Mơ thấy người yêu cũ –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
► Mời các bạn: Xem phong thủy theo ngũ hành để đón lành tránh dữ |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Trong số 12 con giáp thì tuổi Tý là con giáp được đánh giá sẽ thành công nhất
Hạng 1: Tuổi Tý
Nhờ vào trực giác siêu nhạy bén cùng vận may luôn song hành, người tuổi Tý dễ thành công và trở nên giàu có. Hơn nữa, con giáp này sở hữu kỹ năng thương thuyết tài tình, nên dễ “hái được tiền” trong lĩnh vực truyền thông, bán hàng. Tính cách thích sung sướng, nên người tuổi Tý càng ham kiếm tiền. Họ đặt ra mục tiêu giàu có trước mới lo nghĩ chuyện tình cảm. Nếu cầm tinh con chuột, bạn nên tận dụng cơ hội làm giàu vào năm Sửu vì Tý và Sửu tương hỗ nhau rất tốt.
Hạng 2: Tuổi Hợi
Khả năng dự báo trước tương lai và biết nhìn xa trông rộng của người tuổi Hợi là chìa khóa vàng dẫn họ tới danh đại gia. Họ hào phóng cho đi, nên dễ nhận lại được số tiền nhiều hơn gấp bội nhờ quý nhân phù trợ và vận may luôn sẵn có. Nếu kết hợp với người tuổi Dần, con giáp này sẽ nhanh chóng gặp cơ hội “tiền vào như nước”. Tuy nhiên, người tuổi Hợi nên quản lý tiền bạc khoa học hơn.
Hạng 3: Tuổi Thân
Không chỉ thông minh, người tuổi Thân còn rất chăm chỉ, thể hiện được năng lực trong nhiều lĩnh vực. Hơn nữa, con giáp này sống giản dị, vui vẻ nên nhận được sự quý mến của mọi người. Nếu gặp bất kỳ khó khăn nào, ngay lập tức người tuổi Thân được hỗ trợ từ nhiều phía. Dù vậy, bản tính nóng vội khiến con giáp này gặp vận hạn, thất bại vài lần. Nếu bắt tay làm ăn với người tuổi Tỵ, số giàu có của mình đến nhanh chóng hơn.
Hạng 4 : Tuổi Dần
Tiền bạc không chảy liên tục về túi của người tuổi Dần, nhưng khi đã thắng lợi, con giáp này đếm tiền mỏi tay không hết. Sở dĩ như vậy là bởi họ dám mạo hiểm, thích phát kiến ra những điều mới mẻ. Số giàu sẽ không đến sớm với người tuổi Dần, mà họ sẽ phát về hậu vận. Đối tượng để con giáp này nên hợp tác là người tuổi Hợi.
Đời vua Hán cảnh Đế có người bán dầu tên Bùi Độ nghèo khổ lang thang, được thầy xem tướng số cho biết sẽ chết đói vì coi tướng, trên mặt có hai đường chỉ chạy xéo từ cằm lên mép miệng.
Ngày kia Bùi Độ gặp một thiếu nữ ngồi khóc bên giếng sâu. Hỏi ra sự tình mới biết thiếu nữ mang vàng đi để chuộc tội oan của cha, chẳng may bị đánh rơi xuống giếng. Ai cũng nói dưới giếng có con trăn to, thiếu nữ đang tuyệt vọng muốn quyên sinh. Bùi Độ thương tình, nghĩ mình trước sau cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm được vàng cho thiếu nữ. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế.
Một lần gặp lại, nhà tướng số kia kinh ngạc nói rằng tướng chết đói của Bùi Độ đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ!
Đúng vậy, sau này thiếu nữ tên Ngọc Hà đền ơn, đem Bùi Độ về dạy học và giao ước vợ chồng rồi mới thưa với phụ thân. Cha nàng gửi gắm Bùi Độ sang một người bạn khác để nhờ tiến cử. Thời gian xa cách Ngọc Hà, Bùi Độ đã lạc lòng với những hình bóng giai nhân khác.
Trên bước đường tiến quan, Bùi Độ ghé vào thăm nhà tướng số cũ để tạ ơn, nhưng ông bảo Bùi Độ đã hiện lại tướng chết đói. Bùi Độ tức giận bỏ đi.
Sau khi được làm quan, Bùi Độ đánh mất nhân cách, chỉ lục lạo, cưỡng bức các cô gái đẹp, bị triều đình hạ lệnh bắt về kinh trị tội. Bùi Độ sợ hãi trốn vào rừng rồi chết đói cạnh một mỏm đá!
Cuộc đời số mệnh của mỗi con người được ẩn hiện qua tướng số, tử vi, phong thủy. Tuy nhiên, những điều này hoàn toàn có thể thay đổi theo thời gian, phúc đức của mỗi con người. Chính vì thế đừng ỷ vào việc mình có một số mệnh tốt mà làm những điều thị phi, bởi bạn sẽ không lường trước được vận hạn xấu sẽ đến khi nào.
Sưu tầm bởi Bài Học Cuộc Sống
=> Theo dõi: Tử vi hàng ngày của 12 con giáp được cập nhật nhanh chóng, chính xác |
► Bói tử vi khoa học để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Bảng năm can suy tháng can
Tháng âm lịch |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 |
Can năm |
Dần | Mão | Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi | Thân | Dậu | Tuất | Hợi | Tý | Sửu |
Giáp Kỷ |
Bính Dần |
Đinh Mão |
Mậu Thìn |
Kỷ Tỵ |
Canh Ngọ |
Tân Mùi |
Nhâm Thân |
Quý Dậu |
Giáp Tuất |
Ất Hợi |
Bính Tý |
Đinh Sửu |
Ất Canh |
Mậu Dần |
Kỷ Mão |
Canh Thìn |
Tân Tỵ |
Nhâm Ngọ |
Quý Mùi |
Giáp Thân |
Ất Dậu |
Bính Tuất |
Đinh Hợi |
Mậu Tý |
Kỷ Sửu |
Bính Tân |
Canh Dần |
Tân Mão |
Nhâm Thìn |
Quý Tỵ |
Giáp Ngọ |
Ất Mùi |
Bính Thân |
Đinh Dậu |
Mậu Tuất |
Kỷ Hợi |
Canh Tý |
Tân Sửu |
Đinh Nhâm |
Nhâm Dần |
Quý Mão |
Giáp Thìn |
Ất Tỵ |
Bính ngọ |
Đinh Mùi |
Mậu Thân |
Kỷ Dậu |
Canh Tuất |
Tân Hợi |
Nhâm Tý |
Quý Sửu |
Mậu Quý |
Giáp Dần |
Ất Mão |
Bính Thìn |
Đinh Tỵ |
Mậu Ngọ |
Kỷ Mùi |
Canh Thân |
Tân Dậu |
Nhâm Tuất |
Quý Hợi |
Giáp Tý |
Ất Sửu |
Xem bảng trên có thể tính được can của tháng sinh (can của trụ tháng). Ví dụ bạn sinh năm Giáp Dần (can năm là Giáp), nếu biết tháng sinh (âm lịch) là tháng 1 thì sẽ tính được can của tháng là Bính (Bính Dần). Tương tự, nếu bạn biết mình sinh vào tháng 2 âm lịch của năm Bính Dần thì can tháng của bạn sẽ là Đinh Mão. Lưu ý, tháng 1 âm lịch bao giờ cũng bắt đầu tính từ chi Dần.
(Theo Tử Bình nhập môn)
Ảnh minh họa |
► Tham khảo thêm: Đặt tên cho con theo phong thủy để có vận mệnh tốt đẹp |
1. Đồng hồ hỏng
Đồng hồ cũ và hỏng, hoặc bị vỡ là báo hiệu của chết chóc, có thể mang Tử thần đến với bất cứ thành viên nào trong gia đình.
2. Cửa màu đen
Trừ trường hợp cửa chính nhà bạn quay mặt về hướng Bắc, ngoài ra tuyệt đối không sơn cửa màu đen. Theo phong thủy, cửa màu đen có thể mời gọi các thế lực hắc ám đi vào trong nhà mình một cách danh chính ngôn thuận, mang đến xui xẻo cho gia chủ.
3. Gương vỡ
Từ lâu trong quan niệm dân gian, gương vỡ luôn là điềm gở, cần phải tránh xa. Nếu lỡ tay làm vỡ gương, đừng tiện tay vứt ra đường, hãy gói vào một túi giấy bóng, mang đi cách xa nhà, chôn xuống dưới lòng đất, như vậy điềm gở mới được hóa giải triệt để.
4. Lịch cũ
Lịch từ những năm trước, không còn sử dụng nên vứt đi, tránh để trong nhà, làm vương âm khí. Lịch vốn là thứ nhắc nhở con người về dòng chảy thời gian, để lịch cũ ghi ngày tháng sai lệch so với hiện tại thì chỉ khiến cuộc sống của gia chủ và người thân bị ảnh hưởng tiêu cực, có khả năng làm giảm tuổi thọ của người sở hữu.
5. Đồ sứ vỡ
Đồ sứ vỡ cũng là một lời cảnh cáo đến gia chủ rằng thất bại và rắc rối có thể sẽ tìm đến bạn. Để đề phòng bất trắc xảy ra, thực hiện tương tự như với trường hợp gương vỡ.
6. Cây có nhiều gai
Theo các chuyên gia phong thủy, các loại cây nhiều gai nhọn như xương rồng tích tụ nhiều âm khí, có thể đem đến tai họa cho gia chủ nếu đặt trong nhà
7. Cây chết
Nếu trong nhà có cây chết thì nên vứt đi, ngay cả hoa khô, héo cũng tuyệt đối không đặt trong nhà.
8. Ghế bập bênh không dùng đến
Rất nhiều chuyên gia phong thủy phương Tây khuyên các hộ gia đình đừng nên giữ lại những chiếc ghế bập bênh cũ bởi chúng có thể thu hút tà ma, mang đến tang tóc và gây xích mích cho các thành viên trong nhà.
Alexandra V (theo HB)
Lưng hướng Đông Nam, hướng về phía Tây Bắc
Kiến trúc lưng hướng Đông Nam, hướng về phía Tây Bắc thuộc Tốn, ngũ hành thuộc Mộc, mùa đông gió Đông Bắc về sẽ tràn vào, không thuận lợi. Thiết kế cho phòng lớn độ rộng hẹp phải thích hợp.
Lưng phía Tây, mặt phía Đông
Kiến trúc lưng phía Tây, mặt phía Đông thuộc Đoài, ngũ hành thuộc Kim, hệ âm Kim. Nếu chủ cửa hàng là phụ nữ, thì phòng lớn quá sáng sủa, buôn bán thuận lợi. Nếu người phụ trách là nam giới thì sẽ hại dương khí trong phòng, ảnh hưởng đến sức khỏe, tài vận.
Lưng phía Đông Bắc, mặt hướng Tây Nam
Kiến trúc lưng phía Tây Bắc, mặt hướng Đông Nam thuộc Cấn, ngũ hành thuộc Thổ. Tính chất của Thổ có phần rộng rãi sinh sôi vạn vật. Vì thế khi bố trí căn phòng phải tạo cảm giác to lớn rộng rãi, trồng cây xung quanh. Ngược lại, nếu bố trí căn nhà chật chội, bí bách sẽ gây cho khách hàng cảm giác không muốn ở lại lâu, từ đó buôn bán dần dần yếu kém.
Lưng phía Bắc, mặt hướng Nam
Kiến trúc này thuộc Khảm, ngũ hành thuộc Thủy. Tính chất của Thủy có lọi cho độ trầm, sâu, nuôi dưỡnng vận khí và lưu gió tụ khí. Vì thế bố trí căn phòng nên tạo cảm giác thân trầm không lộ liễu. Ngược lại, nếu nước nông lộ đáy, mùa đông đến gió bắc tràn vào làm cho khí tụ tản mát, có nghĩa khách hàng không muốn ở lại.
Lưng phía Đông, mặt hướng Tây
Kiến trúc này thuộc Chấn, ngũ hành thuộc Mộc. Tính chất của Mộc là sâu sắc, vững chãi, đàng hoàng. Vì thế khi bố trí căn phòng lớn phải lấy vững chãi, đoàng hoàng làm nền, tạo cảm giác cao lớn, có chiều sâu. Ngược lại, nếu rộng mà nông, có nghĩa dương khí không đủ, âm khí thịnh sẽ không có lợi cho kinh doanh.
Lưng phía Tây Nam, mặt hướng Đông Bắc
Kiến trúc này thuộc Khôn, ngũ hành thuộc Thổ. Nó giống như căn phòng lưng Đông Bắc mặt hướng Tây Nam. Cấu trúc của căn phòng phải rộng, trồng cây tạo cảm giác to lớn. Ngược lại, nếu quá chột chội sẽ có hiện tượng kinh doanh giảm, sự nghiệp tiêu tan.
Lưng Tây Bắc, mặt hướng Đông Nam
Kiến trúc này thuộc Càn, ngũ hành thuộc Kim. Tính chất của Kim có lợi cho sáng sủa, kỵ nơi tăm tối không đủ ánh sáng. Vì thế khi thiết kế phòng lớn phải sử dụng nhiều đèn chiếu sáng khắp nơi rực rỡ, tạo cảm giác sang trọng, hào hoa.
Lưng phía Nam, mặt hướng Bắc
Kiến trúc này thuộc Li, ngũ hành thuộc Hòa. Thiết kế phòng lớn phải áp dụng hệ thống màu sắc trầm, tạo cảm giáo mạnh mẽ mà trang nghiêm. Nếu màu sắc nhạt, lửa không phát huy, chủ nhà dễ phạm quan tư hoặc gặp hỏa hoạn.
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, con trâu là biểu tượng cho sự thịnh vượng và sức mạnh của cộng đồng. Vì vậy, trâu thường được đồng bào dân tộc sử dụng làm vật tế thần linh hay dùng để trao đổi với các món đồ quý khác như cồng chiêng, chum ché, trống và thậm chí cả voi…
Đầu trâu được chọn để tế thần |
Cũng có nhiều gia đình giàu có cũng tổ chức lễ hội đâm trâu để phô trương thế lực, nâng cao uy thế trong cộng đồng. Nhưng cho dù ở quy mô gia đình, dòng họ hay làng xã, lễ hội đâm trâu vẫn luôn là một hoạt động văn hóa đặc sắc, nêu cao tinh thần cộng đồng của người dân tộc thiểu số ở vùng đất đầy nắng và gió này.
Lễ hội đâm trâu thường được tổ chức ở bãi đất trống trong làng, vào mùa lễ hội (hay còn gọi là tháng ning nơng - tháng nghỉ ngơi), diễn ra hàng năm sau khi mùa màng đã được thu hoạch xong.
Đến ngày đầu tiên của lễ hội, tiếng cồng chiêng, thường là chiêng arap, nổi lên để mời gọi và đón tiếp thần linh cũng như những người tham dự. Trong suốt thời gian này, cồng chiêng liên tục nổi lên để khuấy động không khí tưng bừng, náo nhiệt.
Từ sáng sớm ngày hôm sau buổi lễ, tất cả những người tham dự đều đã có mặt và tụ tập xung quanh cây nêu. Già làng đọc vài câu thần chú rồi cho dẫn ra một con trâu đực và cột chặt vào cây nêu với một sợi dây thật chắc được làm bằng vỏ cây rừng. Tiếng cồng chiêng lúc này ngừng lại để nhường cho lời phát biểu của vị già làng, chủ tế buổi lễ. Sau đó, cồng chiêng lại tiếp tục nổi lên với một nhịp độ nhanh hơn và thúc giục hơn để các chàng trai cô gái cùng vào nhảy múa theo điệu nhạc.
Trong suốt ngày và đêm thứ 2, mọi người sẽ nhảy múa theo tiếng chiêng. Ngoài ra còn có các cuộc thi tài như đấu vật, đánh roi… để tranh giành bùa do già làng (pô khua) tặng. Đặc biệt nhất là màn nhảy múa tái hiện cảnh đánh nhau và chiến thắng của các chiến binh. Tất cả mọi hoạt động đều được diễn ra xung quanh cây nêu và con trâu - vật tế lễ đã được buộc chặt.
Buổi chiều ngày thứ 3, một thanh niên lực lưỡng được tuyển chọn, tay cầm giáo nhọn tiến gần lại bên con vật trong khi vẫn nhảy múa theo điệu nhạc. Giây phút linh thiêng đến, chàng thanh niên sẽ giết chết con vật bằng cách đâm mũi giáo vào cạnh sườn, xuyên qua tim nó.
Sau khi bị giết chết, con trâu được xẻ thịt để thết đãi những người tham dự. Đầu trâu được chặt ra và đặt trang trọng trên cây nêu để dâng cho thần linh. Nếu thịt trâu không đủ, người ta còn giết thêm heo, gà để mọi người cùng được thưởng thức.
Buổi lễ còn được tiếp tục cho đến sáng ngày hôm sau với tiếng cồng chiêng rộn rã và rượu cần thơm nức.
Lễ hội đâm trâu là một nét văn hóa đặc sắc của người dân Tây Nguyên, thể hiện tình đoàn kết của mọi thành viên trong cộng đồng.
(Theo Simplevietnam)
Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận.
Có câu phú rằng:
Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công
Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực
Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn.
Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người).
Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ tử đi thi thường làm cỗ cúng Thiên Khôi tinh. Thi đỗ rồi con đường trước mắt là xuất sĩ.
Phần Thiên Việt nếu đi cặp được với Thiên Khôi thì mới vào chánh đạo. Thiên Việt đứng một mình thường chỉ gặp những cơ hội nhỏ thôi.
Thiên Khôi thuộc dương hỏa tốt hơn cho người sinh ban ngày vì Thiên Khôi là nhật quí. Thiên Khôi tạo khuôn mặt sáng sủa cho con người.
Thiên Việt thuộc âm hỏa tốt hơn với người sinh ban đêm có phong thái đĩnh đạc. Thiên Việt mang thêm tính chất đào hoa, gặp Thiên Riêu Đào Hoa càng đa tình. Nhưng Thiên Việt gặp Hồng Loan cổ nhân gọi bằng “hồ đồ đào hoa” hay yêu sảng, nhất là phái nữ.
Khôi Việt một đóng ở Mệnh, một đóng ở Thê mà Thân cư Thê gia hội các cát tinh khác thì đỗ đạt sớm, lấy vợ đẹp xinh. Nếu không hội hợp cát tinh tất khoa danh lận đận, nhưng chuyện vợ đẹp xinh vẫn không thay đổi.
Sách có câu: “Tuy phú quí nhi bất miễn dâm dật” để nói về Khôi Việt đối với nữ mạng. Trên thực tế kinh nghiệm chỉ có gặp ác sát Không Kiếp thì mới dâm dật chứ không phải cứ Khôi Việt là dâm dật.
Khôi Việt một ở Sửu, một ở Mùi, Mệnh với Thiên Di cách gọi bằng tọa quí hướng quí. Tốt hay xấu còn phải tùy thuộc vào chính tinh tại Mệnh cung. Nếu có các sao tốt thì bất luận trai hay gái đều giàu sang. Nhưng cách tọa hướng quí kể như là một cách đào hoa vậy.
Khôi Việt còn có lưu Khôi lưu Việt theo vận hạn mỗi năm. Tỉ dụ người tuổi Giáp, Thiên Khôi đóng Sửu, Thiên Việt đóng Mùi gặp lưu niên vận hạn Giáp Mậu Canh tất nhiên được thêm lưu Khôi lưu Việt, hỉ khánh tăng lên tùy theo cung nào có chúng. Như ở Thê cung mà gặp năm lưu Khôi lưu Việt thì chuyện lấy vợ càng rõ ràng, nếu cung Tử Tức thì chuyện có con càng chắc chắn được Khôi Việt hiệp, cũng cần có lưu Khôi lưu Việt thì lực lượng mới phát huy.
Tỉ dụ người tuổi Đinh Thiên Khôi đóng Hợi, Thiên Việt đóng Dậu Thìn Tuất là cung Khôi Việt hiệp, vận năm Bính Khôi lưu tới Hợi, Việt lưu đến Dậu gọi bằng lưỡng trùng Khôi Việt thì cơ hội tốt đẹp đến nhiều hơn.
Khôi Việt cần đi đôi, đi đôi rồi lại cần trùng điệp mới hay. Khôi Việt hiệp Mệnh rất hợp với hai sao Tử Vi Thiên Tướng. Người Mệnh Tử Vi Thiên Tướng vốn đã mang sẵn lắm khuyết điểm. Nhưng nếu có Khôi Việt hiệp sẽ hóa giải những khuyết điểm ấy. Khôi Việt đứng đối nhau rất hợp với Thái Âm Thái Dương.
Nhật Nguyệt tọa Mệnh cung có nhiều khuyết điểm, cuộc đời khó thuận buồm xuôi gió, gặp Khôi Việt đối nhau tất thi cử dễ dàng hơn, đồng thời gặp quí nhân đề bạt đẩy chức phận lên cao.
Khôi Việt đóng Thân, Tí rất hợp với sao Vũ Khúc, Vũ Khúc đi cùng Hóa Lộc càng tốt nữa, ắt thành công trên mặt kinh doanh. Khôi Việt ở Dần Ngọ rất hợp với Cự Môn ở Tuất, sách gọi bằng “phản bối” cách, cách này thường gặp những kỳ ngộ về may mắn.
Khôi Việt không bao giờ đóng ở Thìn và Tuất, cổ nhân viện lẽ rằng quí nhân không đi vào đất la võng. Tính chất tế nhị của Khôi Việt không chịu đựng nổi sức ép của lưới trời lưới đất.
Một điều cần chú ý Khôi Việt ở Sửu Mùi. Hai cung chỉ kể làm vượng địa chứ không phải miếu địa cho quí nhân. Sách Đẩu Số Toàn Thư viết nếu ngoài bốn chục tuổi mà gặp hạn Khôi Việt Sửu Mùi thì gọi bằng “quí nhân nhập mộ” chẳng những không là cơ hội tốt mà biến ra những cái họa mai phục, ẩn dấu.
Câu: “Khôi Việt trùng phùng kiêm sát tấu, cố tật vưu đa” (gặp trùng điệp Khôi Việt ở đây thêm sát tinh nữa ắt sẽ bị bệnh thành tật không khỏi). Như vậy ngoài bốn chục tuổi lưu niên và đại hạn đi vào Sửu Mùi có Khôi Việt rồi lại lưu Khôi Việt thêm Hỏa Linh Dương Đà thì bệnh tật triền miên.
Đời xưa tuổi thọ trung bình so với đời nay ngắn hơn, bởi vậy cổ nhân mới lấy bốn chục tuổi làm chuẩn. Thời đại nay tuổi thọ trung bình cao hơn nên tính từ ngoài năm mươi mới đúng.
Ngoài bốn chục gặp Khôi Việt trùng phùng đi cặp với những sao Đào Hoa thì Khôi Việt hoá thân thành đào hoa, nam hay nữ đều gặp những cuộc tình ngoại hôn, hoặc bấy giờ mới lấy chồng, lấy vợ. Khôi Việt chủ về đào hoa, nhưng chỉ vào cung Phúc Đức hay Phu Thê mới kể, còn vào Mệnh cung không phải.
Tỉ dụ Phúc Đức ở Tí, Phu Thê ở Thân, người tuổi Ất tuổi Kỷ Khôi Việt đóng Tí Thân, nếu hai cung này xuất hiện Thiên Riêu, Mộc Dục, Đào Hoa, đương nhiên Khôi Việt chuyển thành đào hoa tinh.. Sau đó mới phối hợp chính diệu của các cung Phối với Phúc để mà đoán định. Giả như cung Phúc có Thiên Đồng, Thái Âm thì đoán rằng do ý chí mềm yếu mà gặp đau khổ duyên tình. Nếu có Vũ Khúc Thiên Phủ thì đoán rằng có quan hệ với một người đã có gia đình.
Trường hợp chính tinh vững vàng lại có Lộc thì thành cách lấy vợ giàu. Tỉ dụ Phúc Đức là Tử Vi, Phố cung là Vũ Khúc Hóa Lộc, rồi Mệnh cung lại gặp Lộc Tồn. Trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu, Khôi Việt đơn thủ mà gặp hung sát tinh ắt bị thương hoặc có tật.
Khôi Việt gặp Hoả Linh lắm tai ương, Khôi Việt gặp Không Kiếp trở nên vô dụng.
Những câu phú cần biết thêm về hai sao Thiên Khôi, Thiên Việt:
- Khôi Việt Mệnh Thân vi trưởng tử
(Mệnh Thiên Khôi, Thân Thiên Việt thường là con trưởng hoặc nắm quyền trưởng)
- Khôi Việt nhập Thân ư gia quốc tất vi nhân trưởng
(Khôi Việt đóng Thân thường ở địa vị đàn anh)
- Khôi Việt Mệnh Thân đa triết quế
(Có Khôi Việt ở Mệnh Thân thì đỗ đạt cao)
- Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương
(Khôi Việt vào Mệnh học hành uyên bác)
- Khôi Việt Xương Khúc Lộc Tồn phù hình, sát vô xung đa phú quí
(Mệnh phù trợ bởi Khôi Việt Xương Khúc Lộc Tồn, mà không bị sát tinh xung phá ắt giàu sang)
- Khôi Việt đa văn ngộ Đà Kị thiên di dật sĩ
(Khôi Việt gặp Kình Đà từ cung Thiên Di, tài giỏi nhưng ẩn dật)
- Khôi Xương Tả Hữu tương hội hợp, phụ long phan phượng thượng cửu trùng
(Thiên Khôi, Văn Xương, Tả Phụ, Hữu Bật hội tụ vào Mệnh, được người đề bạt mà hiển vinh)
- Tả Hữu Khôi Việt vi phúc thọ
(Mệnh có Tả Hữu, Khôi Việt vừa có phúc vừa thọ
- Khôi Việt đan thủ tử hữu quí
(Cung tử tức Khôi Việt đơn thủ sinh con tài giỏi)
- Thiên Khôi Thiên Việt, phu phụ mỹ lệ
(Phối cung có Khôi Việt lấy vợ đẹp hoặc chồng bảnh)
- Khôi Việt đan thủ Tài Bạch thanh cao, nhất sinh toại ý
(Cung Tài Bạch có Khôi Việt thì thanh cao sang trọng mà không giàu có)
- Sao Quan Phúc cùng Khôi tinh
Đóng vào Thân Mệnh đề danh bảng rồng
(Quan Phúc đây là Thiên Quan Thiên Phúc)
- Việt Khôi Quyền Lộc trong ngoài
Trưởng nam trưởng nữ gái trai đồng bàn
- Việt Khôi Long Phượng Khúc Xương
Ngộ Khoa ắt hẳn bẻ cành quế hoa
- Việt Khôi, Lương Tướng quí trung
Ắt là con giống cháu dòng chẳng sai
- Khôi ngộ Kị trên đầu có tật
Vượng ngộ Khôi thật lắm nốt ruồi
- Cung tử tức trong ngoài Khôi Việt
Hẳn sinh người hào kiệt khoa danh
- Lưỡng Quí phùng Tử Vi Đoài Chấn
Ắt sinh con cầu tự chẳng sai
(Khôi Việt gặp Tử Vi ở Mão với Dậu thì có con cầu tự)
- Việt Khôi là cách văn chương
Khôi là khôi ngộ, Việt thường da đen
- Khôi Việt miếu vượng trưởng huynh
Gia đình xã hội hẳn dành ngôi trên
- Việt Linh Hình hội Cơ Lương
Hoặc là Nhật Nguyệt ắt chờ lôi kinh
(Lôi kinh là bị sét đánh hay điện giật)
- Ân Quí Khôi Việt Đào HồNg
Trai cận cửu trùng gái tất cung phi
- Việt Khôi Quyền Lộc khá bàn
Trong nhà bậc trưởng ra đàng bậc trên
- Việt Khôi Quyền Tướng đáng yêu
Lại gia Tử Phủ mọi chiều vinh quang
(Những sao nói trên hội vào Phu Thê cung)
- Cự Kị nên tránh đò sông
Phục Binh Hình Việt mắc vòng gươm đao
Hỏa Linh Hình Việt khác nào
Không bị sét đánh búa dao có ngày
- Việt Khôi là cách ung dung
Việt thường nhờ bạn, Khôi thường gặp sang.
(Câu trên nói về Khôi Việt đóng cung Thiên Di)
- Khôi Khoa Xương Khúc Tấu Thư
Phát đà văn học có dư anh tài
(Khôi Việt Xương Khúc Tấu Thư ở cung Phúc Đức)
- Cung giải mà ngộ Khôi Hình
Số người phải mắc pháp hình đau thương.
Nguồn Tử Vi
Sự hưng vượng và suy bại của vạn vật, vạn việc trong thế gian đều là do sự sinh khắc chế hóa của âm dương ngũ hành gây ra. Con người cũng không ngoài quy luật đó, tức cũng dó kim mộc thuỷ hoả thổ. Cho nên con người cũng phải theo quy luật sinh khắc chế hoả của âm dương ngũ hành.
Ví dụ : Tứ trụ của nữ, thương quan nhiều thì nên phối với nam Tứ trụ tỉ kiếp nhiều để đề phòng nữ khắc nam. Cho nên đời xưa khhi đính hôn thường phải hợp Tứ trụ là có căn cứ khoa học. Thứ ba là : theo 12 con vật cầm tinh tương hợp với nhau để tiến hành phối hôn. Nếu những con vật cầm tinh đó xung hại bất hoà với nhau thì không thể phối hôn. Ví dụ trong sách : " Vạn bảo ngọc hạp kí kim thư" có ghi lại câu ca không lợi cho kết hôn như sau : " xưa nay bạch mã hổ như bị dao cắt đứt, lợn gặp khỉ thì không lâu dài. Rồng gặp thỏ thì nửa chừng đứt gánh, gà gặp chó thì nước mắt chảy quanh".
Trong vấn đề hôn nhân, qua thời gian dài quan sát và nghiên cứu tôi phát hiện thấy tuy chết do hôn nhân hoặc ly hôn có rất nhiều nguyên nhân, nhưng không hoàn toàn là do mệnh năm tương khắc tương hình nhau, hoặc các cầm tinh con vật tương hại nhau mà mệnh năm tương sinh , cầm tinh tương hợp cũng vẫn có sự khắc vợ khắc chồng. Nam nữ phạm khắc chiếm tỷ lệ lớn nhất là do hung thần ác sát trong Tứ trụ và can chi trụ năm của vợ chồng phạm thiên khắc, địa xung là chính.
Qua thực tiễn tôi cũng phát hiện những cặp vợchồng tương thân tương ái với nhau từ đầu đến cuối hoặc giữa họ có sự tranh cãi lẫn nhau nhưng vẫn chung sống với nhau đến già ( đời xưa cho rằng sau 60 tuổi mà hôn nhân tan vỡ thì không phải là khắc hại nữa), trong đó chủ yếu nhất và cũng là điều quan trọng nhất chính là trụ năm của vợ chồng tương sinh, tương hợp. Thiên hợp địa hợp thì không còn sợ mệnh năm tương khắc hoặc cầm tinh tương hình, hoặc trong Tứ trụ có hung sát.
Vì sao trụ năm của hai vợ chồng tương sinh tương hợp thì không sợ khắc hoặc xung khắc đối kháng. Ðó là vì trụ năm là cơ bản, là rễ của hai cây đã tương sinh tương hợp thì tất nhiên gốc rế của cây ổn định vững chắc, không dễ chia ly, không sợ khắc hại. Ngược lại, nếu trụ năm của vợ chồng phạm thiên khắc địa xung thì cho dù mệnh năm tương sinh, trong Tứ trụ sát tinh tuy ít nhưng vì rễ cây đã bị tổn thất, tất nhiên là rễ khô, cây chết, dẫn đến bi kịch hôn nhân.
Ðể nói rõ trụ năm tương sinh, thiên hợp địa hợp thì không sợ khắc hại, dưới đây xin đơn cử mấy ví dụ làm chứng.
Khôn tạo : Giáp dần.
Càn tạo quý thuỷ thương quan ở đất trường sinh, thực thần xuất hiện hai lần ( thực nhiều là thương), can chi trụ ngày giống nhau là khắc vợ rất nặng. Nhưng vì trụ năm vợ chồng tương sinh cho nên vợ chồng trường thọ mãi đến nay vẫn còn mạnh khỏe.
Ví dụ 2. Càn tạo
Khôn tạo : ất dậu
Càn tạo thê tinh ở mộ địa mà bị khắc, ngày giờ tương xung nhau đó là tượng khắc vợ, phải lấy vợ lần thứ 2. nhưng vì trụ năm của vợ chồng thiên địa tương sinh tương hợp nên vợ chồng vẫn ái ân đằm thắm.
Ví dụ 3. Càn tạo
Tháng 10 năm 1991 khi tôi ở Chu Hải - Quảng Ðông có ông Lý là cán bộ nghiên cứu khoa học kỹ thuật đã có những công trình đáng kể đến nhờ tôi đoán. Tôi thấy trong Tứ trụ thương quan nhiều, nhật nguyên là giáp tuất khắc vợ rất nặng, đó là dấu hiệu của người khắc vợ, lấy vợ lần thứ hai. Năm ông 40 tuổi gặp đại vận là thìn, năm 1988 lưu niên cũng là thìn cùng với các thìn trong Tứ trụ tạo thành 3 thìn xung 1 tuất, xung đúng vào ngôi vợ. Do đó năm 1988 sẽ có tai hoạ nếu không ly hôn thì chết. Nhưng vì vợ sinh năm ất dậu, trụ năm của hai người là thiên can hợp nhau, địa chi cũng hợp nhau, gốc rễ bền vững không thể phá nổi, cho nên hai vợ chồng qua những biến động của xã hội vẫn ý đầu tâm hợp, cuộc sống mỹ mãn.
Trên kia đã nói đến trụ năm của năm sinh hai vợ chồng phạm thiên khắc địa xung tức là gốc bị thương tổn thì cho dù mệnh năm của vợ chồng tương sinh, nếu trong Tứ trụ không có cát tinh cứu trợ, cũng không tìm được cách hóa giải thì khi mệnh nam qua tuổi 54, người nhẹ thì ly hôn hoặc vì bị bệnh mà tàn phế, người nặng thì sẽ chết.
Khi mệnh nam nữ ở tuổi chẵn 54 đều là cửa ải của sự sinh tử. Ðiều đó chủ yếu là trụ năm của năm sinh ở thời điểm 54 tuổi cùng với lưu niên phạm thiên khắc địa xung, làm hại thái tuế của năm đó. Ðặc biệt là mệnh nam nếu trụ năm phạm thiên khắc địa xung với vợ thì năm 54 tuổi rất khó vượt qua. Năm 54 tuổi lại cũng đúng là năm bản mệnh của vợ cho nên về phía nữ phần nhiều là năm dễ bị chồng chết.
Có những cặp vợchồng trụ năm phạm thiên khắc địa xung, chồng lúc 54 tuổi tuy không chết nhưng vì bệnh tật hoặc tai nạn mà tàn phế, nhưng đến năm 60 tuổi vừa đúng phạm thiên khắc địa xung với lưu niên khắc hại thái tuế. Do đó chồng mất.
Dưới đây đơn cử mấy Ví dụ để chứng minh.
Ví dụ 1. Càn tạo : sinh năm Canh ngọ, 54 tuổi gặp năm giáp tí bị bệnh.
Khôn tạo : sinh năm bính tí 54 tuổi là năm mệnh, mất chồng.
Ví dụ 2. Càn tạo : sinh năm tân mùi, 54 tuổi gặp năm ất sửu bị bệnh.
Khôn tạo : sinh năm Ðinh sửu, năm 48 tuổi, gặp năm mênh, mất chồng.
Ví du 3 . Càn tạo : sinh năm Mậu dần, năm 54 tuổi gặp năm nhân thân, bị bệnh.
Khôn tạo : sinh năm giáp thân, năm 48 tuổi gặp năm mệnh mất chồng.
Ví du 4: Càn tạo : sinh năm Mậu dần, năm 54 tuổi gặp năm nhân thân bị bệnh tàn phế.
Khôn tạo : sinh năm giáp thân, năm 48 tuổi gặp năm mệnh chồng tàn phế.
Ví du 5: Càn tạo : sinh năm Ðinh sửu, năm 54 tuổi gặp năm tân mùi, bị bệnh tàn phế.
Khôn tạo: sinh năm quý mùi, năm 48 tuổi gặp năm mệnh chồng bị tàn phế.
Ví du 6 . Càn tạo : sinh năm Bính tý, năm 54 tuổi gặp năm canh ngọ, đầu năm ly hôn.
Khôn tạo : sinh năm Nhâm ngọ, năm 48 tuổi gặp năm mệnh, ly hôn.
Ví dụ cuối cùng này vì năm 1987 đã dự đoán mệnh nam năm Canh ngọ 1990 nếu không ly hôn thì sẽ chết, không chết thì vì bị bệnh mà tàn phế. Do đoán trước nên đã tìm cách hóa giải nến cả hai vợ chồng đều bình yên, vượt qua năm canh ngọ, từ hung trở thành cát, về sau danh lợi đều đạt được cho đến nay vẫn mạnh khỏe. Ví dụ này chứng tỏ một khi đã đoán được tai hoạ nếu tìm cách hoá giải có thể vượt qua.
Ðối với những cặp vợ chồng trụ năm không phạm thiên khắc địa xung thì khi nam nữ đến tuổi 54, nếu Tứ trụ của mình tổ hợp tốt, bản thân mình không bị bệnh hoặc không bị tai hoạthì người thân trong nhà tất nhiên sẽ gặp cản trở khó khăn hoặc gặp những việc không thuận. Nếu tổ hợp Tứ trụ của mình không tốt thì nhất định mình sẽ bị bệnh hoặc gặp trắc trở nào đó.
Ví du 1. Một ông họ Tôn người ở Nam Kinh, năm quý hợi 1983 đúng năm 54 tuổi vì bệnh phải trải qua đại phẩu thuật, về sau mất năm kỉ tị.
Ví du 2. Giáo sư Hạ ở Quảng Châu sinh năm Giáp tuất 1934 năm mậu thìn bình an vô sự nhưng con đột nhiên bị điên.
Ví du 3. Công trình sư Trương ở Trùng Khánh sinh năm quý mão 1903, năm Ðinh dậu 1957 bị ghép vào tội phần tử phái hữu.
Ví du 4. Bà Ngũ ở Thượng Hải sinh năm ất sửu (1925), năm Kỷ mùi 1979 con phạm pháp bị giam.
Do đó có thể thấy trụ năm của vợ chồng phạm thiên khắc địa xung, khi đến tuổi 54 nếu giữa hai vợ chồng không bị chết hoặc ly dị thì sẽ gặp những điều xấu khác. Do đó khi trụ năm sinh phạm thiên khắc địa xung với lưu niên thì nhất đinh sẽ gặp tai hoạ nào đó, hoặc việc trắc trở.
Căn cứ kinh nghiệm trụ năm hai vợ chồng tương sinh, thiên địa tương hợp tôi đã tổng kết ra bảng năm hôn nhân của nam nữ, xin để cung cấp để tham khảo.
BẢNG NĂM HÔN PHỐI CỦA NAM NỮ
Bảng năm phối hôn của nam nữ đồng thời bảo đảm trụ năm tương sinh tương hợp còn cố gắng tránh điều kiêng kị của 12 cầm tinh tương hại lẫn nhau và chi năm tương hình lẫn nhau. Có những trường hợp tuy chỉ năm tương hình lẫn nhau như thìn dậu thuộc về tương hình nhưng với hai người mà nói là trong hợp có sinh nên lấy hợp làm chính.
Trong bảng này tuổi của nam nữ cách nhau ít nhất là1 tuổi, cách xa nhất là 15 tuổi, đặc biệt là nam sinh năm hợi chỉ có tương sinh tương hợp với nữ Tứ trụ năm nhỏ hơn 15 tuổi. Gặp trường hợp như thế nếu không tìm được vẫn có thể làm theo cách cổ xưa là mệnh năm nam nữ tương sinh để phối hôn.
Bảng năm phối hôn nam nữ là năm sinh phối hôn nam nữ tốt nhất, lý tưởng nhất, là lấy theo đề phòng khắc chồng khắc vợ làm mục tiêu chính. Bên cạnh đó những phương pháp phối hôn theo cách cổ đại vẫn có thể dùng được. Nói như thế nghĩa là chọn cách phối hôn theo bảng này cũng được hoặc theo cách cổ cũng được, bạn có thể tuỳ ý chọn.
Bảng này là lấy 60 năm làm 1 vòng để phối hôn. Khi sử dụng có thể tra bảng nạp âm 60 hoa giáp ở tiết 1 chương 5 sách này. Ðể tiện cho độc giả ở đây chỉ trích can chi từ năm 1941 đến năm 2000. Thời gian ngoài khoảng đó bạn đọc có thể tra cứu để suy ra.
=> Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất |
Xăm mình đang là mốt của giới trẻ sành điệu ở Việt Nam. Đối tượng của loại hình nghệ thuật này đa số thuộc lứa tuổi dưới 30, trong đó phần đông là thế hệ gần cuối 8X, đầu 9X.
Những hình xăm ở bắp tay thường thể hiện sự nam tính cho các bạn trai . Một số mẫu hình xăm bắp tay đẳng cấp đẹp nhất 2014:
Hình xăm rồng cuộn trên bắp tay cực đẹp
Hình xăm thiên thần trên bắp tay
Ảnh minh họa |
► Xem phong thủy theo ngũ hành để đón lành tránh dữ |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Thước lỗ ban do ông tổ của nghề mộc và nghề xây dựng. Lỗ Ban là thợ mộc giỏi của nước Lỗ (nay là tỉnh Sơn Đông) thời Xuân Thu (770-476 TCN). Tên ông là Ban (hoặc), họ là Công Thâu. Lỗ Ban nghĩa là “ông Ban người nước Lỗ”.
Thước lỗ ban dùng trong phong thủy bao gồm:
1. XÍCH BẠCH
Trong Xích bạch có hai phép là Thiên phụ quái và Địa mẫu quái.
- Thiên phụ quái là phép Đại du niên bát biến Tìm tuổi có hợp không, dùng để đo kích thước chiều cao và chiều sâu (theo phương thẳng đứng thì dùng phép này).
- Địa mẫu quái (Tiểu du niên): dùng đo kích thước chiều ngang, dài rộng (phương nằm ngang) của bàn thờ, mồ mả.
a) Phép đo Xích bạch:
Lấy toạ sơn của nhà làm gốc rồi theo đơn vị huyết thống để tính.
Cách lấy toạ sơn (khẩu quyết của Xích bạch):
Toạ sơn: Thiên phụ quái (chiều cao, sâu); Địa mẫu quái(ch. ngang)
Đoài (Đinh, Tị, Dậu, Sửu); Tham lang (cát); Vũ khúc (cát)
Chấn (Canh, Hợi, Mão, Mùi); Cự môn (cát); Liêm trinh (hung)
Khôn (Ất); Lộc tồn (hung); Phụ bật (O/×)
Khảm (Quý, Thân, Tý, Thìn);Văn khúc (hung); Phá quân (hung)
Tốn (Tân); Liêm trinh (hung); Cự môn (cát)
Cấn (Bính); Vũ khúc (cát); Tham lang (cát)
(Nhâm, Dần, Ngọ, Tuất); Phá quân (hung); Văn khúc (hung)
Càn (Giáp); Phụ bật (O/×); Lộc tồn (hung)
b) Thứ tự của Bát tinh (sao)
Dương trạch: Tham – Cự – Lộc – Văn – Liêm – Vũ – Phá – Phụ.
Âm trạch: Phụ – Vũ – Phá – Liêm – Tham – Cự – Lộc – Văn.
c) Xác định đơn vị theo thước huyết thống:
Thước huyết thống lấy theo gang nách (tạo bởi khoảng cách giữa ngón cái và ngón trỏ)
Đo tay trái (gang nách), đo tay phải (gang nách) xem mỗi bên được bao nhiêu cm, cộng lại, lấy tổng này làm một xích.
2. THỐN BẠCH
Toạ sơn; Thiên phụ quái; Địa mẫu quái
Càn (Giáp); Tứ lục; Nhất bạch (O);
Đoài (Đinh, Tị, Dậu, Sửu); Ngũ hoàng; Tứ lục;
Ly (Nhâm, Dần, Ngọ, Tuất); Bát bạch (O); Nhị hắc;
Chấn (Canh, Hợi, Mão, Mùi); Thất xích ; Tam bích;
Tốn (Tân); Cửu tử (O); Thất xích;
Khảm (Quý, Thân, Tý, Thìn); Nhị hắc ; Ngũ hoàng;
Cấn (Bính); Lục bạch (O); Bát bạch (O);
Khôn (Ất); Tam bích Lục ; bạch (O);
1- Đối với dương trạch khi xác định các kích thước của cửa chính, trần nhà, kích thước bàn thờ, bệ bếp, vv… Chúng ta đều dựa vào Tọa sơn của căn nhà làm gốc. Vậy chú cho cháu hỏi khi theo lý thuyết của chú là đổi chỗ Tốn - Khôn , thì khi tọa sơn của nhà đang ở sơn Khôn thì phải chuyển sang sơn Tốn để tính. Vậy khi đó cách lấy xích bạch và thốn bạch theo bảng trên có thay đổi không hả chú, nếu thay đổi thì thay đổi ở chỗ nào ạ.
2- Hiện này thì có 4 loại thước Lỗ Ban như sau:
- Loại 1 (loại 39): 1 thước = 390mm (dùng cho âm phần)
- Loại 2 (loại 42): 1 thước = 429mm (dùng dương trạch)
- Loại 3 (loại 48): 1 thước = 480mm
- Loại 4 (loại 52): 1 thước = 520mm
Loại 39 và 42 hiện đang được dùng phổ biến ở miền Bắc Việt nam dưới dạng thước chế sẵn do Đài Loan sản xuất.
Loại 52 ở miền Nam hay dùng.
Nhưng mà thước huyết thống lấy theo gang nách (tạo bởi khoảng cách giữa ngón cái và ngón trỏ). Đo tay trái (gang nách), đo tay phải (gang nách) xem mỗi bên được bao nhiêu cm, cộng lại, lấy tổng này làm một xích.
Ví dụ: Gang tay trái đo được 17cm, gang tay phải đo được 18cm, cộn lại là 35cm lấy làm một thước (xích).
Như vậy, thước chế sẵn và thước tính theo gang nách có sự khác biệt. Chú cho cháu hỏi khi ứng dụng cụ thể thì dùng thước chế săn hay là tính theo gang nách. Nếu dùng thước theo gang nách thì khi xây nhà chẳng hạn nhà có nhiều người (ông nội, bố và các anh em ) gang nách của các người này sẽ không giống nhau vậy khi ứng dụng thì dùng gang nách của người nào ạ.
3- Thông thường để tính thước Lỗ ban đặt vào các cung sao tốt phải dựa vào tọa sơn của ngôi nhà vậy trong trường hợp nhà bếp nằm riêng biệt một khu khác thì các kích thước như là cửa bếp, độ cao, chiều rộng của bệ đặt bếp, vv… khi đó tính cung theo tọa sơn của nhà bếp hay vẫn tính theo tọa sơn của ngôi nhà. Còn trong trường hợp tọa sơn của bếp, tọa sơn của bàn thờ gia tiên không cùng nằm với tọa sơn của nhà thi khí đó các kính thước tính theo thước lỗ ban của bếp và ban thờ dựa vào sơn của nhà hay sơn tọa của bếp hoặc
Thước Lỗ Ban 53cm, 51cm
Lịch Sách Xuân Ât Mẹo 1975, Chiêm Tinh Gia Huỳnh Liên có viết về cây Thước Lỗ Ban và dạy cách sử dụng. Theo Thầy thì cây Thước có độ dài nhứt định là 5 tấc 3 chia cho 8 cung lớn. Mỗi cung lớn 6,5 cm lại chia thành 5 cung nhỏ, mỗi cung nhỏ dài đúng 1 phân. Thầy dặn dò kỷ là nếu quý bạn đọc đã có nhà cữa xây cất xong lấy thước đo thấy xấu thì sửa lại. Bằng như chưa cất nhà muốn đo cửa tốt thì lựa cung tốt mà làm khuôn cửa đúng ni tấc thì được mỷ mãn hơn. Khi đo bắt đầu đặt cây thước vào mí của mép cửa bên trái rồi đo lần sang mép cửa bên mặt. Luôn luôn phải đặt cung số 1 tức cung Quý Nhơn nằm phía tay trái, rồi đo lần qua tới chổ nào thì coi lời giải mà biết tốt hay xấu, đó là cách đo cửa nhà đã xây rồi. Nếu chưa xây cửa, thì quý bạn đo tới chổ cung nào tốt và hạp nhất thì dừng lại và ấn định cửa tới nơi đó sẽ xây. Quý bạn đọc nào lở xây cửa xấu, không đúng với thước Lỗ Ban nên tìm tới Thầy để Thầy chỉ dẩn cho cách cúng quảy sửa chữa lại để gia đình làm ăn phát đạt.
Mấy năm trước đó có nhiều gia đình thỉnh Thầy đến đo cửa đo nhà, ít lâu sau quả làm ăn phát đạt thật. Danh của Thầy nổi như cồn, khách hàng xếp lớp. Có người cho rằng Thầy có Bùa thiêng, cũng có người cho rằng Thầy nhờ có cái Thước Lỗ Ban Bát Trạch. Biết được Thầy có chỉ vẽ cách làm Thước Lỗ Ban thì cuốn Lịch Sách Xuân Aùt Mão được rất nhiều gia đình mua về làm tài liệu tham khảo và cũng đã có rất nhiều ngườiõ theo đúng hướng dẩn cuả Thầy mà làm Thước Lỗ Ban. Không hiểu tại Thầy dấu nghề hay do ngẫu nhiên trùng hợp mà không ít gia đình sau khi có cái thước Lỗ Ban trong tay là ngay mùa Xuân năm đó phải bỏ nhà cao bay xa chạy ra nước ngoài, một số khác vào trại tập trung cải tạo mút mùa, số còn lại thì cũng phải bỏ nhà bỏ cửa để đi kinh tế mới. Về sau biết được hoàn cảnh của Thầy cũng bi đát như khách sau ngày 30 tháng 4, cho nên không ai còn dám nghĩ là Thầy dấu nghề, mà cho rằng đó là do ngẫu nhiên trùng hợp mà thôi. Thế nhưng khi đem 5 tấc 3 chia cho 8, số thành là 6 phân 5 ly và đem 6 phân 5 ly chia cho 5, số thành là 1 đúng như hướng dẫn của Thầy thì quả thực sai số quá lớn. Cung này cách Cung kia cách nhau chỉ bằng sợi tóc mà sai số lớn như thế thì cái Thước Thầy hướng dẫn làm sao mà linh thiêng cho đặng ? Cho rằng lỗi tại nhà in, cây thước phải dài 5 tấc 2 mới đúng. Thì cứ coi như là 5 tấc 2, nhưng lấy độ dài này chia cho 8 rồi lại chia cho 5, số thành đúng 1 phân, thì cũng lại vẫn còn sai !
Ngay từ đời nhà Chu ( 257 năm trước Tây Lịch) cùng thời với triều đại Thục An Dương Vương nước Việt, con người đã biết dùng Chỉ và Phân theo hệ thống Bát Phân để làm đơn vị đo chiều dài. Một Chỉ dài 0,408 mét, có 8 Phân thì một Phân là 0,051 mét. Về sau từ con số đơn vị của Phân là 0,051 nhân cho 10 theo hệ thống Thập Phân thành con số 0,51. Cái thước dài 0,51m hay 51 cm lâu ngày trờ thành cái thước Lỗ Ban đồng hóa với tà thuật của các Thầy Bùa, Thầy Pháp. Mãi cho đến hơn 2000 năm sau, các nhà Thông Thái Sinh Cơ Lý Học mới giật mình bái phục khi tìm ra được Tần số của ngoại âm là 4,9 từ đó suy ra đơn vị Thời Gian là 1 sec / 4,9 = 0,20408. Biết được đơn vị Thời Gian, các nhà Toán Học tính ra được Gia Tốc Trọng Lực ở mặt địa cầu là 40,8 bằng cách lấy 980 nhân với bình phương của đơn vị thời gian: 0,20408. Con số 0,408 chính là đơn vị Chỉ của nền Văn minh Thái cổ cũng chính là Gia Tốc Trọng Lực ở mặt địa cầu tương đương với 2 lần trị số của đơn vị thời gian. Như vậy, cái thước mà người đời nay cho rằng đó là cái thước Lỗ Ban huyền diệu, mang nhiều sắc thái bùa phép, người đời xưa sử dụng để đo đạt có độ dài là 51 cm, phát xuất từ cơ sở tính toán khoa học của các nhà Khoa Học Thái Cổ. Mê tín dị đoan hay bác học thì lại tùy vào thái độ và trình độ của người sử dụng. Người mê tín thì cho rằng cái thước chính là chiếc gậy Thần Linh hiễn. là vì ít ra, sau khi đo đạt sửa chửa theo đúng hướng dẫn thì gia chủ có nhiều an tâm, hy vọng nhiều hơn, bớt được căng thẳng, giãm được ưu tư thì có thể né tránh được nhiều tai biến hậu quả có thể chết người. Người bác học thì cho rằng cái thước chỉ là phương tiện để đo đạt chính xác mà thôi. Theo lý thuyết về năng lực bá động thì các loài sinh vật luôn luôn chịu ảnh hưỡng của các làn sóng từ cấp thấp nhất là ngoại âm đến cấp cao nhất là siêu âm đặc biệt là làn sóng ngoại âm phát ra từ lòng đất là nguồn năng lực chi phối đời sống con người qua cơ sở vật chất là nhà cửa của họ. Theo tác giả tập Thái Cổ Khoa Học Toàn Thư – Phần Dương Cơ Lý Học thì nhà cửa luôn luôn được xây dựng trên một nền cứng chắc và đủ rộng để chịu được toàn bộ trọng lượng của cái nhà. Sự liên kết của các nền nhà thành một khối chung sẽ tạo thành một tảng. Hỉnh thức thông thường của tảng là một lớp nền mỏng trải dài trên một vùng đất xốp, mềm, có thể so sánh với một thanh gổ trên mặt nước. Lòng đất luôn luôn phát ra làn sóng ngoại âm là hình thức nhỏ của địa chấn, cho nên tảng phải chịu ảnh hưởng và trở nên một tảng rung động. Trong sự rung động này có sự cộng hưỡng. Sự truyền làn sóng và sự phản hồi làn sóng tạo nên một hệ thống sóng đứng mà hai đầu tảng là hai đầu tự do tạo thành hai bụng của thoi sóng đứng. Ở chính giữa gọi là Nút không rung động giống y như hình ảnh của thanh gổ dài nhấp nhô hai đầu. Ngoại âm của đất có nhiều làn sóng tần số khác nhau và mức độ cộng hưỡng tùy sẽ thuộc vào độ dài, độ dày và độ rắn chắc của tảng, nhưng thường thì độ dài quan trọng hơn. Tảng dài thì có nhiều Nút và nhiều Bụng là vì một tảng dài rung động thì sẽ tạo xen kẻ thành nhiều Bụng và Nút . Mỗi vị trí này được gọi là Tọa Vị. Theo như tác giả tập Thái Cổ Khoa Học Toàn Thư , nếu tọa vị là Bụng thì gọi là Tọa Vị Dương là nơi có sự rung chuyển cao độ. Nếu Tọa Vị là một Nút thì gọi là Tọa Vị Aâm là nơi sự rung động hầu như không có.
Cây thước Lỗ Ban 51 cm được chia thành 8 cung bằng nhau. Mỗi cung lại chia thành 5 cung nhỏ. 8 cũng có thể là con số của Bát Quái và cũng là thứ tự của hàng đơn vị từ 1 đến 8 thuộc hệ thống Bát Phân . 5 cũng có thể là Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ.
- Cung đầu tiên là Quý Nhơn Cung hành Mộc là cung Tốt .
- Cung thứ 2 là Hiểm Họa Cung hành Thổ là cung Xấu.
- Cung thứ 3 là Thiên Tai Cung hành Thổ là cung Xấu.
- Cung thứ 4 là Thiên Tài Cung hành Thủy là cung Tốt.
- Cung thứ 5 là Nhơn Lộc Cung hành Kim là cung Tốt.
- Cung thứ 6 là Cô Độc Cung hành Hỏa là cung Xấu.
- Cung thứ 7 là Thiên Tặc Cung hành Hỏa ( Kim ? ) là cung Xấu.
- Cung thứ 8 là Tể Tướng Cung hành Thổ là cung Tốt.
Riêng cung Thứ 7 có sách cho rằng hành Hỏa ( Thất Tai Hỏa cục ), nhưng cũng có sách thì cho rằng hành Kim (Thất Tai Kim cục). Xem kỷ lại thì cung này cũng là cung cư ngụ của sao Phá Quân.. Trong Tử Vi sao Phá Quân là Bắc Đẩu Tinh hành Thủy là Hung và Hao tinh chủ tán, nhưng trong Bát Biến Du Niên của phép địa lý Dương Trạch thì khẳng định Phá Quân hành Kim là chốn cư của Tuyệt Mạng cũng vốn hành Kim. Khoa Địa Lý cho rằng Sao Phá Quân nguyên là hành Kim mà cái Thước Lỗ Ban chỉ dùng cho Khoa Địa Lý cho nên có thể khẳng định được Thất Tai Kim cục có lý hơn là Thất Tai Hỏa cục. Theo hệ thống Bát Phân từ 1 cho đến 8 là số cuối của hàng đơn vị thì Cung thứ nhất và cung thứ 8 chắc chắn phải là 2 Bụng tức là 2 tọa vị Dương. Hai cung ở giữa là cung thứ 4 và thứ 5 là hai cung Tốt cho nên cung 4 và 5 cũng phải là 2 Bụng tức cũng là 2 tọa vị Dương. Còn lại là Hai Nút sẽ ở tại giữa cung 2 – 3 và giữa cung 6 – 7 vị chi tất cả là 4 Tọa vị Âm. Sự phân chia 1 thành 2, 2 thành 4, 4 thành 8 chắc chắn bắt nguồn từ Lý thuyết Aâm Dương Ngũ Hành mấu chốt của Thái Cực sinh Lưỡng Nghi- Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng – Tứ tượng sinh Bát Quái. . .
Tất cả có 4 loại thước mõi cây dùng mõi ngụ ý mà đo đạc riêng của nó, chăng hạn thông thường tại sao người ta dủng cây thước 4:29 mm đó là dùng để đo thông thường nhà cửa bếp cửa giường ngũ và bàn học tủ đại khái, dó gọi là thước dùng dương trạch, âm trạch thì dùng 390mm. và 480mm đo về kích thước nhà muốn xây tầng lầu cao thấp hoạc là ngang, dọc. còn lại cây 520mm do là diện tích mét vuông miếng đất của căn nhà hay là đo miếng đất trồng lúa dài bao nhiêu và ngang bao nhiêu cho tốt. cho nên mà nói thước nào cũng ứng nghiệm khi có để dùng hết, và phải biết tính thời gian của tiết khí sự vận hành của trái đất ứng nghiệm theo năm tháng mà phát ra thì lúc đó mói nghĩ là đúng sai mà thôi. Khi đùng chưa tới thì cho là thưóc khg đúng, và đùng cây tốt khác thời gian cũng bị chuyện xấu tới thí nói rằng là cây thước sai.
Tam Nguyên St
Những bộ sao chỉ những bệnh về máu huyết tim phổi gồm có:
- Lâm Quan, Hỏa Tinh hay Linh
Bệnh chảy máu cam. xuất huyết, đứt mạch máu.
- Bạch Hổ: máu xấu, nhất là đối với phụ nữ.
- Tang Môn, Bạch Hổ: nhất khí huyết. bệnh thiếu máu, căng mạch máu. yếu tim, đau tim.
- Đào Hoa, Hồng Loan: yếu tim
- Lưu Hà: bệnh máu loãng, hay là máu khi bị thương tích, bệnh hoại huyết.
Một lần nữa, các sao trên có thể đi kèm với sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh.
Đây là quẻ Quan Âm thứ 84 được xây dựng trên điển cố: Trang Tử thí thê hay Trang Tử thử vợ.
Quẻ hạ thuộc cung Mùi. Hiện trạng lúc này như cá rời khỏi mặt nước, thoạt nhìn mọi thứ có vẻ bình yên nhưng lại ngầm chứa đựng hiểm nguy. Mọi điều gắng làm giống như một giấc mộng hão huyền.
Hàn ngư ly thủy chiêu hung chi tượng. Phàm sự bất khả di động dã.
Trang Tử (khoảng 369 tr. CN – 286 tr. CN), tên là Chu, tự Tử Hưu, người đời sau gọi là Nam Hoa Chân Nhân, là người đất Mông nước Tống thời Chiến Quốc, ông là nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà văn học nổi tiếng, là một trong những nhân vật tiêu biểu của học phái Đạo gia, cũng là người kế thừa và phát triển những tư tưởng triết học của Lão Tử, là người khai sáng của học phái Trang Tử thời Tiên Tần.
Tương truyền một hôm, khi lên trên núi, Trang Tử gặp một người con gái ngồi trước ngôi mộ mới đắp ra sức quạt, như muốn quạt cho khô lớp bùn đất ẩm ướt trên mộ. Trang Tử thấy lạ, bèn đến hỏi. Cô ta bèn nói, người chôn dưới mộ là chồng của cô, người chồng lúc lâm chung có dặn rằng, phải đợi đến khi đất ờ trên mộ khô mới được tái giá. Cô không thể chờ đợi được, nên đến quạt đất trên mộ mong cho mau khô, để sớm được đi tái giá.
Trang Tử lúc này đã đắc đạo thành tiên, liền vận dụng phép thần thông quạt giúp cô, khiến cho đất trên mộ chốc lát đã khô. Cô gái thấy đất đã khô, liền tặng cái qbạt cho Trang Tử, vui vẻ đi xuống núi.
Trang Tử về đến nhà, cầm quạt phe phẩy, vừa quạt vừa hát. Vợ của Trang Tử là Điền thị thấy vậy, liền hỏi nguồn gốc của cái quạt, Trang Tử liền kể cho vợ nghe đầu đuôi câu chuyện. Điền thị nghe xong, liền cầm cái quạt xé tan tành, tức giận mà nói: “Dưới gầm trời này lại có người phụ nữ vô liêm sỉ như thế ư? Nếu mà là tôi, tôi tuyệt đối sẽ không như thế!” Trang Tử thấy thái độ của vợ như thế, trong lòng rất cảm động, ông nói: “Mình không cần phải tức giận như thế, tôi tin rằng mình sẽ luôn chung thủy với tôi!”
Vài hôm sau, Trang Tử bất ngờ sinh bệnh, không bao lâu thì qua đời. Điền thị thấy Trang Tử đã chết, trong lòng buồn rầu, bà nhớ đến tình cảm vợ chồng khi trước, khóc lóc thảm thiết, lại thủ hiếu với chồng bảy ngày.
Nghe nói Trang Tử mắc bệnh nặng mà mất, bạn bè người thân và nhân sĩ khắp nơi đều đến viếng. Trong đó có một người quý tộc đến từ nước Sử, giàu có mà trẻ tuổi, tự xưng là học trò của Trang Tử, muốn thủ linh (túc trực bên linh cữu) Trang Tử một trăm ngày. Anh ta thấy Điền thị mới góa chồng, tình cảnh đáng thương, thì cũng động lòng. Trang Tử qua đời chưa đầy hai mươi ngày, hai người đã vui vẻ thành hôn. Vào buổi tối hôm thành hôn, trong lúc chúc rượu cao hứng, vị quý tộc trẻ tuổi kiạ bỗng nhiên bệnh tim phát tác, đau tim kịch liệt, có vẻ như mất mạng đến nơi. Điền thị vô cùng kinh hãi hoang mang. Vị quý tộc trẻ gắng nhịn đau, nói với Điền thị rằng, chỉ có thể dùng tim người làm thuốc mới có thể chữa được bệnh của anh ta. Nhưng biết tìm tim người ở đâu ra? Không thể đi giết người được. Điền thị chợt nhớ ra, chẳng phải Trang Tử vừa mới chết ư? Tinh nghĩa vợ chồng xưa kia, Điền thị đã quên hết cả rồi. Nên thị cầm búa, bổ tung quan tài của chồng, chuẩn bị lấy tim của Trang Tử.
Không ngờ khi quan tài được bố ra, Trang Tử liền sống lại. Bởi vì, Trang Tử vốn là tiên, có pháp lực. Sau khi ông chết, bèn hóa thành vị quý tộc trẻ tuổi, tự biên tự diễn màn kịch này để thử lòng người vợ, không ngờ lại gặp kết quả này. Điền thị chẳng còn lỗ nẻ nào mà chui vào, bèn tự treo cổ mà chết. Sau khí vợ chết, Trang Tử gõ chậu ca hát, từ đó xa rời nhân gian, lên chốn tiên cảnh.
Thời gian: tổ chức vào ngày 27 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn đức Phật.
Nội dung: Hội chùa có lễ Phật, lập đàn lễ đón cờ thập phương, cúng dâng Tam Bảo, Đức Ông, thập điện, lễ Tổ, lễ Mẫu. Các hoạt động tế lễ nhằm cầu quốc thái dân an, người người mạnh khỏe, dân chúng no ấm.
Cùng theo dõi Lịch ngày tốt để biết câu trả lời nhé. Mèo Thần Tài hay Mèo chiêu tài được coi là linh thú mang lại cát khí trong phong thủy, có thể hóa giải sát khí nhờ linh lực của nó. Rất nhiều cửa hàng cửa hiệu đều ưa chuộng và trưng bày để mong may mắn và tài lộc sẽ đến với mình. Vậy bạn đã biết nên bày mèo Thần Tài ở đâu để hợp với phong thủy cửa hàng chưa? Mèo Thần Tài đặt ở đâu trong cửa hàng thì sẽ phát huy linh lực hiệu quả nhất? Cùng Lịch ngày tốt đi tìm câu trả lời cho những vấn đề này nhé.
=> Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi số mệnh của bạn nhanh, chuẩn xác |
Tống cựu nghênh tân vốn nghĩa là đưa cái cũ đi, đón cái mới đến. Các cụ bảo, muốn đón được cái mới thì người đón trước hết phải dọn mình sạch sẽ, tinh tươm, gác lại tất cả những âu lo, bực dọc. Tập tục “tống cựu nghênh tân” thường được chuẩn bị từ sau khi tiễn ông Táo về trời.
Tết là dịp mọi người có cơ hội ngồi ôn lại việc cũ và làm mới mọi việc. Nhất là về phần tình cảm và tinh thần của con người, để mối liên hệ với người thân được cảm thông hơn hoặc để tinh thần mình thoải mái, tươi mát hơn. Chuẩn bị đón Tết, mọi người đều muốn tất cả mọi thứ được sạch sẽ, tinh tươm, chính vì thế sàn nhà được chùi rửa, chân nến và lư hương được đánh bóng.
Bàn ghế tủ giường được lau chùi, phủi bụi. Người lớn cũng như trẻ con đều tắm rửa gội đầu sạch sẽ, mặc quần áo mói may bảnh bao. Bao nhiêu mối nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới để xả xui hay để tạo một sự tín nhiệm nơi người chủ nợ. Với mỗi người, những buồn phiền, cãi vã được dẹp qua một bên, tối thiểu ba ngày Tết, mọi người cười hòa với nhau, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tói mối liên hệ được tốt đẹp. Người Việt tin rằng những ngày Tết vui vẻ đầu năm sẽ báo hiệu một năm mới tốt đẹp sắp tới.
Năm cũ đã qua mang theo mọi xui xẻo và năm mới đến mang theo đầy niềm tin lạc quan. Nếu năm cũ khá may mắn, thì tin sự may mắn sẽ kéo dài qua năm sau. Tết cũng là lúc mọi người trong làng gọi nhau quét dọn đình, chùa. Ai nấy lo đi cắt tóc, may sắm quần áo mới… Đó là những việc thường được làm vào cuối năm, quen thuộc đến mức người ta không nghĩ đấy là tục lệ “chia tay cái cũ để đón những điều mới mẻ”. Nhiều gia đình nhắc nhỏ, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi không được quấy khóc, nghịch ngợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy hay vứt rác, viết vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh chị cũng không nên quở mắng, trách phạt con trẻ. Đối với bà con xóm giềng, dù trong năm cũ có điều gì xích mích cũng xí xóa hết. Dâu không thực lòng cũng tỏ ra ôn tồn hòa nhã, không ai nói khích bác hoặc bóng gió ác ý trong ngày đầu năm, dù là lỡ miệng; đối với ai cũng tay bắt mặt mừng.
Cả nghìn năm rồi, người Việt có lệ đốt hương, xông trầm lúc giao thừa để tống cựu nghinh tân theo truyền thống của dân tộc. Giới tao nhân mặc khách còn làm những câu đối Tết, qua đó giãi bày cảm nhận của mình về buổi giao thừa cũ – mới.
Nguyễn Công Trứ, nhà quân sự, nhà kinh tế, nhà thơ lỗi lạc, cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp; được thăng quan tiến chức nhiều lần nhưng cũng bị giáng phạt lắm lúc.
Chiều ba mươi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà
Câu đối ông viết toát lên một thần thái tự tin, lạc quan vào vận hạn đời mình, rằng cái cũ xui rủi sẽ rời xa và cái mới may mắn sẽ đến.
Tết là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là mừng nhau thêm một tuổi. Người lớn có tục mừng tuổi cho trẻ nhỏ và các cụ già để chúc các cháu hay ăn chóng lớn và ngoan ngoãn, học giỏi; còn các cụ thì sống lâu và mạnh khoẻ để con cháu được nhờ phúc.
Tuổi Canh Tý đại ky trong kết hôn:
Trai tuổi Canh Tý không nên kết duyên(đại kỵ) với nữ tuổi Nhâm Dần, Qúy Mẹo(Qúy Mão), Mậu Thân, Giáp Dần và Bính Thân. Vì tuổi đại kỵ nên kết duyên sẽ không ăn đời ở kiếp với nhau, có thể sẽ tuyệt mạng. Xem chi tiết tử vi trọn đời tuổi Tý
Chi tiết khi Canh Tý nam mạng kết hôn với tuổi đại kỵ
Nam Canh Tý tránh kết hôn ở tuổi 15, 21, 25, 33, 37, 39. Những người vợ tuổi đại kỳ với Canh Tý bên dưới không nên kết hôn ở tuổi 17, 22, 23, 29, 34, 35, 41. Những năm tuổi trên đây kỵ hiệp hôn, luận việc hôn nhân không thành, còn có đôi bạn rồi mà gặp những năm nói trên thì hay sinh việc buồn và xung khắc hoặc chịu đựng cảnh xa vắng. Xem thêmvận hạn 2015 tuổi Tý
Tuổi Canh Tý nam mạng và nữ mạng sinh tháng 1, 7 AL hay xảy việc buồn phiền bất đồng ý, đến ngày chót khó nên đôi. Tuổi này trai hay gái khi có đôi bạn số định gặp người bạn ở hướng Mẹo mới nhằm căn duyên.
XIN LƯU Ý
Trai tuổi Bính Thân sanh tháng 1, 12, 2, 9, 3, 8 và tháng 4 như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Thê hoặc đa đoan về việc vợ. Xem tử vi 2015 tuổi Bính Thân
Gái tuổi Bính Thân sanh tháng 1, 2, 4 và tháng 5 như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Phu hoặc trái cảnh về việc chồng.
Còn sanh nhằm tháng 6 và tháng 3 số khắc con, khó sanh và khó nuôi.
Tuổi CANH TÝ Hiệp Hôn Tốt và Ở Đặng
Tánh người vợ hay rầu lo, ít vui vẻ, hay có bệnh nhỏ, số khó giữ tiền tài, tánh ý vợ chồng cũng đ ặngg hòa hạp, ở với nhau đặng hưởng ấm no.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về hào tài buổi đầu hay luân chuyển
ĐOÁN PHỤ THÊM
TÂN TỴ: BẠCH LẠP KIM
Trong tử vi Tân Tỵ là rắn trong cỏ, thông minh, xinh đẹp, đức cao vọng trọng, có tấm lòng từ bi, có tay nghề, xa nhà chủ về phát đạt.
Người sinh vào mùa thu có cơ hội xuất ngoại.
Người sinh vào mùa đông thường lười biếng, e rằng khó trở thành người xuất sắc.
Bạch lạp Kim là mảnh ngọc ở trên núi, là vật báu nơi cửa sông, ỏ chỗ ánh sáng mặt trời và mặt Trăng giao cắt, khí âm dương ngưng tụ, sáng trong suốt là màu sắc chính của Kim.
Kim tự sinh, tinh thần sung mãn, thể khí đầy đủ, sáng mãnh liệt mà không mất đi. Kỵ Bính Dần Lư trung Hỏa, Ât Tỵ Phúc đăng Hỏa, Mậu Ngọ Thiên thượng Hỏa.
Tân Tỵ Bạch lạp Kim chủ về đường học vấn, có đức anh minh. Người sinh vào mùa thu và mùa đông phúc lộc vẹn toàn. Ngưòi sinh vào mùa xuân và mùa hạ được 7 phần xấu, 3 phần tốt. Đắc quý cách chủ về học hành giỏi giang, bản thân được thanh quý, thường có lòng cứu giúp người khác.
Dụng cụ chưa thành, ưa gặp Hỏa, ngày ngày rèn giũa.
Kim này ưa Hỏa ưa Thủy. Thủy ưa Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy; Giáp Thân, Ât Dậu Tỉnh tuyền Thủy. Nếu như có Quý Tỵ Trường lưu Thủy chủ về mệnh không sang quý cũng giàu có.
Nạp âm nếu như có Giáp Tý, At Sửu Hải trung Kim; Giáp Ngọ, At Mùi Sa trung Kim, chủ về cả đời bình lặng giống như cây cỏ.
Tân quý tại Dần, Địa chi của các trụ khác ưa Dần, đáng tiếc Dần, Tỵ phạm hình. Kỵ nhất Địa chi của các trụ khác phạm hình xung, ví dụ như Dần, Thân, Hợi,| là phá cách.
Tân lộc tại Dậu, Tân Tỵ Không vong cũng ở Dậu. Mệnh này là người có kinh tế thiếu thốn, nên làm công nhân viên chức hoặc tâp trung học môt ngành chuyên môn. Địa chi của ngũ trụ có Tuất có thể học xem mệnh, giáo viên.
Trong tử vi Tân tỵ gặp năm Tỵ, năm Hợi, trong nhà không yên ổn, nếu không thương hại đến bản thân cũng thương hại đến người nhà.
Bạn đời không nên lấy người sinh năm Bính, Đinh. Nên tìm người sinh năm Giáp, Ất.
Tân Tỵ Bạch lạp Kim gặp Quý Dậu Kiếm phong Kim, chủ phú quý, hơn nữa, lộc quý thích đạp, phú quý dài lâu. Kim rỗng thì kêu, nên tập trung nghiên cứu học thuật, có thể nổi tiếng.