Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Phong thủy là khoa học hay mê tín dị đoan?

Phong thủy chính thống là một bộ môn khoa học như các ngành khoa học khác và thực hành phong thủy không phải là việc mê tín, hay mang hình thức thờ cúng.
Phong thủy là khoa học hay mê tín dị đoan?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với việc khẳng định Phong thủy chính thống là một môn khoa học, người viết bài này nêu quan điểm rằng Phong thủy chính thống không liên quan gì đến mê tín, thờ cúng hay tôn giáo. Mỗi người đều có niềm tin riêng cho bản thân mình.
Tác giả cũng cho rằng Phong thủy chính thống vẫn không thể tách rời khỏi yếu tố văn hóa hay niềm tin của mình. Việc sử dụng Phong thủy chính thống đơn thuần chỉ mang lại lợi ích cho bản thân, giúp đỡ bản thân, và tận dụng những luồng khí tốt có sẵn trong tự nhiên. Và khi chúng ta không nhập nhằng giữa tâm linh và Phong thủy, thì cả hai có thể tồn tại song song nhau như thực tế, và giúp chúng ta có cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.
Phong thủy không phải là “mê tín dị đoan”

Trong một thời gian dài, Phong thủy bị xem là mê tín dị đoan, là “tà giáo”, là lừa bịp,... Ngày nay, suy nghĩ của người phương Đông và phương Tây đã thay đổi theo hướng tích cực hơn nhưng còn rất nhiều người vẫn chưa công nhận Phong thủy là một bộ môn khoa học.
Vậy thực chất Phong thủy là cái gì? Đó là một môn khoa học ứng dụng, hay chỉ là một sự giả tạo, hay chỉ đơn giản là niềm tin?
Từ “Khoa học” có nguồn gốc từ tiếng Latin “scientia” có nghĩa là “kiến thức”. Theo Wikipedia, khoa học đơn giản là “bất kỳ một lĩnh nào cung cấp kiến thức một cách có hệ thống”. Vậy, Phong thủy cổ điển có đáp ứng được những gì được đề cập trong định nghĩa này hay không?
Bây giờ tôi sẽ cùng các bạn thử xem xét quy trình, chu trình những nhà khoa học đưa ra những kết luận mang tính khoa học như thế nào? Họ làm các thí nghiệm, quan sát kết quả, làm lại thí nghiệm, nếu cần thiết để đảm bảo kết quả là giống nhau giữa các lần thí nghiệm, sau đó họ ghi chép lại quá trình thí nghiệm và kết quả đạt được. Bạn có thấy rằng, trong bất kỳ một ngành khoa học nào, thành tố quan trọng nhất cũng là sự quan sát, thực nghiệm,…
Phong thủy được hình thành như thế nào?

Trước tiên, việc Phong thủy cổ điển là một lĩnh vực nghiên cứu có hệ thống, nghĩa là có những hình mẫu cơ bản, nguyên tắc cơ bản như Ngũ hành, Âm dương, Hà đồ (Tiên thiên bát quái), Lạc thư (Hậu thiên bát quái),.... Các kiểu mẫu này ngoài Phong thủy còn được ứng dụng vào rất nhiều bộ môn siêu hình khác. Có những bằng chứng thực nghiệm, quan trọng hơn hết là đã được ghi chép từ trước đến nay mà không phải là những mẫu chuyện được thêu dệt nên. Bằng chứng là những tài liệu ghi chép từ thời nhà Đường, như các trước tác của Dương Quân Tùng (Dương Công) như Thanh Nang Áo Ngữ; Thiên Ngọc Kinh; Ngọc Xích Kinh; Táng Thư,.. khẩu truyền các bí quyết Tầm long - Điểm huyệt - Lập hướng, Thu sơn xuất sát, Tiêu sa nạp thuỷ, Điên điên đảo, Việt Nam có Địa lý Tả Ao,…và những kinh nghiệm cổ điển được phác thảo trong những tài liệu cổ điển khác. Trong Phong thủy cổ điển, không chỉ lưu truyền các thế đất, các nguyên lý về khí, mà còn có các bản vẽ của núi non và nước. Những khái niệm từ xưa về Phong thủy vẫn không hề thay đổi cho đến ngày nay và cả trong tương lai. Mỗi khái niệm luôn đi kèm với những lý giải hợp logic.
Phong thủy là một bộ môn khoa học siêu hình có phương pháp rõ ràng dựa trên nguyên lý Âm dương, Ngũ hành, và việc sử dụng phương hướng để tác động lên các khí có trong tự nhiên. Trong Phong thủy chỉ có môi trường, không có Phật hay Chúa hay Thần thánh. Nếu quan sát các bạn sẽ nhận ra rằng tất cả những bộ môn từ Y thuật, Võ thuật, Kinh dịch, Thuật số,… Những bộ môn này đều dựa trên lý thuyết Âm dương và Ngũ hành, trong những tài liệu viết cổ từ thời nhà Đường đến nhà Minh, không chứa đựng bất kỳ một yếu tố nào có liên quan đến tôn giáo, hay có bất kỳ một đề cập nào liên quan đến việc bạn phải phó mặc số phận của bạn vào một vật thể hay hình tượng nào đó, và càng không yêu cầu người làm Phong thủy phải thờ cúng bất kỳ cái gì, cũng như dùng gương bát quái để hóa giải sát khí. Việc nhìn nhận Phong thủy là sự mâu thuẫn với niềm tin tôn giáo của một người hay là sự chấp nhận niềm tin tôn giáo trước khi ứng dụng về cơ bản rõ ràng đã không đúng.
Trong việc ứng dụng Phong thủy cổ điển, việc sử dụng những phương pháp hóa giải là việc tuân theo, và nếu có diễn ra thì đều có liên quan đến 5 nguyên tố của ngũ hành:  Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ. Thực hành Phong thủy từ xưa đã không cần đến việc đặt những vật dụng vào nhà, hay chọn màu hợp phong thủy để sơn nhà, và tất nhiên là không cần thiết phải nhét vào góc nhà những vật dụng mang tính chất linh thiêng. Phương pháp hóa giải hay điều chỉnh hiệu quả nhất cho một người đó là sử dụng Khí tự nhiên thông qua việc nương theo, thay đổi dòng khí hay tận dụng những vị trí chiến lược để đón nhận được dòng khí tốt.
Phong thủy không liên quan đến thờ cúng

Thêm nữa, Phong thủy là việc sử dụng không gian và thế đất bằng cách tận dụng những gì tự nhiên và những gì sẵn có trong môi trường của con người, tận dụng những điều sẵn có, những nguồn năng lượng đang tồn tại trong môi trường tự nhiên. Phong thủy còn chú trọng đến nhân tố Thời gian, Con người, Phương hướng, và Địa điểm của đất, nhà, hay tài sản của người sử dụng. Và những bộ môn khi thực hành không chú trọng đến tất cả những yếu tố trên hay ngược lại, chú trọng đến những tục lệ thờ cúng, kính bái đều không phải là Phong thủy cổ đại.
Tuy nhiên, không phải sự quan sát nào cũng được củng cố trở thành một nguyên lý Phong thủy sau này. Một vài trong số đó đóng vai trò như một phép thử để đưa ra những kết luận chính xác hơn. Cho đến đầu những năm 1900, Phong thủy chỉ được sử dụng cho hoàng gia. Vì vậy, các nghiên cứu thường kéo dài liên tục qua nhiều đời. Chính việc này đã cho phép các nhà phong thủy quan sát một cách tỉ mỉ và liên tục những thực nghiệm và đưa ra kết luận giúp phát triển bộ môn khoa học này. Các sách và học thuyết Phong thủy hiện đại chỉ điều chỉnh lại dựa trên những gì còn lưu truyền lại cho phù hợp với thế giới hiện đại. Và sự nghiên cứu kế thừa, sự phát triển không ngừng của Phong thủy hiện đại dựa trên nền tảng Phong thủy cổ điển không khác gì so với những môn khoa học khác. Nếu chỉ nhìn nhận khoa học là Vật lý, là hóa học, là địa lý hay một bộ môn nào đó nói riêng, thì đó mới chỉ là cách nhìn hạn hẹp về khoa học. Khoa học chứa đựng trong nó ngành khoa học xã hội như Nhân loại học, Xã hội học; ngành khoa học trắc địa như Địa lý; Môi trường học và các ngành khoa học ứng dụng như cơ khí, khoa học máy tính, công nghệ và tâm lý,…
Ngày nay, những bộ môn siêu hình được xem là lập dị, huyền bí. Nhưng không chỉ Phong thủy có tính chất siêu hình mà những bộ môn đáng tôn kính của văn hóa phương Tây đều có tính siêu hình. Aristotle là một trong những nhà tư tưởng siêu hình nổi tiểng, ngoài ra còn có thể kể đến Rene Descartes và Allbert Einstein. Người Trung Hoa, kể cả các nhà khoa học với tư tưởng triết học, xem Phong thủy và 05 bộ môn nghệ thuật của Trung Quốc là những bộ môn siêu hình. Bát tự, Phong thủy, Nhân tướng, Kỳ môn độn giáp vì tất cả những bộ môn này đều xuất phát từ nhu cầu xa xưa của người Trung Quốc muốn tìm hiểu về số phận, vũ trụ, nhân dạng, chiến thuật quân sự và hầu hết những nhu cầu này đều có tính chất siêu hình và triết học.
Nhiều người vẫn còn hoài nghi và cho rằng “Khí” không tồn tại hoặc không thể đo lường được các “Khí” trong Phong thủy, nên không thể xem bộ môn này là khoa học. Đây cũng là một quan niệm không đúng! Vậy chúng ta hiểu việc mà trước khi Micheal Faraday giải thích sự liên quan giữa điện và từ trường. Điện và từ trường vào thời điểm trước đó cũng không thể đo lường một cách định lượng được. Điều này không có nghĩa là từ trường và điện không tồn tại trước đó. Giống như vậy, kính hiển vi điện tử đã giúp khai phá ngành vi trùng, vi rút học, điều đó không có nghĩa là trước khi kính hiển vi xuất hiện không có vi trùng và vi rút. Nếu các bạn vẫn cho rằng “Khí” không tồn tại, vậy các bạn giải thích thế nào cho các hiện tượng sau đây: Tại sao trái cây, hoa quả, cây xanh, cây hoa trồng những nơi khác nhau có sự khác nhau?; Hoặc tại sao trái cây, hoa quả trồng trái mùa vụ, trái vùng địa lý sẽ có hương vị khác nhau? Thêm nữa, sữa, thực phẩm chức năng được tổng hợp rất đầy đủ vitamin, khoáng chất,..nhưng vẫn không thể thay thế được sữa mẹ, thực phẩm trồng trọt tự nhiên, và trong dân gian thường nói: “ Địa linh nhân kiệt” cũng mang hàm ý đất tốt, phong thủy tốt sẽ có người tốt, người tài.
Từ đó có thể kết luận rằng khi phát sinh nhu cầu tìm hiểu thì tất cả mọi thứ trên thế giới này đều có thể được đo lường được bằng cách này hay cách khác, công cụ này hay công cụ khác. Vì vậy, “Khí” trong Phong thủy cũng có thể đo lường được. Vấn đề còn lại là dùng dụng cụ hay thiết bị gì để thực hiện công việc này. Người Trung Hoa đã có dụng cụ để đo lường khí trong Phong thủy đó là hệ thống Lịch (âm dương), La bàn (La kinh), và kỹ năng quan sát.

Ngày nay chúng ta có thể sử dụng công cụ hỗ trợ trong việc tìm kiếm địa điểm tiên tiến hơn như Google Earth hoặc Google Map hoặc sử dụng la bàn điện tử, và công thức tính theo phương pháp phi tinh (phương pháp tính quỹ đạo khí) cũng có thể được tính toán tự động bằng các thiết bị điện tử, lập trình bằng máy tính nếu bạn muốn. Tôi thấu hiểu và cảm thông khi nhiều người vẫn còn hoài nghi bộ môn phong thủy, vì nó có nguồn gốc quá lâu đời, tư liệu gốc thất lạc nhiều, đồng thời trong quá trình truyền bá, thực hành đã bị huyễn hoặc, thần thánh hóa, do sự không đồng nhất trong truyền đạt lý thuyết (chân và ngụy) chân truyền hay không chân truyền, giấu bí kíp,… Màu sắc đó được dân gian truyền miệng nhau: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”.

Phong thủy là khoa học và nghệ thuật

Phong thủy không chỉ là một môn khoa học mà còn mang tính nghệ thuật. Vì nghệ thuật trong khoa học chính là việc chọn phương pháp, kỹ thuật thích hợp để áp dụng trong một trường hợp cụ thể và những trường hợp nào không được áp dụng những kỹ thuật hay phương pháp trên.

Và cũng vì là khoa học nên Phong thủy có những quy tắc và công thức chung. Tuy nhiên, việc chọn quy tắc hay công thức nào là tùy vào sự quan sát, diễn giải, và đánh giá từng trường hợp cụ thể, đây chính là tính nghệ thuật trong Phong thủy, ví dụ như mỗi một nơi có tính chất môi trường khác nhau, thế núi, thế nước khác nhau sẽ sử dụng những quy tắc cụ thể khác nhau phù hợp với thế núi, thế nước và môi trường, đó chính là nghệ thuật. Tuy nhiên tất cả những quy tắc hay nghệ thuật đều xoay quanh nguyên lý âm dương và ngũ hành.

Ngày nay, nhiều người công nhận Phong thủy là một môn khoa học ứng dụng hơn là một môn khoa học đơn thuần. Tôi cũng hy vọng nó sẽ được mọi người công nhận là khoa học ứng dụng, để việc phổ cập, phổ biến rộng rãi những kiến thức chính thống nhiều hơn nữa trong giới học thuật và người thực hành giống như cách người phương Tây phổ biến tất cả học thuật để mọi người cùng học tập, hiểu biết thấu đáo, bởi việc xem đây mới là bí kíp, hay đây mới là chân truyền, thì nó sẽ tiếp tục lạc hậu so với các ngành khoa học khác. Chúng ta nên có kiến thức phong thủy, vì Phong thủy cũng có thể cung cấp cho người ứng dụng một công cụ mà qua đó có thể giúp họ cải thiện được chất lượng cuộc sống như sức khỏe, sự giàu có, và cả mối quan hệ xã hội.
Ngoài ra, bộ môn khoa học này có cơ sở để đảm bảo rằng nhà cửa, văn phòng, nơi làm việc, và môi trường sống nói chung sẽ làm thuận lợi cho những mục tiêu và nỗ lực của con người. Và khi chúng ta không nhập nhằng giữa tôn giáo và Phong thủy, thì cả hai có thể tồn tại song song nhau như thực tế, và giúp chúng ta có cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy là khoa học hay mê tín dị đoan?

Mẫu người Thân Cư Phu Thê –

Mẫu người Thân Cư Phu Thê trong tử vi Dù trong thời đại nào, dù phương Đông hay phương Tây thì gia đình vẫn luôn luôn là nền tảng của xã hội. Trong khoa Tử Vi Đẩu Số gia đình được thể hiện qua hai cung Phu Thê và Tử Tức. Hai cung này nói lên những vấ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mẫu người Thân Cư Phu Thê trong tử vi

Dù trong thời đại nào, dù phương Đông hay phương Tây thì gia đình vẫn luôn luôn là nền tảng của xã hội. Trong khoa Tử Vi Đẩu Số gia đình được thể hiện qua hai cung Phu Thê và Tử Tức. Hai cung này nói lên những vấn đề vợ chồng, con cái của mỗi người. Chúng ta vẫn thường nghe câu: “Sau lưng một người đàn ông thành công là một người đàn bà đảm đang tài giỏi.” Có phải vì vậy mà cung Phu Thê của người đàn ông có tầm quan trọng không kém gì hai cung chính là Quan Lộc và Tài Bạch?

Còn đối với phụ nữ thì cung Phu Thê lại càng quan trọng hơn. Sự đánh giá này rất hợp lý với thời phong kiến xa xưa. Trong xã hội phong kiến, người đàn bà chỉ là cái bóng mờ, hầu như không có những sinh hoạt nào ngoài xã hội. Và cuộc đời của họ như thế nào cũng do cung Phu Thê của họ định đoạt mà thôi. Thật đúng với ý nghĩa “xuất giá tòng phu” Ngày nay, người đàn bà đã ra ngoài xã hội, đã có vai trò và vị trí không thua kém gì người đàn ông. Nhưng dù sao, đối với quan niệm của người Á Đông chúng ta thì không phải vì vậy mà sự quan trọng của cung Phu Thê bị giảm đi. Trong thực tế hai chữ “gia đạo” lúc nào cũng là nền tảng của cuộc sống con người trong bất cứ thời đại nào hay xã hội nào.

HuongHate

Điều này chúng ta sẽ thấy rõ ràng và đậm nét trong mẫu người Thân cư Phu Thê. Những người sanh vào giờ Tỵ (từ 9am tới 11am) hoặc giờ Hợi (từ 9pm tới 11 pm) thì Thân sẽ nằm vào cung Phu Thê. Người ta cho rằng rằng ông có Thân cư Phu Thê là số được nhờ vợ và nể vợ. Đàn bà có Thân cư Phu Thê là số nhờ chồng và nể sợ chồng. Điều này không đúng, chúng ta sẽ bàn đến sau. Mẫu người Thân cư Phu Thê có nhiều nét đặc biệt, nhất là trên lãnh vực tình cảm. Người Thân cư Phu Thê thường gặp người chồng/vợ mình trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Họ gặp nhau và có tình cảm với nhau như đã quen biết nhau từ kiếp trước, nay lại gặp nhau để xây tiếp lâu đài tình ái còn đang dang dở, hoặc trả tiếp cho xong cái duyên nợ chưa tròn, tùy theo lá số của mỗi người. Từ nét đặc biệt đó mà người Thân cư Phu Thê có một cuộc sống ràng buộc nhau rất mật thiết. Sự ràng buộc chặt chẽ này có thể do từ tình cảm tốt đẹp mà họ có được, nhưng cũng có thể là vì hoàn cảnh mà họ phải chịu trói buộc với nhau. Hình ảnh bị trói buộc với nhau vì hoàn cảnh điển hình nhất mà chúng ta đã thấy trong thời gian trước đây đó là hình ảnh của cựu Tổng Thống Bill Clinton. Dù đang gặp một hoàn cảnh đắng cay, hay có thể nói là “còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi” Nhưng họ vẫn ở bên nhau, xuất hiện bên nhau trên truyền hình, trước công chúng đễ diễn tiếp cho xong vở tuồng mà họ phải diễn. Nói một cách khác, trong lĩnh vực tình cảm, người Thân cư Phu Thê thường có một cuộc sống khăng khít với nhau, cho dù trong những trường hợp cuộc sống không được hạnh phúc hay gặp những hoàn cảnh ngang trái, dường như có một sợi dây vô hình nào đó cứ buộc chặt họ lại với nhau, không chia ly dễ dàng như những người khác. Ngoài sự ràng buộc trong vấn đề tình cảm, người Thân cư Phu Thê còn có sự ràng buộc trong lãnh vực nghề nghiệp. Hầu hết họ và vợ/chồng của họ là những người làm cùng ngành nghề hay cùng chung một cơ sở thương mại với nhau.

Có thể không cùng nghề nghiệp nhưng công việc của hai người luôn có sự liên hệ và hợp tác hổ trợ cho nhau. Ngoài ra, người Thân cư Phu Thê thường có thêm một nghề tay trái nữa. Nghề tay trái này lúc đầu chỉ như một cái thú tiêu khiển của đương số, hoặc cũng có thể như một nghiệp mà họ phải theo đuổi. Dần dần có thể trở thành một lãnh vực sinh hoạt không thể thiếu được trong cuộc sống hằng ngày của họ. Cũng có một số người thành công, thành danh bởi nghề tay trái này hơn là nghành nghề chính của họ. Bây giờ chúng ta có thể trở lại với hai nghi vấn mà chúng ta đã đề cập lúc mở đầu: Có phải những người Thân cư Phu Thê là có số nhờ chồng/vợ hay không? Đối với người Á Đông chúng ta thì chuyện “xuất giá tòng phu” là một quan niệm bình thường.

Do đó, nếu một người đàn bà có số Thân cư Phu Thê mà cuộc đời phải nương tựa vào chồng của mình thì đó là một điều hợp tình hợp lý. Nhưng đối với nam giới, nhất là trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, một người đàn ông có Thân cư Phu Thê là bị phán ngay là số nhờ vợ thì cũng tội nghiệp cho đương số. Để giải đoán cho phân minh, chúng ta phải cân nhắc giữa cung Phu Thê và cung Mệnh của đương sự. Chẳng hạn, người có Thân cư Phu Thê, nếu Mệnh của đương số yếu hơn cung Phu Thê (Mệnh nhược Thê cường) có nghĩa là người vợ của đương số có khả năng hơn chồng về mọi mặt từ trong nhà cho đến những giao tiếp ngoài xã hội. Như vậy chúng ta có thể nghĩ rằng những gì tạo dựng nên trong cuộc sống chung của hai người thì phần lớn đều do tay của người vợ. Đối với người đàn bà có Thân cư Phu Thê, vì bối cảnh xã hội ngày nay có khác, hai chữ “tòng phu” không còn nữa cho nên chúng ta cũng phải cân nhắc như vậy. Ngược lại nếu cung Mệnh của đương số tốt đẹp, sáng sủa hơn cung Phu Thê (Mệnh cường, Thê nhược) thì đây không phải là số nhờ chồng/vợ. Trường hợp này thông thường thì hai người cùng làm chung một ngành nghề hay cùng chung một cơ sở làm ăn, họ cùng góp sức tạo dựng với nhau trong cuộc sống chung, dĩ nhiên họ cũng có những sự ràng buộc chặt chẽ với nhau như đã bàn ở trên.

Có phải người Thân cư Phu Thê là số nể, sợ vợ/chồng hay không? Để trả lời vấn đề này, chúng ta cũng phải cân nhắc vấn đề mạnh và yếu giữa cung Mệnh và cung Phu Thê của đương số. Nếu Mệnh nhược Phu cường thì phải nể, sợ chồng là điều đương nhiên rồi. Chẳng hạn, lá số của một ông chồng có bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương thủ Mệnh, là bộ sao tiêu biểu cho văn cách nhưng cung Phu Thê lại có bộ sao Sát Phá Liêm Tham là biểu tượng cho võ cách. Trường hợp này việc điều hành từ trong ra ngoài cũng nhu vai trò chánh yếu trong gia đình đều do người vợ một tay thao túng hết. Điều này chúng ta cũng thấy rõ những đấng mày râu tuy cung Mệnh không thua kém gì cung Phu Thê nhưng cung Phu Thê lại có các sao như Thái Âm, Hóa Quyền tọa thủ hoặc hợp chiếu thì đấy cũng là hội viên cùng hội với Thúc Sinh rồi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẫu người Thân Cư Phu Thê –

Ý nghĩa tạo hình dáng bên ngoài của cửa hàng là gì? –

Tạo hình dáng bên ngoài của cửa hàng, từ ý nghĩa nào đó mà nói thì nó đại diện cho hình tượng của một cửa hàng. Tạo hình bên ngoài cửa hàng tốt, cửa hàng đó xây dựng được hình tượng tốt trong lòng khách hàng, khiến cho khách hàng đến cửa hàng mua vật
Ý nghĩa tạo hình dáng bên ngoài của cửa hàng là gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

phẩm đều có thể cảm thấy thực sự đáng tin cậy, từ đó tăng thêm danh tiếng của cửa hàng trong lòng khách hàng.


75214697-297184_24-4-honda-1

Ngược lại, nếu như cửa hàng có thiết kế hay kết cấu bên ngoài không hớp lý, mọi người nhìn vào đều cảm thấy vô cùng khó chịu, không những tạo ra những lời bình phẩm không hay mà còn khiến cho con người có phản cảm, thậm chí ghét bỏ, từ đó gây tổn hại đến hình tượng của cửa hàng trong suy nghĩ của khách hàng, khiến cho khách hàng không còn tín nhiệm đối với cửa hàng. Như vậy, khách hàng rất ít đến cửa hàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa tạo hình dáng bên ngoài của cửa hàng là gì? –

Xem Tử Vi theo ngày tháng năm sinh

Kết quả Thông tin gia chủ cung cấp: - Ngày sinh dương lịch: 01-06-1986 - Ngày sinh âm lịch: 24-4-1986, tức năm Bính Dần, Mệnh Lư Trung Hỏa. - Năm xem: 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


CHUNG: Theo Tử vi 2016, bản mệnh Dần bước vào năm 2016 cần chuẩn bị tâm lí đón tiếp một vận trình vất vả, khó khăn nhất vì rơi vào cục diện Dần Thân tương xung, trong đó vận Phạm Thái Tuế của bản mệnh ảnh hưởng cực lớn. Tuy vậy, vận mệnh tốt đẹp hay không phụ thuộc khá nhiều vào cá tính, sự quyết tâm của từng người bởi có lúc trong năm xung Thái Tuế lại thúc đẩy vận khí cho một số người. Bất luận vận trình của bản mệnh ra sao, có thể tận dụng hỉ sự để đuổi tà. Nếu trong năm nay bạn có 3 việc lớn như thành thân, thêm con cháu hoặc khởi nghiệp thì có thể giảm bớt hung vận từ Thái Tuế. Ngoài ra, trong năm nay có cát tinh đi vào cung mệnh, nếu cố gắng hết sức cũng gặt hái được thành công. Đây có thể coi là một năm lao động cật lực của bản mệnh. 


van trinh nam dan
 

HUNG TINH CHIẾU MỆNH NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Tuế Phá: Đại diện cho mối quan hệ giữa người với người bị phá hoại. Năm nay bản mệnh sẽ đắc tội với những người xung quanh, các mối quan hệ thiếu sự hài hòa, nếu muốn huy động nhân lực sẽ gặp khó khăn.

Đại Hao: Đại diện cho tiền bạc thất thoát, phá sản.

Lan Can: Đại diện cho sóng gió trong công việc, hành sự.

Nguyệt Sát: Chủ nhiều cho bản mệnh nữ. Vì vòng năm xung với Thái Tuế nên tuổi Dần sẽ có nhiều thay đổi về gia trạch, công việc ví dụ như lập nghiệp, di chuyển, nhân khẩu tăng giảm hoặc tính chất công việc sẽ bị thay đổi. Ví dụ, bạn có cơ hội đi công tác xa hay mở rộng thị trường ra nước ngoài. Ngoài ra, vì là năm xung vận nên bạn cần chú ý nhiều tới sức khỏe hoặc vận gia trạch.

CÁT TINH CHIẾU MỆNH NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Nhìn chung, năm nay bản mệnh Dần có nhiều biến động, phải trải qua nhiều sóng gió mà không có sự hỗ trợ của cát tinh. Vậy nên bản thân không cần đặt mục tiêu quá cao, tránh rơi vào tình trạng thất vọng. Ngoài ra, cần phải giữ thái độ khiêm nhường, dung hòa mọi mối quan hệ xã hội để trợ lực cho vận trình. Năm nay không có lợi cho mọi quyết định hệ trọng hoặc mở rộng kinh doanh. Kim Qũy là Tài điêu tinh có thể dự trữ tài phú, thúc đẩy tài lộc, tượng trưng cho phúc quý, là phương tiện cho người quyền cao chức trọng. Người có sao này chiếu rọi thì phúc lộc đủ đầy.



xh dan
 

TỬ VI NĂM 2016 CỤ THỂ CÁC TUỔI DẦN 

Tử vi năm 2016 tuổi Canh Dần - 66 tuổi - Tùng Bách Mộc

Canh Dần có Ngũ hoàng gia nhập cung mệnh, lại gặp Nhị Hắc Trung Cung nên cần chú ý nhiều về mặt sức khỏe. Trong năm Bính Thân này, bản mệnh phải chú ý tới đường tiết niệu, gan tạng. Nên tiết chế tính khí nóng nảy, bớt can thiệp vào cuộc sống của con cháu trong nhà, ra ngoài tham gia các hoạt động công cộng, gặp gỡ bạn bè nói chuyện, hóa giải cảm xúc bản thân. Nếu bản mệnh cảm thấy không thỏa mãn về vấn đề nào đó, không nên tùy ý tức giận, năm Bính Thân Hỏa vượng nên dễ phát hỏa mà sinh họa bệnh.

Vận trình năm 2016 tuổi  Nhâm Dần - 54 tuổi - Kim Bạch Kim

Tuổi Nhâm Dần năm nay vận sinh môn hiển địa gặp đằng tỵ quan cách nên có khả năng đề bạt vào vị trí cao. Nên thường xuyên trao đổi với lãnh đạo về suy nghĩ của mình, cố gắng biểu đạt rõ ràng chính kiến để lãnh đạo thêm hiểu và đánh giá cao khả năng của bản thân. Tuy nhiên đường tài lộc lại kém sắc, theo lẽ thường khi thăng chức thì lương sẽ tăng nhưng năm nay bản mệnh dễ rơi vào tình trạng đầu tư theo phong trào mà không suy nghĩ thấu đáo nên bản thân thường xuyên cảm thấy thiếu thốn, tiền bạc không đủ xài.

Mặt sức khỏe, cần chú ý cân bằng dinh dưỡng và vận động thể thao nhiều hơn giúp gân cốt co giãn. Ngày thường cần phải chú ý vấn đề đi lại, trong trường hợp thời tiết ẩm ướt, không nên ra ngoài tránh hiện tượng trơn trượt.

Vận trình năm 2016 tuổi  Giáp Dần - 42 tuổi - Đại Giản Thủy

Giáp Dần gặp vận khí Thiên Môn, Phù gặp Thanh Long cách nên năm mới này bản mệnh sẽ có tư tưởng mạnh mẽ muốn được xây dựng hay thay đổi sự nghiệp nên công việc không được ổn định. Với tham vọng quá lớn, bản mệnh dễ cảm thấy áp lực trong công việc. Tuy nhiên lại có quý nhân phù trợ, hỗ trợ cho công việc, sự nghiệp thuận lợi.

Năm nay vận đào hoa rất mạnh nên những người tuổi Dần còn độc thân phải chú ý trong sự chọn lựa nửa kia cho mình, đừng để vận đào hoa làm mờ mắt rồi lãng phí thời gian yêu đương vô bổ. Về sức khỏe, bình thường bạn không nên thức khuya, chú ý bảo vệ thị lực. Đặc biệt những người hay tiếp xúc máy tính không được thức quá khuya, chú ý những bệnh về huyết quản.

Vận trình 2016 tuổi  Bính Dần - 30 tuổi - Lư Trung Hoả

Bính Dần gặp vận Địa Môn, Kỳ Thần Hợp Minh cách cục diện nên vạn sự như ý, sự nghiệp tất thăng. Mặt thứ tài cũng khả quan, nhiều chuyện hỉ sự do bạn bè mang tới. Tuy vậy bản mệnh cần chú ý vận trình từng tháng vì một khi vòng tháng qua tiết Xuân Hạ, nhất định không được tham gia các trò đỏ đen, tránh bị thua lỗ nặng nề. Mặt công việc, cần chú ý mối quan hệ với đồng nghiệp nhiều hơn bởi năm nay bạn sẽ vì một chút việc nhỏ mà bị kích động dẫn tới nhiều kết quả không mong muốn. Ngoài ra, năm Bính Thân có lợi cho bản mệnh Dần muốn thăng chức hoặc đi thi lên bằng.

Tử vi năm 2016 tuổi  Mậu Dần - 18 tuổi -Thành Đầu Thổ

Mậu Dần vào năm Bính Thân có Thanh Long nhập lao cách cục diện, đại diện cho vận khí không tốt nên hiệu quả làm việc tương đối thấp. Trong năm sẽ sản sinh nhiều hiện tượng tâm lí phản nghịch, bướng bỉnh nên cần có sự chỉ dẫn kiên nhẫn từ phụ huynh. Thành tích học tập bất ổn, sự khác biệt về điểm số tương đối cao. Trong quá trình học hành hoặc tham gia công việc, bản mệnh đều không thể tập trung tinh thần, nên cần có sự hỗ trợ hiệu quả từ phía cha mẹ. Nhiều khả năng bản mệnh sẽ suy nghĩ về tình cảm nam nữ, tuy vậy không được để chuyện tình cảm nam nữ làm lỡ dở việc học hành.

Vận trình 2016 tuổi  Canh Dần - 6 tuổi - Tùng Bá Mộc

Bạn nhỏ sinh năm Canh Dần bước vào năm 2016 cần cố gắng học hành hơn nữa, có thể thử sức những môn học khác nằm ngoài sở thích của mình để có thể phát triển toàn diện và đa dạng hơn. Năm nay tính tình Canh Dần có chút xáo trộn, tính khí không tốt, thích thể hiện ý kiến cá nhân khiến bạn bè và bạn học cảm thấy khó chịu. Vì thế cha mẹ nên quan tâm nhiều hơn tới nội tâm của trẻ để đưa ra những định hướng đúng đắn. Mặt sức khỏe, cần chú ý những bệnh vặt như: cảm cúm, ho khan, da dẻ mẫn cảm, dị ứng...

su nghiep
 

SỰ NGHIỆP CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Năm 2016 bản mệnh Dần chịu sự ảnh hưởng của cục diện Xung Thái Tuế nên vận thế sự nghiệp biến đổi khôn lường như: sự thay đổi vị trí lãnh đạo trong công ty, điều động nhân sự hay vị trí công việc. Nếu có cơ hội đi công tác, bạn nên nắm bắt vì điều đó rất có lợi cho việc thay đổi vận trình. Vì là một năm tương xung với Bính Thân nên khi ra khỏi nhà bạn cần chú ý tiền bạc và hành lí, tránh bị mất hoặc trộm cắp.

Năm 2016 là một năm rèn luyện cho tuổi Dần về mọi mặt, tuy có những việc đã chuẩn bị từ trước nhưng vẫn không tránh được vấn đề xảy ra hoặc gặp người gây trở ngại. Tuy vậy bản mệnh không được hấp tấp mà gây ra mâu thuẫn khó giải quyết. Khi tiến hành bất cứ việc gì, bản mệnh cần chuẩn bị tâm lí sẵn sàng, kiểm soát tốt cảm xúc, đặc biệt là khi bàn chuyện làm ăn với đối tác.

tai loc
 

TÀI LỘC CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Năm nay, bạn có hung tinh Đại Hao soi chiếu kết hợp với vận trình Xung Thái Tuế đại diện cho sự tổn thất to lớn về mặt tài lộc. Trong năm bản mệnh phát sinh nhiều chi tiêu ngoài ý muốn như sửa chữa đồ đạc trong nhà, xe cộ hoặc mất mát.

Với những người làm kinh doanh, phải cần thận tiền vốn của mình, cố gắng chi tiêu tiết kiệm trong năm. Nếu có điều kiện, nên dùng tiền bạc tích lũy được để mua nhà, cửa hàng hoặc vàng bạc. Bản mệnh nên chủ động đề phòng họa phá tài vì trong năm Thân, bất luận chính tài hay thứ tài đều rất kém, thậm chí có thể hiểu bạn đang bước bên bờ vực thẳm, nên tránh xa cờ bạc xổ số. Năm nay vì tiền bạc mà bản mệnh sẽ phát sinh cạnh tranh mạnh mẽ, đối với công việc hay quan hệ liên quan đến tài chính, tư pháp đều nên cẩn thận, giữ quan hệ hài hòa, tránh vướng vào họa kiện tụng.


suc khoe
 

SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Bản mệnh Dần trong năm Thân gặp cục diện Dần Mộc đối xung, tương khắc với Thân Kim nên những bộ phận trong lục phủ ngũ tạng như gan thuộc Mộc, phổi thuộc Kim dễ bị ảnh hưởng. Gan dễ sinh hỏa khiến tính khí bản mệnh hấp tấp nóng vội không thể khống chế bản thân. Mà gan bốc hỏa thì phổi sẽ bị thương khiến hệ thống hô hấp gặp trở ngại. Những người trước đây có bệnh viêm xoang mãn tính càng phải chú ý bảo vệ cho mình. Ngoài ra cũng nên chú ý nhiều đến đôi chân, việc đi lại xa xôi và thường xuyên sẽ khiến bàn chân hoặc mắt cá chân dễ bị thương tổn. Bên cạnh đó, khi tham gia giao thông cần biệt cảnh giác với tình trạng mặt đường xấu, tránh tai nạn bất ngờ. 


tinh cam
 

TÌNH CẢM CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Mặt tình cảm trong năm Bính Thân của người tuổi Dần dễ dàng gặp phải trắc trở thậm chí ảnh hưởng sâu sắc tới tinh thần của bạn. Vì năm xung hạn với Thái Tuế, những ai đang thầm thương trộm nhớ đối phương không nên bày tỏ công khai tình cảm vì tỉ lệ bị từ chối tương đối cao. Với những người có kế hoạch kết hôn trong năm, nên nhanh chóng nhờ hỉ sự tương trợ đẩy lui mức ảnh hưởng từ vòng Thái Tuế. Trong quá trình chuẩn bị cho hôn lễ nên đề phòng tiểu nhân phá đám, hoặc bản mệnh có thể dùng phương pháp “xa thơm gần thối”, dành cho nhau khoảng cách nhất định để cả hai có không gian suy nghĩ, tự mình phát triển sự nghiệp hoặc sở thích riêng tư. 


nhan duyen
 

NHÂN DUYÊN CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Theo Tử vi 2016, mặt quan hệ xã hội của người tuổi Dần trong năm nay cũng có thể coi là một trong những con giáp hưng thịnh nhất, bạn dễ dàng được đồng nghiệp hoặc thượng cấp giúp đỡ và đánh giá cao, mặt sự nghiệp vì thế cũng có sự tiến triển. Dù mối quan hệ cá nhân tốt những bản mệnh vẫn phải lưu ý những tranh chấp đơn giản về lời ăn tiếng nói hàng ngày đối với đồng nghiệp, nó dễ dàng đẩy bạn vào tình trạng xung đột với lãnh đạo trên phương diện công việc. Lời khuyên dành cho bạn đó là đừng đắc tội với đồng nghiệp hay lãnh đạo nếu không sự nghiệp chắc chắn bất lợi.


tinh van
 

TINH VẬN CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Chịu ảnh hưởng bất lợi từ vòng Thái Tuế, hướng chính Nam trở thành phương vị cực hung của người tuổi Dần trong năm nay. Nên dù là phương vị phòng ngủ hay phương vị bàn làm việc bạn cũng nên tránh hướng chính Nam. Bản mệnh cần lưu ý những ảnh hưởng của hướng này đối với vận trình, sắp xếp phương vị bàn làm việc hay giường ngủ cũng phải tìm chính xác vị trí tài lộc thì mới giúp đỡ vận trình của bạn hưng thịnh.


TỬ VI 12  THÁNG CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

vt thang 1
 
Tháng đầu tiên trong năm 2016, bản mệnh Dần chính thức bước vào năm hạn xung Thái Tuế, vì vậy nên chuẩn bị kĩ tinh thần và vật chất tránh thất thoát nghiêm trọng. Tháng này có nhiều cơ hội tốt xuất hiện nhưng lại gặp ám tàng Phá Hao nên nhất định bạn không được kích động, tránh xa cờ bạc dưới bất kì hình thức nào như đánh bạc đầu xuân, đầu tư mà gây tổn thất về chính tài. Nếu công việc gặp trắc trở cần hết sức nhẫn nhịn phân tích đường tới lui, cái được cái mất thì mới an toàn mà qua hết tháng. Nếu bạn tuổi Dần nào có kế hoạch lập nghiệp mới, chỉ cần củng cố thêm nền tảng cơ bản, người xưa có câu biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Về mặt tình cảm, nhân duyên khá tốt, người độc thân có nhiều cơ hội gặp gỡ bạn khác giới.


vt thang 2
 
Tháng Hai âm lịch, toàn thể vận trình của bản mệnh khá hiền hòa, công việc như ý, tài lộc ổn định chỉ cần học cách hài lòng với chính mình, không quá kén chọn, đây có thể coi như một tháng vui vẻ bình yên. Vào giữa tháng công việc và gia đình khiến bạn khá bận rộn, một mặt phải làm việc quá giờ lại thêm thường xuyên tụ họp gặp gỡ bạn bè khiến việc ăn uống mất cân bằng dễ gặp các vấn đề về tiêu hóa, đặc biệt là dạ dày. Tốt nhất bản mệnh nên biết chăm sóc sức khỏe bản thân, cố gắng bổ sung chất bổ, nghỉ ngơi nhiều hơn nữa thì mới tránh được nguy cơ bệnh tật.


vt thang 3
 
Tháng 3 âm lịch, bản mệnh bị Ngũ Quan và Phi Phù chiếu mệnh nên mặt công việc và con người đều rắc rối. Trong tháng bạn nên cẩn thận khi xử lý hợp đồng, văn bản tránh những lỗi nhỏ nhặt, đồng thời đề phòng bị người khác lợi dụng hoặc gặp tiểu nhân chơi xấu khi đang làm việc. Với các mối quan hệ xã hội, nên thường xuyên tu tâm dưỡng tính, phụng sự luật pháp tránh những rắc rối đường quan lộc. Tháng này người nhà hoặc công việc, chỗ ở của bạn sẽ có biến động, nếu có thể hãy giúp đỡ mọi người hết mình. Mặt sức khỏe không được tốt vì thường xuyên "hoạt động về đêm", không đảm bảo chất lượng giấc ngủ.

vt thang 4
 
Tháng này bản mệnh gặp Tiểu Hao và Lục Hại nên phải chú ý mặt chi tiêu tiền bạc, không nên vì vận tài lộc tốt đẹp từ tháng trước mà tháng này bạn thoải mái chi tiêu hơn. Mặt tình cảm, với người chưa kết hôn hoặc đã kết hôn nên đề phòng vận đào hoa trong tháng, cố gắng không gây tổn thương cho nửa kia. Chú ý vận trình tình cảm cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp và tài lộc trong tháng này.


vt thang 5
 
Tháng Ngọ Dần tam hợp cục diện, lại thêm cát tinh Kim Qũy chiếu rọi nên mọi khó khăn mặt công việc trong nhiều tháng trước sẽ được giải toả trong tháng này. Với những người làm kinh doanh, làm đại diện nếu gặp cơ hội đàm phán làm ăn hay kế hoạch buôn bán tốt cần nhanh chóng nắm bắt cơ hội, tỉ lệ thành công trong công việc của bạn rất lớn, lợi nhuận khả quan thúc đẩy đường chính tài khởi sắc. Ngoài ra, trong tháng có cát tinh đi vào cung mệnh nên đường tài lộc của bản mệnh khá ổn định, tuy vậy bạn vẫn nằm trong vòng kiểm soát của Thái Tuế nên cần kìm chế lòng tham của bản thân, tránh bị người khác lợi dụng.


vt thang 6
 
Bước vào tháng 6 âm lịch này vận trình tuổi Dần có sự thay đổi tích cực. Tháng trước bạn gặp bất hòa với đồng nghiệp, tháng này quý nhân sẽ giúp bạn hòa giải, xóa bỏ mâu thuẫn. Vì vậy mà công việc của bạn sẽ tự nhiên thuận lợi. Trong tháng lại gặp Thiên Hỉ tinh nên mọi mặt đều phát triển thuận buồm xuôi gió, khiến tinh thần bản mệnh thêm thoải mái, dễ chịu. Người chưa kết hôn cần chú ý những người bạn mới xuất hiện xung quanh mình, biết đâu bạn sẽ gặp được ý trung nhân của mình. 


vt thang 7
 
Tử vi năm 2016 cho thấy, tháng gặp Dần Thân tương xung lại thêm tương xung Thái Tuế hung tinh tụ hội, có thể nói vận trình tuổi Dần tháng này bất ổn, đáng lo ngại. Con đường đi phía trước đầy gập gềnh nên bạn cần suy nghĩ kĩ càng trước khi hành động, làm việc nên chú ý nhiều vào chuyên môn, tránh bàn chuyện phiếm, lo chuyện bao đồng. Nguyệt Lệnh đe dọa khiến đường chính tài nguy hại, mặt sức khỏe cũng không khả quan, dễ mắc nhiều bệnh vặt. Ngoài ra, bản mệnh cũng nên quan tâm tới người lớn và con trẻ trong nhà, chú ý an toàn ngay cả trong nhà cũng như khi đi ra ngoài.


vt thang 8
 
Có thể nói trong tháng này bản mệnh gặp nhiều hỉ tinh và hung tinh kết giao nhất trong năm đó là Thiên Hỉ và Phúc Tinh cùng Thiên Ách và Giảo Sát. Những người làm các công việc giữ gìn an ninh trật tự như như bảo vệ, hải quan, cứu hỏa, cảnh sát… sẽ là những bản mệnh bận rộn nhất. Mặc dù bạn gặp vận xung Thái Tuế nhưng nhờ có Thiên Hỉ tinh che chở mà sẽ có cơ hội thăng chức, cần nắm bắt tốt thời cơ, nỗ lực hết mình để thành công. Lưu ý, những hung tinh nói trên chủ về việc mâu thuẫn với đồng nghiệp hoặc cấp trên, nên bản mệnh có nguy cơ bị đuổi việc.


vt thang 9
 
Tháng bạn gặp nhiều bất lợi như tiểu nhân, thị phi, đồn đại vì vậy nên người tuổi Dần phải bảo vệ bản thân trước tránh rơi vào vòng xoáy dư luận. Khi xử lí mọi việc cần khiêm tốn nhún nhường, tập trung vào việc là chính. Tháng có Cô Quả tinh đi vào cung mệnh nên bản mệnh nữ có nhiều bất lợi về mặt tình cảm, tuy nhiên chỉ cần có lòng tin nơi nửa kia và chính mình thì mọi phiền não sẽ đi qua. Trong tháng Mậu Tuất này có nhiều biến động lớn như di chuyển nhiều, chuyển nhà hoặc phải tu sửa. Bạn có thể tận dụng cơ hội này thay đổi không gian sống, cải thiện và nâng cấp vận khí. Mặt sức khỏe, nếu gặp bệnh về da hoặc vai có thể tìm tới thuốc nam.


vt thang 10
 
Tháng có vận Thái Tuế đã đi qua gần 1 năm lại thêm Nguyệt Lệnh hợp với bản mệnh Dần nên bạn cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong công việc. Tháng gặp Lộc Huân và Long Đức tinh nên những người theo công việc tài chính sẽ phát triển rất thành, thu về khoản thu nhập lớn. Người làm bất động sản, bảo hiểm, công việc rất thuận lợi, doanh thu tăng gấp đôi, tiền bạc dồi dào. Mặt tình cảm, bản mệnh được tương hợp hữu tình, những người đang yêu càng thêm gắn bó, mặn nồng. Người độc thân có cơ hội gặp ý trung nhân. Tuy nhiên, do Nguyệt Lệnh phạm vào Vong Thần nên bạn cần giảm bớt các buổi gặp gỡ, tụ tập ăn uống mà cần tăng cường nghỉ ngơi, chú ý đến các vấn đề về dạ dày.


vt thang 11
 
Bước vào tháng gần cuối năm Bính Thân, bản mệnh Dần gặp Kiếp Sát và Phệ Ma nên vận trình có kém hơn so với những tháng trước, đây được coi như "bài kiểm tra cuối năm" dành cho bạn. Mặt công việc, bạn sẽ phải làm việc nhiều hơn, mặc dù vất vả nhưng nên kiểm soát tốt cảm xúc, tránh sự hiểu nhầm của đồng nghiệp sẽ phát sinh điều khó lường trước.

Mặt tài lộc, cần phải chú ý đề phòng mất mát. Người đang làm chủ chú ý vấn đề dùng người, nhận kẻ xấu làm việc sẽ gây tổn thất lớn về tiền bạc. Mặt tình cảm không thuận lợi, người đã kết hôn dễ xảy ra chiến tranh lạnh, các cặp đôi đang yêu cũng khó tránh việc cãi vã, mâu thuẫn. Mặt gia trạch, cần chú ý người nhà ở xa có bệnh cũ tái phát hoặc một vài bất hòa trong gia đình, nên nhớ gia đình hòa thuận thì vạn sự như ý.


vt thang 12
 
Theo Tử vi 2016, tháng cuối cùng trong năm, bản mệnh gặp cục hình xung nên vận trình lại khấp khểnh khó lường. Mặt công việc, bản mệnh cần chú ý nhiều đến sổ sách, số liệu, tránh lơ là sẽ phạm sai lầm và gây nhiều khó khăn trong công việc. Chuyện tình cảm có chút sóng gió, nhưng nếu bạn dành thời gian, tâm tư và tinh thần để bù đắp những tổn thương đã xảy ra, mối quan hệ đôi bên sẽ tiến thêm bước mới. Bước sang năm mới chính là thời gian tốt nhất để gắn kết mối lương duyên này. Mặt sức khỏe, bạn dễ gặp nhiều bệnh về tinh thần như căng thẳng phiền não, lại cộng thêm tam hình gặp xung, Kiếm Phong tinh trực diện Nguyệt Lệnh nên càng phải chú ý đề phòng bệnh tật và vấn đề đi lại.


HÓA GIẢI

Bước vào năm phạm Thái Tuế nên bản mệnh Dần có thể dùng túi thơm Quản Trung hóa Thái Tuế để hóa giải vận hạn. Ngoài bản thân, nếu có thể, bạn nên thỉnh những đồ vật cát tường để bảo vệ người nhà hoặc bạn bè thân thiết, giúp bản thân và mọi người cùng nhau trải qua một năm Bính Thân bình an.

Bạn có thể đeo ngọc bội Kim Quyền Trấn Bảo để bảo vệ sự bình an cho bản thân. Ngọc này là một con Kim Khuyển uy mãnh, đầu hướng về phía Đông tọa trấn nguyên bảo. Kim Khuyển thông kim quyền, chủ quản vận mệnh của người tuổi Dần. Khuyển được coi là một trong những cát thú trong truyền thuyết, có Kim Khuyển lâm môn thì như hỉ sự vào nhà, chủ hưng vượng gia nghiệp, trấn trạch đuổi tà giúp bản mệng một năm bình an, gia tăng tài lộc. Bản mệnh còn có thể sử dụng vòng cổ Tam Hợp Liên Hoa phối hợp với ngọc bội để vững mạnh vận trình phát huy uy lực, chuẩn bị thêm vòng tay Bát Phương Lục Thánh, Thái Ất Trợ Dần để hóa sát cầu quý nhân.


BẢN MỆNH PHẬT


phat dan 1
 
Hư Không Tạng Bồ Tát là Phật bản mệnh của người tuổi Dần, ngài đại diện cho sự thành thật, phúc lộc. Bất hư bất không là thần tài của Phật giới, khi đeo bản mệnh Phật này tài lộc dồi dào, tài lộ hanh thông, lại còn sinh tài tụ tài được quý nhân bát phương tương trợ, xa rời tiểu nhân, nhân tài chiêu vượng.

Hư Không Tạng Bồ Tát ở tại hai Bộ Kim Thai. Bên trong Kim Cương Giới Mạn Trà La cũng là Kim Cương Bảo Bồ Tát, là một Tôn trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp, có vị trí thứ ba tại phương Nam của cái Đàn hình vuông ở Ngoại Viện.

Kinh Hư Không Tạng có nói rằng: “Nếu có người muốn được Trí Tuệ, muốn được Đại Gia kính yêu, muốn được tiếng ca hay tốt, muốn được vị trí của Đế Vương với trăm Quan, muốn được mọi loại tài sản với quyến thuộc mỹ mãn, đồng thời ngay sau khi thực hành điều tốt lành (hành thiện) thì nổi tiếng trong Thiên Hạ… nên thường xuyên niệm danh tự của Tôn này, nhất định đạt được như nguyện”.

Hình tượng của Hư Không Tạng Bồ Tát: “Đầu đội mão năm Phật, gập cong cánh tay phải cầm cây kiếm, cây kiếm có lửa sáng; tay trái để ở eo nắm quyền cầm hoa sen, trên hoa sen có vật báu như viên ngọc. Hư Không Tạng Bồ Tát có thân màu trắng, ngồi trên hoa sen xanh”.

Hư Không Tạng Bồ Tát có Bí Hiệu là Khố Tàng Kim Cương, ý nghĩa là ngài hay ghi trụ hết thảy kho tàng, nắm hết thảy Đông Tây đều ghi tại mặt bên trong của Não Hải (bộ óc hoặc tư tưởng) là một vị Bồ Tát rất có Trí Tuệ.

Hư Không Tạng Bồ Tát thường trụ tại Thế Giới Hương Tích, Trí Tuệ đấy sâu rộng như hư không, cho nên gọi là Hư Không Tạng.

Hư Không Tạng Bồ Tát kiêm đủ hai môn Đại Bí Mật của Phước Đức và Trí Tuệ, xuất xứ từ Kinh Hư Không Tạng, phẩm Hư Không Tạng của Kinh Đại Tập, Kinh Bát Đại Bồ Tát Mạn Trà La… tu tập Hư Không Tạng Bồ Tát Pháp có thể được mọi nhóm Trí Tuệ, Ký Ức (ghi nhớ), công danh….
Nguồn: Tạng kinh phật giáo. boi tu vi van trinh nam
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem Tử Vi theo ngày tháng năm sinh

Mơ thấy ngựa: Có liên quan đến bạn bè và tình yêu –

Trong mơ, thấy mình đang ngồi trên lưng bạch mã phi nhanh, dự báo người nằm mơ có tiền đồ sáng lạn, bạn bè chân thành tận tâm, bạn gái chung thủy đáng yêu. Vì trong chuyện đồng thoại, “bạch mã hoàng tử” là tượng trưng của tình yêu thuần khiết sáng tr
Mơ thấy ngựa: Có liên quan đến bạn bè và tình yêu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy ngựa: Có liên quan đến bạn bè và tình yêu –

Cách mua đèn –

Ngày nay, trong các gia đình, đèn điện không chỉ đơn thuần được dùng để thắp sáng mà còn có tác dụng trang trí, tô điểm thêm cho vẻ đẹp của ngôi nhà, vì thế khi chọn mua đèn, để đạt được hiệu quả cao nhất, bạn cần chú ý đến yếu tố nghệ thuật của nó c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ũng như các yếu tố khác của ngôi nhà bạn đang ở như kết cấu, kích thước, màu sắc… xem chúng có thể kết hợp hài hòa thống nhất với nhau hay không. Hãy đảm bảo rằng chiếc đèn bạn sắp mua không những có thể thắp sáng mà còn có tính nghệ thuật cao. Những ngôi nhà, những không gian khác nhau thì phải dùng các loại đèn khác nhau:

42800238

–  Đèn treo làm cho không gian trang hoàng lộng lẫy, hợp với phòng khách.

–  Đèn trần to nhã, thích hợp dùng trong phòng ngủ.

–  Đèn sát đất tạo ánh sáng muôn hình muôn vẻ, chủ yếu dùng để trang trí như một thứ đồ thủ công mỹ nghệ, có thể để trong phòng ngủ, nhưng thường dùng bày cạnh ghế sopha trong phòng khách.

–  Đèn bàn tĩnh tạo cảm giác huyền bí, là vật thắp sáng chuyên dụng trong thư phòng, cũng là một vật trang trí không thể thiếu trên mỗi bàn học.

Ngoài ra, bạn có thể vận dụng ánh sáng để trang trí căn phòng của mình tùy theo sở thích và nhu cầu. Chẳng hạn, lắp bóng đèn huỳnh quang trên một mép tường, dùng một tấm chắn để che ánh sáng phát ra, làm ánh sáng chỉ chiếu dọc theo mép tường, tạo nên một không gian huyền bí, hấp dẫn. Hoặc cũng có thể thắp một bóng đèn dây tóc nhỏ trong tủ kính để làm nổi bật các vật trang trí bày bên trong.

Thắp một bóng đèn nhỏ màu xanh da trời đậm trong phòng, khi xem phim sẽ có tác dụng tránh cho đôi mắt của bạn bị mỏi mệt.

–  Đèn trong phòng ngủ

Ánh đèn trong phòng ngủ không được quá sáng và mạnh mà phải dịu nhẹ, dễ chịu và có hồn. Hãy thắp những bóng đèn mang màu sắc khác nhau ở nhiều vị trí để tạo nên những mảng không gian khác nhau trong phòng ngủ. Ngoài ra, còn có thể thắp một chiếc đèn tường phía trên đầu giường, đầu đèn có thể chuyển động theo nhiều hướng khác nhau, rất tiện cho việc đọc sách.

–  Đèn trong phòng bếp

Do trong phòng bếp có nhiều hơi nước, bụi bặm và dầu mỡ, nên phải chọn loại đèn có kết cấu đơn giản và có thể lau chùi dễ dàng. Thông thường nên chọn loại đèn trần.

–  Đèn trong phòng vệ sinh

Nên chọn loại đèn tường hoặc đèn trần có khả năng chịu được hơi nước.

–  Kết hợp màu sắc của đèn và đồ dùng gia đình

Màu của đèn và các đồ dùng gia đình phải được kết hợp hài hòa để tạo cảm giác dễ chịu. Với các đồ dùng gia đình màu đậm, nếu kết hợp với loại đèn màu hồng hay màu tím thì không gian căn phòng sẽ trở nên lộng lẫy, sống động, nhưng nếu kết hợp với các bóng đèn màu kem hay màu vàng nhạt thì căn phòng sẽ toát lên một vẻ trang nhã và phóng khoáng. Đồ dùng gia đình màu nhạt kết hợp với đèn màu xanh lá cây hoặc xanh da trời nhạt sẽ tạo nên một vẻ đẹp nho nhã dễ chịu cho căn phòng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách mua đèn –

4 lưu ý tháng cô hồn cho cả nhà cách xa xui xẻo

Trong tháng "mở cửa mả", gia đình cần chú ý những điều quan trọng trong nhà ở để tránh gặp vận hạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 1 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 2 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 3 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 4 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 5 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 6
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 lưu ý tháng cô hồn cho cả nhà cách xa xui xẻo

Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì?

Có những người nguyện ném đá giấu tay, lợi dụng người khác để hoàn thành mục đích của mình. Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì?
Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xã hội này vốn là tài nguyên thì ít và nhân khẩu thì đông, phải có cách khôn khéo tận dụng mới mong bản thân được hưởng lợi. Chính vì vậy mà sinh ra những người nguyện ném đá giấu tay, lợi dụng người khác để hoàn thành mục đích của mình. Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì?

Dong co khien 12 chom sao loi dung nguoi khac la gi
 

Bạch Dương: chất lượng sinh hoạt

  Đặc trưng tính cách của chòm sao này chính là tiến về phía trước, không ngừng theo đuổi thứ tốt hơn. Vì chất lượng cuộc sống của mình, đừng nói là lợi dụng người khác, bất cứ việc gì Bạch Dương cũng đều không chút do dự, sẵn sàng đánh đổi. Nhiều người bị họ lợi dụng rồi còn cảm thấy bất ngờ.   Phương thức cao minh xảo diệu, cừu trắng sẽ khiến người khác không nhìn ra mình đang lợi dụng, quá trình nhuần nhuyễn, thu hoạch kết quả tốt, sau đó phủi sạch tay coi như chưa từng có chuyện gì xảy ra không chút áy náy. Quả nhiên là cao thủ máu lạnh vô tình hiếm ai sánh kịp.
Xem thêm bài viết Bật mí 4 chòm sao nam cực siêu chuyện "chăn gối"

Kim Ngưu: nắm lấy cơ hội

  12 chòm sao lợi dụng người khác ai cũng có mục đích riêng, đối với Kim Ngưu chính là vì cơ hội. chòm sao này không coi trọng chất lượng cuộc sống nhưng lại vô cùng lưu ý tới thành quả của bản thân, nói cách khác là họ muốn có cảm giác chiến thắng. Vì thế cơ hội tốt tới, sao có thể bỏ lỡ.   Ngay cả nằm mơ Kim Ngưu cũng muốn trở thành người kiệt xuất, khát khao được thể hiện năng lực, được mọi người đón nhận. Thời cơ bày ra, kể cả phải lợi dụng người khác cũng không chút ngần ngại. Trong đời có rất nhiều thứ chỉ tới một lần, rất nhiều cơ hội trôi qua không trở lại nên Ngưu chan chỉ biết nhắm mắt nắm lấy mà thôi.  

Song Tử: vì ái tình

  Cái gì cũng có thể vô tư nhưng với tình yêu lại không thể buông bỏ, thậm chí dám vì yêu mà không chừa thủ đoạn, bất phân đúng sai. Trong thế giới tình cảm của Song Tử, họ vẫn luôn là đứa trẻ không lớn mà tình yêu như cây kẹo ngọt buộc phải giành cho bằng được.    Yêu rồi không nỡ buông, quý trọng vô cùng, hạnh phúc vui sướng, thà dùng thủ đoạn mà bảo vệ được tình yêu còn hơn là làm chính nhân quân tử mà phải biệt ly đau khổ. Song Tử quên mất rằng, tình yêu cũng chẳng vĩnh viễn, giống như mọi thứ trên đời, huống hồ là nó được xây dựng trên sự lừa dối. 

Cự Giải: bất đắc dĩ

  Tính cách khoan hòa nhân nhượng, hiền lành như Cự Giải sẽ không bao giờ lợi dụng người khác, trừ khi bị ép buộc, trong tình thế không còn cách nào khác. Nếu chòm sao này đã thử mọi phương pháp, mọi đường hướng nhưng vẫn vô ích, không còn đường lui thì mới tiến hành con đường cuối cùng này.    Mà Cự Giải ngốc nghếch có lợi dụng người khác thì cũng không sao làm cho suôn sẻ trót lọt được. Hành động thiếu tự nhiên, không xuất phát từ nội tâm nên không hiệu quả, mãi về sau này bạn sẽ còn hối hận rất nhiều vì lần dối trá hiếm hoi đó, không thể quên được.   

Sư Tử: người khác khuyến khích


12 chom sao loi dung nguoi khac
 
Dáng vẻ ngây thơ và cao ngạo của Sư Tử làm thế nào lại đi lợi dụng người khác cơ chứ. Vốn là họ chẳng có hứng làm vậy đâu, cái gì cũng phải đường đường chính chính cơ, kể cả có cơ hội giẫm dạp lên kẻ khác mà tiến lên họ cũng không làm. Trừ phi bên cạnh được người ta khuyến khích, chỉ điểm.    Có thể nói Sư Tử chỉ là người tiến hành còn giật dây lại là kẻ khác. Kẻ này lợi dụng sự nghĩa khí và tính bốc đồng, thích thể hiện mình của Sư Tử để khiến mọi việc phát triển theo hướng có lợi cho bản thân chứ chẳng thật tâm nghĩ tới lợi ích của chòm sao ngốc này đâu.
Xem thêm bài viết Chỉ ra 4 chòm sao biết kiếm tiền nhưng không giỏi tích lũy
 

Xử Nữ: tâm lý mua vui

  Lý do 12 chòm sao lợi dụng người khác thường xuất phát từ lợi ích thực tiễn nhưng riêng Xử Nữ, đó chỉ là cuộc vui mà thôi. Xem người khác thành kẻ ngốc, làm những điều mà mình chỉ bảo sẽ khá thú vị và mang tính giải trí, có thể thỏa mãn thói hư vinh, thích chỉ đạo của cung hoàng đạo này.   Tuy tâm lý biến thái như vậy nhưng Xử Nữ không phải người quá đáng, không tới mức hại người tới thất điên bát đảo, cuối cùng cũng dừng lại vừa phải, không gây hậu quả nặng nề. Nhưng biết đâu, đối phương lại chẳng thể tha thứ cho tâm lý mua vui đáng ghét này của bạn.  

Thiên Bình: thu được vinh dự

  Ngàn năm khó đổi, thích vinh dự và mong muốn ngưỡng mộ, Thiên Bình rất coi trọng ánh nhìn của người khác đối với mình. Nếu người ta chẳng ai nhòm ngó tới thì họ chắc chắn sẽ dùng toàn tâm toàn ý, trăm phương ngàn kế, không tiếc lợi dụng người khác để thu về ánh hào quang.    Thực ra lòng hư vinh này đâu có ảnh hưởng tới cơm ăn áo mặc của Thiên Bình, nhưng họ chẳng hiểu, nhất định phải đạt được mới thôi. Đó chính là tư tưởng cạnh tranh sinh tồn. Nói cách khác, thà mình hơn người còn hơn để người hơn mình, nếu mình không đủ thông minh sẽ bị người khác đè đầu cưỡi cổ mất.   

Hổ Cáp: tâm lý trả thù

 

Nói trả thù tựa như rất độc ác nhưng thực ra không phải vậy. Hổ Cáp bản chất thiên lương, thường hồ đồ trong chuyện tình cảm, lúc bị người ta hãm hại mới tức giận, cuống lên phản công. Họ không thể im lặng mà chịu chà đạp như vậy được, phải vùng lên cho kẻ kia biết tay.   Nếu người khác không động tới mình, Hổ Cáp sẽ ngoan ngoãn lặng lẽ nhưng một khi chọc giận chòm sao này thì khẳng định là vô cùng thê thảm, vô cùng xui xẻo. Lòng dạ không ác nhưng một khi đã ác thì không ai bằng, không muốn lợi dụng nhưng một khi lợi dụng thì tới bến luôn.  

Nhân Mã: muốn thoát khỏi

  Nhân Mã ghét nhất là những thủ đoạn không quang minh chính đại nên muốn họ lợi dụng người khác thì rất hiếm khi. Trừ trường hợp muốn thoát khỏi ai đó hoặc cái gì đó, ở tình thế bắt buộc họ mới miễn cưỡng làm sai nguyên tắc của chính mình. Với cá tính tự do tự tại thế này, phải lựa chọn giữa tự do và vi phạm nguyên tắc, họ chọn vi phạm.   Lợi dụng mới có tự do, mới có thể toàn tâm toàn ý làm theo nguyên tắc. Mâu thuẫn trong nội hàm con người Nhân Mã khiến họ buộc phải mạnh mẽ hơn, toàn tâm toàn ý đau một lần rồi thôi, cắt đứt mọi trở ngại và trở lại là chính mình, không ràng buộc, không tù túng.  

Ma Kết: giữ gìn danh dự

  Một thứ mà Ma Kết không thể buông được là danh dự, nói cách khác họ giữ hình tượng hơn giữ mạng. Kiêu ngạo, lạnh lùng, cố chấp, dù đang rất thê thảm cũng không thể biểu hiện ra bên ngoài được. Mọi lỗi sai sẽ do người khác gánh để bảo toàn hình tượng ngời ngời của chòm sao này.    Ma Kết kinh nghiệm phong thủy, năng lực sắc bén, phần lớn là thành công trong việc lợi dụng người khác lãnh tội thay cho mình. Như vậy vừa ác liệt vừa tổn hại thanh danh, khiến không ít người cảm thấy đáng hận và không muốn giao du với người tâm tư thâm hiểm như thế này.
Xem thêm bài viết Điểm mặt 4 chòm sao nói giỏi, làm dở
 

Bảo Bình: thói quen 


Ly do 12 chom sao loi dung nguoi khac
 
Chòm sao này lợi dụng người khác hoàn toàn là xuất phát từ đặc điểm tính cách. Họ chẳng phải người lương thiện trong sáng gì, chỉ cần có người cản đường, lập tức sẽ thành kẻ thù của Bảo Bình. Có thể nói đó là thói quen hành xử của họ, không cần thương lượng, trực tiếp hành động luôn.   Rất khó có thể tưởng tượng rằng lợi dụng người khác là thói quen nhưng ở chung với Bảo Bình lâu ngày sẽ thấy, họ ít khi cân nhắc tới đạo đức, tự trọng, nhân phẩm hay những đạo lý khác, chỉ cần bản thân thấy vui là đủ. 12 chòm sao lợi dụng người khác đều kín đáo, cố chối tội, riêng Bảo Bảo thản nhiên nhận luôn.  

Song Ngư: tránh né áp lực

  Chòm sao Song Ngư  không có cảm giác an toàn, tính cách khó lường, sợ đối diện với khó khăn và ngại áp lực. Họ muốn lợi dụng người khác ra mặt thay cho mình, giải quyết vấn đề cho mình thật ổn thỏa để bản thân không phải động chân động tay cũng không cần lo lắng suy nghĩ.   Người thường bị Song Ngư lợi dụng là kẻ mạnh, dáng dấp và năng lực tốt, đủ để mình dựa vào. Có thể bị người khác coi thường nhưng Ngư nhi không quan tâm, miễn sao bản thân thỏa mãn và được hưởng lợi là đủ, mang tiếng ăn bám hay thủ đoạn cũng chẳng sao.
Đối tượng 12 chòm sao ghét, thà ế chứ không yêu Hé lộ cung hoàng đạo thông minh nhất trong 12 chòm sao Biết điều khiến 12 chòm sao nữ cảm động, chinh phục nàng chẳng khó
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì?

Nên và không nên trong bài trí phòng ngủ người cao tuổi

Sức khỏe con người liên quan mật thiết với chốn nghỉ ngơi, sức khỏe và cuộc sống của người già lại càng gắn bó chặt chẽ với căn phòng ngủ. Vì thế, những yếu tố phong thủy trong phòng ngủ của người cao tuổi lại càng phải được chú ý hơn bao giờ hết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tránh để xà nhà đè lên giường của người cao tuổi

Trong quyển "Bát trạch minh kính" có một chương nói về giường ngủ như sau: giường không được nằm dưới xà nhà, đằng sau xà thuộc Âm, chủ nhà sẽ bị đè nén bởi ác mộng quỷ dữ, đằng trước xà thuộc Dương, người chủ sẽ bị bệnh ợ hơi".

Mặt khác, đặt giường lệch theo hướng quỹ đạo "Sinh khí" mà phạm phải "Tuyệt mệnh" và "Họa hại" thì sẽ rất bất lợi. Ngoài ra, hướng giường cũng không được tối, nếu tối thì chủ sẽ hay khóc. Giường không được đối diện với cửa phòng ngủ, nếu không thể tránh được thì phải dựng tấm bình phong chắn lại. Ngoài ra, đồ đạc trong phòng ngủ cũng phải bày biện sao cho không thành góc nhọn theo hướng chỉ vào giường đệm. Bởi vì đối diện với góc nhọn sẽ không có lợi cho sức khoẻ của con người.


Theo phong thủy hướng nhà, nên kê giường theo tuổi
 

Theo thiết kế nhà phong thủy, hướng giường không nên trái ngược với từ trường lớn của trái đất, cố gắng kê hướng đầu giường theo hướng Bắc, chân theo hướng Nam, các phái phong thuỷ học đã nói: Người thiếu lửa theo Ngũ hành phải theo hướng Nam, người thiếu nước theo ngũ hành phải theo hướng Bắc thì sẽ thuộc từ trường nhỏ. Nói theo lý thuyết, từ trường nhỏ phải phục tùng từ trường lớn. Huống hồ, bản mệnh ngũ hành còn có một "hỷ dụng thần", nói chung nhiều người khó nắm rõ điều này. Cho nên chỉ cần không ngược lại với từ trường lớn của trái đất là được.

Ngoài ra, giường của người cao tuổi không nên cao quá, chật quá, không nên để ở giữa cao, hai bên thấp, vì đây thuộc về vấn đề an toàn cho người cao tuổi.

Nên để đèn dịu nhẹ

Phòng ngủ ngoài là nơi để ngủ ra, còn phải là nơi tu dưỡng thân thể và tâm tư. Vì vậy, phòng ngủ cũng có yêu cầu đặc biệt với ánh sáng. Bất luận là nhìn về quan điểm mỹ học hay góc độ vệ sinh, hay việc sử dụng đều phải lấy ánh đèn dịu nhẹ phù hợp với nhãn quang để làm chuẩn.

Phòng ngủ gia đình ngày nay, đa số đầu giường đều đặt đèn ngủ, nhưng tia sáng phải dịu nhẹ, tốt nhất là lắp thêm chụp đèn, màu sắc của chụp đèn và màu tường phải tương đồng. Như vậy mới làm cho con người có giấc ngủ ngon lành, thân thể và tinh thần được nghỉ ngơi đầy đủ, từ đó mới đảm bảo được sức khoẻ tốt.

Phòng ngủ treo đèn vách có thể được coi là lãng mạn, ấm cúng, bởi vì đèn vách được thiết kế dựa theo tường nhà, tia sáng chiếu nghiêng xuống nên rất dịu nhẹ và kín đáo, thích hợp nhất cho phòng ngủ.

Đương nhiên là tối cũng phải có mức độ thích hợp, phòng phải sáng, không được để không khí phòng ảm đạm, nếu phát hiện thấy đèn không sáng thì phải sửa ngay hoặc thay bóng mới, nếu không thì không chỉ ảnh hưởng đến sinh hoạt mà còn ảnh hưởng đến tâm tư.

Tránh bức xạ điện từ trước và trong khi ngủ

Chức năng của phòng ngủ là để cho con người có thể nghỉ ngơi thoải mái, phong thuỷ của phòng ngủ cũng có mối liên quan đối với cuộc sống của chúng ta, sự bày biện sắp đặt giường ngủ, đèn, bàn trang điểm và tủ quần áo trong phòng ngủ đều có thể ảnh hưởng đến phong thuỷ của phòng ngủ.


Hướng ngủ theo phong thủy cần chú ý đến độ tuổi của người sử dụng
 

Nếu tạo nên sự không hài hoà giữa khí trong phòng và từ trường thì sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và cuộc sống hàng ngày của chúng ta, đặc biệt là tivi để trong phòng ngủ có ảnh hưởng lớn đối với cơ thể con người. Ti vi là đồ điện gia dụng có bức xạ điện từ tương đối mạnh, nó có một loại bức xạ sóng từ mà mắt thường không thấy được.

Kiến thức phong thủy chỉ cho chúng ta thấy rằng: Bức xạ điện từ sẽ làm nhiễu loạn từ trường trong cơ thể chúng ta và làm tổn hại đến sức khoẻ con người. Nếu bạn thích nằm trên giường xem ti vi, chưa nói đến việc ảnh hưởng tới giấc ngủ của bạn, nhưng lâu dài sẽ tạo nên hiện tượng thị giác mệt mỏi, xảy ra ảnh hưởng không tốt đối với sức khoẻ. Chẳng những khó mà giữ được tinh lực dồi dào để học tập và làm việc, mà còn dễ bị bệnh ở xương sống cổ.

Vì vậy, tivi trong phòng ngủ không được đặt thẳng với giường. Phải làm sao để người nằm trên giường và ti vi duy trì ở góc độ nghiêng, không được đối diện. Ngoài ra, có thể đặt ti vi ở một bên cửa, để đảm bảo khoảng cách an toàn cho người xem với ti vi, không được đặt gần quá.

Nên thiết kế phòng ngủ vuông vắn

Người xưa nói, trời tròn, đất vuông, tức là nói tới sự liên hệ mật thiết giữa trời và đất, đầu tượng trưng cho trời, là tròn, chân tượng trưng cho đất, tức là vuông, vuông thì mới ngay ngắn được, ngay ngắn thì mới ổn định.

Phòng ngủ của chúng ta là nơi để ngủ, cần phải yên tĩnh, không ổn định làm sao mà tĩnh được, cho nên yêu cầu phòng ngủ phải vuông vắn. Đương nhiên, phòng hình chữ nhật cũng được, nhưng không được quá dài, nếu dài quá thì điều chỉnh lại phòng bạn trở thành nơi lý tưởng, điều chỉnh hướng của giường đệm sao cho thuận với chiều dài của phòng, sau đó dùng một tủ thấp ngăn từ giữa phòng ra, làm cho phòng ngủ được phân thành hai khu vực vuông vắn. Tuy nhiên, nếu phòng ngủ không quá dài thì hình chữ nhật vẫn là tốt.

Có một số người vì muốn cho thị giác có cảm giác mới lạ, đã trang trí phòng ngủ theo kiểu góc lồi, cạnh chéo. Mà họ lại không biết là việc này đã làm cho khí trong phòng không ổn định, làm cho họ hay gặp mộng, sinh ra suy nghĩ sầu não. Việc này trái ngược với yêu cầu của phòng ngủ là phải yên tĩnh, tiện lợi, an lành, việc trang trí này gây bất lợi cho sức khoẻ con người.

(Theo Phong thủy gia đình)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nên và không nên trong bài trí phòng ngủ người cao tuổi

Những điều cấm kị trong tháng cô hồn để tránh ma quỷ đeo bám

Tháng 7 âm lịch Quỷ Môn Quan mở cửa, ma quỷ rình rập khắp nơi, bạn đã biết những điều cấm kị trong tháng cô hồn chưa? Đừng dại dột để ma quỷ bám theo mình nhé.
Những điều cấm kị trong tháng cô hồn để tránh ma quỷ đeo bám

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Tháng 7 âm lịch còn được gọi là tháng cô hồn, là thời điểm mà ma quỷ được Diêm Vương cho phép mở Quỷ Môn Quan để về lại dương thế. Chính vì vậy mà trong tháng này có rất nhiều điều cần phải chú ý để tránh không gặp phải những chuyện xui xẻo. Bạn đã biết những điều cấm kị trong tháng cô hồn tuyệt đối không được phạm phải hay chưa? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu những điều đó là gì nhé.


nhung dieu cam ki trong thang co hon cho nen pham phai
 
 

1. Phơi quần áo lúc nửa đêm

  Quần áo ướt dễ sinh điện tích bám vào, ma quỷ trong tháng cô hồn lưu lạc khắp nơi, nếu nửa đêm phơi quần áo thì cũng giống như ta đang giăng mắc cạm bẫy bắt ma, khó tránh khỏi nhiều chuyện rắc rối không đáng có.  

2. Phụ nữ phải giữ gìn sức khỏe khi đến tháng, tránh đến nơi tế lễ

  Theo quan niệm dân gian, phụ nữ khi đến tháng không được sạch sẽ, không được xuất hiện ở nơi tế lễ kẻo mạo phạm thánh thần, gây ra những chuyện bất lợi, khiến cho mọi sự không được suôn sẻ, hanh thông.   Dù điều đó có đúng hay không thì quả thực phụ nữ khi đến tháng sức khỏe cũng yếu hơn, cần giữ gìn sức khỏe, đến những nơi có từ trường mạnh dễ bị ảnh hưởng, nên cẩn trọng là hơn.  

3. Tổ chức sinh nhật vào ban đêm


to chuc sinh nhat nua dem
 
Có lẽ những người sinh vào tháng 7 âm lịch sẽ phải chịu chút thiệt thòi, bởi nếu tổ chức sinh nhật vào ban đêm thì chưa biết chừng sẽ sinh nhật bạn sẽ có sự tham gia của những “người” không quen biết nữa. Tốt nhất vẫn nên mừng sinh nhật vào ban ngày.  

4. Không bắt chuồn chuồn, châu chấu

  Dân gian cho rằng hai loài côn trùng này là hóa thân của ma quỷ. Trong tháng cô hồn chớ nên vui tay mà bắt chúng, cẩn thận ma quỷ sẽ theo tìm tới tận cửa nhà.  

5. Nhắc đến ma quỷ

  Đây là một trong những điều cấm kị trong tháng cô hồn, bởi đây là khoảng thời gian mà ma quỷ lưu lạc khắp nơi trên dương thế. Khi nói chuyện, cần cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói, chớ tùy tiện nhắc đến ma quỷ, cẩn thận ma quỷ đang ở ngay bên cạnh bạn đó.

Mời bạn đọc thêm: Cách cầu may trong tháng cô hồn của 12 con giáp.
 

6. Tùy tiện dẫm lên giấy vàng mã


dam len vang ma
 
Vàng mã được đốt trong lễ cúng cô hồn là tế phẩm cho ma quỷ, chúng sẽ tụ tập lại xung quanh nơi hóa vàng để tranh cướp nhau. Nếu khi đốt vàng mã, bạn lại tùy tiện dẫm chân lên giấy vàng thì khó tránh khỏi việc ngăn trở hành động của ma quỷ, khiến chúng tức giận. Khi đó họa phúc khôn lường, bạn chẳng thể biết ma quỷ có thể làm được gì mà.  

7. Quàng vai bá cổ người khác

  Đây là điều cấm kị trong tháng cô hồn mà dân gian truyền lại. Người ta cho rằng trên cơ thể con người có ba ngọn lửa, nằm ở trên đỉnh đầu và hai bên vai. Ba ngọn lửa ấy sẽ khiến cho ma quỷ sợ hãi, không dám lại gần hãm hại con người. Vì thế, trong tháng 7 âm lịch chớ nên tùy tiện khoác vai bá cổ người khác, cẩn thận không khéo sẽ dập tắt ngọn lửa trên vai người ấy, khiến họ bị ma quỷ quấy phá không yên.  

8. Cạo lông chân

  Dân gian cho rằng người càng nhiều lông chân thì dương khí càng vượng, ma quỷ sẽ không dám lại gần. Vì thế nếu trong tháng cô hồn mà cạo lông chân thì cũng giống như phá bỏ mất lớp áo giáp bảo vệ mình khỏi ma quỷ vậy.  

9. Trồng cây đa trước cửa nhà


trong cay si truoc nha
 
Cây đa là loài cây tụ âm khí, là thứ mà ma quỷ thích nhất. Nếu bạn không muốn chúng đến làm bạn với mình thì tốt nhất nên cân nhắc khi trồng cây này trước cửa nhà mình.  

10. Dựa người vào tường

  Ma quỷ bình thường rất thích nghỉ chân ở những bức tường lạnh lẽo. Bạn dựa người vào tường không cẩn thận sẽ bị ma quỷ nhập vào người đó.  

11. Nhặt tiền rơi trên đường

  Tiền lẻ rơi vãi trên đường rất có thể là phí mãi lộ cho ma quỷ, bạn nhặt lấy cũng giống như cướp tiền của chúng, cẩn thận kẻo sẽ nhận được bài học nhớ đời. Đừng quên là tháng cô hồn kị nhặt tiền rơi nhé.  

12. Ăn vụng đồ cúng tế

  Đồ cúng cô hồn đương nhiên là dành cho ma quỷ, chưa được sự đồng ý của chúng mà ăn vụng thì khó tránh khỏi những tai ương phiền phức.   An An
Infographic: 18 điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn, nhớ đừng phạm kẻo xui xẻo rình rập Tháng 6 nhuận có phải tháng cô hồn hay không?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cấm kị trong tháng cô hồn để tránh ma quỷ đeo bám

Nốt ruồi đế vương báo trước cơ nghiệp

Trong lịch sử Việt Nam, những câu chuyện về 7 nốt ruồi Thất tinh Bắc Đẩu – dấu hiệu của bậc đế vương được lưu truyền như một giai thoại tâm linh hư hư thực
Nốt ruồi đế vương báo trước cơ nghiệp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong lịch sử Việt Nam, những câu chuyện về "nốt ruồi đế vương" được lưu truyền như một giai thoại tâm linh hư hư thực thực.
 

