Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Đinh Sửu

Tử vi trọn đời người sinh ngày Đinh Sửu thấy có khả năng thuyết phục nhưng thiếu tính kiên trì, không thích hợp kinh doanh. Hôn nhân của mệnh chủ không đầm ấm,
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Đinh Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời người sinh ngày Đinh Sửu thấy có khả năng thuyết phục, logic rõ ràng nhưng thiếu tính kiên trì, không thích hợp kinh doanh. Hôn nhân của mệnh chủ không đầm ấm, đặc biệt là nữ mệnh.


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Dinh Suu hinh anh
 
Ngày Đinh Sửu có Sửu Thổ là bản khí Thực thần của Kỷ Thổ, tàng Tân Kim, có bản chủ Âm khí. Trên đường đời mệnh chủ tất gặp Dần Mộc, nên kết hợp với Nhâm Tý.
  Trụ ngày Đinh Sửu thông minh, ổn trọng, đặc biệt yêu thích tự do, dân chủ và công bằng. Bên cạnh đó, tính cách thuyết quyết đoán đã khiến họ gặp khó khăn trong cuộc sống.
Chọn cây theo phong thủy né trở ngại trong sự nghiệp
Phong thủy thư phòng có mối quan hệ mật thiết đến sự nghiệp của gia chủ và các thành viên trong gia đình. Vậy nên, các loài cây được đặt trong thư phòng luôn

Người sinh ngày Đinh Sửu có khả năng thuyết phục, suy nghĩ logic, rõ ràng tuy nhiên lại làm trước bỏ sau, thiếu tính kiên trì, chỉ quan tâm lợi ích trước mắt. Ngoài ra, mệnh chủ không thích hợp kinh doanh và đầu tư vì chắc chắn sẽ thất bại hoặc phá sản.
  Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Đinh Sửu thấy đau khổ về tình duyên, hôn nhân không đầm ấm, đặc biệt là nữ mệnh khó hòa hợp với chồng sau khi kết hôn, chịu sự cô đơn, khó đạt được lương duyên tốt.
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Dinh Suu hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Đinh Sửu thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Tý, Giáp Thìn, Giáp Dần, Ất Hợi, Ất Tỵ, Ất Mão, Bính Thân, Bính Ngọ, Bính Tý, Bính Thân, Đinh Tỵ, Đinh Hợi, Đinh Mão, Mậu Tý, Mậu Dần, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Mậu Ngọ, Kỷ Hợi, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi, Kỷ Tỵ, Canh Dần, Canh Ngọ, Canh Thìn, Canh Tuất, Canh Tý, Canh Thân, Tân Mão, Tân Tỵ, Tân Sửu, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Nhâm Thân, Quý Tỵ, Quý Mão, Quý Hợi.
Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Đinh Sửu

Ngón cái có 4 lóng thì có ý nghĩa gì?

Các nhà nhân tướng học chỉ cần dựa vào lòng bàn tay và các ngón tay cũng có thể phán đoán được tài năng và khả năng của con người. Nếu ngón tay cái có 4 lóng hay bạn có thể biết được người thân của mình có ngón tay cái có 4 lóng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các nhà nhân tướng học chỉ cần dựa vào lòng bàn tay và các ngón tay cũng có thể phán đoán được tài năng và khả năng của con người. Nếu ngón tay cái có 4 lóng hay bạn có thể biết được người thân của mình có ngón tay cái có 4 lóng. Vậy ý nghĩa của hiện tượng đó là gì? Bài viết dưới đây, ## sẽ giới thiệu tới bạn ý nghĩa của ngón cái có 4 lóng.

Ngón cái có 4 lóng thì có ý nghĩa gì?

Bạn Huyền cần hỏi: “Tất cả các các ngón tay của em đều khá dài và nhất là ngón cái có 4 lóng. Điều đó có ý nghĩa là gì ạ? Em xin cảm ơn!”

Trả lời:

Thông thường rất ít người ngón cái có 4 lóng, nhất là với bạn có 4 lóng rõ ràng. Càng rõ ràng. thì ý nghĩa của nó cũng tăng lên. Ý nghĩa của những người có 4 lóng tay là sự nổi bật, sự nổi tiếng hay sự hơn người của họ. Nói chung, họ luôn nổi bật hơn những người xung quanh. Ví dụ bạn có thể là một đầu bếp nổi tiếng, bạn có thể là một nghệ sĩ được nhiều người biết đến, hoặc cũng có thể nổi bật theo chiều hướng ngược lại. Ví dụ như bạn có thể là một học sinh cá biệt, hay một con nợ,....

Trên đây là ý nghĩa của việc bạn có ngón cái có 4 lóng tay. Để tham khảo thêm những bài viết khác, bạn có thể tìm hiểu tại đây:

Ý nghĩa của móng tay hình bán nguyệt

Đoán tính cách qua độ dài các ngón tay

Những đường chỉ tay cơ bản và đường chỉ tay hiếm

+ Xem bói chỉ tay đoán vận mệnh, tình yêu của bạn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngón cái có 4 lóng thì có ý nghĩa gì?

Chu dịch và Kinh dịch

Tác giả: Lương Trâm - Thứ nhất là khác nhau về hình thức, bói dịch dùng thi thơ để giảng còn Chu dịch dùng văn xuôi để giảng. - Thứ hai là bói dịch có nhiều lọai gồm:8 Quẻ ba hào như Liên Sơn dịch đời Hạ có quẻ đầu là Cấn, Qui tàng dịch đời Thương có quẻ đầu là Khôn.32 Quẻ năm hào như “Tam Bửu Hiệp nhứt” người Việt hay thường sử dụng64 Quẻ sáu hào “ Bói dịch cổ truyền” người Việt hay thường sử dụng. Khác với bói dịch, Chu dịch chỉ có một lọai là 64 quẻ sáu hào, được ghi chép có hệ thống dạng kinh điển, còn dùng để nghiên cứu, không như những sách bói “diệc” chỉ dùng cho việc chiêm bói được lưu hành trong dân chúng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trước hết xin nói về cách trình bày của các lọai bói dịch người Việt hay sử dụng:

Quẻ năm hào:

Ví dụ: quẻ Giá sắc

Nội dung: Dịch nghĩa:
Thả thủ quân tử phận.              Quân tử nên giữ phận
Vật dụng tiểu nhân ngôn.          Chớ nghe lời tiểu nhân
Phàm sự giai đương cẩn             Mỗi việc nên cẩn thận
Tác phước bảo an nhiên            Làm lành vậy mới yên

Quẻ sáu hào:

Ví dụ: Phong Sơn Tiệm ( Hồng nhạn phi cao)

Ý nghĩa: Chim Hồng nhạn được sổ lồng bay xa.
Tiến từ từ bay lên mây trong sự thông đạt thong dong.
Không có gì cản trở.
Nhưng không thể bay vụt từ trong lồng lên mây ngay được.
Giải đoán: Vận khí thịnh đạt dần dần. Công việc mỗi ngày đều phát triển đều đặn. Không gặp trở ngại. Thành quả rất to lớn so với lúc khởi sự.
Lời khuyên: Giữ tiết hạnh thanh cao. Ung dung không vội vả.
Phụ chú : Giải trừ mọi tai ương. Tuy tiến chậm nhưng rất yên ổn.
Hào 1 : trung bình, tiến hơi chậm
Hào 2 : rất tốt
Hào 3 : trung bình
Hào 4 : tốt
Hào 5 : tốt
Hào 6 : rất tốt, đại cát
Ứng hạp : Tuổi Bính : Thìn, Ngọ, Thân
Tuổi Tân : Mão, Tỵ, Mùi
Tháng 1
Hành thổ

Lời giảng của của quẻ này viết theo văn xuôi nhưng được ngắt ra 4 đọan, có lẽ vào đời Tần bị cấm thi thơ, các lọai sách đều phải chép lại bằng văn xuôi.
Tiếp đến là cách trình bày quẻ trong Kinh Dịch : Quẻ Phong Sơn tiệm ( xin không trích giảng hào từ)
Thóan từ: Tiệm, nữ qui cát, lợi trinh.
Dịch: Tiến lần lần, như con gái về nhà chồng, tốt; giữ đạo chính thì lợi.
Giảng: Quẻ này là Tốn ( cây), dưới là Cấn( núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt là Tiệm.
Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tỉnh như nội quái cấn, vẫn hòa thuận như ngọai quái Tốn thì không bị vấp váp, không bị khốn cùng.
Hào từ:
- Sơ lục: Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn vô cửu.
Dịch: Hào âm 1, con chim Hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại cho là nguy, than thở nhưng không có lỗi.
- Lục nhị: Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
Dịch: Hào 2 âm, chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt
- Cửu tam: Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung lợi ngự khẩu.
Dịch: Hào 3 dương, chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có mang không nuôi, xấu, đuổi cướp thì có lợi.
- Lục tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắ kỳ giốc, vô cửu.
Dịch: Hào 4 âm, chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi.
- Cửu ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dụng, chung mạc chi thắng, cát.
Dịch: Hào năm dương, chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không có gì thắng nổi điều chính, tốt.
- Thượng cửu: Hồng tiệm vu qui, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
Dịch: Hào trên cùng dương, chim hồng bay bổng ở đường mây. Lông nó có thể dùng làm đồ trang sức, tốt.

Hai loại dịch trên mặc dù có khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung tất cả đều có đặc điểm là có hào âm,hào dương. Âm dương được hình thành do sự vận động của vũ trụ. Sự vận động này thuận theo chiều hướng sinh của ngũ hành hình thành bát quái. Đó là học thuyết Âm dương- Ngũ hành của người xưa.

1/ Thuyết Âm dương - Ngũ hành:

a - Sự hình thành Âm dương:
Thái cực vận động sinh ra lưỡng nghi, tức là hai khí : Âm và Dương. Phần dương thì động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên sinh ra khí dương và nơi tích lũy nhiều khí dương là bầu trời được ký hiệu là ( ). Dương được sinh ra từ cực Bắc và bên trái chủ dương.
Phần âm thì tỉnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới sinh ra khí âm và nơi tích lũy nhiều khí âm là đất được ký hiệu là ( ) . Âm được sinh ra từ cực Nam và bên phải chủ âm.



Hình Lưỡng Nghi


Âm dương có sự liên hệ thần bí, đó là sự hấp dẫn lưỡng tính thần kỳ. Theo Lôi Đạc, trong tác phẩm Mỗi ngày 10 phút với Chu Dịch, nhà ảo thuật Trung quốc nổi tiếng là Tàng quốc Chân đã phát hiện điều này khi đem hai con thạch sùng đực, cái ném mạnh xuống đất. Khi đuôi của hai con thạch sùng bị đứt, chúng nhảy nhót trên mặt đất, rồi hai chiếc đuôi ngày càng gần lại với nhau, dựa sát vảo nhau sau đó bám chặt lấy nhau thành hình “bánh quấn thừng: Thế nhưng dùng hai con thạch sùng cùng giống thì không thấy có hiệu ứng này. Một thử nghiệm khác nữa là bắt vài con thạch sùng có bốn chân, phân biệt đực – cái, chặt đuôi và lột da chúng ra, sau khi đốt cháy nghiền thành bột, đổ vào hai cây nến rỗng ruột, đặt trên bàn cách nhau 30 cm, châm lửa trên hai cây nến đó. Điều kỳ dị đã xuất hiện, hai ngọn lửa hấp dẫn nhau, dần dần dựa sát vào nhau, cuối cùng dính lại tạo thành một tuyến lửa nằm ngang như chiếc cầu vồng được đặt tên là “cầu lửa”.

Qua phát hiện đó có thể thấy được tuy âm dương là hai yếu tố tương phản nhau nhưng trong mọi vật hai yếu tố âm dương luôn dung hòa lẫn nhau, tương giao cùng nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau rất mật thiết. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của muôn vật, tất cả sự biến hóa trong vũ trụ đều có thể giải thích bằng hiện tượng chuyển biến của âm dương. Âm trưởng thì dương sẽ tiêu, dương trưởng thì âm sẽ tiêu, âm tăng đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ phải thóai dần, khi dương tăng đến chỗ cực thịnh thì âm sẽ phát sinh và dương sẽ thóai dần, đó là lẽ tuần hòan của âm dương trong trời đất như : Mùa đông âm khí nhiều khí hậu lạnh. Cuối đông âm khí thịnh, dương khí bắt đầu phát sinh. Qua xuân dương khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm áp dần dần. Đến mùa hạ dương khí tăng trưởng, khí hậu nóng. Cuối hạ dương khí cực thịnh khí hậu nóng bức và âm khí sẽ phát sinh. Qua mùa thu âm khí mới phát sinh còn non khí hậu mát, âm khí dần dần tăng trưởng lại bước qua đông.... cứ như thế mà tiếp diễn ; hoặc cũng như chuyển biến âm dương trong ngày đêm : từ nửa đêm – sáng sớm – giữa trưa – buổi chiều – lại nửa đêm. Sự âm tiêu dương trưởng và dương tiêu âm trưởng tiếp diễn nhau rất cần thiết để điều hòa sự tuần hòan của trời đất, nếu dương cực thịnh mãi mà âm khí không phát sinh hoặc ngược lại thì trời đất bất hòa và sự sinh hóa của của muôn vật sẽ rối lọan như : chỉ có đêm mà không có ngày hay ngược lại, thời tiết nóng mãi hoặc lạnh mãi đều bất lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật. Mặt khác, trong sự chuyển hóa để tương giao với nhau, dương khí có khuynh hướng thăng cao lên tức ly tâm, âm khí có khuynh hướng giáng xuống thức hướng tâm. Đó là dương thăng, âm giáng.

Ví dụ: không khí nóng có khuynh hướng bay lên cao, không khí lạnh có khuynh hướng hạ xuống thấp. Sự kiện không khí vùng lạnh thay thế vùng nóng sẽ sinh ra gió.
Sự vận động của âm dương sẽ sinh ra 4 khí gọi là tứ tượng : Thái âm – Thiếu dương – Thái dương – Thiếu âm

Hình Tứ Tượng

Từ bốn khí này giao hòa thăng giáng với nhau, tạo ra sự đối kháng, chuyển dịch. Đây chính là động lực phát triển cũa sự vật, hiện tượng, con người. Động lực ấy thể hiện ra 8 dạng thức trong không gian, đó là bát quái. Bát quái với 5 thuộc tính ngũ hành đã tạo ra vũ trụ, vạn vật, trong đó có con người với hành vi của họ.
Bát quái với tính chất gắn liền với bầu trời xin được tạm gọi là “Thiên Bát Quái”
Bát quái có tính chất gắn liền với trái đất xin được tạm gọi là “ Địa Bát Quái”

b- Ngũ hành:
Ngũ hành được cho là 5 dạng vật chất gồm :
- Hành Thủy tượng trưng cho nước
- Hành Mộc tượng trưng cho cây cối
- Hành Hỏa tượng trưng cho lửa
- Hành Thổ tượng trưng cho đất
- Hành kim tượng trưng cho kim lọai.

Căn cứ vào tính chất các hành trên có sự sinh, khắc với nhau
Ngũ hành tương sinh :
Thủy sinh Mộc
- Mộc sinh Hỏa
- Hỏa sinh Thổ
- Thổ sinh Kim
- Kim sinh Thủy
Ngũ hành tương khắc :
- Thủy khắc Hỏa
- Hỏa khắc Kim
- Kim khắc Mộc
- Mộc khắc Thổ
- Thổ khắc Thủy
Năm hành trên được xếp thành các phương vị trên Hà Đồ, Lạc Thư.

c/ Thuyết Thiên Địa Nhân:

Thuyết Thiên Địa nhân nói lên sự chi phối của trời đất đối với con người.
- Thiên: Thiên can là tọa độ không gian được thể hiện ở 10 vị trí: Giáp , Ất , Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quí. Thiên là khỏang không gian bao la, trong Thiên có ba yếu tố hợp thành là Nhật ( mặt trời) ; Nguyệt ( mặt trăng) ; Tinh ( các vì tinh tú). Vạn vật con người chuyển dịch trong không gian theo 10 thiên can, được Nhật, Nguyệt, Tinh chiếu vào tác động ảnh hưởng suốt cả cuộc đời, do vậy yếu tố năm, tháng, ngày, giờ sinh được người xưa cho là có thể quyết định được vận mệnh của từng người.
- Địa: Địa chi là tọa độ thời gian được thể hiện ở 12 vị trí thời gian trong năm , tháng, ngày, giờ gồm : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Địa được cấu thành bởi 3 yếu tố thủy , hỏa , phong. Từ yếu tố địa , người xưa hình thành nên môn địa lý phong thủy dùng để xem xét sự vận động hài hòa của thủy hỏa phong, nếu mất cân bằng trong vận động của ba yếu tố này ở một địa điểm mà một người đang sinh sống thì người đó sẽ gặp trở ngại và tai họa.
Tóm lại, nói Thiên Địa Nhân là nói con người luôn luôn bị chi phối bởi Thiên và Địa, ba yếu tố này tương tác lẫn nhau, con người muốn tồn tại, sinh sống bình thường phải có sự cân bằng giữa bản thân với thiên địa. Không gian Dịch là không gian Thiên Địa Nhân, là thế giới của âm dương giao hòa, chuyển hóa cho nhau, thế giới giữa hai mặt đối lập tồn tại và bổ xung cho nhau nên khi nắm bắt được chuyển động đó người xưa đã lập ra mô hình trạng thái không gian gọi là âm, dương ( lưỡng nghi). Âm, dương vận động sinh ra bốn khí gọi là tứ tượng, lại tiếp tục vận động thành ra bát quái

2/ Hà đồ – Lạc thư:

Hà đồ – Lạc thư đã được người Trung hoa xem như nguồn gốc của bát quái có nghĩa là sự hình thành của bát quái phải được gợi ý của Hà đồ – Lạc thư, thánh nhân mới dựa vào đó mà phỏng theo. Hình dạng của Hà đồ – Lạc thư ra sao không ai biết được , chỉ nghe nói đến từ cháu của Không Tử là Khổng An Quốc nhưng mãi đến đời Tống hai đồ hình đó mới thấy phổ biến.
Căn cứ vào “ Dịch học Tượng số luận” của Hòang Tông Nghi thì Trần Đòan đã truyền cho Chủng Phóng, Chủng Phóng truyền cho Lý Khái, Lý Khái truyền cho Hứa Kiên, Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngọc Xương, Ngọc Xương truyền cho lưu Mục. Lưu Mục căn cứ vào Hà đồ-Lạc Thư trước tác ra “ Dịch số câu ẩn đồ”, bức đồ của ông mới được đông đảo người biết đến. Cho đến nay người ta cũng chưa hiểu được, vào đời Tống, vị đạo sĩ ở Hoa Sơn là Trần Đòan đã lấy ở đâu ra được những hình Hà đồ-Lạc Thư ấy.
Sau khi Hà đồ-Lạc Thư ra đời, một bộ phận trong học phái này chia rẽ. Một số người không tin vào những thứ này, nhà Đại văn học Âu Dương Tu cho rằng : “đầu độc sai lầm vào những người học giả, gây tác hại đâu có nhỏ”. Cuộc tranh luận này kéo dài tới cuối đời Thanh, Dân quốc, thậm chí đến sau ngày giải phóng.

a - Hà đồ: Theo ghi chép của người Trung Hoa, Hà đồ là vật mà Hòang Đế được trời ban cho từ sông Hòang Hà, trên lưng con long mã, đồ hình có 5 cặp số được sắp xếp như sau: 1 với 6 ở dưới là số sinh thành của thủy ở phía Bắc
2 với 7 ở trên là số sinh thành của hỏa ở phía Nam.
3 với 8 ở bên trái là số sinh thành của mộc ở phương Đông
4 với 9 ở bên phải là số sinh thành của kim ở phương Tây
5 với 10 là số sinh thành của thổ ở trung ương.
Hà đồ là bức đồ đầu tiên của kinh dịch, sự vận hành của nó theo chiều hướng sinh của ngũ hành. Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông.

Hình Hà Đồ

b - Lạc thư: Theo truyền thuyết Lạc thư do thần qui mang trên lưng nên có tượng con rùa đầu đội 9, đuôi mang 1, bên trái mai mang 3, bên phải mai mang 7, vai bên trái mang 4, vai bên phải mang 2, chân trái mang 8, chân phải mang 6, giữa lưng mang 5.

Hình Lạc Thư

Theo các nhà nghiên cứu thì Lạc thư là một dạng Cửu tinh Đồ, là Cửu trù Hồng Phạm, nếu đọc theo chiều nghịch kim đồng hồ là biểu đồ phương vị ngũ hành được vận hành theo hướng khắc.
Do vậy, theo thiển nghĩ, bát quái phải được dựa vào Hà đồ để thiết lập vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới được sinh hóa, nói lên sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch.
Thử vẽ Bát quái:

1/ Thiên Bát quái: ( biểu đồ tiết khí)

Bốn mùa

Từ 4 mùa âm dương lại biến đổi thành 8 tiết khí dựa trên cơ sở 2 cụm tứ tượng, bắt đầu từ điểm cực âm. Theo lẽ tự nhiên, cực âm sẽ sinh dương, cụm tứ tượng bên trái sẽ được sinh dương, khi dương thịnh đến điểm cực dương cụm tứ tượng bên phải sẽ được sinh âm, từ đó có được hệ thống bát quái gắn liền với trời như thời tiết, gió mưa, là biểu đồ bát tiết.

Xem xét biểu đồ trên, có thể thấy các tiết khí chuyển biến theo hướng sinh, bắt đầu từ điểm cực âm theo chiều thuận kim đồng hồ: Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông. Hướng sinh trên thuận theo lẽ tự nhiên thành ra tám tiết khí:



- Khôn : cực âm ( ) tiết đông chí - dương thủy- vị trí số 1
- Chấn : bắt đầu sinh dương ( ) tiết lập xuân - âm mộc- vi trí số 8
- Ly : âm tiêu dương trưởng ( ) tiết xuân phân - dương mộc - vị trí số 3
- Đòai : dương thịnh ( ) tiết lập hạ - âm hỏa - vị trí số 2
- Kiền : cực dương ( ) tiết hạ chí - dương hỏa - vị trí số 7
- Tốn : bắt đầu sinh âm ( ) tiết lập thu - âm kim - vị trí số 4
- Khảm : dương tiêu âm trưởng ( ) tiết thu phân-dương kim-vị trí số 9
- Cấn : âm thịnh ( ) tiết lập đông - âm thủy - vị trí số 6

Thứ tự của bát quái trên thuận theo hướng sinh là : Khôn, Chấn, Ly , Đòai , Kiền , Tốn , Khảm , Cấn, được hiểu như một hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trời như: thời tiết, khí tượng , gió mưa.... Hệ thống này được Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Tuy vậy , người Trung hoa không dùng Tiên thiên bát quái để giải thích thời tiết mà dùng để giải thích về địa lý, phương hướng như sau:

- Khôn : là đất nên ở phương Bắc, vì phương bắc giá lạnh nên thuộc thủy
- Chấn : ở Đông bắc vì gió từ Tây nam thổi qua đông bắc gây tiếng động, hoặc sáng (ly) tối (khảm) cọ sát nhau sinh ra sấm.
- Ly : là mặt trời nên ở phương đông,vì mặt trời mọc ở phương đông
- Đòai : ở Đông nam vì phía Đông nam Trung hoa nhiều đầm hồ
- Kiền : là trời nên ở phương nam, phương nam nóng thuộc hỏa
- Tốn : ở Tây nam là nơi nóng (nam) và lạnh (tây) xô xát sinh ra gió
- Khảm : là mặt trăng nên ở phương Tây, vì mặt trăng hiện ra ở phương tây
- Cấn : ở Tây bắc vì tây bắc Trung hoa có nhiều đồi núi.

2/ Địa bát quái: (biểu đồ địa lý phương hướng)

Về Địa bát quái, hiện nay chưa rõ được kết cấu như thế nào nhưng cũng xin đề xuất đồ hình để tham khảo.

Ví dụ: Địa Bát Quái


Hậu Thiên bát quái

Địa Bát quái, được hiểu như hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trái đất như : địa lý, phương hướng , được sắp xếp một cách hợp lý như sau :
- Cấn , hành thổ mượn vị trí số 1, có ba hào : âm+âm+dương= dương thổ
- Chấn ở vị trí số 8 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm= dương mộc
- Tốn ở vị trí số 3 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm = âm mộc
- Ly ở vị trí số 2 thuộc hỏa, có ba hào : dương+âm=dương = âm hỏa
- Khôn hành thổ mượn vị trí số 7, có ba hào : âm+âm+âm = âm thổ
- Đòai ở vị trí số 4 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+âm = âm kim
- Kiền ở vị trí số 9 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+dương = dương kim
- Khảm ở vị trí số 6 thuộc thủy, có ba hào : dương+âm+dương = dương thủy

So sánh với Hậu thiên bát quái của Văn Vương:
- Cấn mượn vị trí số 8 thuôc thổ
- Chấn ở vị trí số 3 thuộc mộc
- Tốn ở vị trí số 2 thuộc hỏa
- Ly ở vị trí số 7 thuộc hỏa
- Khôn mượn vị trí số 4 thuộc thổ
- Đòai ở vị trí số 9 thuộc kim
- Kiền ở vị trí số 6 thuộc thủy
- Khảm ở vị trí số 1 thuộc thủy

Xét theo bát quái phong thủy thì Tốn phải thuộc mộc và Kiền phải thuộc kim, như vậy Hậu thiên bát quái xem ra có vấn đề. Hệ thống này chỉ đúng khi đứng ngòai Hà đồ, tuy nhiên âm dương ngũ hành khi tách rời nhau sẽ không còn ý nghĩa, do vậy suy cho cùng vẫn là sai. Một điểm sai nữa là người Trung hoa không dùng hệ thống bát quái này để giải thích về địa lý mà gọi đó là Bát tiết bát quái :

- Cấn: Tiết lập xuân,
- Chấn: Tiết xuân phân
- Tốn: Tiết lập hạ
- Ly: tiết hạ chí
- Khôn: tiết lập thu.
- Đòai: tiết thu phân
- Kiền: tiết lập đông
- Khảm: tiết đông chí

Có lẽ để thuyết minh cho vấn đề sai lệch về các hành của hệ thống này, thuyết quái truyện viết: “ Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Trí dịch hồ Khôn. Thuyết ngôn hồ Đòai. Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn."

Thuyết quái truyện cũng có lời giải thích cho đọan văn khó hiểu trên: “Vạn vật xuất ở Chấn , Chấn thuộc phương đông. Gọn gàng ở Tốn, Tốn thuộc đông nam, gọn gàng là muốn nói muôn vật đều sạch sẽ. Ly là sáng, vạn vật cùng thấy nhau, là quẻ ở phương Nam, đấng thánh nhân quay về phương nam mà nghe thiên hạ, hướng vào nơi ánh sáng mà trị là tượng ở đấy. Khôn là đất, muôn vật đều được nuôi dưỡng ở đó, cho nên nói là làm việc ở Khôn. Đòai là chính thu, vạn vật đều vui vẻ, nên nói vui vẻ là nói ở Đòai. Đánh nhau ở Kiền, Kiền là quẻ ở tây bắc, đó là nói về âm dương xô xát vậy. Khảm là nước, là quẻ ở chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật đều ở đó nên nói khó nhọc ở Khảm. Cấn là quẻ đông bắc, nơi muôn vật thành ở lúc cuối và lúc đầu, nên nói thành là nói Cấn”.
Lời giải thích trên khi đọc xong lại càng thấy khó hiểu, nên xin được đề xuất lời giải thích khác như sau:

- Đế xuất hồ Chấn: là mặt trời mọc ở phương đông.
Vấn đề chính là đây. Theo tôi, vị trí mặt trời mọc là vị trí bước qua số 1 của Hà Đồ, là qua cực Bắc đã sinh dương, về thời khắc thì vào giờ Dậu nên Chấn phải ở vị trí số 8 thuộc mộc. Đối với người tạo ra Hậu thiên bát quái thì Chấn phải ở vị trí số 3 thuộc mộc là nơi mặt trời ló dạng, về thời khắc thì vào giờ Mẹo.
- Tề hồ Tốn : do mang Chấn đặt vào vị trí số 3 , là chỗ của Tốn, nên phải sắp xếp lại vị trí của Tốn.
- Tương kiến hồ Ly : Tốn bị bỏ ra phải vào vị trí số 2 thuộc hỏa, là vị trí của Ly, nên nói là gặp nhau ở cung Ly.
- Trí dịch hồ Khôn : dể Ly có chỗ phải suy tính dời Khôn đi.
- Thuyết (duyệt) ngôn hồ Đòai : Khôn được dời vào vị trí số 4 thì Đòai phải vào vị trí của Càn ở số 9 thuộc kim, đến Đòai thì thuyết phục được.
- Chiến hồ Càn : tranh cãi ở Càn. Khi Đòai vào vị trí của Càn thì Càn phải dời vào chỗ của Khảm số 6 thuộc thủy mà Càn thì thuộc kim.
- Lao hồ Khảm : mặc dù Càn thuộc kim nhưng vì muốn thực hiện việc chỉnh sửa trên nên phải ép Càn vào ở vị trí của Khảm nên nói là lao hồ Khảm
- Thành ngôn hồ Cấn : đến cung Cấn thì kết luận, đã quyết định xong.

Đọan văn khó hiểu trên có lẽ ghi lại sự tranh cãi giữa Hoa tộc và người đại diện cho Hoa Hạ là Cộng công. Cộng công được biết như là một chức quan trông coi về khoa học kỹ thuật ở thời ấy. Theo ghi chép của Trung Hoa, giữa cháu nội Hòang đế là Chuyên Húc và Cộng Công vào thời ấy đã có sự bất đồng ý kiến về khoa học kỹ thuật qua truyện kể về Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu như sau:

Cộng Công là người có công lao rất lớn trong phát triển nông nghiệp của Trung hoa được dân chúng tôn là Thủy sư tức thần nước. Con của ông là Hậu thổ cũng có năng lực trong nghề nông được dân chúng tôn là Xã thần tức thần đất, là các thần quản về thủy lợi. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình đất ở 9 châu họ đã thống nhất là phải sửa bằng đất đai, tuy nhiên ý đồ này không được Chuyên Húc đồng ý. Cộng công vì giận mà húc đầu vào núi Bát Chu.

Bát Chu là núi Côn Lôn, ngọn núi có những quái thạch nhọn hoắt, cao chạm tầng mây. Sau cú húc mạnh của Cộng Công, quả núi này lập tức gảy gập ngay, đất đá lở xuống ầm ầm, cây cối ngã nghiêng, trời đất mù mịt, tưởng như xảy ra động đất, bầu trời nghiêng ngã. Thì ra theo lời đồn đại, núi này chính là cây cột chống trời, cột trời sụp thì dây chằng đất đứt rời từng khúc, do đó phía Đông nam sụp xuống lấp bằng chỗ trũng khiến cho sông ngòi đều theo dòng chảy về phía đông rồi đổ vào biển đông. Bầu trời khi đó nghiêng về phía Tây Bắc cho nên các vì tinh tú , mặt trời, mặt trăng ngày ngày đều mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây....

Phân tích câu truyện trên có thể suy ra : núi ( Cấn) Bát Chu sụp xuống làm dây chằng đất (Khôn) đứt rời, có nghĩa trục Khôn-Cấn trở lại là trục thẳng ; phía Đông nam (Tốn) sụp xuống , bầu trời nghiêng về phía Tây Bắc (Càn), có nghĩa là trục Tốn Càn trở lại là trục ngang, các vị trí đó là Càn-Khôn-Cấn-Tốn trong tư nam thời Xuân thu chiến quốc. Cuối cùng là mặt trời lại mọc ở phương Đông là vị trí số 8 trên Hà đồ.

Nhưng tại sao Cộng Công lại phải húc đầu vào núi Bát Chu?

Bởi vì núi là tượng Cấn. Liên Sơn Dịch của Hoa hạ lấy quẻ đầu là Cấn. Nói là Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu có nghĩa là muốn sửa bái quái của tộc Chu cho đúng với vị trí ban đầu. Sự bất đồng này có lẽ cũng nghiêm trọng, vì sau đó những người tộc Hạ sống trên đất Tề thường lo sợ về chuyện bị “trời sập”.

Tư Mã Thiên cho rằng Hậu Thiên bát quái là sản phẩm của Văn Vương có lẽ do trong các quẻ bói mà người Việt đang dùng có một số quẻ đã đề cập đến những vấn đề liên quan đếnVăn Vương như:
Quẻ “Vị thủy phong hiền” còn gọi là Sơn Lôi di :
Khương Tử Nha là bậc đại hiền.
Ngồi câu cá chờ thời bên bờ sông Vị thủy.
Vua Văn Vương nghe tiếng đích thân đến tận nơi thỉnh ra giúp nước.
Rước về tôn làm thường phụ.
Quẻ “ Phượng minh Kỳ sơn”- Thiên trạch lý :
Phượng hòang bất thần xuất hiện ở núi Kỳ sơn cất tiếng gáy.
Báo hiệu điềm lành.
Vua Văn Vương ra đời.
Tạo dựng một thời đại thái bình thạnh trị.

Quẻ “Trảm tướng phong thần” - Thủy trạch tiết :
Đời nhà Thương có vua trụ bạo ngược.
Khương Tử Nha vì đại nghĩa diệt được Trụ vương.
Muốn cho óan khí của quân thù tiêu tán để quốc thái dân an.
Nên đã lên “Vạn phong Sơn” cầu siêu, phong thần cho tướng sĩ tử trận.

Về nguồn gốc Kinh dịch, một số nhà nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không thực sự là của Trung quốc. Ông Hondanariyouki nhận xét “ Ở Chu dịch, các từ thóan tượng đều lấy tên từ các lọai muông thú phương nam (chim hồng). Thêm vào đó, ở Chu dịch có “phi long”; “tiềm long” càng khiến cho người ta cảm thấy Chu dịch là trước tác của người nước Sở viết ra, và ra đời sau khi Trung quốc đã mở đường giao thông về phía nam Kinh Sở”.
Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo ##/img/www.uglychinese.org thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ Suiren (Tọai Nhân), sau đó họ You Chao (Hữu sào) đã thay thế họ Tọai nhân, tiếp nữa là họ Fuxi ( Phục Hy) và Nuwa (Nữ Oa) đã thay thế họ Hữu sào, sau cùng là họ Shennong (Thần nông) đã thay thế họ Phục Hy.
Theo truyền thuyết cũng như thuyết quái truyện của kinh dịch thì họ Tọai nhân đã phát minh ra “lửa” ; họ Phục Hy đã phát minh ra “cái lưới” và chữ viết dưới dạng “thắt nút kết thằng” (chữ Khoa Đẩu?) để ghi việc, đã biết trồng trọt chăn nuôi; họ Thần Nông phát minh ra “cái cày”, mở chợ lập làng, tìm ra cây thuốc. Đó chính là Tam Hòang. Ngòai ra không thấy đề cập đến Hữu Sào đã phát minh ra những gì.

Gần đây khảo cổ học đã khai quật được một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang có niên đại cách đây hơn 8000 năm, cho thấy rằng họ Tọai Nhân là người Hòa Bình ở di chỉ Hemudu ở bờ nam sông Trường Giang có lẽ đã di cư lên phía Bắc đến di chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khỏang 4300 tr.cn khi vùng này bị ngập mặn do nước biển dâng. Họ Tọai Nhân đã bị họ Hữu Sào, tổ tiên của người Hàn Quốc đến thay thế vào khỏang 3898 tr.cn. Họ Hữu sào lại bị họ Fuxi, có lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là Viêm Đế từ phía Tây đến thay thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngòai họ Khương ra Tộc Khương còn có họ Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai (Fu chai), Phù nam......v.v . Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó có thể Tộc Khương sau khi đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông Nam Á để phát triển nông nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví: bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng.

Ở Trung Hoa vào thời Phục Hy, người xưa có lẽ đã hiểu được qui luật âm dương và sự vận động của nó, đã thuận theo những qui luật ấy để phát triển nông nghiệp. Trong kinh dịch cũng có đề cập đến Phục Hy đã trông trời, trông đất, trông vạn vật mà vẽ quái, thời diểm này có thể là họ Phục Hy không chỉ vẽ quái mà ít nhất đã biết đến tứ tượng tức là bốn mùa để theo đó mà trồng trọt. Khi Thần Nông đến thì Phục Hy bị thay thế vì họ Thần Nông đã phát minh ra cái cày và phương thức tát nước vào ruộng để cải tiến và phát triển nền nông nghiệp của Phục Hy và Nữ Oa. Họ Thần Nông đã từng vượt biển nên ắt phải có kiến thức về thiên văn khí tượng và địa lý phương hướng, ắt họ phải là chủ nhân của Hà đồ.
Với các chi tiết đã trình bày trên, tôi cho rằng học thuyết Âm dương ngũ hành và thuyết Thiên Địa Nhân có nhiều hy vọng là của người tiền Việt nam. Nó được ra đời không nhằm mục đích chiêm bói mà trước tiên để tiên đóan thời tiết và xác định phương hướng nhằm phục vụ cho nghề đi biển và nghề nông , các vì sao được quan tâm trước tiên là sao Bắc Cực và sao Bắc đẩu.

“Bói diệc” là lọai sách bói được phổ biến trong dân gian tương tự như nông lịch đã được giải thích sẵn, ai xem cũng hiểu. Kinh dịch của người Trung quốc, được dựa vào quẻ bói diệc, được kết hợp với những ghi chép của các ẩn sĩ ở Giang nam thời ấy để sọan thảo ra dưới hình thức một lọai sách triết , trong bộ kinh dịch này yếu tố tương quan giữa con người với trời đất không được thể hiện đầy đủ như trong các sách bói cổ truyền người Việt thường sử dụng.

Một điều rõ ràng là việc sáng tạo ra học thuyết Âm dương Ngũ hành, Thiên Địa Nhân không phải từ trí tuệ của một người mà là trí tuệ của nhiều người được tích lũy từ thời đại này sang thời đại khác do đó trong những ghi chép của người xưa cũng không thấy khẳng định ai là chủ nhân của học thuyết này. Việc cho rằng 64 quẻ dịch là do Văn Vương sáng tạo ra và Khổng Tử biên sọan thực chất là một sự gán ghép có lựa chọn. Khổng Tử là một người đã từng nghiên cứu kinh dịch, những tài liệu ấy Khổng tử lấy từ đâu ra thì không nghe nói đến, chỉ biết rằng trước kia Khổng Tử chưa thực sự nghiên cứu bói dịch cho đến khi ông bói được quẻ “Lữ” và mời một người họ Thương Cù trong dân gian để giải quẻ cho ông. Thương Cù thị nói: “Tiểu hanh, cố bào thánh trí, nan đắc thánh vị” ý nghĩa là ôm ấp có hùng tâm xây dựng sửa sang đất nước nhưng không giành được quyền vị. Tức thì Khổng Tử rớt nước mắt, ngộ cảm thấy rằng đường đạo của mình khó được thi hành, từ đó mới bắt đầu nghiên cứu dịch. Tuy nhiên việc bắt đầu nghiên cứu dịch và việc hòan thành bộ Kinh dịch là hai việc hòan tòan khác nhau. Theo tôi, những phát minh ở đất Trung hoa đều đã có từ xa xưa nhưng việc người thời sau tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh trước chỉ ở chừng mực nào đó. Ví dụ như lịch pháp nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng mở đầu cho một năm, khi nhà Ân Thương lên thay, lấy tháng Sửu làm tháng mở đầu cho một năm, đời Chu lấy tháng Tý làm tháng đầu năm, nhà Tần lấy tháng Hợi làm tháng đầu năm. Đến thời Hán các biến cố như nhật thực , nguyệt thực, hạn hán lũ lụt đều xảy ra khác với thời điểm được ghi trong lịch. Đúng vào lúc Tư mã Thiên đến Giang nam tìm sử liệu được một cụ già ở đất Thương ngô tặng cho bộ sách trúc giản vớt được trên sông Tương. Đó chính là bộ “nhật thư” bí truyền của người Hạ . Hán vũ đế đã theo lời tấu của Tư mã Thiên, truyền chiêu mộ ẩn sĩ ở miền Giang nam để điều chỉnh lịch theo phương pháp của nhà Hạ, sau khi hoàn thành đặt tên là lịch Thái sơ.

Để giải thích, Chu Hy viết: “Về cách tính thời gian nên theo nhà Hạ, nghĩa là nên lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu cho bốn mùa. Hàng năm lấy thời kỳ vạn vật sinh sôi nảy nở phồn thịnh làm kỳ mở đầu cho bốn mùa. Cách tính của nhà Hạ giản tiện hơn cả vì thế nên theo… trời mở đầu cung Tý, đất mở đầu cung Sửu, người mở đầu cung Dần. Tam đại lần lượt thay đổi mà noi theo. Nhà Hạ coi cung Dần là nhân chính phù hợp với người nên lấy kiến dần chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Ân coi cung Sửu là Địa chính phù hợp với đất nên lấy kiến Sửu chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Chu coi cung Tý là Thiên chính phù hợp với trời nên lấy kiến Tý chi nguyệt làm chính nguyệt. Tính tháng năm dịnh bốn mùa cốt để cho dân tiện làm ăn sinh sống, tiện hoàn thành mọi việc. Vì vậy khi tính năm tháng, định bốn mùa nên lấy sự phù hợp với người làm đầu mối. Chính vì vậy mà nhà Hạ lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu của một năm”

Ngoài ra không thấy Chu Hy giải thích vì sao nhà Tần lại lấy kiến Hợi chi nguyệt làm chính nguyệt.
Như vậy đã thấy rằng việc tiếp thu tinh hoa của tộc Hạ chỉ bắt đầu vào thời Hán.Thời điểm ấy tinh hoa của Trung hoa phát ra ào ạt nhờ vào chủ trương chiêu hiền đãi sĩ của Hán Cao tổ. Vào thời này, những nhân tài Việt trên đất Hoa ban đầu sống như những ẩn sĩ. Sĩ là một từ để chỉ tầng lớp tri thức ở Trung quốc. Ẩn sĩ là những người có tri thức, hoàn toàn vượt ra ngoài vòng chính trị, có thái độ bất hợp tác và phản kháng chính quyền đương thời, họ là những nhân sĩ tinh anh sáng tạo văn hóa, giáo hóa quần chúng. Thấy được tác dụng tiềm ẩn trong lớp nhân sĩ, Hán Cao tổ Lưu Bang khi lên ngôi được 11 năm đã có chiếu viết :
“Các bậc đế vương nổi tiếng chưa ai cao hơn Văn vương, những bậc bá chủ chưa ai cao hơn Tề Hoàn đều chiêu hiền đãi sĩ mà thành danh. Kẻ hiền gỉả, bậc trí nhân trong thiên hạ ngày nay có ai được như người xưa… nay ta lấy sự linh thiêng cùa trời đất, cùng với hiền sĩ đại phu trở thành người một nhà, định đọat thiên hạ. Muốn tông miếu tổ tiên trường tồn mà không bị diệt vong, hiền nhân đã cùng ta sao ta có thể hưởng lợi một mình. Hiền sĩ đại phu có khả năng làm việc cùng ta, ta có thể tôn hiển họ”.

Như vậy đã có một số người Việt vì muốn cho tông miếu tổ tiên được trường tồn, không bị diệt vong đã ở lại trên đất của ông cha mình nay gọi là nước Trung quốc. Một điểm đặc biệt là trong nhóm dân tộc thiểu số ở Trung hoa không có tên dân tộc Việt. Nếu ai đó hỏi rằng :
- Vậy thì dân tộc Việt đã biến đi đâu ?
- Họ không biến đi đâu cả, họ đã trở thành người Hán.
- Họ đã trở thành người Hán, như vậy có phải tinh hoa của dân tộc họ cũng đã trở thành tinh hoa của Trung quốc?
- Đúng vậy!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chu dịch và Kinh dịch

3 con giáp giúp chồng phát tài dễ như trở bàn tay

3 con giáp giúp chồng phát tài dễ như trở bàn tay là ai, cùng tìm hiểu nhé.
3 con giáp giúp chồng phát tài dễ như trở bàn tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người ta thường nói “Phía sau mỗi người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ giỏi giang”. Điều này khá đúng với những cô nàng dưới đây. Họ không những đảm đang việc nhà mà còn giúp trợ giúp đắc lực cho công danh, sự nghiệp của chồng.


No1. Cô nàng tuổi Hợi

Bản thân những cô nàng tuổi Hợi có tài vận rất vượng, cuộc sống thảnh thơi an nhàn mà vẫn luôn rủng rỉnh tiền tiêu. Không những biết cách “hái ra tiền”, họ còn hưởng thụ cuộc sống một cách triệt để.

Trong suy nghĩ của các nàng này, cuộc đời ngắn ngủi lắm, hãy tranh thủ từng giây từng phút để sống sao cho thoải mái, tươi vui. Thế nên họ không tiếc tiền để mua sắm đồ đắt tiền, làm đẹp “từ đầu tới chân” và thưởng thức sơn hào hải vị trên đời.

3 con giap giup chong phat tai de nhu tro ban tay hinh anh
 
Hơn thế, người tuổi Hợi còn có con mắt tinh đời, biết chọn cho mình “đối tác” phù hợp để cùng nhau bước trên hành trình hạnh phúc suốt đời. Họ không nề hà khi yêu một anh chàng có gia cảnh nghèo khó. Với họ, bản chất con người, tình cảm chân thành mới là điều quan trọng. Chỉ cần họ nhìn thấy chí tiến thủ, sự quyết tâm cao độ và niềm tin mạnh mẽ vào tương lai tươi sáng của đối phương là được, tiền bạc vật chất trước mắt không nói lên bất cứ điều gì.

Khi được cô nàng tuổi Hợi “nâng khăn sửa túi”, chắc chắn bạn sẽ là người đàn ông hạnh phúc và thành đạt. Nhờ sự khéo léo và tài năng thiên bẩm, họ sẽ giúp bạn “vượt khó” dễ dàng, tạo điều kiện thuận lợi trên con đường làm giàu và gặt hái thành công. Đây là một trong 3 con giáp giúp chồng phát tài dễ như trở bàn tay.

Ngưỡng mộ 3 con giáp không thăng quan cũng phát tài trong 5 năm tới
Viễn cảnh tương lai trong 5 năm tới của người cầm tinh con Gà vô cùng tươi sáng. Bạn sẽ tạo ra kỳ tích vượt quá sức tưởng tưởng của chính mình.
No2. Cô nàng tuổi Tỵ


So với các nàng tuổi Dậu, tài vận của người cầm tinh con Rắn có phần kém hơn đôi chút. Tuy nhiên, bằng sự nỗ lực và phấn đấu không mệt mỏi, họ vẫn tự tin làm chủ cuộc sống, lúc nào cũng ngẩng cao đầu tự hào về những gì mình đạt được.

Cuộc sống sau hôn nhân của cô nàng tuổi Tỵ khá viên mãn. Bản thân họ có tầm hiểu biết sâu rộng, quan tâm tới mọi thành viên trong nhà và luôn làm trọn đạo hiếu của người vợ, con dâu. Hơn thế, con giáp này rất giỏi quản lí về tài chính, phân chia phù hợp các khoản chi tiêu trong gia đình, nên đời sống vật chất ngày càng đi lên.

3 con giap giup chong phat tai de nhu tro ban tay hinh anh 2
 
Thế mới nói họ là “trợ thủ đắc lực” cho công danh sự nghiệp và tiền tài của người chồng. Có nàng tuổi Tỵ làm vợ, bạn sẽ đón nhiều tin vui bất ngờ về tiền bạc.

No3. Cô nàng tuổi Dậu

Tài vận của cô nàng tuổi Dậu ở mức khá. Khi còn độc thân, họ không ngừng học hỏi, làm việc chăm chỉ và tích lũy số vốn kha khá nhằm mục đích kinh doanh, đầu tư hay chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống hôn nhân.

Sau khi kết hôn, thói quen chi tiêu có kế hoạch, không lãng phí ấy vẫn được họ duy trì. Đời sống vật chất của cả nhà được cải thiện dần theo thời gian khi được người cầm tinh con Gà “tay hòm chìa khóa”, thu vén đâu ra đó. Lấy được cô vợ tuổi Dậu, bạn như được sở hữu kho báu vô giá. Phúc khí của họ lớn, sẽ giúp bạn phát tài dễ như trở bàn tay.

► Bật mí những điều thú vị về mười hai con giáp có thể bạn chưa biết

Ngân Hà (Theo MGSP)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp giúp chồng phát tài dễ như trở bàn tay

Năm 2017 thì mệnh gì? Nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt?

Bạn đã biết thông tin gì về năm 2017 chưa? Năm 2017 thì mệnh gì? Tuổi con gì? Nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt? Cùng Phongthuyso tìm hiểu nhé:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn đã biết thông tin gì về năm 2017 chưa? Năm 2017 thì mệnh gì? Tuổi con gì? Nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt? Cùng Phongthuyso tìm hiểu nhé:

Năm 2017 âm lịch bắt đầu từ ngày 28/02/2017 đến ngày 15/02/2018

Năm âm lịch là năm Đinh Dậu  tức tuổi Dậu (con gà), Độc lập Chi Kê.

Mệnh ngũ hành thuộc Sơn hạ Hỏa – Lửa chân núi

nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt

Sinh con trai vào năm 2017 thì thuộc mệnh gì?

Cung mệnh: Khẩn Thủy

Màu sắc hợp là màu trắng, kem, bạc.. thuộc hành Kinh giúp tương sinh tốt. Hoặc các màu xanh đen, xanh nước biển, xám thuộc hành Thủy giúp tương vượng.

Không nên lựa chọn những màu như màu vàng, vàng nâu thuộc hành Thổ sinh khắc.

Sinh bé gái vào năm 2017 thì mệnh gì?

Cung mệnh: Cung Cấn Thổ thuộc Tây tứ mệnh

Màu sắc hợp với mệnh Thổ là màu tính đỏ, hồng thuộc hành Hỏa giúp tương sinh. Hoặc họn các màu vàng, nâu, nâu đất thuộc hành Thổ giúp tương vượng.

Năm 2017 thì mệnh gì? Nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt?

Sinh con vào tháng nào thì tốt?

Sinh vào tháng giêng: Với người tuổi Dậu sinh vào tháng Giêng thì khỏe mạnh, giỏi tính toán trong mọi chuyện và có được đời sống vật chất đầy đủ. Tử vi của người tuổi Dậu sinh tháng 1 thường là người thông minh, chín chắn và rất cận trọng nhưng lại thiếu quyết đoán. Có sự nghiệp tốt đẹp, công việc dnah giá tuy nhiên khi lớn lên không tránh khỏi chuyện thị phi, có số ít của cải.

Sinh con vào tháng 2 năm 2017: Sinh con vào tiết Kinh trập là người năng động, cuộc đời thuận lợi. Tiết Kinh Trập là rồng bay lên trời nên tài lộc đều mãn nguyeenjj, có uy danh được nhiều người tôn kính. Nếu gặp thời sẽ làm nên nghiệp lớn.

Sinh con vào tháng 3 năm 2017: Tháng 3 là tiết Thanh Minh, người ôn hòa, nhạy ném có chí lớn đáng tin cậy. Có số làm cao thi cử đỗ đạt.

Sinh con vào tháng 4 năm 2017: Sinh vào tiết Lập hạ, vì đầu mùa hạ nên có ý chí lớn, đời non lấp bể, có chí khí, có văn chương. Những cũng vì thế mà kiêu ngạo nên không được lòng người, thường hay gặp nguy hiểm lành ít dữ nhiều.

Sinh con vào tháng 5 năm 2017: Con sinh vào tháng năm thì là người hiền lành, điềm đạm, tuy vật chất đầy đủ những công việc không được như ý, hậu vận vất vả. Phải tự mình vươn lên thì mới có được thành công lâu bền.

Sinh con vào tháng 6 năm 2017: Người sinh vào Tiểu Thử thường ít gặp may mắn, công việc không thuận lợi, buồng nhiều hơn vui, là người có vận số trôn nổi, khó làm được việc lớn nếu không gặp thời.

Sinh con vào tháng 7 năm 2017: Người tuổi Dậu sinh vào tiết lập thu là người thông minh, có ý chí quyết đoán lại mạnh dạn mưu trí hơn người. Có số danh lợi song toàn, tiểu nhân khó lòng mưu hại.

Sinh vào tháng 8 năm 2017: Là người thông minh nhanh nhẹn, có ý chí vượt lên khó khăn, sự nghiệp gặp hái được nhiều thành công, danh lợi vẹn toàn. Có số du ngoạn bốn phương, nếu làm lãnh đạo thì sẽ thành công.

Sinh vào tháng 9 năm 2017: Người tuổi Dậu sinh vào tiết Hàn Lộ thì thuộc kiểu người phong lưu, gặp nhiều thuận lợi. Biết tự vươn lên trong cuộc sống, con đường công danh rộng mở, cả đời được hưởng phúc lộc.

Sinh vào tháng 10 năm 2017: Người sinh vào tiết Lập Đông thường có tài năng  nhưng trong đời không có nhiều chuyện vui, nếu muốn thành công thì phải có sự giúp đỡ của người khác. Là người có tính cách nhu mỳ nhưng không chịu xông pha nên khó làm sự nghiệp lớn.

Sinh vào tháng 11 năm 2017: Người tuổi Dậu sinh vào tiết Đại Tuyết có công danh sự nghiệp không ổn định, thường phải chịu nhiều vất vả hơn người khác, hầu hết là tự thân vận động.

Sinh vào tháng 12 năm 2017: Nếu sinh con vào tiết Tiểu Hàn thì sẽ là người có tài năng, số này tùy có lộc nhưng mệnh ngắn, không được hưởng phúc trọn vẹn, là người có chí lớn nhưng  không gặp thời.

Những tháng trên đây là những tháng âm lịch của năm ĐInh Dậu. Tử vi của các bé sinh năm Đinh Dậu không chỉ phụ thuộc vào tháng sinh mà còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi ngày sinh và giờ sinh. Vậy nên với những bố mẹ có con sinh vào tháng chưa tốt không phải lo lắng nhiều. Điều tốt nhất là con sinh ra được mẹ tròn con vuông.

Xem thêm: Giải mã về giấc mơ giới tính thai nhi

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm 2017 thì mệnh gì? Nên sinh con vào tháng nào năm 2017 thì tốt?

Những điều nên và không nên trong bài trí phòng trẻ

Sắp đặt phòng cho trẻ là một việc rất quan trọng trong khâu thiết kế và bài trí ngôi nhà. Muốn cho trẻ có được giấc ngủ ngon, sức khỏe tốt, học hành giỏi giang là điều mà bất kỳ bậc làm cha làm mẹ nào cũng mong ước. Hãy tham khảo những lưu ý dưới đây để có thể thiết kế phòng ở cho con cái của bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nên chọn hướng tốt cho phòng trẻ

- Hướng Sinh khí: Được coi là hướng của phòng bé trai. Đây là hướng tốt nhất theo phong thủy. Bởi vì hướng Sinh khí có lợi cho sự phát triển trí lực và sự trưởng thành của trẻ.

- Hướng Diên niên: Trẻ có thể nhận biết được môi trường tốt để trở thành một em bé ngoan, duy trì được mối quan hệ bạn bè tốt, giao tiếp, quan hệ thành công với xã hội. Đối với bé gái, đây đặc biệt là hướng tốt, có thể giáo dục nên tính cách hiền dịu, ôn hoà, nho nhã, và nhận được sự quý mến của mọi người, đồng thời thành tích học tập cũng rất xuất sắc.

- Hướng Thiên y: Đây là hướng thoạt nhìn có thể thấy được nhiều điểm tốt, hướng này có lợi cho sức khoẻ của trẻ và giúp cho con người có tinh thần vui vẻ và tính khí ổn định.

Tránh đặt phòng trẻ theo hướng xấu

- Hướng Lục sát: Hướng này đặc biệt là đối với trẻ, dễ làm cho trẻ trở nên nghịch ngợm, mải chơi. Nêu là phòng ở đã được thiết kế chỉ theo hướng Lục sát thì phải chú ý không được mở cửa sổ quá rộng.

Nếu phòng ở theo hướng Lục sát, thì nên di chuyển bàn theo hướng Sinh khí, bởi vì nhất vật - thái cực, có nghĩa là một căn phòng chỉ cần nhìn cửa là có thể nhận biết được hướng tốt và hướng xấu.
 
- Hướng Ngũ quỷ: Hướng này cũng không tốt, làm việc gì cũng cảm thấy mệt mồi, đầu óc mơ hồ, không thể chuyên tâm cho công việc và học tập, không có chí tiến thủ và sức sông. Như vậy có nghĩa là phòng không được tốt, bạn có thể tìm xem trong phòng có hướng nào tốt hơn không.

- Hướng Hoa hại: Trẻ ở theo hướng này sẽ thích gây chuyện đánh cãi nhau, làm ồn, dễ xảy ra tổn thất, cũng như phần trên, bạn có thể
tìm ra hướng tốt ở trong phòng.

 - Hướng Tuyệt mệnh: Đại hung! Hướng này là hướng bất lợi nhất, cái gọi là tuyệt mệnh có nghĩa là đoản mệnh, cho dù có tìm được hướng tốt trong phòng thì cũng khó có thể ngăn lại được kết cục đại hung tuyệt mệnh. Cho nên, tuyệt đối không cho trẻ ở theo hướng này. Đương nhiên, cách nói này chỉ là dựa trên lý thuyết, chỉ là cách bàn luận dựa trên sự khảo sát trạngthái tĩnh, còn trên thực tế, bạn cần đo đạc thực sự kỹ càng để kết luận xem hướng tốt hay xấu, cần phải kết hợp giữa trạng thái động và trạng thái
cụ thể.

2. Nên chọn vị trí giường của trẻ theo hướng Sinh khí

Nếu con trong nhà là con một thì vị trí giường của trẻ phải cùng hướng với giường của cha mẹ, điều này có thể giúp cho quan hệ giữa bố mẹ và con cái được hoà thuận. Nếu trong nhà có hai trẻ hoặc hai trẻ trở lên cùng ở một phòng thì cũng phải đặt giường của chúng theo cùng một hướng, để tránh cho chúng không va chạm và mâu thuẫn với nhau.

Tránh đặt giường của trẻ ở hướng xấu

Vị trí giường của trẻ nhất thiết không được theo hướng xấu, bởi vì trẻ còn non nớt, không thể chống đỡ được hung khí và sát khí. về vị trí giường xấu có thể tham khảo phần trên, ở phần này chúng tôi không nhắc lại.

3. Nên đặt bàn học ở vào vị trí Văn Xương

Vị trí của thế Văn Xương nghĩa là dùng "Tam thái" để quyết định, điều này không thể giải nghĩa chỉ bằng vài ba câu ngắn ngủi.

Tránh đặt bàn học của trẻ ngược với hướng Văn Xương.
 
Không nên kê bàn học của trẻ quay ngược lại với vị trí Văn Xương. Ngoài ra, còn một số điều cấm kỵ nữa:

- Phía sau, bên trái, bên phải bàn học của ừẻ không được đối diện với cửa.
- Mặt bàn học của trẻ không được hướng về phòng vệ sinh.
- Bàn học của trẻ không được dựa lưng vào phòng tắm, phòng vệ sinh.
- Bên trái, bên phải bàn học của trẻ không được xung với phòng tắm, phòng vệ sinh.
- Bàn học của trẻ không được đối diện với cửa sổ có ánh nắng mặt trời chiếu quá mạnh.
- Bàn học không được kê ngay dưới xà nhà.
- Bàn học tốt nhất là không nên dựa vào cửa sổ sát sàn ở ban công.
- Đằng trước bàn học tốt nhất không nên có nhũng vật chất đống cao đè lên.
- Trên bàn học không nên đặt thiết bị âm thanh (nếu thật cần thiết thì nên đặt theo vị trí Thanh long).
- Bàn học của trẻ không được quay mặt ra bên ngoài phòng hoặc cột điện hoặc góc tường.
- Bàn học của trẻ không được hướng mặt ra ngoài phòng đối xung với ngõ, xung với đường và xung với tháp nước.

4. Nên bố trí chính xác hướng phòng trẻ

Thực ra có rất ít gia đình bố trí một phòng riêng cho trẻ. Đương nhiên là cũng có một số người có điều kiện thuê cô nhũ mẫu trông trẻ cũng bố trí phòng riêng cho trẻ. Trừ những điều kiêng kỵ giống như các phòng ngủ bình thường khác, phòng trẻ còn có nhiều vấn đề phải suy tính đến.

Phòng trẻ phải luôn đảm bảo ánh sáng và thông gió tốt. Hướng của phòng trẻ nên theo hướng Sinh khí là tốt nhất. Ngoài ra, cũng phải tính đến nguồn năng lượng ánh nắng mặt trời chiếu đủ sáng vào phòng. Phòng của trẻ nên hướng về phía mặt trời, tia tử ngoại trong ánh nắng mặt trời có thể hình thành vitamin D, tránh cho trẻ không mắc bệnh còi xương, nhưng cần phải lưu ý không được để cho ánh nắng chiếu thẳng vào mặt trẻ. Nếu ở trong phòng thì không nên sưởi nắng qua kính, bởi vì kính có thể ngăn chặn tia tử ngoại. Chăn gối của mẹ và trẻ sơ sinh phải thường xuyên phơi dưới nắng, như thế mới có thể diệt khuẩn, tránh cho da trẻ sơ sinh bị biến đổi bệnh lý và viêm hệ thống hô hấp.

5. Tránh cho trẻ em ở nhà mới xây dựng

Do phần lớn thời gian của trẻ sơ sinh là dành cho việc ngủ, đồng thời các cơ quan trong cơ thể trẻ còn rất non nớt, cho nên tuyệt đối không nên cho trẻ sống trong các căn hộ mới xây cất hoặc sửa chữa. Phòng trẻ và xung quanh phòng trẻ cần phải tránh có tiếng động làm ồn. Bởi vì màng nhĩ của trẻ rất yếu, tiếng động ồn ào của âm thanh nếu lâu ngày sẽ làm giảm thính lực của bé và điều nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến sự phát triển trí lực cũng như sự trưởng thành của trẻ sau này.


6. Giường của trẻ nên đặt ở vị trí trung tâm phòng

Giường của trẻ cần phải tương đối độc lập, có hiệu quả tốt hơn khi được bố trí vào giữa phòng, đây là cách thể hiện một vị trí đặc biệt, và cũng là để tiện cho người lớn ở xung quanh chăm sóc. Đồng thời, như thế có lợi cho sự hình thành ý thức cá nhân và sự trưởng thành của trẻ, vị trí đầu hướng Bắc, chân hướng Nam nói chung khá thích hợp với trẻ mới sinh.

Yêu cầu đặt ra cho nơi ở của trẻ sơ sinh là không nhất nhiết phải ở nhà cao tầng sang trọng, chỉ cần để tâm bố trí một chút là có thể đem đến cho trẻ một môi trường tốt. Giống như người trưởng thành, phòng phải đảm bảo một cách mặc định về nhiệt độ và độ ẩm. Vào mùa hè, nhiệt độ trong phòng trong khoảng 24 - 28oC là hợp lý, mùa đông nhiệt độ từ 18-22oC, độ ẩm khoảng 40 - 50% là ổn. Mùa đông có thể dùng lò sưởi, thiết bị dùng tia hồng ngoại để giữ ấm, nhưng nhất định phải thông gió, bảo đảm không khí trong phòng luôn thoáng đãng. Khi thông gió cần chú ý không được để gió thổi trực tiếp xuống trẻ. Khi gió bật tốc độ lớn tạm thời không mở cửa sổ. Để duy trì cho không khí trong phòng luôn mới mẻ, thoáng đãng nên dùng vải ướt lau mặt bàn, khi dùng cây lau nhà lau sàn nhà động tác không nên quá mạnh, tránh để bụi bay vào trẻ làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ.

7. Tránh đặt cửa bếp xung với giường trẻ


Cửa phòng của trẻ cần tránh đối diện với cửa bếp để tránh ô nhiễm dầu mỡ. Mà giường của trẻ đặt ở vị trí trung tâm phòng, nếu cửa bếp mà đối lập với cửa phòng tức là cũng xung với giường của trẻ. Điều này bạn cần phải đặc biệt chú ý.

(Theo 161 điều kiêng kỵ trong nhà ở hiện đại và cách khắc phục)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều nên và không nên trong bài trí phòng trẻ

7 ác nghiệp đời người nhận quả báo nhãn tiền

Nếu muốn buông bỏ phiền não thì hãy để mỗi ngày của mình vui vẻ, không còn hối hận. Chỉ cần bạn tin vào nhân quả, “Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”.
7 ác nghiệp đời người nhận quả báo nhãn tiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời mỗi con người không ai thuận lợi hoàn toàn. Nếu bạn có một cuộc sống bình an phúc lộc thì đó là niềm hạnh phúc vô bờ. Nếu muốn buông bỏ phiền não thì hãy để mỗi ngày của mình vui vẻ, không còn hối hận. Chỉ cần bạn tin vào nhân quả, “Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”, và đừng phạm vào những điều dưới đây thì cuộc sống sẽ an lạc hơn rất nhiều. 


► Mời các bạn đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

7 ac nghiep doi nguoi nhan qua bao nhan tien hinh anh goc 2
 
7 ac nghiep doi nguoi nhan qua bao nhan tien hinh anh goc 3
 

7 ac nghiep doi nguoi nhan qua bao nhan tien hinh anh goc 4
 

7 ac nghiep doi nguoi nhan qua bao nhan tien hinh anh goc 5
 

7 ac nghiep doi nguoi nhan qua bao nhan tien hinh anh goc 6
 

7 ac nghiep doi nguoi nhan qua bao nhan tien hinh anh goc 7
 

7 ac nghiep doi nguoi nhan qua bao nhan tien hinh anh goc 8
 

7 ac nghiep doi nguoi nhan qua bao nhan tien hinh anh goc 9
 
7 ac nghiep doi nguoi nhan qua bao nhan tien hinh anh goc
 
Kiếm Phong

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 ác nghiệp đời người nhận quả báo nhãn tiền

Bạn có biết chính xác giờ tỵ là mấy giờ?

Trong bài ngày hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn về giờ tính theo 12 con giáp và cụ thể ở đây là giờ tị. Bạn có biết giờ tị là mấy giờ không? Giờ tị, nói có lẽ ai cũng biết giờ tị là giờ rắn, tuy nhiên giờ tị là mấy giờ,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ thủa xa xưa, các cụ ta thường dùng 12 con giáp ngày, tháng, năm và cả giờ. 12 con giáp tức là 12 con vật quen thuộc tượng trưng cho các năm theo thứ tự sau đây: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Trong bài ngày hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn về giờ tính theo 12 con giáp và cụ thể ở đây là giờ tị. Bạn có biết giờ tị là mấy giờ không? Tưởng đơn giản nhưng không phải ai cũng biết. Hãy cùng Phong thủy số tìm hiểu rõ hơn ngay sau đây nhé.

Bạn có biết chính xác giờ tỵ là mấy giờ?

Xem thêm

+ Giờ tốc hỷ là giờ gì?

+ Ngày bất tương là ngày gì?

+ Ngày chu tước hắc đạo là ngày gi?

Giờ tỵ là mấy giờ?

Giờ tị, nói có lẽ ai cũng biết giờ tị là giờ rắn, tuy nhiên giờ tị là mấy giờ, cụ thể là vào khoảng thời gian nào trong ngày thì có lẽ không phải ai cũng biết, đặc biệt là các bạn trẻ. Để hiểu rõ hơn về cách tính giờ theo 12 con giáp, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu:

+ Một ngày gồm có 24 tiếng, 24 tiếng này quy định là 5 canh và 6 khắc

1. Bảng giờ trong 1 ngày theo 12 con giáp

Tính theo 12 con giáp, thứ tự các giờ sẽ tính như sau:

·         Giờ tý tức là giờ chuột, bắt đầu từ khoảng 23 giờ đêm đến 1 giờ sáng. Những bạn sinh ra vào giờ này tức là sinh giờ tý.

·         Giờ ngọ hay còn gọi là ngựa, bắt đầu từ 11 giờ trưa đến 13 giờ trưa

·         Giờ sửu hay còn gọi là trâu, bắt đầu từ 1 giờ sáng đến 3 giờ sáng

·         Giờ mùi hay còn gọi là dê, bắt đầu từ 13 giờ trưa đến 15 giờ chiều

·         Giờ dần là giờ hổ, bắt đầu từ 3 giờ sáng đến 5 giờ sáng

·         Giờ thân tức là khỉ, bắt đầu từ 15 giờ đến 17 giờ chiều

·         Giờ mão hay còn gọi là giờ mẹo, con mèo, bắt đầu từ 5 giờ đến 7 giờ sáng

·         Giờ dậu là gà từ tính từ 17 giờ đến 19 giờ tối

·         Giờ thìn là rồng tính từ 19 giờ đén 11 giờ sáng

·         Giờ tị là giờ rắn tính từ 9 giờ đến 11 giờ sáng

·         Giờ hợi là heo, tính từ 21 giờ đến 23 giờ khuya

·         Giờ tuất là con chó, tính từ 19 giờ đến 21 giờ tối

Vậy với câu hỏi, giờ tị là mấy giờ, nhìn cách tính ở trên chúng ta sẽ trả lời chính xác được rằng, giờ tị tính từ 9 giờ đến 11 giờ sáng.

2. Một ngày có 5 canh

Ngoài tính xem giờ tị là mấy giờ, giờ hợi là mấy giờ... chúng ta sẽ cùng tìm hiểu thêm về cách chia canh của người xưa.

·         Canh 1 tính từ 19 giờ đến 21 giờ tức là giờ tuất

·         Canh 2 tính từ 21 giờ đến 23 giờ - giờ hợi

·         Canh 3 tính từ 23 giờ đến 1 giờ sáng – giờ tý

·         Canh 4 tính từ 1 giờ đến 3 giờ sáng – giờ sửu

·         Canh 5 tính từ 3 giờ - 5 giờ - giờ dần

Bên trên là một vài hướng dẫn về cách tính giờ, tính canh theo 12 con giáp của người xưa mà chúng ta có thể tham khảo nhé


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có biết chính xác giờ tỵ là mấy giờ?

Con giáp nào là ‘kẻ thứ ba’ khó chịu trong chuyện tình cảm –

Trong chuyện tình cảm, khi đã thực sự rơi vào lưới tình, thì những kẻ thứ ba sẽ vất chấp mọi thứ để chinh phục đối phương dù biết họ đã có ny hoặc gia đình. Con giáp nào thường làm kẻ thứ ba trong tình yêu? Theo các chuyên gia xem tử vi thì người tuổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong chuyện tình cảm, khi đã thực sự rơi vào lưới tình, thì những kẻ thứ ba sẽ vất chấp mọi thứ để chinh phục đối phương dù biết họ đã có ny hoặc gia đình. Con giáp nào thường làm kẻ thứ ba trong tình yêu? Theo các chuyên gia xem tử vi thì người tuổi Tỵ sẽ chủ động chinh phục đối phương bất chấp “hoa đã có chủ” hay chưa….Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết dưới đây để biết con giáp nào là kẻ thứ ba trong chuyện tình cảm nhé!

Nội dung

  • 1 Con giáp là kẻ thứ ba trong tình yêu
    • 1.1 Thứ 1: Tuổi Tỵ
    • 1.2 Thứ 2: Tuổi Sửu
    • 1.3 Thứ 3: Tuổi Mão

Con giáp là kẻ thứ ba trong tình yêu

Thứ 1: Tuổi Tỵ

Họ không quan tâm đến kết quả cuối cùng ra sao mà chỉ lao mình đi tìm cơ hội tiếp cận trái tim đối phương.

ty-9616-1405878996

Dù có mang tiếng là kẻ thứ ba phá đám, họ vẫn kiên quyết tới cùng. Chỉ khi nào đối phương chính thức kết hôn, người tuổi Tỵ mới buông tay.

Thứ 2: Tuổi Sửu

Người tuổi này làm việc gì cũng chắc chắn nhưng lại không thể kiểm soát được tình cảm và tham vọng của bản thân. Nếu đã dính vào chuyện tình yêu, họ tham vọng có được tình cảm của đối phương bằng mọi giá. Dường như không điều gì có thể cản trở họ dừng lại.

suu-6265-1405878996

Họ dễ rơi vào tình huống là kẻ thứ ba “phá đám” chuyện tình của người khác. Bởi lẽ tình cảm sướt mướt trong trái tim họ đã lấn át hết lý chí rồi.

Thứ 3: Tuổi Mão

Người tuổi Mão có bản tính ôn hòa và thích dựa dẫm vào người khác. Nếu ai đó đưa tay giúp đỡ họ trong hoàn cảnh khó khăn, họ sẽ khắc cốt ghi tâm và dành tình cảm yêu mến chân thành.

tuat-5554-1405878996

Thậm chí, nếu có tình cảm đặc biệt với người ấy, họ sẽ chủ động tán tỉnh và tạo cơ hội độc chiếm trái tim đối phương bất kể người đó đã có “gấu” hay chưa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào là ‘kẻ thứ ba’ khó chịu trong chuyện tình cảm –

Không, Kiếp - Hai sát thủ trong tử vi

Địa Không, Địa Kiếp là hai sát tinh nặng nhất, mạnh nhất trong các sao xấu. Tuy chỉ là phụ tinh nhưng ảnh hưởng của hai sao này mạnh ngang ngửa với chính tinh
Không, Kiếp - Hai sát thủ trong tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đắc địa. 

 
Khong, Kiep - hai sat thu trong tu vi hinh anh
 
Chỉ riêng một trong hai sao cũng đủ hóa giải hầu hết hiệu lực của sao tốt nhất là Tử Vi, thậm chí có thể làm cho Tử Phủ trở thành phá cách.
 
Ở những cung đắc địa thì Không Kiếp bén nhạy, can đảm, thành công, giàu có. Ở các cung hãm địa thì Không Kiếp trở nên ích kỷ, gian lận, lưu manh và trộm cướp bất lương.
 
Do bản chất là sát tinh nên dù Không Kiếp có đóng ở nơi đắc địa (Tỵ, Hợi, Dần, Thân) tuy có góp phần làm gia tăng tài danh một cách nhanh chóng nhưng cái may thường đi liền với cái rủi. Sự nguy hiểm bao giờ cũng còn tiềm phục và sẵn sàng tác họa, nếu gặp hung tinh khác.
 
Vị trí tốt nhất của Không Kiếp là Tỵ. Tại đây, chủ sự hoạnh phát mau chóng và bất ngờ về quan, tài, vận hội bộc phát chói lọi được một thời gian.
 
Tại Hợi, Không Kiếp cũng có nghĩa như vậy nhưng cường độ kém hơn nhưng cũng nhờ đó mà nếu có tai họa thì sự suy trầm, xuống dốc sẽ không nhanh chóng như khi ở Tỵ.
 
Tại Tỵ và Hợi, Kiếp Không bao giờ cũng đồng cung cho nên hệ số gia tăng gấp bội về lợi cũng như về bất lợi.
 
Còn ở Dần Thân, Kiếp - Không độc thủ và xung chiếu nên sự phát đạt không mạnh bằng ở Tỵ hay Hợi. Tuy vậy, Không Kiếp ở Dần, Thân dù có nhiều Cát Tinh cũng là một cuộc đời chìm nổi, lên xuống thất thường. Không, Kiếp ở Dần tốt hơn ở Thân.
 
Kiếp, Không đắc địa gặp Tuần, Triệt án ngữ có nghĩa như hãm địa và những luận đoán phải đảo ngược. Trái lại, Kiếp, Không hãm địa gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ chế giảm hay triệt tiêu sức phá hoại của sát tinh này nhưng không hẳn biến thành tốt đẹp.
► ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu Tử vi hàng ngày, Tử vi trọn đời chuẩn xác nhất

Theo Tử vi toàn tập

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Không, Kiếp - Hai sát thủ trong tử vi

Lễ hội tiêu biểu trong ngày 15 tháng 8 âm lịch - Hội Đền Kiếp Bạc

Vào ngày 15 tháng 8 âm lịch có diễn ra một số lễ hội tiêu biểu sau: Hội Đua Thuyền Yên Duyên, Hội Đền Kiếp Bạc, Hội Đền Trần, Hội Tứ Kiệt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội tiêu biểu trong ngày 15 tháng 8 âm lịch - Hội Đền Kiếp Bạc

Lễ hội tiêu biểu trong ngày 15 tháng 8 âm lịch - Hội Đền Kiếp Bạc

Lễ hội tiêu biểu được tổ chức vào ngày 15 tháng 8 âm lịch

1.Hội Đua Thuyền Yên Duyên

Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 8 âm lịch.

Điạ điểm: xã Yên Duyên, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Khát Chân (thành hoàng), Bà Chúa.

Nội dung: Quy định lễ hội bơi chải Yên Duyên khá nghiêm ngặt. Người được tuyển vào đội bơi phải kiêng “trần tục” trước 7 đến 9 ngày, ăn ngủ tập trung để bảo đảm ngày xuống chải thân thể tinh khiết. Thông lệ, hội bơi được mở trong ba ngày từ 13 đến 15 tháng 8 (Âm lịch). Ngày đầu là nội dung “bơi thờ”, nghĩa là làm lễ khai quang chải (dụng cụ chèo thuyền) và các cụ bô lão bơi vòng quanh một vòng, ngày thứ hai “bơi lèo” là giải vòng loại để chọn các đội xuất sắc vào vòng chung kết, ngày thứ ba là “bơi giải”.

Lễ hội bắt  đầu với nghi thức trang nghiêm. Các cụ lão trượng xuất hiện với trang phục áo dài đỏ, đội khăn xếp vàng, dây đai lưng màu, bước trên chòi trống hình tám mắt in trên thuyền rồng, có kết hoa và giải lụa vòng quanh. Cụ “Cả Trượng” đánh ba hồi chín tiếng trống. Dứt hồi trống cuộc thi bắt đầu, những “cây chải” (cây chèo thuyền) rẽ sóng đưa bốn con thuyền lao trên mặt nước như bốn con rồng, mỗi thuyền rồng là một màu áo, đầu rồng và đuôi được sơn son thếp vàng, cờ xí rực rỡ.

Trên bờ sông, mọi người nhất loạt hò reo cổ vũ cùng với tiếng cồng la của người bắt nhịp, tiếng trống thúc giục của cụ “Cả Trượng”, tiếng “rằm bơi” của các chải đập liên hồi xuống mặt nước, hoà quyện vào nhau, tạo nên âm thanh sống động… Khoảng cách điểm xuất phát bơi tới đích dài một cây số, mỗi lèo bơi 3 vòng và đều chấm giải: nhất, nhì, ba, tư. Để giành chiến thắng, các tay chèo phải khổ công rèn luyện để có sức khỏe dẻo dai và có tính đồng đội cao trong thi đấu.

2. Hội Đền Kiếp Bạc

Thời gian: Tổ chức vào ngày 15 tới ngày 20 tháng 8 âm lịch (chính hội vào ngày 18 tháng 8).

Địa điểm: Đền Kiếp Bạc thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Hưng Đạo, Thiên Thành Công Chúa - phu nhân Đại Vương, Hoàng Thái Hậu Quyên Thanh Công Chúa  - Phu nhân Trần Nhân Tông, Anh Nguyên quận chúa - phu nhân Phạm Ngũ Lão.

Nội dung lễ hội:  Ngày nay 20/8 âm lịch mới là chính hội nhưng một vài ngày trước đó khách thập phương đã nô nức kéo về, thuyền đậu chật bến sông. Ngày hội chính được tổ chức rất long trọng, mở đầu bằng lễ dâng hương của chính quyền địa phương. Đại diện chính quyền đọc diễn văn ca ngợi công đức của vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn, ca ngợi thắng lợi của cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông và giữ lại không khí oanh liệt, hào hùng của dân tộc hơn bảy trăm năm trước, đồng thời biểu dương tinh thần đại đoàn kết và lòng yêu nước của nhân dân ta. Sau lễ dâng hương là đại lễ với nghi thức tế uy nghiêm. Sau lễ tế là đến lễ rước, đây là một nghi lễ rất quan trong của lễ hội, Người được chọn chèo thuyền xem đó là một điều vinh hạnh lớn, việc chuẩn bị thuyền rước cũng quan trọng không kém.Tất cả các thuyền rước đều được trang trí những dải vải đỏ ở mạn thuyền, trên thuyền chăng đèn kết hoa rực rỡ. Riêng thuyền rước Long kiệu trang trí vải màu vàng ở mạn thuyền, trên thuyền trang trí cờ hoa màu vàng.lễ rước không giới hạn trong một địa phương mà nó là đám rước của toàn dân, quy tụ người từ khắp nơi với nhiều loại phẩm vật dâng lễ của các vùng miền. Khi lễ rước bắt đầu Bài vị Ðức Thánh Trần được rước trên Kiệu sơn son thiếp vàng, đi qua Tam Quan hướng tới bờ sông. Từ đây kiệu được rước lên thuyền rồng. Cuộc rước kéo dài khoảng 2 giờ, sau đó lại rước Ngài trở lại đền để làm lễ tạ - đồng thời kết thúc ngày hội lớn.

Phần hội khá phong phú và đa dạng đan xen  phần lễ với  nhiều cuộc thi như thi làm cỗ tiễn thánh, đua thuyền, đấu vật, hát dân ca, quan họ…. Một trong những trò diễn hấp dẫn của lễ hội Kiếp Bạc là đua thuyền trên sông Lục Ðầu với hàng trăm chiếc thuyền lướt như tên bắn cùng trống thúc, chiêng dồn và tiếng hò reo dậy đất náo nức lòng người. Trảy hội Kiếp Bạc được sống lại không khí ra trận năm xưa của Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn, mỗi người dân Việt Nam càng thấy tự hào hơn về lịch sử vẻ vang của dân tộc mình.

3. Hội Đền Trần

Thời gian: Tổ chức từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn 14 vị vua Trần.

Nội dung lễ hội: Hội đền Trần diễn ra từ ngày 15 đến ngày 20 tháng tám âm lịch hàng năm. Những năm chẵn hội mở to hơn năm lẻ. Song không đợi đến chính hội, khách thập phương đã nô nức về trẩy hội đền Trần. Hành hương về cội nguồn ai cũng mong muốn điều tốt lành, thịnh vượng. Trước sân đền phấp phới lá cờ đại - lá cờ truyền thống với năm màu rực rỡ biểu trưng cho ngũ hành, hình vuông biểu tượng đất (âm), rìa tua hình lưỡi liềm biểu tượng trời (dương). Chính giữa cờ hội thêu chữ "Trần" bằng chữ Hán do hai chữ "Đông" và "A" ghép lại.

Lễ hội được cử hành trang nghiêm. Nghi lễ được diễn ra với các lễ rước từ các đình, đền xung quanh về dâng hương, tế tự ở đền Thượng thờ 14 vị vua Trần. Lễ dâng hương có 14 cô gái đồng trinh, đội 14 mâm hoa đi vào đền trong tiếng nhạc lễ dâng lên 14 ngai vua. Nghi lễ này là hồi ảnh của cung cách triều đình phong kiến xa xưa.

Phần hội có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá phong phú, độc đáo như chọi gà, diễn võ năm thế hệ, đấu vật, múa lân, chơi cờ thẻ, đi cầu kiều, hát văn, múa bài bông. Chính những nét sinh hoạt văn hoá độc đáo này đã tạo cho hội Đền Trần sức hấp dẫn và cuốn hút du khách thập phương.

Lễ hội Đền Trần là một trong những lễ hội truyền thống lớn, niềm tự hào của mỗi người dân Nam Định khi nhớ về cội nguồn dòng giống của các bậc đế vương và của dân tộc Việt Nam.

4. Hội Tứ Kiệt

Thời gian: tổ chức từ ngày 15 tới ngày 16 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: xã Thanh Hòa, huyện Lai Cậy, tỉnh Tiền Giang.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn bốn vị anh hùng thời chống pháp là: Đước, Long, Rộng, Thận.

Nội dung: Mở đầu lễ hội tứ kiệt là lễ dâng hương tưởng nhớ tới các vị anh hùng sau đó là phần lễ hội với các trò chơi dân gian vô cùng đặc sắc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội tiêu biểu trong ngày 15 tháng 8 âm lịch - Hội Đền Kiếp Bạc

Thay đổi phong thủy giúp nhà mùa đông ấm áp

Chỉ cần một vài thay đổi nhỏ về phong thủy, tổ ấm của bạn sẽ thực sự trở thành chốn nghỉ ngơi, thư giãn thoải mái trong mùa đông lạnh lẽo.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Thông thường vào mùa đông, nếu không biết cách sắp xếp hợp lý hay che chắn cẩn thận, luồng không khí lạnh ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe của thành viên trong gia đình, nhất là với người già và trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai.

Ngoài ra, không khí lạnh buốt của mùa đông khiến sự trao đổi các luồng khí trong ngôi nhà bị ảnh hưởng. Không còn tia nắng ấm, các phòng ngủ, phòng tắm, nhà bếp… luôn trong tình trạng có mùi khó chịu, là điều kiện lý tưởng để vi khuẩn dễ dàng xâm nhập và gây bệnh nhất là cơ quan hô hấp, da dẻ bị khô, nứt nẻ…

Một vài bí quyết dưới đây sẽ giúp bạn lọc sạch không khí ngay chính tổ ấm nhỏ trong mùa đông này:

- Đầu tiên, hãy thay các bóng sáng trắng trong ngôi nhà, đặc biệt là phòng khách, phòng ngủ bằng ánh sáng đỏ hay vàng để tăng cảm giác ấm cúng và gần gũi.

- Hãy thay ga gối của mùa hè, với những gam màu dịu mát bằng các tông màu ấm nóng như đỏ, cam, vàng, nâu đất…

- Sắp xếp lại cách bố trí các vật dụng, tăng cường sử dụng nến hay các loại hoa đặc trưng mùa đông cũng là cách làm mới, khiến không gian ngôi nhà bớt lạnh lẽo hơn.

- Hãy mua thêm cây xanh hay những chậu cây, chậu hoa nhỏ đặt trong phòng khách, nhà vệ sinh, thậm chí là phòng ngủ để giúp làm sạch không khí. Những cây có tán lá to, nhiều lông tơ trên là còn giúp bắt, hút bụi và các chất có hại khác.

- Mùa đông, bạn cần đặt trên tủ sách hay trong tủ quần áo một túi than hoạt tính để giúp hấp thụ khí carbon monoxide và formaldehyde trong không khí. Ngay cả trong phòng trẻ em , nhà bếp, nhà vệ sinh… nếu có mùi lạ hay quá nhiều bụi, bạn cũng có thể đặt một ít than hoạt tính ở góc phòng. Nhưng hãy nhớ đặt ở nơi kín đáo, che khuất tầm với của trẻ và nên được tư vấn kỹ cách sử dụng trước khi dùng.

- Còn bên cạnh tivi, màn hình vi tính, các thiết bị điện tử… hãy đặt chậu xương rồng hay chậu lô hội nhỏ để giảm thiểu tác hại của bức xạ điện từ. Các chậu cây này sẽ hấp thụ carbon dioxide vào ban đêm, ức chế vi khuẩn rất tốt.

(Theo Xzone)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thay đổi phong thủy giúp nhà mùa đông ấm áp

Những phương pháp xua đuổi tà khí không ma quỷ nào dám tới gần

Trong cuộc sống chúng ta thường sẽ gặp phải một số chuyện không may mắn, không tốt lành, hãy áp dụng các phương pháp xua đuổi tà khí dưới đây nhé.
Những phương pháp xua đuổi tà khí không ma quỷ nào dám tới gần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc sống chúng ta thường sẽ gặp phải một số chuyện không may mắn, không tốt lành. Ví dụ như bát tự thân nhược, mệnh cục có âm khí hay gặp sự việc tâm linh khó lý giải, nhìn thấy năng lượng vô hình. Để bảo vệ bản thân, tăng cường vận trình, duy trì trạng thái tinh thần ở mức tốt nhất, tránh xui xẻo hãy áp dụng các phương pháp xua đuổi tà khí dưới đây nhé.  

1. Dùng ngọc trừ tà quỷ


phuong phap tru ta 1
 
Ngọc thạch thu nạp tinh hoa nhật nguyệt, bình được linh khí của đất trời, bách tà đều không thể xâm nhập được. Đặc biệt vào buổi tối, ngọc có thể phát ra ánh sáng, tuy rằng mắt người thường không thể thấy rõ ràng nhưng ma quỷ tà mị không dám lại gần. Vì lẽ đó mà phương pháp xua đuổi tà khí đơn giản nhưng hiệu quả chính là mang một miếng ngọc bên mình.   Trong nhà bày ngọc hoặc vật phẩm phong thủy làm bằng ngọc (nhấn mạnh là ngọc tự nhiên không qua xử lý) thì sẽ mang tới nhiều điều cát lợi, ngăn chặn tà khí, bảo hộ bình an, trợ giúp cuộc sống.   Khi lui tới những nơi nhiều âm khí, tà khí như bệnh viện, tự miếu, nơi hỏa táng, nghĩa trang, nơi vắng vẻ, nhà bỏ hoang thì hãy đeo ngọc để hỗ trợ dương khí, loại trừ ảnh hưởng của âm khí.Đeo ngọc phong thủy không chỉ để ngắm mà còn chiêu nạp phúc khí.   Người làm các công việc cần quan hệ với ban ngành chính phủ hoặc luật pháp kiểm sát tố tụng, quân đội, bộ ban ngành – những ngành nghề thuần dương cũng rất thích hợp để đeo ngọc, trung hòa lệ khí, cân bằng âm dương, tránh dương quá thịnh mà dẫn tới kiêu ngạo, làm chuyện sai lầm.   

2. Kim Cương hộ pháp có thể trừ tà


phuong phap tru ta
 
Kim Cương hộ pháp là bài chú trong kinh Kim Cương của Phật giáo, có tác dụng loại trừ ma quỷ, ngăn ngừa tà khí. Đây là cách thức trừ tà đơn giản dành cho những người tin vào sức mạnh của Phật giáo. Đeo bên mình bản mệnh Phật hoặc Phật ngọc rồi niệm chú Kim Cương, hoặc niệm A Di Đà Phật là đã có thể bảo vệ được chính mình rồi.   

3. Vật màu đỏ dùng để trừ tà

  Dân gian truyền lại một giả thuyết là năm bản mệnh nên mặc đồ lót, tất màu đỏ để giảm bớt hung họa, tăng may mắn. Màu đỏ quả thật có tác dụng trừ tà, ma quỷ sợ đỏ. Trong cuộc sống hàng ngày thường ít dùng màu đỏ thẫm, chỉ có kết hôn – chuyện vui mừng trọng đại mới dùng màu này.    Nếu ở trong nhà có năng lượng vô hình hoặc phạm đường xung, hành lang, văn phòng có lỗi phong thủy thì nên bày vật màu đỏ để giảm bớt sát khí. Cửa phòng làm việc bày vật trang trí màu đỏ không những tăng cường vận khí mà còn hóa giải thị phi, ngăn chặn tiểu nhân, rất có ích.   

4. Đồ dùng sinh hoạt trừ tà


phuong phap tru ta 2
 
Trong nhà có tỏi, hạt tiêu, hành tây – các loại gia vị có khả năng trừ tà thì rất tốt. Bên cạnh đó, nhà có kiếm đỗ đào, chuỗi hạt bằng gỗ đào, vòng tay ngọc thạch hay những vật phẩm phong thủy trừ tà khác thì sẽ có trợ giúp, bảo vệ bình an cho gia trạch.   

5. Người chính trực nghĩa khí có thể trừ tà

  Không cần dùng phương pháp xua đuổi tà khí nào cao siêu, theo dân gian, chính khí cương trường có thể tránh quỷ. Người càng chính trực, tinh lực càng dồi dào thì dương khí càng mạnh, khiến ma quỷ phải e dè sợ hãi. Vì lẽ đó người xưa nói: "Không làm việc trái với lương tâm, không sợ nửa đêm quỷ gõ cửa".    Bình thường làm thêm việc thiện, tích lũy hạnh lành thì nhất định không quỷ nào dám bén mảng tới. Ngược lại làm việc cẩu thả, nội tâm bất an, dương khí tự tổn hại. Bên cạnh đó thân thể càng khỏe mạnh, tâm tình càng vui vẻ thì dương khí càng vượng, tránh xa các loại tà khí.   
phuong phap tru ta 3
 
Nhiều người nửa đêm đi qua nghĩa trang, núi hoang, nhà hoang, nơi nhiều âm khí mà không hề sợ hãi, cũng chẳng gặp hiện tượng lạ bởi chính khí thịnh vượng, trong lòng sáng rõ, không thẹn với lương tâm, quỷ thấy cũng kính nể, không dám gần người . Một thân chính khí là vật trừ tà hữu hiệu nhất, lâu bền nhất trong suốt cả cuộc đời.
  Bách thiện lấy hiếu làm đầu, vạn ác lấy dâm làm đầu. làm thêm việc thiện, đừng sát sinh hãy phóng sinh, chính là tu luyện. Không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không dùng ma túy, không xa xỉ, không tham lam, không ức hiếp người khác, không hãm hại người khác. Chăm chỉ tích đức, tự dưng chính khí vây quanh.
Muốn hóa sát, trừ tà, vượng tài - tìm đến tiền Ngũ Đế Lưu ý quan trọng khi sử dụng bảo kiếm phong thủy trấn trạch an gia 8 loài cây trừ tà nên trưng trong nhà đón năm mới Nghi lễ trừ tà thời khởi thủy và nỗi hoài nghi tâm linh
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những phương pháp xua đuổi tà khí không ma quỷ nào dám tới gần

Trang trí giường cưới đúng phong thủy để hạnh phúc bền lâu

Khi chọn giường cưới, kê giường cưới cho phòng uyên ương, cần chú ý đến những yếu tố cơ bản về phong thủy giúp cuộc sống hôn nhân của cô dâu chú rể luôn hạnh phúc, thuận hòa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn chất liệu giường cưới

Có rất nhiều đôi uyên ương khi mua giường cưới thường chọn kiểu dáng và màu sắc mà quên mất rằng, chất liệu giường cưới mới là điều quyết định đến cảm xúc và mang đến nhiều thuận lợi cho cuộc sống lứa đôi.

Dựa theo mệnh của chú rể để chọn chất liệu giường phù hợp. Tuy nhiên hiện nay, chất liệu làm giường phổ biến là gỗ, nệm cao su và kim loại. Vì vậy, bạn nên chọn chất liệu tương sinh hoặc không xung khắc với mệnh của cả cô dâu và chú rể.

Nếu cả cô dâu và chú rể đều thích giường cưới bằng gỗ, một chất liệu phổ biến để làm giường hiện nay thì có thể điều chỉnh sự cân bằng mệnh bằng cách chọn ga gối giường với màu sắc tương sinh để cuộc sống lứa đôi luôn lãng mạn, hôn nhân thêm viên mãn.


Vị trí đặt giường

Vị trí đặt giường cưới cũng là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng. Trước tiên cần phải tìm một góc yên tĩnh, có ánh sáng dịu dàng để đặt giường cưới. Tránh đặt đối diện với cửa sổ hay cửa ra vào, vừa khiến luồng khí mạnh chiếu thẳng vào giường gây bất hòa cho cuộc sống vợ chồng vừa khiến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày không được tự nhiên.

Vị trí tốt nhất của giường cưới là nơi thông thoáng, hạn chế đặt nhiều đồ trang trí xung quanh. Nên chọn đèn chiếu sáng xung quanh với ánh sáng dịu dàng giúp đôi vợ chồng mới cưới luôn cảm thấy ấm áp và dễ chịu.


Hướng đặt giường

Đặt giường nên tránh hướng Bạch Hổ. Hướng này dễ khiến vợ chồng bất hòa. Giường cưới cũng nên đặt tiếp giáp với bức tường bằng phẳng để tượng trưng cho chỗ dựa ổn định của hôn nhân. Tránh đặt giường ở bức tường cong. Cong theo phong thủy luôn đại diện cho sự chuyển động, do đó cuộc hôn nhân dễ bị trục trặc, không mấy tốt đẹp. Nên kê giường ngủ theo hướng Thanh Long để gia đình luôn hòa thuận, gắn bó.


Lưu ý tường đầu giường cưới

Bức tường nơi đặt phần đầu giường cũng cần chú ý đến việc trang trí. Thông thường chỉ nên treo tranh ở phía đầu giường, một vài điểm nhấn từ vật dụng ở tap đầu giường hay gương trang điểm. Không nên đóng kệ hay gắn tủ phía trên đầu giường cưới khiến cô dâu chú rể luôn cảm thấy bất an và mệt mỏi khi nghỉ ngơi trên giường.


Màu sắc của giường ngủ

Nếu giường ngủ được chọn với chất liệu kim loại, bạn nên sơn toàn bộ giường với màu sắc hợp với mệnh của chú rể. Và đặc biệt nên trải kín chăn ga gối để tạo nên vẻ đẹp bắt mắt cho căn phòng. Hơn nữa, cách trải chăn ga kín giường còn giúp che bớt đi phần kim loại dễ khiến từ trường nhiễu loạn, ảnh hưởng đến sức khỏe của vợ chồng mới cưới.

Nếu chọn giường với chất liệu gỗ thông thường, bạn chỉ cần chọn ga gối có màu sắc phù hợp để tạo nên không khí ấm áp, hài hòa giúp cuộc sống vợ chồng luôn êm ấm.


Đồ trang trí

Ở trong phòng cưới, cạnh giường ngủ có thể đặt hai lọ hoa hai bên giường, hoặc đặt viên pha lê hình con giáp ở gần giường ngủ giúp vợ chồng luôn hòa thuận.


Những cấm kỵ khi kê giường ngủ

Ngoài những yếu tố cơ bản cần chú ý khi kê giường ngủ giúp căn phòng hợp phong thủy, cần chú ý đến những điều kiêng kỵ để cuộc sống vợ chồng luôn hạnh phúc:

- Giường ngủ không được đối diện với nhà vệ sinh

- Giường cưới không nên chọn gam màu tối như xanh sẫm, màu xanh lá cây đậm, đỏ đậm, màu đen... Những gam màu này thường khiến cặp vợ chồng luôn cảm thấy bức bối, khó chịu.


- Giường cưới không nên đối diện với gương khiến vợ chồng bất hòa.

- Giường cưới không nên đặt phía dưới dầm, xà khiến vợ chồng dễ bị suy nhược cơ thể, tinh thần bất ổn.

- Phía bên phải giường ngủ nên rộng hơn bên trái. Theo phong thủy, trường khí tương tác ở bên phải nhiều hơn bên trái. Nếu ngược lại là một điềm không may trong phong thủy.

- Không nên để loa lớn ở hai bên giường ngủ khiến vợ chồng dễ bị suy nhược thần kinh.

- Phía dưới giường không nên chất đầy đồ đạc, để đồ đạc lung tung lộn xộn phía dưới. Giường cưới cần thông thoáng tạo ảnh hưởng tích cực cho luồng sinh khí đi vào, mang lại nhiều điều tốt đẹp cho cuộc sống tân lang, tân nương.


Dương Tất Hoàng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí giường cưới đúng phong thủy để hạnh phúc bền lâu

Lỗi phong thủy phòng cưới khiến vợ chồng tắt lửa yêu

Đặt bể cá, cây cảnh, các đồ điện, gương soi... trong phòng cưới sẽ khiến ngọn lửa tình yêu của cặp uyên ương sớm lụi tàn.
Lỗi phong thủy phòng cưới khiến vợ chồng tắt lửa yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt bể cá, cây cảnh, các đồ điện, gương soi... trong phòng cưới sẽ khiến ngọn lửa tình yêu của cặp uyên ương sớm lụi tàn.


► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy phòng ngủ ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn

1. Đặt bể cá, cây cảnh trong phòng cưới
 
Trong phong thủy, những vật như bể cá, cây cảnh có tính Thủy quá mạnh, tốt nhất không nên để trong phòng mới cưới khiến ngọn lửa tình yêu của vợ chồng lụi tàn vì nước.
 
2. Chất đồ lung tung dưới gầm giường
 
Gầm giường là nơi u ám, không thông thoáng, nếu cộng thêm nhiều đồ linh tinh sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ không khí trong phòng, khiến người trong đó khó ngủ hoặc ngủ không sâu giấc, dễ gặp ác mộng và không tốt cho sức khỏe.

Loi phong thuy phong cuoi khien vo chong tat lua yeu hinh anh
Ảnh minh họa

3. Sơn phòng ngay trước ngày cưới
 
Trong sơn tường có chứa một số chất gây hại cho sức khỏe, nếu sơn tường ngay trước ngày cưới sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, thậm chí gây hại tới thế hệ con cái sau này. Theo đó, bạn nên sơn phòng trước đó một thời gian để các chất độc hại bay đi.

4. Phòng cưới có quá nhiều đồ điện
 
Trong phong thủy, căn phòng đặt quá nhiều đồ điện gọi là “hỏa trạch”, không tốt cho sức khỏe con người. Ngoài ra, do ảnh hưởng của các loại từ trường, vợ chồng dễ nảy sinh mâu thuẫn hoặc có tâm lí tìm người thứ ba để chia sẻ tình cảm.

5. Tivi chiếu thẳng vào chân người
 
Các nhà khoa học đã chứng minh bức xạ điện từ ở tivi có hại với sức khỏe con người. Nếu đặt tivi trong phòng cưới mà ở vị trí chiếu thẳng vào bàn chân lại càng gây hại.
 
Bởi chân chính là trái tim thứ hai của mỗi người. Khi tivi ở chế độ màn hình chờ và chiếu thẳng vào lòng bàn chân, các tia bức xạ có thể ảnh hưởng tới hoạt động của tuần hoàn máu, từ đó sinh ra nhiều loại bệnh tật.
 
6. Treo gương trong phòng ngủ, đối diện với giường
 
Không ít người đã nhận ra lỗi phong thủy này và đã thay đổi, trong khi đó cũng có người rất thích treo gương trong phòng ngủ, thậm chí treo đối diện với giường để nhân đôi sự “mặn nồng” trong đời sống vợ chồng. 
 
Việc treo gương đối diện với giường ngủ dễ tạo ra ảo giác hoặc gây ra sự ám ảnh nếu như bất chợt tỉnh dậy giữa đêm khuya. Điều đó khiến tâm trạng của vợ chồng bất an, lo lắng và khó có được những giây phút thực sự thăng hoa.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lỗi phong thủy phòng cưới khiến vợ chồng tắt lửa yêu

Xem tuổi hợp màu xe –

Theo phong thủy, khi chọn màu sắc cho xe, bạn nên chọn những màu hợp với mệnh của mình để đảm bảo may mắn và tài lộc sẽ đến với bạn. Dưới đây là bảng tra Ngũ hành theo năm sinh: 1970, 1971, 2030, 2031: Thoa xuyến Kim (Vàng trang sức) 1972, 1973, 2032

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, khi chọn màu sắc cho xe, bạn nên chọn những màu hợp với mệnh của mình để đảm bảo may mắn và tài lộc sẽ đến với bạn.

Dưới đây là bảng tra Ngũ hành theo năm sinh:

1970, 1971, 2030, 2031: Thoa xuyến Kim (Vàng trang sức)

1972, 1973, 2032, 2033: Tang đố Mộc (Gỗ cây dâu)

1974, 1975, 2034, 2035: Đại khê Thủy (Nước dưới khe lớn)

1976, 1977, 2036, 2037: Sa trung Thổ (Đất lẫn trong cát)

1978, 1979, 2038, 2039: Thiên thượng Hỏa (Lửa trên trời)

1980, 1981, 2040, 2041: Thạch lựu Mộc (Cây thạch lựu)

1982, 1983, 2042, 2043: Đại hải Thủy (Nước đại dương)

1984, 1985, 2044, 2045: Hải trung Kim (Vàng dưới biển)

1986, 1987, 2046, 2047: Lộ trung Hỏa (Lửa trong lò)

1988, 1989, 2048, 2049: Đại lâm Mộc (Cây trong rừng lớn)

1990, 1991, 2050, 2051, 1930, 1931: Lộ bàng Thổ (Đất giữa đường)

1992, 1993, 2052, 2053, 1932, 1933: Kiếm phong Kim (Vàng đầu mũi kiếm)

1994, 1995, 2054, 2055, 1934, 1935: Sơn đầu Hỏa (Lửa trên núi)

1996, 1997, 2056, 2057, 1936, 1937: Giản hạ Thủy (Nước dưới khe)

1998, 1999, 2058, 2059, 1938, 1939: Thành đầu Thổ (Đất trên thành)

2000, 2001, 2060, 2061, 1940, 1941: Bạch lạp Kim (Vàng trong nến rắn)

Bảng mầu tương hợp

images824093_bangmau

 

Ví dụ: Bạn sinh năm 1980 ==> mạng Thạch Lựu Mộc, tức là cây cối, mạng tương sinh ra bạn là mạng Thủy (nước), tương khắc với bạn là Kim (kim lọai).

Vậy màu hợp với bạn gồm màu xanh lá cây (màu của bạn), màu của thủy gồm không màu (như kim cương, pha lê), đen, xanh dương. Màu khắc với bạn là màu bạc, màu óng ánh.

Khi mua xe, nên chọn xe có màu tương sinh hay cùng hành, kỵ mua xe màu tương khắc với mạng của chủ nhân.

– Mua chiếc xe có màu tương sinh với mạng người chủ thì chiếc xe đó thường đem lại lợi lộc, khi lái xe sẽ thoải mái trong lòng, ít khi bị hư hỏng bất ngờ và nếu rủi ro có bị tai nạn thì thường bị nhẹ hơn màu tương khắc.

– Mua chiếc xe có màu cùng hành với người chủ cũng tốt, nó ít khi gây phiền phức nhưng cũng không được lợi bằng màu sinh nhập (cùng hành là cùng màu theo ngũ hành).

– Mua xe có màu tương khắc với mạng người chủ, thường làm cho sức khỏe người chủ trở nên suy yếu, trong lòng bực bội khi ngồi vào tay lái, bị buộc phải lái đi làm những việc mà trong lòng không muốn. Xe bị trục trặc thường xuyên, hao tốn tiền bạc để sửa chữa, bị cọ quẹt hay bị phá phách một cách vô cớ, khi xảy ra tai nạn thì bị thương tật và chiếc xe bị hư hại nặng nề có khi phải vứt bỏ.

Ngũ hành tương sinh

images582385_phongthuy_nguhanh

 

Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Tương sinh không có nghĩa là hành này sinh ra hành khác, mà là nuôi dưỡng, trợ giúp, làm cho hành kia có lợi. Thí dụ như: Thủy sinh Mộc, nước sẽ làm cho cây tươi tốt. Mộc sinh Hỏa, cây khô dễ cháy tạo nên lửa…

Sự tương sinh của ngũ hành có hai trường hợp:

– Sinh nhập: Hành khác làm lợi cho hành của mình.

– Sinh xuất: Hành của mình làm lợi cho hành khác.

Mộc sinh Hỏa: Hỏa được sinh nhập (được lợi), Mộc bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

Hỏa sinh Thổ: Thổ được sinh nhập (được lợi), Hỏa bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

Thổ sinh Kim: Kim được sinh nhập (được lợi), Thổ bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe)

Kim sinh Thủy: Thủy được sinh nhập (được lợi), Kim bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

Thủy sinh Mộc: Mộc được sinh nhập (được lợi), Thủy bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

Ngũ hành tương khắc

Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Tương khắc có nghĩa là hành này làm hao mòn, diệt dần hay khống chế hành khác. Thí dụ như: Mộc khắc Thổ, rễ cây sẽ ăn hết phân của đất. Thổ khắc Thủy, đất sẽ ngăn chận làm cho nước không thể chảy qua được…

Sự tương khắc của ngũ hành cũng có hai trường hợp:

– Khắc nhập: Hành khác gây tổn hại hoặc kềm chế hành của mình. (Khi đi xe không hợp mệnh có thể dễ bị tai nạn)

– Khắc xuất: Hành của mình kềm chế hay gây tổn hại cho hành khác (Mình không bị hại nhưng xe dễ hỏng).

Mộc khắc Thổ: Thổ bị khắc nhập (bị hại), Mộc khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Thổ khắc Thủy: Thủy bị khắc nhập (bị hại), Thổ khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Thủy khắc Hỏa: Hỏa bị khắc nhập (bị hại), Thủy khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Hỏa khắc Kim: Kim bị khắc nhập (bị hại), Hỏa khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Kim khắc Mộc: Mộc bị khắc nhập (bị hại), Kim khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Màu sắc theo ngũ hành

– Mộc: Màu xanh lá cây nhạt hoặc đậm (green).

– Hỏa: Màu đỏ hay màu huyết dụ (burgundy).

– Thổ: Màu vàng, da cam gạch nhạt hay đậm hoặc màu vàng nhũ (gold).

– Kim: Màu trắng, màu bạc hay xám nhạt (gray hoặc silver).

– Thủy: Màu đen, tím thẫm hay xanh da trời nhạt hoặc đậm (blue).

Mạng theo ngũ hành

Mạng Kim, gồm có các tuổi:

Nhâm Thân 1932 và Quý Dậu 1933; Canh Thìn 1940 và Tân Tỵ 1941; Giáp Ngọ 1954 và Ất Mùi 1955; Nhâm Dần 1962 và Quý Mão 1963; Canh Tuất 1970 và Tân Hợi 1971; Giáp Tý 1984 và Ất Sửu 1985.

Mạng Mộc gồm có các tuổi:

Nhâm Ngọ 1942 và Quý Mùi 1943; Canh Dần 1950 và Tân Mão 1951; Mậu Tuất 1958 và Kỷ Hợi 1959; Nhâm Tý1972 và Quý Sửu 1973; Canh Thân 1980 và Tân Dậu 1981; Mậu Thìn 1988 và Kỷ Tỵ 1989.

Mạng Thủy gồm có các tuổi:

Bính Tý 1936 và Đinh Sửu 1937; Giáp Thân 1944 và Ất Dậu 1945; Nhâm Thìn 1952 và Quý Tỵ 1953; Bính Ngọ 1966 và Đinh Mùi 1967; Giáp Dần 1974 và Ất Mão 1975; Nhâm Tuất 1982 và Quý Hợi 1983.

Mạng Hỏa gồm có các tuổi:

Giáp Tuất 1934 và Ất Hợi 1935; Mậu Tý1948 và Kỷ Sửu 1949; Bính Thân 1956 và Đinh Dậu 1957; Giáp Thìn 1964 và Ất Tỵ 1965; Mậu Ngọ 1978 và Kỷ Mùi 1979; Bính Dần 1986 và Đinh Mão 1987.

Mạng Thổ gồm có các tuổi:

Mậu Dần 1938 và Kỷ Mão 1939; Bính Tuất 1946 và Đinh Hợi 1947; Canh Tý 1960 và Tân Sửu 1961; Mậu Thân 1968 và Kỷ Dậu 1969; Bính Thìn 1976 và Đinh Tỵ 1977; Canh Ngọ 1990 và Tân Mùi 1991.

Nhìn vào bảng liệt kê các mạng, biết tuổi mình thuộc mạng gì, so với màu của ngũ hành để lấy màu sinh nhập cho mạng mình thì biết được mình hợp với màu nào, nên mua xe theo màu đó. Nếu khó tìm màu sinh nhập, chọn màu cùng hành cũng tốt. Ví dụ: Người mạng Thổ sinh năm 1968 có thể đi xe màu đỏ, màu vàng, màu trắng, tránh các màu xanh, đen.

Màu sắc của đồ vật sử dụng như xe máy, ô tô, quần áo giày dép, đồ dùng thường xuyên… cũng có tác động gián tiếp ức chế hay tăng cường đối với ngũ hành của bản mệnh. Nếu chọn lựa màu sắc của trang phục, các đồ vật sử dụng phù hợp với ngũ hành bản mệnh thì cũng mang lại những kết quả tốt, góp phần cải thiện được những thiếu khuyết của bản mệnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi hợp màu xe –

Có thể tin hay không chuyện giết người bằng ánh mắt ?

Giết người bằng ánh mắt - Sức mạnh sát nhân của ánh mắt thật ra được nhiều người biết đến từ lâu. Mời bạn đọc cùng tìm hiểu
Có thể tin hay không chuyện giết người bằng ánh mắt ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Đôi mắt rất quen thuộc với con người nhưng khả năng kì lạ của mắt thì mới đây các nhà khoa học mới khám phá ra.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật


Giet nguoi bang anh mat - chuyen that nhu dua (phan 2) hinh anh
 

3 - Đôi mắt sát nhân - Giết người bằng ánh mắt

Nhà khoa học chuyên nghiên cứu các hiện tượng dị thường người Nga Igor Vinokurov, trong một cuốn sách đã kể lại câu chuyện ly kỳ sau: tại một viện nghiên cứu thuộc Cơ quan điều tra hình sự Matxcơva, ông trưởng phòng nổi tiếng là khó tính và coi thường cấp dưới bỗng đột ngột qua đời. 
 
Cuộc điều tra cho thấy vào hôm đó, ông ta khiển trách gay gắt một nhân viên dưới quyền. Người này im lặng nhưng đã nhìn thẳng vào mặt ông ta với vẻ dữ dội khiến ông bất thình lình ngã gục, đập đầu xuống bàn rồi tắt thở. Cảnh sát không thể tìm ra nguyên nhân cái chết bởi trước đó, ông này hoàn toàn khỏe mạnh. 
 
Chuyên gia giải phẫu bệnh lý sau khi mổ tử thi cho biết, trái tim của người chết dường như đã bị ai đó nắm lấy và bắt nó ngừng đập, tương tự như với quả lắc của đồng hồ. Mọi người chỉ còn biết nghi ngờ cái nhìn căm thù của người cấp dưới là nguyên nhân khiến ông trưởng phòng thiệt mạng. 
 
Sức mạnh “sát nhân” của ánh mắt thật ra được nhiều người biết đến từ lâu. Năm 1553, nhà khoa học nổi tiếng khắp châu Âu là Corneniut Agrip đã viết trong tác phẩm “Nhãn khoa”: “ở Tactari, Ilirin và Tariban có những phụ nữ có thể làm hại tất cả những ai mà họ nhìn trong lúc giận dữ”. 
 
Một trường hợp gây chấn động xảy ra tại Paris vào thế kỷ 19, dưới thời đế chế 2. Ca sĩ Massol là người rất thành công trên sân khấu opera thời đó. Ông không chỉ có giọng hát tuyệt hay mà còn nổi tiếng vì ánh mắt long lanh khác thường. Một hôm như thường lệ, ông hát khúc Aria trong vở opera “Lời nguyền” của nhạc sĩ Halevy, cặp mắt của Massol ngước lên phía mái rạp, bỗng người thợ máy đang di chuyển phông màn trên đó ngã nhào xuống sân khấu và chết ngay tức khắc. 
 
Trong lần biểu diễn khác, ánh mắt ông tình cờ dừng lại hơi lâu chỗ người nhạc trưởng. Người này ngay lập tức cảm thấy nôn nao khó chịu và hai ngày sau thì chết vì một cơn rối loạn thần kinh khác thường. Lần thứ ba, Massol được khuyên nên nhìn vào lô ghế trống trong góc khán phòng khi biểu diễn. Nhưng không ngờ, lô ghế trống hôm đó là chỗ đã được đặt trước bởi một thương nhân đến muộn. Ông này cũng lăn ra chết vào ngày hôm sau. Sau một loạt những sự việc bi thảm đó, Massol đã quyết định từ bỏ sân khấu. 
 

4- Quan điểm của các nhà khoa học

Theo tiến sĩ sinh học Grant Demirchoglian – Viện sĩ Thông tấn Viện hàn lâm Khoa học tự nhiên Nga, những công trình nghiên cứu mới đây nhất của ngành nhãn khoa đều chứng tỏ rằng: con mắt – cũng như bất kỳ một hệ thống quang điện tử nào – không những có thể thu nhận mà còn phát xạ các tín hiệu. 
 
Bản thân cấu tạo của nhãn cầu và võng mạc mắt cũng gợi cho người ta liên tưởng tới một chiếc gương parabol có khả năng phản hồi các tia xạ. Các tia phát xạ phản hồi từ mắt là loại sóng ngắn nên có tác dụng xuyên thấu tựa như tia rơn-ghen hay laser. Nó có thể tác động đến hệ thần kinh trung ương, cũng như hoạt động của toàn bộ cơ thể. 
 
Ai cũng biết là trên tròng đen của mắt có những điểm chịu trách nhiệm về hoạt động của tất cả các cơ quan bên trong. Nếu phóng một tia laser hẹp vào một khu vực nào đó của tròng đen, chẳng hạn vào khu vực của tim, có thể làm tim ngừng đập. 
 
Những nhà Yoga đã từng biểu diễn khả năng uốn cong một vật bằng “nhãn lực” khi nhìn chăm chú vào nó. Nếu có thể chứng minh được các tia phát xạ từ mắt cũng có bản chất tương tự như tia laser, chúng ta có thể tin được về sự tồn tại của các nhân vật trong các truyện viễn tưởng có khả năng tiêu diệt hay đốt cháy kẻ thù chỉ bằng cái nhìn.
 
Để có thể khám phá bí mật của cái nhìn, tiến sĩ Gion Prat và nhà vật lý kiêm nhà tâm lý học Airon Stevenson thuộc đại học Tổng hợp Devengerxki (bang Corolado – Mỹ) đã tiến hành khoảng 800 thí nghiệm. Kết quả là các ông đã phát hiện tới 90% trường hợp trong số những người được thí nghiệm có khả năng dùng mắt phát ra các bức xạ kỳ lạ mang năng lượng sinh học. 
 
Những bức xạ ấy nếu nằm trong dải sóng milimet với tần số cực cao thì có thể gây tác động vật lý lên mọi vật xung quanh tạo nên những hệ quả rõ rệt. Vì vậy, chúng ta đừng coi thường sự tác động đó, đôi lúc, mắt có sức mạnh khôn lường.
ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có thể tin hay không chuyện giết người bằng ánh mắt ?

Dự đoán hôn nhân (3)

1. Mệnh nữ không lợi cho chồng con. Nữ gặp thương quan là tượng khắc chồng tái giá, nếu gặp hợp nhiều thì đó là người đàn bà ti tiện, hoặc dâm ô, hoặc trộm cắp. Ất canh tương hợp là người đàn bà tuy dung mạo đẹp nhưng khắc chồng, hình phạt con. Nữ gặp quan sát hỗn tạp là người khắc chồng tái giá.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thương quan gặp quan thì không những khắc chồng mà thân còn vất vả, nếu không làm hại chồng thì cũng là người bệnh hoạn, người ít phúc đức, cuộc sống không yên ổn.

Thiên can thấu quan sát , địa chi không có quan sát lại còn gặp đất tử tuyệt, đó là người làm suy kiệt chồng, cuối cùng đi làm vợ lẽ.

Nữ tài phải ít, nếu tài nhiều thì dâm loạn.

Tài và quan cả hai đều có thì khi hành vận gặp cả quan lẫn kiếp tài sẽ khắc chồng, qua vận mới nên lấy chồng
(hoặc nên lấy chồng muộn).

Thương quan trùng trùng tất sẽ khắc chồng và tính cách ngang bướng.

Nữ mà quan tinh nhiều thì làm hại chồng.

Nữ mà thực quan ít thì chồng suy, con vượng.

Nữ vận hành đến đất tỉ kiếp thì làm trở ngại chồng, khắc cha.

Quan tuyệt hưu tù thì cô quả, đơn đọc.

Nữ có kình dương là khắc chồng, chắc chắn sẽ tái giá.

Nữ Tứ trụ gặp thương nếu lấy chồng gần thì sẽ khắc chồng, gặp xung, kiêu, ấn nếu không ly dị thì dễ chết.

Nữ chỉ có 1 quan tinh là tốt, nhiều quan tinh là tượng tái giá lấy chồng nhiều lần.

Kiêu, ấn trùng trùng là người vợ dễ tử biệt sinh ly.

Trong Tứ trụ không có quan tinh, không làm vợ lẽ thì cũng là vợ kế.

Tài quan nhập mộ là người không là hại con thì cũng khắc chồng.

Tài quan lâm tử tuyệt là người phụ nữ cô quả đói nghèo.

Tài quan đều rơi vào tuần không vong là gây hại cho chồng, phải bỏ đi phương xa.

Trong Tứ trụ có cả kiêu thực cùng với thương quan là hại con, khắc chồng.

Mậu sinh vào ngày quý là quan, tuổi trẻ đã lấy chồng già. Trong Tứ trụ nếu gặp cả hợi, dậu thì không lấy chồng là tốt nhất.

Nữ không có tài, quan, thực ấn thì người đó cuộc sống không vất vả cũng là làm nghề ca kĩ.

Mệnh nữ trong Tứ trụ đinh gặp nhâm nhiều đó là người dâm loạn.

Phu tinh vượng, tử tinh suy, tất khắc con ; tử tinh vượng. Phu tinh suy, tất làm hại chồng.

Trong Tứ trụ chỉ một phu tinh, hai tài tinh thì gọi là người tranh chồng ; nếu chính tài vượng, thiên tài suy thì mình làm vợ cả, người kia làm vợ lẽ, ngược lại là mình làm vợ lẽ.

Phu tinh không vượng lại còn bị khắc chế là người lấy chồng muộn, hoặc lấy chồng bất minh, lén lút.

Tham tài, làm hỏng ấn là người phụ nữ bất lương ( tài nhiều, ất ít).

Tài tinh nhiều là khắc chồng : thân ở vượng địa là giàu mà khắc chồng con.

Tứ trụ có quý nhân còn gặp trạch mã là người đẹp, phong lưu, khéo.

Người hợp quý nhiều thì người đẹp, đa tình nhưng thấp hèn.

Ðào hoa mờ, mộc dục rõ không là người đi tu cũng là người ở chùa.

Tí, ngọ, mão, dậu đều có là người ham mê tửu sắc, hoang dâm. Dần , thân, tị, hợi đều có là người phụ nữ thông minh.

Ấn tin nhiều là người đó không bị chết thì cũng có cảnh chia ly.

Mệnh nữ nhiều là người đó không bị chết thì cũng có cảnh chia ly.

Mệnh nữ có quan tinh khi hành đến quan vận thì sẽ khắc chồng.

Trong Tứ trụ kim thanh, thủy lạnh là người khó lấy chồng.

Thổ táo, hỏa mạnh thì phòng không lạnh lẽo.

Quan nhiều, ấn nhiều là người cô đơn.

Tài suy, ấn tuyệt là lấy chồng sớm ( tảo hôn).

Tứ trụ gặp tam hình, gặp quan quỷ là khắc con hại chồng.

Thủy tụ vượng là người con gái lẳng lơ.

Lục hợp cùng với tam hình là người hại chồng, làm bại gia nghiệp.

Phá tài, phá ấn là người khó lấy chồng.

Xung quan hợp thực ( thần ) thì hình phạt chồng, sống nương tựa vào con.

Quan tinh được lệnh mà gặp thương là người làm ni cô.

Trụ ngày là kình dương là gặp sát là người không làm vợ lẽ thì cũng đi tu.

Chỗ ngang vai trong lục thân mà lộ ra chị em tất có chuyện tranh chồng.

Trong Tứ trụ toàn tỉ kiếp, quan địa thì chắc chắn có chuyện tranh chồng.

Phu tinh vượng, quan tinh được lệnh, kiêu thần mạnh thì hại con.

Năm và ngày tương xung thì không nên sinh đẻ.

Mệnh đào hoa là người phụ nữ rất dâm.

Thân vượng, quan tinh hung thì người đó không đi tu cũng làm nghề ca kĩ.

Thực thần gặp kiêu thần nhiều, can của năm sinh là thương quan, giờ là kình dương , hình xung khắc hại, lưu niên và các vận xung hợp kiêu thần, kình dương thì nhất đinh sinh đẻ khó khăn, trắc trở.

Phạm tam hình lục hợp, vong thần kiếp sát, cô thần quả tú là người khắc chồng, khắc con.

Nữ gặp quan đế vượng là người còn trinh nguyên.

Quan tinh gặp tuần không vong, ngày sinh vô khí là người không có chồng, nếu có thì cũng luôn luôn sợ chết chồng.

Kim thần gặp giáp là người khắc chồng.

Người trong Tứ trụ có thân tí thìn gặp nhâm quý là người không tiết hạnh.

Người đào hoa gặp kiếp sát là người cô độc, dâm ô, phá hại gia nghiệp, trẻ thì làm nghề linh tinh, già thì cô đơn nghèo khổ.

Hàm trì và đại hao cùng cung với nhau là người độc ác, gian dâm.

Người gặp mão dậu nhiều là người hay sẩy thai, khắc con. Hay đau nhức về bệnh máu.

Phu tinh đắc địa là người nhiều con.

Nhất đóng ở thương quan là người hay chửi chồng. Người như thế nên lấy chồng già làm mẹ kế hay vợ lẽ.

Trong Tứ trụ tân là quan tinh, có sửu là phu ( chồng ) kho nếu gặp nhiều tân là người đã chết chồng.

Nữ gặp tí ngọ mão dậu là người theo trai làm vợ .

Nữ ngày giờ sinh gặp khôi canh là hại chồng khắc con.

Nữ mệnh thủy gặp thổ nhiều là người sống cô đơn.

Cung phu có khắc là lấy vợ muộn, cung thê có khắc là lấy chồng muộn.

Nữ phạm thương quan, nếu không lấy chồng xa thì sẽ khắc chồng, gặp xung khắc kiêu thần nếu không chia tay thì khó sống lâu.

Nữ phạm thượng quan, nếu không lấy chồng xa thì sẽ khắc chồng, gặp xung khắc kiêu thần nếu không chia tay thì khó sống lâu.

Nữ phạm thương, thiên, ấn thì không lợi cho chồng con.

Quan sát nhiều mà không gặp tài là vợ không kính chồng. Cướp quyền chồng.

Quan tuyệt, hưu tù là người cô đơn quả tú. 

2. LY HÔN

Ví dụ 1. Khôn tạo


Tháng 3 năm 1984 người phụ nữ này nhờ đoán. Tôi xem trong Tứ trụ thấy kiêu thương tỉ kiếp đều có, lại còn thêm âm dương sai lệch, trụ ngày có khôi canh, đại vận lại gặp khôi canh nên chắc chắn phải kết hôn hai lần. Năm ất tị 1965 đúng là thương quan gặp thương quan có hại, vì kỉ thổ quan tinh ở vượng địa, chồng khoẻ không đến nỗi chết cho nên đoán ly hôn. Quả nhiên đúng thế.

Ví dụ 2. Khôn tạo


Tứ trụ này thương quan hai rõ ba mờ, thương vượng nhiều, chắc chắn là khắc chồng. Quả nhiên năm 1975 cô đó ly hôn. Năm 1975 cô ta 41 tuổi, hành đại vận giáp tí, gặp lưu niên ất hợi, kiêu ấn đều vượng, đó là năm ly hôn, chính ứng câu " Kiêu ấn trùng trùng là người phụ nữ tử biệt sinh ly". 

Ví dụ 3: Khôn tạo


Tháng 2 năm 1985 cô Mai nhờ tôi đoán. Xem trong Tứ trụ thấy thân ở đất đế vượng, thân vượng, kiêu ấn lại nhiều, kình dương nhiều chắc chắc là người phụ nữ khắc chồng, tái giá. Cho nên đoán : năm nhâm tí 1972 có ly hôn. Sự thực đúng thế

Ly hôn năm 1972 là vì đại vận nhâm dần, lưu niên là nhâm tí, tiểu vận là ngang vai, thân gặp đế vượng tất khắc chồng, lại kình dương trung lặp với tuế quân, "kình dương gặp tuế quân là đột nhiên hoạ đến". Nếu không ly hôn thì nhất định gặp hoạ.  

Ví dụ 4. Khôn tạo


Mùa thu năm 1985 cô Trương đến nhà nhờ đoán. Tôi thấy trong Tứ trụ thân vượng, sát vượng là vợ chồng xung khắc, cung phu sửu thổ là dậu sửu bán hợp , lục hợp với tí sửu là cuộc hôn nhân trước nóng sau lạnh, trước hợp sau tan. Nên năm 1972 ly hôn, năm 1978 ly hôn lần thứ hai.

Ly hôn năm nhâm tí 1972 là vì : đại vận đinh sửu ngang vai khắc chồng, lưu niên nhâm tí chính là hai sửu hợp với 2 tý, tức là chồng hợp với người khác. Năm 1978 lại ky hôn vì đại vận mậu dần là đất thương quan, lưu niên mậu ngọ là chỗ thương quan, "thương quan vượng địa là người khắc chồng". 

Ví dụ 5. Khôn tạo


Tháng 11 năm 1988 khi tôi đang giảng bài ở Nam Kinh có một vị đại sứ nước ngoài nhờ tôi đoán vận cho ông ta và người nhà. Khi tôi sắp xếp Tứ trụ con gái của ông, thấy trong Tứ trụ tỉ kiếp rất nhiều, cung phu tương hình nên khắc chồng rất nặng. Do vậy đoán năm 1975 nhất định phải ly hôn. Quả đúng tháng 5 năm 1975 vừa lấy chồng thì tháng 7 đã ly hôn.

Năm 1975 ly hôn là vì: trong Tứ trụ rất nhiều tỉ kiếp, điều đó ứng với câu : " Tỉ kiếp trùng trùng là chồng không còn tình nghĩa với mình". 

Ví dụ 6 . Khôn tạo

 

Tháng 7 năm 1987, tôi đến núi Phổ Ðà là một thắng cảnh của Phật giáo có 1 nữ thanh niên biết tôi đã nhờ tôi đoán giúp. Tôi thấy trong Tứ trụ, tỉ, kiếp mỗi bên 1 nửa, cung chồng khắc thân đó là tượng người phụ nữ lấy chồng muộn nhưng lại sớm chia tay. Do đó tôi nói với cô ta: cô lấy chồng muộn, nhưng không suôn sẻ. Theo Tứ trụ của cô thì năm kết hôn cũng là năm ly hôn. Năm 1986 có tai hoạ đó, cô ta thừa nhận : đúng như thế!

Năm 1986 ly hôn là vì : gặp đúng đại vận bính thìn, lưu niên bính dần là ấn thủ vượng địa cho nên có việc ly hôn. Ðúng là "tỉ kiếp trùng trùng là kết hôn 2 lần".

Trong 2 ví dụ 4 và 5, tỉ kiếp rất nhiều, nhưng là hai cô ở hai nước khác nhau thế mà tai hoạ trong hôn nhân lại giống nhau nên có thể nói Tứ trụ dự đoán học đoán ở đâu cũng đúng.  

Ví dụ 7. Khôn tạo

 

Ðây là Tứ trụ của một diễn viên điện ảnh nổi tiếng của Trung Quốc, mùa xuân năm 1990 khi tôi ở Thượng Hải đã khẩn thiết nhờ tôi đoán. Tôi xem trong Tứ trụ không thấy quan tinh, tức là "không phải là vợ lẽ thì cũng là vợ kế, nên ly hôn tái giá là điều chắc chắn". Xem đại vận thấy gặp thương quan, lưu niên bính dần lại là lúc "thương quan gặp quan" nên khắc chồng, do đó tôi nói: năm 1986 có chuyện ly hôn, nếu không ly hôn thì chồng chết. Cô ta nói: năm 1986 đã ly hôn. Xem ra đó là điều may mắn vì đã cứu được một sinh mạng.

Ví dụ 8. Khôn tạo

 

Tháng 4 năm 1991 khi ở Singapo người phụ nữ này nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ quan tinh hai lần lộ ra, thương quan mở, năm giáp tí 1984 thì ba quan hội ở vượng địa là người vợ có rắc rối trong hôn nhân, lại gặp phải "thương quan gặp thương quan là sẽ có tai hoạ bất ngờ ập đến", cho nên tôi đoán cô ta năm 1984 phải ly hôn. Lời đoán rất ứng nghiệm. 

3.      MẤT CHỒNG

Ví dụ 1 . Khôn tạo

 

Mùa xuân năm 1984, một thầy thuốc nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ tỉ kiếp nhiều lại gặp đế vượng, phu tinh tí thuỷ lại gặp hưu tù, thương quan laị vượng, tức là phu tinh có khắc không có sinh nên chắc chắn là chết. Do đó tôi đoán chồng chết năm 1969 tức là năm kỉ dậu thương quan. thực tế đúng như thế.

 Ví dụ 2 . Khôn tạo

 

Mùa đông năm 1986 một diễn viên kịch nói nổi tiếng của Trung Quốc đến nhà nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ của bà có "Tứ trụ thuần âm là tượng khắc chồng tái giá", "thực kiêu cũng gặp thương quan là nếu có chồng thì chồng chết", nên tôi đã đoán : nếu chồng bà không chết năm 1970 thì chết năm 1971. Bà nói: đúng, chồng mất năm 1970.

Chết năm 1970 là vì đúng với câu : "Kiêu ấn trùng lặp là người phụ nữ có tử biệt sinh ly". 

Ví dụ 3. Khôn tạo

 

Tháng 1 năm 1986 có 1 phụ nữ thông qua Lô Chí Tần nhờ tôi đoán vận. Tôi thấy trong Tứ trụ của bà, thương quan trùng lặp nhiều nên nói: cuộc đời của bà khổ nhất là việc hôn nhân không thuận, chồng mất liên tiếp, vừa tái giá lại tái giá. năm 1984 lại vừa gặp tai nạn mất chồng. Bà ấy vừa khóc vừa nói : người chồng thứ nhất của tôi mất năm 1959, người thứ hai mất năm 1984.

Chồng mất năm 1984 là vì nguyên nhân: ba thương hội tụ ở vượng địa. 

Ví dụ 4. Khôn tạo

 

Ðầu năm 1984, có 1 người Hồ Bắc đến nhờ tôi đoán. Xem trong Tứ trụ thấy thực nhiều, kiêu mạnh, kiêu thực đều có đó là thông in chồng mất rất rõ. Hiên nay đại vận canh ngọ gặp đát kiêu, năm giáp tí 1984 là năm có 3 thực, 4 kiêu tranh đoạt thực rất kịch liệt, nên năm 1984 có tai họa mất chồng. Tôi đã trình bày cho cô ta cách giải, nhưng cô không làm theo. Về sau tháng 8 năm 1984 thì báo thấy có tang : ngày 3 tháng 3 người chồng bỗng nhiên bị chết. 

Ví dụ 5. Khôn tạo 


Mùa xuân năm 1987 khi tôi lên Bắc Kinh gặp 1 người phụ nữ có chức vụ khá cao đã nhờ tôi đoán vận với thái độ xem thường việc đoán. Tôi thấy bà rất tự phụ, vốn không muốn đoán nhưng để muốn chứng minh rằng Chu dịch dự đoán học và Tứ trụ dự đoán học là có cơ sở nên tôi cũng sắp xếp Tứ trụ và đoán luôn. Vừa vào đầu đã nói đúng yếu điểm của bà ta : năm 1974 bà bị chết chồng. Nghe xong bà ta rất phục.

Ðại vận của bà ta là Giáp dần, lưu niên cũng là giáp dần, là tam quan cùng tương ngộ, hội tụ, tức ứng với câu " Nữ có quan tinh lại gặp quan vận, tất sẽ khắc chồng". 


Ví dụ 6: 
Khôn tạo

  Tháng 5 năm 1991 khi tôi ở Băng Cốc -Thái Lan có 1 bà họ Từ là đại thương nhân, tuy tuổi đã quá 60 nhưng tinh thần vẫn rất sung mãn, cười nói hoạt bát có duyên, tiếp khách nhiệt tình, cởi mờ. Bà ấy đã đưa Tứ trụ ra nhờ tôi đoán. Xem xong Tứ trụ tôi nói luôn : Tứ trụ của bà không có quan tinh là suốt đời tự do thoải mái, đi về một mình. Trong hôn nhân bà trước hết là tì thiếp sau mới làm vợ. Năm 1969 thì mất chồng. Bây giờ giàu có và quyền thế đã ràng buộc bà. Nghe xong bà liền giơ ngón tay cái: Thầy Thiệu là người thần, đoán đúng hết. Về hôn nhân thì bà là người vợ thứ 3 và chồng bà đã mất năm 1969.

Chông mất năm kỉ dậu  (1969) là vì : kiêu, ấn, đều vượng lại gặp tuế vận, lại còn gặp kiêu thần. Ðiều đó ứng với câu " Tứ trụ không có quan tinh không làm vợ lẽ thì cũng làm mẹ kế".

Mục 2 và mục 3 ở trên đều nói về những tiêu chí thông tin và các sự việc khắc vợ, khắc chồng. Hoạ khắc vợ khắc chồng là điều mọi người rất quan tâm. Nhưng tai hoạ có thể hóa giải được không ? Ðiều đó phải xem hoàn cảnh cụ thể của người ấy, có người hoá giải được, có người không. Ví dụ về ly hôn mà nói, ai cũng hy vọng không việc gì xẩy ra việc đó và xem nó như một tai hoạ trong đời người, nhưng thực tế có lúc ly hôn lại cũng không phải hoàn toàn là xấu.

Vì hai vợ chồng khí âm dương ngũ hành bất hoà từ lúc khắc nhau phát triển đến giai đoạn đối kháng, trong thời gian đó hai vợ chồng ngoài những lúc bực tức, tranh cãi, đánh nhau, làm việc gì cũng không thành, tuy rằng việc ly hôn còn do nhiều nguyên nhân gây ra nữa nhưng cũng ít thấy việc ly hôn còn do nhiều nguyên nhân gây ra nữa nhưng cũng ít thấy việc ly hôn lại do cãi nhau, mà điều chủ yếu là do sự đối kháng của khí âm dương bất hòa nên cuối cùng dẫn đến hôn nhân tan vỡ. Cuộc hôn nhân bất hòa có trường hợp sức khắc mạnh mẽ, nếu không ly hôn thì một bên sẽ chết, tuy nhiên cái chết đó là nguyên nhân bên ngoài hoặc bệnh tật gây đến, nhưng thực chất là do mệnh vận tác động sai khiến. Cho nên có những cuộc ly hôn không những cứu được một mạng người mà sua khi ly hôn mỗi người đều tìm thấy những người bạn tương sinh, tương hợp với mình, làm cho hai khí âm dương trong cơ thể được cân bằng, tình cảm thoải mái, thúc đẩy sự nghiệp phát triển, có cống hiến cho xã hội.

Trong vấn đền ly hôn không phải hai bên đều tự nguyện mà thường một bên hay nói có chết cũng không ly hôn. Ðối với các trường hợp như thế có thể tìm cách hóa giải để giải hoạ. Ví dụ tôi đã dùng phương pháp giải cứu cho nhiều cuộc ly hôn có hiệu quả tốt. Dưới đây cử vài ví dụ. Càn tạo. 


Tháng 3 năm 1985, gặp một trường hợp đòi ly hôn nhau, thời gian khá dài. Lãnh đạo và bạn bè đã khuyên hết lời, nói : ông đã hơn 50 tuổi, con cháu đều có, đòi ly hôn không sợ người đời cười hay sao. Nhưng ông ta vẫn một mực không nghe. Cuối cùng ông ta nghe người khác khuyên đến nhờ tôi hóa giải.

Tôi xem trong Tứ trụ ông ta thấy ngang vai nhiều, kình dương lại gặp vượng địa, nhật nguyên là mậu dần, năm và lệnh tháng xung khắc thê tinh rất nặng. Trên Bát quái thông tin khắc vợ cũng rất rõ nên từ rất sớm đã ly hôn 1 lần. Lần ly hôn thứ hai sẽ xảy ra vào năm bính dần (1986) là không nghi ngờ gì nữa.

Nhưng tôi thấy sự khắc vợ của ông ta tuy hung nhưng có thể hóa giải được và đã bày cho ông ta cách giải. Kết quả người chồng càng bình tĩnh và cuối cùng quan hệ vợ chồng tốt dần. Bạn bè người quen ai cũng rất ca ngợi. Còn có một biện pháp đơn giản nữa : nếu vợ chồng đòi ly hôn thì tạm thời ly thân ở riêng ra, sau một thời gian vận khắc nói chung dài từ 5 đến 10 năm, vượt qua vận đó là sẽ tránh được họa. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán hôn nhân (3)

mơ thấy chó mèo là điềm gì?

Dân gian vẫn có câu “Mèo tới nhà thì khó, chó tới nhà thì sang”, nhưng đó là trong hiện thực, trong giấc mơ, đôi khi có phần ngược lại.
mơ thấy chó mèo là điềm gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Giải mã giấc mơ thấy chó, mèo:

giai ma giac mo hinh anh
Ảnh minh họa

Mơ thấy chó
 
Mơ thấy chó điên xuất hiện là dễ xảy ra sự cố bất ngờ, đặc biệt chú ý tai nạn xe cộ.

 
Mơ thấy dắt chó đi dạo ngụ ý quan hệ xã hội tốt, sắp gặp lại bạn bè cũ.

 
Mơ thấy âu yếm chó con ngụ ý quan niệm về thời gian ngày càng kém, thường xuyên trễ giờ.

 
Mơ thấy hai con chó đang tình cảm với nhau là mặt tình yêu có chiều hương tốt nhưng không dễ dàng đi quá giới hạn.

 
Mơ thấy chó đang ăn cơm ngụ ý mọi chuyện thuận buồm xuôi gió, vạn sự như ý.

 
Mơ thấy chó đang đi tiểu là sức khoẻ đi xuống, bạn cần chú ý.

 
Mơ thấy chó hướng về phía mình sủa ám chỉ quan hệ bạn bè xấu đi, tốt nhất nên tránh những người mình không hợp.

 
Mơ thấy chó chạy nhanh là vận tài lộc khá tốt. Sắp có món tiền lớn.

 
Mơ thấy chó dại đang cắn càn cảnh báo bạn gặp sự cố hoặc bị bệnh nặng.

 
Mơ thấy bị chó dại cắn là bạn sẽ nghe thấy tin tức không may từ họ hàng.

 
Mơ thấy chó đã chết ngụ ý những người bạn tốt hoặc trợ thủ của bạn sắp rời xa trần thế.

 
Mơ thấy chó chết là ngụ ý bạn sẽ làm những việc vi phạm đạo đức.

 
Thương nhân mơ thấy chó chết là ngụ ý bạn để đạt được mục tiêu bạn sẽ không từ thủ đoạn nào.

 
Mơ thấy chó đang bơi là cuộc sống khó khăn vất vả.

 
Thương nhân mơ thấy chó đang bơi thì chuyện làm ăn gặp thuận lợi.

 
Mơ thấy chó đánh nhau là sắp xảy ra chuyện liên quan tới chuyện hình sự.


giai ma giac mo hinh anh
Ảnh minh họa

Mơ thấy mèo
Mơ thấy mất con mèo mình nuôi bạn bè cự tuyệt qua lại, không muốn quan hệ.

 
Mơ thấy 1 con mèo bị bỏ rơi cạnh đường và đang kêu ám chỉ đường tài lộc đi xuống.

 
Người bệnh mơ thấy mình nuôi mèo là người này sắp thoát khỏi bệnh tật.

 
Mơ thấy mèo đang tắm nắng dự báo 1 tháng sau vận trình của bạn sẽ bình an vô sự thậm chí có lúc bạn thấy thật vô vị.

 
Mơ thấy mèo đang trèo lên đầu gối - mối quan hệ với người yêu tốt.

 
Mơ thấy bị mèo cắn là điềm lành, khó khăn trong công việc sắp được giải quyết.
 
Mơ thấy mèo hoang là điềm xấu, vận trình chuyển xấu.

 
Mơ thấy một con mèo sạch sẽ tượng trưng cho cuộc sống hạnh phúc.

 
Mơ thấy mèo bẩn thỉu là nhiều đại nạn sắp đến.

 
Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: mơ thấy chó mèo là điềm gì?

Sống hạnh phúc hơn với 10 nghiệp lành của đạo Phật (phần 2)

Đường đời không bằng phẳng, có lòng sân hận thì gặp đâu cũng thấy khó chịu. Thế nên, hãy sống hạnh phúc hơn với 10 nghiệp lành của đạo Phật dưới đây
Sống hạnh phúc hơn với 10 nghiệp lành của đạo Phật (phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

10 nghiệp lành của đạo Phật bên cạnh ý nghĩa tôn giáo còn mang ý nghĩa đạo đức rất sâu sắc và thực tế. Làm được 10 điều này thì tự nhiên cuộc sống sẽ nhẹ nhàng, tự tại hơn.

5. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói vu oan, vu cáo

Lời nói dối đã độc hại, nguy hiểm mà lời nói vu oan, vu cáo kẻ khác còn thâm hiểm, độc ác hơn nhiều. Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân điều động nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân ấy đã mạnh mẽ hơn nhiều.

Lý trí mù quáng, đẩy người khác vào tội đáng ra không phải gánh là tạo nghiệt, con người tự đầy đọa nhau.Nghiệp lành của đạo Phật khuyên con người từ bỏ những lời có hại ấy mà sống khona hòa với nhau.

6. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc, ác ngữ

Tuy những lời nói thuộc loại này không ác độc bằng cách nói trên nhưng cũng không tốt đẹp gì, đều đem đến nguy hại. Lời ấy biểu hiện cái tâm còn hoang dã, bản năng, thô xấu, thiếu văn hoá, thiếu giáo dục, thiếu gia phong. Không chỉ làm người khác đau lòng, dẫn tới sự xô xát mà còn tự hủy hoại đạo đức bản thân.

7. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói nhảm nhí, vô ích, rỗng không, phù phiếm

Thời gian là bạc là vàng, nói lời vô ích, phù phiếm chỉ tốn thời gian, lãng phí công sức mà lại gây hậu quả khôn lường. Nói nhiều thành quen, lời bỡn cợt trở thành hiềm khích, lời nhảm nhí trở thành tai họa. Vừa làm lây nhiễm thói hư tật xấu, gây phiền phức người xung quanh lại tha hóa bản thân, không làm được gì cho đời.

8. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự tham lam

Tham lam là không bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn những sở hữu mà mình đang có; không bao giờ biết sống đời tri túc, mà luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật này, vật kia; luôn luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác; muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người. Có lòng tham nên con người làm đủ mọi cách, không từ thủ đoạn để đạt được, mới nảy sinh ra tội ác. Không có lòng tham thì không có tội ác.

9. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự sân hận (thù oán, oán hận, ác ý)

Thù oán, ác ý là hình thái cảm xúc cực đoan khi con người gặp phải điều không vừa ý. Đường đời không bằng phẳng, có lòng sân hận thì gặp đâu cũng thấy khó chịu, nảy sinh tư thù, làm ra chuyện đại nghịch, tội ác tày trời để thỏa mãn lòng hận của mình. Điều chỉ vậy còn khiến con người luẩn quẩn trong những ssuy nghĩ tăm tối, nóng giận, không khi nào bình yên, thanh thản.

10. Ý vĩnh viễn từ bỏ tà kiến (chuyển tà kiến thành chánh kiến)

Tà kiến là thấy sai, thấy lệch, thấy nghiêng, thấy một bên, thấy một phía, không thấy được cái chân, cái thực, cái toàn diện. Tuy nhiên, mới thấy tà như vậy cũng chưa phải tà kiến. Người thấy tất cả cái tà ấy, còn chấp cái tà ấy là chánh, là sự thật; ra sức bảo vệ, phát triển quan điểm lệch lạc ấy nữa, mới chính thật là tà kiến. cái nhìn sai lệch ấy khiến con người sống sai lệch, làm sai lệch và truyền sự sai lệch ấy tới mọi người xung quanh. Nghiệp lành thứ 10 khuyên con người phải sửa mình cho cái tà thành chánh, cái sai thành đúng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sống hạnh phúc hơn với 10 nghiệp lành của đạo Phật (phần 2)

Quan hệ mẹ chồng nàng dâu và 12 con giáp

Quan hệ mẹ chồng nàng dâu lúc nào cũng trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý dù thời đại ngày nay không còn quá nặng nề như xưa.
Quan hệ mẹ chồng nàng dâu và 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Quan hệ mẹ chồng nàng dâu luôn là vấn đề muôn thuở. Dù thời đại ngày nay không còn gắt gao như xưa, nhưng nếu không cư xử khéo léo, 12 nàng giáp rất dễ bị mẹ chồng ghét bỏ, gây áp lực.

► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về mười hai con giáp bạn nên xem

 

Tuổi Tý

  “Im lặng là vàng”, đó là cách đơn giản nhất để cô dâu tuổi Tý có thể vượt qua mọi sóng gió về mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu.   Bởi hơn ai hết, tuổi Tý khôn khéo và sớm nhận ra chân lý rằng, nói nhiều nói dai thành nói dại, thà cứ im lặng rồi mọi chuyện sẽ lắng xuống, chờ cơ hội phân bua sau.  
Quan he me chong nang dau va 12 con giap hinh anh
 

Tuổi Sửu

  Thật thà như tuổi Sửu mà cũng có lúc “hót như khiếu” đấy ạ. Với những điều thực sự mong muốn và có dụng tâm tốt, nàng dâu tuổi Sửu không tiếc lời nói ngọt ngào để điều chỉnh mối quan hệ giữa hai người phụ nữ trong gia đình.

 

Tuổi Dần

  Hùng hổ, cứng rắn là thế, nhưng một khi đã cần tới sự dịu dàng, cô nàng tuổi Dần cũng sẵn sàng “xuất chiêu”. Tuy không xu nịnh, nhưng thái độ kiểu “ngọt nhạt” đúng hoàn cảnh lại giúp ích nhiều trong việc cải thiện mối quan hệ giữa họ và mẹ chồng.   Trường hợp không còn cách nào duy trì quan hệ tốt đẹp được nữa, nàng dâu tuổi Dần sẽ cố tình tránh mặt, hạn chế tiếp xúc trực diện càng nhiều càng tốt.  
Tuyệt chiêu mang lại may mắn cho 12 con giáp trong tháng cô hồn Nàng giáp kết hôn càng lâu càng hạnh phúc 4 con giáp đừng mơ giàu có trước năm 30 tuổi

Tuổi Mão

 

Bản tính phụ nữ tuổi Mão dịu dàng, nhỏ nhẹ và khéo léo rồi. Vì thế, quan hệ với mẹ chồng khá hài hòa, hiếm khi để mâu thuẫn đạt mức đỉnh điểm, gây ra bất lợi cho chính mình cũng như những người trong gia đình.   Tuổi Mão biết lấy nhu thắng cương. Nhưng một khi lòng tự trọng của họ bị tổn thương, nàng ta sẽ nổi đóa, mẹ chồng dù sắc sảo đến mấy cũng không thể coi thường.  

Tuổi Thìn

  Tự tin trong công việc, sự nghiệp là thế, nhưng tuổi Thìn lại lúng túng trong cách cư xử với mẹ chồng. Chính vì thế, họ thường tham khảo ý kiến bạn bè xung quanh để có được lời khuyên hữu ích nhất.    Đó chỉ là một phần, cái chính bản thân bạn phải tự tin hơn nữa. Hãy sống thật với chính con người mình, để mẹ chồng vừa hiểu vừa yêu quý, thậm chí có chút kiêng nể.  
Quan he me chong nang dau va 12 con giap hinh anh
 

Tuổi Tỵ

  Mối quan hệ giữa tuổi Tỵ - mẹ chồng – chồng ngày càng bị phức tạp hóa. Nguyên nhân chính là do 2 người phụ nữ tranh giành tình cảm của một người đàn ông trong gia đình. Chiêu xử lý tốt nhất, trước mặt mẹ chồng cần phải nhượng bộ, sau lưng có thể từ từ khuyên bảo chồng bằng cách “rót mật vào tai”, mọi sự sẽ êm ấm.  

Tuổi Ngọ

  Cái lý cái tình ở đời đôi khi khó phân biệt, không biết cái nào nên trọng nên khinh. Vì thế, cô nàng tuổi Ngọ đừng quá bảo thủ với cái lý của mình, hãy nghĩ tới cái tình trước mắt. Khi xử lý mọi chuyện bằng tình cảm, đổi lại, bạn sẽ nhận được nhiều hơn thế nữa.  

Tuổi Mùi

  Thành tâm và cư xử khéo léo, đúng mực là cách đơn giản để cô nàng tuổi Mùi lấy lòng mẹ chồng. Lúc cần dùng tiền thì phải dùng tiền, cần dùng lễ phải đáp lễ. Tựu chung, nàng dâu tuổi Mùi rất được lòng mẹ chồng.  
Quan he me chong nang dau va 12 con giap hinh anh
 

Tuổi Thân

 

Dù linh hoạt, mạnh mẽ là thế, nhưng để đối phó với bà mẹ chồng khó tính, cô nàng tuổi Thân luôn xài chiêu yếu ớt, đáng thương. Trong mắt mẹ chồng, họ sẽ không khác gì một đứa trẻ, cần được chỉ bảo và quan tâm tận tình.

 

Tuổi Dậu

  Cô nàng tuổi Dậu luôn biết cách làm chủ các mối quan hệ, với mẹ chồng cũng không ngoại lệ. Họ cư xử khéo léo, biết điều, tôn trọng bề trên nên không được mẹ chồng yêu mến mới là điều lạ.  

Tuổi Tuất

 

Các nàng tuổi Tuất thông minh, lanh lợi và rất nhạy bén. Họ hiểu được rằng, tranh chấp với người bề trên chẳng có lợi ích gì cho bản thân mình. Vì thế, dù mẹ chồng có làm gì quá đáng, họ cũng cố gắng cho qua, coi như mắt không nhìn thấy, tai không nghe thấy gì. Gia đình vì thế mà yên ấm.  

Tuổi Hợi

  Bản chất tuổi Hợi chân thành, không biết bàn mưu tính kế hãm hại ai bao giờ. Trong mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu, họ cũng cố gắng để giữ hòa khí. Khi xuất hiện mâu thuẫn, họ sẽ chọn cách hạn chế tiếp xúc để khiến sự việc sớm lắng xuống.   Ngọc Diệp  
Choáng váng với những con giáp chỉ giữ được bí mật trong 3 phút
Lọt vào danh sách những con giáp không biết giữ bí mật có những cái tên điển hình như tuổi Tý, tuổi Mão, tuổi Tỵ và tuổi Dậu. Một khí bí mật của bạn rơi vào


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quan hệ mẹ chồng nàng dâu và 12 con giáp

Phong tục Bày mâm ngũ quả

Mâm ngũ quả là phong tục truyền thống của người Việt Nam từ bao đời nay. Nó thể hiện đạo lý luôn luôn coi trọng lễ nghĩa của con cháu đối với tổ tiên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mâm ngũ quả dâng cúng tổ tiên là phong tục truyền thống của người Việt từ bao đời nay. Bày mâm ngũ quả thể hiện đạo lý ngàn năm luôn luôn coi trọng lễ nghĩa của con cháu đối với tổ tiên ông bà. Khi tết đến, xuân về,  nhà nào nhà nấy đều  chăm chút sửa soạn mâm ngũ quả thật tươm tất để dâng cúng trên bàn thờ gia tiên.

Mâm ngũ quả thường gồm năm loại quả mà tên gọi có ý cầu mong đạt được một điều gì đó.

Đi xa hơn về căn nguyên thì “ngũ”, tức con số 5 là con số chỉ trung tâm. Người ta tìm thấy nó tọa ở ngăn giữa Lạc thư. Tự dạng chữ ”ngũ” nguyên thể có hình chữ thập của bốn nguyên tố, cộng với điểm trung tâm. Sau này, hai vạch song song được chêm vào đấy tức trời và đất mà giữa chúng, âm và dựơng tạo nên năm nguyên tố tương tác sinh khắc của vạn vật, gọi là ngũ hành của vũ trụ. Theo quan niệm cổ đại phổ biến trong khu vực chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, thường cho rằng các quy luật phổ biến đều gộp vào con số 5.

mâm ngũ quả

Trong Đại từ điển, ”ngũ” có đến mười hai nghĩa và một ngàn một trăm bôn mươi tám từ kép ghép với nó. Phổ quát vì chúng ta có ngũ phương (Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương), hay ngũ sắc, rồi ngũ vị, ngũ âm, ngũ tạng, ngũ kim, ngũ quan, ngũ luân, ngũ cốc,… Như vậy, số 5 là biểu hiện chung của sự sống và ở đây ”ngũ quả” được coi là đầy đủ của loại lễ vật dâng cúng là quả. Vì vậy, mâm ngũ quả phần lớn được yêu cầu sao cho thật đẹp mắt là được. Đối với người nông dân thì ngũ cốc (đạo/nếp hương, lương/gạo, thúc/đậu, mạch/ lúa mì, tắc/kê) là lương thực chủ yếu và ngũ quả sẽ là thứ yếu. Do đó, người ta thường quan sát sự tốt xấu của “ngũ quả” sau đây để dự đoán việc được mùa của ngũ cốc:

Mận chủ vào đậu

Hạnh chủ vào lúa mì

Đào chủ vào tiểu mạch

Lật (hạt dẻ) chủ vào nếp hương

Tảo (táo) chủ vào lúa

Theo sự xác tín đã trở thành tập tục phổ thông trong dân gian nên có thể “ngũ quả” nêu trên là “chuẩn” của năm thứ quả dùng làm lễ vật bỏi lẽ việc dâng lễ vật nào đều có thể là cách biểu thị sự cầu mong của người dâng lễ. Ở đây, đối với người nông dân thời cổ thì điều cầu mong lớn nhất là được mùa ngũ cốc.

Quả (trái cây) là biểu tượng của sự sung túc, dồi dào. Vì quả thường chứa nhiều hạt được đồng nhất với quả trứng vũ trụ, biểu tượng cho mọi nguồn gốc, mọi sự khỏi nguyên; biểu trưng quả (với hạt bên trong của nó) biểu thị cho sự phồn thực, sinh sôi và khao khát sự bất tử – hiếu theo nghĩa là sự nối truyền dòng giống miên viễn.

Theo chiều hướng này, quả bao gồm cả ý nghĩa biểu trưng vượt lên trên nhịp điệu sinh tồn của vạn vật: sự xen kẽ luân hồi của sự sống và cái chết; giữa cuộc sống dưới đất (của hạt giống) và cuộc sống dương thế… Trong văn hoá, cụ thể là trong văn học và nghệ thuật tạo hình, quả vừa là biểu trưng chung vừa là biểu trưng có ý nghĩa riêng – hoặc theo sự đồng âm của nó hoặc nó được xác định bỏi các tình tiết văn học truyền kỳ, thần tiên…

Ở miền Nam, trong mâm ngũ quả thường thấy có mãng cầu, tức là cầu chúc cho mọi điều đều như ý:

Có dừa, vì lối phát âm “dừa” của người miền nam đọc tương tự như chữ “vừa”, có nghĩa là không thiếu. Có sung, vì gắn với biểu tượng sung mãn về sức khỏe hay tiền bạc.

Và đu đủ, vì đó có nghĩa mang đến một năm mới được đầy đủ thịnh vượng. Ngoài ra còn có xoài, vì âm “xoài” na ná đọc như là “xài”, để cầu mong cho tiêu xài không thiếu thốn. Do đó ngày Tết nhìn mâm ngũ quả còn được chen thêm nhiều loại quả khác sẽ vô cùng đẹp mắt như: dưa hấu, táo, đào tiên,…

Khác với người miền nam, đặc trưng của mâm ngũ quả của người miền Bắc là:

Đầu tiên là chuối xanh – ứng-với mùa xuân (hành mộc). Nải chuối như bàn tay ngửa, hứng lấy những gì tinh túy nhất của mùa xuân để đọng thành quả ngọt; nó còn có ý nghĩa che chở, bao bọc.

Thứ hai là quả phật thủ màu vàng – tượng trưng hành thổ nên được đặt ở giữa, trong lòng nải chuôi. Phật thủ là loại quả có mười cánh múi chụm lên như 10 ngón tay nên dân gian gọi là tay Phật. Phật thủ được chưng lên bàn thờ với niềm cầu mong được bàn tay Phật trời ban phúc lộc. Nếu không tìm được Phật thủ, có thể thay bằng quả bưởi chín vàng, cũng mang ý nghĩa tương tự.

Tiếp theo, 3 loại quả khác có các màu đỏ (ứng vối mùa hạ – hành hỏa) như ớt sừng, cam – quýt chín, quả trứng gà, hồng…; màu trắng (ứng với mùa thu – hành kim) như roi, đào; màu đen (ứng với mùa đông I hành thủy) như mận, hồng xiêm…

Nếu như ở miền Bắc, hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày lên bàn thờ gia tiên, kể cả quả ớt mang vị cay, miễn sao mâm ngũ quả trông đẹp mắt là được; thì người miền Nam lại có sự kiêng cữ. Mâm ngũ quả của người miền Nam không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ “chúi”, thể hiện sự nguy khó. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả ngày Tết, vì câu “quýt làm cam chịu”…

Bàn thờ là nơi trang trọng nhất trong mỗi gia đình, mỗi căn hộ, là nơi để tâm linh mỗi người ước nguyện hướng tới những gì tốt đẹp hơn. Tết nếu thiếu bàn thờ thì cái hoang tàn xô đến, niềm cô quạnh dâng đầy, và hình như ta không còn là ngưòi dân Việt nghìn năm trọng tình, hiếu nghĩa, biết ơn tiên tổ nữa. Bàn thờ có chân đèn, chân nến, lư đồng, đài nước, hộp sắc vua phong, tam sự hay ngũ sự… Và ngày Tết, không thể thiếu hương sắc, hình ảnh của mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả làm cho quang cảnh Tết và không gian thờ cứng trong mỗi gia đình Việt thêm ấm áp, rực rỡ mà hài hòa; thể hiện sinh động ý nghĩa triết học – tín ngưõng – thẩm mỹ, đồng thời cũng chứa đựng ước vọng của con người.

Tục chưng mâm ngũ quả ngày Tết là một phong tục đẹp của người Việt

 Xem Tướng chấm net


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong tục Bày mâm ngũ quả

Ý nghĩa sao Đà La - Là một kỵ tinh, hung tinh

Cung Mệnh có sao Đà La, thì có thân hình cao dài, hơi gầy, da xám, lông tóc rậm rạp, mặt thô, răng xấu, mắt kém, chân tay dài, trong mình thường có tỳ vết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Đà La - Là một kỵ tinh, hung tinh

Ý nghĩa sao Đà La - Là một kỵ tinh, hung tinh

Hành: Kim

Loại: Sát Tinh

Tên gọi tắt thường gặp: Đà

Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Kình Dương và Đà La. Gọi tắt là bộ Kình Đà. 

- Phân loại theo tính chất là Kỵ Tinh, Hung Tinh. 

- Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa). 

- Nếu sao Đà La tọa thủ trong cung Vô Chính Diệu (như trường hợp Cung Mệnh Vô Chính Diệu và Cung Phụ Mẫu Vô Chính Diệu của lá số mẫu) được gọi là cách Hung Tinh độc thủ hoặc Đà La độc thủ.

Vị Trí Ở Các Cung của sao Đà La:

Đắc Địa: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

Hãm Địa: Tý, Dần, Mão, Tỵ, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi.

Ý Nghĩa sao Đà La Ở Cung Mệnh:

Tướng Mạo: Cung Mệnh có sao Đà La, thì có thân hình cao dài, hơi gầy, da xám, lông tóc rậm rạp, mặt thô, răng xấu, mắt kém, chân tay dài, trong mình thường có tỳ vết và thẹo.

Tính Tình: Đà La đắc địa: Can đảm, dũng mãnh, thăng trầm, có cơ mưu thủ đoạn, gian hiểm.

Đà La hãm địa: Hung bạo, gian hiểm, độc ác, dâm dật.

Những Bộ Sao Tốt khi đi cùng sao Đà La:

Sao Đà La gặp Lực, Quyền ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi là người có quyền hành, được nhiều người kính phục.

Những Bộ Sao Xấu khi đi cùng sao Đà La:

Sao Đà La gặp Thiên Hình, Địa Không, Địa Kiếp, Thất Sát, Hóa Kỵ: Đạo tặc, gian phi, giết người, cướp của.

Sao Đà La, Thiên Riêu, Hóa Kỵ ở liền cung thì bị họa vô đơn chí.

Sao Đà La gặp Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Kỵ, Hình là người có số ăn mày, yểu, gian phi, vào tù ra khám.

Ý Nghĩa sao Đà La Ở Cung Phụ Mẫu

Cha mẹ và con cái đều không hợp tính nhau.

Đà La, Thất Sát, không được ở gần cha mẹ.

Đà La, Tham Lang, cha mẹ hoang đàng, chơi bời, hoặc cha mẹ làm nghề cao lâu tửu quán, thủ công mỹ nghệ. - Đà La, Liêm Trinh, gia đình túng thiếu hoặc làm nghề vất vả, hay mắc tai nạn về kiện tụng hoặc có nhiều bệnh tật.

Ý Nghĩa sao Đà La Ở Cung Phúc Đức

Sao Đà La ở Dần, Thân vô chính diệu: Phúc thọ, gặp may suốt đời, họ hàng quý hiển cả văn lẫn võ.

Nếu Đà La thêm Tuần, Triệt: Trở thành xấu. 

Ý Nghĩa sao Đà La Ở Cung Điền Trạch

Dù có tổ nghiệp của cha mẹ để lại cũng không được thừa hưởng, nội bộ gia đình hay có chuyện phiền muộn, lục đục, phải đi xa mới có.

Đà La, Kình Dương, Đại Hao, Tiểu Hao, vô điền sản.

Ý Nghĩa sao Đà La Ở Cung Quan Lộc

Sao Đà La, Thiên Mã: Bôn ba, quân nhân.

Sao Đà La, Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Lộc, Hóa Quyền ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi: Rất hiển đạt về võ nghiệp.

Sao Đà La, Kình Dương, Liêm Trinh, công danh hay gặp sự không may, lôi thôi bận lòng.

Ý Nghĩa sao Đà La Ở Cung Nô Bộc

Nếu có sao chính tinh tốt thì bạn bè, người làm, người giúp việc đắc lực, nếu có sao chính tinh xấu, hãm địa, thì hay bị làm ơn nên oán.

Ý Nghĩ saoa Đà La Ở Cung Thiên Di

Ra ngoài hay gặp tai nạn, chết ở xa nhà, luôn luôn gặp sự phiền lòng, tiền bạc dễ bị rủi ro. 

Ý Nghĩa sao Đà La Ở Cung Tật Ách

Trong người hay có tì vết, bị bệnh kín, đau mắt, ruột, gan, dạ dày, bệnh trĩ.

Sao Đà La gặp Nhật, Nguyệt, Kỵ: Đau mắt nặng, có thể lòa.

Sao Đà La, Phượng Các: Cứng tai, điếc tai.

Ý Nghĩa sao Đà La Ở Cung Tài Bạch

Kiếm tiền trong lúc náo loạn, cạnh tranh một cách dễ dàng nhanh chóng. Nhưng nếu Đà La gặp thêm sao Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Hóa Kỵ, có bao nhiêu cũng hết, dễ có tai nạn vì tiền, phá tán.

Ý Nghĩa sao Đà La Ở Cung Tử Đức

Sao Đà La gặp Không, Kiếp, Hỏa (Linh): Con ngổ ngược, du đãng, yểu tử, có tật, ngớ ngẫn.

Sao Đà La gặp Hóa Kỵ: Muộn con trai.

Ý Nghĩa sao Đà La Ở Cung Phu Thê

Vợ chồng bất hòa, xung khắc, hay gây gỗ, cãi cọ lôi thôi.

Sao Đà La gặp Thiên Riêu, Thất Sát, Hỏa, Linh: Đàn bà giết chồng.

Sao Đà La, Khốc Hư (hay Linh Hỏa): Vợ chồng xung khắc.

Sao Đà La, Thái Tuế: Sai ngoa, khắc khẩu, ngồi lê đôi mách.

Ý Nghĩa sao Đà La Ở Cung Huynh Đệ

Anh chị em không hợp tính nhau hoặc hai giòng.

Anh chị em có người tàn tật, phiêu bạt, chết non.

Đà La Khi Vào Các Hạn

Sao Đà La, Thiên Hình hay Đà La ở Thìn, Tuất: Có ngục hình.

Sao Đà La, Không, Kiếp: Tổn tài, bệnh tật, bị lừa gạt.

Sao Đà La, Thái Tuế, Hóa Kỵ: Bị tai tiếng, kiện tụng, cãi vã.

Sao Đà La, Thiên Mã: Thay đổi, bôn ba, quân nhân thì phải đánh Nam dẹp Bắc, chinh chiến lâu ngày.

Sao Đà La, Lưu Đà: Tai họa khủng khiếp, nhất là khi gặp thêm Thất Sát đồng cung.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Đà La - Là một kỵ tinh, hung tinh

Những tên hay dành cho các bé gái –

Dưới đây là hơn một nghìn cái tên dành cho bé gái sẽ giúp bạn đỡ căng thẳng trong việc tìm tên cho bé yêu của mình.Ái HồngÁi KhanhÁi LinhÁi NhânÁi NhiÁi ThiÁi ThyÁi VânAn BìnhAn DiAn HạAn HằngAn NhànAn NhiênAnh ChiAnh ÐàoÁnh DươngÁnh HoaÁnh HồngAnh H

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là hơn một nghìn cái tên dành cho bé gái sẽ giúp bạn đỡ căng thẳng trong việc tìm tên cho bé yêu của mình.

05145313_1

Ái Hồng

Ái Khanh

Ái Linh

Ái Nhân

Ái Nhi

Ái Thi

Ái Thy

Ái Vân

An Bình

An Di

An Hạ

An Hằng

An Nhàn

An Nhiên

Anh Chi

Anh Ðào

Ánh Dương

Ánh Hoa

Ánh Hồng

Anh Hương

Ánh Lệ

Ánh Linh

Anh Mai

Ánh Mai

Ánh Ngọc

Ánh Nguyệt

Anh Phương

Anh Thảo

Anh Thi

Anh Thơ

Ánh Thơ

Anh Thư

Anh Thy

Ánh Trang

Ánh Tuyết

Ánh Xuân

Bạch Cúc

Bạch Hoa

Bạch Kim

Bạch Liên

Bạch Loan

Bạch Mai

Bạch Quỳnh

Bạch Trà

Bạch Tuyết

Bạch Vân

Bạch Yến

Ban Mai

Băng Băng

Băng Tâm

Bảo Anh

Bảo Bình

Bảo Châu

Bảo Hà

Bảo Hân

Bảo Huệ

Bảo Lan

Bảo Lễ

Bảo Ngọc

Bảo Phương

Bảo Quyên

Bảo Quỳnh

Bảo Thoa

Bảo Thúy

Bảo Tiên

Bảo Trâm

Bảo Trân

Bảo Trúc

Bảo Uyên

Bảo Vân

Bảo Vy

Bích Châu

Bích Chiêu

Bích Ðào

Bích Ðiệp

Bích Duyên

Bích Hà

Bích Hải

Bích Hằng

Bích Hạnh

Bích Hảo

Bích Hậu

Bích Hiền

Bích Hồng

Bích Hợp

Bích Huệ

Bích Lam

Bích Liên

Bích Loan

Bích Nga

Bích Ngà

Bích Ngân

Bích Ngọc

Bích Như

Bích Phượng

Bích Quân

Bích Quyên

Bích San

Bích Thảo

Bích Thoa

Bích Thu

Bích Thủy

Bích Trâm

Bích Trang

Bích Ty

Bích Vân

Bội Linh

Cẩm Hạnh

Cẩm Hiền

Cẩm Hường

Cẩm Liên

Cẩm Linh

Cẩm Ly

Cẩm Nhi

Cẩm Nhung

Cam Thảo

Cẩm Thúy

Cẩm Tú

Cẩm Vân

Cẩm Yến

Cát Cát

Cát Linh

Cát Ly

Cát Tiên

Chi Lan

Chi Mai

Chiêu Dương

Dạ Hương

Dã Lâm

Dã Lan

Dạ Lan

Dạ Nguyệt

Dã Thảo

Dạ Thảo

Dạ Thi

Dạ Yến

Ðài Trang

Ðan Khanh

Đan Linh

Ðan Quỳnh

Đan Thanh

Đan Thư

Ðan Thu

Di Nhiên

Diễm Châu

Diễm Chi

Diễm Hằng

Diễm Hạnh

Diễm Hương

Diễm Khuê

Diễm Kiều

Diễm Liên

Diễm Lộc

Diễm My

Diễm Phúc

Diễm Phước

Diễm Phương

Diễm Phượng

Diễm Quyên

Diễm Quỳnh

Diễm Thảo

Diễm Thư

Diễm Thúy

Diễm Trang

Diễm Trinh

Diễm Uyên

Diên Vỹ

Diệp Anh

Diệp Vy

Diệu Ái

Diệu Anh

Diệu Hằng

Diệu Hạnh

Diệu Hiền

Diệu Hoa

Diệu Hồng

Diệu Hương

Diệu Huyền

Diệu Lan

Diệu Linh

Diệu Loan

Diệu Nga

Diệu Ngà

Diệu Ngọc

Diệu Nương

Diệu Thiện

Diệu Thúy

Diệu Vân

Ðinh Hương

Ðoan Thanh

Đoan Trang

Ðoan Trang

Ðông Ðào

Ðồng Dao

Ðông Nghi

Ðông Nhi

Ðông Trà

Ðông Tuyền

Ðông Vy

Duy Hạnh

Duy Mỹ

Duy Uyên

Duyên Hồng

Duyên My

Duyên Mỹ

Duyên Nương

Gia Hân

Gia Khanh

Gia Linh

Gia Nhi

Gia Quỳnh

Giáng Ngọc

Giang Thanh

Giáng Tiên

Giáng Uyên

Giao Kiều

Giao Linh

Hà Giang

Hà Liên

Hà Mi

Hà My

Hà Nhi

Hà Phương

Hạ Phương

Hà Thanh

Hà Tiên

Hạ Tiên

Hạ Uyên

Hạ Vy

Hạc Cúc

Hải Ân

Hải Anh

Hải Châu

Hải Ðường

Hải Duyên

Hải Miên

Hải My

Hải Mỹ

Hải Ngân

Hải Nhi

Hải Phương

Hải Phượng

Hải San

Hải Sinh

Hải Thanh

Hải Thảo

Hải Uyên

Hải Vân

Hải Vy

Hải Yến

Hàm Duyên

Hàm Nghi

Hàm Thơ

Hàm Ý

Hằng Anh

Hạnh Chi

Hạnh Dung

Hạnh Linh

Hạnh My

Hạnh Nga

Hạnh Phương

Hạnh San

Hạnh Thảo

Hạnh Trang

Hạnh Vi

Hảo Nhi

Hiền Chung

Hiền Hòa

Hiền Mai

Hiền Nhi

Hiền Nương

Hiền Thục

Hiếu Giang

Hiếu Hạnh

Hiếu Khanh

Hiếu Minh

Hiểu Vân

Hồ Diệp

Hoa Liên

Hoa Lý

Họa Mi

Hoa Thiên

Hoa Tiên

Hoài An

Hoài Giang

Hoài Hương

Hoài Phương

Hoài Thương

Hoài Trang

Hoàn Châu

Hoàn Vi

Hoàng Cúc

Hoàng Hà

Hoàng Kim

Hoàng Lan

Hoàng Mai

Hoàng Miên

Hoàng Oanh

Hoàng Sa

Hoàng Thư

Hoàng Yến

Hồng Anh

Hồng Bạch Thảo

Hồng Châu

Hồng Ðào

Hồng Diễm

Hồng Ðiệp

Hồng Hà

Hồng Hạnh

Hồng Hoa

Hồng Khanh

Hồng Khôi

Hồng Khuê

Hồng Lâm

Hồng Liên

Hồng Linh

Hồng Mai

Hồng Nga

Hồng Ngân

Hồng Ngọc

Hồng Như

Hồng Nhung

Hồng Oanh

Hồng Phúc

Hồng Phương

Hồng Quế

Hồng Tâm

Hồng Thắm

Hồng Thảo

Hồng Thu

Hồng Thư

Hồng Thúy

Hồng Thủy

Hồng Trúc

Hồng Vân

Hồng Xuân

Huệ An

Huệ Ân

Huệ Hồng

Huệ Hương

Huệ Lâm

Huệ Lan

Huệ Linh

Huệ My

Huệ Phương

Huệ Thương

Hương Chi

Hương Giang

Hương Lâm

Hương Lan

Hương Liên

Hương Ly

Hương Mai

Hương Nhi

Hương Thảo

Hương Thu

Hương Thủy

Hương Tiên

Hương Trà

Hương Trang

Hương Xuân

Huyền Anh

Huyền Diệu

Huyền Linh

Huyền Ngọc

Huyền Nhi

Huyền Thoại

Huyền Thư

Huyền Trâm

Huyền Trân

Huyền Trang

Huỳnh Anh

Khả Ái

Khả Khanh

Khả Tú

Khải Hà

Khánh Chi

Khánh Giao

Khánh Hà

Khánh Hằng

Khánh Huyền

Khánh Linh

Khánh Ly

Khánh Mai

Khánh My

Khánh Ngân

Khánh Ngọc

Khánh Quyên

Khánh Quỳnh

Khánh Thủy

Khánh Trang

Khánh Vân

Khánh Vi

Khánh Vy

Khiết Linh

Khiết Tâm

Khúc Lan

Khuê Trung

Kiết Hồng

Kiết Trinh

Kiều Anh

Kiều Diễm

Kiều Dung

Kiều Giang

Kiều Hạnh

Kiều Hoa

Kiều Khanh

Kiều Loan

Kiều Mai

Kiều Minh

Kiều Mỹ

Kiều Nga

Kiều Nguyệt

Kiều Nương

Kiều Thu

Kiều Trang

Kiều Trinh

Kim Anh

Kim Ánh

Kim Chi

Kim Cương

Kim Dung

Kim Duyên

Kim Hoa

Kim Hương

Kim Khanh

Kim Khánh

Kim Khuyên

Kim Lan

Kim Liên

Kim Loan

Kim Ly

Kim Mai

Kim Ngân

Kim Ngọc

Kim Oanh

Kim Phượng

Kim Quyên

Kim Sa

Kim Thanh

Kim Thảo

Kim Thoa

Kim Thu

Kim Thư

Kim Thủy

Kim Thy

Kim Trang

Kim Tuyến

Kim Tuyền

Kim Tuyết

Kim Xuân

Kim Xuyến

Kim Yến

Kỳ Anh

Kỳ Duyên

Lam Hà

Lam Khê

Lam Ngọc

Lâm Nhi

Lâm Oanh

Lam Tuyền

Lâm Tuyền

Lâm Uyên

Lan Anh

Lan Chi

Lan Hương

Lan Khuê

Lan Ngọc

Lan Nhi

Lan Phương

Lan Thương

Lan Trúc

Lan Vy

Lệ Băng

Lệ Chi

Lệ Hoa

Lệ Huyền

Lệ Khanh

Lệ Nga

Lệ Nhi

Lệ Quân

Lệ Quyên

Lê Quỳnh

Lệ Thanh

Lệ Thu

Lệ Thủy

Liên Chi

Liên Hoa

Liên Hương

Liên Như

Liên Phương

Liên Trân

Liễu Oanh

Linh Châu

Linh Chi

Linh Ðan

Linh Duyên

Linh Giang

Linh Hà

Linh Lan

Linh Nhi

Linh Phương

Linh Phượng

Linh San

Linh Trang

Loan Châu

Lộc Uyên

Lục Bình

Lưu Ly

Ly Châu

Mai Anh

Mai Châu

Mai Chi

Mai Hà

Mai Hạ

Mai Hiền

Mai Hương

Mai Khanh

Mai Khôi

Mai Lan

Mai Liên

Mai Linh

Mai Loan

Mai Ly

Mai Nhi

Mai Phương

Mai Quyên

Mai Tâm

Mai Thanh

Mai Thảo

Mai Thu

Mai Thy

Mai Trinh

Mai Vy

Mậu Xuân

Minh An

Minh Châu

Minh Duyên

Minh Hà

Minh Hằng

Minh Hạnh

Minh Hiền

Minh Hồng

Minh Huệ

Minh Hương

Minh Huyền

Minh Khai

Minh Khuê

Minh Loan

Minh Minh

Minh Ngọc

Minh Nguyệt

Minh Nhi

Minh Như

Minh Phương

Minh Phượng

Minh Tâm

Minh Thảo

Minh Thu

Minh Thư

Minh Thương

Minh Thúy

Minh Thủy

Minh Trang

Minh Tuệ

Minh Tuyết

Minh Uyên

Minh Vy

Minh Xuân

Minh Yến

Mộc Miên

Mộng Ðiệp

Mộng Hằng

Mộng Hoa

Mộng Hương

Mộng Lan

Mộng Liễu

Mộng Nguyệt

Mộng Nhi

Mộng Quỳnh

Mộng Thi

Mộng Thu

Mộng Tuyền

Mộng Vân

Mộng Vi

Mộng Vy

Mỹ Anh

Mỹ Diễm

Mỹ Dung

Mỹ Duyên

Mỹ Hạnh

Mỹ Hiệp

Mỹ Hoàn

Mỹ Huệ

Mỹ Hường

Mỹ Huyền

Mỹ Khuyên

Mỹ Kiều

Mỹ Lan

Mỹ Lệ

Mỹ Loan

Mỹ Lợi

Mỹ Nga

Mỹ Ngọc

Mỹ Nhi

Mỹ Nương

Mỹ Phụng

Mỹ Phương

Mỹ Phượng

Mỹ Tâm

Mỹ Thuần

Mỹ Thuận

Mỹ Trâm

Mỹ Trang

Mỹ Uyên

Mỹ Vân

Mỹ Xuân

Mỹ Yến

Ngân Anh

Ngân Hà

Ngân Thanh

Ngân Trúc

Nghi Dung

Nghi Minh

Nghi Xuân

Ngọc Ái

Ngọc Anh

Ngọc Ánh

Ngọc Bích

Ngọc Cầm

Ngọc Ðàn

Ngọc Ðào

Ngọc Diệp

Ngọc Ðiệp

Ngọc Dung

Ngọc Hà

Ngọc Hạ

Ngọc Hân

Ngọc Hằng

Ngọc Hạnh

Ngọc Hiền

Ngọc Hoa

Ngọc Hoan

Ngọc Hoàn

Ngọc Huệ

Ngọc Huyền

Ngọc Khanh

Ngọc Khánh

Ngọc Khuê

Ngọc Lam

Ngọc Lâm

Ngọc Lan

Ngọc Lệ

Ngọc Liên

Ngọc Linh

Ngọc Loan

Ngọc Ly

Ngọc Lý

Ngọc Mai

Ngọc Nhi

Ngọc Nữ

Ngọc Oanh

Ngọc Phụng

Ngọc Quế

Ngọc Quyên

Ngọc Quỳnh

Ngọc San

Ngọc Sương

Ngọc Tâm

Ngọc Thi

Ngọc Thơ

Ngọc Thy

Ngọc Trâm

Ngọc Trinh

Ngọc Tú

Ngọc Tuyết

Ngọc Uyên

Ngọc Uyển

Ngọc Vân

Ngọc Vy

Ngọc Yến

Nguyên Hồng

Nguyên Thảo

Nguyết Ánh

Nguyệt Anh

Nguyệt Ánh

Nguyệt Cầm

Nguyệt Cát

Nguyệt Hà

Nguyệt Hồng

Nguyệt Lan

Nguyệt Minh

Nguyệt Nga

Nguyệt Quế

Nguyệt Uyển

Nhã Hồng

Nhã Hương

Nhã Khanh

Nhã Lý

Nhã Mai

Nhã Sương

Nhã Thanh

Nhã Trang

Nhã Trúc

Nhã Uyên

Nhã Ý

Nhã Yến

Nhan Hồng

Nhật Ánh

Nhật Hà

Nhật Hạ

Nhật Lan

Nhật Linh

Nhật Mai

Nhật Phương

Nhất Thương

Như Anh

Như Bảo

Như Hảo

Như Hoa

Như Hồng

Như Loan

Như Mai

Như Ngà

Như Ngọc

Như Phương

Như Quân

Như Quỳnh

Như Tâm

Như Thảo

Như Trân

Như Ý

Oanh Thơ

Oanh Vũ

Phi Khanh

Phi Nhung

Phi Phi

Phi Phượng

Phong Lan

Phụng Yến

Phước Bình

Phước Huệ

Phương An

Phương Anh

Phượng Bích

Phương Châu

Phương Chi

Phương Diễm

Phương Dung

Phương Giang

Phương Hạnh

Phương Hiền

Phương Hoa

Phương Lan

Phượng Lệ

Phương Liên

Phượng Liên

Phương Linh

Phương Loan

Phượng Loan

Phương Mai

Phượng Nga

Phương Nghi

Phương Ngọc

Phương Nhi

Phương Nhung

Phương Quân

Phương Quế

Phương Quyên

Phương Quỳnh

Phương Tâm

Phương Thanh

Phương Thảo

Phương Thi

Phương Thùy

Phương Thủy

Phượng Tiên

Phương Trà

Phương Trâm

Phương Trang

Phương Trinh

Phương Uyên

Phượng Uyên

Phượng Vũ

Phượng Vy

Phương Yến

Quế Anh

Quế Chi

Quế Lâm

Quế Linh

Quế Phương

Quế Thu

Quỳnh Anh

Quỳnh Chi

Quỳnh Dung

Quỳnh Giang

Quỳnh Giao

Quỳnh Hà

Quỳnh Hoa

Quỳnh Hương

Quỳnh Lam

Quỳnh Lâm

Quỳnh Liên

Quỳnh Nga

Quỳnh Ngân

Quỳnh Nhi

Quỳnh Như

Quỳnh Nhung

Quỳnh Phương

Quỳnh Sa

Quỳnh Thanh

Quỳnh Thơ

Quỳnh Tiên

Quỳnh Trâm

Quỳnh Trang

Quỳnh Vân

Sao Băng

Sao Mai

Sơn Ca

Sơn Tuyền

Sông Hà

Sông Hương

Song Oanh

Song Thư

Sương Sương

Tâm Đan

Tâm Ðoan

Tâm Hằng

Tâm Hạnh

Tâm Hiền

Tâm Khanh

Tâm Linh

Tâm Nguyên

Tâm Nguyệt

Tâm Nhi

Tâm Như

Tâm Thanh

Tâm Trang

Thạch Thảo

Thái Chi

Thái Hà

Thái Hồng

Thái Lâm

Thái Lan

Thái Tâm

Thái Thanh

Thái Thảo

Thái Vân

Thanh Bình

Thanh Dân

Thanh Đan

Thanh Giang

Thanh Hà

Thanh Hằng

Thanh Hạnh

Thanh Hảo

Thanh Hiền

Thanh Hiếu

Thanh Hoa

Thanh Hồng

Thanh Hương

Thanh Hường

Thanh Huyền

Thanh Kiều

Thanh Lam

Thanh Lâm

Thanh Lan

Thanh Loan

Thanh Mai

Thanh Mẫn

Thanh Nga

Thanh Ngân

Thanh Ngọc

Thanh Nguyên

Thanh Nhã

Thanh Nhàn

Thanh Nhung

Thanh Phương

Thanh Tâm

Thanh Thanh

Thanh Thảo

Thanh Thu

Thanh Thư

Thanh Thúy

Thanh Thủy

Thanh Trang

Thanh Trúc

Thanh Tuyền

Thanh Tuyết

Thanh Uyên

Thanh Vân

Thanh Vy

Thanh Xuân

Thanh Yến

Thảo Hồng

Thảo Hương

Thảo Linh

Thảo Ly

Thảo Mai

Thảo My

Thảo Nghi

Thảo Nguyên

Thảo Nhi

Thảo Quyên

Thảo Trang

Thảo Uyên

Thảo Vân

Thảo Vy

Thi Cầm

Thi Ngôn

Thi Thi

Thi Xuân

Thi Yến

Thiên Di

Thiên Duyên

Thiên Giang

Thiên Hà

Thiên Hương

Thiên Khánh

Thiên Kim

Thiên Lam

Thiên Lan

Thiên Mai

Thiên Mỹ

Thiện Mỹ

Thiên Nga

Thiên Nương

Thiên Phương

Thiên Thanh

Thiên Thảo

Thiên Thêu

Thiên Thư

Thiện Tiên

Thiên Trang

Thiên Tuyền

Thiều Ly

Thiếu Mai

Thơ Thơ

Thu Duyên

Thu Giang

Thu Hà

Thu Hằng

Thu Hậu

Thu Hiền

Thu Hoài

Thu Hồng

Thu Huệ

Thu Huyền

Thư Lâm

Thu Liên

Thu Linh

Thu Loan

Thu Mai

Thu Minh

Thu Nga

Thu Ngà

Thu Ngân

Thu Ngọc

Thu Nguyệt

Thu Nhiên

Thu Oanh

Thu Phong

Thu Phương

Thu Phượng

Thu Sương

Thư Sương

Thu Thảo

Thu Thuận

Thu Thủy

Thu Trang

Thu Vân

Thu Việt

Thu Vọng

Thu Yến

Thuần Hậu

Thục Anh

Thục Ðào

Thục Ðình

Thục Ðoan

Thục Khuê

Thục Nhi

Thục Oanh

Thục Quyên

Thục Tâm

Thục Trang

Thục Trinh

Thục Uyên

Thục Vân

Thương Huyền

Thương Nga

Thương Thương

Thúy Anh

Thùy Anh

Thụy Ðào

Thúy Diễm

Thùy Dung

Thùy Dương

Thùy Giang

Thúy Hà

Thúy Hằng

Thủy Hằng

Thúy Hạnh

Thúy Hiền

Thủy Hồng

Thúy Hương

Thúy Hường

Thúy Huyền

Thụy Khanh

Thúy Kiều

Thụy Lâm

Thúy Liên

Thúy Liễu

Thùy Linh

Thủy Linh

Thụy Linh

Thúy Loan

Thúy Mai

Thùy Mi

Thúy Minh

Thủy Minh

Thúy My

Thùy My

Thúy Nga

Thúy Ngà

Thúy Ngân

Thúy Ngọc

Thủy Nguyệt

Thùy Nhi

Thùy Như

Thụy Nương

Thùy Oanh

Thúy Phượng

Thúy Quỳnh

Thủy Quỳnh

Thủy Tâm

Thủy Tiên

Thụy Trâm

Thủy Trang

Thụy Trinh

Thùy Uyên

Thụy Uyên

Thúy Vân

Thùy Vân

Thụy Vân

Thúy Vi

Thúy Vy

Thy Khanh

Thy Oanh

Thy Trúc

Thy Vân

Tiên Phương

Tiểu Mi

Tiểu My

Tiểu Quỳnh

Tịnh Lâm

Tịnh Nhi

Tịnh Như

Tịnh Tâm

Tịnh Yên

Tố Loan

Tố Nga

Tố Nhi

Tố Quyên

Tố Tâm

Tố Uyên

Trà Giang

Trà My

Trâm Anh

Trầm Hương

Trâm Oanh

Trân Châu

Trang Anh

Trang Ðài

Trang Linh

Trang Nhã

Trang Tâm

Triệu Mẫn

Triều Nguyệt

Triều Thanh

Trúc Chi

Trúc Ðào

Trúc Lam

Trúc Lâm

Trúc Lan

Trúc Liên

Trúc Linh

Trúc Loan

Trúc Ly

Trúc Mai

Trúc Phương

Trúc Quân

Trúc Quỳnh

Trúc Vân

Trúc Vy

Từ Ân

Tú Anh

Từ Dung

Tú Ly

Tú Nguyệt

Tú Quyên

Tú Quỳnh

Tú Sương

Tú Tâm

Tú Trinh

Tú Uyên

Tuệ Lâm

Tuệ Mẫn

Tuệ Nhi

Tùng Quân

Tường Chinh

Tường Vân

Tường Vi

Tường Vy

Tùy Anh

Tùy Linh

Túy Loan

Tuyết Anh

Tuyết Băng

Tuyết Chi

Tuyết Hân

Tuyết Hoa

Tuyết Hồng

Tuyết Hương

Tuyết Lâm

Tuyết Lan

Tuyết Loan

Tuyết Mai

Tuyết Nga

Tuyết Nhi

Tuyết Nhung

Tuyết Oanh

Tuyết Tâm

Tuyết Thanh

Tuyết Trầm

Tuyết Trinh

Tuyết Vân

Tuyết Vy

Tuyết Xuân

Uyển Khanh

Uyên Minh

Uyên My

Uyển My

Uyển Nghi

Uyển Nhã

Uyên Nhi

Uyển Nhi

Uyển Như

Uyên Phương

Uyên Thi

Uyên Thơ

Uyên Thy

Uyên Trâm

Uyên Vi

Vân Anh

Vân Chi

Vân Du

Vân Hà

Vân Hương

Vân Khanh

Vân Khánh

Vân Linh

Vân Ngọc

Vân Nhi

Vân Phi

Vân Phương

Vân Quyên

Vân Quỳnh

Vân Thanh

Vân Thường

Vân Thúy

Vân Tiên

Vân Trang

Vân Trinh

Vàng Anh

Vành Khuyên

Vi Quyên

Việt Hà

Việt Hương

Việt Khuê

Việt Mi

Việt Nga

Việt Nhi

Việt Thi

Việt Trinh

Việt Tuyết

Việt Yến

Vũ Hồng

Vy Lam

Vy Lan

Xuân Bảo

Xuân Dung

Xuân Hân

Xuân Hạnh

Xuân Hiền

Xuân Hoa

Xuân Hương

Xuân Lâm

Xuân Lan

Xuân Lan

Xuân Liễu

Xuân Linh

Xuân Loan

Xuân Mai

Xuân Nghi

Xuân Ngọc

Xuân Nhi

Xuân Nhiên

Xuân Nương

Xuân Phương

Xuân Phượng

Xuân Tâm

Xuân Thanh

Xuân Thảo

Xuân Thu

Xuân Thủy

Xuân Trang

Xuân Uyên

Xuân Vân

Xuân Yến

Xuyến Chi

Ý Bình

Ý Lan

Ý Nhi

Yến Anh

Yên Ðan

Yến Ðan

Yến Hồng

Yến Loan

Yên Mai

Yến Mai

Yến My

Yên Nhi

Yến Nhi

Yến Oanh

Yến Phương

Yến Phượng

Yến Thanh

Yến Thảo

Yến Trâm

Yến Trang

Yến Trinh

     


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tên hay dành cho các bé gái –

Cải thiện khí tốt cho phòng tắm –

Sau khi thực hiện các phương pháp phòng ngừa cần thiết ở trên, bạn có thể tiếp tục cải thiện khí của phòng tắm bằng cách biến nó thành một không gian càng dễ chịu càng tốt. Đây là nơi bạn khởi đầu và kết thúc thời gian hoạt động của mỗi ngày, vì thế,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

phòng tắm càng cần thoái mái, hấp dẫn.

191332684138915736_UePT87uq_c

Đa số chúng ta đều sống gấp gáp, căng thẳng và thật sự cần không gian yên tĩnh để thư giản và nghỉ ngơi. Một phòng tắm sạch sẽ, gọn gàng, mang tính thẩm mỹ “mời gọi” bạn ngâm mình trong bồn nước nóng pha muối cùng mùi hoa oải hương để rửa trôi hết lo lắng. Hãy kết hợp với nến, nhạc nhẹ và khăn tắm mềm. Phòng tắm chỉ có màu trắng gợi lên sự lạnh lẽo và đơn sơ, vậy hãy bổ sung sự ấm áp bằng khăn tắm và đồ trang trí màu nhạt, nến thơm nhiều màu và tác phẩm nghệ thuật hấp dẫn.

Ngày nay, phòng tắm đi liền với phòng ngủ rất phố biến. Vấn đề là với cách bố trí này, phòng ngủ sẽ bị năng lượng làm tiêu hao của phòng tắm xung chiếu suốt đêm, có thể dẫn tới việc ngủ không ngon, năng lượng yếu và các vấn đề sức khỏe.

Cách hóa giải tốt nhất đối với trường hợp này là lắp cửa ở lối vào. Nếu không thể, hãy lắp màn cửa và kéo màn che kín suốt đêm, hoặc treo một (hoặc hơn) quả bóng pha lê có cạnh ở lối vào để cản luồng khí lưu chuyển qua.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cải thiện khí tốt cho phòng tắm –

Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Tuất, Hợi

Cùng xem mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Tuất và Hợi có những đặc điểm gì nổi bật.
Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Tuất, Hợi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



1. Cha mẹ tuổi Tuất

- Con tuổi Dần, Mão, Tỵ, Thân, Tuất, Hợi: Nhìn chung, gia đình yên ấm, con cái nghe lời cha mẹ, cha mẹ hết lòng yêu thương, nuôi dạy con nên người, quan tâm, chăm sóc cho con từ những chuyện nhỏ nhất.

- Con tuổi Tý, Sửu, Thìn, Ngọ, Dậu: Gia đình khó hòa thuận, con cái thường có xu hướng tự lập, ít quan tâm đến cha mẹ khiến họ phiền lòng. Cha mẹ cũng ít có thời gian hỏi han, chăm sóc cho con cái. Cuộc sống gia đình buồn chán, lặng lẽ.

2. Cha mẹ tuổi Hợi

Cha mẹ tuổi Hợi hợp với con cái tuổi Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi

- Con tuổi Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi: Gia đình êm ấm, hạnh phúc, sum vầy. Cuộc sống tràn ngập niềm vui và tiếng cười. Cha mẹ yêu thương, chăm sóc con cái; ngược lại, con cái cũng hết lòng vì cha mẹ, luôn mong cha mẹ được an nhàn. Họ trở thành những người con tài giỏi, thông minh và hiếu thuận.

- Con tuổi Tỵ, Ngọ: Con cái hay làm cha mẹ phiền lòng, thường có xu hướng thoát ly sớm để tách khỏi cha mẹ. Tuy hiểu được nỗi niềm của cha mẹ nhưng người con vẫn làm theo ý kiến của riêng mình. Thậm chí cái tôi của con quá cao khiến cha mẹ phải phiền lòng.

(Theo Đời người qua 12 con giáp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Tuất, Hợi

Ông Bà Tổ Tiên

Giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Việt liên hệ với việc truyền giáo Lm Vũ Kim Chính, SJ Giáo sư Ðại Học Công Giáo Phụ Nhân, Ðài Loan
Ông Bà Tổ Tiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ðề cập tới văn hóa, phong tục của một dân tộc là một đề tài hết sức phức tạp, vì mỗi dân tộc không ít thì nhiều là một đơn vị đặc thù, dầu vậy tính cách đặc thù văn hóa này không khải là cô lập, nhưng là kết tinh vừa tế nhị vừa phức tạp qua sự giao tiếp với các dân tộc khác, với những nền văn minh khác. Văn hóa, phong tục tập quán của nfười Việt cũng thế, là những tinh hoa đã được gạn lọc, biến hóa qua cuộc sống dân tộc của biết bao nhiêu thời đại, qua việc tiếp xúc với nền văn minh, những nguồn tư tưởng sâu rộng nhất, mạnh mẽ nhất của nhân loại như Hoa-Ấn, Hy-La. Ở đây khi chọn đề tài "Ông bà tổ tiên" liên hệ với việc truyền giáo, chúng ta đã thu hẹp phạm vi không thảo luận những liên hệ Lão giáo và Phật giáo, nhưng chỉ chú tâm vào Nho giáo và Kitô giáo có liên quan tới vấn đề "lễ nghi" đối với ông bà tổ tiên. Trước tiên chúng ta truy xét lý do tại sao người Việt thành kính ông bà tổ tiên, thứ tới thảo luận lý do người Việt Công giáo trong quá trình lịch sử gặp phải những khó khăn khi bầy tỏ lòng thành kính này theo như phong tục tập quán của mình. Cuối cùng chúng ta tự hỏi có thể học được gì trong kinh nghiệm lịch sử này để hy vọng có thể suy tư về một thần học bản vị hóa việc thành kính ông bà tổ tiên?

1. Nguồn Gốc Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên

Tuy ai cũng biết mỗi người, mỗi gia đình đều có ông bà tổ tiên riêng, nhưng nói tới việc tôn kính ông bà tổ tiên cách chung là chấp nhận những điểm tương đồng của những nền văn hóa Viễn Ðông trong lịch sử ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của Nho học, như Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam. Nên ở dây khi bàn về nguồn gốc tôn kính ông bà tổ tiên hay ở phần sau thảo luận những tranh chấp về "lễ nghi" thì những tài liệu của các quốc gia trên đều có thể dùng để bổ túc cho nhau để hiểu rõ vấn đề.

Việt ngữ dùng danh từ "tôn giáo" để chỉ chung các tín ngưỡng. Chữ "tôn" cũng còn một âm nữa là "Tông" nguyên ủy chỉ ông "thứ tổ" (ông tổ thứ hai), rồi dùng rộng hơn nữa để chỉ nơi thờ kính tổ tông, cũng như chỉ các giáo phái, học phái. Như vậy, "tôn giáo" theo ngữ văn là thực hiện lòng hiếu kính đối với tổ tông, tổ tiên. Lòng hiếu kính này được biểu tỏ nôm na theo lối bình dân như:

"ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
uống nước nhớ tới nguồn"
, hoặc:

"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn đạo hiếu mới là đạo con"
.

Hay Nguyễn Du viết trong truyện Kiều:

"Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân"
.

hay ở đoạn khác:

"Lấy tình thâm, trả tình thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời"
.

Như vậy căn nguyên tôn kính ông bà tổ tiên ở đâu? Phải chăng là một sự tôn kính "Thần Thánh" theo phẩm trật? Như sách Lễ Ký, thiên Khúc-lễ-hạ đã chép: "Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn xuyên, tế ngữ tự, chư hầu phương tự, tế ngũ tự (tức là tế Thần cửa, ngõ, giếng, bếp và giữa nhà), chư hầu tế phương mình ở, tế ngũ tự, quan đại phu tế ngũ tự, kẻ sĩ tế tổ tiên). Thực ra đây là những phương châm cho những nền văn hóa chịu ảnh hưởng Khổng học, nên dù ở Thiên An Môn bên Trung Hoa hay ở Ðàn Nam Giao tại Huế, việc tế trời chỉ có nhà vua mới có quyền đứng chủ tế. Trong lễ tế Nam Giao, trên Viên-Ðàn ở giữa là bàn Thời Trời Ðất, hai bên có hai hàng hương án song hành thờ các Tiên Ðế. Xem như thế, thừ Vua quan tới thứ dân, tế tự là việc rất quan trọng, lễ nghi được minh định có trật tự, chung qui vào hai nguyên ủy là Trời và Tổ, vì "vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ" (Lễ ký) (dịch: muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở Tổ). Nhưng thực ra hai nguyên ủy này chỉ bắt nguồn bởi một mà thôi, vì các Tổ Tiên tuy sinh ra người, nhưng tất cả đều do Trời sinh dưỡng, như Kinh Thi chép: "Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức" (Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, mới có đức tốt).

"Ông Trời" là nguyên ủy của muôn loài, nên tế Trời là quan trọng nhất, do đó không phải ai cũng được phép mà chỉ có Thiên Tử, dân chi phụ mẫu, mới được trực tiếp hành lễ mà thôi. Ông Trời tuy rất gần kề đại chúng trong cuộc sống, khi vui khi buồn đều có thể gọi "Trời ơi" được, nhưng họ không được phép trực tiếp cúng tế, nên thường kêu cầu tới Tổ Tiên hay cúng tế các thiểu thần. Chính vì thế mà Trần Trọng Kim đã viết: "Việc thờ Trời, thờ quỉ thần và tổ tiên, tuy là phân biệt, nhưng kỳ thực cũng là theo một lý cả, và chính là cái tôn giáo đặc biệt của những dân tộc theo văn minh Tầu ở Á đông". Dù được trực tiếp tế tự "Trời" hay chỉ gián tiếp qua Thần Thánh, tổ tiên, người Việt đều tin tưởng vào sự liên đới "Thiên nhân tương dữ". Theo đó con người được phú cho nhân tính để nhận ra thiên lý, để mô phạm Thiên tính, để trong cuộc sống họ thực thi nhân đạo hợp với Thiên đạo. Nói cách khác: "Trời đối với quần chúng như một nguyên ủy tiền định con người, nhưng vượt trên con người, định đoạt sinh tử, phúc họa, giầu nghèo. Họ kêu Trời vì Trời không xa ta. Trời thấu suốt tất cả, cả những tâm tư thầm kín. Họ kêu Trời vì Trời toàn năng, không mù quáng trong việc xét xử. Trời công minh vì thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ".

Nho gia thừa hưởng tư tưởng Khổng tử tin Trời là chủ tể vũ trụ, điều hòa mọi biến hóa bởi vậy tri Thiên mệnh là nguồn gốc và lý tưởng của tu tâm và dưỡng tính của bậc quân tử". "Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã" (Luận Ngữ; Nghiêu viết, XX) (dịch: không biết mệnh Trời thì không lấy gì làm quân tử). Khi bậc quân tử quyết tâm học biết và tuân theo mệnh Trời tức là sống trong tâm tình Kính và Thành. Mặc dù khi họ cúng tế thì biểu tỏ lòng chân thành: "tế thần như thần tại" (Luận Ngữ: Bát dật, III) (dịch: tế thần như có thần ở đó); nhưng đồng thời "kính quỉ thần nhi viễn chi" (Luận Ngữ: Ung giả, VI) (dịch: quỉ thần thì kính mà xa ra), vì theo Khổng tử con người làm sao biết được thế giới quỉ thần cao xa, u ẩn, nếu có tưởng tượng ra không khỏi bầy ra những điều huyền hoặc, dẫn đường cho mê tín. Như vậy, Khổng tử tuy rất trọng lễ, coi nghi thức là bày tỏ lòng Thành Kính, nhưng đồng thời cũng coi thực hành đạo Nhân là sống Thành Kính hợp với Thiên mệnh là rất quan trọng. "Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ sự" (Kinh Dịch:Văn Ngôn truyện) (dịch: quân tử lấy cái nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là đủ làm hòa cái nghĩa, biết cái trinh-chính mà cố giữ là đủ lam gốc cho mọi sự). Vậy đạo Nhân là gì? "là Cung, khoan, tín, mẫn, huệ". Khổng tử giải thích thêm: "Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người ta tin cậy được, mẫn thì có công, huệ thì đủ khiến được người" (Luận Ngữ: Dương Hóa, XVII). truy ngồn năm cái kết quả diễn đạt đạo Nhân này, chúng ta sẽ tìm ra cái Nhân Tâm Thành Kính. Tam đạo là quan trọng như thế, nên sau này, mặc dù Mạnh tử và Tuân tử mỗi người phát huy Khổng học theo đường hướng riêng, một người coi trọng "Nhân" là bảo tồn tính bản thiện của con người, một người trọng "Lễ" để chế ngự tính bản ác của người, nhưng tất cả hai đều công nhận sự trọng yếu của tâm đạo: bảo tồn lương tâm (Mạnh Tử), tu dưỡng tâm tri (Tuân tử). Ði xa hơn nữa, Mặc tử phê bình chỉ trích Nho đạo cũng vì trong thực tế tâm đạo đã bị nghi lễ tha hóa làm mất tính cách phổ biến của tâm đạo vậy.

Ðạo hiếu là một đặc tính của đạo tâm, làm cho con người tỏ lòng Thành Kính đối với cha mẹ, tiền nhân, nên chỉ nuôi dưỡng cha mẹ mà không có lòng hiếu thảo thì làm sao gọi là hiếu được! Lòng hiếu thảo này phụng sự cha mẹ lúc các ngài còn sống, tang lễ nếu các ngài quá cố: "sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế" (Luận Ngữ: Vi chính II). Hiếu đễ đối với cha mẹ tức là kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, lễ tế những bậc cha mẹ đã lễ tế. Ðó là nguồn gốc của tôn kính tổ tiên vậy. Bởi đó Tăng tử nói: "Thận chung, truy viễn, đức qui hậu hĩ" (Luận Ngữ: Học Nhi, I) (dịch: cẩn thận lúc cha mẹ chết, nhớ đến tổ tiên xa, thì cái đức của dân trở nên hậu).

Tư tưởng đạo hiếu đã thấm nhuần vào lòng người Việt trở thành một phần quan trọng của Việt tính. Kính bái tổ tiên là chân nhận giới vô hình và hữu hình luôn luôn có sự liên lạc mật thiết với nhau. Ðó là cách diễn tả sự hiệp thông giữa ông bà cha mẹ và con cháu, giữa người sống và cả chết, là dịp đoàn tụ của đại gia đình. Quan niệm vong hồn gia tiên luôn gần gũi với con cháu được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau. Ðại đa số quần chúng Việt Nam được coi là theo "đạo Ông Bà" thường có phong tục làm lễ cáo gia tiên, trong mọi tuần tiết, hoặc ngày kị giỗ, hoặc khi có việc hiếu hỉ, tang chay. Toan Ánh diễn giải thêm: Những biến cố quan trọng trong gia đình, lẽ tất nhiên gia trưởng đều có lễ cáo gia tiên, như: sinh con cái, con cái đầu cữ, đầy tháng, đầy năm, con cái bắt đầu đi học, sửa soạn đi thi, thi đỗ, dựng vợ gả chồng cho con... hay nhiều khi chỉ sửa sang lại nhà cửa, nhất là những di sản của tiền nhân để lại. Vui đã thế, buồn cũng khấn trình tổ tiên để các ngài biết và phù hộ, như việc làm ăn thua lỗ, có người đi xa, có người mệnh một... Ngoài những biến cố trong gia đình ra, gia trưởng cũng kính cáo những việc quan trọng khác xẩy ra trong làng nước, như làng có cướp tới, đất nước sinh loạn lạc hay những tin vui trong thôn xã,... Tất cả những kính cáo, trình khấn trên mục đích để tổ tiên hiệp thông hay phù trợ trong những khi vui cũng như lúc buồn. Tùy từng trường hợp, tùy từng gia cảnh mà sửa soạn lễ. Nhiều khi gia chủ chỉ cần sửa soạn cái lễ nhỏ, như chén trà, đĩa xôi, nải chuối. Cũng có khi lễ lạc linh đình. Toan Ánh kết luận: "Con cháu nhớ đến tổ tiên thì cúng, năng cúng bái càng tỏ rõ lòng hiếu thảo của mình đối với các cụ. Sống khôn chết thiêng, các cụ thấy con cháu hiếu kính, ất vong hồn cũng vui mừng".

Nói tới cúng vái tổ tiên tức là phải nói tới bàn thờ gia tiên. Bàn thờ này mặc dù trang trí có khác nhau, nhưng đại để đều có bài vị, bình hương, nến sáp... Nếu là bàn thờ họ thường đặt trong miếu đường, chính giữa có bàn thờ riêng thờ ông "Thủy Tổ" của dòng họ. Còn các bàn thờ biệt tông, biệt phái khác trong mỗi ngày giỗ kỵ của tông, phái mình mới được bày ra. Trên bàn thờ Thủy Tổ luôn có cuốn gia phả ghi rõ danh tánh các chi nhánh dòng họ. Nhiều khi gia phả này được ghi khắc trên tường sau bàn thờ Thủy Tổ.

Quần chúng tuy một đàng muốn bày tỏ lòng hiếu kính mình đối với tổ tiên, nhưng họ không thể phân biệt rõ ràng như những nho sĩ "vụ dân chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi", nên thực hành đạo hiếu và thờ quỉ thần đã trở thành lẫn lộn. Vì muốn bảo vệ phần mộ ông cha, nên nhớ tới Thần Thổ Công, Thần Hà Bá. Ngoài ra còn có những thần tại gia khác như: Thần Tài, Thần Tiên Sư (hay Thánh Sư, Nghệ Sư, tức là ông tổ mỗi nghề), Ðức Quan Thánh... để bảo vệ che chở mình hay giúp phát tài,... Chính vì thế mà khi các nhà truyền giáo Tây Phương tới Việt Nam hay Trung Hoa gặp phải những khó khăn làm sao thấu hiểu tinh thần, nhất là về tinh thần "lễ nghi" tôn kính ông bà tổ tiên.

2. Tôn Kính Tổ Tiên Liên Hệ Tới Việc Truyền Giáo:

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa bắt đầu bằng những bước dò dẫm, va chạm những khó khăn về phiên dịch, vì hai loại ngôn ngữ biểu tả hai văn hóa quá khác nhau, nên không biết phải làm sao mới có thể đạt tới việc "bản vị hóa" chân chính được. Thoạt đầu những nhà truyền giáo tiên khởi dùng ngôn ngữ địa phương để phiên âm những từ căn bản của Kitô giáo, như thánh Phanxicô Xavier đã Nhật âm hóa tiếng Latinh: Deus Pater, Deus Filius, Deus Spiritus Sanctus là: Deusu Patere, Deusu Hiiruo va Deusu Spiritusu Santa (có khoảng 50 ngữ vựng căn bản như thế). Nhưng cách phiên âm này đã gặp những khó khăn lớn, vì hoặc là âm đó có một nghĩa khác trong ngôn ngữ là "Deusu" làm trò cười cho nhiều Phật đồ Nhật, vì họ liên tưởng tới một âm tương tự là "daiuso", có nghĩa là "Nói dối đại tài". Thấy cách phiên âm này không ổn, nên các nhà truyền giáo kế vị các bậc tiên khởi này như A. Valignano, M. Ricci, A. Schall, A. de Rhodes v.v... đã học hỏi ngôn ngữ và tư tưởng địa phương để Kitô giáo được thích ứng với môi trường mới. Trong lúc phiên dịch và thích ứng này đã xảy ra cuộc tranh chấp về "lễ nghi". Cuộc tranh chấp này mặc dù đầu tiên là bàn về hai phương pháp truyền giáo được hai phe (một bên là dòng Tên, một bên là dòng Ðaminh, dòng Phanxicô và hội Thừa Sai Balê) chủ trương, nhưng dần dần đã vượt qua phạm vi thuần túy truyền giáo và tôn giáo trở thành một tranh chấp bị những ảnh hưởng chính trị, quyền bính chi phối, nên đã trở thành một tấm bi kịch của lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông. Ở đây chúng ta chỉ có thể chú tâm tới những dự kiện chính yếu mà thôi.

Trước tiên chúng ta bàn về vấn đề phiên dịch. Sau khi thảo luận những khả thể dịch chữ, "Deus", các nhà truyền giáo đã đồng ý dùng chữ "Thiên Chúa". Nhưng dùng cách thế nào để giải thích chữ "Thiên Chúa" thì hai phe có những lập trường khác nhau. Một bên cho rằng dùng chữ "Thiên Chúa" để chỉ Deus thì phải hiểu hoàn toàn khác, hoàn toàn độc lập, không thể dùng một từ ngữ nào như "Thiên", "Thượng Ðế" để diễn giải được, vì "Thiên" theo ý họ "chỉ có nghĩa là bầu trời" (ciel materiel et visible), còn quan niệm "Thượng Ðế" là quan niệm dân ngoại thường dùng, nếu ta dùng sẽ rơi vào giới "vô thần" như dân ngoại. Một bên khác cho rằng chữ "Thiên Chúa" mặc dù là chữ ghép mới để chỉ Deus, nhưng có thể dùng những quan niệm sẵn có trong kinh điển Trung Hoa xưa như "Thiên", "Thượng Ðế" để người Trung Hoa có một mấu cứ để thăng hóa, nhờ đó mới dễ dàng hiểu rõ nghĩa thực sự của "Thiên Chúa" được. Thực ra, hai bên dùng hai phương pháp thần học cổ điển vẫn dùng là: phương pháp "phủ nhận" (via negotiva) và phương pháp "sánh loại" (via analogia). Ðứng trên phương pháp học không có chi đáng bàn cãi, nhưng động lực nao khiến họ chọn hai phương pháp này để nói lên thái độ của họ đối với nền văn hóa địa phương. Ðó mới là điều quan trọng. Dù sao đi nữa, sự kiện xẩy ra trong lịch sử là: Giám Mục Charles Maigrot, đặc sứ tông tòa ở Phúc Kiến đã nhân danh Thánh Bộ truyền giáo tuyên bố: từ ngữ "Thiên Chúa" phải được dùng để chỉ chữ "Deus" còn những tiếng khác như "Thiên" và "Thượng Ðế" thì không được dùng.

Ðối với người Công Giáo Việt Nam hiện nay, ta dùng chữ "Thiên Chúa" trong văn chương, nhưng cũna dùng chữ "Ðức Chúa Trời" theo nghĩa bình dân để chữ "Deus". Trong khi đó những người không Công Giáo thường dùng "Ông Trời" (Trung Hoa dùng chữ Lão Thiên) để chỉ Ðấng Tối Cao. Thực ra, quan niệm "Trời" không phải chỉ là "bầu trời", nhưng cũng là "Hóa Công", đấng sinh thành vũ trụ, vì vậy tại sao chúng ta không thể dùng những quan niệm đã có sẵn trong kinh điển Trung Hoa, đã được nhiều người biết tới để giải thích một quan niệm chí ư "trừu tượng", đối với họ hoàn toàn mới lạ như Deus. Phải chăng phản đối dùng những quan niệm như "Thượng Thiên", "Hiển Thiên", "Hoàng Thiên", "Thượng Ðế" để giải thích chữ "Thiên Chúa", vì các nhà truyền giáo sợ người Trung Hoa, Việt Nam không hiểu xác thực được nghĩa Deus của Kitô giáo, hay là các nhà truyền giáo đó đã không hiểu rõ được những quan niệm trên trong tư tưởng Trung Hoa? Trần Văn Hiến Minh còn đi xa hơn nữa, khi ông quả quyết: "Quan niệm một Tiên Chúa có ngôi vị, Thượng Ðế là một trực giác đầu tiên của người Trung Hoa từ xa xôi bao ngàn năm trước. Tất cả cuộc sống Trung Hoa cổ kính đều qui hướng vào đó". Ðề mục họ Trần nêu ra có thể là một đề tài thảo luận hào hứng, nhưng vượt qua phạm vi của bài nói chuyện này. Dù "Thượng Ðế" theo người Trung Hoa hiểu có "ngôi vị" hay không, cũng không thể là lý do chính đáng không dùng những quan niệm đó để "giải thích" tiếng "Thiên Chúa" được.

Như vậy ta thấy được tranh luận về mấy danh từ trên không phải chỉ là một cuộc thảo luận lý thuyết thần học hay ngôn ngữ, văn chương, nhưng là tỏ rõ đường hướng của hai phe đối với vấn đề truyền giáo: giáo hội có thể dùng di sản văn hóa của địa phương để diễn đạt giáo lý, nghi lễ của mình hay không? Mà được phép dùng tới mức nào? Tại sao có thể dùng hay bị cấm dùng như vậy?

Bây giờ chúng ta trực tiếp đề cập tới cuộc tranh luận "lễ nghi". Vấn đề chính của cuộc tranh chấp này là câu hỏi: lễ nghi đối với tổ tiên là "tôn thờ" tổ tiên vì nghi thức này có tính cách tôn giáo. Tôn thờ tổ tiên là những người theo "đạo Ông Bà". Nói cách khác, nghi lễ tôn thờ này được cử hành trong những nơi nhất định (chủ đường hay tông đường hoặc tại gia, trước bàn thờ tổ), có những qui định riêng (thành văn hoặc bất thành văn) và đối tượng của đạo này là "tôn thờ Bài Vị" của những người quá cố, Bài Vị này là chỗ của các Hồn người quá cố "cư ngụ". Khi hành lễ gia trưởng chắp vái hay quì lạy, dâng hương, báo cáo, cầu xin trước bàn thờ vong linh có đốt nến và bày những lễ cúng như hoa quả, bánh rượu... lễ nghi này cũng giống như lễ nghi trước phần mộ khi mai táng hay trong các dịp kỵ lễ. Sau khi đã mô tả những chi tiết trên, cộng thêm sự ghi chú những tính cách tôn giáo của đạo ông bà, các vị thừa sai này đã đặt những câu hỏi xin thánh bộ giải quyết, như: xin hỏi người Kitô hữu có được phép cử hành những nghi lễ và dâng cúng trước bài vị theo như tập tục ở chủ đường hoặc nơi phần mộ hay trước linh cửu? Và nếu họ được phép làm như vậy thì họ có thể tham dự với dân ngoại hay hành lễ một mình? Hay câu hỏi: Người Kitô hữu có được dựng bài vị tổ tiên ở trong nhà mình với chữ khắc "Thần Chủ" không? Dĩ nhiên những câu hỏi này đã được sửa soạn bằng những "mô tả" hàm xúc một câu trả lời phủ nhận. Có người còn đi xa hơn nữa, coi việc "Tôn thờ tổ tiên" ở Trung Hoa giống hệt như việc thờ phượng các thầ Manes xưa ở Hy lạp hay La Mã: "Theo lịch xưa của người La Mã khi thời thờ ẩu thần còn hiển trị, có nhắc tới một dịp lễ gọi là "Feralia", bắt đầu từ 20 tháng 2 kéo dài tới cuối tháng 2. Lễ này là dịp tôn thờ các Thần Manes. Dân ngoại đem thịt đặt trên mộ các người quá cố để họ hưởng, như tiến sĩ Varron đã giải thích. Ðó cũng là những việc mà những người Trung Hoa hành lễ ở các chùa chiền, trên phần mộ hay trong tư thất trước bài vị tổ tiên". Sự so sánh này đặt người hữu trách trước một sự lựa chọn không thể chối được: Nếu xưa giáo hội đã hủy bỏ phong tục thờ tà thần Manes, tại sao ngày nay lại có thể cho phép làm như thế ở trung Hoa. Lý chứng này càng ảnh hưởng tới người hữu trách khi người đó không hiểu thấu hiện trạng phức tạp ở miên Viễn Ðông.

Trong khi đó, phe khác coi nghi lễ đối với ông bà tổ tiên là sự "tôn kính" bày tỏ lòng hiếu đễ của con cái đối với bậc tiền nhân, dù khi còn sống hay đã quá cố. Trước tiên họ nhận định những nghi lễ trong các chùa chiền hay trước những thần tượng bày rải rắc khắp nơi là có tính cách tôn giáo và nhuốm nhiều màu sắc mê tín, dị đoan. Họ cũng công nhận thái độ mê tín này có thể ảnh hưởng tới việc tôn kính tổ tiên, nếu không được giải thích minh bạch giữa nơi tôn thờ và tôn kính: Ngược với "chùa miếu" là nơi tôn thờ các thần thánh, "đường" nơi có tính cách "trung tính" (có thể dùng liên quan tới tôn giáo hay không). Do đó, "chủ đường" hay "tông đường" (hay nói nôm na là "chỗ dành cho tổ tiên") là "nơi" kính nhớ ông bà tổ tiên để tỏ lòng biết ơn với những người quá cố, cũng như phong tục tập quán địa phương có những "nơi" riêng trọng kính các vị tiền bối lúc sinh thời. Còn Bài Vị thực ra không phải là "bàn thờ" thực, nhưng thường là một thanh gỗ được sửa soạn tươm tất ở trên đó có ghi danh tánh ông bà tổ tiên được bày trên án hương. Tuy Bài Vị "là biểu tượng" cho vong linh người quá cố, nhưng không phải là chỗ "cư ngụ" của hồn linh đó. Các vị này giải thích: trong quá khứ người Trung Hoa có thói quen tìm một người "thay thế" cho một người thân quá cố. Phong tục này được chuyển hóa bằng việc dùng bài vị như là biểu tượng của người quá cố ở giữa con cái. "Bài vị được dựng nên không phải để đánh dấu sự hiện hữu của một linh hồn mà người ta tin rằng linh hồn đó cư ngụ ở bài vị, nhưng đúng hơn là để thức tỉnh một thái độ luân lý và sự biểu tượng này có thể coi như sự hiện diện của một thân xác". Trong khi đó, việc "hóa" vàng giấy, đốt những đồ vật làm bằng giấy cho tổ tiên dùng là những điều mê tín, dị đoan cần cấm bỏ. Ngược lại, những cử chỉ bái lạy hay quỳ gối là những cung cách người Trung Hoa thường dùng để tỏ lòng tôn kính đối với bậc trên, dù những người này còn sống hay đã qua đời. Ðiều đáng chú ý là, chính vua Khang Hy ngày 30.11.1700 đã tự tay chứng thực bản văn do các cha dòng tên thảo nói những lễ nghi tôn kính Khổng Tử, tổ tiên là những hình thức bày tỏ lòng thành kính mà thôi: "Nói là Khổng Tử được thờ phượng để xin sự khôn ngoan hay để xin được thăng chức hay thêm bổng lộc là không đúng... Dựng bài vị tiền nhân quá cố không có nghĩa là linh hồn tổ tiên được nghĩ là thực sự ngự trị trong miếng gỗ này... Mục đích thực sự của nghi lễ tôn kính tổ tiên là con cháu trong một dòng tộc không được phép quên, nhưng luôn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên cho đến muôn đời". Nhưng lời chứng thực của vị hoàng đế trung Hoa, người có thẩm quyền nói lên ý nghĩa thực sự của phong tục tập quán, đã không được tòa thánh thời đó lưu ý tới.

Trên đây là lược thuật tổng quát lập trường của hai phe phái về vấn đề đối với tổ tiên có liên hệ đến việc truyền giáo. Cuộc tranh chấp "lễ nghi" này đã tạm thời kết thúc khi Ðức Giáo Hoàng Clement XI ngày 20.11.1704 đã quyết định:

- Cấm dùng chữ "Thiên" hay "Thượng Ðế" để giải nghĩa "Thiên Chúa". Theo đó không được dùng "mensa seu altare" (bàn thờ) để "kính Thiên" trong nhà thờ.

- Người Kitô hữu không được phép tổ chức hay tham gia những lễ nghi theo như phong tục đối với Khổng Tử hay những người quá cố. Do đó cũng không được phép lập "chủ đường", miếu đường", cũng không được phép dâng lễ vật trong miếu đường hay gia thất vì những nghi thức này liên hệ tới mê tín ("tamquam superstitione inseparabilia"). Tông huấn (Ex illa die) đã được quyết định, đã được đặc sứ tòa thánh, Hồng Y De Tournon mang sang Trung Hoa để ban hành. Sau ba lần De Tournon hội kiến với Hoàng Ðế Khang Hy, Tông huấn đã không được chính thức ban hành cho tới ngày 19.3.1715 mới được Giám Mục đầu tiên của địa phận Bắc Kinh Charles Castorano ban hành. (Trong khi đó De Tournon đã mất ngày 8.6.1710 ở Macao). Tông huấn "Ex illa die" được chính thức ban hành gây ra nhiêu phản ứng khác nhau, nhưng khi phải quyết định phát thệ "chống lễ nghi" theo chỉ thị của tòa thánh, các nhà truyền giáo đã anh dũng bỏ lập trường riêng để chấp nhận tông huấn "Ex illa die". Về phần Khang Hy, ông thấy Công Giáo chống đối lễ nghi và tập tục Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, đã đổi thái độ từ thân thiện sang nghịch thù. Nhưng cuộc tranh chấp chưa kết thúc, vì chính Ðức Clement XI lại sai một đặc sứ khác là Charles Ambrose Mezzabarba, tân giáo phụ của Alexandria tới Bắc Kinh ngày 26.12.1720. Sau khi đã hội kiến, lắng nghe các nhà truyền giáo báo cáo và đã được tiếp kiến Hoàng Ðế, C. A. Mezzabarba đã trở về Maccao và thảo một bức thư mục vụ ca ngợi tinh thần phục tùng và thống nhất của các nhà truyền giáo, đồng thời đã liệt kê "Tám điều được phép" để dễ dàng thực hành mục vụ. "8 điều được phép này" đã được ban hành ngày 4.11.1721, nới rộng những điều cấm ngặt của tông huấn "Ex illa die". Tỉ dụ: được lập "bài vị" trên đó chỉ được phép ghi tên người quá cố. Tất cả các lễ nghi trung Hoa đối với tổ tiên nếu không pha trộn mê tín mà chỉ có tính cách "dân sự" (Civil) thì đều được phép tổ chức hay tham dự. Hay là: được phép dùng nến, hương, hoa quả, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với người quá cố... "8 điều được phép này" đã làm sống lại cuộc tranh chấp "lễ nghi" một lần nữa, nhất là sau khi đặc sứ C.A. Mezzabarba đã trở về Âu Châu. Một đàng khác, Dũng Thành kế vị Khang Hy được một năm thì ra chỉ thị trục xuất những nhà truyền giáo trừ những người được mời ở lại. Tình trạng hỗn độn này cuối cùng đã được chấm dứt với Tông huấn "Ex Quo Singulari" do Ðức Benedictus XIV ban hành ngày 11.1.1742. Tông huấn này là tông huấn cuối cùng cấm ngặt "lễ nghi" đối với tổ tiên và rút lại tất cả những điều cho phép trước kia. Ðức Benedictus XIV đã minh định: "không phải xấu vì bị cấm, nhưng bị cấm vì xấu".

3. Bàn Về Việc Tranh Chấp "Lễ Nghi"

Trong quá trình tranh chấp như chúng ta thấy ở trên khó mà phân định được "bị cấm vì xấu" hay "xâu vì bị cấm". Ngay cả khi đã bị cấm nhưng trên thực tế chỉ là tránh né vấn đề hơn là giải quyết vấn đề. Bằng chứng là sau gần 200 năm bị cấm ngặt, ngày 8.12.1939 thánh bộ truyền giáo đã hủy bỏ việc bắt các nhà truyền giáo phải tuyên thệ chối bỏ "lễ nghi" mà tông huấn năm 1742 đã đòi buộc và đồng thời tuyên bố các Kitô hữu và các nhà truyền giáo ở trung Hoa, Việt Nam... đối với việc tôn kính Khổng Tử và tổ tiên cần có một cái nhìn "mới". Cái nhìn mới này sau công đồng Vaticanô II đã trở thành một khía cạnh quan trọng để thành lập một nền thần học bản vị hóa. Như vậy Bản vị hóa không những chỉ được phép mà phải được khuyến khích. Ðứng trên một thái độ mới này nhìn lại lịch sử tranh chấp chúng ta dễ có cái nhìn khách quan hơn.

Trước tiên chúng ta nhận định "mạch sống" của hai phe. Một bên đứng trên quan điểm của người trí thức, của tân nho gia đời Minh, để tìm hiểu ý nghĩa của các nghi lễ. Nếu lễ nghi đối với hổng Tử, tổ tiên thuộc về tôn kính hơn là tôn thờ thì hiển nhiên thuộc về phạm vi luân lý hơn là tôn giáo. Quả thực các nhà trí thức Trung Hoa đã hiểu như thế, vì vậy lập trường của các nhà truyền giáo này đã được Hoàng Ðế Khang Hy chứng thực. Chúng ta thấy hiện nay những "lễ nghi" tưởng niệm Khổng Tử hay các vị tiên đế đã mang một ý nghĩa hoàn toàn "dân sự". Các nhà trí thức Việt Nam như Trần Văn Chương, Hồ Ðắc Diễm, Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim v.v... cũng cho những nghi lễ tôn kính ông bà là bày tỏ lòng con cái hiếu thảo đối với tổ tiên, là hành động muốn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên mà thôi. Vì thế cúng bái ông bà tổ tiên theo như tập tục không phải là hành động của "niềm tin", nghĩa là qua đó cắt nghĩa một sự mầu nhiệm liên quan tới sự sống và sự chết, cũng không phải là hành động "phi lý" nhưng là những củ chỉ "tự nhiên" (theo phong tục tập quán của một nền văn hóa) do tấm lòng hiếu thảo thôi thúc. Cũng vì thế những việc dâng hương cúng quả, tiến rượu bày cỗ trước Bài vị không mang một ý nghĩa phụng dưỡng vật chất nào cả. Quan trọng nhất là vì nhớ tới ông bà tổ tiên nên con cái cháu chắt thấy họ có bổn phận phải sống như một người tốt, một tôi trung, một đệ tử thành tín, một người chồng gương mẫu, một người vợ hiền, một người con thảo... để khỏi làm nhơ danh tiền nhân. Ðây là quan niệm tôn kính tổ tiên trong mạch suấng của trueỳn thống nho học đặt nặng trên bổn phận luân lý.

Trong khi đó các nhà truyền giáo khác đứng trên phương diện của giới bình dân coi việc tôn kính ông bà tổ tiên là một lễ nghi tôn giáo, vì vậy họ nghĩ rằng cho phép cử hành những nghi thức này tức là hỗn hợp các tôn giáo, làm tha hóa, làm tha hóa Kitô giáo và làm hoang mang lòng các tín hữu. Do đó, họ xin tòa thánh qui định rõ ràng để dễ thực hành mục vụ. Ở đây ngôn ngữ là vấn đề then chốt. Nhưng để giải quyết nạn ngôn ngữ thiếu minh bạch mà cấm dùng ngôn ngữ đó thì không phải là giải pháp thỏa đáng, vì nếu không dùng chữ "Thiên" để giải thích "Thiên Chúa" thì khi dùng chữ "Thiên Chúa" người địa phương cũng không thể hiểu khác hơn mạch sống văn hóa của họ được. Cũng vậy, gọi Khổng Tử là "Thần nhân" thì ý nghĩa của chữ "Thần" này không thể hiểu theo một mạch văn hóa khác được (tỉ dụ như thánh nhân theo nghĩa hẹp của Giáo Hội Công Giáo). Cũng thế, những hạn ngữ như "Altare", "Sacrificium", genuflectio, templum... là những từ ngữ tùy theo nền văn hóa Âu Châu hay Trung Hoa, Việt Nam mà mang một ý nghĩa khác nhau. Nếu dùng cái nhìn của nền văn hóa Âu châu phán đoán những hiện trạng của nền văn hóa Á Châu tức là đã tách những dự kiện, hình ảnh tượng trưng ra khỏi mạch sống văn hóa. Nếu hai nền văn hóa đó quá khác nhau và chưa hiểu nhau được, thì làm sao tránh khỏi được những ngộ nhận. Nếu quyền phán quyết dành cho một phía khi chưa thấu triệt vấn đề thì phán đoán đó làm sao tránh khỏi những thiên kiến?

Tóm lại, cuộc tranh chấp "lễ nghi" nói lên những khó khăn mà một thần học bản vị hóa trong một môi trường cụ thể đã gặp phải và dần dần vượt qua. Cuộc tranh chấp trên không những chỉ bộc lộ hai phe đứng trên hai phạm vi khác nhau để nhìn một vấn đề mà cũng đứng trong những giai đoạn tiến tới thần học bản vị hóa khác nhau, nên gặp nhau trong đối thoại. Sự tranh chấp lễ nghi trở thành một thảm kịch trong lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông, vì giải quyết sự tranh chấp đã không nằm trong mạch sống đó, nhưng ở ngoài và ở trên mạch sống văn hóa, nên không thấu đáo được những nhu cầu sống của giáo hội địa phương.

Như vậy, đề cập tới vấn đề "Ông Bà Tổ Tiên" có liên quan tới việc truyền giáo tức là phản tỉnh một nền thần học bản vị hóa. Bản vị hóa không có nghĩa là chỉ hội nhập và chấp nhận những gì có sẵn trong nền văn hóa đó, nhưng đồng thời cũng thăng hóa những giá trị đó. Vậy theo đó ý nghĩa của lễ nghi đối với ông bà tổ tiên là gì? Nếu chỉ coi lễ nghi đối với tổ tiên là cách bày tỏ lòng hiếu đễ, tức là thực thi một bổn phận luân lý, thì chưa chứng minh lý do tại sao con người đòi buộc phải thực hành luân lý như vậy. Nếu ta coi sự đòi buộc đó là một sự tự minh (self-evident) thì hoặc là rơi vào chủ nghĩa độc đoán (dogmatism) hoặc chủ trương thuyết "vô tri thức" (agnosticsm) như khuynh hướng của một số nhà nho tân thời ở Ðài Loan hiện nay. Cả hai khả thể trên chỉ là né tránh vấn đề mà không giúp chúng ta hiểu tại sao con người phải thi hành bổn phận luân lý với tổ tiên. THực ra khi những nhà truyền giáo dòng Tên chủ trương coi lễ nghi tôn kính ông bà thuộc phạm vi luân lý, họ tin rằng một khi đã tìm ra ý nghĩa nguyên ủy và chính yếu của lễ nghi này, họ có thể giáo dục quần chúng gọi bỏ những mê tín mọc rườm rà bên ngoài và cuối cùng có thể biến hóa những bổn phận luân lý đó cho họp với niềm tin Kitô giáo. Như vậy, mặc dù học nhấn mạnh "lễ nghi" này thuộc phạm vi luân lý, nhưng ngầm xác định cn bản của luân lý không thể tách rời khỏi niềm tin tôn giáo được. Mối liên hệ giữa luân lý và tôn giáo này có thể dùng tư tưởng sẵn có trong kinh điển Trung Hoa như niềm tin "Thiên nhân tương dữ" và "vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ" để giải thích. Theo đó tôn kính ông bà không thể độc lập với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc kính Thiên được, vì con người cũng là thành phần của vạn vật mà nguyên ủy của vạn vật là Thiên. Hiểu như thế, việc tôn kính ông bà tổ tiên không những không phản với đạo Công Giáo mà còn bộc lộ được tính cách đặc biệt đông phương, đạo hiếu của người Việt, đồng thời qua việc đưa hành động tôn kính này hòa hợp với tinh thần Kitô giáo, chúng ta vừa thăng hóa vừa qui tụ những giá trị luân lý và những hình thức bày tỏ trên về cội gốc của muôn loài: chúng ta hiếu thảo cha mẹ vì Chúa là Cha chúng ta đã dậy như thế. Nói cách khác, một khi việc tôn thờ "Trời". "Thượng Ðế"... những danh từ chỉ Thiên Chúa ẩn hình (Deus absconditus) được niềm tin do Ðức Kitô mặc khải soi chiếu, canh cãi và hoàn hảo hóa, thì những hành động có tính cách nhân bản của một nền văn hóa cũng được xác định và thăng hóa theo đúng mức nahn bản của nó.

4. Kết luận

Thảo luận việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ tới việc truyền giáo là dịp may hiếm có để chúng ta suy tư về một khía cạnh của nền thần học bản vị hóa Việt Nam. Trong bài học lịch sử trên chúng ta nhận ra hậu quả của một cuộc tranh chấp lễ nghi mà đã bị tách rời khỏi mạch sống văn hóa và bị phán quyết do những người chưa thấu đáo ý nghĩa của nó. Tấm bi kịch này là một điển hình của bước khó khăn trong cuộc gặp gỡ của hai nền văn hóa cổ truyền, mạnh mẽ nhưng khác nhau, khi hai nền văn hóa đó thiếu uyển chuyển nên ngăn cản việc thăng hóa tới một hợp đề bao gồm một nền nhân bản phong phú hơn. Sau công đồng Vaticanô II việc tích cực tìm hiểu nền văn hóa địa phương, xác định những giá trị nhân bản chân chính của những tôn giáo khác, những luồng tư tưởng khác trở thành một nhu cầu thường nhật của mỗi giáo hội địa phương. Chúng ta nghiên cứu việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ với việc truyền giáo ở Việt Nam, ở Trung Hoa, không phải để nuối tiếc một dịp may đã qua, nhưng quan trọng hơn là tìm thấy những ý nghĩa có liên quan tới cuộc sống đạo hiện tại của chúng ta. Nói cách khác sau khi đã nhận định lòng hiếu thảo là một giá trị nhân bản căn bản của nền văn hóa ảnh hưởng nho học, và ý thức được những lễ nghi tôn kính khác với những mê tín dị đoan, chúng ta tự hỏi, chúng ta có thể thực hiện những hình thức, "lễ nghi" nào để biểu tỏ lòng thành kính, hiếu đễ của chúng ta? Nhưng để những nghi thức đó không rơi vào trạng thái "vụ hình thức" "cố chấp" chiếu lệ. điều quan trọng nhất là tấm lòng người Việt thành kính mà chúng ta có thể gọi là "Tâm Việt". Tâm Việt đối với ông bà tổ tiên là một khía cạnh biểu lộ của Tâm Việt. Khía cạnh này không thể tách rời khỏi lòng thành đối với Thượng Ðế được, nếu không Tâm Việt này sẽ thiếu nguồn sống và trở thành độc đoán. Bởi đó Tâm Việt là nguồn sống của "Việt tính". Dĩ nhiên Tâm Việt này còn có thể biểu lộ theo những cách thế khác tùy theo ta nhìn từ Phật Giáo hay Lão Giáo mà trong bài này chúng ta không có dịp để bàn tới. Có Tâm Việt như vậy chúng ta mới có thể bước thêm một bước nữa là đi tìm một hợp đề của Tâm Việt trong môi trường cụ thể mà chúng ta đang sống ở hải ngoại này. Hợp đề này là một mức độ nhân bản cao hơn vì nó được cải hóa và bổ túc do hai nền văn hóa khác nhau. Tiên chuẩn canh cải và hoàn thiện này không gì khác hơn là một nhân bản thuần túy: Hiện Thân của một mẫu mực Thiên Nhân tương dữ, Thiên Nhân hợp nhất, Thiên Chúa Nhập Thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ông Bà Tổ Tiên

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd