Nằm mơ di tinh với thủ dâm –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Đền Vua Rộc là một trong bốn ngôi đền thiêng ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, Trước kia, Đền nằm trong khu rừng nguyên sinh hiếm có, rộng 2,4 mẫu với đa dạng các loài thực vật quý hiếm. Được bao quanh bởi cây cối tươi tốt và hồ nước mát lạnh, đền Vua Rộc tạo ra không gian tĩnh tâm và nghỉ ngơi lý tưởng cho những ai cần sự bình yên. Đền Vua Rộc là điểm tham quan của khách thập phương có bề dày lịch sử, linh thiêng.
Đền Vua Rộc còn được biết đến với tên gọi khác là đền “đầu rồng” vì theo thuật phong thủy, đó là vùng đất đắc địa với mũi rồng không bao giờ cạn nước. Đền Vua Rộc được coi là tứ linh từ (bốn ngôi đền thiêng) nổi tiếng của huyện Kiến Xương. Đền thờ Vua Rộc, một vị tướng phương Bắc nhưng theo gia phả còn giữ lại tại xã Vũ An thì Vua Rộc chính là Đoàn Thượng Công, một vị tướng tài năng thời nhà Lý đã ra sức giết giặc. Sau này được nhà Lý phong tước là Đông Hải và Tây Hải Đại Vương.
Đền nằm trên cánh đồng Rộc của thôn An Điềm, theo như các cao niên thì đây là đất long mạch, tức “đầu rồng”. Vùng đất dựng đền cao hơn hẳn so với mặt bằng chung. Khí hậu ở đây rất lạ lùng, mùa đông thì ấm áp, mùa hè lại rất mát mẻ.
Hiện tại, đền Vua Rộc còn tồn tại dấu tích được xác định là “đầu rồng”. Phía trước đền có hai cái ao nhỏ được gọi là mũi rồng. Ông Vũ Thượng Đốc, Thủ từ đền Vua Rộc cho hay: “Hai cái mũi rồng không bao giờ cạn nước. Còn phía trên có hai tai rồng lại không bao giờ ngập nước, dù có mưa to hay bão lụt lớn như thế nào”.
Phía trước cổng đền có gò đất “hình nhân bái tướng”, phía Nam lại nổi lên gò đất hình voi phục. Trên hậu cung là gò hậu chẩm, tức là gối của vua. Đây là vùng đất cấm kỵ nên dân địa phương không ai dám làm mồ mả quanh đây.
Tương truyền, Khi Đoàn Thượng Công bị địch chém đứt đầu nhưng không chết, vua Rộc một tay giữ đầu, một tay thúc ngựa giết giặc. Đến cánh đồng Rộc, vua gặp một bà lão bán nước đã hỏi, liệu người đứt đầu thì sống được không? Bà lão trả lời, người đứt đầu thì chỉ có chết. Tức thì vua Rộc chịu chết và được an táng tại gò đất cao nhất.
Mộ Vua Rộc ngày càng đùn to lên, chính vì vậy dân làng đã xây đền thờ tụng. Nhiều hiện tượng lạ xảy ra tại đây khiến người dân khiếp sợ không dám bén mảng. Chính vì vậy, giữa vùng đất lúa đã còn sót lại một cánh rừng già với các loại gỗ quý và cổ thụ bao quanh đền.
Đền Vua Rộc lúc nào cũng thâm u bởi được phủ bởi những cây cổ thụ quý hiếm, qua cổng đền là ngũ môn đồ sộ cao tới 27m là thế giới của rừng nguyên sinh còn sót lại với Thiều Hoa, Bẹ Vàng, Móc, Màng Rề… Chính vì vậy mà đền Vua Rộc không bao giờ thiếu vắng những con rắn hổ mang cực độc. Rắn ở đây nhiều đến nỗi xác da rắn lúc nào cũng la liệt khắp các cành cây.
Phía cạnh “mũi rồng” bên phải còn một cây sanh ôm chặt và bao quanh cây cọ trông rất kỳ lạ. Thậm chí cây sung cổ thụ cũng có bộ rễ rồng uốn lượn đẹp mắt. Trên thân cây xuất hiện những u bướu hình người với đủ mọi tư thế.
Phía cạnh hậu cung đền Vua Rộc còn một rừng tre lạ lùng vài trăm năm tuổi. Mỗi cây tre đều to hơn bình thường, thẳng tắp và dài đến 30m. Đặc biệt, gai tre to như chiếc đũa và cứng như đinh sắt. Tre mọc độc lập không thành bụi quanh một cái hố nhỏ.
Ngoài những câu chuyện tâm linh, đền Vua Rộc từ xa xưa đã trở thành nơi cầu duyên của các đôi trai gái. Chính vì vậy, vào ngày 5, 6 tháng Giêng hằng năm người dân đều tổ chức lễ hội rất trang trọng. Đền Vua Rộc từng là nơi sơ tán và hoạt động bí mật của Đảng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Năm 2002, UBND tỉnh Thái Bình đã công nhận đền Vua Rộc là di tích lịch sử văn hóa.
Đây là quẻ Quan Âm thứ 51 được xây dựng trên điển cố: Khổng Minh Nhập Xuân – hay Khổng Minh vào đất Xuyên.
Đây là quẻ thượng cát. Là quẻ nói thời cơ đã đến, không nên chần chừ quá lâu sẽ vuột mất cơ hội hiện hữu. Không nên dè chừng thái quá cũng như không nên hành động tùy tiện.
Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa, vào cuối nhà Hán, Lưu Chương là con của quan mục Ích Châu là Lưu Yên, sau khi Lưu Yên mất, được tập ấm tước vị của cha, trở thành quan Mục của ích Châu. Lưu Chương lầ người nhu nhược đa nghi, Trương Lỗ ờ Hán Trung kiêu ngạo, không nghe theo lệnh của Lưu Chương, vì thế Lưu Chương giết cả nhà mẹ và em của Trương Lỗ, khiến hai bên trở thành thù địch. Lưu Chương đưa quân đánh Trương Lỗ, nhưng thất bại.
Khi nội loạn ở Ích Châu vẫn chưa dẹp yên, lại nghe tin tướng của Tào Tháo đem quân tập kích. Lâm vào tình cảnh trong ngoài đều khó khăn, Lưu Chương nghe theo chủ trương của các thuộc hạ thân tín là Trương Tùng và Pháp Chính, đón Lưu Bị vào Ích Châu, muốn mượn uy lực của Lưu Bị để chống lại Trương Lỗ và Tào Tháo. Năm 211, Lưu Chương sai Pháp Chính mang bốn nghìn người và một khoản tiền lớn tặng cho Lưu Bị, Lưu Bị đích thân thống lĩnh quân đội vào đất Thục. Đến Bồi Thành (nay thuộc thành phố Cẩm Dương của Tứ Châu), Lưu Chương đích thân ra nghênh đón. Khống Minh cũng theo Lưu Bị đến ích Châu, xem xét địa thế. Một dải Tây Xuyên, địa thế hiểm yếu, có thể công cũng có thể thủ. Nhờ Khổng Minh bố trí chu toàn, Tây Châu đã trở thành nơi khởi nguồn của chính quyền Thục Hán của Lưu Bị.
Ở Bồi Thành, Trương Tùng, Pháp Chính và Bàng Thống đều kiến nghị với Lưu Bị, nhân cơ hội này hãy giết Lưu Chương, nhưng Lưu Bị lại có tính toán khác. Lưu Chương giao binh sĩ cho Lưu Bị, lệnh cho Lưu Bị tấn công Trương Lỗ, nhưng Lưu Bị lại chưa xuất binh, mà muốn thu phục lòng dân.
Năm 212, Lưu Bị mượn quân và mượn lương thực của Lưu Chương để đem quân trở về Kinh Châu tiếp viện cho Tôn Quyền, nhưng Lưu Chương chỉ cho Lưu Bị một nửa binh lực. Đồng thời Lưu Chương phát hiện thuộc hạ của mình là Trương Tùng cấu kết với Lưu Bị, vì thế hai bên thành ra chia rẽ. Vì thế Lưu Bị tiến đánh Ích Châu. Bọn Lãnh Bao, Trương Nhiệm, Đặng Hiền cố thủ ở Bồi Thành chống lại Lưu Bị, nhưng bị đánh bại. Lưu Bị đánh đến cửa ải Cẩm Trúc, tướng giữ cửa ải là Lý Nghiêm đầu hàng. Năm 214, Lưu Bị bị chặn lại ở Lạc Thành (nay thuộc thành phố Quảng Hán tỉnh Tứ Châu), chiến sự kéo dài một năm. Sau đó Gia Cát Lượng, Trương Phi và Triệu Vân đem quân từ Kinh Châu vào đất Thục cứu viện, Pháp Chính lại làm nội ứng cho Lưu Bị. Lưu Chương buộc phải đầu hàng Lưu Bị vào năm 214.
Sau khi Lưu Bị chiếm được ích Châu, tiến hành luận công ban thưởng, Gia Cát Lượng được thưởng năm trăm cân vàng, một nghìn cân bạc, năm nghìn đồng tiền, một nghìn sức gấm, lại được phong làm Quân sư tướng quân, làm việc ở phủ Tả tướng quân. Sau đó Lưu Bị liên tục xuất binh chinh phạt, Gia Cát Lượng phụ trách việc trấn thủ Thành Đô, chuẩn bị lương thực, binh sĩ cho Lưu Bị.
Năm Diên Khánh thứ nhất đời Hán Hiến Đế (tức năm 220), Tào Phi chiếm ngôi nhà Hán tự lên ngôi. Năm Ngụy Hoàng thứ 2 (tức năm 221), quần thần nghe được tin Hán Hiến Đế bị hãm hại, khuyên Lưu Bị, lúc này đã là Hán Trung Vương, đăng cơ xưng đế, nhưng Lưu Bị không nghe theo. Gia Cát Lượng dùng câu chuyện Cảnh Thuần thuyết phục Lưu Tú đăng cơ để khuyên Lưu Bị, Lưu Bị mới đồng ý. Sau khi Lưu Bị xưng đế, giao cho Gia Cát Lượng làm Thừa tướng lục thượng thư sự.
Sau khi Lưu Bị qua đời, Lưu Thiền kế vị, phong cho Gia Cát Lượng làm Vũ Vương Hầu. Không lâu sau, Gia Cát Lượng lại làm Ích Châu Mục. Những sự việc lớn nhỏ trong chính quyền nhà Thục Hán, Lưu Thiền đều hỏi ý kiến của Gia Cát Lượng, do Gia Cát Lượng quyết định.
► Xem thêm: Những câu nói hay về triết lý nhân sinh cuộc đời đáng suy ngẫm |
Người ta có thể thông qua Phong thủy của nhà ở, văn phòng, cơ sở thương mại để dự đoán sự thành đạt của các tổ chức xã hội, kinh tế và nhân sinh. Tuy nhiên, trong việc ứng dụng phong thuỷ hiện nay còn nhiều vấn đề cần được làm rõ cả về nhận thức và thực tiễn. Trước tiên là tính khoa học của phong thuỷ.
Tính khoa học của phong thủy
Phong thủy theo cách hiểu phổ biến là một bộ môn khoa học phương Đông nghiên cứu về sự ảnh hưởng của môi trường, cảnh quan thiên nhiên, ảnh hưởng của các yếu tố địa lý xung quanh nhà ở đến cuộc sống của con người.
Phong thủy không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nó bắt nguồn từ ngay trong thực tiễn cuộc sống. Hàng ngàn năm trước, cuộc sống của con người chủ yếu dựa vào nông nghiệp nên cần Thủy (nước) và Thổ (đất). Chính vì vậy, mà con người ngay từ khi ra đời đã biết chọn những vị trí cư trú có núi non che chở, bao bọc, lại gần sông ngòi, nguồn nước.
Sự tranh giành quyền lực, đất đai của các bộ lạc, dân tộc dẫn đến những nhìn nhận về nơi an cư, lạc nghiệp mà nhất là phía sau gần núi dễ tạo sự an toàn thuận lợi cho việc phòng thủy. Từ đó hình thành nên khái niệm Tọa sơn hướng thủy. Gần thủy để tiện sinh nhai, gần núi để dễ được che chở, bảo vệ. Các câu phú Sơn quản nhân đinh thủy quản tài cũng xuất phát từ chính trong những nhu cầu sinh tồn đó.
Trải qua thời gian, những học thuyết Phong thủy dần dần được hình thành. Qua chiêm nghiệm thực tế, người ta đã bắt đầu gạn bỏ những gì không hợp lý, phát huy những gì đúng đắn nhất. Khoa học phong thuỷ vì thế mà ngày càng hoàn thiện hơn trên phương diện lý luận.
Bước sang thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của nền khoa học kỹ thuật phương Tây, phong thuỷ vẫn không những không mất đi vị thế mà còn thể hiện được tính ưu việt của mình trên nhiều phương diện. Và điều quan trọng là những nguyên lý của Phong thuỷ hoàn toàn không mâu thuẫn với những bộ môn khoa học hiện đại của phương Tây.
Nếu phương Đông có môn Phong thủy thì phương Tây cũng có những môn khoa học tương ứng nghiên cứu về thổ nhưỡng, khí hậu ảnh hưởng tới đời sống con người. Có thể kể đến là môn Vật lý kiến trúc nghiên cứu về sự vận động của gió trong nhà. Theo môn này thì không nên để các cửa thẳng hàng nhau sẽ kém thông thoáng, vi khuẩn yếm khí phát sinh. Còn Phong thủy phương Đông môn phái Loan đầu cũng có lời khuyên tương tự rằng nếu để ba cửa đối nhau dễ phát sinh tai họa.
Những tỷ lệ vàng trong kiến trúc Tây phương cũng có những nét tương đồng đối với những con số coi là đẹp trong Phong thủy Huyền không học. Phong thủy tương đồng với khoa học hiện đại Tây phương và chúng ta hãy nhìn nhận nó dưới góc độ khoa học và đừng khoác nên nó tấm áo thần bí.
Ứng dụng phong thủy trong bài trí văn phòng công sở
Trong một tổ chức, một doanh nghiệp, vị trí và cách bài trí văn phòng làm việc của ban điều hành, phòng Giám đốc cũng không thể xem nhẹ.
Nếu chiếc dầm đè bàn làm việc thì khi đó các dòng khí có sự tương tác rất mạnh đối với người đang ngồi sử dụng bàn. Ngoài hiệu ứng trên thì người trên bàn chịu hiệu ứng từ trường do khối lượng sắt thép bên trong dầm tương tác.
Điều này giải thích tại sao trong Phong thủy người ta kiêng không nên hoạt động hoặc làm bất cứ việc gì trong khu vực có dầm chạy qua. Chẳng hạn như khi đặt giường ngủ, đặt bếp cũng đều tuân theo sự kiêng kỵ này.
Trong Phong thủy có quan điểm cho rằng ánh sáng, không khí chính là khí của Phong thủy cho nên nhiều khi lấy tiêu chí hướng cửa sổ là hướng chính để tính Phong thủy. Vì thế, có ai đó cho rằng đặt bàn làm việc như vậy là sai theo Phong thủy.
Thời gian gần đây, nhiều Phong thủy gia khi tư vấn lại lấy ban công trong các khu chung cư để định hướng nhà. Nhưng quan điểm trên cần phải xem xét lại.
Chỉ cần chúng ta đưa ra câu hỏi: “Nếu cứ giữ nguyên cửa sổ và bịt cửa chính ra vào thì liệu gia đình đó có sinh hoạt được không?” thì sẽ thấy ngay tính bất hợp lý của nó.
Trong khi giữ nguyên cửa chính và đóng cửa sổ thì gia đình đó vẫn sinh hoạt được nhưng về lâu dài thì cũng không tốt do hiện tượng thiếu sự thông thoáng dưới góc nhìn kiền trúc hiện đại. Còn trong Phong thủy gọi là bế khí.
Trong phong thủy yếu tố về khí được đặc biệt coi trọng. Bố trí nhà ở hay bố trí phòng làm việc yếu tố này cũng nên đưa lên hàng đầu.
Nhất là trong việc bài trí phòng của những người giữ vai trò đầu não như phòng Giám đốc, đặc biệt chú ý lấy cửa ra vào là trọng. Người Giám đốc nên ngồi ở vị trí trong mọi tình huống có thế quan sát được người ra vào.
Tất nhiên vị trí đặt bàn làm việc tốt nhất là ở vị trí góc chéo với cửa ra vào, đó là vị trí lý tưởng nhất và phía sau chỗ ngồi phải có bờ tường dựa, khi ngồi làm việc thì mặt phải nhìn về một trong bốn hướng tốt của mỗi người theo từng mệnh cung.
Nguồn: Phong Thuy Thế Giới - Phong Thuy
Vua Quang Trung rất coi trọng việc chọn đất cát tường để lập kinh đô mới nên đã nhiều lần tha thiết nhờ đến cụ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là danh sĩ giỏi về dịch lý phong thủy đương thời tìm kiếm thế đất tốt tại Nghệ An.
Lần đầu vào tháng 4 năm Mậu Thân 1788, khi Nguyễn Huệ kéo kỵ binh thần tốc ra Bắc để trừng phạt Vũ Văn Nhậm, đã dừng quân để nhờ La Sơn phu tử “giúp coi địa lý để định lập đô ở đất quê quán mình là xứ Nghệ An”.
Nhưng một tháng sau, khi xong việc, Nguyễn Huệ từ Thăng Long quay về vẫn chưa thấy La Sơn phu tử xem đất cho, nên Nguyễn Huệ đã tự tay viết một bức thư bằng mực son tàu, trách: “Trước đây đã nhờ Phu tử về Nghệ An để coi đất đóng đô, sao tới nay ta quay về thấy việc đó chưa làm?
Vì thế ta phải thẳng về Phú Xuân để binh sĩ dưỡng sức và viết chiếu này ban xuống để Phu tử hãy cùng với quan trấn thủ Thận bàn bạc, xem xét đất đai để đóng đô tại Phù Thạch (trên bờ sông Lam, dưới chân núi Nghĩa Liệt). Hành cung hãy dựng dựa lưng vào sát núi. Cuộc đất được chọn tùy nơi Phu tử dùng con mắt tinh tường mà sớm định. Hãy mau mau chọn gấp, giao cho trấn thủ Thận xây dựng cung điện thật nhanh sao cho trong vòng 3 tháng phải xong”. Nhận thư, La Sơn phu tử viện dẫn địa thế ở Phù Thạch vừa hẹp, vừa không hợp phong thủy.
Nguyễn Huệ lại có chiếu gởi trả lời đại ý tiếp nhận những ý kiến của La Sơn phu tử, không lấy Phù Thạch làm đất đóng đô nữa, nhưng vẫn giữ ý định dứt khoát chọn đặt kinh đô tại Nghệ An và nhờ La Sơn phu tử chọn đất khác:
“Nay kinh thành Phú Xuân địa thế cách trở, lại ở xa Bắc Hà nên rất khó xử lý công việc. Chính vì thế, các đình thần có quyết nghị rằng đóng đô ở Nghệ An thì sẽ khống chế được thế lực trong Nam ngoài Bắc, vả lại người trong bốn phương có việc gì cần kíp kêu kiện cũng tiện việc đi lại (…) nhiều lần ta đã nhờ tiên sinh xem đất tìm những chỗ núi non kết phát ở đất Nghệ An mà tiên sinh đã từng chú tâm xem xét địa thế. Nhưng lâu nay vẫn chưa thấy trả lời (…) ta đã từng mở xem địa đồ hình thế vùng Nghệ An thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường, đất đai rộng rãi, thông thoáng, khí sắc tươi nhuần, xem ra có thể chọn làm nơi xây kinh đô mới(…) tiên sinh gắng suy nghĩ giúp cho việc ấy”.
Đó là chiếu ngày 3.9 năm Mậu Thân 1788, tỏ rõ mong muốn được La Sơn phu tử coi đất lập đô, nhưng La Sơn phu tử vẫn tìm cách trì hoãn. Đó là lần thứ hai La Sơn phu tử ngầm ý từ chối cuộc đất mà Nguyễn Huệ đề nghị xây kinh đô.
Ba lần chọn đất lập đô của Quang Trung
Nhưng đến lần thứ ba, thì La Sơn phu tử đồng ý với địa điểm mới là Phượng Hoàng: “Ngày nay, khoảng giữa núi Quyết và núi Mèo, còn thấy dấu tích một thành cũ hình gần tam giác. Dấu thành và hào đương còn rõ, nhất là trong bức ảnh chụp từ cao. Cửa tiền ở phía Nam. Núi Mèo (núi Kỳ Lân) làm nền cho đồn gác, thành phía Nam chắp vào núi ấy. Mặt Đông Bắc lấy núi Quyết (Phượng Hoàng) làm thành.
Ở giữa thành, còn dấu thành trong và nền nhà. Nhấtlà có nền cao ba bậc ở phần Bắc, mà ngày sau đời Nguyễn dùng làm nền xã tắc. Chắc đó là chỗ Quang Trung, ngự triều trong khi tạm nghỉ ở Nghệ An. Tuy gọi là Trung Đô, nhưng thành Phượng Hoàng nhỏ, thành Nam chỉ dài chừng 300 mét, bức thành Tây dài 450 mét, và cái nền cao thì ngang dọc cũng chỉ có chừng 20 mét mà thôi. Ấy vì Quang Trung mất sớm, chưa kịp đổi hành cung ra cung điện. Về sau kinh đô của Quang Toản vẫn ở Phú Xuân”.
Những trích dẫn trên đây nằm trong cuốn sách giá trị: La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp của GS. Hoàng Xuân Hãn với lời tóm lược về ba lần chọn chỗ đóng đô: Lần đầu ở núi Lam Thành Sơn, lần thứ hai ở Yên Trường (cách Lam Thành Sơn chừng mười cây số ở phía Bắc), lần thứ ba ở Dũng Quyết (cách Yên Trường chừng hai cây số ở phía Đông Nam và cách Lam Thành Sơn chừng tám cây số).
Cuối năm 2011 hội thảo về Phượng Hoàng trung đô mở tại thành phố Vinh (Nghệ An), nhà khảo cổ học và nghiên cứu phong thủy lão thành Đỗ Đình Truật được mời từ TP. HCM ra Vinh để tham dự và ông đã viết một tham luận đề cập đến phong thủy của Phượng Hoàng trung đô trích dưới đây:
“Thị trấn Thanh Nghệ xưa kia chỉ là một cuộc đất từ sông Mã chạy xuống Nam đến hết sông Lam, là cuộc đất rất thịnh dễ sinh ra những vị anh hùng cho đất nước. Căn cứ vào tấu thư của Cao Biền đời Đường và “Hoàng Phúc cố chuyện” của thời Minh thì hai nhân vật này tuy sống ở thời đại khác nhau nhưng cùng chung một ý đồ đi yểm trời đất sông núi Việt Nam. May thay Lê Lợi đã bắt được tướng Hoàng Phúc, thấy trong hành trang của Hoàng Phúc có cả bản đồ của đất Nghệ Tĩnh và tài liệu về việc Hoàng Phúc đã dựng 5 ngọn cờ ở đất Hà Tĩnh cách núi Quyết độ 10km để yểm trừ vùng đất thiêng này – gọi là “cờ 5 yểm”.
Và Hoàng Phúc dự kiến đến khoảng thiên niên kỷ III thì vùng này sẽ là trung tâm chống Bắc Triều. Nguyễn Thiếp giỏi về dịch học và khoa phong thủy đã dày công đọc hết những tài liệu đó và đi thăm dò thực hư. Quả nhiên là Tổ Sơn của vùng này xuất phát từ (khe Bò Đái) nằm trong 99 ngọn núi Hồng Lĩnh sơn và được mạch khí chạy lòng vòng xuống núi Quyết rồi quay lại về Tổ Sơn; làm cho núi Quyết trở thành âm phù dương trợ, quần phong tụ khí, nên vô cùng đắc địa. Do đó mới có tên là núi Phượng Hoàng, vì ta đứng bên dòng sông Lam quay mặt ra bể thì ta thấy bên tả Thanh Long: là con Rồng Xanh (sông Lam), bên hữu là Bạch Hổ (có dãy núi của Hà Tĩnh) cũng đưa khí về núi Quyết. Còn ở mặt trước phía Đông núi Quyết là Chu Tước – vật báo hiệu Minh Đường rất phát triển và phía sau là Huyền Vũ (sao của người giữ nhà, giữ cửa, giữ nước) làm hậu phương.
Sau khi có chiếu chỉ của vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp đã đi rà soát lại thì thấy Phượng Hoàng trung đô là nơi đắc địa hiếm có trong trời đất. Điểm này ông hoàn toàn nhất trí với tướng Hoàng Phúc (nhà Minh bạo tàn). Vì vậy ông và Trần Quang Diệu quyết tâm để lăng mộ của chủ tướng mình ở đây là hợp lý và việc xây cất trở thành việc làm vô cùng bí mật. Đứng bên ngoài mà nhìn là việc xây thành đắp lũy, bên trong thì ngấm ngầm làm việc trọng đại ấy. Tôi cũng đi rà soát lại lần nữa với hai đồng nghiệp là nhà nghiên cứu Nguyễn Thiện Đức và nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tâm thì thấy Nguyễn Thiếp miêu tả cảnh quan phong thủy của cuộc đất Phượng Hoàng như thế là rất đúng, nên đều nhất trí là di mộ của vua Quang Trung có khả năng để ở đây”.
Qua phân tích và nhận định của GS. Hoàng Xuân Hãn, cụ Đỗ Đình Truật và các tài liệu lịch sử khác như: Đại Nam chính biên liệt truyện, Hoàng Lê nhất thống chí cho chúng ta biết Phượng Hoàng trung đô đã được bắt tay xây dựng ở khoảng giữa núi Mèo và núi Quyết với lầu gác ba tầng có bố trí đồn binh bảo vệ vòng quanh đó. Xa xa về phía núi có kho lúa dự trữ. Dấu tích của thành và các đường hào đến thế kỷ 20 vẫn còn khá rõ.
Các nhà nghiên cứu kết luận địa thế của thành rất dễ giữ, vì phía trước có con Mộc và sông Lam, phía bên có núi Quyết, vốn là hào và thành thiên nhiên kề cận để che chắn bảo bọc. Tiếc rằng vua Quang Trung mất sớm nên việc xây dựng cung điện nguy nga để định đô ở Nghệ An chưa kịp hoàn thành. Vậy là, cuộc đất tuy đại lợi về mặt phong thủy nhưng giống như con phượng hoàng đang bất ngờ lâm bệnh nên không đủ sức khỏe để cất cánh bay cao khỏi số mệnh nghiệt ngã của mình.
nào.
1.Hội Phong Chúa, Rước Vua
Thời gian: tổ chức vào ngày 11 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: làng Thụy Lôi, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Nội dung: trước ngày diễn ra hội chính, làng cho giết trâu, bò, lợn, gà để khao dân làng tại đình... Sáng ngày 11 tháng giêng là ngày hội chính, ngoài người được chọn làm vua còn có chúa và cùng bốn vị quan đầu triều cùng tham gia lễ rước. Vua giả ngồi lên kiệu được trai tráng trong làng rước ra ngoài đình cùng các quan, đặc biệt sau lễ rước "Vua" trở về dinh là... nhà mình, ngự trên ngai vàng, bà con làng xóm vui mừng tới dinh "Vua" chúc mừng. Theo các cụ cao niên trong làng thì những người được phong "Vua" phải đáp ứng nhu cầu khắt khe về đức độ lẫn sức khỏe, tuổi tác (Trên 70 tuổi)...
Trước kia lễ hội rước vua diễn ra trong ba ngày, nay chỉ tổ chức trong 1 ngày để cho phù hợp với đời sống văn hóa mới.
2. Hội Đình Làng Dương
Thời Gian: Tổ chức vào ngày 11 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: xã Dương Nội, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ nay đã thuộc Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ba vị Thánh Tổ tiên sư: Từ Đạo Hạnh, Không Lộ, Giác Hải ở cả đình và chùa La Dương (Diên Khánh Từ).
Nội dung: Mở đầu hội là các hoạt động tế lễ dâng hương, giảng kinh. Tiếp đó là các trò chơi đánh cờ, chọi gà.
3. Hội Thượng Liệt
Thời gian: tổ chức vào ngày 11 tới ngày 13 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: xã Đông Tân, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn nữ thần Qúy Minh (con vua Trần Duệ Tông).
Nội dung: đầu hỗi sẽ là nghi thức lễ dâng hương, tiếp đó sẽ là tiết mục múa giáo cờ, giáo quạt, múa lân, hát ca trù, thả đèn.
4. Thương phố tầng trệt khu chung cư
Thương phố tầng trệt khu nhà ở, chỉ vị trí cửa hàng cửa hiệu nằm ở tầng trệt các công trình kiên trúc nhà ở (có thể bao gồm 1, 2 tầng hầm và 1,2 tầng dãy hoặc bộ phận tầng lầu trong đó).
Cửa hàng cửa hiệu tầng trệt khu nhà ở là hình thức đầu tư cửa hàng cửa hiệu mà thị trường trước mắt đang rất quan tâm, được người đầu tư hoan nghênh. Rất nhiều khu chung cư mở rộng hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn từ các gian hàng tầng trệt, nó không những tránh được việc khó bán các tầng trệt khu nhà ở mà còn thu hút được lượng đầu tư tương đối lớn. Đối với những người đầu tư vào cửa hàng cửa hiệu tầng thấp nhất của khu nhà ở mà nói, xét thấy kiến trúc các cửa hàng cửa hiệu của tầng trệt khu nhà ở sẽ mang đến một lượng khách hàng ổn định, các khách hàng tương lai tương đối đáng tin, nói cách khác, mức độ rủi do tương đối thấp.
5. Cửa hàng cửa hiệu trưng bách hoá thương mại, trung tâm mua bán
Sự kinh doanh tốt xấu của bách hoá thương mại và các loại hình trung tâm mua bán đều có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh doanh của các cửa hàng cửa hiệu trong đó. Trước mắt, trong nước có rất nhiều loại hình này trong hạng mục kinh doanh, ngoài ra còn có không ít các hạng mục shopping mall trong kiến trúc mở rộng thành phố lớn và vừa trong nước.
6. Thương phố lầu thương vụ, lầu làm việc
Thương phố lầu thương vụ, lầu làm việc chỉ không gian thương nghiệp mở các thương nghiệp dùng bên trong như: tiệm rượu, nhà hàng khách sạn, câu lạc bộ, hội sở, trung tâm triển lãm, lầu làm việc… Các quy mô của thương phố loại này khá nhỏ, nhưng giá trị thương nghiệp rất đáng quan tâm.
7. Mở cửa hàng bên cạnh lề đường giao thông
Các cửa hàng cửa hiệu mở bên lề đường giao thông hoặc bên cạnh bến xe, bến tàu, ga tàu, sân bay, hoặc các cửa hàng nhỏ ở các ngã ba đường chính.
Bên trên là dựa theo hình thức mở rộng thương phố mà tiến hành phân loại. Phương thức phân loại này thuận tiện cho nhà đầu tư từ góc độ mở rộng hình thức mà tiến hành lý giải đối với các loại hình hạng mục thương phố, thuận tiện để xây dựng các thương phố với các hình thức kinh doanh phong phú.
Vật cát tường: Tì hưu
Ý nghĩa tượng trưng: Thúc đẩy tài vận phát triển, vượng tồi.
Giải thích: Loại mãnh thú này thân không có vảy, chân không có lông, thần thái uy vũ, cho nên rất tốt bày làm vật cát tường, thích hợp với thiên tài hoặc người làm nghề tuyển dụng, có hiệu ứng rất tốt đối với những người có thu nhập không ổn định. Khi bày chúng thì đầu chúng hướng ra bên ngoài cửa chính hoặc cửa sổ, như vậy mới có lợi cho việc cầu tài.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Hải Phòng tuy không phải xứ sở chùa chiền, tuy nhiên nơi đây cũng sẽ không làm du khách thập phương thất vọng khi chọn làm nơi đi lễ chùa cầu khẩn, tĩnh tâm… Nhắc đến chùa chiền miền đất cảng thì Chùa Đỏ chắc chắn sẽ là nơi tâm linh được du khách yêu mến. Chùa Đỏ toạ lạc trên đường Lê Lai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Nơi đây được trụ Trì bởi Sư thầy Thích Trường Xuân
Chùa Đỏ có tên chứ là Linh Độ Tự. Nằm giữa trung tâm Thành phố Hoa phượng đỏ, sâu trong một con ngõ khá khuất nẻo và được bao bọc bởi khu dân cư, chùa Đỏ là một địa chỉ tâm linh nức lòng du khách.
Lịch Sử: Tương truyền, năm Mậu Tuất (1288) Hưng Đạo Vương khi đến vùng An Dương để nghiên cứu trận thủy chiến tiêu diệt đoàn thuyền Ô Mã Nhi rút chạy qua cửa Bạch Đằng, đã lấy chùa Linh Độ Tự làm nơi quân ta nổi lửa nuôi quân đánh trận. Chùa Đỏ đã được sửa chữa nhiều lần với quy mô ngày một mở mang đẹp đẽ xứng đáng với truyền thống lâu đời, phù hợp và đậm đà bản sắc của dân tộc.
Kiến Trúc: Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất trong lịch sử kiến trúc chùa chiền Việt Nam: kiến trúc cổ diêm chồng đấu có 3 tầng 20 mái, mối liên hệ giữa Tiền Đường – Trung Đường và Hậu Cung đã xử lý hai màu giao nhau, tạo ra sự hoà quyện giữa các khu, liên kết khéo léo các khu lại tạo ra hình khối liên kết nguy nga, hoành tráng.
Chùa được chia làm ba cung chính: phía ngoài là mặt Tiến Đường, ở giữa là Trung Đường, phía sau là Hậu Cung. Chùa cao tới 26m. Cách trang trí bên trong và trên mái tiền đường được thiết kế một tháp 7 tầng cao 5m, chân tháp cao 1m2, bên trên tháp có sen, trong toà sen có cột cờ cao 5m, để treo cờ trong mọi mùa lễ hội. Ở Trung Đường có hàng “hoa chanh” được cách điệu là các lá đề kép bằng men màu xanh cổ chạy dọc nóc chùa. Trên mỗi lá đề kép đều có biểu tượng Linh Độ Tự.
Hậu cung có hai tầng mái đao, ở giữa trên nóc mái có đặt lá Bồ đề (cao 1m20) như ngọn lửa bập bùng, thể hiện sự tinh khiết, trong sáng của đạo Phật, của Tăng Ni, Phật tử hướng thiện cứu khổ, cứu nạn. Xung quanh các tầng mái đều lắp lá đề kép, làm bằng chất liệu đặc biệt, ở giữa trang trí nhiều bóng đèn xung quanh và được thắp sáng trong những ngày đại lễ.
Mặt chính chùa làm bằng đá xanh, cột được trang trí những con Rồng, mang đậm sắc thái nghệ thuật thời Lý Trần. Bên ngoài chính diện tầng một có bố trí 4 cây cột đá (đường kính 50cm, cao 4m2) chạm khắc Long – Phượng, đối xứng hai bên, giữa các cột là các lan can bằng đá chạm khắc “Tùng – Trúc – Cúc – Mai” được biểu hiện ở dạng hoá Rồng. Bệ dưới ốp đá chạm trổ mây và hoa sen nở; nền chùa được tạo dựng trên một toà sen khổng lồ với ý nghĩa Liên Hoa Tạng Giới
Đặc biệt, tượng phật Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong chùa là một tuyệt tác về nghệ thuật và là bức tượng gỗ lớn nhất Việt Nam. Tượng cao 5m5, ngự trên toà sen cao 2m90, gồm 500 cánh sen sơn son thiếp vàng chạm khắc hoa văn thời Trần.
Trước Cách Mạng tháng tám 1945, Chùa Đỏ là một chùa đẹp, nhiều bản đồ thánh phố ghi tên. Trong khoảng thời gian Pháp đô hộ (1946-1954) và cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1964-1973) Chùa bị hư hại nhiều.
Những ngày đầu xuân, người dân Thành phố Hoa phượng đỏ nô nức đến vãn cảnh chùa, vừa thỏa mãn lòng chiêm bái và cầu cho một ăn mưa thuận, gió hòa ở một địa danh tâm linh.
Thời gian: tổ chức từ ngày 19 đến ngày 20 tháng 7 âm lịch.
Địa điểm: xã An Đạo, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn hai vị Long Xà đại vương (tức thủy thần) và Út Soi đại vương (tức thần bãi sông).
Nội dung: Lễ tế các thần trong một không khí trang nghiêm. Tiếp sau đó là các cuộc đua thuyền trên sông lô.
Ngược lại hoàn toàn với “góc thiếu”, “lồi ra” thường đem lại hiệu quả tích cực. Song không phải góc lồi nào cũng là cát lợi. Cải tạo góc lồi bằng cách: cắt bỏ phần lồi ra hoặc xây thêm vào phần lồi ra.
Nếu nhà lồi ra ở hướng Đông Bắc thì xây thêm một gian nhà từ Đông sang Đông Nam. Nếu nhà lồi ra ở hướng Tây Nam thì có thể xây thêm một gian nhà từ Tây sang Tây Bắc, sử dụng cả hai cách trên có thể chuyển thành hướng cát. Nhưng sau khi xây thêm, không được cắt cử phạm vi sử dụng. Nếu như không đủ khả năng để cải tạo xây dựng thì đành phải trồng cây xanh ở hướng chếch ngoài của phần lồi ra Quỉ Môn, nhưng cách này chỉ có thể giảm nhẹ tai hoạ thôi.
Hành: Thổ
Loại: Bại Tinh
Đặc Tính: Bệnh tật, đau yếu, buồn rầu
Là một phụ tinh. Sao thứ 9 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Sao Bệnh Phù là sao chỉ sự đau yếu, bệnh tật, buồn rầu vì bệnh tật. Đây là bệnh của người suy nhược toàn diện, kém ăn, kém ngủ, kém nghỉ ngơi, thiếu bồi dưỡng, thông thường thể hiện bằng sự dễ nhiễm lạnh, sổ mũi, nhức đầu,"nắng không ưa, mưa không chịu".
Mặt khác, vì là sao nhỏ, cho nên có thể bệnh hoạn không nặng lắm, tuy có thể kéo dài. Vì vậy, về mặt tướng mạo, sắc diện, da dẻ không hồng hào, xanh xao, vàng vọt. Về mặt tâm lý, tinh thần người có sao Bệnh Phù không phấn chấn, tráng kiện, không thích hoạt động.
Bệnh = bất tín dụng ; nếu không có anh tinh thì thêm bất tài.
Bệnh, Đào, Riêu: bệnh phong tình.
Bệnh, Hao, Sát, Hình, Kỵ : ác bệnh, khó chữa.
Ý nghĩa sao Bệnh Phù ở cung Tử Tức:
Bệnh, Phá = sát con
Ý nghĩa sao Bệnh Phù ở cung Tật Ách:
Bệnh, Không, Kiếp = bệnh hỏa hư, huyết sấu.
Bệnh phù, Hao sát ngộ Hình, Kỵ bị ác bệnh.
Ý nghĩa sao Bệnh Phù ở cung Phúc Đức:
Bệnh phù, Hóa kỵ, Thiên hình: nhà có người điên, hay mắc bệnh phù thũng.
HẠN
có sao Bệnh phù: hay ốm đau.
Sao Bệnh phù, Thái tuế : có sự đau khổ, ốm đau ; nếu có Thiên Lương thì giải được.
– 2 sao này gặp Sát, Phá, Tham, Vũ thì lại ít bệnh.
(Ảnh minh họa) |
Người tuổi Thìn mệnh Kim có thái độ rõ ràng giữa thiện và ác, có quyết tâm theo đuổi chính nghĩa. Cách xử thế này đôi khi khiến họ gặp ít nhiều sóng gió trong các mối quan hệ.
Nếu được sao tốt tương trợ, người tuổi Thìn mệnh Kim sẽ đạt được nhiều thành công nhờ những phẩm chất tốt đẹp và tư duy nhanh nhạy của mình. Nếu không được sao tốt tương trợ, họ sẽ thường xuyên gặp thất bại trên con đường đi của mình và dẫn đến tiến thoái lưỡng nan. Nếu không thì họ cũng sẽ chỉ biết an phận, hoặc thường vướng vào chuyện kiện tụng chốn quan trường mà không làm được việc lớn nào.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
► Tham khảo thêm: Đặt tên con theo phong thủy để có vận mệnh tốt đẹp |
Dần - Tý | Dần - Sửu | Dần - Dần | Dần - Mão |
Dần - Thìn | Dần - Tỵ | Dần - Ngọ | Dần - Mùi |
Dần - Thân | Dần - Dậu | Dần - Tuất | Dần - Hợi |
Maruko (theo Sohu)
– cung Phúc xấu hoặc tầm thường; – cung Phụ bị Tuần, Triệt đồng cung trấn thủ; – cung Phụ có Âm, Dương sáng bị Tuần, Triệt; – cung Phụ, cung Mệnh có hao bại tinh, đặc biệt là Tang Môn, Bạch Hổ; – cung có Thái Dương (cha), cung có Thái Âm (mẹ) có Tang Hổ, Đại Tiểu Hao gặp sát tinh; – số của cha, mẹ có cách yểu.
Vị trí của Âm Dương cùng với giờ sinh có thể giúp đoán được cha hay mẹ mất trước, cụ thể như sau: – Âm Dương đều sáng sủa: cha mẹ thọ (thông thường) – Dương sáng, Âm mờ: mẹ mất trước cha – Dương mờ, Âm sáng: cha mất trước mẹ – Âm Dương cùng sáng: sinh ban ngày: mẹ mất trước; sinh ban đêm: cha mất trước – Âm Dương cùng mờ: sinh ban ngày: cha mất trước; sinh ban đêm: mẹ mất trước – Âm Dương đồng cung ở Sửu Mùi: không có Tuần, Triệt đồng cung: sinh ngày - mẹ mất trước, sinh đêm - cha mất trước; gặp Tuần hay Triệt đồng cung: sinh ngày - cha mất trước, sinh đêm - mẹ mất trước.
Việc mất trước không bắt buộc là mất sớm. Việc tính sớm, trễ phải dựa vào cung Phụ Mẫu, qua những bộ sao dưới đây: – Tử Vi, Phá Quân đồng cung – Tử Vi, Tham Lang đồng cung – Liêm Trinh ở Dần, Thân – Liêm Trinh, Thất Sát đồng cung – Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung – Thiên Đồng ở Thìn, Tuất – Thiên Đồng, Cự Môn đồng cung – Vũ Khúc – Vũ Khúc, Phá Quân đồng cung – Thái Dương ở Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý – Thiên Cơ, Thái Âm ở Dần – Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung – Thiên Phủ ở Sửu, Mùi, Mão, Dậu – Thái Âm ở Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Dần – Tham Lang – Cự Môn ở Tỵ, Thìn, Tuất – Thiên Lương ở Tỵ, Hợi – Thất Sát ở Thìn, Tuất – Phá Quân – Phá Quân ở Thìn, Tuất – Hỏa Tinh, Linh Tinh, Phá Quân đồng cung – Kình Dương, Đà La, Thất Sát đồng cung – Thiên Mã, Đà La và sát tinh – Cô Thần, Quả Tú và sát tinh – Tuần, Triệt tại cung Phụ Mẫu
Ngoài ra, năm sinh và giờ sinh của mình đôi khi có ảnh hưởng đến sự vắn số của cha mẹ trong 3 trường hợp sau: – sinh năm Dần, Ngọ, Tỵ, Dậu giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì rất độc: mồ côi sớm; – sinh năm Dần, Hợi, Tỵ, giờ Ngọ, Thân, Dậu, Hợi: khắc cha từ lúc còn nhỏ tuổi nhưng nếu qua 16 tuổi mà chưa mồ côi cha thì coi như không mồ côi sớm nữa; – sinh năm Thìn, Tỵ, Sửu, Mùi giờ Tý, Ngọ, Mão, Tỵ, Hợi, Thân, Dậu: khắc mẹ trước.
Ba trường hợp trên phải được tính phối hợp với các sao ở cung Phụ Mẫu kể trên để có thêm yếu tố quyết đoán.
b. Cha mẹ chia ly: không kể mỗi người đi làm ăn một phương rồi thỉnh thoảng gặp lại, tình trạng chia ly ở đây được hiểu là xa cách hẳn nhau, không tái họp vì những nguyên nhân như ly thân, ly hôn, tử biệt. Có thể tham chiếu đoạn nói về vợ chồng chia ly để khảo sát tình trạng chia ly của cha mẹ. Mặt khác, đôi khi tình trạng chia ly gần giống tình trạng chết sớm. Ngoài ra, những họa xảy ra cho cá nhân đều có thể ứng cho Phụ Mẫu nếu những bộ sao đó đóng ở cung Phụ.
c. Cha mẹ để nợ cho con cái: thể hiện qua các sao tài lộc bị sát tinh đi kèm, đôi khi bị hao bại tinh đi kèm. Mặt khác, cung Tài của đương số cũng có hao bại tinh, nhất là Tuần, Triệt, ngụ ý rằng chậm có tiền.
d. Cha mẹ bệnh tật nặng: xem trong cách bệnh, tật.
8. Họa cho anh em, chị em: ảnh hưởng đến sự yểu chiết, sự hư đốn của anh chi em, sự hình khắc bất hòa, tranh chấp giữa anh chị em, ruột hay nuôi hay ghẻ. Các bộ sao nói lên tình trạng trên đều tương tự với các bộ sao yểu, hư, hình khắc ... giữa vọ chồng, con cái hay cha mẹ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
a) Thanh:
Từ ngữ Thanh chỉ tất cả các nét tướng tốt của con người, từ tướng cơ thể đến tướng tinh thần, từ nét tướng động tĩnh và cả những nét tướng phối hợp động, tĩnh bao gồm cái tốt về phẩm và về lượng dưới đủ mọi dạng thức.
Nếu nói về Sắc da, Thanh có nghĩa là hữu tình, ưa nhìn, không đậm, không nhạt.
Trong trường hợp này việc thẩm định tính chất Thanh nặng về chủ quan và trực giác hơn là khách quan và thị giác hiểu theo nghĩa thông thường.
Nói về giọng nói, Thanh có nghĩa là trong trẻo, Âm lượng vừa phải, không quá lớn đến đinh tai nhức óc, không chua như dấm, không xoáy vào tai người nghe như kim châm,... nhưng không quá nhỏ như tiếng dế, tiếng ong. Giọng nói thanh tao, hảo cảm, vui tai không phải vì lý luận hữu lý mà vì tính chất ấm áp hay trong trẻo, rõ ràng, không rè, không chát.
Nói về cử chỉ, Thanh có nghĩa là cử chỉ mực thước, quý phái không sỗ sàng, cương nhu thích nghi. Đó là cử chỉ của loại người gọi là hào hoa, phong nhã, theo đúng nghĩa trong sạch của nó.
Nói về bộ vị hay người bộ vị Thanh kết hợp lại tạo thành một cơ thể hay cơ cấu cân xứng, linh động, có sinh Khí về cả phẩm lẫn lượng một cách có thẩm mỹ. Cặp Lông Mày được gọi là Thanh khi sợi Lông Mày không lớn hơn sợi tóc, dài và mọc cách nhau thế nào để kẻ quan sát cách xa đó một hay hai thước nhìn thấy được phần da của chân Lông Mày, Sắc Lông Mày đen xanh và mượt. Mũi Thanh là Mũi ngay thẳng và cao, không lệch, Gián Đài và Đình Úy không quá lớn. Đầu Mũi không quá mập. Chẳng hạn Mũi tiêm đồng, Mũi thông thiên được coi là Thanh, Mũi sư tử, Mũi túi mật treo bị coi là Trọc.
Nói về thân hình, loại người hình mộc (loại Giáp Mộc) được coi là Thanh, người trọng Thổ bị xem là Trọc.
Nói về thần Khí, kẻ Mắt lồi, mục quang hung hãn, hoặc lòng đen, tròng trắng mờ đục thì không Thanh. Trái lại, ánh Mắt sáng, êm dịu, tinh anh, đồng tử trong suốt như pha lê, tròng đen lòng trắng rõ ràng, thuần khiết không mờ đục, không có tia máu xÂm phạm được coi là thần Thanh, Khí sảng. Nói về tổng quát, nếu có sự phối trí tương xứng theo một hòa điệu giữa các thành phần trong bộ vị cơ thể thì gọi là Thanh.
Thí dụ: phía sau đầu và trước mặt, phía phải và trái khuôn mặt cân xứng và thích nghi với thân mình được xem là Thanh, trong phép phối hợp ngũ hành của cơ thể, người thuần túy một hình hay bác tạp nhưng không xung khắc được xem là Thanh. Chẳng hạn thân hình nặng nề, chắc nịch, mặt Mũi thô kệch nhưng Mắt sáng, mày tươi, giọng trong trẻo thì phần sau đó gọi là Thanh trong cái Trọc của toàn thể thân hình.
Nói về động tĩnh, nếu có hòa hợp động và tĩnh tức là phần động trội hơn phần tĩnh nhưng không làm mất thế quân bình, phần phẩm hơn phần lượng, nhưng không vượt ra ngoài tiêu chuẩn đều được gọi là Thanh. Đó là trường hợp những kẻ gầy yếu, lùn, nhỏ nhưng thần thái tuấn tú, chân tay thô kệch nhưng bước đi nhẹ nhàng Thanh thoát. Nói về tâm tướng, những người cao thượng hoằng đại khiến người nhìn như quên đi sự thiếu sót của hình hài chỉ thấy sự cao khiết khoáng đạt của tâm tính thì đức tính đó được xem là Thanh.
b) Trọc:
Ngược lại với Thanh là Trọc, chỉ tất cả những gì không hợp tiêu chuẩn mà đi quá đà, thông thường người ta cho những gì thái quá là Trọc nhưng trong tướng học muốn cho chính xác phải kể cả những gi bất cập đều là Trọc. Chẳng hạn như:
- Khuôn mặt trung bình mà Mũi thì quá lớn, Chuần Đầu quá mập, Gián Đài và Đình Úy quá nảy nở như các loại Mũi sư tử, Mũi túi mật treo là Trọc.
- Hình Thổ, quá nặng nề, chậm chạp là Thổ Trọc
- Giọng Mộc cao nhưng không trong trẻo là giọng Mộc Trọc
- Sắc da trắng nhưng khô, không tươi nhuận, như phấn mộc gọi là Sắc Trọc
- Tâm tính hẹp hòi không tương xứng với thân thể khôi ngôi hung vĩ là Tâm Trọc
- Âm Dương Ngũ hành bất điều hòa, chẳng hạn như Âm thác, Dương sai gọi là Âm Dương Trọc...
Dưới nhãn quan tướng học Thanh là quý, Trọc bị coi là hạ tiện. Thanh chỉ về quý, thọ, vinh hiển, thành đạt, còn Trọc thì ngược lại. Tuy nhiên đó chỉ là tổng quát, trong phép đoán tướng, người ta còn phải đi sâu vào từng chi tiết nhỏ và hết sức tinh tế để phân biệt đâu là Thanh hay Trọc căn bản, đâu là Thanh hay Trọc phụ thuộc chiết trung theo luật thừa trừ để tìm ra phần khả thủ.
II. TƯƠNG QUAN THANH TRỌC
Trong thực tế ít khi gặp một cá nhân thuần túy Thanh hay thuần túy Trọc mà thường lẫn lộn cả Thanh lẫn Trọc. Chỉ khác nhau về tỷ lệ: có kẻ Thanh ít Trọc nhiều, có kẻ Thanh nhiều Trọc ít mà thôi. Về điểm này ta phân biệt hai trường hợp chính:
1. Thanh trung hữu Trọc:
Thanh trung hữu Trọc là một trường hợp bộ vị, một số bộ vị tạo thành từng đại bộ phận hay toàn thể con người hay từng nét tướng tổng quát bao gồm cả tâm tính lẫn hình tướng trong thì có vẻ hoàn mỹ nhưng quan sát kỹ thì thấy trong số hiện ra nhiều khuyết điểm khiến cho cái đẹp, cái tốt của một cá nhân không được hoàn hảo.
Ví dụ:
- Tai có Luân Quách nhưng thiếu Sắc Khí
- Mặt mày sáng sủa, thân thể khôi vĩ, nhưng nhìn vào không oai vệ hay khiến người dễ chán.
- Đàn ông quyền thấp, tiếng nói có vẻ nữ nhi.
- Mặt đầy đặn, phối hợp tương xứng với Ngũ Quan nhưng đấu Mũi bị lệch.
- Răng tuy trắng, đều, Khít nhưng không bóng bẩy.
- Miệng tuy rộng nhưng không có lăng giác, Mũi không hồng, răng thưa.
- Lông Mày tuy đẹp nhưng sợi Lông Mày mọc thưa, ngang hoặc tráp với phương vị cố hữu.
- Mày tuy cao nhưng sợi thô hắc ám.
- Mặt tuy sáng nhưng lộ chân quang.
- Râu tuy đẹp nhưng không tương xứng với tóc và Lông Mày.
- Người tuy đúng cách cục nhưng Sắc hôn, Khí ám.
- Người tuy to lớn, mập mạp trông có vẻ phúc hậu nhưng thịt bệu, da khô, tóc cằn..
Người có đặc điểm kể trên thì thoáng qua thấy có vẻ Thanh nhã nhưng tương hợp coi đó là Thanh trung hữu Trọc vì trong cái đẹp có lẫn cái xấu.
2. Trọc trung hữu Thanh:
Những người có hình dạng cục mịch thô lỗ hay mặt mày méo lệch, Tam Đình, Ngũ Nhạc bất quân xứng nhưng nếu có:
- Mắt sáng mà mục quang ẩn tàng.
- Thiên Đình cao rộng, sáng sủa.
- Phía trong vành Tai màu hồng tươi nhuận hay Tai mọc cao quá Lông Mày, Sắc bề ngoài trắng hơn da mặt, hay Luân Quách phân minh.
- Lông Mày tươi mịn. mọc cao và không gián đoạn.
- Hoặc người nhỏ yếu, thấp lùn nhưng tiếng nói sang sảng như tiếng chuông ngân hay Thanh tao như những hạt ngọc rơi rớt trên mâm bạc.
- Có tướng ngũ tiểu hoặc ngũ lộ nhưng phẩm chất các phần lộ đó đều tốt đẹp.
- Người khẳng khiu nhưng dáng dấp hiên ngang, đi như rồng bay cọp bước, Khí phách hoằng đại...
Suy rộng ra, khi nhìn một cá nhân qua nhiều bộ vị, ta thấy hình dáng màu Sắc của chúng thoáng qua thì thô bỉ, nhưng đi sâu vào chi tiết, ngắm lâu lại thấy hữu tình hoặc hảo cảm, quan sát một cá nhân ta thấy khuôn mặt, thân hình, tiếng nói.... không gây hảo cảm lúc ban đầu, nhưng tổng hợp tất cả lại hoặc là thấy có sự sinh động đặc thù hoặc cử chỉ động tác linh hoạt, phong nhã, tính tình quả cảm, trung hậu khiến ta sinh lông nể phục về sau đều được gọi là Trọc trung hữu Thanh.
Tranh Phong Thủy
Người ta nói, nốt ruồi xuất hiện trên cơ thể con người là tự nhiên, như núi sinh ra cây, như đất nổi gò đồi. Điều đó không có gì lạ và xấu cả. Tuy vậy người ta vẫn luôn tin rằng, mỗi vị trí nốt ruồi đều biểu hiện cho một điềm hoặc là lành, hoặc là xấu khác nhau. Vậy nốt ruồi ở nhân trung có ý nghĩa gì? Cùng ##/img/phongthuyso.vn tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Theo khoa học, nốt ruồi nhân trung hay bất cứ nốt ruồi nào khác xuất hiện trên cơ thể con người cũng có thể thuộc trong 3 loại sau:
Nốt ruồi đen, nâu: là do những tế bào có sắc tố, chúng tập trung ở lớp ngoài của da mà nên
Nốt ruồi màu xanh: do tế bào sắc tố dưới lớp chân lông tạo nên
Nốt ruồi đỏ (son) là do những vi huyết quản phình to lên tạo thành, thường thấy ở mặt, ngực
Theo khoa học thì Nốt ruồi ở nhân trung nói riêng và nốt ruồi nói chung không xấu. Tuy nhiên về mặt thẩm mỹ thì tùy vị trí mọc, kích thước và màu sắc mà chúng tạo nên tính thẩm mỹ khác nhau. Nhiều người đi tẩy nốt ruồi (thường là nâu, đen và xanh) để thẩm mỹ hơn. Nốt ruồi đỏ thì được quan niệm là tốt hơn các nốt ruồi còn lại.
Nhân trung là phần lõm xuống, nối giữa mũi và môi trên. Nhiều người biết đến đường nhân trung gắn liền với lộc con cái. Nhiều lời truyền tai nhau, nhân trung sâu và dài thì nhiều con, dễ sinh con và ngược lại. Tuy nhiên, vẫn chưa có bằng chứng khoa học nào chứng minh điều đó.
Với quan niệm như trên về nhân trung thì Nốt ruồi ở nhân trung có ý nghĩa gì?
Theo quan niệm trong sách Thần tướng toàn biên thì người có nốt ruồi nhân trung là người dễ lấy được chồng giàu sang, cuộc sống phú quý, vinh hoa. Đây là một ý nghĩa có thể cho là khá may mắn và tốt đẹp.
Theo quan niệm dân gian thì lại khác. Họ cho rằng, người có Nốt ruồi ở nhân trung là người có ham muốn nhục dục cao. Nếu đối phương không đáp ứng được nhu cầu của họ thì họ sẵn sàng từ bỏ để tìm được người khác đáp ứng được cho họ. Về ý nghĩa này thì hiển nhiên nó lại là một điều đáng buồn, đặc biệt là với phụ nữ, khi có nốt ruồi nhân trung và khi bị nhận xét bởi quan niệm này.
Một số bạn không có Nốt ruồi ở nhân trung nhưng ở gần đó không biết được liệu ý nghĩa có giống nhau hay không. Nếu có nốt ruồi ở 1 số vị trí sau thì bạn có thể tham khảo ý nghĩa sau đây:
Nốt ruồi ở môi trên là giàu sang, có của ăn để
Nốt ruồi ở môi dưới là phá của cải
Nốt ruồi ở gần miệng, phần mép thì không giữ được của cải
Nốt ruồi ở trong lưỡi là loạn ngôn.
Bạn có nốt ruồi nhân trung hay không? Nếu có thì cũng chỉ tham khảo kết quả trên cho hợp với bản thân mình thôi nhé. Quan trọng vẫn là sự hòa hợp, chân thành, hành nhiều việc thiện, tránh việc ác thì cuộc sống của bạn sẽ hạnh phúc và được như ý!
Xem thêm những bài viết về nốt ruồi khác:
+ “Điểm danh” các Nốt ruồi phú quý ở đàn ông
+ Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời nghĩa là gì?
+ 20 vị trí nốt ruồi may mắn của phụ nữ
+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh
Tìm kiếm liên quan: nốt ruồi ở nhân trung, nốt ruồi ở nhân trung phụ nữ, nốt ruồi ở nhân trung nữ, nốt ruồi nhân trung, nốt ruồi ở nhân trung nam, nốt ruồi ở nhân trung đàn ông
Đây là quẻ Quan Âm thứ 73 được xây dựng trên điển cố: Binh biến Trần Kiều.
Quẻ thượng cát thuộc cung Tỵ. Quý nhân trợ giúp sẽ xuất hiện, giống như khi tiếng sấm của mùa xuân vang lên là lúc các loài côn trùng chuyển hóa, cho thấy từ đây sẽ xuất hiện được hiền tài trợ lực. Đến khi sự chuyển hóa được hoàn thành, chắc chắn sẽ có thành công lớn.
Thử quái lôi phát bách trùng chi tượng. Phàm sự ngộ quý nhân cát triệu dã.
Triệu Khuông Dẫn (927 – 976), quê ở Trác Châu, sinh ra trong một gia đình quân chế ờ trại Giáp Mã, Lạc Dương. Từ nhỏ đã thích cưỡi ngựa bắn cung, rất giỏi võ nghệ.
Năm hai mươi mốt tuổi, Triệu Khuông Dẫn từ biệt cha mẹ và vợ, bắt đầu đi chu du các vùng Hoa Bắc, Trung Nguyên, Tây Bắc. Trên đường lên phương bắc, Triệu Khuông Dẫn gặp Quách Uy đang đảm nhiệm chức Khu mật sứ của nhà Hậu Hán. Quách Uy lúc này đang chỉ huy quân đội dẹp quân phản loạn ờ Hà Trung, Triệu Khuông Dẫn thân thể cường tráng, tinh thông võ nghệ đã đầu quân dưới cờ của Quách Uy.
Năm 951, Quách Uy xưng đế, lập nên nhà Hậu Chu. Triệu Khuông Dẫn rất được Quách Uy tín nhiệm, trở thành người quản lý cấm quân. Sau khi Quách Uy chết, Chu Thế Tông là Sài Vinh lên ngôi, Triệu Khuông Dẫn lại được thăng chức làm Điện tiền Đô Điểm kiểm, nắm giữ quân quyền nhà Hậu Chu.
Năm 960, tức là năm Hiển Đức thứ 7 nhà Hậu Chu, vào ngày mùng một tháng giêng, bất ngờ có tin nước Liêu liên kết với Bắc Hán tiến vào xâm phạm. Phù Thái Hậu chủ trì triều chính nghe được tin này, hoang mang không biết thu xếp thế nào, cuối cùng đành hạ mình cầu cứu quan Tể tướng Phạm Chất. Phạm Chất nghĩ thầm, các đại tướng trong triều chỉ có Triệu Khuông Dấn mới có thể giải cứu được nguy nan, không ngờ Triệu Khuông Dẫn lại thoái thác do quân thiếu tướng ít, không thể xuất binh. Phạm Chất chỉ còn cách giao cho Triệu Khuông Dẫn binh quyền tối cao, được phép điều động binh mã toàn quốc. Triệu Khuông Dẫn nhận được mệnh lệnh xuất binh, lập tức điều binh khiển tướng, ngày mùng hai tháng giêng lập tức xuất binh ra khỏi thành.
Đại quân rời thành Đông Kinh không lâu, trong thành liền xuất hiện tin đồn, nói rằng Triệu Khuông Dẫn muốn làm thiên tử, các quan văn võ trong triều cũng biết được đôi phần, không ai dám tin, nhưng lại hết sức hoang mang. Triệu Khuông Dẫn tuy không ở trong triều, nhưng tất cả những gì xảy ra trong thành Đông Kinh ông đều nắm rõ. Đi theo ông còn có em trai của ông là Trịệu Khuông Nghĩa và mưu sĩ thân tín Triệu Phổ.
Một buổi chiều, quân đội đã đến trạm Trần Kiều cách Khai Phong mấy chục dặm. Buổi tối, Triệu Khuông Dẫn lệnh cho các tướng sĩ dựng trại nghỉ ngơi, các binh sĩ vừa nằm xuống đã ngáy pho pho, còn một vài tướng sĩ tụ tập vói nhau lặng lẽ bàn bạc. Có người nói: “Nay hoàng thượng tuổi nhỏ như thế, chúng ta liều mạng đi đánh trận, sau này có ai biết được công lao của chúng ta, chỉ bằng bây giờ hãy ủng hộ cho Triệu Điểm kiểm làm hoàng đế.” Mọi người đều tán thành ý kiến này, liền cử một quan viên, đem ý kiến này nóí trước với Triệu Khuông Nghĩa và Triệu Phố. Triệu Khuông Nghĩa và Triệu Phổ nghe xong mừng thầm, một mặt dặn đi dặn lại mọi người phải làm cho quân sĩ yên lòng, không được gây ra hỗn loạn; một mặt mau chóng cử người thân tín của Triệu Khuông Dẫn là Quách Diên Bân bí mật trờ về kinh thành, thông báo cho Đại tướng Thạch Thủ Tín và Vương Thẩm Kỳ đang trấn giữ ở kỉnh thành phải quản lý tốt các cửa lớn ở trong ngoài kinh thành.
Buổi tối hôm đó, Triệu Khuông Dẫn vờ như không biết gì, uống rất say rồi ngủ. Khi tỉnh dậy, chỉ nghe thấy bên ngoài rất ồn ào. Tiếp đến có người mở cửa phòng, cao giọng hô lớn: “Xin Điểm kiểm lên làm hoàng đế!”
Triệu Khuông Dẫn vội vàng trở dậy, còn chưa kịp nói gì, mấy người mang bộ hoàng bào đã chuẩn bị từ trước, vội vã khoác lên người Triệu Khuông Dẫn. Sau đó, họ quỳ xuống đất khấu đầu lạy mấy lần, ba quân liền hô vạn tuế, tiếng vang rền đến tận mây xanh. Triệu Khuông Dẫn mấy lần từ chối, mọi người dùng cái chết để ép buộc, cuối cùng Triệu Khuông Dẫn làm theo cách của Lưu Bang, lập ra một số điều khoản ngắn gọn, đại quân liền quay đầu tiến về Đông Kinh.
Có Thạch Thủ Tín, Vương Thẩm Kỳ làm nội ứng, Triệu Khuông Dẫn không phải mất nhiều công sức đã chiếm được kinh thành. Ngày mùng bốn tháng giêng, Triệu Khuông Dẫn đã dễ dàng chiếm được chính quyền nhà Hậu Chu, đổi tên nước là “Tống”, lập nên vương triều Tống của họ Triệu.
rọng.
Địa cầu có từ trường lớn mạnh trong quá trình tự vận động và vận động xung quanh mặt trời, sản sinh ra một loại lực hấp dẫn có từ hướng rất mạnh, đây là tính phương hướng của từ lực địa cầu. Do loại này có mang phương hướng sáng rõ tác dụng truyền cảm của từ lực, một số loại vật thể đặc biệt trên địa cầu sẽ sản sinh ra một loại cảm ứng từ tính, làm cho các vật thể này cũng sản sinh một loại năng lực tương ứng phân rõ phương vị. Ví dụ: Trung Quốc thời cổ đại phát minh ra kim chỉ nam, còn có cơ năng cảm ứng phân rõ phương hướng nội thể của loài người, loài chim, chính là cảm ứng từ hướng của địa cầu làm cho có công năng đó.
Đây chính là hiện tượng mà phương vị từ trường học phải nghiên cứu, từ trường, từ hướng và phương vị đã nói ở trên sản sinh sự ảnh hưởng khá lớn đối với nhân loại và sinh vật sống ở đó. Ví dụ, bố trí thiết kế vị trí của giường nằm và phương vị khi ngủ của con người sẽ chịu ảnh hưởng của lực hấp dẫn từ trường địa cầu: Người ở bán cầu Bắc nếu như ngủ đầu ở hướng Bắc thì sẽ có một cảm giác an định thoải mái, do từ trường của Bắc cực sẽ sinh ra một loại tác dụng an định, điều tiết đối với đại não của con người, khiến cho giấc ngủ của con người càng ổn định, sự nghỉ ngơi của đại não càng đầy đủ; người ở bán cầu Nam thì khi ngủ đầu nên hướng về phía Nam là tốt nhất, nguyên nhân cũng tương tự, chỉ có điều là từ trường của Nam cực có tác dụng chính diện: nếu như đầu hướng Đông hoặc hướng Tây mà ngủ, thì giấc ngủ có thể không tốt, một mặt tác dụng không đồng bộ với từ trường của Nam Bắc cực, mặt khác không hài hoà với lực hấp dẫn từ hướng tự vận động của địa cầu.
Đương nhiên, do một số vị trí địa điểm đặc thù thay đổi tác dụng lực của từ trường, có lúc đầu hướng Đông Tây mà ngủ cũng có thể thích hợp với phương vị của từ trường. Nếu như phương vị giường trong phòng ngủ không đối ứng với từ hướng địa cầu thì có thể sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe thậm chí ảnh hưởng đến cả sự hoà thuận trong gia đình.
Với nguyên tắc như trên, nhà ở của Bắc bán cầu thường toạ Bắc hướng Nam: còn nhà cửa ở Nam bán cầu thường là toạ Nam hướng Bắc.
Đây là kết luận qua mấy nghìn năm quan sát nghiên cứu của phong thủy học truyền thông đúc kết được, chỉ có điều không có cách nào dùng khái niệm và nguyên lý khoa học tự nhiên để giải thích được nó mà thôi.
Nội hàm phong thủy học và một trong các sứ mệnh chính là: Phải kết hợp phong thủy học truyền thống với phương vị từ trường học địa cầu hiện đại; từ đó nghiên cứu từ hướng, phương vị địa cầu ảnh hưởng có tính quy luật đối với con người từ trạng thái nơi ở của họ; mong muốn tìm hiểu ra phương pháp làm cho con người và kiến trúc thuận ứng với phương vị từ hướng của địa cầu có lợi cho sức khỏe và phát triển sự nghiệp.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Vào một buổi sáng lạnh mùa đông năm 2007, tại một ga metro ở Washington DC, một thanh niên với chiếc đàn vĩ cầm, đứng chơi những bài nhạc nổi tiếng của Bach, Schubert, Massenet… trong vòng 45 phút.
Trong khoảng thời gian ấy có khoảng chừng 2 ngàn người đi ngang qua, đa số đang trên đường đến sở làm của họ. Dường như không một ai có vẽ chú ý đến sự có mặt của anh.
Sau khoảng 3 phút, một người đàn ông đứng tuổi đi qua và nhận thấy có một nhạc sĩ đang đứng đó chơi vĩ cầm. Ông đi chầm chậm, dừng lại chừng vài giây, và rồi lại vội vã đi tiếp cho kịp giờ của mình.
4 phút sau: Người nhạc sĩ vĩ cầm ấy nhận được đồng đô la đầu tiên: một người đàn bà ném tiền vào thùng đàn của anh và không hề dừng lại, tiếp tục bước đi.
6 phút: Một người thanh niên trẻ đứng dựa vào tường lắng nghe anh, nhìn đồng hồ đeo tay của mình và rồi lại tiếp tục bước đi.
10 phút: Một đứa bé dừng lại nghe, nhưng mẹ của em vội vàng lôi em đi tiếp. Ðứa bé tiếp tục dừng lại nhìn anh nhạc sĩ vĩ cầm, nhưng mẹ của em đẩy mạnh, và em lại phải tiếp tục bước đi, nhưng em vẫn cứ ngoái đầu quay nhìn lại. Và điều này đã cũng xảy ra với nhiều những đứa bé khác. Và cha mẹ nào cũng đều lôi kéo các em, bắt các em phải đi nhanh lên.
45 phút: Người nhạc sĩ vĩ cầm ấy vẫn tiếp tục chơi nhạc không ngừng. Chỉ có 6 người dừng lại và lắng nghe trong vài ba phút rồi bỏ đi. Khoảng chừng 20 người cho anh tiền, trong khi vẫn tiếp tục bước đi bình thường, và không hề dừng lại. Chàng nhạc sĩ ấy thâu được tổng cộng là 32 đô la.
1 giờ sau: Anh ta ngừng chơi, không gian im lặng trở lại. Không ai chú ý đến anh. Không một tiếng vỗ tay, và cũng không một lời tán thưởng.
Ðây là kết quả của một cuộc thử nghiệm do báo The Washington Post tổ chức. Trong cuộc thử nghiệm này, Joshua Bell phải ăn mặc thật bình thường, quần jean, áo thun, mũ kết, và chơi đàn trong giờ cao điểm, 7:45am. Họ chọn nơi biểu diễn là trạm ga L’Enfant Plaza, vì nơi đây những người khách metro đi ngang qua đa số là thuộc tầng lớp trung lưu, chuyên nghiệp, trí thức, phần lớn làm việc với chính phủ liên bang.
Trước khi tổ chức, các nhà thử nghiệm nghĩ rằng tại Washington DC, một trong những đô thị phát triển nhất nước Mỹ về classical music, nhạc giao hưởng, Joshua Bell có thể sẽ thu hút một số lượng lớn khán thính giả dừng lại nghe, và họ có lẽ sẽ phải nhờ cảnh sát đến để giữ trật tự.
Nhưng chỉ có một người duy nhất nhận ra Joshua Bell, vì trước đó ba tuần cô ta có đi xem anh trình diễn ở Library of Congress, nên nhận ra anh ngay. Cô ta đã bỏ vào hộp đàn của Joshua Bell 20 đô la và tự giới thiệu mình khi anh ngưng chơi đàn.
Tờ Washington Post viết, mục đích của cuộc thử nghiệm này để xem rằng: chúng ta có thể nhận diện, ý thức được những gì hay và đẹp đang có mặt giữa cuộc sống bận rộn của mình, và trong những hoàn cảnh bình thường hằng ngày không?
Và nếu như trong cuộc sống chúng ta không thể dừng lại trong giây lát để lắng nghe một nhạc sĩ lừng danh nhất trên thế giới, chơi những giai điệu hay nhất từng được sáng tác, với một nhạc cụ tốt đẹp nhất, và nếu như cuộc sống quá bận rộn đến nỗi chúng ta không còn có thời gian để dừng lại, khiến ta trở nên lãng quên trước những điều hay và đẹp, thì trên con đường ta đi mình còn vô tình bỏ qua và đánh mất bao nhiêu những điều đáng quý nào khác nữa chăng?
Trong thời đại ngày nay, dường như đa số chúng ta có khá đầy đủ, nhưng duy có một điều mà chắc chắn trong chúng ta ai cũng đều rất thiếu thốn là thời giờ của mình, phải thế không bạn?
Trên con đường chúng ta đi, có lẽ ta cũng sẽ có dịp nghe được tiếng đàn vĩ cầm của Joshua Bell, và bao nhiêu những điều hay đẹp khác chung quanh ta, nâng cao tâm hồn mình, giữa những bận rộn và ngay trong hoàn cảnh bình thường nhất, nếu chúng ta biết tập bước chậm lại một chút…