Not ruoi de vuong bao truoc co nghiep hinh anh
 
Lê Thái Tổ: Miệng rộng, mũi cao và bả vai có 7 nốt ruồi Về lý lịch xuất thân của Lê Thái Tổ (Lê Lợi), sách Đại Việt thông sử chép: “Vua sinh giờ Tí (tức từ khoảng 23h đến 1h sáng) ngày mùng 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385), niên hiệu Xương Phù thứ 9 nhà Trần, tại làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương. Ngày Vua ra đời thì trong nhà có hào quang đô chiếu sáng rực và mùi thơm ngào ngạt khắp làng.
 
Khi lớn lên thì thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên, bả vai bên trái có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ, tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả cho rằng đó là 7 nốt ruồi đế vương, biết ngay là một người phi thường, sau này nhất định làm nên nghiệp lớn.
 
Sau khi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh thắng lợi, năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Đông Kinh, mở đầu triều Lê sơ, triều đại lâu dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
 
Lý Thái Tông: Sau gáy có 7 nốt ruồi tụ lại như chòm sao Bắc Đẩu Lý Thái Tông tên húy Phật Mã, sinh năm Canh Tý (1000) ở chùa Duyên Ninh thuộc cố đô Hoa Lư. Ông là con trai trưởng của Vua Lý Thái Tổ và bà Lê Thị Phất Ngân, con gái Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) và Dương Vân Nga.
 
Tương truyền, ngay từ thuở lọt lòng, Lý Phật Mã đã có những dấu hiệu lạ lùng. Ông có tướng lạ, sau gáy có đến 7 cái nốt ruồi tụ lại như chòm sao thất tinh (sao Bắc Đẩu).
 
Lúc bé, chơi đùa với bọn trẻ trong cung, ông thường bắt chúng dàn hàng tả hữu trước sau để làm quân hầu hộ vệ cho mình. Ông cho một vị đạo sĩ cái áo. Đạo sĩ treo cái áo trong quán, nửa đêm thấy rồng vàng hiện ra, khiến người ta duy tâm đây là lời “sấm truyền” cho một đế vương.
 
Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) rất chú ý tới Phật Mã và có ý nuôi dạy ông kế vị. Năm Nhâm Tý (1012), lúc mới 13 tuổi, Lý Phật Mã được lập làm Đông cung Thái tử, rồi được phong làm Khai Thiện Vương, đồng thời nhiều lần được cử làm tướng cầm quân đi dẹp loạn và lập được công lớn. Vì thế, triều thần cũng như thần dân lúc bấy giờ rất tôn kính Phật Mã. Năm 1028, vua cha mất, Lý Phật Mã lên ngôi.
 
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhận xét về Lý Thái Tông: “Vua là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông”. Ông là vị vua giỏi thời nhà Lý. Hơn 30 năm chinh chiến và trị quốc, ông đã củng cố nền cai trị của nhà Lý, chống lại những nguy cơ chia cắt, bạo loạn, xâm lấn, thu phục lòng dân, khiến cho nước Đại Cồ Việt trở nên vững mạnh.
 
Trần Nhân Tông: Nốt ruồi đen gánh vác việc nước Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11/11 năm Mậu Ngọ (1258), là con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu. Khi mới sinh toàn thân màu da như vàng ròng – sáng chói. Vua cha đặt tên là Phật Kim. 
 
Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Được tinh anh của Thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng ròng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng… Vai bên tả có một nốt ruồi đen, các nhà tướng số cho rằng: ngày sau sẽ gánh vác việc lớn”. Nốt ruồi đế vương ấy được xem là dấu hiệu của một bậc minh quân.
 
Trần Khâm được vua cha Trần Thánh Tông nhường ngôi vào ngày 22/10 năm Mậu Dần (1278). Các sử gia thời Hậu Lê đã viết về Trần Nhân Tông: “Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần”.  

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi đế vương báo trước cơ nghiệp

Cách tỏ tình của 12 chòm sao siêu độc đáo

Mỗi sao có một cách tỏ tình khác nhau, người nhút nhát, kẻ lại thẳng thắn, nhưng ai cũng có một tình yêu chân thành.
Cách tỏ tình của 12 chòm sao siêu độc đáo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Một khi đã cảm nắng thì Bạch Dương không ngại ngần bày tỏ thẳng thắn tình cảm của mình với đối phương. Chẳng cần quan tâm tới kết quả ra sao, chỉ cần nói lên lòng mình là được.   Không giống như Bạch Dương, Kim Ngưu thích người ta lắm rồi ý nhưng lại không dám thổ lộ, cứ âm thầm quan sát, chờ đợi với hi vọng người ta sẽ nhận ra được tình cảm của mình.   Song Tử giỏi giang, tự tin nhưng lại lo sợ việc bị người ấy từ chối. Cho nên họ cứ nửa vờ nửa thật bày tỏ, tùy vào đối phương cảm nhận ra sao.

12 Sao chon cach to tinh nao hinh anh
Ảnh minh họa
  Cự Giải thích người ta nhưng lại chẳng nói ra đâu, cứ âm thầm quan tâm chăm sóc thôi. Hi vọng một ngày đẹp trời người ta sẽ nhận ra điều đó.   Sư Tử chẳng ngại ngần trong việc bày tỏ tình cảm. Họ sẵn sàng cho cả thế giới biết tình cảm của họ với người kia vô cùng mãnh liệt. Sư Tử sẽ bộc lộ hết mình bằng lời nói và hành động để thể hiện tình yêu của mình cho người ấy.   Khi quyết định tỏ tình, Xử Nữ sẽ mất ăn mất ngủ lên kế hoạch thật chu đáo, không có bất cứ một sai sót nào, kế hoạch hoàn hảo khiến cho người kia không thể chối từ.   Thiên Bình chưa thực sự tin vào tình cảm của mình, bạn luôn băn khoăn về việc mình có thực sự thích người ấy không hoặc đối phương có thích mình không. Không thử thì làm sao biết được đây?   Bọ Cạp cực kỳ khéo léo trong việc khiến đối phương phải theo đuổi mình, trong khi mình chưa hề “động thủ”. Tất nhiên, kết quả là đối phương sẽ là người mở lời trước. Bọ Cạp là người được tỏ tình.   Mỗi hành động của Nhân Mã luôn khiến đối phương phải suy nghĩ, băn khoăn. Và “bức thư tình” lại nằm trong tâm trí của đối phương thông qua các hành động của Nhân Mã.
 
Ma Kết là người nghiêm túc trong vấn đề tình cảm, chính vì vậy họ cân nhắc thật kỹ trước khi bày tỏ tình cảm của mình cho đối phương biết. Ma Kết đơn giản, nhưng rất chân thành.   Bảo Bình không bao giờ muốn tình cảm của mình bị tổn thương. Nên sau một thời gian dài, Bảo Bình biết chắc chắn mình thích người đó và người đó cũng thích mình thì Bảo Bình mới “hành động”. 
 
Song Ngư không giỏi trong việc bày tỏ trực tiếp nhưng lại vô cùng lãng mạn trong việc viết thư, tặng bưu thiếp… khiến cho đối phương phải “rung rinh”.

► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất

Sưu tầm
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tỏ tình của 12 chòm sao siêu độc đáo

Bạn biết gì về huyền thoại tứ linh

Tứ linh có nghĩa là 4 loài linh vật, chúng có mặt trong văn hóa của nhiều nước phương Đông. Tứ linh bao gồm: Long, Lân, Quy, Phụng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguồn gốc xa xưa của Tứ linh

Thực tế, tứ linh gồm Long, Lân, Quy, Phụng được dân gian bắt nguồn từ bốn linh thần:Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ và Chu Tước.

Chúng được người xưa tạo ra từ bốn chòm sao cùng tên ở bốn phương trời. Chúng mang bên mình bốn nguyên tố tạo thành trời đất theo quan niệm của người xưa (lửa, nước, đất và gió).

Và việc chọn nơi để làm thành kinh đô phải hội tụ yếu tố hòa hợp giữa các nguyên tố ấy.

1. Đứng đầu tứ linh - Long

Long (Rồng) đứng đầu Tứ linh vì có sức mạnh, trí tuệ và quyền uy bậc nhất, đây là sinh vật tổng hợp sức mạnh của những con vật khác như rắn, hổ, chim ưng, sư tử, hươu,...

Trải qua bao đời, các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ ở các nước phương Đông đã dần tạo cho con rồng trở thành biểu tượng cao quý và sức sống vĩnh hằng.

Hình tượng rồng trong văn hóa Việt Nam

Con rồng là một hình tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Rồng là tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng Thiên Tử.

Dân tộc ta có truyền thuyết về con Rồng từ rất sớm bởi nó gắn liền với mây, mưa, với việc trồng lúa nước, với sự tích "Con Rồng Cháu Tiên"... Hình ảnh con rồng đã dần dần ǎn sâu vào tâm thức của người Việt.

2. Linh vật nhân từ - Lân

Dù cho Lân được mô tả như có sừng của loài Nai, tai Chó, trán Lạc Đà, mắt Quỷ, mũi Sư Tử, miệng rộng, có thân Ngựa, chân Hươu, đuôi Bò... nhưng linh vật này rất hiền lành theo quan niệm dân gian ta.

Lân là linh vật báo hiệu điềm lành, là biểu tượng cho sự nguy nga tráng lệ, sự trường thọ và niềm hạnh phúc lớn lao.

Kỳ lân mang trong mình tất cả những phẩm chất đặc trưng của một con vật nhân từ, theo truyền thuyết, khi di chuyển, nó luôn tránh giẫm lên các loại côn trùng hay cỏ mềm dưới chân mình.

Loài Lân không bao giờ ăn thịt hay làm hại bất cứ con vật nào, đặc biệt nó không bao giờ uống nước bẩn, nó chỉ ăn cỏ, nên có tên gọi khác là Nhân thú.

Kỳ lân có tính linh, khi có vua chúa, thánh nhân xuất thế cứu đời thì nó sẽ xuất hiện báo trước điềm lành, sắp có thái bình thịnh vượng.

Quan niệm dân gian Việt Nam về Lân

Lân theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam, tượng trưng cho sự thái bình, yên ổn. Lân cũng tượng trưng cho lộc phúc, may mắn, thịnh vượng.

Chúng có dung mạo kỳ dị, là hình tượng nghệ thuật được thêu dệt từ trí tưởng tượng của người xưa nhưng đồng thời ẩn chứa trong đó một sức mạnh tâm linh to lớn.

Lân thường được với tư cách đội tòa sen làm chỗ dựa cho Văn Thù bồ tát hay các Hộ Pháp. Nhiều khi ngồi trên đầu cột cổng hay xuất hiện trên mái nhà.

3. Linh vật trường tồn - Quy

Về mặt sinh học, rùa là loài bò sát lưỡng cư có tuổi thọ cao và thân hình chắc chắn. Nó có thể nhịn ăn uống mà vẫn sống trong một thời gian dài.

Rùa không ăn nhiều, nhịn ăn tốt nên được coi là một con vật thanh cao, thoát tục. Trên bàn thờ ở các đền chùa, miếu mạo, chúng ta thường thấy rùa đội hạc, rùa đi với hạc trong bộ đỉnh thơm ngát và thanh tịnh.

Quy đã xuất hiện trong truyện cổ tích từ thời An Dương Vương. Trong tạo hình, người ta bắt đầu thấy Quy từ năm 1126 trong tư cách đội bia ở chùa Linh Ứng, Thanh Hóa, từ đó tồn tại thường xuyên dưới hình thức đội bia; đến tận thế kỷ 15 mới thấy đội hạc.

Quy là vật hợp bởi có cả âm lẫn dương: Bụng phẳng tượng trưng cho đất (âm), mai khum tượng trưng cho trời (dương). Hình tượng rùa đội bia tượng trưng cho hạnh phúc, phát triển và sự chịu đựng.

Quy là cao quý, nhiều khi nó là chủ nguồn nước (rùa phun nước thiêng), là một linh vật của đất Phật.

Rùa đầu rồng - Long Quy

Là linh vật  tốt lành mang ý nghĩa trường thọ, có khả năng chiêu tài hóa sát, trấn trạch, rất lợi về tài lộc, bền vững và thịnh vượng lâu dài.

Rùa tượng trưng cho sự trường tồn và bất diệt. Hình ảnh rùa đội bia đá, trên bia đá ghi lại sử sách của dân tộc Việt Nam chứng tỏ rùa là loài vật chuyển tải thông tin và văn hóa.

Tuy không phải là con vật của Phật giáo, nhưng rùa cũng là biểu trưng cho sự trường tồn của Phật giáo.

Trong một số ngôi chùa thời Lý - Trần, rùa được chạm thành tường bằng đá, làm bệ đội bia. Dáng rùa đầu to, mập, vươn ra khỏi mai, mõm thuôn nhọn, mắt nhỏ, bốn chân khép sát vào thân mai.

4. Linh vật bất tử - Phụng

Nhắc đến sư bất tử và tái sinh, người ta không thể không nhắc đến 1 loài chim chỉ có trong truyền thuyết: Phụng.

Phượng Hoàng là sự kết hợp các đặc điểm xinh đẹp nhất của nhiều giống chim: đầu gà, chiếc cổ cao của chim hạc, và bộ đuôi thướt tha rực rỡ của loài công.

Phụng (Phượng) là tên con trống, con mái gọi là Loan. Phụng có mỏ diều hâu dài, tóc trĩ, vẩy cá chép, móng chim ưng, đuôi công...

Các bộ phận của phụng đều có ý nghĩa của nó: Đầu đội công lý và đức hạnh, mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánh là gió, đuôi là tinh tú, lông là cây cỏ, chân là đất.

Như vậy nó tượng trưng cho bầu trời, khi nó bay hoặc múa (phụng vũ) là tượng trưng cho sự hoạt động của vũ trụ.

Vì thế phụng là hình tượng của thánh nhân, của hạnh phúc. Nếu rồng có yếu tố dương, tượng trưng cho vua chúa thì phụng lại có yếu tố âm nên tượng trưng cho hoàng hậu.

Sinh vật bất tử.

Vòng đời của chúng không bao giờ kết thúc. Khi bị thương nặng hoặc cảm thấy mình quá già yếu (không dưới 500 tuổi), phượng hoàng sẽ tự xây một cái tổ bằng lông của mình, rồi tự thiêu bằng chính nguồn nhiệt của bản thân.

Từ trong đám tro tàn, nó sẽ tái sinh dưới hình dạng một chú chim non. Với khả năng tái sinh này mà Phụng là biểu tượng của cả sự sống và cái chết.

Vì thiêng liêng cao quý nên loài chim này thường sống trên những ngọn núi cao, xa xôi mà con người không thể vươn tới.

Nếu có ai đó muốn tìm được chúng để mưu cầu sức mạnh hoặc sự bất tử sẽ phải vượt qua những thử thách chết người.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn biết gì về huyền thoại tứ linh

Chùa Hội Linh - Cần Thơ

Chùa Hội Linh còn có tên gọi khác là Hội Linh Cổ Tự. Chùa thuộc dòng Lâm Tế tông - một trong hai tông của Thiền tồn tại ở Nhật Bản.
Chùa Hội Linh - Cần Thơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa nằm trong một con hẻm ở số 314/36 đường Cách mạng Tháng Tám (cách lề đường khoảng 200 m), thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Chùa Hội Linh còn có tên gọi khác là Hội Linh Cổ Tự. Chùa thuộc dòng Lâm Tế tông – một trong hai tông của Thiền tồn tại ở Nhật Bản.

Chùa Hội Linh được Hòa thượng Thích Khánh Hưng (? – 1914) dựng vào ngày rằm tháng 2 (âm lịch) năm Đinh Mùi (1907), trên phần đất do ông Phạm Văn Bường (pháp danh Thông Lý) và bà Nguyễn Thị Tám (pháp danh Thông Ngọc) cúng dường. Ban đầu, chùa được cất đơn sơ bằng tre lá, và có tên là Hội Long tự. Vì chùa nằm ở ngọn một con rạch nhỏ, nên còn được gọi là chùa Xẽo Cạn.

Sau khi Hòa thượng Khánh Hưng viên tịch (1914), Hòa thượng Thích Hoằng Đạo (1878 – 1922) kế vị trụ trì, và đã cho xây dựng lại ngôi chùa ngay năm đó, với vật liệu kiên cố (gạch, ngói) và đổi tên là Hội Linh Tự (về sau được gọi là Hội Linh Cổ Tự, khi chùa tồn tại đã lâu).

Chùa có tổng diện tích khoảng 6.500 m², với đầy đủ các hạng mục như: cổng tam quan, chánh điện, hậu đường, giảng đường,….

Xung quanh chùa là dãy tường rào tạo hình cánh cung, có 3 cái cổng (một chính và hai phụ). Cổng chính vươn ra phía trước, có 2 lớp mái, và trên nóc có gắn “lưỡng long tranh châu’ bằng đất nung màu xanh. Trên nóc các cổng đều được lợp mái ngói âm dương màu xanh, và đều có đôi câu đối bằng chữ Hán đắp nổi.

Sau cổng chính là ao sen hình bán nguyệt rộng khoảng 25 m², xung quanh trồng những cây tràm liễu. Giữa ao có tượng đài lộ thiên Quán Thế Âm Bồ Tát cao gần 3 m. Cổng phụ bên trái là lối đi chính vào chùa. Bên trái có các Bảo tháp, là nơi yên nghỉ của các cố Hòa thượng từng làm Trụ trì chùa. Bên phải là một khoảng sân khá rộng. Ở đây có miếu Ngũ hành bên trái, Thổ thần bên phải, ở giữa trồng nhiều hoa kiểng.

Chánh điện chùa rộng 288 m², nóc cao hơn 9 m, có 2 cửa chính đi vào. Ở mặt tiền, phần trên là ba gian cổ lầu, có đặt bộ tượng A Di Đà Tam Tôn. Từ ngoài nhìn vào: Phật A Di Đà ở giữa, Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên trái, Bồ Tát Quán Thế Âm ở bên phải. Trên mái chia làm 3 nóc được lợp bằng vật liệu xi măng đúc thành hình vảy cá, nóc giữa mái tạo dáng tròn cạnh lục giác, trên đỉnh là hình búp sen, các đầu đao gắn cách điệu dây lá; 2 nóc hai bên đỉnh là bầu rượu, mái tạo hình phẳng cạnh tứ giác uốn cong lên, các đầu đao cũng gắn cách điệu dây lá.

Điện thờ chính có 3 gian nhỏ, bên trong tôn trí nhiều tượng Phật theo các cấp bậc rất uy nghi. Tại 3 gian thờ, có treo 3 bức hoành phi khắc bằng chữ Hán ở giữa là “Hội Linh Tự”, bên trái “Tam vô tư địa”, bên phải “Thưởng thiện phạt ác”.

Gian thờ chính ở giữa, phía trước có khung bao lam sơn son thếp vàng, chạm khắc cây, hoa, lá, rồng, phụng, hưu…, và hai bên có 2 câu liễn đối bằng chữ Hán. Vị Phật được thờ chính ở đây là Phật A Di Đà. Gian bên trái thờ Bồ Tát Đại Thế Chí (thờ chính), và gian bên phải thờ Bồ Tát Quán Thế Âm (thờ chính). Ngoài ra, ở đây còn có nhiều tượng thờ khác như: Phật Thích Ca, Địa Tạng Bồ Tát, Hộ Pháp, thiên tướng, v.v…

Ở giữa chánh điện còn có pho tượng Di Lặc Bồ Tát được tạo tác theo tư thế ngồi, cao 2,5 m. Phía sau lưng Đức Di Lặc là tháp đèn Dược Sư có 49 ngọn đèn. Tháp đèn được làm bằng danh mộc gồm 7 tầng, mỗi tầng 7 ngọn đèn và đều có một vị Phật Dược Sư an ngự. Phía sau tháp đèn là một khoảng trống nơi hành lễ của sư trụ trì. Đối diện tượng Di Lặc là bàn thờ Phật Thích Ca ngồi trên tòa sen. Ngoài ra trên bàn còn có các tượng: Vi Đà Hộ pháp, Tiêu Diện Đại Sĩ, Ngọc Hoàng Thượng đế, Nam Tào và Bắc Đẩu.

Phía sau 3 gian thờ chính là một gian thờ nhỏ khác thờ Hậu Tổ. Ở Giữa đặt tượng thờ Tổ Sư Đạt Ma, bên phải và bên trái thờ các vị tiền bối hữu công hộ trì Tam bảo. Trên cả 3 bàn thờ xếp nhiều bài vị của các cố Hòa thượng từng trụ trì bổn tự và các tiền bối đã quá vãng.

tượng phật
Tượng phật Thích Ca chính điện

Nối tiếp chánh điện, là hậu đường rộng 144 m², ở giữa đặt bàn thờ Tổ quốc có ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nơi này còn được dùng làm nơi tiếp khách.

Liền theo đó là giảng đường, là nơi giảng kinh và thuyết pháp…Ở gian giữa có bàn thờ Phật Mẫu Chuẩn Đề. Ở gian hai bên, có bàn thờ di ảnh Hòa thượng Hoằng Đạo (trái) và Hòa thượng Pháp Thân (phải).

Ngoài các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, trong chùa còn lưu giữ hơn trăm pho tượng lớn nhỏ rất có giá trị, bằng nhiều chất liệu khác nhau: đồng, gỗ, xi măng, thạch cao…Riêng tượng Giám Trai là một tác phẩm điêu khắc độc đáo. Ngoài ra, các hiện vật quý trong chùa còn có chuông đồng, mõ, bộ binh khí (16 cái) và bộ bàn ghế gỗ cẩn xà cừ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hội Linh - Cần Thơ

Mậu Ngọ mệnh gì –

Người sinh 1978, Mậu Ngọ, có Ngũ hành năm sinh là Thiên Thượng Hoả, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung TỐN, hành MỘC, hướng Đông Nam, quái số 4, sao Tứ Lục, Đông tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Bắc, Nam, Đông, Đông Nam). Đeo đá màu Đen, Xan
Mậu Ngọ mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mậu Ngọ mệnh gì –

10 điều nên nhớ khi yêu Bạch Dương

Điều nên nhớ khi yêu Bạch Dương được tiết lộ để bạn hiểu hơn đối phương của mình và đừng đưa ra những yêu cầu vô lý khiến tình cảm hai bạn dễ bị sứt mẻ.
 10 điều nên nhớ khi yêu Bạch Dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tình yêu của bạn với cung hoàng đạo Bạch Dương sẽ chỉ toàn là đam mê và những niềm vui nhưng bạn nên nhớ rằng họ muốn gì là phải có ngay lập tức nên đừng mong họ kiên nhẫn. 
 

1. Bạch Dương cần sự tin tưởng, tôn trọng, chung thủy và cởi mở
 

Điều nên nhớ khi yêu Bạch Dương đầu tiên là bạn phải tự biết kiểm soát bản thân vì họ vẫn làm bạn với tình cũ. Điều này khiến bạn lo lắng nhưng lại không được ghen tuông. Nên nhớ, đó là đức tính bao dung của họ chứ không hề vì còn tình yêu với người cũ. Nếu đã kết thúc, Bạch Dương sẽ quên đi một cách nhanh chóng.
 
Bạn phải chắc chắn để có đủ niềm tin yêu, thấu hiểu điều này. Với bản tính bao dung, yêu thương mọi người của mình, Bạch Dương có thể chấp nhận nhiều lỗi lầm của bạn nhưng không chịu đựng được người thiếu tự tin và hay ghen tuông. 
 
 
 10 dieu nen nho khi yeu Bach Duong hinh anh
 

2. Bạch Dương không chịu bỏ cuộc
 

Họ khao khát thành công trong cuộc sống cũng như trong tình yêu. Điều Bạch Dương mong muốn là trở thành một nhà lãnh đạo dũng cảm và mạnh mẽ. Đó cũng là lý do họ không thích là “cái đuôi” của bất cứ ai. 
 
Bạch Dương luôn có thái độ tích cực trong việc đạt được mục tiêu của mình. Họ sẵn sàng hỗ trợ và giúp đỡ bạn vượt qua bất cứ điều gì miễn là bạn cho phép Bạch Dương đóng vai trò chỉ đạo. 
 
Họ chỉ tập trung duy nhất vào mục tiêu và nhiều khi điều đó trở thành nỗi ám ảnh trong họ. Hãy cứ để cho Bạch Dương được làm điều họ muốn và không nên làm gián đoạn nếu không họ sẽ phát cáu với bạn.
 

3. Điều nên nhớ khi yêu Bạch Dương - họ thích cảm giác thống trị
 

Họ khá kiên cường và cứng đầu trong việc tìm cách để có được những gì mình muốn. Mặc dù cố gắng hết mình nhưng họ đôi lúc nóng vội. Tuy nhiên, Bạch Dương cũng biết cách chấp nhận thất bại. 
 
Khi có dấu hiệu cho thấy dù có nỗ lực cũng vẫn là công cốc, họ sẽ nhanh chóng buông bỏ để chuyển hướng tới mục tiêu mới. Họ là người tiêu biểu cho mẫu người thích theo đuổi giấc mơ của mình. Khi yêu một Bạch Dương bạn sẽ thấy họ thường xuyên thay đổi.  
 10 dieu nen nho khi yeu Bach Duong hinh anh 2
 
 

4. Bạch Dương tự tin và nhiệt tình
 

Bạch Dương yêu thích thể thao và cũng thích tham gia vào các cuộc thi. Nhưng khi thua cuộc tính xấu của họ có cơ hội được bộc lộ. Đây cũng là mặt tiêu cực của Bạch Dương. Họ trở nên hiếu chiến hơn khi không đạt được những gì mình muốn. 
 
Tuy nhiên, họ thường đạt được mục tiêu của mình nhờ sự hết mình và lòng dũng cảm. Họ cũng không tức giận quá lâu mà sẽ tha thứ và quên đi mọi thứ một cách dễ dàng. Cách tốt nhất để đối phó với những cơn giận này là mang đến cho họ một dự án mới hoặc ý tưởng mới.  

5. Bạch Dương không phải là người kiên nhẫn


Đừng bắt Bạch Dương phải chờ đợi. Đừng để họ tham gia trò chơi cảm xúc. Họ muốn gì là phải có ngay lập tức. Kiên nhẫn là đức tính không tồn tại trong con người Bạch Dương nên quá khó khi yêu cầu điều này. Đó không phải là bản chất mà qua trỉa nghiệm họ nhận thấy kiên nhẫn chẳng mang lại gì nên đừng yêu cầu họ phải tập thói quen này.
 

6. Họ thích được giao du, kết nối
 

Bạch Dương thích những bữa tiệc, họ luôn muốn được gặp gỡ bạn bè. Họ thích mọi người vây quanh mình và họ có khả năng tuyệt vời gắn kết mọi người với nhau. Những người này thích được chú ý và tận hưởng thú vị của điều đó. Có thể nói, bạn sẽ không bao giờ có cảm giác nhàm chán khi yêu Bạch Dương.
 

7. Bạch Dương không thích kết thân với những người tiêu cực


Điều nên nhớ khi yêu Bạch Dương
đó là họ không biết làm thế nào với những người hay phàn nàn hoặc hay xem mình là nạn nhân nên nhanh chóng tìm kiếm cách thoát khỏi tình huống này. Nếu bạn bắt đầu cảm thấy có lỗi, Bạch Dương chỉ mong bạn tự chữa lành vết thương của bạn và tiếp tục tiến bước. 
 
 10 dieu nen nho khi yeu Bach Duong hinh anh 3
 

8. Bạch Dương là người đầy đam mê
 

Tình dục được xem vũ khí mà phụ nữ cung Bạch Dương dùng để trừng phạt người yêu/chồng. Nếu bạn khiến cô ấy ghen tuông thì bạn sẽ biết ngay hậu quả. Trong khi đó, đàn ông Bạch Dương lại đam mê và sẽ theo đuổi không ngừng cho đến khi họ có được những gì mình muốn. Cả đàn ông và phụ nữ Bạch Dương chỉ làm chuyện đó khi họ thực sự yêu và đây là chòm sao thuộc nhóm Lửa đầy đam mê.  

9. Bạch Dương dễ dàng có bước tiến mới khi kết thúc mối quan hệ
 

Hầu hết Bạch Dương sẽ phớt lờ những trải nghiệm thiếu hứng thú. Họ muốn trở thành trung tâm của sự chú ý trong bất cứ mối quan hệ nào.  Nếu cảm thấy bị bạn phớt lờ họ sẽ làm cho ra nhẽ. Lúc đó, chắc chắn sẽ xảy ra cuộc đối đầu không hay giữa hai người.

Nếu niềm đam mê và sự cuốn hút không còn họ sẽ bỏ bạn mà đi. Họ cũng biết sử dụng những lời nói dối để sớm chấm dứt mối quan hệ này. Vì thế, để tình yêu được suôn sẻ bạn nên tìm hiểu cung Bạch Dương hợp cung nào trước khi bắt đầu mối quan hệ tình cảm với họ.
   

10. Bạch Dương là người hài hước
 

Điều nên nhớ khi yêu Bạch Dương là họ rất thích sự hài hước. Hãy sẵn sàng cho những tràng cười thoải mái trước những câu nói đùa, mỉa mai, và hành vi ngớ ngẩn của Bạch Dương.

Với vẻ nhí nhảnh và năng động, họ thích sự vui vẻ nên nếu bạn lạnh lùng, không phản ứng gì với trò đùa của họ nghĩa là bạn không có cơ hội làm bạn đời của Bạch Dương. Nếu ở bên họ, Bạch Dương sẽ tìm cách để bạn luôn được cười vì đó là niềm vui của họ.
   HaTra

Tuổi Tý cung Bạch Dương: Hòa đồng, không thích an phận Nhận diện cách tán tỉnh của 12 cung hoàng đạo

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 điều nên nhớ khi yêu Bạch Dương

Ngày xuân bàn câu đối Tết

Không biết tự bao giờ, “câu đối đỏ” đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất trong ngày Tết của người Việt. Mỗi độ xuân về, người người thi nhau tìm cho mình những câu đối hay nhất để treo ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Đó là một thú chơi tao nhã, một mỹ tục trong ngày Tết Nguyên Đán đã và đang được các thế hệ người Việt Nam ra sức gìn giữ. Nhân dịp xuân về, chúng ta cùng nhau dành chút thời gian thả hồn lãng du cùng câu đối Tết.
Ngày xuân bàn câu đối Tết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong chương trình hôm nay, giáo sư Nguyễn Khắc Thuần sẽ minh thị một số chi ktiết đáng chú nhất của mỹ tục này. Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần hiện sống tại thành phố Hồ Chí Minh, ông là một học giả kỳ cựu và có nhiều công trình đóng góp quan trọng trong lĩnh vực lịch sử văn hóa Việt Nam.

Câu đối trong văn hóa truyền thống Việt Nam

Lê Phước : Thân chào giáo sư Nguyễn Khắc Thuần. Trước tiên xin chân thành cám ơn giáo sư đã nhận lời tham gia chương trình. Nhân dịp xuân về, Ban biên tập RFI Việt Ngữ tại Paris xin kính chúc giáo sư cùng toàn thể gia quyến một năm mới :Vạn sự như ý.
Thưa giáo sư, câu đối là một thú chơi tao nhã thể hiện tinh hoa của chữ nghĩa. Vậy trước tiên, xin giáo sư cho biết đôi điều về câu đối trong văn hóa Việt Nam nói chung ?

GS. Nguyễn Khắc Thuần : Thân ái chào quý vị và các bạn. Trước hết, cho phép tôi được gửi tới quý vị và các bạn lời chúc một năm mới mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công. Tôi xin được trình bày đôi điều tản mạn về câu đối Tết của người Việt.

Người Việt chúng ta có truyền thống trọng chữ. Trong lịch sử, người Việt thường sử dụng nhiều loại chữ khác nhau. Nhưng ngày xưa, loại chữ quý giá và được tôn sùng nhất vẫn là chữ Nho, thường được gọi là “chữ của thánh hiền”. Trong lịch sử cũng có hai quy ước bất thành văn, thường được người Việt rất chú ý tuân thủ. Thứ nhất là không viết chữ khiếm nhã lên các tờ giấy, thứ hai là không vứt những tờ giấy có chữ vào chỗ rác bẩn.
Vậy chữ được dùng để làm gì ?

Có bốn mục đích khác nhau. Một là để ghi chép sự việc, từ đó tạo ra văn tự, từ đó tạo ra khế ước. Hai là chuyển tải suy tư, từ đó tạo ra sử sách, từ đó tạo ra hi phú văn chương, triết lý.

Thứ ba, chữ để làm quà tặng, từ đó tạo ra lời hay và ý đẹp. Xuân về người ta thường có những chữ như : Cung hạ tân xuân, xuất nhập bình an, vạn sự như ý, ngũ phúc lâm môn, khai trương hùng phát, bình bút hoa khai, an khang thịnh vượng ... Đây là những chữ làm quà tặng quá quen thuộc, nên tôi xin phép không dịch lại. Và từ chỗ chữ làm quà tặng, nó tạo ra cả những câu đối-câu liễn với nhiều nội dung phong phú khác nhau.
Mục đích thứ tư là chữ để trang trí công đường hoặc nhà ở, từ đó tạo ra thư họa hay thư pháp, từ đó tạo ra những bức tranh chữ.

Nét riêng của câu đối Việt

Lê Phước : Thưa giáo sư, trong văn hóa Trung Quốc và văn hóa Việt Nam đều có câu đối. Vậy không biết câu đối của người Việt ta có những nét đặc sắc gì ?

GS. Nguyễn Khắc Thuần : Trong các thể cổ văn, câu đối được dùng rất phổ biến. Ở đây có ba vấn đề chúng ta cần lưu ý.

Vấn đề thứ nhất, người Trung Quốc gọi câu đối là “đối liên”, và chia làm ba loại. Loại thứ nhất là “Tiểu đối”, tức mỗi vế có từ 4 chữ trở xuống. Loại thứ hai là “Thi đối”, mỗi vế là một câu đối ngũ ngôn hoặc một câu thất ngôn, cũng có khi gồm cả hai câu ngũ ngôn và thất ngôn. Loại thứ ba là “Phú đối”, tức là câu đối viết theo niêm luật của thể phú, là một thể cổ văn. “Phú đối” được chia thành: Câu đối “Song quan”, mỗi vế có từ 6 đến 9 chữ, ghép lại thành một đoạn; Rồi câu đối “Cách cú”, mỗi vế chia thành hai đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài; Rồi câu đối “Hạc tất”, mỗi vế có từ ba đoạn trở lên.

Vấn đề thứ hai, trong câu đối người Việt, ta có thể chia làm mấy loại sau đây. Thứ nhất là câu đối Tết. Thứ hai là câu đối bày tỏ sự chung vui, ví dụ như chung vui lễ hội hay chung vui trong các cuộc giao lưu. Thứ ba là câu đối chia sẽ, ví dụ như chia sẽ về những tổn thất trong thiên tai địch họa, vì đau ốm hay trong các đám ma chay. Thứ tư là câu đối để chúc mừng, như câu đối mừng tân gia, mừng tân hôn, mừng đỗ đạt, mừng thăng quan, mừng sinh quý tử. Thứ năm là câu đối để ghi nhớ một sự kiện hay một vấn đề, ví dụ như trùng tu chùa chiền, đình miếu, tôn tạo hay xây dựng một số công trình công cộng, dựng bia…

Vấn đề cần chú ý thứ ba, đó là câu đối người Việt thường được viết bằng nhiều loại chữ khác nhau, trong đó nổi bậc lên có ba loại chữ. Một là câu đối viết bằng chữ Hán. Với loại câu đối này, bạn đọc là những người trẻ tuổi, chưa có điều kiện tiếp xúc với chữ Hán, thì phải có người dịch ra mới hiểu được. Thứ hai là câu đối viết bằng chữ Nôm. Chữ Nôm là chữ viết của dân tộc, nhưng không phải ai cũng đọc được. Ngày nay, số người Việt đọc được chữ Nôm là quá ít. Thứ ba, là câu đối viết bằng chữ Việt hiện đại, và là câu đối phổ biến nhất hiện ngày nay. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, rồi trên các công sở hiện nay, câu đối viết bằng chữ Việt rất phổ biến.

Các loại câu đối Tết tại Việt Nam

Lê Phước : Trong các loại câu đối đó, thì câu đối Tết có vai trò như thế nào, thưa giáo sư ?

GS. Nguyễn Khắc Thuần : Trong tất cả các loại câu đối, nổi bật hơn cả vẫn là câu đối Tết. Câu đối Tết trở thành sinh hoạt văn hóa rất phổ biến và lâu đời. Ngày nay tuy không ai dùng chữ Hán và chữ Nôm nữa, hay nói đúng hơn là quá ít người dùng chữ Hán và chữ Nôm, nhưng không phải vì thế mà câu đối ít đi. Xưa cũng như nay, câu đối trở thành một món quà không thể thiếu.

Xem lại, câu đối Tết của người Việt có 07 loại sau đây :

1) Loại câu đối Tết dùng chung cho tất cả mọi nhà, ai treo cũng được, gia đình sang hèn, nghèo giàu đều treo được. Ví dụ như câu :

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh

Đây là câu đối viết bằng chữ Nôm. Rồi cũng có câu đối viết bằng chữ Hán mà nhà nào treo cũng được :

Lộc tiến vinh hoa gia đường thịnh
Phúc sinh phú quý tử tôn vinh

(Tài lộc dẫn đến sự vinh hoa, nhà thì ngày một thêm thịnh đạt
Phúc sinh ra sự phú quý, con cháu trở nên vinh hoa)

2) Loại câu Tết thường để ở các đình làng hay công sở. Chẳng hạn như :

Chúc Tết đến trăm điều như ý
Mừng xuân sang vạn sự thành công

(Câu đối viết bằng chữ Nôm)

Hoặc câu đối viết bằng chữ Hán:

Sơn thủy thanh cao xuân bất tận
Thần tiên lạc thú cảnh thần tiên

(Núi sông thanh cao, mùa xuân bất tận
Thần tiên vui vẻ lạc thú cảnh thần tiên ở nơi trần thế)

3) Loại câu đối Tết thường để ở đền chùa miếu mạo. Ví dụ câu đối chữ Nôm sau đây :

Mừng xuân hỉ xả thêm công đức
Đón Tết từ bi bớt não phiền

Hoặc câu đối chữ Hán:

Pháp luân vô ánh oanh thiên hạ
Tâm niệm vô thanh chấn tứ phương

(Pháp luân tuy không có tỏa sáng nhưng có thể làm run cả trời đất
Tâm niệm tuy không phát ra thành tiếng nhưng nó có thể gây chấn động cả bốn phương)

4) Loại câu đối Tết thường có trong các nhà quyền quý. Ví dụ như :

Xuân tái đáo, môn tiền phúc đáo
Hoa hựu khai, thiên ngoại thi khai

(Xuân lại đến, trước cửa phúc lại đến
Hoa lại nở, ngoài trời thơ lại mở ra)

Hoặc câu :

Tiên tổ phương danh lưu quốc sử
Tử tôn tích đức hiển gia phong

(Tổ tiên để lại tiếng thơm trong sử sách
Con cháu tích đức thì gia phong được hiển hách)

Hay là :

Nhập môn tân thị kinh luân khách
Mãn tọa dai đồng cẩm tú nhân

(Vào cửa khách toàn là người hiểu kinh luân
Ngồi đầy nhà toàn là những bậc mặc áo gấm áo thêu, tức là những người sang trọng quyền quý trong xã hội).

5) Loại câu đối Tết thường có trong các gia đình nghèo khó. Chẳng hạn như câu :

Tết đến gượng cười, mong con cháu chăm ngoan, nhà có dư gạo thóc
Xuân sang gắn vui, cầu vợ hiền mạnh khỏe, vườn đủ quả đủ rau

Hay là câu :

Nợ nần theo gió lạnh bay đi, vợ lại tươi như hoa nở thắm
Của cải cùng khí ấm tràn vào, lòng chồng vua tựa trống hội vang

Ta thấy ở đây là những ước muốn bình dị, thể hiện ước nguyện giản dị nhưng cũng rất sâu sắc và mãnh liệt của những người bình dân nghèo khó trong xã hội.

6) Loại câu đối Tết viết theo lối tự trào, viết để cho vui, ai nghe cũng được, không phải treo ở đâu cả, mà để gắn vào tâm tưởng của mỗi người, kích động suy nghĩ của mọi người, và cùng vui với mọi người. Ví dụ như câu đối sau đây của Nguyễn Công Trứ :

Chiều ba mười nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông phúc vào nhà
Hoặc là câu đối sau đây của Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ lừng danh cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19:
Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt kẻo Ma Vương đưa quỉ tới
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang cho thiếu nữ rước xuân vào

7) Loại câu đối Tết thường thấy trong các gia đình Việt Kiều.

Tôi có dịp đi nhiều nước trên thế giới và gặp gỡ các Việt kiều, thấy trong gia đình họ cũng có những câu đối Tết. Đọc qua tôi thấy rất cảm động, chẳng hạn như :

Nghi ngút tỏa khói hương, xa đất mẹ vẫn nhớ về nguồn cội
Tôn nghiêm mâm ngũ quả, chốn quê người nặng trĩu nghĩa cố hương

Hoặc như câu :

Xuân tha hương, vấn vương thương đất mẹ
Tết xa nhà, xao xuyến nhớ quên cha

Đó là những lời thể hiện tình nghĩa nồng nàn đầm thắm của những người con xa quê, thực sự xứng đáng là dòng giống con Lạc cháu Hồng. Đó không chỉ là lời bày tỏ tình cảm, mà quan trọng hơn đó còn là lời thể hiện một truyền thống viết câu đối của người Việt dù ở bất cứ nơi đâu.

Nhân dịp Tết đến, tôi hy vọng rằng, những câu đối hay của bà con Việt kiều lại tiếp tục lan tỏa từ gia đình này đến gia đình khác, từ địa phương này sang địa phương khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Và lời câu đối chính là lời nhắc nhở về một truyền thống lâu đời của dân tộc.

Thực trạng văn hóa câu đối Tết tại Việt Nam

Lê Phước : Thưa giáo sư, mấy mươi năm trước, trong bài thơ Ông Đồ, nhà thơ Vũ Đình Liên miêu tả cảnh câu đối Tết ngày càng bị “thất sủng”. Mở đầu bài thơ, Vũ Đình Liên Viết :

Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông đồ già
Bày mực hàng giấy đỏ
Trên phố đông người qua.

Ngày tháng trôi qua, không biết hiện tại mỹ tục câu đối Tết tại Việt Nam có còn được lưu giữ không, thưa giáo sư?

GS. Nguyễn Khắc Thuần : Ở Việt Nam hiện nay, truyền thống viết câu đối Tết vẫn được lưu giữ và được phổ biến khá mạnh. Bằng chứng là trên tất cả các báo xuân, hầu như báo nào cũng có một vài câu đối, và thường là những câu đối viết bằng tiếng Việt hiện đại. Bằng chứng thứ hai, đó là ở nhiều thành phố lớn và các khu đô thị luôn luôn có những người ngồi viết câu đối Tết, và họ gọi đó là “ông đồ” mặc dù họ chỉ viết chữ Việt hiện đại chứ không phải là chữ Hán hay chữ Nôm.

Tôi là thành viên của Hội đồng Tư vấn về kỷ lục, có lúc tôi đã chứng kiến sự hội ngộ của cả trăm ông đồ cùng viết câu đối. Tất nhiên, câu đối ở đây là những câu đối đã được phổ biến rộng rãi hoặc những câu đối chủ yếu do khách yêu cầu họ viết và viết câu đối theo thư pháp hiện đại.
Đó là một trong những biểu hiện của việc tiếp nối truyền thống và phổ biến văn hóa câu đối Tết ở Việt Nam.

Như đã nói ở trên, câu đối là một thú chơi tao nhã, nhưng rất khó chơi, nó thể hiện trình độ học vấn và chữ nghĩa của những người được gọi là có ăn có học. Các cụ thường cho rằng: “nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa”.

Ngày xưa, dân gian ta có tục đến gặp ông đồ xin chữ. « Xin chữ » là bởi vì trong làng xã các ông đồ-tức các nhà nho, được xem là người nắm giữ tri thức xã hội. Mỗi câu đối gồm có hai vế. Gọi là « câu đối » vì hai vế này phải “đối nhau” một cách tinh tế về mặt chữ nghĩa. Người xưa thường lấy câu đối ra để thử tài nhau, và lấy việc đối hay đối dỡ để đánh giá trình độ học vấn.

Riêng về câu đối Tết, như giáo sư Nguyễn Khắc Thuần đã nói bên trên, ta thấy rằng, câu đối Tết đã trở nên phổ biến trong dân gian. Nó vẫn luôn còn đó chứ không hề bị mai một. Bên cạnh những bằng chứng đã nêu trên, ta còn thấy ở miền quê Việt Nam, ngày Tết nhiều người vẫn đi tìm mua câu đối Tết. Câu đối được viết bằng chữ Việt hiện đại người mua hiểu đã đành, nhưng có khi người ta còn mua cả câu đối viết bằng chữ Hán dù không biết trong đó nói gì. Không biết ý nghĩa cụ thể mà vẫn mua vì mọi người ai cũng hiểu rằng, tất cả các câu đối Tết đều có một mục đích chung là : cầu mong những điều tốt lành trong năm mới.

Một điểm đáng mừng nữa, đó là hiện tại, không chỉ có hình ảnh “ông đồ già” mà đã xuất hiện nhiều “ông đồ” tuổi mới đôi mươi mặc áo dài khăn đóng ngồi viết câu đối Tết. Và như giáo sư Nguyễn Khắc Thuần đã nhận định, đó là một biểu hiện của việc bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc, mà cụ thể ở đây là câu đối Tết.
Thưa quí vị, Tết Nguyên Đán là truyền thống lâu đời và có thể được xem là một bản sắc của văn hóa Việt Nam, trong khi đó câu đối Tết chính là một bản sắc của ngày Tết Nguyên Đán.

Trong thời đại toàn câu hóa ào ạt như ngày nay, việc bảo tồn bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc là một yêu cầu cấp thiết để tránh việc các nền văn hóa trên thế giới bị đồng nhất. Trong ý nghĩa đó, tình trạng “khỏe mạnh » của câu đối Tết như đã nêu trên tại Việt Nam rõ ràng là một tin vui.

Niềm vui đó hòa chung vào niềm vui bất tận của năm mới. Nhân dịp xuân về, chúng ta nâng ly cùng nhau tận hưởng niềm vui bất tận đó :

Già trẻ gái trai đều khoái Tết,
Cỏ cây hoa lá cũng mừng Xuân.

Trich tu: viet.rfi.fr


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày xuân bàn câu đối Tết

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Xem tướng tay dự đoán chuyện tình duyên tương lai

Hãy xòe bàn tay và xem tay bạn có những dấu hiệu sau đây không nhé!
Xem tướng tay dự đoán chuyện tình duyên tương lai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đoạn cuối của đường hôn nhân xuất hiện chữ thập hoặc ngôi sao

Nếu bàn tay của bạn xuất hiện đặc điểm trên nghĩa là bạn sắp kết hôn hoặc chuyện vui sắp đến với bạn.

1-1-4906-1420700940.jpg

2. Gốc áp út ở gò Thái Dương xuất hiện chữ thập hoặc ngôi sao

Tương lai gần bạn sẽ tổ chức đám cưới với một chuyến du lịch ra nước ngoài.

2-1-2430-1420700941.jpg

3. Đường tình cảm ngày càng đậm và sâu

Bàn tay có đặc điểm này là đại cát đại lợi, làm mọi việc đều suôn sẻ, dự báo chuyện kết hôn sắp đến.

3-1-8944-1420700942.jpg

Chocopie (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng tay dự đoán chuyện tình duyên tương lai

Nhìn vai đoán con người bạn trong 3 cụm từ

Bạn có bao giờ để ý phần vai của mình không? Chúng cũng có thể tiết cho bạn biết về con người bạn đấy.
Nhìn vai đoán con người bạn trong 3 cụm từ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhin-vai-doan-con-nguoi-ban-trong-3-cum-tu
A. Vai rộng
B. Vai trung bình
C. Vai hẹp

Mộc Trà (theo Buzz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn vai đoán con người bạn trong 3 cụm từ

Nhận diện tướng mạo con trai chỉ thích bạo lực

Nếu gặp phải những anh chàng ưa dùng tay chân tung chưởng hơn thương thuyết bằng võ mồm, bạn cần cân nhắc kỹ trước khi quyết định trao thân gửi phận nhé.
Nhận diện tướng mạo con trai chỉ thích bạo lực

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Lông mày rậm tạo thành một đường thẳng

Những chàng trai sở hữu cặp lông mày kiểu này thường khá cục tính, khi nóng giận thích dùng chân tay "tung chưởng" hơn là "võ miệng". Nếu là người khôn khéo và dịu dàng, bạn có thể thuần hóa được tính cách "giận quá mất khôn" của cậu ấy.

Ngoài ra, con trai có lông mày dày, rối và nối liền với nhau thành một đường thẳng thường khá hẹp hòi trong chuyện tình cảm. Vì họ yêu hết mình, dành tình cảm chân thành cho đối phương nên rất dễ ghen tuông và nổi giận vô cớ. Lúc đó, lý trí của họ sẽ biến mất, thay vào đó là những hành động chân tay đầy bạo lực.

2. Trong mắt có nhiều mạch máu đỏ hằn lên mỗi khi trừng mắt

Theo nhân tướng học, những người này có tính khí nóng giận thất thường, dễ nổi cáu, thiếu lý trí và dễ bị kích động. Chỉ cần một vài lời nói châm chọc hay khích bác của ai đó là họ có thể thổi bùng ngọn lửa giận dữ.

3. Trên mặt nổi nhiều gân xanh và mạch máu chằng chịt

Người có khuôn mặt này hơi thô, dễ bị kích động và nổi giận. Họ cũng có xu hướng thích dùng tay chân để xử lý sự việc hơn là dùng miệng để thương thuyết.

kenshin-013-2631-1403878026.jpg

Ảnh minh hoạ.

4. Mắt tứ bạch

Mắt tứ bạch là loại có tròng đen ít, tròng trắng nhiều bao quanh bốn phía. Dân gian còn gọi là mắt trắng dã. Chàng trai có mắt tứ bạch khá thông minh, nhanh nhạy, biết nắm bắt cơ hội. Tuy vậy, họ khá nham hiểm và thích dùng bạo lực để xử lý vấn đề.

5. Gò má cao, trán cao nhưng không rộng

Nam nhân sở hữu những điểm này trên khuôn mặt thường có tham vọng lớn về cả sự nghiệp và chuyện tình yêu. Khi không đạt được ước muốn, họ dễ bị kích động và rơi vào trạng thái thích sử dụng bạo lực để giải quyết vấn đề.

Mr.Bull

thongminh-1403680988-362x0-9142-14037992

Con trai học vấn càng cao càng chung thủy

Con trai tương đối trung thành với người yêu/vợ có chỉ số IQ trung bình là 103. Những người không/ít trung thành có chỉ số IQ là 97.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận diện tướng mạo con trai chỉ thích bạo lực

Sao Lộc Tồn

Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh Hành: Thổ Loại: Quý Tinh Đặc Tính: Quyền Tước, Tài Lộc, Phúc Thọ
Sao Lộc Tồn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phương Vị: Bắc Đẩu TinhHành: ThổLoại: Quý TinhĐặc Tính: Quyền Tước, Tài Lộc, Phúc Thọ

Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Người thông minh, học rộng, có tài tổ chức, sáng kiến, đứng đắn, tính nhân hậu, từ thiện.
Công Danh Tài Lộc
Lộc Tồn là sao phú, chủ sự dư về tiền bạc. Ý nghĩa công danh chỉ là thứ yếu. Sự giàu có thường do hai nguyên nhân:

  • Do di sản tổ phụ để lại: Người có Lộc Tồn ở Mệnh, Phúc bao giờ cũng được hưởng của tổ phụ, nhiều khi truyền kiếp, lưu truyền đến hai, ba đời.
  • Do người khác biếu xén: Lộc Tồn chỉ sự có "lộc ăn" được người khác ban tặng, giúp đỡ.
Lộc Tồn mang nặng ý nghĩa về tiền bạc, Lộc Tồn đi với các sao tài sẽ hết sức phát đạt. Đó là các sao:
  • Chính tinh: Tử Vi, Vũ Khúc, Thiên Phủ đắc địa.
  • Phụ tinh: Thiên Mã, Tràng Sinh, Đế Vượng, Hóa Lộc, Long Trì, Phượng Các, Tả Phù, Hữu Bật, Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Quan, Thiên Phúc.
Tùy theo sự hội tụ ít nhiều với các sao trên, thế lực tài phiệt sẽ gia tăng mức độ.
Phúc Thọ Tai Họa
  • Sao Lộc Tồn chế ngự được tất cả các sao chủ dâm đãng, lả lơi, được hưởng của tiền nhân hoặc hay gặp quý nhân giúp đỡ.
  • Sao Lộc Tồn ở Mệnh thì vinh hiển, sống lâu.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Với Các Sao Khác
Đồng cung hay hội chiếu với các sao tài, Lộc Tồn chủ sự thịnh vượng về tiền bạc như đã nói ở mục tài lộc. Nếu gặp sao xấu, ý nghĩa tài lộc giảm hay mất đi nhiều.
  • Lộc Tồn, Tuần, Triệt hay Phá: Một trong ba sao này hầu như hóa giải gần hết hiệu lực của Lộc Tồn về mặt tài chánh.
  • Lộc Tồn, Không, Kiếp: Đồng nghĩa với cách trên ngoài ra còn có nghĩa có tiền được một thời gian ngắn rồi phá sản mau lẹ và khủng khiếp, bị tai họa tiền bạc.
  • Lộc Tồn, Kỵ, Tuế : Có tiền nhưng bị hao tán, bị ăn chận, bị dị nghị (trường hợp tham nhũng, hối lộ bị tai tiếng).
  • Lộc Tồn, Thiên Không: Tham nhũng hối lộ, bị chúng ghét, ích kỷ, hà tiện.
  • Lộc Tồn, Cự, Nhật đồng cung: Phá sức sáng của Lộc Tồn rất nhiều.
  • Lộc Tồn, Hóa Lộc: Tồn là Thổ, Lộc là Mộc, nếu đồng cung hai sao khắc hành nhau, tiền bạc bị giảm, bị lụy thân vì tiền.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Phụ Mẫu
Cha mẹ có của, có tài sản hoặc có nghề nghiệp truyền lại cho con nhưng cũng không giữ được, phải tự mình làm nên.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Phúc Đức
Được tăng tuổi thọ, hưởng phúc, trong gia đạo hay có sự bất hòa, hoặc có người cô độc, đau bệnh, họ hàng khá giả nhưng mỗi người một nơi.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Điền Trạch
Giữ của bền vững, được hưởng tài sản hoặc nghề nghiệp của cha mẹ, ông bà để lại, và mình phải gầy dựng thêm mới giàu có.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Quan Lộc
Có danh vọng, chức vụ và tiền bạc, nhưng nếu có thêm các sao Địa Không, Địa Kiếp, thì công danh, sự nghiệp không bền và hay có tai họa.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Nô Bộc
Bè bạn, người giúp việc nay ở mai đi, ít người tâm đầu ý hợp.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Thiên Di
Ra ngoài dễ kiếm tiền, gặp may mắn.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Tật Ách
Ít bệnh tật, nhưng nếu có thêm các sao Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Riêu, Hóa Kỵ, Linh Tinh, Hỏa Tinh, thì nhiều tai nạn hoặc có ám tật.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Tài Bạch
Dễ kiếm tiền hoặc hay gặp quý nhân giúp đỡ.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Tử Tức
Chậm con, ít con, con cái thường ở xa cha mẹ.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Phu Thê
Muộn duyên nợ, nhưng vợ hoặc chồng rất đứng đắn, hay khắc khẩu.
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Huynh Đệ
Ít anh chị em, bất hòa, nhưng nếu có thêm các sao Tả Phù, Hữu Bật, Ân Quang, Thiên Quý, thì đông anh em hoặc hòa thuận.
Lộc Tồn Khi Vào Các Hạn
Hạn có sao Lộc Tồn thì mọi sự hanh thông, danh tài hưng vượng.
  • Lộc Tồn, Hóa Lộc: đại phát tài (Hóa Lộc chiếu mới thật tốt đẹp); nếu cùng Lộc Tồn nhập Hạn đồng cung, sự tốt đẹp bị chiết giảm.
  • Lộc Tồn, Mã: Mưu sự được toại lòng, danh tài hưng vượng.
  • Lộc Tồn, Không, Kiếp: Đau yếu, mắc lừa, mất của.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Lộc Tồn

Chọn dụng cụ vệ sinh trong nhà vệ sinh –

Nhà vệ sinh trong gia đình thường gồm cả phòng đi vệ sinh và phòng tắm (đa số các gia đinh ghép hai loại làm một), nó có thể chia làm 3 bộ phận: Khu dụng cụ vệ sinh, khu tắm, khu rửa mặt trang điểm. Giữa các khu đều có quan hệ mật thiết với nhau và c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ó chức năng riêng của mỗi khu.

phong-tam-dep-mau-trung-tinh

Đầu tiên nói đến việc chọn bệ đi vệ sinh, trước hết cần xác định được phương thức thoát nước của nhà vệ sinh: nước thoát xuống dưới hay thoát ra sau. Nếu như thoát xuống dưới thì phải đo được cự ly từ cửa thoát nước đến tường, dựa vào khoảng cách này để mua vật liệu. Thứ hai là tính năng thoát nước, biểu hiện về tính năng thoát nước tốt của bệ vệ sinh là xả sạch, tiết kiệm nước, tiếng ồn nhỏ. Hiện nay người ta thường ngộ nhận hai chữ “xả sạch”, cho rằng bệ vệ sinh chỉ cần thải được chất bẩn đi là được rồi. Kỳ thực, xả sạch ở đây còn có hàm ý một là xả rửa bệ vệ sinh; hai là phải tống hết được vật bẩn ra đường ống, đám bảo hai vấn đề này mới gọi là xả sạch. Tiết kiệm nước và tiếng ồn nhỏ của sản phẩm này thể hiện ở Sự đánh giá và ủng hộ của khách hàng. Chọn mua bệ vệ sinh cần chú ý phương thức thoát nước, vị trí đường ống, kết cấu bên trong và các linh kiện kèm theo. Hiện nay, phương thức thoát nước của bệ vệ sinh chủ yếu là xi-pông và xả. Thoát theo phương thức Xi-pông là lợi dụng sự chênh lệch mực nước của phần ống đầy nước và phần ống không có nước tạo lực hút và đẩy vật bẩn đi; xả là lợi dụng lực dòng nước đẩy vật bẩn đi. Ở đây có mâu thuẫn là kiểu xả tiết kiệm nước hơn kiểu xi- pông, nhưng tiếng ồn lại lớn hơn, ngược lại kiểu xi-pông tiếng ồn nhỏ hơn nhưng lại tốn nhiều nước. Tìm được điểm kết hợp tốt nhất của hai loại này là mẫu chốt của sự lựa chọn.

Bồn rửa mặt có trên thị trường hiện nay chủ yếu là hai loại – bệ và trụ, chức năng của chúng không khác nhau, chỉ khác nhau về hình thức. Bồn dạng bệ dùng cho nhà vệ sinh rộng, nó thể hiện sự trang trọng và lịch sự; kiểu chậu hình trụ thích hợp nhà vệ sinh bố cục hẹp, nó toát lên sự tinh xảo.

Chọn bồn tắm, xã hội đang có khuynh hướng sử dụng bồn yakeli vì đây là loại bình chất liệu nhẹ, công suất dẫn nhiệt thấp, dễ làm sạch, tạo cảm giác tốt, thiết kế phù hợp tạo hình thân người, nhưng giá cao hơn loại bồn kim loại.

Men bên ngoài vừa là bộ mặt và củng là phẩm chất của dụng cụ vệ sinh, men tốt bóng sáng, đều, có khả năng chống a xít kiềm, tỉ lệ hút nước thấp, không bám bẩn, tiện lợi cho cọ rửa làm sạch. Chọn được nó cần dựa vào nhãn quang độc đáo và sự khéo léo của bạn.

Chọn kiểu cách, màu sắc của dụng cụ vệ sinh theo sở thích cá nhân, nhà vệ sinh màu trắng thì sạch sẽ và sáng sủa; nhà vệ sinh màu trắng đen thì thể hiện có sức sống; nhà vệ sinh nhiều màu sắc toát lên cá tính và phong thái. Tuy nhiên nhà vệ sinh có kiểu cách mộc mạc, nhã nhặn, đơn giản là loại thể hiện sự tươi mới của cuộc sống, sinh hoạt và cá tính.

Chọn các phối kiện cho nhà vệ sinh phải “trọng về phẩm chất nhẹ về hình thức”, vòi nước tốt đều dùng van sứ, nó kết hợp chặt khít với vỏ ngoài, độ bền cao, lựa chọn loại này chỉ có thể nhờ vào cảm giác của bàn tay, chú ý khi sờ vào nó tay phải có cảm giác hơi thô ráp, khi mua cần nhớ lấy giấy bảo hành chất lượng và giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn.

Làm được những điều trên thì việc chọn dụng cụ vệ sinh trong nhà vệ sinh cơ bản là đạt tiêu chuẩn, đương nhiên không thể xem nhẹ sự thông nhất hài hoà giữa dụng cụ vệ sinh, tường vách và nền nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn dụng cụ vệ sinh trong nhà vệ sinh –

Tướng mặt mà không ai muốn có.

Khi xem tướng mặt có thể biết được đàn ông cô độc, khắc người thân hay phụ nữ có cuộc sống bần tiện, lạnh lẽo. Đấy là những tướng mặt mà không ai muốn có.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những đặc điểm trên khuôn mặt mà khi xem tướng mặt có thể biết được đàn ông cô độc, khắc người thân hay phụ nữ có cuộc sống bần tiện, lạnh lẽo. Đấy là những tướng mặt mà không ai muốn có.

tuong-mat-khong-ai-muon

Tướng đàn ông khắc con cháu: Tóc thô, lông mày rậm, xương yếu, vai rủ. Hai mắt lồi, môi ngậm chặt, mũi nhỏ và nhọn.

- Tóc thô, lông mày rậm, xương yếu, vai rủ.
- Tư thế đứng không ổn định, khi đi đường thường cúi đầu, trông như sẽ bị gió thổi đi.
- Bộ vị Tam dương thấp và nhỏ thì khó giữ được vợ.
- Khí sắc không tốt đại đa số là phá tài, âm thanh như giọng nữ thì không có tài sản, ruộng đất. Người thân khó có thể hòa hợp với người này.

Tướng đàn ông không có anh em: Vành tai lật ngược, 2 má nhọn

Vành tai lật ngược sẽ phá bại gia môn, 2 má nhọn sẽ không có anh em. Cho dù có 2 - 3 người anh em thì tình cảm cũng lạnh nhạt.

Tướng đàn ông cô độc không vợ: Thần khí bất an, khóe mắt không có thịt

Nguyên nhân khiến cho cuộc sống của người cô độc có thể là do khí không điều hòa. Hơn nữa bộ vị Ngư vỹ lại khô mà không có thịt, người này lập gia đình muộn.

Tướng mặt của người phụ nữ bần tiện

- Trán hẹp nhỏ mà lông mày lại dựng đứng, miệng méo lệch.
- Nét mặt khinh bạc mà thân thể cứng nhắc, đơn bạc, không có thể uy nghiêm.
- Vành tai nhỏ, tai rủ mà không to, tóc xoăn, sống mũi lại ngắn thấp.
- Tướng mặt như sắp khóc sẽ phải tái giá, mặt kỳ dị sẽ hiếm muộn đường con cái.
- Khóe mắt có khí sắc không sáng thường là người có tính đố kỵ, gian tà. Không chỉ bản thân hiện tại bần khốn mà về già còn phải sống cảnh cô quả, lạnh lẽo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt mà không ai muốn có.

Đường vân và nếp nhăn tố tình trạng sức khỏe của bạn

Đường vân và nếp nhăn tố tình trạng sức khỏe của bạn tốt hay xấu. Những nếp nhăn trên khuôn mặt có liên quan mật thiết đến tình trạng sức khỏe của bạn
Đường vân và nếp nhăn tố tình trạng sức khỏe của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Bỗng nhiên một ngày bạn phát hiện thấy gò má của mình có xuất hiện đốm nâu, chứng tỏ hệ tiêu hóa của bạn đang có vấn đề. Ngoài ra, nó còn cho thấy, bạn dễ bị viêm xoang, viêm mũi dị ứng khi trời trở lạnh đột ngột.


1.  Nếp nhăn ngang xuất hiện trên trán

Đây là dấu hiệu cho thấy, cơ thể bạn đang thừa chất đường bột và chất béo. Bạn nên giảm lượng tinh bột và chất béo trong khẩu phần ăn của mình để tránh nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch và béo phì.

Duong van va nep nhan to tinh trang suc khoe cua ban hinh anh
 
2. Một đường vân thẳng ở bên phải Ấn đường


Xuất hiện đường vân thẳng ở bên phải Ấn đường cho thấy bạn có lá gan yếu. Cần chú trọng tới vấn đề dinh dưỡng, an toàn thực phẩm nhiều hơn.
 
3. Một đường vân thẳng bên trái Ấn đường


Nếu có đường vân và nếp nhăn ở bên trái Ấn đường, đây là một trong tín hiệu cho thấy lá lách của bạn đang gặp phải một vài trục trặc nhỏ.

4. Một đường vân uốn quanh Sơn căn

Khi thấy một đường vân hay nếp nhăn uốn quanh Sơn căn, bạn nên ăn uống cẩn thận, đi lại, tránh bị dị ứng thực phẩm hoặc điều kiện môi trường, đặc biệt là khi giao mùa hay thời tiết biến đổi đột ngột.

5. Vết chân chim ở đuôi mắt

Vết chân chim xuất hiện ở đuôi mắt là dấu hiệu của thị lực kém và lá gan yếu.

6. Dưới mắt xuất hiện quầng thâm hay bọng mắt

Quầng thâm hay bọng mắt này này có thể là dấu hiệu của việc cơ thể tích trữ quá nhiều nước hoặc chức năng tuần hoàn của thận gặp vấn đề.

7. Gò má xuất hiện đốm nâu

Bỗng nhiên một ngày bạn phát hiện thấy gò má của mình có xuất hiện đốm nâu, chứng tỏ hệ tiêu hóa của bạn đang có vấn đề. Ngoài ra, nó còn cho thấy, bạn dễ bị viêm xoang, viêm mũi dị ứng khi trời trở lạnh đột ngột.

8. Chấm đỏ ở chóp mũi


Chấm đỏ này có thể là mụn hay do ảnh hưởng của sắc tố da. Nó báo hiệu các vấn đề về tim mạch, phải chăng trái tim bạn đang hoạt động quá tải.

9. Một đường vân dọc khóe miệng

Đây là tín hiệu cảnh báo rằng các cơ quan sinh sản của chủ nhân hoạt động kém.

Nguyên nhân thực sự khiến mối tình Trương Hàn và Trịnh Sảng đổ vỡ
– Mối tình 5 năm của cặp đôi “Cùng ngắm mưa sao băng” đã kết thúc trong ồn ào, tốn không ít giấy mực của báo chí. Nhiều ý kiến cho rằng, sự
10. Đường Pháp lệnh nhô cao


Khi đường Pháp lệnh nhô cao, báo hiệu các vấn đề về tuyến tụy, như tiểu đường chẳng hạn.

11. Đường vân dọc ở môi trên

Những đường này là kết quả của việc hút thuốc quá nhiều, tốt hơn, bạn nên bỏ thói quen có hại cho sức khỏe này. Ngoài ra, nó cũng cho thấy đời sống phòng the của bạn không như ý.

12. Sắc tố lạ trên môi

Nếu trên môi bạn xuất hiện chấm màu trắng, nhiều khả năng có kí sinh trùng trong đại tràng. Chấm màu xanh đậm, tuần hoàn kém hoặc có thể do táo bón. Còn chấm đen, có thể bạn đang gặp vấn đề về đại tràng.

13. Hai cằm


Nếu đây không phải là đặc điểm thiên bẩm, chứng tỏ bạn đang thừa cân và hoạt động của tuyến giáp yếu.

14. Vòng tròn bao bên ngoài đồng tử mắt có nhạt màu


Dấu hiệu này cho thấy cơ thể bạn đang chứa hàm lượng cholesterol vượt chuẩn, cần ăn uống và tập thể thao đều đặn để khắc phục tình trạng trên.

15. Tĩnh mạch ở thái dương nổi rõ


Hiện tượng này xảy ra đồng nghĩa với huyết áp của bạn cao bất thường, có thể là do hay nóng giận hoặc lo âu.

16. Cằm có rãnh sâu

Bạn hay đa sầu, đa cảm, hay suy nghĩ vẩn vơ và có nhu cầu lớn về “chuyện ấy”.

► Nốt ruồi và ý nghĩa của các vị trí nốt ruồi trên cơ thể

Lichngaytot.com

Xem thêm video: Gieo duyên nào ắt gặp quả nấy



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đường vân và nếp nhăn tố tình trạng sức khỏe của bạn

Sao Thiên Riêu

Hành: Thủy Loại: Dâm tinh Đặc Tính: Phong lưu khoái lạc, chơi bời, a dua, dễ tin. Tên gọi tắt thường gặp: Riêu Phụ Tinh. Luôn luôn...
Sao Thiên Riêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThủyLoại: Dâm tinhĐặc Tính: Phong lưu khoái lạc, chơi bời, a dua, dễ tin.Tên gọi tắt thường gặp: Riêu
Phụ Tinh. Luôn luôn đồng cung với sao Thiên Y. Cũng là 1 trong 4 sao của cách Hình Riêu Không Kiếp (Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp).
Vị Trí Ở Các Cung

  • Đắc địa: Dần, Mão, Dậu, Tuất.
  • Hãm địa: Tý, Sửu, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Hợi
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Sao Thiên Riêu ở Mệnh là người ham vui, thích chơi bời, phóng đãng, dễ tin người, nhẹ dạ, tính tình không dứt khoát, khó cầu công danh, thi cử.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Với Các Sao Khác
  • Sao Thiên Riêu ở Hợi cùng các sao Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc thì thi đỗ và làm nên.

  • Nếu gặp các sao Hóa Kỵ, Đà La, Cự Môn, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Kình Dương, Địa Không, Địa Kiếp thì hay trầm mình.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Các Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ là người có tay nghề khéo sống bằng nghề có liên quan đến sông nước, cha hoặc mẹ có tài về nghệ thuật, mỹ thuật, có hoa tay.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Phúc Đức
  • Trong họ thường là người nữ lận đận về chồng con, có ác tật, chết non, cô độc, người nam thì phóng đãng, phong lưu, đi xa, có tài nghệ đặc biệt.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Điền Trạch
  • Chậm về nhà cửa, nếu có sớm thì cũng tầm thường, phải thay đổi.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Quan Lộc
  • Công danh hay thay đổi, nay đây mai đó, hợp nghề thuốc, nghệ thuật, đạo diễn, sân khấu, nhà giáo.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn, người giúp việc nay ở mai đi, ham chơi nhưng cũng có tài nghệ đặc biệt.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài không có nơi chốn cố định, đa nghệ.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Tật Ách
  • Gặp sao tốt thì có sức khỏe nhưng cũng không được lâu bền, gặp sao xấu thì cũng hay tai nạn, đau yếu.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Tài Bạch
  • Tài lộc ra vào thất thường, ưa thích cờ bạc, trò chơi giải trí, nghệ thuật hoặc nghề thuốc, thầy giáo phát tài.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Tử Tức
  • Sinh nở khó khăn, hoặc khó nuôi con, hoặc có con riêng của vợ hay chồng, con cái hay chơi bời.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Phu Thê
  • Vợ chồng ưa thích vui chơi, văn nghệ, phong lưu tài tử.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Huynh Đệ
  • Có anh chị em dị bào, hoặc anh chị em nuôi, trong anh chị em có người phong lưu tài tử.
Thiên Riêu Khi Vào Các Hạn
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, người già không sống lâu, trẻ con thì hay quấy. Nếu có thêm sao Phá Toái, là hạn ốm đau, khẩu thiệt.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Thai, là hạn rất dễ có con riêng.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Tham Lang, Hóa Kỵ, có tai nạn về sông nước, hoặc mắc khẩu thiệt, hoặc bị kiện tụng, có sự lo buồn.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp, Thai, có chửa hoang, hoặc bị hiếp dâm, bị bắt ép làm nghề mãi dâm.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Thái Dương, Đà La, Hóa Kỵ, là hạn đau mắt nặng, nếu không cũng bị đau yếu, hao tán tiền tài, nếu có quan chức chắc chắn bị truất giáng.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Thiên Hình, Bệnh, hay bị bệnh phù. Nếu có thêm sao Địa Không, Địa Kiếp, mắc bệnh phong tình.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Riêu

Mẫu người Mệnh vô chính diệu

Khoa Tử Vi Đẩu Số đặt căn bản trên 118 vì sao gồm chính tinh và phụ tinh. Những sao này được phân bố trên 12 cung của một lá số theo các quy tắc đã định dựa vào ngày, tháng, năm và giờ sinh của mỗi người. Chính tinh có những đặc tính và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn phụ tinh cho nên những cung quan trọng như Mệnh, Tài, Quan, Phúc rất cần có chính tinh tọa thủ, nhất là Mệnh. Tuy nhiên, cũng có những lá số mà Mệnh không có chính tinh nào tọa thủ, hay chúng ta thường gọi là Mệnh Vô Chính Diệu (VCD).
Mẫu người Mệnh vô chính diệu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ như căn nhà không có chủ, một bầu trời không có trăng sao cho nên Mệnh VCD phải mượn chính tinh ở cung đối diện làm chính tinh của mình. Vì vay mượn cho nên Mệnh VCD chỉ chịu ảnh hưởng chừng sáu hay bảy phần những tốt xấu của các chính tinh ở cung xung chiếu mà thôi.

Cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên Di. Trong những bài trước, chúng ta đã nói cung Thiên Di là bối cảnh sinh hoặc ngoài xã hội của mỗi người. Do đó, khi phải mượn chính tinh ở cung Thiên Di cho Mệnh của mình thì đặc tính đầu tiên của người VCD là tính uyển chuyển, dễ thích nghi với hoàn cảnh.

Phải chăng vì Mệnh không có chính tinh cho nên những người VCD thường là con của vợ hai, hay nàng hầu. Nếu là con của vợ cả thì tuổi trẻ thuở thiếu thời hay bị đau ốm, bệnh tật, khó nuôi. Khi lớn lên thì cuộc đời cũng long đong, vất vả, sớm phải xa nhà, thường sống phiêu bạt nơi đất khách quê người, và tuổi đời không được thọ.

Một đặc điểm quan trọng khác mà người VCD phải lưu ý là vì Mệnh của mình không có chính tinh ví như đoàn quân không có tướng cho nên người VCD khi ra đời dù là làm công hay tự mình làm chủ thì cũng không nên là người đúng đầu trong một đơn vị như chỉ huy trưởng của một quân đội, giám đốc của một cơ sở hành chánh hay một cơ sở thương mại. Người VCD chỉ nên là nhân vật thứ hai như một cái bóng, đúng sau lưng một người khác để phò tá, phụ giúp thì thích hợp và thuận lợi cho công việc hơn. Nếu giữ những chức vụ hàng đầu thì thường hay gặp khó khăn trở ngại, nặng nề hơn thì dễ đưa đến sự thất bại hay tai họa xảy đến cho chính bản thân mình hoặc cho đơn vị, cơ sở mà mình chỉ huy, điều hành.

Người VCD tánh tình thâm trầm, khôn ngoan sắc sảo và rất thông minh. Do vậy, những công việc như soạn thảo kế hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư v.v… rất thích hợp với họ, điển hình như Trương Lương, Phạm Lãi, Gia Cát Lượng thời xưa và như Henry Kissinger ngày nay.

Ở đây chúng ta thấy một điều oái ăm cho người VCD. Họ có khả năng dự thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi khi họ làm cho người khác, còn đối với bản thân họ thì lại trái ngược. Họ thường khó đạt được những gì mà họ dự tính cho chính mình. Ảnh hưởng này mạnh nhất là trong khoản tiền vận của cuộc đời. Càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng giảm đi.

Người VCD thường lao đao vất vả trong buổi thiếu thời. Chỉ bắt đầu khá từ trung vận và càng về già thì cuộc sống càng ổn định hơn. Nói chung thì cuộc đời của họ thường chỉ được tốt đẹp vào nửa đời sau mà thôi. Bởi đặc tính đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại hạn, thì họ cũng chỉ được tốt đẹp vào nửa hạn sau. Ví dụ: Đại hạn 10 năm tốt đẹp thì 5 năm sau được thuận lợi hơn và nhiều may mắn hơn.

Là mẫu người có tài, có trí họ có thể đạt được những công danh sự nghiệp. Nhưng trong ba chữ Phước-Lộc-Thọ thì chữ “Thọ” là nhẹ nhất. Và có phải như ông bà chúng ta thường nói: “Đa tài thì bạc mệnh” Cho nên người VCD ít ai có được tuổi thọ cao. Muốn hóa giải vấn đề này, người VCD phải làm con nuôi của người khác và phải đổi luôn cả họ của mình, hoặc phải sớm xa nhà, mưu sinh nơi đất khách quê người.

Với sự bất lợi là Mệnh không có chính tinh thủ, nhưng người VCD vẫn được hai cách tốt:


1. Mệnh VCD có Tuần, Triệt, Thiên Không, hay Địa Không tọa thủ hoặc hợp chiếu, tùy theo cung Mệnh được bao nhiêu sao KHÔNG chiếu, khoa Tử Vi gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị không, tam không, hay tứ không. Tuy đây là một cách tốt, khi phát thì phát rất nhanh vì sách có nói “hung tinh đắc địa phát dã như lôi.” Có nghĩa là hung tinh đắc địa thì phát nhanh như sấm chớp. Nhưng dù sao trong cái tốt vẫn ẩn tàng những sự bất trắc vì đó là bản chất của hung tinh cho nên đây chỉ là cách bạo phát bạo tàn kiểu như Từ Hải hay Hạng Võ mà thôi.

Trường hợp Mệnh VCD gặp các sao KHÔNG vừa nêu trên chúng ta phải lưu ý một điều. Nếu Mệnh VCD đắc nhị không thì cũng bình thường, không có gì đáng nói. Nếu đắc tứ không thì ảnh hưởng của Tuần Triệt là con dao hai lưỡi tốt xấu lẫn lộn cho nên không được tròn vẹn. Cách tốt nhất là đắc tam không. Nhưng đối với cách này, cụ Việt Viêm Tử phân biệt rõ ràng giữa các trường hợp “đắc”, “kiến” và “ngộ” đễ khỏi nhầm lẫn trường hợp nào tốt, trường hợp nào xấu.


Trường hợp đắc tam không: Mệnh VCD có một sao không thủ Mệnh, hai sao KHÔNG khác ở thế tam hợp chiếu là tốt nhất. Có câu: “Mệnh VCD đắc tam Không nhi phú quý khả kỳ” Cách này rất ứng hợp cho những người Mệnh Hỏa và Thổ vì các sao Không đều thuộc hành Hỏa cho nên đây cũng là một trong những cách hoạch phát.

Trường hợp kiến tam không: Mệnh VCD có 1 sao KHÔNG thủ, một sao KHÔNG thủ ở cung Quan Lộc hoặc Tài Bạch, 1 sao KHÔNG ở cung xung chiếu (Thiên Di) Trong tam hợp Mệnh có hung tinh hay sát tinh tọa thủ. Người có cách này như mộng ảo hoàng lương. Công danh sự nghiệp dù tạo dựng lên được thì chung cuộc cũng chỉ là một giấc mơ.

Trường hợp ngộ tam không: Mệnh VCD có hung tinh hay sát tinh hãm địa tọa thủ. Hai cung tam hợp và cung xung chiếu có có sao KHÔNG tọa thủ hợp chiếu vào Mệnh. Cách này là “Mệnh VCD ngộ tam không phi yểu tắc bần” có nghĩa là gặp cách này không chết sớm thì cũng nghèo hèn cả đời vì tam KHÔNG đi cùng với hung sát tinh hãm địa ở Mệnh trở thành phá tán.


2. Mệnh VCD được hai sao Thái Dương, Thái Âm ở miếu, vượng địa chợp chiếu. Trường hợp này Mệnh như một vòm trời không một áng mây lại được hai vầng Nhật Nguyệt cùng một lúc chiếu vào khiến cho vòm trời ấy trở nên rực rở. Khoa Tử Vi gọi là “Mênh VCD Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” Có người cho rằng phải có thêm Thiên Hư ở Mệnh nữa thì mới đúng nghĩa với hai chữ “Hư Không” Điều đó xét ra không cần thiết lắm. Người đắc cách này thông minh xuất chúng, đa tài, đa mưu như Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc phân tranh.


Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào giờ Tuất ngày 10 tháng 4, năm Tân Dậu. Mệnh VCD an tại Mùi có Thái Dương ở Mão (Mặt trời lúc bình minh) và Thái Âm ở Hợi (mặt trăng vằng vặc lúc nửa đêm, cả hai cùng hợp chiếu về Mệnh. Đây là cách “Nhật Nguyệt Tịnh Minh tá cửu trùng ư kim diện” Người đắc cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ thua một đấng quân vương mà thôi.

 Vì Mệnh VCD, cho nên tuổi thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng mà điều binh trăm trận trăm thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình nên giữ đúng vị trí của một người có Mệnh VCD, chiu dưới chỉ 1 người mà trên muôn vạn người.
Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời, ấu chúa lên ngôi. Lúc ấy ông phải giữ vai trò của người đứng đầu, quyết định tất cả mọi chuyện như một vị Vua thật sự. Cho nên đó là một điều không thích hợp với người Mệnh VCD. Phải chăng vì vậy mà 6 lần đưa quân ra khỏi Kỳ Sơn thì cũng 6 lần phải rút quân về không kết qủa. Kể cả lúc biết mình sắp chết, muốn cãi số trời, ông đã làm phép cầm sao bổn mạng của mình lại nhưng cũng không thành.

Đó là đặc tính đáng chú ý của người có Mệnh VCD: Mưu sự cho người thì dễ, mà cho chính bản thân mình thì khó.

Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông qúa nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thi dù sát nghiệp của ông ta nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số Mệnh VCD ?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẫu người Mệnh vô chính diệu

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd