Cây cối mang lại tiền tài –
nên chọn loại cây thân dây leo, vì nó dễ gây ra bệnh tật. Ngoài ra, lá cây phải xanh, tròn to và tươi tốt, không chọn loại lá nhỏ, nhọn và dài.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
nên chọn loại cây thân dây leo, vì nó dễ gây ra bệnh tật. Ngoài ra, lá cây phải xanh, tròn to và tươi tốt, không chọn loại lá nhỏ, nhọn và dài.
Tý | Sửu | Dần | Mão |
Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi |
Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Anh Anh (theo Inka)
Thân - Tý | Thân - Sửu | Thân - Dần | Thân - Mão |
Thân - Thìn | Thân - Tỵ | Thân - Ngọ | Thân - Mùi |
Thân - Thân | Thân - Dậu | Thân - Tuất | Thân - Hợi |
Maruko (theo Sohu)
Hành: Hỏa
Loại: Hung Tinh
Đặc Tính: Phá hoại, thất bại, hao tán của cải
Tính Tình: Ương ngạnh, cứng cổ, ngoan cố, ngang ngược, táo bạo.
Phá tán, hao hụt.
Gây trở ngại cho mọi công việc.
Mau chán nản, thiếu bền chí.
Lưu Hà, sao Phá Toái, Phá Quân đồng cung: Mệnh có cách này gọi là Phá Toái Quân Lưỡng Phủ, rất uy hùng, hiển đạt về võ nghiệp, có nhiều chiến tích.
Sao Phá Toái đi với Khoa, Quyền: Tốt.
Sao Phá Toái đi với Kình, Kỵ, Phá: Có tật, có thể là nói ngọng.
Sao Phá Toái đi với Hỏa (Linh) Hình : chết vì ác tật, ác bệnh.
Nếu đóng ở cung Tật thì lại ít bệnh, vì Phá Toái chủ sự hao tán, như Đại Hao, Tiểu Hao.
Sao Phá Toái là sao phá ngang làm trở ngại công việc. Nhưng sao Phá Toái chỉ gây ảnh hưởng dữ khi nó gặp những sao nào mà nó toa rập được Phá gây trở ngại nhất khi nó đi cùng, Cự Môn Hóa Kị làm thành những đột biến bất ngờ từ nguồn gốc ngấm ngầm, cùng một ảnh hưởng khi nó đứng với Đồng Kị
Phá Toái gặp Thiên Đồng Hóa Kị ở cung Phúc Đức: thường bị thất tình sầu khổ. Phá Toái có Linh Tinh trợ lực càng phá hoại mạnh. Sao Phá Toái đi vào Tài Bạch, Quan Lộc hay gặp rắc rối nhỏ nhặt gây phiền nhiễu. Phá Toái làm giảm bớt cái tốt của Khoa, Quyền.
Phá Toái đứng với Kình Đà Hóa Kị, Thiên Riêu có tật nói ngọng nói lắp. Phá Toái gặp Hỏa Linh dễ mắc bệnh hiểm nghèo. Phá Toái gặp sao Lưu Hà trở nên tốt khi vào võ nghiệp (điều này qua kinh nghiệm không thấy đúng)
PHIỀN TOÁI từ những vụn vặt trong cuộc sống.
So sánh PHÁ TOÁI với HƯ PHÁ và PHÁ QUÂN.
Bộ HƯ PHÁ (Thiên Hư Tuế Phá), thiên về những hư hỏng đồ vật, hư hỏng của tính tình, hư sự (hư hỏng việc, việc khó thành) và ở Thân Mệnh còn chủ răng xấu, thận hư. Vật ấy hư rồi phải phá bỏ đi thôi. Nếu thấy PHƯỢNG CÁC là rất hay trước hư sau nên. Nếu hạn gặp HƯ PHƯỢNG lợi cho xây dựng (vì nhà cửa hư rồi phải dựng lên lại thôi).
PHÁ QUÂN chủ bỏ cũng chủ phá như bỏ việc ấy không thèm làm nữa, làm việc khác. Bỏ con người này theo con người khác. Cũng phá, như phá hoại tài sản của mình đến của người, hoặc phá hoại vì nhiệm vụ như phá đồn, phá trận. Phá hoại công việc của người khác, phá hoại hạnh phúc của kẻ khác… Nói đến Phá Quân ngôi sao khám phá, nhà vô địch đến bản thân mình bị phá nhiều vô cùng. Và PHÁ TOÁI là.
Ngôi sao của phiền toái từ những chuyện vun vặt, lộn xộn trong cuộc sống.
Sao cái nầy lại nằm ở đây, nó phải nằm trong nhà kho mới phải. Mấy khi dùng đến để ở đây thấy nó thêm phiền. Cái tivi để chỗ nầy coi bộ phiền quá ta, làm việc chẳng được. Chả lẽ nhà 4 người 4 cái tivi, 3 cái tivi là quá nhiều rồi. Sao mồ mả ông bà mình lại nằm trong khuôn viên nhà vườn của họ để lại phiền toái cho mình. Anh Đình coi nè! để xe trước mặt nhà thờ cũng bị la. Thế là phiền toái đến thăm Đình. Anh coi lại cây dừa nhà anh có thể rơi trái xuống đầu con tôi. À cây dừa làm phiền hàng xóm. Cây vú sữa có thể bão đổ xuống nhà. Chó ị bậy trước mặt nhà láng giềng… như vậy ngôi sao BẠCH HỔ con chó hôm nay đụng đầu với ngôi sao PHÁ TOÁI chăng? Cái hàng rào bên nhà họ càng ngày càng lấn qua nhà mình. Sao THIÊN CƠ biết đi chăng, có chăng là đi với sao ĐỊA KIẾP.
Và ngôi sao phiền toái đó từ những việc tưởng chừng như nhỏ nhặt đó bùng phát lớn (tức KHÔI VIỆT) lại có thêm HÓA KỴ (nghi ngờ, ghen ghét mà nói) nếu có thêm “hình như là” (THIÊN HÌNH) mù quáng (DIÊU) vì ghen tức (Hóa Kỵ) có thể thổi lên (KÌNH HỎA) ngon lửa to đùng. Đánh nhau chí chóe (KÌNH HÌNH) vì một con chuột chết (gây phiền toái) với nghi vấn (KỴ HÌNH) mù quáng (DIÊU) và bây giờ lửa giận phừng phừng (KÌNH HỎA) có thể làm bất cứ chuyện gì… mà thoạt tiên là “hình như là” có con chuột chết ai ném qua nhà mình. “Hình như là” bên nớ ghét (KỴ) bên ni.
Nếu như các cung La Võng khổ vì oan khiên, các cung Tị Dậu Sửu khổ vì những phiền toái từ bên trong nhà đến ngoài đường. Ba coi kìa. Xe họ để trước mặt nhà mình, xe con đến để ở đâu? Ừ nhỉ, sao họ làm phiền mình nhỉ.
PHIỀN TOÁI qua các cung:
Thân Mệnh:
Phiền toái về phát âm:
Có những người gặp khó khăn trong cách phát âm, một số từ nói không chính xác như d và nh. Tr và ch… đồng thời cũng khó khăn cho việc học ngoại ngữ phải uốn lưỡi để nói. PHÁ TOÁI biểu tượng trong thân thể là cổ họng, lưỡi gây điều phiền toái, khi có VŨ hay KỴ lại thêm DIÊU Y làm cho việc nói càng khó khăn hơn. Vì sao VŨ chủ ngắn, cái lưỡi ngắn thì khó uốn hơn.
Những phiền toái trong cơ thể:
Khi PHÁ TOÁI đóng ở cung an Thân. Ta lại có những phiền toái về cơ thể. Sao mình lại thấp (Đà) thế nhỉ. Chà cao (KÌNH) quá dễ dính đạn lắm, nữ cao quá cũng khó lấy chồng lắm. Sao con ghét (Kỵ) cái nốt ruồi nầy quá ba ơi! Đễ yên vậy con à! Trời sinh sao để vậy. Họ có nói xấu cái nốt ruồi của con, chứ không nói xấu con là tốt. Sao cái thân tôi làm phiền tôi quá. Sao vậy? Khi thì đau cái nầy, lúc lại khổ vì cái kia. Và nạn nhân của thân thể là cái mũi quá thấp, con mắt không nhìn thấy quê hương đâu cả, cái ngực và cái lưng ‘trước sau như con số 1’, phải là con số 2 có nhiều đường cong lôi cuốn của Đà, và nó vươn kên đầy tính khiêu khích của Kình, để bọn đàn ông giương mắt mà nhìn (Kình Dương). Phải tìm kiếm, khám phá (Sát Phá Tham) một thẩm mỹ viện (Binh Đào) tin cậy rất cần thiết. Cứ như thế câu chuyện xoay quanh PHÁ TOÁI tại an Thân không bao giờ hết. Cái miệng phải ‘cẩm tâm tú khẩu’ (miệng đẹp tất lòng son). Không, phải ngưỡng thiên chờ đợi một nụ hôn như sao Lực Sỹ đợi chờ…
Cung phụ mẫu:
Sao ba mẹ hay làm phiền con vậy. Tiền bạc con chắt chiu từng đồng (LỘC TỒN) ba mẹ tiêu pha con không tiếc nhưng đem làm phúc, làm phước kiểu nầy thì tội cho con lắm. Như thế là PHÁ TOÁI viếng cung Phụ Mẫu. Tùy theo nội tình của bản cung mõi người có một cách phiền toái riêng.
Cung phúc đức:
Có người than rằng: Bà con tui hay làm khổ tui quá, Tui qua tận bên Mỹ cũng không yên, cái bàn thờ, mồ mả tận VN cột (PHÁ QUÂN) tui vô trong đó. Đó là PHÁ TOÁI tại Phúc, tất nhiên càng nhiều thị phi, hung tinh cột càng chặt, phiền càng nhiều.
ĐIỀN TRẠCH cung:
Tự nhiên trước nhà mọc cây trụ điện, thế là một cái nhà bị mất giá gây khó chịu. Lề đường tôn lên quá cao, bỗng dưng điều phiền toái hiện ra là nền nhà thấp hơn mặt lề, nước tràn vào, nâng nền nhà lên thì cái trần quá thấp. Chẳng lẽ phá nhà đi chỉ vì cái lề đường cao hơn mặt nhà. Chỉ còn cách sống chung với điều phiền toái, tùy tình huống mỗi người có một dạng phiền toái khác nhau.
Sao cái nhà đối diện giờ đây lại kinh doanh thịt cầy nhỉ, hắn kinh doanh thịt người mình đã khổ nay thịt cầy cũng khổ không kém.
Cứ như vậy PHÁ TOÁI đóng ở cung nào gây phiền toái cho cung đó. Có núp bóng tại cung Hợi bị PHÁ TOÁI xung chiếu ở cung Tị, cũng không yên thân vì phía bên ngoài gây điều phiền toái. Vì nó nằm tại cung Thiên Di.
PHÁ TOÁI LƯU HÀ:
Phiền hà cách. Phải có giấy hôn thú cơ. Chúng tôi là người tóc bạc răng long, lấy nhau trong chiến tranh, làm gì có giấy hôn thú. Giấy khai sinh con chúng tôi, chứng minh chúng tôi là vợ chồng không được sao? Thủ tục mà. Thủ đoạn thì có. Bộ phiền hà (ví dụ tuổi Giáp Tý) dễ gặp thêm KIẾP SÁT uy hiếp lại gặp thêm nhiều Hung Sát Kỵ Hình làm cho tình hình càng xấu thêm rất nhiều từ những phiền toái ban đầu nhỏ tí, về sau càng to dần lên nếu như không biết cách khắc phục của TRIỆT.
PHÁ TOÁI + HƯ PHÁ bộ nhị PHÁ:
Cái đó hư rồi vất đi, bỏ đi. Đó là lời của HƯ PHÁ. Nhưng PHÁ TOÁI lại không muốn vậy, mua phiền vào người sửa chữa, lại chạy coi bộ vài ngày lại Hư cái khác. Lại ôm phiền toái sửa chữa. Đồ vật hư rồi cũng làm phiền chúng ta không ít trước khi đi vào thùng rác cũng gây phiền toái lần chót.
PHÁ TOÁI ĐIẾU KHÁCH:
Phiền toái theo khách mà đến. Khách đến gởi lại vật gì đó nhờ cất dùm rồi khách đi, đi mãi, không quay trở lại ta biết làm gì với vật ấy.
Khách đến mục đích không rõ ràng, buồn tình đi chơi mà thôi. Ghé thăm chứng tỏ là quan tâm đến mình, nhưng một ngày dăm ba người khách viếng thăm, hỏi đủ thứ chuyện tra tấn, khai báo cũng mệt còn khổ hơn bị Công an điều tra, nhất là đã nói rồi lại hỏi nữa.
PHÁ TOÁI PHÁ QUÂN HƯ PHÁ:
PHÁ QUÂN đóng ở 3 cung Tị Dậu Sửu có khả năng dễ gặp đủ bộ tam Phá. Nếu như PHÁ TOÁI gây phiền toái cho nhiều chính tinh thì lại đầu hàng trước vua Khám Phá là PHÁ QUÂN hay nhất là cách TỬ PHÁ tại Sửu. Vì ưa Phá thì ta đây, PHÁ QUÂN đập Phá Toái thành từng mảnh vụn để tìm tòi tận nguồn gốc vấn đề. Nhìn công việc tỉ mỉ của người khảo cổ chúng ta mới thấy hết, họ không bỏ sót một chi tiết nào. Nhìn nhà khoa học trong phòng nghiên cứu chụp hình cắt từng lớp (xi ti) để tìm hiểu (Tham Lang) chắc chắn rằng mai đây vừa xem được cắt ngang, vừa cùng lúc xem được cắt dọc. Đối với chiến binh bộ tam Phá làm cho mục tiêu sạch sẽ từng tấc đất bảo đảm không còn mìn bẫy hầm hố.
Cách tam Phá lợi cho sự tìm hiểu, học tập, khám phá đến nơi đến chốn một cách tỉ mỉ, tường tận vì tại đây có sự tinh vi của TỬ VI (nhất là có Hỏa Linh). Nếu có Quyền là thêm tường tận (hưởng cách TỬ VI THẤT SÁT có Quyền). Tất nhiên cũng cần có văn tinh để có trình độ.
Bộ SÁT PHÁ THAM. SÁT PHÁ gặp Phá Toái thì hay. Nhưng THAM LANG lại kém hay vì bản chất sao nầy có tính đàn hặc, sách nhiễu… gặp thêm ông Phiền Toái lại càng tăng tính chất cho nhau và sao Phá Toái trợ thủ cho Tham Lang làm thêm điều phiền toái.
Do số lý âm dương ngũ hành chỉ có 10 số biểu lý
Nghĩa là chỉ có 5 số biểu lý dương và 5 số biểu lý âm, và thuộc 5 hành, tức mỗi hành có 2 số biểu lý lần lượt theo quy luật tương sinh là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim và Kim sinh Thủy vừa tròn 10 số biểu lý.
Quy tắc quy đổi
Trong số hóa ta có nhiều số biểu lý. Vậy muốn quy đổi sang số biểu lý Âm Dương Ngũ Hành 10 số biểu lý ta phải thực hiện quy đổi như sau:
– Nếu các số biểu lý nhỏ hơn và bằng số 10 (mười) ta giữ nguyên.
– Nếu những số biểu lý lớn hơn 10 (mười) ta phải lấy sô biểu lý đó trừ bớt đi 10 (mười) hay một số lần của 10 (mười) để lấy số hàng đơn vị từ 1 (một) đến 9 (chín). Trường hợp khi trừ mà còn lại số 0 (không) thì được coi đó là số biểu lý 10 (mười).
Ví dụ: Khi số hóa một cái gì đó: Họ, tên, biển hiệu, tên hàng, tên hiệu, đường phố, mã số, số điện thoại v.v… Khi quy đổi số biểu lý của 5 vận thế hay 3 biểu thế mà số đó lớn hơn 10 đều tuân thủ quy tắc chuyển đổi theo số biểu lý Âm Dương Ngũ Hành để tham biến định tính.
Mẫu người Thân Cư Phu Thê trong tử vi
Dù trong thời đại nào, dù phương Đông hay phương Tây thì gia đình vẫn luôn luôn là nền tảng của xã hội. Trong khoa Tử Vi Đẩu Số gia đình được thể hiện qua hai cung Phu Thê và Tử Tức. Hai cung này nói lên những vấn đề vợ chồng, con cái của mỗi người. Chúng ta vẫn thường nghe câu: “Sau lưng một người đàn ông thành công là một người đàn bà đảm đang tài giỏi.” Có phải vì vậy mà cung Phu Thê của người đàn ông có tầm quan trọng không kém gì hai cung chính là Quan Lộc và Tài Bạch?
Còn đối với phụ nữ thì cung Phu Thê lại càng quan trọng hơn. Sự đánh giá này rất hợp lý với thời phong kiến xa xưa. Trong xã hội phong kiến, người đàn bà chỉ là cái bóng mờ, hầu như không có những sinh hoạt nào ngoài xã hội. Và cuộc đời của họ như thế nào cũng do cung Phu Thê của họ định đoạt mà thôi. Thật đúng với ý nghĩa “xuất giá tòng phu” Ngày nay, người đàn bà đã ra ngoài xã hội, đã có vai trò và vị trí không thua kém gì người đàn ông. Nhưng dù sao, đối với quan niệm của người Á Đông chúng ta thì không phải vì vậy mà sự quan trọng của cung Phu Thê bị giảm đi. Trong thực tế hai chữ “gia đạo” lúc nào cũng là nền tảng của cuộc sống con người trong bất cứ thời đại nào hay xã hội nào.
Điều này chúng ta sẽ thấy rõ ràng và đậm nét trong mẫu người Thân cư Phu Thê. Những người sanh vào giờ Tỵ (từ 9am tới 11am) hoặc giờ Hợi (từ 9pm tới 11 pm) thì Thân sẽ nằm vào cung Phu Thê. Người ta cho rằng rằng ông có Thân cư Phu Thê là số được nhờ vợ và nể vợ. Đàn bà có Thân cư Phu Thê là số nhờ chồng và nể sợ chồng. Điều này không đúng, chúng ta sẽ bàn đến sau. Mẫu người Thân cư Phu Thê có nhiều nét đặc biệt, nhất là trên lãnh vực tình cảm. Người Thân cư Phu Thê thường gặp người chồng/vợ mình trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Họ gặp nhau và có tình cảm với nhau như đã quen biết nhau từ kiếp trước, nay lại gặp nhau để xây tiếp lâu đài tình ái còn đang dang dở, hoặc trả tiếp cho xong cái duyên nợ chưa tròn, tùy theo lá số của mỗi người. Từ nét đặc biệt đó mà người Thân cư Phu Thê có một cuộc sống ràng buộc nhau rất mật thiết. Sự ràng buộc chặt chẽ này có thể do từ tình cảm tốt đẹp mà họ có được, nhưng cũng có thể là vì hoàn cảnh mà họ phải chịu trói buộc với nhau. Hình ảnh bị trói buộc với nhau vì hoàn cảnh điển hình nhất mà chúng ta đã thấy trong thời gian trước đây đó là hình ảnh của cựu Tổng Thống Bill Clinton. Dù đang gặp một hoàn cảnh đắng cay, hay có thể nói là “còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi” Nhưng họ vẫn ở bên nhau, xuất hiện bên nhau trên truyền hình, trước công chúng đễ diễn tiếp cho xong vở tuồng mà họ phải diễn. Nói một cách khác, trong lĩnh vực tình cảm, người Thân cư Phu Thê thường có một cuộc sống khăng khít với nhau, cho dù trong những trường hợp cuộc sống không được hạnh phúc hay gặp những hoàn cảnh ngang trái, dường như có một sợi dây vô hình nào đó cứ buộc chặt họ lại với nhau, không chia ly dễ dàng như những người khác. Ngoài sự ràng buộc trong vấn đề tình cảm, người Thân cư Phu Thê còn có sự ràng buộc trong lãnh vực nghề nghiệp. Hầu hết họ và vợ/chồng của họ là những người làm cùng ngành nghề hay cùng chung một cơ sở thương mại với nhau.
Có thể không cùng nghề nghiệp nhưng công việc của hai người luôn có sự liên hệ và hợp tác hổ trợ cho nhau. Ngoài ra, người Thân cư Phu Thê thường có thêm một nghề tay trái nữa. Nghề tay trái này lúc đầu chỉ như một cái thú tiêu khiển của đương số, hoặc cũng có thể như một nghiệp mà họ phải theo đuổi. Dần dần có thể trở thành một lãnh vực sinh hoạt không thể thiếu được trong cuộc sống hằng ngày của họ. Cũng có một số người thành công, thành danh bởi nghề tay trái này hơn là nghành nghề chính của họ. Bây giờ chúng ta có thể trở lại với hai nghi vấn mà chúng ta đã đề cập lúc mở đầu: Có phải những người Thân cư Phu Thê là có số nhờ chồng/vợ hay không? Đối với người Á Đông chúng ta thì chuyện “xuất giá tòng phu” là một quan niệm bình thường.
Do đó, nếu một người đàn bà có số Thân cư Phu Thê mà cuộc đời phải nương tựa vào chồng của mình thì đó là một điều hợp tình hợp lý. Nhưng đối với nam giới, nhất là trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, một người đàn ông có Thân cư Phu Thê là bị phán ngay là số nhờ vợ thì cũng tội nghiệp cho đương số. Để giải đoán cho phân minh, chúng ta phải cân nhắc giữa cung Phu Thê và cung Mệnh của đương sự. Chẳng hạn, người có Thân cư Phu Thê, nếu Mệnh của đương số yếu hơn cung Phu Thê (Mệnh nhược Thê cường) có nghĩa là người vợ của đương số có khả năng hơn chồng về mọi mặt từ trong nhà cho đến những giao tiếp ngoài xã hội. Như vậy chúng ta có thể nghĩ rằng những gì tạo dựng nên trong cuộc sống chung của hai người thì phần lớn đều do tay của người vợ. Đối với người đàn bà có Thân cư Phu Thê, vì bối cảnh xã hội ngày nay có khác, hai chữ “tòng phu” không còn nữa cho nên chúng ta cũng phải cân nhắc như vậy. Ngược lại nếu cung Mệnh của đương số tốt đẹp, sáng sủa hơn cung Phu Thê (Mệnh cường, Thê nhược) thì đây không phải là số nhờ chồng/vợ. Trường hợp này thông thường thì hai người cùng làm chung một ngành nghề hay cùng chung một cơ sở làm ăn, họ cùng góp sức tạo dựng với nhau trong cuộc sống chung, dĩ nhiên họ cũng có những sự ràng buộc chặt chẽ với nhau như đã bàn ở trên.
Có phải người Thân cư Phu Thê là số nể, sợ vợ/chồng hay không? Để trả lời vấn đề này, chúng ta cũng phải cân nhắc vấn đề mạnh và yếu giữa cung Mệnh và cung Phu Thê của đương số. Nếu Mệnh nhược Phu cường thì phải nể, sợ chồng là điều đương nhiên rồi. Chẳng hạn, lá số của một ông chồng có bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương thủ Mệnh, là bộ sao tiêu biểu cho văn cách nhưng cung Phu Thê lại có bộ sao Sát Phá Liêm Tham là biểu tượng cho võ cách. Trường hợp này việc điều hành từ trong ra ngoài cũng nhu vai trò chánh yếu trong gia đình đều do người vợ một tay thao túng hết. Điều này chúng ta cũng thấy rõ những đấng mày râu tuy cung Mệnh không thua kém gì cung Phu Thê nhưng cung Phu Thê lại có các sao như Thái Âm, Hóa Quyền tọa thủ hoặc hợp chiếu thì đấy cũng là hội viên cùng hội với Thúc Sinh rồi.
Phương vị: Người mệnh Chấn (Mộc) có bốn hướng tốt đó là Đông (Phục vị), Bắc (Thiên y), Đông Nam (Diên niên), và hướng Nam (Sinh khí).
Và trong đó lại có bốn hướng xấu đó là: Tây Nam (Họa hại), hướng Tây (Tuyệt mệnh), hướng Đông Bắc (Lục sát), và hướng Bắc (Ngũ Qủy).
Chọn hướng cửa nhà cho người mệnh Chấn: (Hướng về phương vị tốt), nên chọn hướng cửa làm nhà tọa Tây Bắc hướng Đông Nam (trường tồn, bền vững), tạo Tây hướng Đông (Bình ổn); tọa Nam hướng Bắc (sức khỏe, mau lành bệnh), hoặc tọa Bắc hướng Nam (phát triển).
Màu cửa hợp với người mệnh Chấn (hành Mộc): xanh da trời, xanh lục, vàng, nâu coffee, xám, xanh lam.
Chọn phòng ngủ: nên chọn phòng ngủ các hướng Bắc, Nam và Đông Nam.
Hướng đặt đầu khi ngủ: nên đặt đầu theo hướng như phòng ngủ thì tinh thần sẽ được thoải mái, dễ đi sâu vào giấc ngủ. Nếu chọn các hướng Tây, Tây Nam, Đông Bắc rất dễ bị mất ngủ, đặt đầu hướng Tây sẽ hay bị ngủ mê.
Hướng cửa bếp cũng như hướng cửa, phải quay về hướng tốt, miệng bếp tốt nhất là về hướng Nam, làm như vậy có thể khiến tinh thần sung mãn, tăng thêm sức sống. nếu gia chủ mắc bệnh lâu năm khó chữa, nên chuyển hướng cửa bếp sang hướng Bắc, như vậy sẽ giúp mau lành bệnh.
Lưu ý: Chọn hướng nhà và hướng cửa thì áp dụng cho đàn ông trụ cột gia đình, còn hướng bếp và hướng giường ngủ đa phần là dành xem cho phụ nữ.
Hướng bàn làm việc tốt cho người mệnh Chấn: quay lưng về hướng Bắc và mặt hướng Nam.
Màu sắc hợp với người Mệnh Chấn: hành Mộc (xanh da trời), hành Thủy (màu đen và màu xanh lam).
Màu sắc kỵ với người Mệnh Chấn: hành Kim (vàng kim, trắng), hành Hỏa (đỏ, tím, cam).
Màu trung tính: hành Thổ (vàng, nâu coffee).
Màu khai vận cho người mệnh Chấn: màu xanh lục, xanh lam. (trong ngũ hành, trong mộc có mang Hỏa, Mộc sinh Hỏa là sinh khí, Mộc với Mộc là vượng khí. Do đó, màu xanh lục và màu xanh lam thường được người tuổi Dần sử dụng với mong muốn mở rộng mối quan hệ và tránh rủi do trong cuộc sống).
Màu suy: màu trắng (Kim khắc Mộc, Hỏa khắc Kim, vì vậy bạn nên hạn chế sử dụng những đồ vật liên quan tới màu trắng).
Con số khai vận tốt cho người mệnh Chấn: số 2 và số 7.
Con số suy cho người mệnh Chấn: số 4 và số 9.
Con số tốt trong xây dựng của người mệnh Chấn: 1, 3, 5, 6, 8, 10, 11, 13, 15, 16, 18, 20, 21, 23, 25, 26, 28, 30, 31...
Mệnh Chấn (Mộc) | Nên dùng | Tránh dùng |
Màu sắc | Xanh lam, xanh da trời, đen | Trắng, đỏ, tím, cam |
Con số | 2 và 7 | 4 và 9 |
Thời gian: tổ chức vào ngày 13 tháng 5 âm lịch.
Địa điểm: xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thành Trì, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn nàng Tía - tướng của hai bà Trưng.
Nội dung: Mở đầu hội là lễ cúng tổ, rước thần theo phong tục truyền thống của xưa kia. Tiếp đó là tổ chức diễn cảnh trận giả để nhắc lại chiến công xưa của nàng Tía.
Đường đâm chếch vào cửa
Cửa chính là một thành phần rất quan trọng của ngôi nhà trong thiết kế kiến trúc, thẩm mỹ và chịu ảnh hưỏng tốt xấu của phong thủy (cửa chính là yếu tố quan trọng nhất trong dương trạch). Cửa sẽ là nơi truyền dẫn luồng khí đến ngôi nhà, từ đó luồng khí được phân tán đến từng ngóc ngách của căn nhà và thoát ra ngoài qua những ô thoáng được nghiên cứu một cách chặt chẽ và khoa học, là sự kết họp giữa kiến trúc (hình dáng đẹp, xấu) và phong thủy (vị trí tốt, xấu).
Đường cái đâm vào cửa chính là một hiện tượng kiêng kị trong thuật phong thủy. Trong trường hợp nhà bạn, con đường thẳng đâm vào chính hướng cửa, vô tình đã mang theo luồng ác khí (ác khí đi theo đường thẳng, sinh khí đi theo đường vòng). Nhưng cũng không vì thế mà bạn phải lo lắng. Theo phong thủy, bạn có thể hóa giải được. Tuy nhiên, để có thể áp dụng đúng nguyên tắc của thuật phong thủy:
– Theo những cuốn sách cổ và người xưa, bạn có thể dùng tấm bia đá (bùa) chôn sâu dưới lòng đất ngay trước cửa chính hoặc cũng có thể dùng lá bùa của người làm phong thủy treo phía trên cửa. Bia đá hay lá bùa sẽ hóa giải được những điều xấu. Tuy nhiên, đây là việc không dễ làm và không được ứng dụng nhiều trong đời sống hiện đại ngày nay.
– Trồng cây, hoa có màu sắc hợp vói bản mệnh phía trước cửa theo hình dạng uốn lượn sẽ rất tốt, có khi “biến hung thành cát” với điều kiện phải có khoảng không phía trước rộng tương đối để có thể tạo được một số hình theo thuật phong thủy.
– Tạo tấm bình phong phía trước (xây cao tương đối và phải có khoảng cách tới cửa chính một cách hợp lý) nhằm ngăn cản hay làm lệch hướng lưu chuyển của dòng khí đó.
– Chuyển đổi vị trí cửa chính sang cung vị khác nhằm tránh hoàn toàn hướng con đường đâm tới.
– Biến cửa hiện tại (bị con đường chiếu tới) thành cửa giả, qua một khoảng rộng và có thể bố trí cửa trong khoảng chính vào nhà trong khoảng đó cũng sẽ tránh được sự đâm thẳng của con đường.
– Treo chuông gió, sáo trúc tại vị trí cửa ra vào có con đường đâm vào. Chuông gió hay sáo trúc được áp dụng và sử dụng rất rộng rãi. Nó có tác dụng đón lành tránh dữ, báo động và xua đi những luồng khí dữ, mòi chào những luồng khí trong lành dẫn tới ngôi nhà.
– Treo gương Bát quái, gương cầu lồi phía trên cửa chính quay về hướng con đường đâm tới, gương Bát quái, gương cầu lồi có tác dụng phản hồi những tà khí có chiều chiếu vào nó một cách mạnh mẽ.
– Dùng tấm thảm hợp với cung bản mệnh đặt phía trong của cửa chính, tấm thảm có tác dụng chọn lọc khí tốt trong thiên nhiên tiếp thêm luồng khí lành đó cho ngôi nhà của bạn.
Qua một số phưong pháp mà thuật phong thủy thường áp dụng, chúng ta có thể khéo léo kết hợp nhiều phương pháp, ví dụ chuyển dịch cửa và treo chuông gió kết hợp trải tấm thảm… Được sự chỉ dẫn đúng cách của những người hiểu biết phong thủy, bạn sẽ hóa giải được sự bất lợi mà con đường mang lại.
Cửa chính đối diện cửa phụ
Cửa chính của ngôi nhà là nơi phân cách giữa thế giới riêng của mỗi gia đình với xã hội bên ngoài. Là lối ra vào của tất cả mọi người trong gia đình, khi cửa chính đặt đúng vào cát phương thì gió và không khí từ cửa chính thổi tới đều mang theo may mắn. Nếu cửa chính hướng ở hướng hung sẻ gây bất lợi cho những người sống trong ngôi nhà đó.
Theo phong thủy, cửa chính và cửa phụ tránh đặt đối diện vói nhau bởi như thế khi khí đi vào sẽ lập tức thoát ra theo cửa phụ mà không có sự luân chuyển trong nhà. Trong trường hợp này, bạn có thể đặt một chậu cây cao hay thiết kế tấm chắn giữa hai cửa để ngăn khí đi theo đường thẳng thoát ra ngay khi vừa vào nhà.
Nếu cửa chính thông với cửa phụ và cửa giữa (nếu có) thì tạo thành thế ba cửa thông nhau. Khí vào sẽ bị thất tán hết, chủ tiền tài không vượng, hao tổn tiền tài, không cầm giữ được tài lộc. Trường hợp này cũng cần sửa lại cửa hoặc đặt bình phong chắn ở giữa để cửa chính và cửa phụ không nhìn thấy nhau nữa. Dùng quả cầu thủy tinh treo ở vị trí thông giữa hai cửa, dùng tượng rùa đầu rồng hoặc tượng Tam Đa che chắn ở phía cửa phụ.
Nếu cửa chính đối diện cửa sổ trong trường hợp cửa sổ không quá nhiều thì ảnh hưởng cũng không quá lớn. Nhưng giả sử cửa sổ vừa nhiều vừa lớn thì sẽ ngăn không cho những cát khí này tụ lại trong ngôi nhà. Do đó sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh của ngôi nhà, bất lợi đối với tài vận. Rất nhiều ngôi nhà hiện đại khi thiết kế đều phạm lỗi này, phương pháp hóa giải đơn giản nhất là gia chủ trồng một vài cây trước cửa sổ (loại cây không có gai) là có thể ngăn không cho cát khí phát tán ra ngoài. Nếu tài vận của chủ nhà thật sự xấu đi vì lí do này thì sau khi trồng cây một thời gian, tài vận tự khắc sẽ có những chuyển biến tốt đẹp.
Cửa chính hai nhà đối nhau
Kinh Lỗ Ban ghi rằng: “Cửa chính hai nhà không thể đối diện nhau vì như thế sẽ có một chủ bị suy. Hai nhà không thể đối nhau vì như thế có một nhà bị dữ”. Nhưng ngày nay, thành phố chật hẹp, người đông, nhiều nhà cao tầng chuyện đối cửa khó tránh khỏi, nếu phạm vào điều kiêng kị này thì sẽ hóa giải bằng cách nào?
Có không ít người quan tâm tới điều này, có người treo gương: Tam xoa, Bát quái, Bạch hổ để hóa giải, nhưng làm như vậy lại gây lo lắng cho nhà đối diện nên cần hai bên cùng tìm cách hóa giải.
Cũng có một số gia đình, vì muốn nhà mình được tốt mà làm ảnh huởng tới nhà đối diện, gia chủ không nên dùng các cách hóa giải như: dùng bùa ngải, dùng gương phản, tượng đá, treo đầu thú… vì các cách này đều làm cho việc hóa giải của hai gia đình không bao giờ kết thúc, li bên cùng tìm cách hóa giải, không ai chịu kém ai, gây nên bất hòa. Ví dụ, một nhà dùng đầu sư tử để hóa giải, nhà đối diện lại dùng hai anh kiếm đan chéo nhau hóa giải. Như thế sẽ có một nhà bị lụi. Bởi thanh kiếm có nguy cơ gây hại cho chiếc đầu sư tử. Vì thế mà việc hóa giải của hai gia đình sẽ kéo dài mãi.
Tuy nhiên, việc hai cửa đối nhau không quá nghiêm trọng và khó hóa giải như vậy. Do đó gia chủ không nên quá lo lắng nếu chẳng may ngôi nhà bị rơi vào thế cửa xấu này.
Muốn xóa bỏ sự uy hiếp về tâm lý “Hai cửa đối nhau” lại vừa không để hàng xóm có cửa đối cửa với mình bị mặc cảm, cách làm tốt nhất để giải quyết là trên dạ cửa treo 4 chữ “Thiên Quan Tứ Phúc” (Ông trời ban phúc bốn phương). Có thể bàn với nhà hàng xóm cùng treo bốn chữ này lên cửa chính là điều vô cùng lý tưởng. Như thế cả hai nhà cùng có phúc lớn trời ban.
Cửa chính nhìn thẳng vào cửa một phòng khác
Đôi khi cửa chính mở thẳng đến cửa nhà kho hoặc cửa của một phòng khác. Kiểu thiết kế này mang nghĩa là căn phòng này sẽ tiếp nhận tất cả khí qua cửa chính. Đây cũng được xem là điều không nên vì khí sẽ không luân chuyển được trong nhà và bị kẹt lại ngay trong phòng trước cửa chính.
Cửa chính hướng thẳng vào phòng bếp
Phòng bếp là một trong những nơi quan trọng nhất cho cuộc sống gia đình. Mọi điều bí mật của gia đình đều ở đây. Xưa người ta thường coi thực phẩm, đồ ăn là vật tượng trưng cho sự giàu có sung túc, chúng được cất kỹ trong bếp không thể trưng bày một cách công khai trước mặt khách hay hàng xóm láng giềng, vì vậy mà khi bố trí cửa chính không nên hướng thẳng vào nhà bếp.
Cách hạn chế: Có thể sửa cửa bếp hay đặt một tấm chắn hoặc tủ bếp vào giữa cửa chính và bếp.
Cửa chính và cửa nhà vệ sinh xung nhau
Trong phong thủy học, cửa chính được gọi là “khẩu tử”, được so sánh với miệng của con ngưòi. Những thực phẩm mà con người ăn không đảm bảo thì bản thân sẽ không có được sức khỏe tốt. Cũng giống như vậy, cửa có vấn đề thì phong thủy sẽ không tốt và ảnh hưởng tới vận quý của tất cả mọi người trong gia đình. Khí của cửa thuộc về dương thuần, khí của nhà vệ sinh thuộc về âm độc. Nếu cửa chính và cửa nhà vệ sinh xung khắc nhau sẽ khiến âm dương không được hài hòa, dẫn đến hao tổn tài sản.
Phương pháp hóa giải của điều này là treo ở cửa nhà vệ sinh một tấm mành dạng hạt, giúp ngăn cản sự xung sát của cửa chính và cửa nhà vệ sinh, làm ảnh hưởng xấu giảm xuống mức thấp nhất.
Một số nhà có phòng hay góc tường của phòng nằm ngay trước cửa chính. Đây là một dạng sát khí hướng thẳng đến cửa chính.
Cách hạn chế: Yêu cầu người thiết kế nội thất kéo dài bức tường. Nhưng nếu không muốn phiền phức, tốt nhất là tránh không chọn nhà có bản thiết kế này.
Cột điện ngay trước cửa chính
Nếu từ trong nhà nhìn ra ngoài gặp ngay một cột điện, có thể bạn đã rơi vào trường hợp Xuyên tâm sát. Nếu đó là một cây cột, một cây xanh hay một cây sào từ một loại vật liệu nào đó thì cũng rơi vào trường hợp này. Xuyên tâm sát là điều không tốt vì nó vừa ảnh hưỏng đến sức khỏe của những người trong nhà lại vừa làm cản trở con đường sự nghiệp trong tương lai.
Khi thẩm định những hình thể xấu tác động đến cửa chính, luôn phải hình dung kéo dài đường ranh từ hai bên cửa ra ngoài và xem vật cản có nằm trong đường biên không. Một vật cản xấu chỉ tác động đến cửa chính nếu nó nằm trong đường biên của cửa.
Để xác định có đúng là Xuyên tâm sát hay không, bạn phải hình dung kéo dài đường ranh từ hai bên cửa ra ngoài hướng đến vật cản. Nếu vật cản nằm trong 2 đường biên của cửa chính, thì đó chính là Xuyên tâm sát. Nếu nó không nằm trong đường biên thì không sao.
>>> Đã có TỬ VI 2016. Mời các bạn vào xem!!
>>> Đã có LỊCH ÂM DƯƠNG 2016. Mời các bạn vào xem!!
Cuộc sống không phải là con đường bằng phẳng, không phải lúc nào cũng như ta mong đợi. Cuộc sống luôn có những gập ghềnh, gấp khúc, đó là một hành trình đầy chông gai, thử thách…
Cuộc sống luôn công bằng, chẳng cho ai tất cả cũng chẳng lấy hết của ai thứ gì… Cuộc sống là vô vàn những điều biến động, đôi lúc gặp những vận hạn, trở ngại khiến ta buồn chán, tuyệt vọng, rơi vào trạng thái bế tắc, có lúc tưởng không còn tìm ra được cách giải quyết, muốn buông xuôi tất cả…
Có ai sống cả đời suôn sẻ mà chưa từng một lần cảm thấy bế tắc? Chuyện gì rồi cũng có cách giả quyết của riêng nó.
“Hãy biến nghịch cảnh thành cơ hội giúp bạn đạt được những điều tốt đẹp hơn” - Willie Jolley
Khi gặp bế tắc, bạn hãy học cách vượt qua vì không ai sống thay cho cuộc đời của chính bạn cả mà bạn phải thực sự sống cuộc đời của mình. Vượt qua được bế tắc, thử thách đồng nghĩa với việc bạn chiến thắng chính bản thân mình, thấy mình trưởng thành hơn. Bạn sẽ thấy những bế tắc chẳng có gì đáng sợ chỉ cần bạn biết cách vượt qua.
1./ Hãy học cách bình tĩnh.
Mọi việc đều có cách giải quyết, vấn đề là bạn phải sáng suốt, phải thật bình tĩnh để suy xét, nhìn nhận lại vấn đề, nguyên nhân xuất phát từ đâu. Chuyện đã xảy ra rồi, có nôn nóng, hoảng loạn cũng không giải quyết được, vì vậy hãy pha cho mình một cốc nước, chậm rãi suy nghĩ, bình tâm xem mình sai ở chỗ nào, tại sao lại xảy ra chuyện này chứ đừng ngồi đó chỉ trích hay “than thân trách phận”. Việc bình tĩnh sẽ giúp bạn đưa bản thân về trạng thái cân bằng, từ đó bạn có thể tự mình tháo gỡ từng nút thắc trong vấn đề đang gặp phải, bạn sẽ thấy sự việc “không quá khó khăn như mình nghĩ”.
Hãy học cách bình tĩnh khi rơi vào bế tắc bạn nhé!
2./ Hãy tìm một ai đó để chia sẻ và nhận lời khuyên từ họ.
Bạn đang gặp vấn đề bế tắc trong tình yêu hoặc từ chính bản thân mình, hoặc bản thân bạn đang thấy chán nản, căng thẳng, hãy tin bạn không phải là người duy nhất. Có những người bạn của bạn chắc chắn đã trải qua những tình huống như thế này. Người đó có thể đưa ra những lời khuyên sáng suốt dựa trên sự thất bại hay thành công của mình trước đó. Hãy tìm một người mà bạn có thể tin tưởng.
Và ngay cả khi nếu không ai có thể giúp bạn trong trường hợp này, hãy đừng vội đưa ra quyết định của mình, nó có thể không đúng đắn ngay lúc này. Tin tôi đi, chỉ cần có người để bạn có thể chia sẻ bế tắc của mình, bạn đã cảm thấy tốt lên rất nhiều.
Khi bế tắc hãy nhớ tới những người thân xung quanh ta. Bạn sẽ nhận được những lời khuyên hữu ích.
3./ Loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực và nghĩ tới những điều tốt đẹp
Rơi vào bế tắc, bạn phải có nghị lực vươn lên bởi đây không phải là lúc để bạn chùn bước hay rơi vào vòng luẩn quẩn mà không biết phải làm gì. Những suy nghĩ tiêu cực chỉ làm vấn đề của bạn trở nên trầm trọng mà thôi.
Hãy nhớ rằng “thất bại là mẹ thành công”. Cuộc sống luôn chuyển động vì thế đừng từ bỏ, buông xuôi, hãy lập cho mình một kế hoạch, đặt ra mục tiêu cần phải làm gì ở bước kế tiếp. Cuốn vào công việc, xóa những suy nghĩ tiêu cực và luôn nghĩ về những điều tốt lành sắp đến, bạn sẽ thấy cuộc sống dễ thở hơn nhiều.
4./ Đừng ngồi một chỗ trong nhà và tự kỉ.
Việc đó không phải là cách để cứu vãn cuộc sống của bạn khi bạn cảm thấy chán nản. Hãy ra ngoài uống 1 ly cà phê, một chuyến du lịch ngắn ngày hay đơn giản hơn là đi bộ trong công viên. Những điều nhỏ nhặt này lại hữu ích đến thần kỳ, khi bạn cảm thấy bình tĩnh hơn, hạnh phúc hơn những suy nghĩ u ám cũng vì thế mà tan đi. Lúc ấy, bạn có thể suy nghĩ nghiêm túc về những gì đang xảy ra.
Ngồi một chỗ và tự kỷ càng làm cho tâm trạng bạn thêm bế tắc mà thôi
5./Hãy thử một việc gì mới mẻ hay làm việc gì bạn thích.
Nếu bạn đã từng muốn tham gia một lớp yoga mà còn ngần ngại chưa có thời gian hoặc thiếu quyết tâm thì hãy ngay lập tức đăng kí và tham gia. Và nếu bạn ao ước có một chiếc Iphone 6 sành điệu từ lâu rồi nhưng còn để giành tiền làm việc khác thì hãy mua ngay thôi. Hoặc chỉ là việc đi mua sắm thôi cũng sẽ giúp ích cho bạn nhiều. Cảm xúc hiện tại của bạn đang khá tồi tệ, nhưng việc mới mẻ, những thứ yêu thích sẽ giúp bạn lấy lại được sự hào hứng.
6./ Trải nghiệm để trưởng thành hơn
Mỗi kinh nghiệm là một giá trị giúp ta trưởng thành hơn trong cuộc sống. Bram Stoker từng nói: "Chúng ta học được từ thất bại, không phải từ thành công". Hãy cho rằng những thất bại của hôm nay làm kinh nghiệm quý giá cho ngày mai. Thất bại có một "ưu điểm" là làm cho ta trở nên hoàn thiện và trưởng thành hơn để đối phó với mọi vấn đề trong cuộc sống. Suy nghĩ thế, tự nhiên bạn thấy gặp thất bại cũng không quá tệ phải không?
7./ Suy nghĩ về tương lai
Khi bế tắc, chán nản bạn thường có xu hướng nghĩ về quá khứ và những câu chuyện đau buồn nhiều hơn. Nhưng hãy suy nghĩ về tương lai, hãy nghĩ về bạn trong khoảng thời gian tới bạn muốn làm gì và có kế hoạch gì với bản thân. Lập ra mục tiêu và thực hiện nó. Những khó khăn hiện tại rồi sẽ qua đi và tương lai là điều đang chờ đón chúng ta phía trước. Vậy tai sao, bạn không suy nghĩ làm sao để tương lai tốt đẹp hơn mà cứ chìm mãi trong quá khứ và những chuyện buồn phiền, bế tắc.
Đừng chìm mãi trong những chuyện không vui. Hãy suy nghĩ về tương lai tươi đẹp phía trước
8./ Học cách mỉm cười mỗi ngày
Dẫu cuộc sống của bạn đang có quá nhiều thứ để lo toan, dẫu đôi vai đang oằn nặng vì nhiều thứ thì cũng nên mỉm cười để đứng vững. “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”, cười để có động lực, có niềm tin để vượt qua, cười để biết rằng cuộc đời này vẫn còn nhiều điều để ta yêu, ta quý. Những lúc bế tắc chỉ cần bạn mỉm cười, vững tin vượt qua, bế tắc sẽ không là vấn đề quá quan trọng nữa.
Hãy vẽ bức tranh cuộc đời bạn bằng sắc màu tươi sáng thay cho bức tranh ảm đạm, u tối mà bạn đang gặp phải vì thế giới này vẫn thật đẹp, nỗi buồn phiền rồi sẽ bay đi thôi bạn nhé!
Các bạn đang xem chuyên mục "Bài học cuộc sống" của website: www.lichvannien365.com. Các bạn hãy vào để xem các bài viết liên quan.
Tuổi Sửu |
Tuổi Mão |
Tuổi Tuất |
Tuổi Mùi |
Tuổi Tý được coi là một tuổi tinh khôn hơn các tuổi khác. Trong 12 chi, Tý đứng đầu. Khoa Tử Vi gọi Tý là tuổi Dương Thủy. Dương chủ nóng, cứng. Thủy chủ dịu, lạnh. Vì vậy, người Tý hành sự cương quyết, khôn ngoan và linh lợi. Tuổi Tý có khả năng lôi cuốn người khác, thích xã giao bề ngoài để lợi dụng hơn là thành thật.
Người trông hiền từ nhưng rất nóng tính, kín đáo và ít thích tâm sự với ai. Tuổi Tý cũng là người có sáng kiến, dồi dào tưởng tượng, tính toán và tài năng đa dạng hơn người.
Tuổi Tý không thích hợp với nghệ thuật, chính trị. Đối với tình yêu, tuổi Tý dám buông lỏng mà không tiếc rẻ, cũng tỏ ra là người lãng mạn. Lúc trẻ sung sướng, trung niên phát đạt thịnh vượng. Về già an nhàn, sung mãn và thọ mạng. Nhưng tuổi Tý sinh vào mùa hạ tốt hơn mùa Đông.
Tuổi hợp với Tý là Thìn, Sửu. Tuổi Thân không hợp và tuổi Ngọ càng kỵ hơn và chỉ có hai Tý với nhau mới có thể hợp lực làm ăn lâu dài.
Tuổi Sửu có óc thông minh hơn người, nhẫn nại nhưng hơi chậm chạp. Nhìn bề ngoài có vẻ uyển chuyển mềm dẻo nhưng trì trí và đa mưu. Tuổi Sửu cũng có khả năng làm lãnh tụ, ít nói nhưng khi đã nói thì thật là hùng biện, sâu sắc và lôi cuốn được người chung quanh. Nghề hợp với tuổi Sửu là nghề nông, công kỹ nghệ hơn là thương nghiệp kinh doanh. Người nữ tuổi Sửu thích việc nội trợ trong gia đình hơn ngoài xã hội. Vốn tính chỉ huy và mạnh bạo, độc tài (trường hợp các danh nhân như Adolf Hitler, Naponleon, Fidel Castro v.v...).
Tình yêu với tuổi Sửu như một trò đùa. Cũng âu yếm, khát khao nhưng không lãn mạn trong tình yêu. Dù là nam hay nữ, tuổi sửu ít ghen tuông mà chỉ đòi hỏi người tính chung thủy là tốt. Bạn đời của tuổi Sửu là những người phải có đức tính kiên nhẫn và chỉ có tuổi Dậu là hợp nhất, tuổi Mùi lé tránh. Kỵ tuổi Dần.
Tuổi Sửu trong tuổi trẻ được hưởng cuộc sống bình thường. Trưởng thành thường gặp khó khăn trong việc lập gia đình. Tuổi Sửu yêu thương gia đình, làm việc tích cực nhưng không chấp nhận một sự sai trái nào. Lúc tuổi già, sống thanh thản bình an.
Tuổi Dần tính cương cường, dũng cảm nhưng nóng nảy vì tính nóng nảy nên làm lãnh tụ ít thành công. Tuổi Dần có óc mạo hiểm, táo bạo, bất chấp hiểm nguy. Nếu dằn được tính nóng dễ đạt được danh vọng lớn. Dù sao đây vẫn là tuổi của may mắn. Tất cả đều dễ thành đạt trong tuổi này.
Tuổi Dần có thể làm cấp chỉ huy trong quân đội, làm giám đốc một cơ sở. Nếu là nữ có thể làm lãnh tụ phụ nữ, giành quyền lợi cho phái yếu. Tuy nhiên tuổi Dần vẫn có khuyết điểm là yếu đuối về tình cảm và hay trầm ngâm. Yêu thương cũng ra rít nhưng ít thành công. Đàn bà tuổi Dần có tính yêu nồng nàn nhưng thường thất bại đau buồn.
Lúc nhỏ, tuổi Dần có đời sống bình thường. Tuổi trưởng thành phải vật lộn với cuộc sống an nhàn, bình an. Sinh vào nửa đêm, tuổi Dần tránh được nhiều sóng gió của cuộc đời. Nếu sinh ban ngày, buổi sáng trước giờ Ngọ thì cuộc đời sôi nổi, táo bạo và nguy hiểm.
Tuổi Dần hợp với tuổi Ngọ, tuổi Thìn, tuổi Tuất, kỵ với tuổi Tỵ, tuổi Thân, tuổi Sửu. Tuổi Mão có thể hợp tác với tuổi Dần.
Tuổi Mão là người khéo léo, kín đáo và tế nhị. Tính tình trầm lặng, ít xúc động trước sự đau khổ của người khác. Nhà cửa, ăn mặc tươm tất, đẹp đẽ, có khi thích chưng diện lòe loẹt quá mức cho người khác chú ý! Nhưng tuổi Mão cũng có tật xấu ích kỷ quá độ nên ít được cảm tình của người không đồng cảnh. Tuổi Mão cũng có tính sợ sệt, cái gì cũng sợ, sợ cả những việc vô lý nữa. Đối với công việc thì tuổi Mão rất cẩn trọng nên việc làm ít khi nào sai lầm. Do đó, tuổi Mão làm bất cứ việc gì cũng được khen ngợi.
Tuổi Mão rất thích hợp trong đường chính trị nhờ có tính kín đáo, ngoại giao giỏi nên dễ thành công. Người chồng làm chính trị có vợ tuổi Mão sẽ là một cố vấn đắc lực. Ngoài ra còn có thể thành công ở các nghề như luật sư, ngoại giao và kinh doanh, kể cả ngành mỹ thuật nữa. Về tiền bạc, tuổi Mão biết chắt chiu, ít khi bị thiếu thốn. Tuy có tính ích kỷ nhưng với bà con thân quyến cũng biết thương yêu, đùm bọc. Đàn bà tuổi Mão là người nội trợ giỏi, tần tảo nên chồng con được nhờ nhiều.
Với tuổi Mão thích một cuộc sống bình hòa và trong đời ít gặp những tai họa lớn lao, các tuổi hợp với Mão là tuổi Mùi, tuổi Tuất, tuổi Hợi. Rất kỵ tuổi Tý như Mèo với Chuột. Công việc làm ăn thì kỵ tuổi Dần.
Tuổi Thìn tương đối có nhiều ưu điểm hơn là khuyết điểm. Tính tình ngay thẳng, thành thật, không thích nói dối. Tuy cũng cứng đầu, thiếu suy nghĩ nên đôi lúc có sai trái nhưng biết tự chế ngay. Thông minh dũng cảm và độ lượng nên dễ được lòng người chung quanh. Người đã thông minh mà lại đa tài, nghề gì cũng làm được và tỏ ra xuất sắc. Về chính trị, tôn giáo, ngoại giao, nghệ thuật... đều thích hợp, có thể thành công dễ dàng.
Tuổi Thìn nam hay nữ, ít khi lập gia đình sớm. Tuy có nhiều người yêu thương nhưng không đáp lại đầy đủ. Không si mê đắm đuối nên không bị lụy vì tình. Nữ tuổi Thìn đượ nhiều người ham muốn nên cũng dễ gây ra nhiều thảm kịch trong tình trường.
Nợ tính chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Tình cảm nhiều lòng nhân ái rộng, dễ tìn người nên bị người lợi dụng mà không trách người mới hay! Thật là cao thượng. Thiếu thời, tuổi Thìn thường gặp nhiều khó khăn, từ trung niên đến già mới hanh thông, công thành danh toại đắc ý! Người tuổi Thìn thường thành công ở nhiều mặt, hưởng bổng lộc đầy đủ mà vẫn tưởng là chưa đủ.
Các tuổi hợp với tuổi Thìn là tuổi Tý, tuổi Tỵ, tuổi Dậu và tuổi Thân. Kỵ với tuổi Dần, nhất là nên tránh tuổi Tuất. Tuổi Thìn thích hợp nhất với tuổi Thân và kỵ nhất tuổi Tuất.
Tuổi Tỵ thông minh, ít nói và kín đáo. Nhưng thường hay suy nghĩ nhiều, lao tâm hơn lao lực và mưu lược. Nhờ trầm tĩnh, đắn đo suy tính kỹ, lại có quyết định chắc chắn nên sự việc khi đã quyết tâm dễ thành công. Đàn ông tuổi Tỵ nhiều tình cảm, mềm mỏng, dễ thương như con gái, đàn bà tuổi Tỵ thích ăn diện hợp thời trang. Nói năng khéo nên dễ thu phục nhân tâm. Khi đã yêu thì bao vây người yêu chặt chẽ lắm. Muốn giữ hành phúc lâu bền, tuổi Tỵ phải biết hạn chế tính ghen tuông, đa cảm quá lố của mình.
Tuổi Tỵ thường sinh nhiều con.
Cuộc đời tuổi Tỵ ở tiền vận thường tương đối bình thản; không có gì đặc biệt. Vì có tính đam mê nên tuổi già hay lôi kéo vào việc mạo hiểm khiến nhiều rắc rối phiền toái. Nếu biết an nghỉ lúc tuổi già thì cuộc sống mới thanh nhàn.
Tuổi Tỵ sinh ban ngày, mùa Hạ thì tốt. Sinh ban đêm, mùa Đông thì hay gặp nhiều bất trắc, nhất là hậu vận về già càng nhiều khó khăn. Tuổi Tỵ hợp với tuổi Sửu, tuổi Dậu. Kỵ tuổi Dần và tuổi Hợi. Tuổi Tỵ cũng hợp với tuổi Mùi.
Tuổi Ngọ là người ham hoạt động, thích hội hợp náo nhiệt và có khả năng trong nhiều lãnh vực. Tính tình vui vẻ, bặt thiệp, có duyên nên dễ hấp dẫn được người chung quanh. Tuổi Ngọ cũng là người thông minh, bề ngoài có vẻ tự tin nhưng có tính hay rụt rè, ngại ngùng trước công chúng. Nóng nảy và làm việc muốn thật nhanh chóng; nếu bỏ được tính nóng nảy sẽ dễ thành công hơn. Tuổi Ngọ có tính ích kỷ, nhiều tham vọng và thích làm theo ý mình. Tuổi nhỏ đã muốn bay xa, không chịu sự kiềm tỏa của gia đình nên thường xa cách gia đình sớm.
Rất chăm chỉ trong công việc và tiền bạc chu đáo, kỹ lưỡng. Tuy cũng đôi khi chán nản bỏ bê công việc nếu mình không thích nhưng là người rường cột của gia đình, chu toàn tránh nhiệm đối với vợ con. Biết tính toán lo toan cho gia đình mà chế ngự được sự sai trái trong đời sống tình ái.
Cuộc đời tuổi Ngọ cũng nhiều thăng trầm nên càng nhiều kinh nghiệm vì sớm xa gia đình. Ham hoạt động nên tuổi Ngọ luôn luôn dao động, khó ngồi yên hưởng nhàn.
Tuổi Ngọ hợp với tuổi Mùi nhưng kết hợp với tuổi Dần, tuổi Tuất thì tốt hơn. Kỵ nhất với tuổi Tý.
Tuổi Mùi không bao giờ hài lòng với số phận mình là sao? Vì tính hay lưỡng lự, bông lông, không dứt khoát trước bất cứ một vấn đề nào. Do đó khiến nhiều người dễ chán nản tuổi Mùi. Nếu bỏ được các tính xấu trên thì tuổi Mùi là tuổi tuyệt hảo, vì là người có tính nghệ sĩ, thích thiên nhiên và thích ăn ngon mặc đẹp. Tuổi này cũng ít khi lưu ý giờ giấc nên hay trễ giờ, sai hẹn gây bực mình cho người khác. Tuy nhiên trước việc có lợi, tuổi Mùi cũng biết xoay chiều uyển chuyển để đạt mục tiêu của mình.
Tuổi Mùi thích người ta nói đến mình và hay tin vào lời khuyên bảo của người khác. Tuy tính tình lang bang nhưng lại khéo léo, dịu dàng và cũng rất vui tính. Tuổi Mùi là người tốt, thích làm việc thiện nguyên giúp đỡ người chung quanh và coi nhẹ của cải tiền bạc. Tuổi Mùi vì không quyết định sự việc nên thường chờ sự may rủi xảy ra.
Tuổi Mùi có thể thành công về nghề nghiệp, nghệ thuật và có tính khéo léo, cần cù nên khi thành công cũng rất vẻ vang. Tuổi Mùi ít thích hợp với nghề thương mại kinh doanh vì không biết ngoại giao mời mọc giỏi.
Tuổi hợp với tuổi Mùi là các tuổi Mão, Hợi, Ngọ.
Tuổi Thân là người thông minh, hiếu học nên có một kiến thức rất rộng rãi, hiểu biết nhiều vấn đề như một người thông thái, một học giả. Do đó, có nhiều sáng kiến, giải quyết khó khăn một cách tài tình. Cũng rất khéo léo trong việc thu phục nhân tâm. Trường hợp gặp những việc nan giải, có khi nguy hiểm, tuổi Thân vẫn có thể vượt qua bình an.
Tuổi Thân thích hợp chọn việc làm theo ý mình, thích hoạt động tự do. Nếu là việc làm vì bổn phận, nhiệm vụ, vẫn chu toàn một cách xuất sắc. Tuy nhiên, tuổi Thân cũng có nhiều tật xấu: mánh lới, tự kiêu cho mình hơn người. Khi giúp đỡ người cũng có ý lợi dụng và có nhiều mánh khóe trong việc tiền bạc. Dù vậy, tuổi Thân vẫn được nhiều người trọng là nhờ thông minh, lanh lẹ, giải quyết công việc mau chóng. Tuổi Thân có thể thành công ở các mặt chính trị, ngoại giao và thương mại kinh doanh. Nếu có khoa bảng cao tuổi Thân càng dễ nổi danh. Nói chung, tuổi Thân nhờ thông minh và khéo léo nên có thể thích hợp với nhiều ngành nghề dễ dàng.
Tuổi thân có một đời sống sung túc. Về tình yêu, yêu nhiều mau chán. Yêu cái gì cũng say mê nhưng không bền lòng. Tuổi trẻ bình thường, cũng có khi sung túc. Trung niên lận đận, vấp vập. Hậu vận về già an nhàn.
Các Tuổi hợp với tuổi Thân là Tý, Thìn. Tuổi Thân sinh nhiều con và giáo dục con cái nên người.
Tuổi Dậu thường có tính lập dị, khác người. Ăn mặc khác người để cho người ta chú ý đến nhưng lại rất bảo thủ. Thích người khác nói đến mình. Tính tình ngay thẳng, bộc trực, nghĩ sao nói vậy. Thiếu tế nhị trong cách xã giao.
Tuổi Dậu tự tin quá đáng. Tự cho mình làm gì cũng đúng, nghĩ gì cũng hay và không tin ai hơn mình, trong cách hành xử có vẻ như can đảm và mạo hiểm nhưng lại không phải thế. Tuổi Dậu thích làm việc có uy tín trước, có kế hoạch, chương trình. Do đó, rất thích hợp với binh nghiệp quân sự và không thích hợp với nghề ngoại giao. Khi bắt tay vào việc thì rất hăng hái, có khi làm quá sức mình để thành công hơn người khác cho thiên hạ chú ý đến mình. Tuổi Dậu cũng giỏi chịu đựng khắc khổ và thường hay khó khăn về tài chính. Nghề thích hợp cho tuổi Dậu là nông trại, thường thích làm những nghề đảm bảo, không thích sự rủi ro, đàn bà tuổi Dậu là người nội trợ đảm đang, khéo nuôi con và biết chiều chồng. Sau mỗi người đàn ông thành công thường có một người đàn bà tuổi Dậu đứng sau.
Vì quá lập dị nên tuổi Dậu khó thành công về đường tình ái. Có cố gắng lắm cũng khó giữ được tình yêu bền vững. Tuổi hợp với Dậu là tuổi Tỵ, tuổi Sửu; vì Rắn không khéo uyển chuyển, Trâu hiền hòa bảo thủ có thể hỗ trợ cho Dậu thành công mỹ mãn. Kỵ tuổi Mão không hợp. Tránh lấy nhau cùng tuổi Dậu và cũng tránh sinh con năm Dậu. Điều này không tin không được. Số mạng là vậy.
Đặc tính của tuổi Tuất là ý thức cao về sứ mạng. Tuổi Tuất là người trọng nghĩa, trung tín, hướng thiện và luôn luôn tận tụy với công việc, nhiệm vụ. Tuy cũng hay bi quan, đắn đo và suy nghĩ trước sự việc. Thầy việc bất công, nghịch lòng, thường dám bênh vực, chống lại bất công. Biết tôn trọng ý kiến của người khác; biết lắng nghe theo nhưng rất lúng túng nếu phải phát biểu trước đám đông.
Tuổi Tuất có lòng bác ái, biết quên mình và không vụ lợi khi cần phải giúp đỡ người hoạn nạn, khốn khổ. Nhờ đức tính tốt này nên thích hợp với nhà tu hành, nhà từ thiện và các nghề nghiệp như: y tá, bác sỹ, kỹ sư, giáo sư, luật sư, thi sỹ. Rất ít gặp tuổi này nổi danh trên chính trị hoặc đạo tặc giang hồ. Nếu ở địa vị lãnh đạo, tuổi Tuất ít tham vọng cá nhân, thành thật và ngay thẳng. Nhưng cũng khó trở nên một lãnh tụ xuất chúng.
Suốt đời tuổi Tuất luôn lo lắng. Trung niên về già cũng thế, lo hoài tới chết vẫn chưa hết lo. Nếu tuổi Tuất sinh ban ngày đỡ hơn. Tuổi Tuất cũng rất trọng các vấn đề tình cảm. Trong tình yêu chung thủy mẫu mực. Tuổi Tuất thích hợp nhất với tuổ Ngọ, vì Ngọ thích tự do, không làm phiền hà cho tuổi Tuất. Ngoài ra, tuổi Mão, tuổi Dần cũng hợp với tuổi Tuất. Kỵ tuổi Mùi không hợp.
Cũng tương tự như tuổi Tuất, tuổi Hợi có những đức tính tốt như: trung thành, tận tụy, hay giúp đỡ tha nhân, lịch thiệp và trong sáng. Không thích ganh đua với đời, tuy thông minh nhưng không khéo léo. Cũng vui tính hay pha trò. Tuổi Hợi giống tuổi Thân ở điểm hiếu học. Thích tìm tòi nghiên cứu. Hiểu được nhưng không sâu.
Nhìn bề ngoài hiền hậu, ôn như nhưng nội tâm hồn chứa nhiều nghị lực, uy quyền. Khi làm việc cẩn trọng và nỗ lực đạt tới mục đích hoàn hảo. Tuổi Hợi trầm tính, ít bạn và không bao giờ bỏ bạn.
Tuổi Hợi có cái yếu là trong công việc nếu êm đẹp thì thôi, nếu trở ngại thì tiến tới, bất kể thành hay bại. Về đời sống, no đủ và luôn được người khác giúp đỡ. Về tình cảm, thường thất vọng, dễ bị lừa gạt nhưng được người ta thương, các bà mẹ tuổi Hợi rất đáng thương yêu con cái. Đàn ông tuổi Hợi thích sự khoái lạc ở đời và thường tìm kiếm một người phụ nữ tuyệt đẹp.
Tuổi hợp với tuổi Hợi là tuổi Mão. Tuổi Mùi không hợp lắm, kỵ tuổi Tý và Tỵ.
Tử Vi Gia THIÊN PHÚC
(Theo La Nouvell Astrologie Chinoise của Jean Djibrill Diaby)
Số 1 | Số 2 | Số 3 |
Số 4 | Số 5 | Số 6 |
Mộc Trà (theo Quiz)
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật |
Hướng Đông
Chim khách đến nhà từ 7 giờ đến 11 giờlà có tài lộc của khách xa mang đến. Từ 11 giờ đến 13 giờ là có sự tranh giành quyền lợi trong gia đình. Từ 13 giờ đến 17 giờ à có kẻ mưu hại mình, đề phòng kẻ dưới.
Hướng Đông Nam
Từ 7 giờ đến 13 giờ mà chim khách tới nhà tức là có người mời đi du lịch.Từ 13 giờ đến 17 giờ thì sắp có tin từ xa về, hung nhiều hơn cát.
Hướng Nam
Chim khách tới nhà từ 7 giờ đến 11 giờ là sắp có tiệc tùng. Từ 11 giờ đến 13 giờ là có sự tranh giành quyền lợi trong gia đình. Từ 13 giờ đến 17 giờ thì nhà tin vui từ xa đưa về.
Hướng Tây Nam
Chim khách tới nhà từ 7 giờ đến 11 giờ là báo hiệu có người đến cầu thân. Từ 11 giờ đến 13 giờ ắt nhà có chuyện buồn bực. Từ 13 giờ đến 17 giờ mà chim khách tới nhà thì nhớ đề phòng hoả hoạn.
Hướng Tây
Từ 7 giờ đến 11 giờ thấy chim khách tới nhà thì cãi vã trong gia đình. Từ 11 giờ đến 13 giờ là có người mang quà tặng. Từ 13 đến 17 giờ ắt có tin lành.
Hướng Tây Bắc
Từ 7 giờ đến 11 giờ chim khách tới nhà là sắp có khách quý đến thăm. Từ 11 giờ đến 13 giờ thì sẽ có người mời ăn uống. Từ 13 giờ đến 15 giờ ắt là khách cũ đến thăm và giúp đỡ.
Hướng Bắc
Có chim khách tơi nhà từ 7 giờ đến 11 giờ là có khách đến viếng nhà, cầu hôn. Từ 11 giờ đến 13 giờ có người đem đồ vật đến tặng. Từ 13 giờ đến 17 giờ súc vật nuôi bị hao tổn.
Hướng Đông Bắc
Từ 7 giờ đến 11 giờ mà chim khách tới nhà thì có người trong thân đến thăm. Từ 11 giờ đến 13 giờ có người cũ mang quà đến biếu. Từ 13 giờ đến 17 giờ có khách quý đến nhà.
Không có cơ sở khoa học nào chứng minh điều này đúng hay sai nhưng hầu như mọi người đều tin vào nó như một kinh nghiệm dân gian. Khi có chim khách ghé nhà, hãy thử so với trên để kiểm chứng xem sao nhé.
ST
Cuộc đời: Từ năm 27 tuổi mọi thứ sẽ phát triển thịnh vượng, cuối đời hưởng vinh hoa phú quý.
Các tuổi đại kỵ với tuổi Canh Thìn là: Quý Mùi, Giáp Thân, Canh Dần, Ất Mùi, Bính Thân, Mậu Dần, Nhâm Thân. Nếu kết hợp làm ăn sẽ bị thua lỗ; nếu kết duyên sẽ không có hạnh phúc.
Những tuổi khó khăn nhất trong cuộc đời nữ giới tuổi Canh Thìn là: 25, 28, 32, 36; ở nam là: 26, 29, 33, 40.
Tính cách: Là người tài đức, hiền lành, nhạy bén, trung thực, cần cù, tiết kiệm. Thích du ngoạn và tham gia các hoạt động xã hội.
Có thể bạn quan tâm: Tính cách sự nghiệp của người tuổi Thìn.
Tình duyên: Nữ Canh Thìn có số đào hoa, gặp nhiều may mắn trong tình duyên.
Nam giới tuổi Canh Thìn tình duyên thường lận đận nhưng cũng có hôn nhân tốt đẹp.
Nam giới tuổi này sinh vào các tháng: 5, 6, 9; nữ sinh vào các tháng: 1, 6 sẽ phải trải qua thăng trầm trong tình yêu mới có được hạnh phúc.
Để cuộc sống vợ chồng luôn hòa thuận, tốt đẹp người tuổi Canh Thìn tránh kết hôn với tuổi Mậu Tý, Nhâm Ngọ, Đinh Hợi, Tân Tỵ.
Gia đạo: Tuổi này có gia đạo êm ấm, cuộc sống sung túc, số được nhờ vả cha mẹ, anh em.
Công danh sự nghiệp: Là người có năng lực nên công danh, sự nghiệp trọn vẹn, cả đời vinh hiển. Tuy nhiên, người tuổi Canh Thìn cần biết nắm bắt thời cơ, sáng suốt khi lựa chọn và không nên ỷ lại vào người khác thì mới có sự nghiệp vững chắc.
Tiền bạc: Sự nghiệp càng vững chắc, tiền bạc càng dồi dào. Tuổi Canh Thìn trung vận, hậu vận giàu có, suốt đời may mắn, sung túc.
Ở tuổi 36, 37 cần đề phòng hao hụt tiền bạc.
Trong công việc làm ăn nên kết hợp với tuổi Canh Thìn, Bính Tuất, Kỷ Sửu, Canh Sửu để luôn thuận lợi, phát đạt.
(Theo 12 con giáp và tính cách con người theo năm sinh)
► Xem và bài trí phong thủy nhà ở cầu tài lộc, tránh tai ương |
Đã bao giờ bạn nằm ngủ mơ thấy ông thần tài (ông địa) chưa? Hôm nay chúng mình sẽ cùng đi giải mã các giấc mơ thấy ông thần tài (ông địa) là gì?
Nội dung
Người hỏi: Trần Lan Vi
Email: [email protected]***.com
Câu hỏi: Chào AloGam.com, có một giấc mơ mà mình đã nằm mơ thấy 3 lần, đó là mình mơ thấy nói chuyện với ông thần tài, không hiểu đây là điềm báo gì?
Giải đáp: Chào Vi, giấc mơ này ngụ ý như một lời nhắc nhở bạn cần phải rèn luyện tính tự lập và phải tự tin hơn trong giao tiếm để có thể tạo dựng những mối quan hệ bên ngoài một cách tốt hơn. Điều này sẽ có thể giúp bạn có thêm được nhiều cơ hội thành công hơn trong công việc
Là điềm báo tốt, giấc mơ ngụ ý kế hoạch mà bạn đang theo đuổi sẽ gặt hái được nhiều thành công.
Giấc mơ này là điềm báo lành, nó ngụ ý cho thấy bạn sẽ gặp nhiều may mắn và thuận lợi trong công việc trong thời gian tới.
Người hỏi: Nguyễn Minh Thành
Email: [email protected]***com.vn
Câu hỏi: Mình nằm mơ thấy dùng khăn lau chùi cho ông thần tài và bỗng nhiên ông thần tài bị vỡ đầu. Mình cảm thấy hơi lo không biết đây có phải điềm báo gì không?
Trả lời: Chào Thành, giấc mộng này của bạn là điềm báo không được tốt. Giấc mơ dường như đang muốn báo cho bạn biết trước về sự trở ngại liên quan đến việc kinh doanh buôn bán hoặc nhà cửa đất đai trong khoảng thời gian tới. Nhìn chung khi mơ thấy giấc mơ này bạn cần chú ý thận trọng hơn khi đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến tiền bạc trong khoảng thời gian này.
Đây là một giấc mơ thiêng và hàm ý báo hiệu trước cho bạn biết sẽ có một bước ngoặt lớn trong công việc và tình cảm cảu bạn khiến cuộc đời bạn sang một trang mới thành công hơn.
Giấc chiêm bao này là điềm báo tốt lành, sắp có một tin vui nào đó đến với bạn có thể là từ công việc hoặc chuyện tình cảm.
Các con số liên quan đến giấc mơ thấy ông thần tài hay ông địa là: 36 – 39 – 79 – 10
Là điềm báo khuyên bạn nên bắt đầu triển khai kế hoạch phát triển sự nghiệp mà đã ấp ủ bấy lâu, nếu bạn kiên trì theo đuổi thì chắc chắn thành công sẽ đến.
Theo các nhà tâm lý học thì giấc mơ này cho thấy bạn đang muốn chính tỏ cho mọi người thấy mình là người thực sự có năng lực kiếm được nhiều tiền. Giấc mơ chỉ rằng bạn muốn chứng tỏ cho mọi người rằng, bạn là người thực sự có năng lực.
Giấc mộng này là điềm báo gia đình sẽ được thịnh vượng.
Đây là điềm báo trong thời gian tới bạn sẽ có quý nhân giúp đỡ để đạt được những kế hoạch đã đặt ra trong công việc.
Đây là một giấc mơ xấu, nó hàm ý cảnh báo bạn trong khoảng thời gian này sẽ có thể gặp nhiều điều không may mắn khiến bạn bị hao tổn tiền bạc. Cũng có thể sẽ có những chuyện rắc rối xảy ra trong công việc khiến bạn phải bận lòng suy nghĩ
Đây cũng là những giấc mơ mang lại điềm báo không lành. Điềm báo liên quan đến những giấc mơ này là sự cảnh báo về sự hao tổn tiền bạc, sự trở ngại trong công việc làm ăn kinh doanh hoặc gia đi có tranh cãi khiến mọi người trở nên căng thẳng với nhau.
Sườn non bầu rượu túi thơ
Thảnh thơi ngồi gẫm cuộc cờ Trường An
Vạc Hậu Chu vừa khi mới đổi
Trần Hi Di lên ẩn núi Hoa Sơn
Mấy mươi năm trong cuộc bùn than
Lửa văn võ chưa rặc lò đan táo
Hà vật lão ẩu
Nặng trên vai hai chúa thái bình
Liếc trông chừng Tống nhật đã khai minh
Mây thúc quí hẳn từ rầy trong leo lẻo
Trần Kiều mộng lý giang sơn tiểu
Vãn quán xuân thâm nhật nguyệt trường
Rượu một bầu, thơ một túi, cờ một cuộc, cầm một xoang
Khi đắc ý gật trên lừa cười ra rả
Ngoài cung kiếm mặc ai xa mã
Luy trần bất đáo thử giang san
Trời riêng cho một cuộc nhàn.
Trong chính sử không thấy nói đến Trần Đoàn, tên ông chỉ được ghi trong dã sử, truyền ký và chính thức trong các sách về tướng pháp và lý số, thành thử đời sau không thể có một tiểu sử liên tục và rõ ràng về ông.
Căn cứ vào bài Ca trù của Nguyễn Công Trứ để lấy thứ tự đồng thời cộng với một số truyền kỳ, ta có thể hình dung một cách đại khái thân thế Trần Đoàn như sau:
Từ nhà Đường chuyển sang nhà Tống trải qua giai đoạn lịch sử quá độ trung ương tập quyền biến ra địa phương hùng cứ rồi chuyển thành đời Ngũ Đại đã rồi nhà Tống mới thống nhất.
Trần Đoàn lớn lên giữa lúc nhiễu nhương binh lửa, giết chóc loạn lạc, ông lên núi tu ẩn để tránh họa. Khi đã nắm được lẽ huyền vi của âm dương, ông thường đi đây đó để tìm anh hùng và chân chúa. Có một lần gặp người đàn bà gánh kĩu kịt trên vai hai đứa trẻ mỗi thúng ở đầu đòn gánh một đứa. Ông mới hỏi: “Hà vật lão ẩu? Này bà gánh kia chi vậy?” Người đàn bà mở nắp thúng cho Trần Đoàn coi rồi thở dài nói: “Tôi dẫn hai con tôi đi chạy loạn đây”.
Vừa nhác trông thấy hai đứa nhỏ, Trần Đoàn đã kêu lên: “Một vai bà mà gánh những hai vị thiên tử sao?”
Lòng ông vui mừng khôn xiết, vì thiên hạ sắp hưởng đời thái bình nên mới có hai vị chân chúa anh hùng xuất thế. Trần Đoàn liền lấy trong bọc ra mười lạng đưa biếu người đàn bà không quen biết rồi lên lưng lừa đi thẳng.
Hậu Chu là gì?
Là Chu Thế Tôn người đi bước đầu trong công cuộc thống nhất nhưng chưa được năm năm đã mất.
Phải đợi đến lúc có vụ binh biến Trần Kiều do hai anh em ông Triệu Khuông Dận và Triệu Khuông Nghĩa (hai đứa trẻ Trần Đoàn gặp trước đây nay lớn lên) cầm đầu đánh dẹp nốt các phương chấn bấy giờ đại nghiệp thống nhất mới hoàn thành.
Khi nghe tin Triệu Khuông Dận là Tống Thái Tổ thì Trần Đoàn đang ngồi trên lưng lừa ngửa mặt cười ra rả nói: “Thiên hạ thái bình rồi”.
Về sau, Tống Thái Tôn tức Triệu Khuông Nghĩa có cho người vời Trần Đoàn ra làm quan nhưng ông từ chối, bỏ vào núi đi mất không ai biết ở đâu.
Gốc thông hỏi chú học trò
Rằng thầy hái thuộc lò mò đi xa
Chỉ trong dẫy núi đây mà
Mây che mù mịt biết là nơi nao
(Tản Đà dịch thơ Giả Đào bài Tầm ấn giả bất ngộ).
Gốc gác khoa Tử Vi có tự bao giờ?
Không ai rõ chỉ biết đời nhà Gia Tĩnh thuộc Minh triều có lưu truyền cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư do tiến sĩ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa ở đầu nói Tử Vi đẩu số toàn thư là của tác giả Hi Di Trần Đoàn.
Bài tựa viết như sau:
“Thường nghe nói cái lý của số mệnh rất huyền vi ít ai biết cho tường tận để mà thuận thụ coi công danh phú quí trên đời đều có mệnh.
Tôi vì muốn biết nên đã tới tận núi Hoa Sơn chỗ ông Hi Di Trần Đoàn đắc đạo để chiêm bái nơi thờ tự của bậc đại hiền. Lúc ra về thì thấy một vị cao niên thái độ ung dung chân thực đưa cho tôi cuốn sách mà bảo: “Đây là Tử vi đẩu số tập của Hi Di tiên sinh”.
Mang về mở ra xem, ban đầu các sao nghĩa lý thật ảo diệu nhưng càng đọc càng thấy lời bàn luận sắc đáng, đem ra đoán thử thấy lời đoán rất thần nghiệm, càng học càng thấy hay lạ. Bất giác phải kêu lên: “Tạo hoá chí huyền chí hư mà soi sáng được đến thế này, nếu con tâm bậc đại hiền không nhập vào với tạo hoá thì làm sao biết nổi. Tinh tú ở xa muôn triệu dậm mà tính hết vào trong một bàn tay, nếu bậc đại hiền không phải là người hung tàng tinh đẩu (trong ngực có tinh đẩu) thì làm sao tính nổi. Ngôi trời ở trên, ngôi đất ở dưới, loài người đứng giữa. Hi Di tiên sinh đã tìm được lẽ con người thiên hợp và lẽ trời nhân hợp qua sự biến hoá của các vi tinh đẩu để tính ra số mệnh hay dở của từng người, nếu không có cái học quán thiên nhân thì ai làm nổi. Hi Di tiên sinh xứng đáng là một bậc cao nhân, một thần nhân vậy.
Bởi thế tôi muốn đem những lời dạy của Hi Di Tiên Sinh phổ biến cho khắp thiên hạ trong cõi thế gian thấp kém này được hiểu cuộc đời là có mệnh số”.
Cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn do La Hồng Tiên biên soạn chia làm 4 tập:
Tập một và tập ba nói về tính chất ảnh hưởng các sao, các cung vào vận, vào mệnh con người qua các chương: Thái vi phú – Hình tinh phú – Tinh viên luận - Đẩu số chuẩn thắng - Tục hình tinh phú – Phát vi luận - Đẩu số cốt tủy chú giải - Nữ mệnh cốt tủy phú chú giải - Định phú quí bần tiện thập thập đẳng luận – Thập nhị cung chư tinh thất hãm quyết – Chư tinh đắc địa phú quí luận – Chư tinh thất hãm bần tiện luận - Định phú cục - Định quí cục - Định bần tiện cục - Định tạp cục – Đàm tinh yếu luận – Luận nhân mệnh nhập cách - Luận cách tinh số cao hạ - Luận nhân tính cách hà như - Luận nam nữ mệnh đồng dị - Luận tiểu nhi mệnh - Định tiểu nhi thời sinh quyết - Luận nhân sinh thời an mệnh cát hung - Luận tiểu nhi khắc phụ mẫu - Luận mệnh tiền bần hậu phú - Luận đại hạn thập niên họa phúc hà như - Luận nhi hạn thái tuế cát hung - Luận hành hạn phân nam bắc đẩu – Luận lưu niên thái tuế cát hung tinh sát - Luận kinh đà diệt tính - Luận thất sát trùng phùng - Luận đại tiểu hạn tinh thần quá thập nhị cung ngộ thập nhị chi sở kỵ quyết - Luận lập mệnh hành hạn cung ca - Luận thái tuế tinh thần miếu hãm ngộ thập nhi cung cát hung - Luận chư tinh đồng vị viên các tư sở nghi phân biệt phú quí bần tiện yểu thọ.
Tập hai dạy cách lấy số an các sao.
Tập bốn là những lá số của các danh nhân, thường nhân với lời phê.
Về tập hai tức cách an sao lập thành lá số thiết tưởng đã có nhiều sách làm kỹ càng rồi nên ở đây xin bỏ qua tập đó, chỉ nói một vài dị biệt giữa Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn với những sách Tử Vi ở nước ta. Tập một và tập ba cần chú ý hơn hết, chúng tôi sẽ dịch nguyên văn kèm theo lời bình và chú thích. Dùng chữ bình, chúng tôi tự thấy có vẻ hơi lạm thực ra chỉ là những thắc mắc mà chúng tôi tìm thấy đó thôi. Nhưng chúng tôi sẽ không dịch nguyên văn toàn bộ vì có nhiều điều lập đi lập lại hoặc do mất chữ trở thành vô nghĩa. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa thêm vào ít khám phá mới của vài tác giả như Trương Huy Văn với các cuốn “Tử Vi Xiển Vi”, “Tử Vi phát bí”, như “Vô Muộn” với cuốn “Đẩu số mệnh lý tân biên”. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng không để rơi lọt một tinh hoa nào của khoa Tử Vi có ghi trong sách Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh.
NHỮNG THUẬT NGỮ CẦN BIẾT
Bất cứ nghề gì cũng có thuật ngữ, người thợ sửa xe hơi có những tiếng như “pan nóng”, “pan nguội”, “súp bắp”, “đen cô”... Thuật ngữ để chỉ dụng cụ hay tình trạng.
Khoa Tử Vi đẩu số, chữ đẩu đây nghĩa là ngôi sao cho nên tên sao và tính chất sao cùng với sự kết hợp các sao lại thành từng chùm mang những thuật ngữ riêng biệt.
Tử Vi đẩu số có bao nhiêu sao tất cả?
Ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư chỉ thấy nhóm sao chính là 14 vị: Tử Vi – Thiên Cơ – Thái Dương – Vũ Khúc – Thiên Đồng – Liêm Trinh – Thiên Phủ - Thái Âm – Tham Lang – Cự Môn – Thiên Tướng – Thiên Lương - Thất Sát – Phá Quân
Sau đây là các phụ tinh như: Văn Xương – Văn Khúc - Tả Phụ - Hữu Bật – Thiên Khôi – Thiên Việt – Thiên Mã - Lộc Tồn – Kình Dương – Đà La - Hỏa Tinh – Linh Tinh – Hoá Quyền – Hoá Lộc – Hoá Khoa – Hoá Kỵ - Thiên Không - Địa Kiếp – Thiên Thương – Thiên Sứ - Thiên Đức – Nguyệt Đức – Long Trì - Phượng Các – Thai Phụ - Phong Các - Hồng Loan – Thiên Hỉ - Tam Thai – Bát Tọa – Thiên Hình – Thiên Diêu - Đẩu Quân.
Rồi đến chòm sao đi theo Thái Tuế, chòm sao đi theo Lộc Tồn, chòm sao Tràng Sinh. Mỗi chòm 12 vị:
Rồi đến Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong cộng lại là 85 vị.
Nhưng sách Tử Vi ở Việt Nam do tổ tiên chúng ta truyền lại thì thấy có thêm nhiều sao khác không ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn như các sao: Đào Hoa – Thiên Tài – Thiên Thọ - Phá Toái – Kiếp Sát – Thiên Y – Thiên Trù – Thiên Giải - Địa Giải - Giải Thần - Địa Không – Ân Quang – Thiên Quí – Cô Thần - Quả Tú – Lưu Hà – Thiên Quan – Quí Nhân – Thiên Phúc.
Tổng cộng lại là 104 vị.
Các cụ đã căn cứ vào đâu mà thêm vào không hiểu hoặc giả sách Tử Vi đẩu số toàn thư chính bản đã sang bên ta, nên bản lưu bên chính quốc bị ghi chép thiếu sót. Nếu vậy, tại sao không có những lời giải rõ ràng về các sao: Giải Thần - Địa Giải – Thiên Trù – Thiên Giải mà chỉ có vài lời nghe thật gượng ép. Trừ sao Đào Hoa thì có thể nói Tử Vi đẩu số toàn thư bị thiếu, vì sao này rất quan trọng trong phép tính số Tử Bình và cách an sao không khác phép tính số Tử Vi.
Tính (sao) còn gọi là Diệu. Ví dụ 14 sao thuộc chòm Tử Vi Thiên Phủ là chính diệu (sao chính) nếu cung mệnh không có sao chính thì gọi là mệnh vô chính diệu.
Sách đẩu số mệnh lý cho rằng: Tả Phụ - Hữu Bật – Văn Xương – Văn Khúc - Lộc Tồn cũng là chính tinh nữa. Còn cổ truyền khoa Tử Vi của ta thì căn cứ vào Tử Vi đẩu số toàn thư nên chỉ có 14 vị là chính tinh mà thôi.
Các sao: Kình Dương – Đà La - Hỏa Tinh – Linh Tinh – Thiên Khôi – Thiên Việt gọi là Thiên diệu.
Hoá Lộc – Hoá Quyền – Hoá Khoa – Hoá Kỵ gọi là hoá diệu hay tứ hoá.
Ngoài ra các sao khác là tạp diệu.
Lại có những tên gọi riêng như Tứ Cát (bốn sao tốt) là Lộc, Quí (gồm Khôi Việt), Quyền, Khoa.
Tứ hung hay tứ sát (bốn sao hung) là Hỏa, Linh, Dương, Đà.
Những sao đi đôi, đi cặp là: Tử Phủ (hay Tử Vi – Thiên Phủ), Tử - Tướng, Phủ - Tướng, Nhật - Nguyệt, Tả - Hữu, Xương – Khúc, Không - Kiếp, Hỏa – Linh, Dương – Đà, Khôi - Việt.
- Tam hợp là gì?
Mỗi lá số tử vi có 12 cung theo 12 chi, mỗi cung khi tính sao được tính theo tam hợp tức là hội các sao của 3 cung lại. Ba cung nào? Phải theo nguyên tắc sau: Thân Tý Thìn, Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất.
- Lục xung là gì?
Tý - Ngọ xung, Sửu – Mùi xung, Dần – Thân xung, Mão - Dậu xung, Thìn - Tuất xung, Tị - Hợi xung.
- Thủ đồng là gì?
Một chính tinh đóng ở mệnh cung là thủ mệnh. Hai chính tinh đóng ở mệnh là đồng cung hoặc đóng ở các cung khác cũng vậy.
- Lâm - Nhập là gì?
Hai chữ trên mang cùng một nghĩa, nhưng sao tốt đóng ở đâu gọi là Lâm, sao xấu đóng ở đâu gọi là nhập.
- Miếu – Hãm là gì?
Mỗi sao cần phải đứng tại vị trí đúng chỗ của nó, đứng sai chỗ gọi là Hãm, đứng đúng chỗ gọi là Miếu. Còn có những danh từ khác chỉ sự đúng chỗ như vượng địa, đắc địa, tuy nhiên miếu địa vẫn là nhất. Đúng chỗ mới lợi, sai chỗ vô ích hoặc bất lợi, Ví dụ: vua Văn Vương bị bắt giam trong tù, Tỉ Can đi thờ vua Trụ.
- Tọa - Cứ là gì?
Tọa chỉ sao tốt ngồi tại cung nào.
Cứ tức chiếm cứ chỉ sao xấu xâm nhập tại cung nào.
- Bản phương - Hợp phương – Lân phương là gì?
Bản phương là cung chủ yếu ta căn cứ vào đó để tính. Ví dụ: Mệnh ở cung Mão thì Hợp phương theo tam hợp thì có Hợi và Mùi.
Còn lân phương là cung bên cạnh. Ví dụ: Thìn và Dần là lân phương của Mão.
- Triều và xung là gì?
Sao tốt đóng tại cung khác theo tam hợp và chiếu hướng về cung chủ yếu gọi là Triều. Sao xấu cùng một trường hợp trên gọi là Xung. Riêng sao Thái Âm, Thái Dương không dùng chữ Triều mà dùng chữ Chiếu. Riêng sao Lộc Tồn và Hoá Lộc không dùng chữ Triều mà dùng chữ Củng.
- Giáp - Chiếu - Hiệp là gì?
Các sao tốt đóng hai cung bên cạnh cung mệnh (lân phương) gọi là Giáp.
Ví dụ: giáp Nhật - Nguyệt, giáp Tả - Hữu
Chiếu là sao ở cung đối xung ảnh hưởng tới, ví dụ: Ngọ chiếu Tị, Dậu chiếu Mão hoặc ngược lại.
Về câu: “Chính không bằng Chiếu, Chiếu không bằng Giáp” không thể áp dụng cho bất cứ sao nào.
Ví dụ: Thái Âm, Thái Dương cần Chiếu, Tả Phụ, Hữu Bật cần Giáp.
TỨ YẾU - THẬP DỤ - BÁT PHÁP
Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt:
a). Cát hung – b). Hư thực – c). Chủ khách – d). Cường nhược.
Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào? Sao tốt làm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.
- Chia chủ khách ra sao?
Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách. Trong trường hợp cả hai cung xung chiếu cung vô chính tinh thì chỉ lấy sao khách mà luận cát hung.
Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.
Thập dụ là gì? Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với cát cung tam hợp và cung xung chiếu:
1). Bản phương tốt (cát) “do nội tự cường” mạnh từ bên trong mạnh ra.
2). Bản phương xấu (hung) là “tòng căn tự phát” hư từ gốc rễ.
3). Cung xung chiếu tốt là “nghênh xuân tiếp phúc” chờ xuân đón phúc.
4). Cung xung chiếu xấu là “đương đẩu ác bổng” giơ đầu chịu búa đập.
5). Cung tam hợp tốt là “tả hữu phùng nguyên”, lắm chân tay giúp đỡ.
6). Cung tam hợp xấu là “tả hữu thụ địch”, địch từ bên phải, bên trái đánh tới.
7). Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là “lưỡng lân tương phù” hai bên hàng xóm phù trợ.
8). Lân phương xấu là “lưỡng lân tương vũ, hai bên hàng xóm mưu hại.
9). Cả bốn cung cùng tốt là “ Thiên tường vân tập” mây ngũ sắc kéo về chầu.
10). Cả bốn cung cùng xấu là “tứ diện sở ca” bị vây tứ phía không lối thoát.
Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau:
A. Thành phá tứ pháp:
Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp:
- Khoa Quyền Lộc Quí thì kể như cách cục thành, đáng phê mấy chữ “giao long đắc vận vũ” (con rồng gặp mây nước).
- Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh, Dương Đà thì kể như phá cách loại “miêu nhi bất tú” (chỉ nẩy mầm mà mầm không xanh tốt).
- Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi “bạch khuê hữu điềm” (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ).
Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thì kể là cách chưa thành nhưng không bị phá, chờ xem hạn ra sao giống như “hỗn kim phác ngọc” (vàng còn lẫn các khoáng chất tạp nhạp, ngọc chưa được lấy ra khỏi đá).
B. Cửu khí tứ pháp:
Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu:
- Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa “cửu hạn phùng cam vũ”.
- Gặp Hỏa Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo làm gì được “hử mộc nan điêu”.
- Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà “thực kê lặc”.
- Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách “thủ tàu bão khuyết” nấn ná đợi thời.
CHƯ TINH VẤN ĐÁP LUẬN
Các sao trong Tử Vi đẩu số chia làm 3 loại: Thiện cát, hung ác, và hoà giải. Tuy nhiên, đừng quên rằng sự sắp xếp vị trí của sao trong lá số mới quan trọng về cát hung chứ không phải chỉ căn cứ vào bản chất cố hữu của từng sao vì như đã nói ở trên dịch lý là biến, biến cát thành hung, hung thành cát tùy theo mỗi sao ở miếu hay hãm địa.
Sách có câu: “Cát tinh nhập miếu tắc vi cát, hung tinh thất địa tắt vi hung” là nghĩa vậy. Tất sẽ có người thắc mắc hỏi: “Nếu phải chờ miếu hãm rồi mới định cát hung, rồi hung biến cát, cát biến hung thì còn phân định sao thiện cát, hung ác làm gì cho rắc rối?”.
Người xưa giảng rằng: “Bản chất cố hữu của sao rất cần, nếu ta luận nó qua quan niệm “tính mệnh” tính thế nào, mệnh sẽ do tính mà thành. Người có nhiều hung tinh mà vinh hiển thường vất vả, gian nan. Người có nhiều cát tinh thường đến với vinh hiển dễ dãi hơn, từ từ và chắc chắn, trong khi hung tinh đắc cách phát dã như lôi, lên như sấm sét thật đấy nhưng cũng phải vượt nhiều hiểm nguy.
Xét vị trí xong rồi, điểm quan trọng thứ hai là tìm hiểu những sao bạn đi cặp với sao chủ. Bạn hư chủ hỏng.
Về khả năng hoá giải cả sao hung lẫn sao cát đều có. Nhưng sao cát thường ở vai trò này nhiều hơn sao hung. Một khi sao hung đã được giao phó nhiệm vụ hoá giải, nó sẽ thi hành triệt để hơn sao cát.
Do những lẽ kể trên, khi luận về các sao phải lưu ý nhiều mặt chỉ sơ một ly sẽ sai đi một dặm.
Tử Vi khác với Tử Bình, ở chỗ cái lý nó tản mạn không có nguyên tắc nhất định, dĩ nhiên, nếu bây giờ được ông Hi Di Trần Đoàn mà nói chuyện trực tiếp thì nguyên tắc nhất định kia tất phải có. Chỉ vì nó tam sao thất bản mất mát hay bị bí truyền nên mất đi đó thôi. Bởi thế xem Tử Bình chỉ cần thuộc lý ngũ hành cho chắc rồi cứ thế luận ra.
Còn xem Tử Vi thì lý ngũ hành không tìm thấy mấu chốt vững chắc để làm cơ sở luận bàn cho nên phải thuộc từng sao, từng cung, sao nào ở chỗ nào, nếu hãm, đắc địa, bất đắc địa để hạ đoán.
Ví dụ: trong chương “Đẩu cốt số tủy phú” quyển I của Tử Vi đẩu số toàn thư có câu: “Tham Vũ mộ trung cư, tam thập tải phát phúc” nghĩa là: Sao Tham lang, Vũ khúc đóng tại mộ địa (Thìn Tuất Sửu Mùi) ở mệnh cung thì ngoài ba mươi tuổi mới phát.
Rồi ở dưới lại thấy có câu giảng rằng:
“Tham vũ bất phát thiếu niên nhân” (Sao Tham Vũ đi đôi, tuổi thiếu niên không phát được).
Câu phú trên đây dùng lý ngũ hành âm dương nào mà giảng nếu không nắm được cái nguyên lý ngũ hành đã mang ra áp dụng riêng cho khoa này. Mà cái nguyên lý ấy cho đến nay vẫn chưa thấy ai làm sách giảng ra, sở dĩ như vậy là vì nguồn gốc của nó bị thất lạc rồi. Rút cuộc đoán số trước sau Tử Vi chỉ có một chỗ bám vững chắc nhất là các câu phú và những định lý làm sẵn. Có thể ví như định lý tất cả mọi vật đều rơi xuống mà không có lời giảng nguyên nhân rơi xuống của mọi vật là sức hút của trái đất.
Dưới đây là tính chất của các sao cùng các cung miếu hãm của mỗi sao ghi trong các chương “Chư tinh vấn đáp luận”.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác |
1. Bàn chân nhỏ nhưng dày
Trong nhân tướng học, tướng bàn chân nhỏ nhắn nhưng đầy đặn là nét quý tướng. Người có kiểu chân này, đặc biệt là nữ giới, gặp khá nhiều may mắn trong cuộc sống vì đi tới đâu cũng được quý nhân phù trợ.
Tài vận của người này cũng dồi dào, đời sống vật chất đầy đủ, không lo thiếu tiền xài. Công danh, sự nghiệp cũng thành công ở mức nhất định.
Ý nghĩa chung
Hồ điệp (Bướm) tượng trưng cho vẻ đẹp mỹ lệ, hạnh phúc, tự do, trường thọ, thành công.
Hồ điệp có dáng vẻ và màu sắc được mọi người yêu thích. Hồ điệp là loài côn trùng có đôi cánh đẹp, được mệnh danh là “đóa hoa biết bay”. Hồ điệp song phi, biểu thị sự hướng về, theo đuổi tình yêu tự do, hơn nữa hồ điệp là loài chung thủy, cả đời chỉ có 1 bạn đời, là một loài trung trinh trong giới côn trùng. Do đó hồ điệp tượng trưng cho sự mỹ lệ, hạnh phúc và tự do.
Chữ “Điệp” trong từ Hồ điệp gần âm với chữ “Điệt” có nghĩa trường thọ, do đó hồ điệp tượng trưng cho sự trường thọ.
Hồ điệp là được sinh ra từ sâu kén, hàm chứa ý vị thăng hoa từ xấu đến đẹp, do đó hồ điệp cũng tượng trưng cho sự thành công.
Cấm kị 1: Dao kéo đặt tùy tiện trong phòng ngủ
Dao kéo đặt tùy tiện trong phòng ngủ không có lợi cho tình cảm vợ chồng và việc sinh con đẻ cái, khiến vợ chồng xa cách, thường xuyên bất hòa. Dao kéo có khả năng cắt đứt tình duyên, do vậy nhiều người còn có thói quen đặt kéo dưới đầu giường để cắt đứt những tình cảm muộn phiền trong cuộc sống. Tuy nhiên, cách làm này hoàn toàn sai lầm, không những nguy hiểm, mà còn ảnh hưởng tới việc an thai của phụ nữ. Dao kéo tốt nhất nên cất gọn gàng trong ngăn kéo.
Cấm kị 2: Dao kéo vứt lộn xộn trong phòng bếp
Dao kéo vứt lộn xộn trong phòng bếp không có lợi cho sức khỏe và tài vận của người trong nhà. Phòng bếp là nơi dùng bữa của cả nhà, nếu nó không sạch sẽ, sẽ gây hại cho sức khỏe của các thành viên trong gia đình. Dao kéo lại mang Sát, do vậy cần thận trọng khi cất giữa. Tốt nhất sau khi dùng, nên cất gọn chúng vào trong ngăn kéo hoặc tủ đồ. Nên chú ý không nên treo dao kéo trên kệ hoặc ngoài ban công, do các đồ này nếu để lộ thiên sẽ hao tài tốn của.
Thay vì treo dao kéo trên kệ, hãy cất gọn gàng vào trong ngăn kéo.
Cấm kị 3: Dao kéo vứt lộn xộn trong phòng khách
Dao kéo vứt lộn xộn trong phòng khách không có lợi cho sự nghiệp, khiến bạn luôn gặp rủi ro. Dao đặt trong phòng khách thông thường là dao gọt hoa quả hoặc các loại dao kiếm trang trí. Phòng khách là nơi tiếp đón khách, nếu không đặt cẩn thận sẽ ảnh hưởng tới các mối quan hệ xã hội và sự nghiệp của bạn. Do vậy, khi dùng xong, không nên trực tiếp đặt trong tủ, mà nên mặc cho chúng một lớp áo rồi đặt gọn gàng trong tủ, như vậy vừa tiện vừa gọn gàng.
Cấm kị 4: Dao kéo vứt tùy tiện trong túi xách
Dao kéo đặt trong túi xách đem đi chơi sẽ ảnh hưởng tới vận thế của bạn. Nhiều cô gái thích đựng bấm móng tay, lưỡi dao tỉa lông mày... trong túi xách đem theo mình để có thể làm đẹp bất cứ lúc nào, nhưng nên chú ý không nên vứt tùy tiện trong túi xách, mà nên đựng trong một chiếc hộp chuyên dụng, vừa gọn gàng, vừa an toàn.
Cấm kị 5: Dao kéo đặt ở phía Bắc, phía tây và phía Đông ngôi nhà
Nếu dao kéo đặt ở những vị trí này trong nhà, bạn đã phạm phải sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc và Tứ Phi, không có lợi cho vận thế và sức khỏe. Đặc biệt là các bạn phạm sao Thái Tuế, vận khí vốn đã không tốt, nay sức khỏe vô cùng bất lợi, các mối quan hệ xã hội trở nên căng thẳng hơn.
Cấm kị 6: Dao kéo chĩa vào nơi có người
Dao kéo không nên đặt chĩa vào người khác, điều này là một phép lịch sự tối thiểu. Khi đưa dao cho người khác, đầu nhọn hướng về phía mình, đưa cho người khác đầu chuôi. Những cử chỉ nhỏ này rất quan trọng, nếu bình thường không chú trọng, mối quan hệ xã hội của bạn sẽ bị ảnh hưởng.
Khi đưa dao cho người khác, đầu nhọn hướng về phía mình, đưa cho người khác đầu chuôi
1) Khoa Tử – Vi bị Âm Dương hóa và Ngũ hành hóa
a) Về tuổi có tuổi Âm, tuổi Dương. Vì tuổi gồm 2 yếu tố Can và Chi, nên Can, Chi cũng bị Âm Dương hóa. Chẳng hạn như:
- Dương gồm 5 can: Giáp, Bính, Mậu, Danh, Nhâm, và 6 chi Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất.
- Âm gồm có 5 can: Ất, Đinh, Kỷ, Tây, Quý, và 6 chi: Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi.
Mỗi tuổi có một hành riêng như Giáp Tý, Ất Sửu thuộc hành Kim, Bính Dần, Đinh Mão thuộc hành Hỏa v.v…
b) Ngày, tháng, giờ cũng có can, chi riêng. Ví dụ sinh vào ngày 8 tháng 8 giờ Dần thì là ngày Tân Sửu, tháng Mậu Thân, giờ Canh Dần. Như vậy, ngày sinh này cũng có cả Âm Dương Ngũ Hành pha trộn nhau.
c) Cục cũng có hành riêng. Vì mỗi hành trấn ngự một số cung và theo một phương hướng riêng, nên hành của cục cũng bị qui tắc ngũ hành chi phối.
d) Mệnh của mỗi người đóng một cung được Âm Dương hóa. Ví dụ ở cung Dần là Dương, Mão là Âm, cả 2 thuộc Mộc.
e) Chính tinh và Trợ tinh, mỗi sao có một hành riêng. Ví dụ cung Mệnh ở Dần (Dương Mộc) có Liêm Trinh (Hỏa) tọa thủ thì sẽ gặp sự chi phố của cung Dương Mộc đối với sao Hỏa này.
2) Tương quan quá ư phức tạp giữa các đối tượng của hệ thống Âm Dương Ngũ Hành
Sự kiện năm tháng ngày giờ, can, chi, mệnh, cục, chính tinh, phụ tinh và các cung bị Âm Dương và Ngũ hành chi phối đồng loạt đã gây lên một hệ thống tương quan phức tạp giữa các đối tượng. Điều này làm cho người giải đoán Tử – Vi lâm vào một mê hồn trận hầu như không có lối thoát.
Thật vậy, người ta thấy ít nhất phải có sự cân nhắc giữa các chiều hướng chi phối sau:
- Sự chi phối giữa Bản Mệnh và Cục về mặt ngũ hành.
- Sự chi phối giữa tuổi Dương, tuổi Âm đối với Mệnh ở Dương hay Âm cung.
- Sự chi phối giữa cung an Mệnh với chính tinh thủ Mệnh. Trong trường hợp chính tinh thủ Mệnh có 2 ngôi khác hành nhau, sự chi phối càng thêm phức tạp.
- Sự chi phố giữa chính tinh thủ mệnh và hành của Bản Mệnh.
- Sự chi phối giữa chính tinh và phụ tinh thủ Mệnh với hành của cung an Mệnh.
Đó là chưa kể các sự chi phối của cung Phúc Đức. Cung này được xem như rất quan trọng vì có hiệu lực chi phối trên 2 cung khác.
Nếu phải quan tâm cân nhắc tất cả các mối liên hệ chằng chịt đó, sự luận đoán chắc chắn sẽ rơi vào chỗ võ đoán, vì không có một nguyên tắc nào ưu thắng: tất cả đều có tầm quan trọng hầu như ngang nhau. Mỗi yếu tố chi phối là hàm số của yếu tố khác. Thành thử, ta có một hệ thống hàm số vô cùng phức tạp đến nỗi khó lòng tìm được một phương trình chung. Điều này làm cho khoa Tử – Vi tối nghĩa, khó hiểu, làm giảm đi giá trị của môn học này. Cho đến nay, chưa thấy sách vở nào khai phá được phương trình hàm số bách biến đó. Nếu chỉ tìm được một phương trình tổng quát thì sự luận đoán không cụ thể, làm giảm giá trị khoa bói toán.
Tuy nhiên, dù không tìm được phương trình bách biến đó, ta vẫn có thể suy diễn được vài nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc luận đoán.
a) Quan trọng nhất là qui luật Âm Dương
Theo đúng lý thuyết thì 2 khí Âm Dương là động cơ nguyên thủy phát sinh ra 4 mùa và 5 hành. Luật biến hóa của Âm Dương thế thất phải quan trọng hơn luật biến hóa của ngũ hành. Nói khác đi, luật biến hóa của ngũ hành là luật nhỏ, bị đóng khung trong qui luật Âm Dương. Điểm này có nhiều hệ luận trong khoa Tử – Vi.
- Mệnh ai tương hợp với luật Âm Dương thì lợi lộc hơn. Chẳng hạn con trai có tuổi Dương, mệnh đóng ở cung Dương, sinh vào ban ngày (thời gian ảnh hưởng của Thái Dương), được các dương tinh tọa thủ, sẽ có nhiều tương hợp thuận lý, lợi cho lá số.
- Hai sao Thái Âm và Thái Dương càng sáng sủa thì càng đắc cách. Thái Dương biểu tượng cho bên nội, cho cha, cho chồng, Thái Âm biểu tượng cho bên ngoại, cho mẹ, cho vợ. Hai sao Nhật Nguyệt mà sáng sủa thì nguyên lý Âm Dương tương thuận: đương số sẽ ảnh hưởng được dương phúc và âm phúc của 2 giòng họ, của cha và mẹ, của vợ và chồng, chưa kể ảnh hưởng tốt đẹp đến con trai, con gái. Như vậy, tác dụng của Âm Dương có tính cách di truyền khá mạnh và khá rộng. Vì vậy, quan niệm người xưa cho rằng qui tắc Âm Dương mà thuận lợi thì nhân sinh quan của đương số sẽ hương vượng. Như thế, ý niệm phúc đức nhân sinh liên hệ chặt chẽ với ý niệm tương thuận của nguyên lý Âm Dương của vũ trụ. Nhân sinh quan và vũ trụ quan liên đới mật thiết với nhau. Phần phúc đức của con người gắn liền với sự tương hợp của yếu tố Âm Dương trong vũ trụ. Có lẽ hàm số hạnh phúc nhân loại tùy thuộc vào biến số hợp vị của nguyên lý vũ trụ này.
b) Qui luật ngũ hành quan trọng nhì
Ngũ Hành là hậu quả của sự tác hóa Âm Dương, giống như cái ngọn phát sinh từ cái gốc. Do đó, qui luật ngũ hành tất phải kém quan trọng hơn qui luật Âm Dương.
Sự đi đôi của Âm Dương và Ngũ Hành được thể hiện trong hầu hết các sao, nhất là chính tinh. Ví dụ như Thái Dương là Dương tinh thuộc hành Hỏa, Phá quân là Âm tinh thuộc hành thủy, Văn Xương là Dương tinh hành Kim.
Nhưng, có một số lớn phụ tinh có ngũ hành mà lại thiếu Âm Dương. Ví dụ như Địa không, Địa kiếp không có Âm Dương mà chỉ có hành Hỏa. Chưa có tác giả nào cắt nghĩa được sự thiếu sót này. Chính sự thiếu sót này đã mâu thuẫn với lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành song đôi. Thật vậy, Ngũ Hành không tự sinh mà phải thoát thai từ Âm Dương, cho nên Ngũ Hành là phải có Âm Dương đi kèm. Không hiểu tại sao Trần Đoàn lại bỏ sót việc Âm Dương hóa một phụ tinh. Phải chăng, các tác giả hậu sinh đã bỏ sót?
Dù sao sự thiếu sót đó làm cho lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành chưa được hoàn bị. Vấn đề đặt ra là, về mặt thực dụng, sự thiếu sót đó có di lụy nào cho việc giải đoán?
Trước hết, ta thiếu yếu tố để cân nhắc tinh vi.
Thứ đến mà ta không đối chiếu được 2 loại sao có và không có Âm Dương tinh. Chung cuộc chỉ còn các xét các sao về mặt ngũ hành mà thôi, tức là phải bỏ gốc xét ngọn, dù biết đó là một thiếu sót.
Riêng về mặt ngũ hành, qui tắc chi phối giữa các sao vẫn là qui tắc lý thuyết. Qui tắc này gồm 5 điểm:
- Hai Hành kế tiếp nhau thì tương sinh.
Thứ tự kế tiếp là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Như vậy, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy và Thủy sinh Mộc.
- Hai hành đứng cách nhau một hành thì tương khắc.
Như thế Mộc khắc Thổ, Hỏa khắc Kim, Thổ khắc Thủy, Kim khắc Mộc.
- Sự tương sinh hay tương khắc chỉ theo một chiều.*
Cụ thể là Mộc sinh Hỏa chớ hỏa không sinh Mộc, Kim khắc Mộc chứ Mộc chẳng khắc được Kim. Không khắc được dĩ nhiên không có nghĩa là sinh. Trong việc sinh khắc, co một hành tích cực (sinh, khắc) và một hành tiêu cực (được sinh, bị khắc).
- Hành sinh tiêu cực được lợi hơn
Mộc sinh Hỏa thì Hỏa được phù trợ, trong khi Mộc bị hao tán.
- Hành khắc tích cực ưu thế hơn
Kim khắc Mộc vị tất Kim phải ưu thắng, Mộc bị thiệt.
Nói theo nhãn quan Tử – Vi thì ngũ hành các sao càng tương sinh nhiều thì càng lợi cho người đó. Ngược lại, nếu có nhiều tương khắc thì càng bất lợi.
c) Tương thuận, tương nghịch giữa Âm Dương và Ngũ Hành
Qui luật sinh khắc giữa các sao về Âm Dương Ngũ Hành rất phức tạp. Càng có nhiều sao can dự, càng rắc rối. Sự sinh khắc qua lại giữa nhiều sao chắc chắn đưa đến một mê hồn trận cho người giải đoán, nhất là khi chúng ta chưa tìm được công thức phức tạp về sinh khắc.
Đây là một sự phức tạp cố hữu, không thể giản lược. Mọi nỗ lực giản dị hóa đều bao hàm nhiều sai số. Cho nên, tuy ta không tìm được công thức sinh khắc chung, chúng ta cũng sẽ không thể giản dị hóa qui luật sinh khắc. Nhưng, có thể có 4 trường hợp sinh khắc tổng quát, giản dị nhất giữa 2 sao, về mặt Âm Dương lẫn Ngũ Hành. Đó là các trường hợp:
- Thuận Âm Dương, thuận Ngũ Hành.
- Nghịch Âm Dương, nghịch Ngũ Hành.
- Thuận Âm Dương, nghịch Ngũ Hành.
- Nghịch Âm Dương, thuận Ngũ Hành.
Nếu chỉ căn cứ vào đó mà đánh giá hay dở, thì trường hợp đầu tiên là lý tưởng nhất. Hai trường hợp sau lợi hại tương đương. Nhưng tác giả cho rằng trường hợp thứ 3 (thuận Âm Dương, nghịch Ngũ Hành) tương đối tốt hơn trường hợp chót. Dự đánh giá đó căn cứ vào thứ tự ưu tiên chi phối của Âm Dương trên ưu tiên chi phối của Ngũ Hành.
Tác giả không tìm được công thức cho 3 sao trở lên.
d) Ngũ hành của chính tinh với phụ tinh
Tử – Vi học chi thành chính tinh và phụ tinh. Tính chất chính hay phụ, tự nó quyết định thứ tự quan trọng rồi: chính tinh phải xem như quan trọng hơn phụ tinh.
Vì vậy, về mặt ngũ hành, theo thiển ý hành của chính tinh phải trội yếu hơn hành của phụ tinh. Trong trường hợp có tương khắc, phải đánh giá sự hay dở theo thứ tự quan trọng đó.
Nếu 1 phụ tinh khắc hành với chính tinh, sự khắc chế này không quan trọng lắm. Nhưng, nếu 1 trong cung có quá nhiều phụ tinh khắc hành với chính tinh, thì chính diệu này bị nghịch cảnh lớn. Rất khó xác định số lượng phụ tinh trong trường hợp này.
e) Ngũ hành của các cung và sao
Cung là môi trường sinh trưởng của sao. Vì vậy, hành của cung ảnh hưởng trực tiếp đến hành của sao. Theo thiển ý, hành cung quan trọng hơn hành sao, vì làm cho hành sao tăng hay giảm giá trị. Chẳng hạn sao Hỏa đóng ở cung Thủy sẽ mất nhiều tác dụng. Ngược lại, sao Hỏa đóng cung Mộc sẽ thịnh hơn. Giữa cung và sao chỉ có tác dụng bị ảnh hưởng: không có sự chi phối ngược lại.
Nếu đi tìm một hình ảnh, thì cung ví như đất, sao ví như cây cối. Đất xấu làm cây xấy, đất tốt sinh cây tốt.
Vì vậy, hành của cung rất quan trọng và quan trọng hơn hành sao vì chi phối vào hành sao theo một chiều nhất định. Việc luận đoán Tử – Vi không nên bỏ qua yếu tố này.
Ngũ hành của cung được quy định như sau:
- Cung Mộc ở 2 ô Dần và Mão.
- Cung Hỏa ở 2 ô Tỵ và Ngọ.
- Cung Kim ở 2 ô Thân và Dậu.
- Cung Thủy ở 2 ô Hợi và Tý.
- Cung Thổ ở 4 ô Thìn, Tuất, Sửu và Mùi.
Chỉ riêng Thổ chiếm đến 4 cung và xen kẽ với các cung khác Hành.
f) Vị trí quan trọng của cung hành Thổ
Trong khi mỗi hành Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, Thổ chiếm 2 cung liền nhau thì hành Thổ chiếm 4 cung, mà vị trí ở xen kẽ 2 cung khác hành.
Sự bố trí này dường như bắt nguồn từ quan niệm cho rằng đất ở rải rắc khắp nơi và chứa đựng 4 nguyên hành khác. Theo Đổng Trọng Thư thì “Thổ ở giữa gọi là Thiên nhuận. Thổ là chân tay của Trời, đức là Thổ tươi tốt không thể dựa vào công việc riêng của một mùa mà mệnh danh cho Thổ được: cho nên có ngũ hành mà chỉ có Tứ Thời là vì Thổ kiêm cả Từ Thời”.
Bốn cung Thổ được gọi là 4 cung Mộ (hay Tứ Mô hoặc Tứ Quí) đệm ở giữa 2 hành tương sinh. Theo Nguyễn Mạnh Bào thì trong khoảng 2 hành sinh nhau lại có Tứ Quí thuộc Thổ, tức con đệm ở trong để dung hòa đều đặn, tránh những gì quá sức động mà có hại cho sự sinh tồn”.
Có tác giả dựa vào đó mà cho rằng người nào cung Mệnh an tại Tứ mộ là có thiên phước, được dành cho chỗ vừa ý, lại có tính đảm đang, thích ứng được với nhiều hoàn cảnh. Tuy nhiên, nhận định hãy còn nhiều phiến diện và tổng quát, chưa hẳn có giá trị quyết định.
g) Tương quan giữa Mệnh, chính tinh thú Mệnh và cung an Mệnh
Trên mặt ngũ hành phải đặc biệt quan tâm đến tương quan giữa 3 yếu tố quan trọng của lá số là Bản Mệnh, chính tinh thủ mệnh và cung an Mệnh. Trong 3 yếu tố này, Bản Mệnh bao giờ cũng quan trọng hơn hết.
Nếu Bản Mệnh được hưởng sự phù sinh càng nhiều thì càng đắc lợi. Qui tắc phù sinh lý tưởng nhất là:
Cung an Mệnh sinh được chính tinh thủ Mệnh, chính tinh thủ Mệnh lại sinh được Bản Mệnh. Ví dụ như cung Mệnh an tại Mão thuộc Mộc, có Thái Dương thuộc Hỏa tọa thủ, Bản Mệnh lại thuộc Thổ. Nhờ vậy, Thổ mệnh được phù sinh ở 2 hệ cấp: cung an Mệnh phù sinh chính tinh, rồi chính tinh phù sinh Bản Mệnh.
Nếu có 1 tương khắc thì kém tốt, nếu có đến 2 cấp khắc thì xấu cho Bản Mệnh. Ngoài ra, nếu Bản Mệnh sinh chính tinh hay khắc chính tinh, hoặc khắc cung an Mệnh thì bất lợi cho Mệnh.
h) Tương quan giữa Bản Mệnh và Cục
Như đã trình bày Mệnh phải được Cục phù sinh thì mới tốt, bằng không, nếu Mệnh sinh Cục, nhất là Cục khắc Mệnh thì xấu, cần được cứu gỡ lại bằng Phúc tốt mới quân bình được.
Tóm lại, về ngũ hành trong Tử – Vi, một hàm số Bản Mệnh chỉ tốt khi gặp nhiều tương thuận về Âm Dương Ngũ Hành. Càng có nhiều trục trặc, độ số tốt càng giảm đi.
i) Ngũ hành của 10 can và 12 chi
Tuổi hay năm sinh của người Đông Phương được xem như sự kết hợp giữa 2 yếu tố can và chi.
Có tất cả 10 can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
Có tất cả 12 chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Như đã trình bày 10 can và 12 chi cũng bị âm dương hóa và ngũ hành hóa.
Về can, thì sự phân định Âm Dương và Ngũ Hành như sau:
Vậy, trên mặt Âm Dương Ngũ Hành của can, có sự tế phân chi tiết rõ rệt. Có tuổi Dương Mộc, có tuổi Âm Mộc, cũng có tuổi Dương Thủy và Âm Thủy. Có tác giả căn cứ vào đó mà tìm thêm ý nghĩa uẩn khúc của can trong tuổi. Chẳng hạn như cho rằng tuổi Bính là Dương Hỏa thì người tính nóng như lửa, dễ giận, dễ nguội… Nhưng, thiết tưởng lối suy diễn này chỉ vì căn cứ trên 1 yếu tố duy nhất nên ít giá trị.
Về 12 chi, ngoài sự phân định Âm Dương, Ngũ Hành khoa Tử – Vi còn định cung và định hướng, cũng như cho cả màu sắc tương ứng với ngũ hành đồng thời vị trí hóa trong hệ đồ bát quái.
Sự phân định trên đây rất đầy đủ. Nhưng, đáng tiếc là khoa Tử – Vi không nêu rõ qui tắc chi phối tinh vi đối với hàm số Âm Dương Ngũ Hành phúc tạp của Can Chi. Ví dụ người tuổi Giáp (Dương Hỏa), Tý (Dương Thủy) sẽ có vận số như thế nào căn cứ trên sự kết hợp Dương Hỏa với Dương Thủy? Tác dụng của việc định hướng ra sao đối với vận số? Quẻ Khảm có nghĩa gì đối với đương sự?
Đó là những ẩn số và những mâu thuẫn chưa có giải đáp. Trên bảng này chỉ có phương hướng là có ít nhiều tác dụng cắt nghĩa được. Như sao Thái Dung sẽ thuận vị ở các cung hướng Đông, sao Nam Đẩu lợi địa ở cung hướng Nam, Bắc đẩu ở hướng Bắc.
Có nhiều chỉ dấu để phỏng đoán cái nghèo nói chung:
1. Cách nghèo về điền trạch: do cung Điền mô tả qua những sao dưới đây:
- Phá Quân ở Dần, Thân
- Tử Vi, Thất Sát đồng cung
- Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung
- Địa Không, Địa Kiếp hãm địa: đóng hay chiếu cung Điền, Kiếp Không có nghĩa: không có của cải, nhà đất; bị chiếm hữu nhà đất; bị phá hủy nhà đất; bị tai họa lớn vì điền sản. Kiếp Không hãm địa báo hiệu một đại họa bất khả kháng, có hậu quả lớn lao và lâu dài cho sở hữu chủ. Họa đến một cách hung hãn và bất ngờ, không lường trước được, không thể tránh khỏi. Hai sao này là một nghiệp chướng thật sự về mặt điền sản.
- Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh hãm: nếu hãm địa và hội tụ ở Điền, bốn sao này hung hiểm không kém: chỉ sự phá sản, tai họa về điền sản (họa về lửa nếu gặp Hỏa Linh), sự cực nhọc lúc mua sắm, lúc gìn giữ, số lượng tài sản ít oi, phẩm chất nhà đất tầm thường, việc mất nhiều mối lợi về điền sản.
- Tuần, Triệt ở Điền: chẳng những phải tự lực mua sắm mà nhà đất còn khó tạo hay chậm có hoặc có rồi bị phá, hao, sa sút. Nếu cả hai đồng cung, triển vọng vô sản hoặc phá sản càng rõ rệt. Ai có di sản mà cung Điền có Triệt thì dễ bị hao tán sớm và mạnh, nếu có Tuần thì di sản ít mới khỏi hao, còn nhiều thì hao dần. Ai tự lập mà cung điền có Triệt thì chậm của, có thể từ 45 tuổi trở đi. Gặp Triệt, thời gian thủ đắc chậm thêm một thập niên nữa. Nếu gặp Tuần, điền sản tự lập hoặc ít, nếu có nhiều thì hao tán tuần tự, mặc dù của cải có thể được thủ đắc sớm, vào tuổi lập thân.
Có hai biệt lệ đối với cung Điền vô chính diệu:
2. Cách nghèo về tiền bạc: biểu lộ ở cung Tài và ba cung hội chiếu Tài, cùng với cung nhị hợp với Tài nhưng cung Tài có ý nghĩa trực tiếp.
- Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung
- Tử Vi, Thất Sát: kiếm tiền mau lẹ
3. Những sao hao tiền bạc:
Đại, Tiểu Hao hãm địa: rất hoang phí, ham vui, tiêu pha không tiếc tiền, dù không tiền cũng không biết lo kiếm tiền, do đó thường túng thiếu, nợ nần. Tâm lý của nhị Hao rất phù du, lãng tử, chỉ biết có hiện tại, không có chí làm giàu, không có khả năng kiếm tiền, chỉ có tài ném tiền qua cửa sổ cho thỏa thích, cho dù không muốn tiêu cũng thường gặp dịp phải chi. Cung Tài đại kỵ hai sao này, dù có được tài tinh đồng cung thì mức chi vẫn nhiều hơn mức thu.
Văn Xương, Văn Khúc: đôi khi có nghĩa mê cờ bạc, một trong những nguyên nhân hao tán tài lộc. Đôi khi, người có Xương Khúc ở Tài sống bằng nghề cờ bạc.
Điếu Khách: cờ bạc đều đều, có thể là người sống về nghề đổ bác hoặc chủ sòng bạc.
Đại, Tiểu Hao, Hỏa hay Linh Tinh: Hỏa hay Linh là bệnh nghiện. Nếu Hỏa, Linh không đi với nhị Hao, có lẽ bệnh nghiện không nặng và không tốn hao lắm.
Đại, Tiểu Hao, Đào, Hồng: đây là bệnh nghiện gái/kép, hảo ngọt mà dại gái/trai, bị tốn tiền vì tình nhân bòn của. Đào, Hồng, Song Hao không cần đóng ở Tài, có thể đóng ở Mệnh, Quan, Phúc cũng vẫn có ý nghĩa nói trên. Duy Đào Hồng đi với Hóa Lộc hay Lộc Tồn thì nhờ phái đẹp hoặc nhờ sắc đẹp mà trở nên giàu có.
Phục Binh: đóng hay chiếu cung Tài, Phục Binh dễ bị mất trộm, thường bị ăn chặn, ăn gian, lường gạt, hoặc mất bất cứ của cải gì. Trong lá số gian phi, Phục Binh là chính mình đi trộm, đi giựt, chính mình là thủ phạm hay tòng phạm. Đóng ở cung Nô thì tôi tớ trong nhà lấy đồ đạc của chủ, bạn bè quỵt tiền mình.
Thiên Hình: ở một cung Tài đẹp không có lợi vì chỉ tụng ngục, hình tù vì nguyên do tiền bạc, cũng có thể bị bắt rồi phải hao tiền chạy chữa. Nếu cung Tài xấu, Thiên Hình có thể chỉ sự trộm cắp, lường gạt, cướp giật mà bị tù tội. Nếu có Song Hao hãm địa thì có tái phạm ít ra hai lần. Thiên Hình đồng cung với Thiên Tướng (cho dù có đắc địa đi nữa) ở Tài cũng xác nhận tai họa vì tiền khó tránh. Nếu Hình đi chung với Không Kiếp thì bị cướp đánh đập khảo của, bắt giữ để tống tiền. Nếu cung Tài xấu, thì chính đương sự là kẻ phạm pháp. Nếu đồng cung với Liêm Tham ở Tỵ Hợi, tù tội khó tránh và phải vướng mắc nhiều lần.
Thiên Hình, Lực Sỹ: ở cung Tài xấu, Hình Lực có nghĩa bần cùng sinh đạo tặc. Lực Sỹ chỉ sức mạnh cho nên thường phạm pháp bằng bạo lực và bằng dụng cụ nhà nghề như cạy cửa, đào tường, khoét vách để lấy trộm. Vì có Hình, ắt có lần bị bắt quả tang, phải vướng lao tù. Cũng vì có Lực, phạm nhân có thói quen thoát ngục bằng bạo lực. ở cung Tài xấu, hai sao này xác nhận thêm sự nghèo khó.
Hóa Kỵ: chỉ: hao tài, tán của nhưng không mạnh bằng Song Hao; bị dị nghị, đàm tiếu, tai tiếng trong việc kiếm tiền; bị cạnh tranh, đố kỵ, ghen ghét vì tiền bạc. Ngoài ra, nếu Mệnh xấu có Kỵ mà giáp Kình Đà thì cũng nghèo, lang thang tìm miếng ăn rất khổ cực.
Quan Phù, Quan Phủ, Thái Tuế: trừ phi đương số hành nghề luật sư, thẩm phán, bằng không, ba sao này chỉ sự kiện tụng vì tiền bạc, sự hao tài vì thưa kiện, sự tranh chấp tài sản giữa anh em hay với người ngoài, kéo nhau đến tòa án. Mặt khác, Quan Phù và Quan Phủ trong cung cách gian phi còn chỉ sự phản bội, sự lường gạt cụ thể như mượn tiền không trả, giật hụi, chia "chiến lợi phẩm" không sòng phẳng thường đi đến cãi vã, kiện thưa, thanh toán, trả thù. Ba sao này nếu đi chung với Đà La, Hóa Kỵ: càng nhấn mạnh cường độ của sự tranh tụng.
Liêm, Tham đồng cung: báo hiệu sự kiện thua vì tiền, có thể đi đến ngục tù.
Địa Không, Địa Kiếp hãm địa: nghèo túng, nợ nần cực khổ, thậm chí có thể ăn mày, nếu có chút của cũng tán tài, sự mất của xảy ra bất ngờ, mau chóng, liên quan đến số tiền lớn và thường đi liền với bạo hành như đánh đập, cướp giật, phá nhà, hoặc dùng thủ đoạn phi pháp như lường gạt, sang đoạt, thậm chí có khi giết người. Tóm lại, Kiếp Không có hai nghĩa chính: hoặc là vô sản, hoặc là bị họa vì tiền bạc. Đi chung với Tướng Quân, Phục Binh hay Tả, Hữu thì có thêm tòng phạm. Kiếp Không hãm địa ở cung Tài của một lá số gian hùng có nghĩa là chính mình đi cướp của, dùng thủ đoạn ám muội và táo bạo để tạo ra tiền. Cách này thường đi liền với cách ăn mày trong bối cảnh các cung Phúc, Mệnh, Thân cùng xấu.
Kình, Đà, Hỏa, Linh hãm địa: càng hội nhiều vào cung Tài thì càng nghèo khó. Các sao này thường chỉ con người rất bủn xỉn, đê tiện, chỉ biết có đồng tiền và hành động tráo trở để xoay tiền. Nếu Mệnh xấu mà giáp Kình, Đà thì cũng rất nghèo, có khi phải ăn xin.
Tuần, Triệt ở cung Tài: như Tuần Triệt ở cung Điền.
Thiên Không: phá tán, không cầm của được nhiều, không giữ của được lâu dài. Những nguyên nhân hao tán thường là bất khả kháng hoặc là hậu quả của một thủ đoạn thủ đắc tiền bạc về trước.
Thiên Giải: ở Tài Điền thì không cầm giữ của cải được nếu ở cung Tài xấu. Nếu đi với tài tinh thì sẽ có nhiều dịp may kiếm lợi.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Những cái tên tiếng Anh đẹp cho bé gái
– Barbara: người lương thiện
– Catherine: xuất thân tôn quí, cử chỉ thanh nhã, đoan trang
– Christiana: mẫu mực, có đầu óc
– Daisy: thuần phác, nhu mì, lạc quan
– Diana: tôn quý, thân thiết, hiền hậu
– Elizabeth: đẹp xinh, cao sang kiêu sa
– Gloria: hoạt bát, năng động
– Helen: cao quý, thông minh, đoan trang
– Jane: cô gái cổ điển
Tên tiếng Anh đẹp dành cho bé trai
– Anthony: có cá tính mạnh mẽ
– Arthur: thích đọc sách
– Charles: trung thục, nhã nhặn, có chút cúng nhắc
– Dane: tóc vàng, phẩm vị tốt
– David: trí tuệ, can đảm, khôi ngô
– Dennis: thích quậy phá, hay giúp người
– George: thông minh, nhẫn nại
– Henry: thân thiết, có mưu đồ mạnh mẽ
– Jack: đáng yêu, thông minh, hiếu động
– James: khôi ngô, học rọng, đáng tin
– John: bảo thủ, trí tuệ, hiền hậu
– Mark: hóm hỉnh, thích vận động, gần gũi
– Martin: hiếu chiến, nghiêm khắc với bản thân, tinh tế
– Peter: thành thục, thẳng thắn, không giả tạo
– William: thông minh, bảo thủ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)