp mà tạo nên một bức tranh vật lý thống nhât. Chẳng hạn như, vật lý lượng tử và vật lý tương đối, tuy “trái ngược nhau” nhưng phải tương thích với nhau. Cũng vì lý do này mà các nhà vật lý mới lao tâm khổ tứ đi tìm một lý thuyết thống nhất cả hai lý thuyết đó. Do đó mới có chuyện có hay không một TOE – lý thuyết vật lý thống nhất. Mà điều này phải có như là tự nhiên phải vậy, bởi vì, bức tranh vật lý là một bức tranh thống nhất. Đơn giản chỉ có vậy. Cũng như ta phải thấy rằng: Dù có hàng trăm lý thuyết về con người, thì mọi lý thuyết về con người, đều phải tương thích với nhau. Đấy là nguyên tắc lớn của triết học. Của mọi triết học.

@LienHuong.

LienHuong nói đúng. Di cung và lưu tứ hoá xưa như trái đất. Người nào không biết, ấy chỉ là do không có hoặc chưa có duyên với nó mà thôi. Tôi thì từ xưa tới nay, luận tử vi, lúc nào mà chả dùng đến chúng!. Bây giờ thì cứ hô lên là của Đài, của Tàu. Thây kệ. Nhưng thực ra, ngay như Tử Vân cũng thế, xài phép di cung cũng đâu có chuẩn, tính vận cũng sai – nhưng cũng phải công nhận ông ta may mắn, bởi vì cái sai của ông ta rất khó thấy trong thực tiễn giải đoán. Nhưng nếu để ý chút chút thời cũng nhận ra, điển hình là do có khuyết tật, nên ông ta phải dùng phép lấy Lộc xung của cung xung chiếu làm Lộc chính cung, để mà gượng ép thành cách Giáp Lộc.

Rồi phép thái tuế nhập quái cũng thế. Có rất nhiều khuyết tật. Thực chất, muốn dùng chuẩn phép này, phải thông tỏ phép chồng số và quay số. Nếu nhìn theo quan điểm toán học, thì phép thái tuế nhập quái chỉ là phép gần đúng thô nhất có thể có của phép chồng chập lá số mà thôi. Ví như 2,6 mà làm tròn số thành 3 vậy.

Bởi vậy, tôi có dùng di cung, tứ hoá lưu, hay thái tuế nhập quái, thì cũng tự nhiên “như về nhà xưa”. Thấy người Tàu, Đài có tuyên nguyên, thì cũng … cười … trừ. Coi như không có chuyện gì xảy ra vậy. Kệ.

Thân ái.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tập các bài viết của tác giả VuiVui

Kiến thức phong thủy. Những điều đại kỵ trong năm mới Giáp Ngọ –

Trong năm mới, những người tuổi Tý, Dậu, Mão, Ngọ sẽ gặp nhiều trắc trở, trong đó, tuổi Tý bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Cần tránh đại kỵ Những điều đại kỵ trong năm mới Giáp Ngọ Phong thủy và những đại kỵ của năm mới Trong năm mới, những người tuổi Tý,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong năm mới, những người tuổi Tý, Dậu, Mão, Ngọ sẽ gặp nhiều trắc trở, trong đó, tuổi Tý bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Cần tránh đại kỵ

Những điều đại kỵ trong năm mới Giáp Ngọ

500_thumb (4)

Phong thủy và những đại kỵ của năm mới

Trong năm mới, những người tuổi Tý, Dậu, Mão, Ngọ sẽ gặp nhiều trắc trở, trong đó, tuổi Tý bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Theo âm lịch, năm 2014 tức năm Giáp Ngọ (Ngựa gỗ) bắt đầu vào ngày 31/1. Tuy nhiên, theo Phong thủy, năm mới bắt đầu từ ngày 4/2, tức là ngày Lập xuân tính theo Lịch nhà nông của Trung Quốc. Lập xuân được coi là thời điểm mà năng lượng của năm thay đổi phương hướng và vị trí.

Các khu vực đại kỵ trong Phong thủy bao gồm Thái Tuế, Ngũ Hoàng, Tam Sát và Tuế Phá. Những phương vị này được coi là tai họa vì chúng tạo ra những ảnh hưởng xấu, gọi chung là sát khí. Việc xác định vị trí của các khu vực đại kỵ là điều đặc biệt quan trọng trong phong thủy.

Khi cập nhật thông tin cho năm mới, việc đầu tiên cần làm là xác định vị trí và tìm cách giảm thiểu và hóa giải năng lượng xấu của những khu vực không may mắn, sau đó mới tính chuyện kích hoạt những khu vực tốt. Tất cả cố gắng kích hoạt khu vực may mắn sẽ trở nên vô ích nếu xung quanh bạn tràn ngập năng lượng chết chóc.

Những đại kỵ của năm 2014

Những đại kỵ của năm mà bạn cần ghi nhớ bao gồm: Thái Tuế, Ngũ Hoàng (sao thảm họa #5), Tam Sát và Tuế Phá. Những năng lượng thù địch khác cũng cần được ghi nhận bao gồm: Nhị Hắc (sao bệnh tật #2), Tam Bích (sao cãi cọ #3) và Thất Xích (sao bạo lực #7).

1389074536.0975

Để tiện theo dõi, những khu vực bị ảnh hưởng xấu trong năm 2014 sẽ được trình bày theo sơ đồ Cửu cung dưới đây. Có thể áp dụng sơ đồ này cho toàn bộ ngôi nhà hay từng căn phòng nơi bạn ở hay làm việc.

1389074536.443

Tất cả những khu vực này đều chịu ảnh hưởng của năng lượng xấu, cần được hóa giải và nếu có thể thì hạn chế khuấy động bởi các hoạt động sôi nổi. Tốt nhất là tránh dùng những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề, nhưng nếu không thể thì nên bài trí các vật dụng phong thủy thích hợp để cải thiện tình hình. Theo thông lệ, người ta sẽ tiến hành sắp đặt lại đồ vật phong thủy trong nhà từ ngày 3/2 dương lịch hàng năm.

1. Tránh phạm Thái Tuế

Các nhà chiêm tinh học Trung Quốc rất sợ sự nổi giận của Thái Tuế vì theo họ không ai có thể thành công nếu dám thách thức vị thần này. Hậu quả rất nghiêm trọng, bạn có thể mất việc làm, mất tiền của hay thất bại trong công việc. Tất cả những điều này có thể xảy ra kể cả nếu bạn vô tình ngồi đối mặt hoặc nằm ngủ đầu hướng về phương vị của Thái Tuế. Nếu công việc của bạn mang tính cạnh tranh mạnh thì ảnh hưởng của Thái Tuế càng tồi tệ hơn, vì kẻ thù sẽ chiến thắng bạn một cách dễ dàng.

Bạn có thể phạm Thái Tuế theo nhiều cách, đầu tiên là đối mặt vị thần này hoặc sinh vào năm nhất định:

– Đối mặt với Thái Tuế (chẳng hạn ngồi làm việc đối mặt với hướng Thái Tuế trị vị, hoặc nằm ngủ đầu hướng về phía này) trong một thời gian dài.

– Sinh vào năm Phạm Thái Tuế: trong năm 2014, các tuổi phạm Thái Tuế là Tý, Ngọ, Dậu, Mão. Tuổi Tý phạm nặng nề nhất vì đối đầu với Thái Tuế. Tuổi Ngọ có cung tử vi là nơi Thái Tuế trị vì, bị phạm nhẹ hơn một chút, vì vị thế này có thể sử dụng để đón nhận hỗ trợ từ Thái Tuế. Tuổi Mão và tuổi Dậu bị phạm ít nhất.

Những người phạm Thái Tuế nói chung sẽ có một năm không mấy trơn tru, mọi lĩnh vực như sự nghiệp, sức khỏe, quan hệ … đều có thể bị ảnh hưởng. Phạm Thái Tuế đồng nghĩa với việc khiến vị thần này nổi giận (hoặc nói cách khác là năng lượng của bạn xung đột với năng lượng của ngôi sao trị vì năm). Bạn cần thực hiện một số biện pháp giúp Thái Tuế nguôi giận và tránh tiếp tục đối đầu với vị thần này. Thái Tuế bị quấy rầy khi bạn thực hiện những công việc lớn như sửa nhà hay đốn cây nơi vị tướng quân của năm trị vì.

Các nguyên tắc cần tuân thủ trong năm 2014, khi Thái Tuế chiếu vào cung Nam 2 (172,5 độ – 187,5 độ):

– Không ngồi làm việc đối mặt hoặc nằm ngủ đầu hướng về phương vị của Thái Tuế (Nam 2). Nên ngồi xoay lưng lại hướng này để được Thái Tuế hỗ trợ.

– Tuyệt đối tránh đào bới đất hoặc sửa chữa ở phương vị của Thái Tuế. Nếu khu vực này bị quấy rối, những người sống trong nhà sẽ có một năm khó khăn với nhiều tranh cãi và bệnh tật. Nếu không có lựa chọn nào khác và bắt buộc phải tiến hành sửa chữa ở khu vực này nên tránh bắt đầu và kết thúc công việc ở đây. Có thể bắt đầu ở những khu vực có sao tốt chiếu trong năm nay, chẳng hạn cung Tây, Tây Nam, Trung cung.

– Những ngôi nhà có cửa chính hướng về Nam cần tránh không để cửa sập mạnh, không tôn tạo hay đào bới ở khu vực cửa chính trong năm 2014.

– Xoa dịu Thái Tuế bằng cách đặt Tỳ hưu, con thú yêu của vị thần này, ở cung Nam của ngôi nhà, hay mang theo người biểu tượng Tỳ hưu.

1389074536.7545

Tỳ hưu chiếm một vị trí hết sức đặc biệt trong Phong thủy vì sự tức giận của Thái Tuế chỉ có thể được xoa dịu bởi linh vật này.

Bày Tỳ hưu tại công sở hay nhà ở của bạn giúp hóa giải mối đe dọa này. Mặc dù Thái Tuế được coi là một trong những điều mang lại rủi ro của năm, ngôi sao này cũng mang lại một số điều tốt lành, nếu phương vị của nó chịu ảnh hưởng của sao tốt trong Phi tinh. Trong năm 2014, nơi Thái Tuế trị vị (cung Nam) có sao Bát Bạch (#8) chiếu, vì vậy vị thần này có thể mang lại tài vận. Tuy nhiên, nói chung ngôi sao này vẫn mang lại rủi ro và cần cẩn thận với phương vị của Thái Tuế trong năm.

1389074536.9924

Huyền thoại Trung Quốc cho rằng mỗi năm có một vị thần minh cai quản, chăm sóc mọi sự việc của trần gian. Vị thần cai trị năm đó được gọi là Thái Tuế, quyết định số phận của tất cả mọi người. Ngoài vai trò ban phước lành và là quan giám hộ cho con người, mỗi Thái Tuế được dùng để đánh dấu một năm âm lịch. Trong năm 2014, Chương Từ Đại Tướng Quân sẽ nhận nhiệm vụ thay thế Từ Thiện Đại Tướng Quân, người cai quản năm 2013.

Một trường phái khác, mang tính khoa học hơn, lại gắn Thái Tuế với chuyển động của sao Mộc và ảnh hưởng của nó tới trường khí của mỗi con giáp.

2. Tuế Phá

Tuế Phá là phương vị đối xung với Thái Tuế. Trong năm 2014, Tuế Phá chiếm một góc 15 độ ở Bắc 2 (352,5 độ – 7,5 độ ). Đây cũng chính là cung tử vi của người tuổi Tý, vì vậy con giáp này được coi là Phạm Thái Tuế nặng nề trong năm nay. Có thể ngồi đối diện Tuế Phá nhưng không nên ở lâu trong khu vực chịu ảnh hưởng của Tuế Phá, vì như vậy là đối đầu với Thái Tuế và điều này sẽ mang lại bất hạnh.

Tuế Phá là phương vị xấu của năm, cần tránh tu sửa, động thổ hoặc gây ồn. Kích động Tuế Phá thường nhanh chóng mang tới cãi cọ, rủi ro và rắc rối về sức khỏe, nhất là với người già, người bệnh. Nếu nhất thiết phải tiến hành tu sửa ở Bắc 2, nên chọn ngày tốt và đặt một chuông gió kim loại 6 ống giữa khu vực cần sửa và phần còn lại của ngôi nhà.

Bày Tỳ hưu ở Bắc 2 hướng về Thái Tuế (Nam 2). Biện pháp này có tác dụng kép, vừa vô hiệu hóa Tuế Phá, vừa làm hài lòng Thái Tuế.

3. Tam Sát

Theo Phong thủy, Tam Sát là một trong những tai họa lớn nhất của năm. Nguyên tắc cơ bản là không được động thổ hoặc quấy rầy phương vị của nó trong suốt cả năm. Tam Sát là tổ hợp của ba Sát: Tuế Sát, Kiếp Sát và Tai Sát. Tuế Sát gây trở ngại cho các mối quan hệ, ngăn cản bước tiến tới thành công, Kiếp Sát gây mất mát tiền của và Tai Sát gây rủi ro, tai nạn. Phạm Tam Sát có thể khiến cho thanh danh, tiền bạc và các mối quan hệ bị hủy hoại.

Trong năm 2014, Tam Sát chiếm một góc 90 độ ở phương Bắc (315 độ – 45 độ), ba con giáp bị ảnh hưởng là Hợi, Tý và Sửu, trong đó Tý bị chi phối nhiều nhất.

Ngay từ đầu năm, nên tìm hiểu vị trí của Tam Sát xem có trùng với khu vực thường xuyên dược sử dụng như cửa ra vào, phòng khách, phòng ngủ hay phòng làm việc không. Không được tiến hành sửa chữa liên quan tới việc khoan, đóng đinh vào tường ở những khu vực này vì điều đó sẽ kích hoạt sát khí.

Trái với trường hợp Thái Tuế, Phong thủy khuyến cáo không ngồi quay lưng về hướng Tam Sát mà nên ngồi đối mặt với Tam Sát để tránh bị tai họa tấn công bất ngờ từ sau lưng. Chỉ cần áp dụng điều này khi bạn ngồi lâu tại một vị trí, chẳng hạn ở bàn làm việc. Năm 2014, Tam Sát ở cung Bắc, vì vậy không nên ngồi quay lưng về phía Bắc, nghĩa là không quay mặt về phía Nam.

Các nguyên tắc tránh phạm Tam Sát trong năm 2014:

– Tuyệt đối tránh tu sửa ở khu vực Bắc của nhà ở, văn phòng trong năm nay.

– Không khoan đục tường, gõ mạnh ở khu Bắc của nhà ở nếu không thật cần thiết.

– Nếu nhất thiết phải tu tạo thì cần tránh bắt đầu hoặc kết thúc công việc này ở cung Bắc.

– Không bật đài, tivi gây ồn ào ở khư vực này, tránh dập cửa mạnh.

– Với những ngôi nhà có vườn, không đào đất trồng cây, đào hồ ở khu vực Bắc của toàn bộ ngôi nhà.

– Nếu phải xoay lại bàn làm việc trong năm nay, tránh ngồi quay lưng về hướng Bắc mặt nhìn về Nam, kể cả nếu Nam là hướng tốt theo quái số của bạn. Nên ngồi nhìn về Bắc, nếu đó là hướng tốt của bạn, để có thể đón trước những điều xấu. –

1389074537.3575

Nếu cửa chính hướng về Bắc, đặt một đôi Nghê ngay phía trong cửa nhìn ra ngoài để bảo vệ ngôi nhà. Đôi Nghê bảo vệ cửa chính.

Hóa giải Tam Sát bằng cách đặt ba linh thú Kỳ Lân, Nghê và Tỳ Hưu ở cung Bắc của ngôi nhà hoặc căn phòng:

– Kỳ lân hóa giải Tuế Sát, bảo vệ các mối quan hệ của bạn. Linh thú này kết hợp sức mạnh của rồng và ngựa, giúp cho công việc kinh doanh và quan hệ cá nhân của bạn khỏi xấu đi quá mức, gây mất tiền của, buồn rầu. Bày Tỳ Hưu, Kỳ Lân và Nghê để hóa giải Tam sát.

– Tỳ hưu hóa giải Kiết Sát, bảo vệ tiền bạc. Linh thú này giúp tránh những quyết định sai lầm trong kinh doanh, gây mất tiền của.

– Nghê hóa giải Tai Sát, chống tai nạn. Đó cũng là người bảo vệ thanh danh của bạn, giúp đối phó với các điều thị phi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức phong thủy. Những điều đại kỵ trong năm mới Giáp Ngọ –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1940 Canh Thìn –

Năm sinh dương lịch: 1940 Năm sinh âm lịch: Canh Thìn Quẻ mệnh: Càn ( Kim) thuộc Tây Tứ mệnh Ngũ hành: Kim bạch lạp (Bạch lạp Kim Hướng : hướng Đông (Hướng xấu), thuộc Đông Tứ trạch Hướng tốt: Tây Bắc - Phục vị : Được sự giúp đỡ . Đông Bắc - Thiên y

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm sinh dương lịch: 1940

Năm sinh âm lịch: Canh Thìn

Quẻ mệnh: Càn ( Kim) thuộc Tây Tứ mệnh

Ngũ hành: Kim bạch lạp (Bạch lạp Kim

Hướng : hướng Đông (Hướng xấu), thuộc Đông Tứ trạch

???????????????????????????????????????????????????????????????????????????????

Hướng tốt:

Tây Bắc – Phục vị : Được sự giúp đỡ .
Đông Bắc – Thiên y : Gặp thiên thời được che chở .
Tây – Sinh khí : Phúc lộc vẹn toàn .
Tây Nam – Diên niên : Mọi sự ổn định .

Hướng xấu:

Bắc – Lục sát : Nhà có sát khí .
Đông – Ngũ qui : Gặp tai hoạ .
Nam – Tuyệt mệnh : Chết chóc .
Đông Nam – Hoạ hại : Nhà có hung khí .

Trong trường hợp này, có thể đặt bếp tọa các hướng Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát); , nhìn về các hướng tốt Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y);

Ngoài ra, bếp nên tránh đặt gần chậu rửa, tủ lạnh, tránh có cửa sổ phía sau, tránh giáp các diện tường hướng Tây.

Chậu rửa, cũng như khu phụ, được hiểu là nơi xả trôi nước, tức là xả trôi những điều không may mắn, nên đặt tại các hướng xấu như hướng Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát);

Cửa của bếp nấu không được để thẳng với cửa chính của nhà, hoặc nhìn thẳng vào cửa phòng ngủ, người nằm ngủ sẽ gặp tai ương tật ách


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1940 Canh Thìn –

Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Sửu năm 2014 –

Dậu/Sửu - Tình yêu và sự tôn trọng Dậu Sửu có mối liên kết đặc biệt vì là các con giáp Tam hợp, có thể giúp đỡ nhau một cách hết sức tự nhiên. Cả hai đều là những người đáng tin cậy. Họ có thể là bạn bè tốt suốt đời, hoặc có thể là người yêu hay vợ
Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Sửu năm 2014 –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Sửu năm 2014 –

Sao Thiên Mã và công danh trong cuộc đời

Thân mà không thấy sao Thiên Mã có tại Mạng, phải chăng vì thế mà đương số được tốt?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có thể người học Tử vi tìm rất nhiều mà không đạt. Đó là trường hợp mà chúng tôi gặp phải. Có những lá số mà Mệnh rất tầm thường, ấy thế mà đương số lại thành đạt lớn, không biết vì đâu, trong khi điểm mọi cách khá về Mệnh, Thân mà không thấy sao Thiên Mã có tại Mạng, phải chăng vì thế mà đương số được tốt? Nhưng lấy gì chứng thực? Có hai lá số tương trợ nhau, cùng có Thiên Mã nhưng lại chỉ có 1 đương số thành đạt.

Một là số khác có Thiên Mã tại mệnh, ở Hợi: thế là Mã cùng đường, theo tất cả các sách cổ. Thế nhưng đương số này cũng thành đạt nữa. Cho nên tất phải có một cái gì đặc biệt về sao Thiên Mã, một sao rất quan trọng trong việc giải đoán Mệnh Thân, nhưng những nguyên tắc chưa được nêu ra đầy đủ.

sao thiên mã

 Chúng tôi xin trình bầy sau đây kinh nghiệm của cụ Thiên lương về sao Thiên Mã tại Mệnh, Thân. Kinh nghiệm này, chúng tôi đã kiểm chứng trong một số lá số có trong tay, thấy rằng đúng.

Cách an sao Thiên Mã

Chúng ta an sao Thiên Mã theo hàng chi của tuổi
Tuổi Dần Ngọ Tuất, Thiên Mã tại Thân
Tuổi Tị, Dậu, Sửu, Thiên Mã tại Hợi
Tuổi Thân Tý Thìn, Thiên Mã tại Dần
Tuổi Hợi, Mão, Mùi, Thiên Mã tại Tỵ
Nhưng vậy tùy từng bộ ba tam hợp tuổi mà an Thiên Mã. Để cho dễ nhớ, chúng ta có từng bộ ba tam hợp tuổi, mỗi bộ ba có một Chi đứng đầu, thì Thiên Mã ở cung đối diện của Chi ấy. Thí dụ: các tuổi Dần Ngọ Tuất (có Dần đứng đầu), vậy Thiên Mã ở cung đối diện với Dần, tức là cung Thân.

Những cách thông thường về Thiên Mã

Các sách cổ giải đoán về Mã thường ghi những điểm như sau:
1-Mã thuộc Hỏa, vạy là Mã tốt ở Tị, Dần và hãm ở Hợi (Thủy) Mã mà ở Hợi là hỏng, là Mã cùng đồ (ngựa hết đường chạy, ngựa ở biển thì liệt bại). Gặp Mã ở Hợi thì thất bại. Như thế chẳng lẽ cứ 3 tuổi Tị, Dậu, Sửu là đương nhiên mất sao Thiên Mã và chịu họa hại vì 3 tuổi này. Mã đóng tại Hợi. Không lẽ giản dị như vậy?
2-Mã tại Mệnh, ứng vào sự mau lẹ hay di chuyển, hay thay đổi.
Mã còn ứng vào công danh, tài lộc và phúc thọ. Thông minh và làm nên cũng là nhờ Thiên mã.
3-Tại Dần Thân, đồng cung với Tử Phủ, là Phù du Mã (ngựa vua chúa): tài giỏi, uy quyền, giầu sang, phúc thọ.
4-Thêm Nhật, Nguyệt sáng sủa là Thư hùng mã: tài ba, giầu sang, vinh hiển.
5- Gặp Lộc tồn đồng cung: công danh tốt, tài lộc tốt
6-Gặp Lộc tồn xung chiếu (Lộc Mã giao trì): công danh và tài lộc tốt đẹp.
7-Mã đồng cung Hỏa, hay Linh (chiến mã): Công danh tốt đẹp về binh nghiệp.
8-Mã khốc khách hội họp (ngựa có nhạc hay, có người cưỡi giỏi) người có tài năng, có công danh về binh nghiệp.
9-Mã Hình đồng cung: gặp tai họa
10- Mã Đà đồng cung: chiết túc mã, ngựa què. Công danh gãy đổ (kinh nghiệm của cụ Ba La: người tuổi Âm, Kình ở trước lộc tồn, Đà ở sau Lộc tồn, nhưng theo chiều nghịch).
11- Mã Tuyệt đồng cung là cùng đồ Mã. Mã tại Hợi cũng là cùng đồ Mã: hỏng, suy bại, gặp tai họa.

Đi tìm ảnh hưởng của Mã

Cũng như đối với mọi sao quan trọng, cụ Thiên lương đã luận về Thiên Mã bằng cách lấy hành của cung Mệnh, hành của sao Thiên Mã và hành Mệnh của đương số mà so sánh với nhau rồi quyết định sự hay dở. Đó là giai đoạn đầu để tìm kinh nghiệm. Giải đoạn sau là kiểm chứng, áp dụng các kết quả của những suy luận vào những lá số có Thiên mã tại Mệnh, Thân để tìm xem có đúng không.

Nhưng trước hết, xin ghi rằng Thiên Mã đây là tại Mệnh và Thân. Thiên mã ở Quan lộc hay Tài bạch cũng có ảnh hưởng vào mệnh (vì hai cung này chiếu mệnh), nhưng ảnh hưởng kém hơn Thiên Mã tại Mệnh. Nếu Thiên Mã ở cung Thiên Di, thì lại không kể vào mệnh là vì Mã tại Thiên Di là xung chiếu chứ không phải hợp chiếu.

Thiên Mã tại cung Dần

Thiên Mã hỏa, ở cung Dần Mộc là được Mộc sinh Hỏa, Thiên Mã mạnh và tốt. Nhưng cái mạnh và tốt này không phải cho bất cứ mạng nào.

Như người mạng Kim, thì càng bị Hỏa khắc, không lợi. Người mạng Thủy cũng không được lợi lộc gì, vì cái Thủy đó không thắng nổi cái Hỏa đương vượng của Mã. Mã hỏa ở đây có thể lợi cho người mạng Hỏa và càng hợp với người mạng Mộc. Người ta thường cho rằng mạng Mộc mà gặp Hỏa, thì bị hỏa đốt cháy, nhưng mạng là Mộc, cung Mạng lại ở Dần tức là tại Mộc thì không e ngại gì, tài năng nhờ chỗ Mã được nuôi dưỡng (do Mộc) mà càng vượng lên.

Vậy Mã tại Dần:

-Rất tốt cho người mạng Mộc
-Lợi cho người mạng Hỏa
-Không lợi gì cho người mạng Kim, Thổ và Thủy.

Thiên Mã tại cung Tị

Thiên Mã đứng đây cũng tốt vì là Hỏa ở cung Hỏa. Mã ở đây là con ngựa chiến. Mã là Hỏa, cung là Hỏa, thì người Mộc gặp Mã và cung Mạng tại đây, tuyệt nhiên là không tốt (hai cái Hỏa đốt cháy thân xác). Người mạng Kim, không được tốt, vì hai cái hỏa đều khắc Kim. Người mạng Thủy, cũng không được hưởng gì, vì Thủy yếu, không thể ngự được cái Hỏa của Mã (nếu kể như trường hợp Mã gây họa hại), còn bình thường, Mã không gây họa hại vì người Thủy cũng không được hưởng.
Chỉ có người Hỏa được hưởng cái tốt của Mã tại Tị.

Thiên Mã tại cung Thân

Thiên Mã là Hỏa, ở tại cung Thân là Kim, ấy là Thiên Mã đã kém. Thiên Mã không bị khắc là Thiên Mã mạnh, và tốt nhưng Thiên Mã lại khắc Kim.

Nếu là người mạng Mộc, thì mạng này vừa bị Hỏa đốt, vừa bị cung khắc, không được lợi lạc gì. Người mạng Thủy đỡ được chút đỉnh, nhờ cung Kim sinh Thủy, và cái mạng Thủy của mình còn khá mạnh để chế ngự lại Mã. Người mạng Kim là ăn nhất về con Mã tại cung Kim, nhưng vì Mã Hỏa khắc Kim mạng, cho nên mình tuy được hưởng Mã mà có tài năng, nghị lực, nhưng mình lại bị khắc, thì sức khỏe của mình cũng phải bị hao tổn.
Vậy Mã tại Thân:
-Tốt cho người Kim
-Khá cho người Thủy
-Không lợi gì cho người Mộc và Hỏa

Thiên Mã tại cung Hợi

Thiên Mã là Hỏa, ở cung Hợi Thủy, thì Hỏa phải bế khắc (ấy là Mã cùng đồ, Mã đến biển là hết đường chạy).

Người Hỏa mà gặp Mã ở cung hợi thì chẳng được lợi lạc chi. Người Kim gặp Mã ở cung Hợi cũng vậy, có khi còn mệt hơn, là vì mạng mình bị sinh xuất, còn bị hỏa của Mã khắc. Nhưng người Thủy lại khác: xét ra người Thủy lại có mạng ở Thủy, thì cái Thủy này rất mạnh, có thể chế ngự được những cái họa hại của Mã mà thắng được Mã, tức là có tài ba để thắng. Người Mộc nhờ có cung Thủy sinh Mộc, mà được lợi phần nào.
Vậy Mã tại Hợi:
-Tốt cho người Thủy
-Khá cho người Mộc
-Không lợi gì cho người Hỏa và Kim

Còn người mạng Thổ
Vậy tóm lại, Mã ở cung có hành nào, thì người nào mạng có hành đó là được hưởng.
Mã tại cung Mộc (Dần) người mạng Mộc hưởng
Mã tại cung Hỏa (Tị) người mạng Hỏa hưởng
Mã tại cung Kim (thân) người mạng Kim hưởng
Mã tại cung Thủy (Hợi) người mạng Thủy hưởng
Thế còn người mạng Thổ? Xin thưa rằng người mạng Thổ cũng hưởng được Thiên Mã ở cung Thủy (tại Hợi)

Một thí dụ
Lá số Khổng Minh, Mã ở Hợi Thủy (cung Quan). Khổng Minh mạng Mộc, cho nên không được hưởng trọn con Mã này. Nhưng Thủy dưỡng cho Mộc, nên Khổng Minh cũng chỉ được hưởng Mã một phần.

Mã ngộ Triệt và Mã ngộ Tuần
Mã gặp Triệt trấn ngay cung thì hỏng cả
Mã ngộ Tuần còn đỡ hơn.
Sau đây là kinh nghiệm đặc biệt về Mã ngộ Tuần. Sao Tuần ở những vị trí Tí Sửu Dần Mão, Thìn Tị, Ngọ Mùi, Thân Dậu, Tuất Hợi, và có thể được coi là sao đánh dấu một giai đoạn để chuyển sang giai đoạn khác.

Do đấy, nếu sao Thiên mã ngộ Tuần, chúng ta đoán thêm như sau:

1-Thiên Mã tại Hợi (Thủy) gặp Tuần ngay tại đó người mạng Mộc cũng được hưởng (thông mình, lanh lợi, học hành, công danh, tài lộc) nhưng hưởng chậm, phải gặp nhiều khó khăn lúc đầu và phải có tranh đấu cố gắng nhiều.
2-Thiên Mã tại Dần (Mộc) gặp Tuần tại đó: người mạng Hỏa cũng được hưởng nhưng chậm và có những khó khăn lúc đầu, phải cố gắng nhiều mới đạt được.
3-Thiên Mã tại Tị (Hỏa) gặp Tuần tại đó: người mạng Kim cũng được hưởng, nhưng chậm, gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được
4-Thiên Mã tại Thân (Kim) gặp Tuần tại đó: Người mạng Thủy và Thổ cũng được hưởng, nhưng chậm gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được.
Thí dụ tuổi Kỷ tị, mạng Mộc, Thiên Mã tị Hợi, gặp Tuần tại Tuất Hợi, cung Mạng cũng tại Hợi: người này cũng được hưởng Thiên Mã, nhưng hưởng chậm, lúc đầu gặp khó, phải cố gắng nhiều sau mới thành đạt.

trích (KHHB) 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Mã và công danh trong cuộc đời

Những “mẹo” giải xui, rước lộc cho năm mới

Nhà bạn có 9 phương 8 hướng, mỗi hướng lại có phong thủy khác nhau và đây là những cách hóa giải vận xui hoặc thu hút tài lộc khác nhau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng Đông của ngôi nhà  – Thêm màu sắc, đón tài lộc

Hướng Đông là hướng "thần tài bước vào nhà" vì được sao Bát Bạch chiếu.

Gia chủ nên: "Chấm phá" đôi chút màu đỏ, hồng, tím, cam và nâu sáng ở khu vực này của ngôi nhà hoặc phòng làm việc để chúng bổ trợ cho tính thổ của sao Bát Bạch.

Tuy nhiên hãy nhớ là chỉ "chấm phá" thôi vì nếu quá đà tính hỏa trong những màu sắc trên sẽ át đi tính mộc của hướng Đông khiến phong thủy nhà bạn mất cân bằng.

Chú ý: Hướng Đông của căn nhà cũng có năng lượng của sao Tam Sát vậy nên hãy đặt muối ở khu này.

Hướng Đông Nam của ngôi nhà –  Nên đặt thêm hoa tươi

Khu vực hướng Đông Nam của căn nhà năm 2017 sẽ có sao số 9 chiếu và sao này có tính hỏa.

Gia chủ nên: Đặt đồ trang trí có tính mộc như hoa tươi để bổ trợ cho tính hỏa của hướng Đông Nam. Con số 9 nên được áp dụng khi bài trí, ví dụ như 9 ngọn nến đỏ hoặc tím, 9 bông hoa,...

Tránh: Đặt đồ có yếu tố thổ ở khu này để không làm yếu đi tính hỏa

Hướng Đông Bắc của  ngôi nhà – Thêm mộc để học hành tấn tới, tình yêu thăng hoa

Hướng này vào năm 2017 sẽ được sao số 4 chiếu. Ngôi sao này điều khiển những nỗ lực trong tình yêu, sáng tạo và học hành của những người trong nhà.

Gia chủ nên: Đặt đồ vật biểu tượng tình yêu như tranh ảnh về cặp rồng phượng hoặc uyên ương để tạo cảm giác có đôi có cặp cho căn nhà nếu như bạn đang có ý định tìm một nửa cuộc đời mình vào năm Đinh Dậu.

Tránh: Đặt đồ có tính hỏa và kim vì chúng sẽ át đi tính mộc của sao số 4.

Hướng Bắc của ngôi nhà – Treo chuông gió để công danh thăng tiến

Năm nay, sao số 6 sẽ phù trợ cho hướng này của căn nhà bạn. Nhờ nó, mọi công sức và nỗ lực của bạn trong suốt thời gian qua sẽ được công nhận và mang đến thành công cho sự nghiệp của bạn. Nó cũng thúc đẩy bạn tiến xa hơn và đạt được nhiều hơn mình mong đợi.

Gia chủ nên: Tăng tính kim với những đồ có màu trắng và xám hay tính thổ với thạch anh và đá quý để vượng khí cho hướng Bắc của ngôi nhà trong năm 2017.

Trong khi đó chuông gió biểu tượng cho tính kim luôn chuyển động sẽ rất tốt cho đường công danh luôn thăng tiến của bạn, tránh trì trệ.

Giữa nhà – Thêm xanh dương cho thành công toàn diện

Đây là chỗ được sao số 1 phù trợ và mang đến năng lượng tích cực cho cả căn nhà. Vượng khí từ đây sẽ lan tỏa đến sự nghiệp của bạn dù bạn làm ở lĩnh vực nào.

Gia chủ nên: Tăng tính kim và thủy cho khu giữa của ngôi nhà với những màu sắc như xanh dương, trắng, đen.

Tránh: Màu có tính hỏa như đỏ, hồng nóng, tím, cam... cũng như đồ trang trí có hình dáng biểu trưng cho tính hỏa. Sao số 1 phù trợ cho khu này có tính thủy vậy nên tránh đặt đồ có tính mộc ở đây vì mộc sẽ làm suy thủy, hút hết năng lượng từ thủy.

Hướng Nam của ngôi nhà – Treo tiền xu đẩy lùi vận xui

Năm 2017, hướng này sẽ bị sao số 5 chiếu. Sao này không hề tốt cho phong thủy của ngôi nhà.

Gia chủ nên: Xem xét treo đồ có tính kim, hình tròn ở đây, ví dụ như 6 đồng tiền xu để giảm thiểu năng lượng tiêu cực phát ra từ hướng Nam ngôi nhà.


Tránh: Động chạm, sửa sang hướng này. Kiêng kị đặt đồ có tính hỏa ở khu vực này vào năm sau.

Hướng Tây Bắc – Đặt muối để loại bỏ năng lượng xấu

Hướng Tây Bắc năm Đinh Dậu sẽ rất độc vì phát ra nhiều năng lượng xấu, ảnh hưởng đến phong thủy của cả ngôi nhà.


Gia chủ nên: Đảm bảo yên tĩnh cho hướng này của căn nhà trong năm sau. Bạn nên đặt đồ có tính kim và thủy ở hướng này của ngôi nhà để cân bằng năng lượng.

Tránh: Đồ có tính hỏa như màu đỏ, tím, hồng, vàng và có hình tam giác. Bạn cũng có thể xem xét đặt một bát muối hoặc nước muối ở khu này.

Hướng Tây Nam của ngôi nhà – Đặt đài phun nước để bảo vệ ngôi nhà

Hướng này năm nay sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến năng lượng của ngôi nhà.


Gia chủ nên: Đặt những càng nhiều đồ có tính thủy càng tốt  như đài phun nước để điều tiết năng lượng xấu phát ra từ đây.

Tránh : Yếu tố thổ và hỏa ở hướng này.

Hướng Tây – Thêm hỏa để giải hạn Thái Tuế

Trong năm 2017, bạn cần chú ý hướng Tây của ngôi nhà vì sẽ có hạn Thái Tuế.

Gia chủ nên: Đặt đồ có tính hỏa ở đây để trung hòa năng lượng tiêu cực phát ra.

Tránh: Đặt đồ có tính thủy mạnh như gương treo tường hay đồ có tính mộc cao như cây trang trí. Những đồ có tính kim chuyển động như chuông gió cũng không nên xuất hiện ở đây.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những “mẹo” giải xui, rước lộc cho năm mới

Phòng bếp nhẹ nhàng mà vẫn cực ấn tượng

Nhờ được chủ nhân chăm chút tỉ mỉ và khéo léo từ khu vực chế biến, nấu nướng, quầy bar ăn sáng cho đến nơi ăn uống...phòng bếp này trở nên cực kỳ ấn tượng mà vẫn nhẹ nhàng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khu vực nấu nướng gọn gàng

Phòng bếp này được thiết kế theo phong cách đồng quê nhẹ nhàng, mộc mạc. Chính vì thế, không khó để bạn nhận ra gỗ là vật liệu được lựa chọn sử dụng nhiều hơn cả tại đây. Chiếc bàn ở khu vực chuẩn bị thức ăn được làm bằng gỗ tự nhiên, không sơn vẽ bỗng trở nên nổi bật bên cạnh chiếc tủ gỗ sơn đen. Việc phân chia hai khu vực chuẩn bị và chế biến tách biệt như thế này cũng góp phần làm cho nơi nấu nướng gọn gàng, đỡ rối mắt hơn.


Khu vực nấu nướng tiện ích với phong cách mộc mạc.

Góc ăn uống nên thơ, quyến rũ

Đây được xem là khu vực quyến rũ nhất của căn bếp này, bởi nó được tạo nên từ nhiều yếu tố khiến người ta cảm thấy vô cùng thích thú. Chiếc bàn gỗ sơn trắng, bộ ghế mây kết hợp gối tựa đặc trưng cho phong cách vintage. Lọ hoa thuỷ tinh cùng chân nến xuất hiện duyên dáng trên bàn ăn, ngoài ra, chủ nhân còn đầu tư thêm chiếc đèn chùm màu đen sang trọng với chữ LOVE đầy ý nghĩa nữa đấy.


Góc ăn uống nên thơ, quyến rũ nhờ nội thất và phụ kiện...

Quầy bar ăn sáng đầy màu sắc

Tuy chỉ chiếm một diện tích rất nhỏ nhưng quầy bar dành cho bữa điểm tâm này được chủ nhân ưu ái khá nhiều. Từ việc dùng gỗ sồi thay thế mặt bàn bằng đá granite cũ để tạo nên điểm nhấn, hai chiếc ghế sắc màu hồng - xanh nổi bật cho đến những chậu hoa nhỏ đầy tươi mới… Ngoài ra, trên bức tường trắng còn được tô điểm bằng chiếc đồng hồ tự chế thật sáng tạo cùng chiếc bảng đen ghi chú xinh xắn nữa.


Quầy bar ăn sáng tuy nhỏ nhưng đầy màu sắc.

Tủ bếp tông màu đen cổ điển

Màu đen không phải là màu sắc phổ biến trong phòng bếp nhưng nếu dám sử dụng, màu sắc này sẽ đem đến sự sang trọng đồng thời đảm bảo cái nhìn sạch sẽ, tinh tươm cho không gian nấu nướng. Ở đây, tủ bếp bằng gỗ sơn màu đen pha xám nhạt kết hợp những đường vân tự nhiên trông rất đẹp mắt. Trên tay nắm của hộc tủ còn được treo một trái tim bọc vải xinh xinh, góp phần làm cho chiếc tủ bếp vốn cứng nhắc trở nên mềm mại hơn…


Tủ bếp gỗ sơn đen sạch sẽ và sang trọng.

Những ngăn kéo tiện ích

Một chiếc tủ hoàn hảo, bên cạnh tính thẩm mỹ về hình dáng, màu sắc, kích thước… thì còn phải kể đến tính năng mà nó mang lại. Những món đồ, phụ kiện bếp núc đa dạng đòi hỏi nhiều không gian lưu trữ bởi vậy chiếc tủ nhiều ngăn kéo khác nhau sẽ được ưu tiên trong phòng bếp. Nên chọn loại tủ mà bên trong mỗi ngăn lại được chia thêm những hộc nhỏ để việc lưu trữ thêm ngăn nắp và khoa học.


Tiện ích hơn với nhiều hộc lưu trữ trong ngăn kéo.

(Theo TTVN)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phòng bếp nhẹ nhàng mà vẫn cực ấn tượng

Ý nghĩa của hoa lan trong phong thủy –

Vẻ đẹp của hoa lan được coi là biểu tượng cổ điển tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở trong phong thuỷ. Hoa lan mang lại năng lượng giúp cân bằng những sự đổ vỡ. Lan là tên gọi chung của các loài thực vật thuộc họ lan, trên thực tế phân ra thành hoa,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vẻ đẹp của hoa lan được coi là biểu tượng cổ điển tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở trong phong thuỷ. Hoa lan mang lại năng lượng giúp cân bằng những sự đổ vỡ.

Lan là tên gọi chung của các loài thực vật thuộc họ lan, trên thực tế phân ra thành hoa, cỏ, gỗ (gồm hoa lan, lan thảo, mộc lan). Lan thảo và mộc lan lại có rất nhiều loại, trong “Kim chương lan phả” của Triệu Thời Canh – đời Tống, đã liệt kê ra hai mươi loại, Vương Quý Học trong cuốn “Lan phả” cũng liệt kê ra 50 loại.

Bài trí hoa lan trong nhà hội tụ được năng lượng may mắn, xua bớt tà khí.

hoa-lan-phong-thuy

Lan được mọi người yêu thích, trước hết là ở hương thơm, lan được gọi là “vương giả hương” (hương thơm vương giả), “hương tổ” (tổ tiên của hương thơm). Lan là biểu tượng của sự may mắn, phẩm chất cao thượng.

Vẻ đẹp của hoa lan được coi là biểu tượng cổ điển tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở trong phong thuỷ. Hoa lan mang lại năng lượng giúp cân bằng những sự đổ vỡ. Nó cũng là biểu tượng trong việc giúp tìm kiếm sự hoàn hảo trong bất kỳ lĩnh vực nào cho cuộc sống của con người.

Tiền tài, sự hoàn hảo, của cải, sắc đẹp, trong trắng – với khả năng thu hút những nguồn năng lượng như vậy, hoàn toàn có thể hiểu tại sao lan lại trở thành một trong những giống hoa được trồng trong nhà nhiều nhất ở phương Tây.

Người xưa thường dùng lan để đại diện cho hương thơm, từ đó gán cho lan vẻ đẹp hoa mỹ và rực rỡ. Rất nhiều từ ngữ xuất hiện thêm chữ “lan” như:

– Lan thất: Là căn phòng hương thơm tao nhã.
– Lan thời: Thời gian đẹp đẽ, chỉ ngày xuân.
– Lan chương: Lời văn hoa mỹ, dùng để ca ngợi thơ văn hoặc thư từ của người khác.
– Lan tảo: Ví với ngôn từ đẹp đẽ, tinh tế.

Không chỉ vậy, một số người còn ví phẩm chất của lan với con người, dùng để chỉ nhân phẩm và quan hệ luân thường đạo lý trong xã hội. Những từ có thêm lan như:

– Lan thạch: Hương thơm lâu bền, ví với tư chất tốt đẹp của con người.
– Lan chi: Ví với phẩm cách và đạo đức cao thượng.
– Lan tâm huệ tính: Ví với phẩm cách thanh cao trong trắng của người con gái.
– Lan giao: Chỉ bạn tri kỷ.

Ngoài ra, theo nhiều ghi chép, ngày xưa ái thiếp Yên Cơ của Trịnh Văn Công từng mơ thấy có vị tiên đem cho hoa lan, sau này sinh ra Mục Công – lấy tên là Lan, đây chính là nguồn gốc của “lan mộng”. Người đời sau đã phát triển thành “lan triệu”, chỉ điềm báo may mắn sắp mang thai và sinh con trai.

Lan không chỉ sở hữu hương thơm thanh khiết, còn có thể đuổi được côn trùng, tránh điều không may. Dân gian có tục cầm hoa lan tránh tà, hoặc pha lẫn hoa lan với phấn thơm, bôi lên quần áo, sách vở để đuổi côn trùng. Mùa hè hái lan về gội đầu, sẽ không có gàu.

Treo tranh hoa lan trong nhà cũng mang lại hiệu quả may mắn cát tường giống với bày chậu hoa lan tươi, những loại tranh như: lan hoa đổ, ngũ thụy đổ, quân tử chi giao…

Tuy nhiên, do hương thơm của hoa lan gây hứng phấn cao và dễ làm mất ngủ, vì thế tránh bày lan trong phòng ngủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của hoa lan trong phong thủy –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1958 Mậu Tuất –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1958: Năm sinh dương lịch: 1958 - Năm sinh âm lịch: Mậu Tuất - Quẻ mệnh: Càn Kim - Ngũ hành: Bình Địa Mộc (Gỗ đồng bằng) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Tây Bắc (Phục Vị); Đông Bắc (Th

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1958:

k

Năm sinh dương lịch: 1958

– Năm sinh âm lịch: Mậu Tuất

– Quẻ mệnh: Càn Kim

– Ngũ hành: Bình Địa Mộc (Gỗ đồng bằng)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Tây Bắc (Phục Vị); Đông Bắc (Thiên Y); Tây Nam (Diên Niên); Tây (Sinh Khí);

– Hướng xấu: Bắc (Lục Sát); Đông (Ngũ Quỷ); Đông Nam (Hoạ Hại); Nam (Tuyệt Mệnh);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1958 Mậu Tuất –

Xem ấn tướng của người có nốt ruồi trên mặt

Có những người có nốt ruồi trên mặt, trên tai hay trên mũi, dưới cằm, ... những nốt ruồi này đều mang một ý nghĩa sâu xa. Nhưng có những nốt ruồi ở các vị trí khác lại không hề liên quan đến tướng pháp con người. Bài viết dưới đây giới thiệu về một số vị trí nốt ruồi trên mặt của cả nam và nữ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những nốt ruồi mọc trên mặt, trên thân thể mỗi người, thì có nhiều cách để xem xét. Tất cả chúng ta phần đông đều có nốt ruồi (xin đừng nhầm lẫn với tàn nhang), kẻ nhiều người ít chứ không ai hoàn toàn là không có. Tuy nhiên, tùy theo vị trí của mỗi nốt ruồi mọc ra, mới có thể định tướng được. Có những nốt ruồi chẳng liên quan gì đến tướng pháp cả, nhưng lại có những nốt ruồi thì tối quan trọng.

Xem ấn tướng của người có nốt ruồi trên mặt

Nốt ruồi đen mọc ở cánh mũi bên trái , đó là người có số tha phương lập nghiệp. Nếu nốt ruồi như vậy mà mọc  về phía cánh mũi bên phải thì đó là người có số đào hoa, đàn ông nhiều vợ, đàn bà thì lắm nhân tình.

Nếu nốt ruồi mọc ngay trên đầu mũi thì hãy coi chừng, đời người lắm chông gai, hay gặp sự nguy hiểm.

Nếu có nốt ruồi mọc ở dưới mắt trái, thì lại là “ thương phu chích lộ” (đàn bà có tướng Sát phu, đàn ông có tướng giang  hồ, nay đây mai đó).

Nếu nốt ruồi mọc ngay chính giữa cằm, lệch về bên dưới, thì đó là người kiêu hãnh, to gan ưa làm những chuyện mạo hiểm. Đàn bà mà có nốt ruồi ở đó thì thành công nhiều trên đường thương mại, buôn bán đắt hàng.

Cũng nốt ruồi mọc ở dưới cằm, nhưng chếch về bên trái, thì người đó làm văn nghệ (làm hề). Nhưng nếu chếch về bên phải thì đó là người cô đơn.

Trên thượng đỉnh (trán), nếu có nốt ruồi mọc ngay chính giữa, thì đó là con nhà võ nghiệp. Ngược lại, nếu nốt ruồi này không phải là màu đen, mà màu hồng (son), đúng là con nhà quý tướng, họ có sự nghiệp lớn, công danh cao.

Nếu trên mép tai trái có nốt ruồi, thì đó là người có số làm thương mại, nếu mọc bên tai phải, thì đó là nhà học giả, trí thức, là triết gia, nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm.

Nếu đằng sau mép tai mà có nốt rồi thì đó là người tương lai đầy hứa hẹn, tiền bạc dồi dào, nhàn hạ.

Trên hai vai mà có nốt ruồi, thì số có nhiều sự lo âu, gánh nặng gia đình, tiền bạc làm ra nhiều nhưng chóng hết. Cũng trên vai những thay vì nốt ruồi đen là nốt ruồi đỏ, thì người ấy có số giàu sang, có lộc thừa hưởng. Ca dao tướng pháp có câu:

“Nốt ruồi đen mọc trên vai

Số này thở ngắn than dài năm canh

Tiền vào chóng hết tiêu nhanh

Trăm lo nghìn lắng phận mình gian nan”

Cũng là ca dao:

“Trên vai có nốt ruồi hồng

Số này đại phú, vô cùng vinh quang

Phước lộc chung hưởng một nhà

Vợ chồng, con cái thuận hòa an vui”

Nốt ruồi mọc ở mép môi trên, đó là người có duyên ăn nói, là nhà hung biện, thuyết trình gia.

Nốt ruồi mọc ở trên gò má trái, gần sát bên mũi, là người có số đại quý, giàu sang.

Nốt ruồi mọc chính giữa trán thì là người có đức, có thiên lộc tấn, là người được hưởng của trời cho, cuộc sống không lo nghèo khổ. Bổn mạng có quý nhân phù trợ, nhiều khi bị tai nạn thấy chết trước mặt rồi cũng tan biến đi, tai qua nạn khỏi. Những người này có số thọ ngoài 70, nếu là đàn bà thì may mắn về tình duyên cuộc đời thỏa mãn vinh hoa phú quý, giàu sang tột đỉnh.

Nếu có nốt ruồi ở trên trán về phía trái: người này tuy có của cải nhưng đời sống khổ tâm cực trí, tâm tư lúc nào cũng bị xáo trộn, thường phải xa quê hương lập nghiệp, hoặc sống đời phiêu bạt, vợ chồng dù cưới hỏi rồi cũng không ở đời được với nhau.

Nốt ruồi mọc ở chính giữa hai đầu chân mày, là người tính toán một đường làm một nẻo, tâm trí lúc nào cũng rối bời, cuộc sống gần như cô độc, phải ly hương xa cha mẹ, an hem không thuận hòa, tình duyên cũng lận đận, phải có một đôi lần tan vỡ thì mới hợp lại.

Nốt ruồi ở khóe miệng cách 1 cm thì dù bên phải hay bên trái, là người mang trụy lạc, thêm vào đó lại là số sát thê hoặc sát phu, duyên nợ vợ chồng hợp tan rồi lại tan hợp, không được bền lâu.

Ngoài những vị trí nốt ruồi ở trên đây thì bạn có thể xem thêm bài viết: Cát - hung của nốt ruồi trên khuôn mặt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ấn tướng của người có nốt ruồi trên mặt

Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số Tử Vi?

Bài viết trình bày về những việc cần thấu triệt những nguyên lý căn bản đề đoán đúng một lá số tử vi. Đây là một bài viết rất tâm huyết của cụ Quản Văn Chính.
Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số Tử Vi?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cụ Quản Văn Chính, cử nhân Việt Hán

I. Mối tương quan giữa sao Chính thủ mệnh và cung An Mệnh cùng Bản Mệnh.

1/Sao chính diệu và cung an Mệnh. Thế nào là Miếu địa và hãm địa?

Tỷ như sao chính thủ Mệnh là sao Tử vi mà đóng tại cung Ngọ thì được gọi là ông vua ở chính ngôi hay TỬ VI MIẾU ĐỊA bởi lẽ Tử vi thuộc hành Thổ đóng tại cung Ngọ thuộc hành hỏa, Hỏa sanh Thổ.

Nhưng thật ra việc ngũ hành sinh khắc ở đây có thể chỉ là việc thứ yếu. Theo nền triết lý của Á đông ta – mà thuyết chính danh, chính vị rất quan trọng, thì cung Ngọ được coi là cung chính yếu, là chỗ cao quý nhất dành cho vị chúa tể ở dưới đất là ông Vua mà ở trên Trời mà là (Trời hay Vũ trụ Tử vi ) là sao Tử Vi, sao đầu trong hệ thống tinh tú của lá số.

Vì vậy mà theo nguyên tắc “Song Phương“ Ngọ đối với Tý sao Tử vi đóng ngay cung Tý (thuộc hành Thủy mà Thủy khắc Thổ cũng được coi là Miếu địa.

Nhưng cũng vì lẽ sinh khắc nên khi dạy đoán số tử vi sách đã phải viết:

- “Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ“
- “Mệnh tọa cường cung, tu sái chế đa chi lý“

Câu thứ nhất có nghĩa là, “Sao đóng ở cung đã được ghi là Miếu Vượng thì phải nhớ, nhưng nếu muốn đóan cho đúng, cần xem kỹ lại để biết sao ấy sinh khắc thế nào với cung an Mệnh.

Đến đây tôi xin được mở một ngoặc lớn để trình bày với quý vị độc giả một nhận xét cá nhân như sau:

- Trang báo SM trước đây một bạn đồng nghiệp của tôi ông Đoàn Đình Quất có chủ trương dùng toàn chữ Việt để giảng giải về khoa Tử vi cho đỡ mất thì giờ của bạn đọc cũng như đỡ tốn giấy, tốn mực và phí công ấn loát.

Đành là như thế, nhưng tôi thiết nghĩ việc xài chữ Hán Việt tức là chữ Hán theo mâu tự La Tinh trong việc nghiên cứu về khoa Tử vi rất có lợi.

Thứ nhất, những sách cổ viết về khoa này đều là những sách chữ Hán mà sự trích dịch ra chữ Việt đều bị ít nhiều sai lạc. Một chứng cớ thông thường nhất là trong sách chữ Hán có câu phú:

- “Tử Vũ tài năng cự tú Đồng Lương Xung thả hợp“

Hầu hết các sách viết bằng chữ Việt đều giảng là: Người có sao Tử vi và Vũ Khúc hợp với sao Đồng Lương là có tài năng. Thật ra, Tử vi đó là tên ông Tử Vũ chứ không phải Tử vi và Vũ Khúc.

Lại nữa, việc dùng chữ Hán Việt sẽ giúp những ai muốn nghiên cứu thật sâu rộng về khoa Tử vi, có thể làm quen với chữ Hán để một ngày kia đọc thêm những sách do chính Trần Đoàn viết mà Trần Đoàn, vị Tổ Sư của khoa tướng số là một người Trung Quốc sanh vào đời Tống sơ. Thêm vào đó, khi sang Đài Loan vào năm 1964 để nghiên cứu về khoa trắc nghiệm tâm lý, tôi đã có dịp làm quen với mấy nhà tri thức chuyên khảo cứu khoa Tử vi. Họ cho biết rằng:

- Hiện nay ở Đài Loan người ta không còn lập cung mệnh cho những người sanh tháng nhuận một cách máy móc là ngày đầu trong tháng nhuận tính như 15 ngày đầu của tháng chính và 15 ngày sau tính vào tháng tiếp. Nay, người ta căn cứ vào tiết của tháng chính tháng nhuận để quyết định.

Cũng như việc giáp giờ người ta không lấy cả hai lá số để xem giờ nào hợp hơn mà người ta đếm khoáy trên đầu.

Vì mới biết lối mới này có 7, 8 năm nên tôi chưa dám nói lối nào đúng hơn tôi chỉ xin nói để làm tỷ dụ rằng biết đọc chữ Hán lợi lắm cho việc nghiên cứu tử vi, cũng như muốn giỏi về khoa chỉ tay mà không đọc được sách của Cheiro viết bằng tiếng Anh hay sách của Capitaine d’Arpentigny viết bằng tiếng Pháp thì không sao giỏi được.

Vì những lẽ đó mà tôi ưa dùng chữ Hán Việt.

Trở lại mối tương quan, không những Tử vi đóng tại cung Ngọ là miếu địa, mà tại cung Tý hay Dần Thân cũng là Miếu, dù hai hành không tương sinh.

Vì thế Miếu hay Hãm không chỉ căn cứ vào luật Ngũ hành mà quyết định, mà còn căn cứ cả vào học thuyết Chính danh Chính vị nữa! Thật là phiền phức, cũng như tất cả những điều phiền phức khác mà tôi đã nêu ở trên. Vì thế là con người khá thực tế trong công việc nghiên cứu tôi đã hơn một lần định chỉ học kỹ về khoa xem chỉ tay rồi hiện nay, tôi tránh né những khó khăn của Tử vi bằng khoa xem chỉ tay.

Vì tránh né nên tôi cũng không quá nệ sách, tôi chỉ dùng có 2 trường hợp: sao chính diệu đắc địa hay hãm địa mà thôi.

Đến đây để câu chuyện đỡ khô khan, tuy tôi đã đưa ra rất nhiều nhận xét có thể gọi là mới mẻ và hấp dẫn tôi xin dẫn ít nhiều tỷ dụ cụ thể để chứng minh rằng sao chính diệu đóng tại miếu địa tốt ra sao và hãm địa xấu thế nào?

Chắc quý vị độc giả còn nhớ lần trước tôi có ghi lá số của tuổi Tân dậu tháng 9 ngày 23 giờ thìn, người thanh niên này nhờ có sao Tử Vi cư Ngọ mà mới chưa đầy 30 tuổi đã công thành danh toại với chức vụ Tri huyện vào năm 1944, tức là mới có 22 tuổi đã xong cử nhân luật trong thời Pháp thuộc tại Hà Nội trong khá nhiều bọn đồng tuế lẹ lắm là đỗ xong tú tài II hay một hai phần cử nhân là nhiều.

Nhưng vì Mệnh của ông ta thuộc hành Mộc, đóng tại cung Ngọ, hành hỏa nên…. (xin quý vị độc giả viết tiếp cho)

Trái lại ông sau này tuổi Bính Thìn sanh vào tháng 5 ngày 20 giờ Tý thì thật là tốt.

- Mệnh hành Thổ Ngọ cung hành Hỏa sanh Thổ, nên chưa đến 40 tuổi đã làm đến Thượng Thư đúng như câu phú: “Tử vi cư Ngọ, vô sát tấa vị chí công khanh“

Bản Mệnh và cung An mệnh, thế nào là cường cung?

Như bài trước đã nói mỗi lá số Tử vi được chia làm 12 cung và mỗi cung lại vừa là Âm hoặc Dương thuộc một trong 5 hành Kim, Mộc, thủy, Hỏa và Thổ. Mỗi cung lại còn chia ra là CƯỜNG, NHƯỢC khác nhau, tùy theo lần này là PHƯƠNG HƯỚNG chứ không như ở đoạn. Tùy theo lé Chính danh Chính vị. Lại cách chia “cường nhược “này cũng không dựa vào sự quan trọng về ý nghĩa của mỗi cung như ngôn ngữ thôngg thường vẫn nói là“ về phụ nữ, cung mệnh cung Phúc đức, cung Phu và cung Tử được coi là CƯỜNG CUNG, tức là cung quan trọng mà về nam giới nhiều nhà nghiên cứu lại chủ trương rằng cung Nô bộc là quan trọng nhất, sau cung Mệnh Thân và Quan lộc.

Nay nếu theo phương hướng thì trên lá số Tử vi cung ngọ và cung Tý được gọi là cường cung với ảnh hưởng như sau:

- Mệnh đóng tại đó đã tốt nếu có các sao đắc địa càng tốt hơn thêm nếu có xấu thì cũng bớt xấu. Nhưng câu phú dạy:  Mệnh tọa cường cung tu sat chế, hóa chi lý“. Tức là dù mệnh có đóng tại cung Tý hay Ngọ chẳng hạn, ta cũng phải xét xem sao Chính diệu tọa thủ ở đó chế hoa ( thay đổi thêm bớt ) thế nào so với cung an Mệnh. Tức là phải xét hai vấn đề:

- Thứ nhất là xem ảnh hưởng 20 sao Chính diệu ra sao đối với hai Cường Cung Tý và Ngọ?

Tỉ như sao Chính diệu là sao Tử vi: sao này ở Ngọ thì thật là tốt rồi, vì cung Ngọ thuộc Hỏa, sanh ra Thổ là hành mà Chính diệu Tử vi. Nhưng nếu sao Tử vi mà đóng tại cung Tý thì tuy là cường cung nhưng vì cung Tý là cung Thủy, mà Thủy khắc Thổ của Tử vi nên cái tốt giảm đi nhiều lắm.

- Xin độc giả thử đoán xem người nữ nhân tuổi Giáp Tý, sanh tháng 6 ngày 23 giờ Mùi, có sao Tử vi cư Tiys tốt đến thé nào vì bà ta Mệnh thuộc hành Kim mà Kim Thủy tương sanh ) và xấu ra sao?

Sau khi trình bày các sách cổ đều dùng chữ Cường Cung để nơi hai cung TÝ Ngọ chưa thấy sách gọi hai cung Mão Dậu là “Nhược cung“ mà chỉ nơi tới cung Thìn Tuất Sửu Mùi là Trung ương, thuộc hành Thổ, có khi tốt cũng có khi xấu, và 4 cung Dần Than Tị Hợi thì có khi gọi là Tứ sịnh có khi gọi là Tứ tuyệt. Tôi thú thật là không biết gọi thế là theo địa bàn Tiên Thiên bát Quái hay là theo vòng Tràng sinh?

- Khi có Tràng sinh đóng thì gọi là Tứ sinh khi có Tuyệt đóng thì gọi là Tứ Tuyệt.

Kết quả là có khi cho là tốt, nếu mệnh đóng ở đó có khi cho là xấu. Còn Mão Dậu hai cung này thật là tội, sao Thiên Tướng chỉ ham địa chờ đóng ở cung Dậu mà đắc địa hay (hay Bình hòa ) khi đóng ở cung Mão, và nhiều sách, có sách này bảo là đắc địa sách kia nói là hãm địa, khi một chính diệu đóng tại hai cung đó.

Vì nhiều sự mơ hồ như thế nên đôi khi người nghiên cứu không còn chú trọng đến Miếu Vượng Hãm nữa mà chỉ đoán số theo toàn thể các sao.

Tôi nói thế vì học giả Phạm Quỳnh tuy có sao Thái Dương cư Hợi thủ Mệnh ( hãm địa ) mà văn hay chữ tốt, một bước Thượng Thư rồi.

- Đinh chung gần gũi cái ngai vàng xem thế chẳng cần có Nhật Nguyệt tịnh minh như Khổng minh mà học giả Phạm Quỳnh cũng “Tả cửu trùng ư Nguyệt diệu“

Và cũng vì thế mà tôi có ý kiến là sở dĩ cung Thìn, Tuất, Sửu Mùi được coi là tốt là “Cường“ vì ngoài việc tuổi Thìn mà mệnh đóng tại la Võng thì xấu, tôi thấy Mệnh đóng tại Thìn Tuất Sửu Mùi tốt sẵn vì hay được giáp Tả Hữu Khôi Việt hoặc có Âm Dương Tả hữu đồng cung. Mẹo Dậu xấu vì hay bị Kình Dương hãm ở đó nếu tuổi Giáp tuỏi Canh hay và Mệnh tại Dần Thân Tị Hợi hay bị Đại Tiểu hao và Kiếp sát đóng nên xấu. Xấu rồi nhiều thì cũng tốt, nếu là tuổi Giáp Mậu, Bính, Canh!

Lại nữa hay cung Tỵ Hợi xem ra là hai cung “nhược“ nhất trong 12 cung, trong lá số, vì thường là nơi “trú ngụ“ của tú tinh là Liêm trinh và dâm tinh là Tham Lang và Phá Quân.

Nhưng ở đây Trần Đoàn đã có nghĩ ra cái “chế hóa“ để làm giảm bớt cái không hay của hai sao Liêm Tham chẳng hạn.

3/ TRƯỜNG HỢP CHẾ HÓA:

Trái với trường hợp chính tinh miếu địa và đắc địa đôi khi chính tinh lại đóng tại các cung xấu gọi là hãm địa, như khi Liêm trinh Tham lang đóng ở Tị Hợi,

“Liêm, Tham, Tị, Hợi hình ngục nan đào “hai chính tinh này đóng ở Tị Hợi thì khó mà tránh được phải tù tội “
Tuy nhiên nhờ luật Ngũ hành sinh khắc và chế hóa, sự ngục tù có thể tránh được nếu.

a/ Tham Liêm đóng tại Hợi mà bản Mệnh thuộc hành KIM THÌ TỐT, với điều kiện có Hóa Kỵ cùng đóng tại cung an Mệnh: Hóa Kỵ là Thủy khắc Liêm là Hỏa nhưng tuổi Kim đong ở cung Thủy là tốt được sự sinh.

b/ Tham Liêm đóng tại cung Tị mà bản Mệnh thuộc hành Hỏa ngộ Hóa kỵ lại tốt vì tuy Hóa Kỵ ( thủy ) khắc Liêm ( Hỏa ) nhưng Mệnh đóng ở cung Hỏa không sao có chế hóa.

(Với hai trường hợp này lại thấy Mệnh đóng ở sinh địa là quan trọng nhất )

Tôi xin thưa thật rằng tôi đã chép lại 2 trường hợp này trong quyển Tự điển Tử vi của tác giả Đắc Lộc do nhà xuất bản Phúc Thắng xuất bản tại Hanoi vào năm 1952.

Tôi chỉ gặp trường hợp:

- Bính Thân tháng 2 ngày 18 giờ Thìn (dương nam) với Tham Liêm ở Hợi mà mệnh Hỏa, ngộ Hóa Kỵ.

- Quý Dậu, tháng 4 ngày 12 giờ ngọ (nữ)

Tôi xin quý vị đương nghiên cứu học hỏi về khoa Tử vi thử đóan xem hai lá số trên đây ra sao. Thực tập như thế, quý vị sẽ tiến bộ trông thấy và sẽ rất lấy làm vui mừng được biết khả năng của quý vị khi tôi nói rõ đó là số của ai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số Tử Vi?

Cách xem vận năm 2014 của bạn trong lá số tử vi (phần 1)

Xem tiểu vận, tiểu hạn trong lá số tử vi là vận hạn tốt xấu trong một năm, được dùng như một yếu tố phụ họa với Đại vận để định đến năm nào thì được tốt về

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiểu vận trong tử vi 

Tiểu vận hay tiểu hạn là vận hạn tốt  xấu trong một năm, được dùng như một yếu tố phụ họa với Đại vận để định thời gian cho đương số trong một Đại vận, đến năm nào thì được tốt về công danh, sự nghiệp, thi cử, thành hôn, sinh con, hay là gặp họa .Tiểu vận của năm được hiển thị ở góc trái cuối cùng của một cung trong lá số tử vi

ví dụ: tiểu vận năm giáp ngọ 2014 , xem trong lá số tử vi của bạn, cung nào có từ Ngọ ở góc trái dưới cùng thì cung đấy là cung hiển thị tiểu vận trong năm 2014 của chính bạn.

Sau đây là các yếu tố của tiểu vận:

- Hàng Can của niên vận so với Can năm sinh

- Hành của cung tiểu vận so với hành Mạng

- Những năm ấn định trước là năm hạn, năm xung, nhưng năm hạn tam tai.

- Các sao trong tiểu vận (cho biết tốt xấu về chi tiết)

1. Hàng Can của niên vận so với hàng Can của tuổi

Kinh nghiệm của Cụ Thiên Lương cho hàng Can của niên vân, so sánh với hàng Can của tuổi, là quan trọng nhất, xấu hay tốt ở đó mà ra. Như gặp Đại vận suy thoái (Thiên Không) hay Đại vận chết, tai hoạ thường xảy ra vào năm hàng Can niên vận khắc Can tuổi. Gặp Đại vận tôt, việc tốt thường xảy ra vào năm hàng Can niên vận sinh cho Can tuổi.

Lấy thí dụ tuổi Kỷ, Sửu, Kỷ là Thổ. Vậy thì năm nào có hàng Can sinh cho Thổ tức là có Can Hỏa, thì năm ấy tốt, có việc tốt xảy ra: Ẩy là các năm Bính và Đinh. Hai năm cùng tốt, nhưng Đinh tốt hơn Bính, vì Đinh và Kỷ là Âm; khác Âm Dương như Bính và Kỷ, thì mặc dù Bính sinh Kỷ, cái tốt cũng kém đi.

Năm nào hành Can bị hành năm sinh khắc được, thì năm ấy cũng tốt nhưng chỉ tốt vừa, vì Mệnh khắc được Can niên vận tức là mình thắng được hoàn cảnh. Vậy đối với tuổi Kỷ Sửu, thì Kỷ (Thổ) chế ngự được 2 năm Nhâm và Quý (Thủy). Cùng Âm Dương ửù tốt hơn là khác Âm Dương. Vậy đối với Kỷ, năm Quý tốt hơn năm Nhâm.

Còn năm nào mà hàng Can khắc Can năm sinh thì năm đó gặp sung bại, khó khăn. Đối với tuổi Kỷ (Thổ), các năm Giáp, Ất (Mộc) là năm suy bại, vì Mộc khắc Thổ. Cùng Âm Dương thì xấu hơn.

Các năm mà hàng Can của tuôi sinh cho Can niên vận, thì đó là vận sinh xuất mệt nhọc, chịu đựng. Như hai năm Canh và Tân (Kim) của tuổi Kỷ (Thổ) vì Thổ sinh Kim.

Các năm mà Can đồng hành với Can tuổi, thì bình (trung bình, không xấu, không tốt).

Ta có bảng sau:

Can năm vận sinh Can tuổi

Tốt nhất

Can tuổi khắc Can năm vận

Tốt nhì

Can năm vận hoà Can tuổi

Bình

Can tuổi sinh Can năm vận

Mệt nhọc, kém

Can năm vận khắc Can tuổi

: Xấu, suy bại

 

ảnh hưởng tốt hay xấu mạnh hơn khi hai Can cùng Âm Dương, kém hơn khi hai Can khắc Âm Dương.

2.Hành của cung Niên vận so với hành Mạng

Trong tử vi yếu tố Hành của cung Niên vận so với hành Mạng kém hơn yếu tố Hàng Can của niên vận so với hàng Can của tuổi  thường dùng để vớt vát nếu gặp xấu trong yếu tố Hàng Can của niên vận so với hàng Can của tuổi

Có mấy trường hợp:

- Hành của cung Tiểu vận sinh cho hành Mạng: Tốt nhất

Thí dụ: Người mạng Hỏa, tiểu vận đến cung Mão thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa, -> vậy tốt.

- Hành của cung tiểu vận bị hành Mạng khắc: Tốt nhì

Thí dụ: trong tử vi Người mạng Thủy, tiểu vận đến cung Ngọ thuộc Hỏa, Thủy khắc Hỏa, -> vậy là khá.

- Hành của cung tiểu vận là hành của Mạng: Bình

Thí dụ: trong tử vi Người mạng Kim, tiểu vận đến cung Thân thuộc Kim, -> vậy là năm bình

- Hành của cung tiểu vận được hành của Mạng sinh (sinh xuất): xấu

Thí dụ: trong tử vi Người mạng Mộc, tiểu vận đến cung Tỵ thuộc Hỏa, Mộc sinh Hỏa, -> vậy là tiểu vận xấu.

 - Hành của cung tiểu vận khắc hành của Mạng (khắc nhập): xấu

Thí dụ:trong tử vi  Người mạng Hỏa, tiểu vận đến cung Tý thuộc Thủy, Thủy khắc Hỏa, -> vậy là tiểu vận xấu.

3. Năm xung, Năm hạn, Hạn tam tai

- Năm Xung

Năm Xung là năm hay có nhừng khổ khăn cản trở, các việc trố nên khó.

- Năm Hạn

Năm Hạn là năm hay có những vận hạn, những tai hoạ, lớn nhỏ còn tùy có sao nặng hay không, và có sao giải hay không.

- Hạn Tam Taỉ

Hạn Tam Tai chỉ về các năm hạn gặp những hoạ hại thuộc mọi loại như thất tài, táo tài, làm ăn thua lỗ, ốm đau, tai nạn, cháy nhà, nạn sông nước, thi trượt, mất việc - tai hoạ nào thì có sao ứng vào chi tiết, nhưng cũng còn tùy tiểu vận xấu hay tốt theo yếu tố" 1 (tiểu vận tổt hoặc có sao giải cứu có thể thoát được tai hoạ).

Bạn có thể xem tiếp Phần 2 tại đây : Xem tiểu vận trong tử vi

Bạn có thể lấy lá số tử vi bằng tiện ích tra cứu : Xem tu vi

Bạn có thể xem thêm các tuổi khác bằng tiện ích tra cứu:  Xông đất đầu năm 2014

Bạn có thể xem thêm màu sắc phong thủy bằng tiện ích tra cứu : Xem phong thuy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem vận năm 2014 của bạn trong lá số tử vi (phần 1)

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd