Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tử vi đẩu số - Thiên hạ đệ nhất thần số

Tử Vi Đẩu Số là một trong những chi phái quan trọng nhất của mệnh lý hoc. Lý luận này căn cứ vào năm, tháng, ngày, giờ sinh của con người để xác định ra vị trí của 12 cung lập nên lá s

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi đẩu số - Thiên hạ đệ nhất thần số

Tử vi đẩu số - Thiên hạ đệ nhất thần số

Tử Vi Đẩu Số là một trong những chi phái quan trọng nhất của mệnh lý học. Lý luận này căn cứ vào năm, tháng, ngày, giờ sinh của con người để xác định ra vị trí của 12 cung lập nên lá số (mệnh bàn), từ đó định ra cung mệnh, căn cứ vào đó để suy đoán về địa vị, nhân cách, tình trạng giàu nghèo, lành dữ trong suốt một cuộc đời người. Sau đó, lần lượt định ra cách cung huynh đệ, phu thê, tử tức, tài bạch, tật ách, thiên di, nô bộc, quan lộc, điền trạch, phúc đức, phụ mẫu để thành lập lá số.

Tên "Tử Vi" chính là chỉ khu vực của ngôi sao. Như chúng ta cũng thấy La Bàn lấy mốc ở cực bắc, tức Tử Vi lấy sao bắc cực làm chủ, căn cứ thuyết pháp của những người xem sao, người coi về các việc xem sao để nghiệm việc tốt xấu còn được gọi là "Tinh Gia" qua các thời kỳ cùng lấy đây là "Đế tọa", cũng tức đại biểu đế "vương nên sáng không nên ám, ám thì quân vương vô đạo, chủ quốc gia loạn lạc.

"Đẩu" là chỉ nam bắc đẩu, lấy nam bắc đẩu trên bầu trời là chính tinh phân bố vào lá số dùng để suy đoán tốt xấu của mệnh, xưng là "Đẩu số", bởi sự phân bố tinh đẩu theo sao Tử Vi là chuẩn tắc, khi định vị được sao Tử Vi tất 14 sao nam bắc đẩu cũng được định vị, cho nên mới gọi là "Tử Vi Đẩu Số".

Đặc trưng của Tử vi đẩu số:

Có thể suy đoán tình trạng các hung, giàu nghèo, sang hèn trong vận mệnh của mỗi con người một cách cụ thể, chứ không phải triều tượng, chung chung.

Tử vi đẩu số thông qua 12 cung của lá số, có thể dự đoán một cách hệ thống và toàn diện về những quang hệ trong xã hội và những bước thăng trầm vô cùng phức tạp, đa dạng trong một đời người, với hệ thống logic chặt chẽ nhưng lại khá giản dị, được trình tự hóa, lại biến hóa đa dạng, mang tính quy luật cao và tương đối sâu sắc.

Chính vì lẽ đó, những thầy bói thông thường, không am hiểu chữ nghĩa, hay những thầy bói toán mù lòa có thể dùng những thuật toán đơn giản để hành nghề, nhưng không thể học được Tử Vi Đẩu Số, bởi vậy, mức độ phổ biến của Tử Vi Đẩu Số là kém. Nhưng cũng bởi lý do này mà Tử Vi Đẩu Số ít mang màu sắc thông tục, thần bí, mê tín hơn.

Bạn có thể lấy lá số miễn phí tại: ##/KHHB/tuvi/ do Xem Tướng cung cấp!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi đẩu số - Thiên hạ đệ nhất thần số

Sinh năm 1972 mệnh gì, cuộc đời như thế nào

Bạn biết gì về người sinh năm 1972? Sinh năm 1972 mệnh gì, vận mệnh cuộc đời ra sao? Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu sâu hơn nhé.
Sinh năm 1972 mệnh gì, cuộc đời như thế nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn biết gì về người sinh năm 1972? Sinh năm 1972 mệnh gì, vận mệnh cuộc đời ra sao? Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu sâu hơn nhé.   Người tuổi Tý vốn được biết đến nhiều bởi sự lanh lợi hoạt bát, nhanh nhẹn giỏi giang. Vậy người sinh năm 1972 tức năm Nhâm Tý có tính cách, vận mệnh ra sao, bạn đã biết hay chưa? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu sinh năm 1972 mệnh gì, có vận thế sự nghiệp, tài lộc như thế nào nhé.  

Sinh năm 1972 mệnh gì?

  Người sinh năm 1972, năm Nhâm Tý tuổi Tý, mệnh nạp âm là Tang Đồ Mộc.


sinh nam 1972 menh gi
 
  Người này có tài kinh doanh buôn bán, thích những thứ đẹp đẽ hoa lệ, song rất hay thay đổi, không kiên định. Tiền vận phải vất vả bon chen song khó giành được thành công, đặc biệt gặp nhiều thất bại nặng nề trong lĩnh vực đầu tư, thậm chí có thể lâm vào cảnh tán gia bại sản. Tới trung vận, thái độ sống dần chững chạc hơn, tích cực làm việc, lại được quý nhân giúp đỡ nên có cơ hội phát triển sự nghiệp, phát huy tài năng kinh doanh, nhanh chóng thành công, làm nên cơ nghiệp.   Người sinh năm 1972 mệnh Mộc là người ham học hỏi, có tinh thần độc lập, cũng rất thân thiện và bác ái. Họ trung thực, là người đáng tin cậy, trong công việc có nhiều ý tưởng, có tầm nhìn xa, đầu óc tư duy nhanh nhạy, giỏi quan sát và có tinh thần cải cách, thay đổi.  

Vận trình sự nghiệp của người sinh năm 1972

  Đây là người rất linh hoạt, có khả năng tùy cơ ứng biến nên có thể khắc phục nhiều khó khăn, trở ngại, dù có gặp nguy hiểm cũng không hề e sợ mà quyết tâm đến cùng, không bỏ cuộc. Họ bình tĩnh và tỉnh táo, có trực giác nhạy bén, có tầm nhìn xa cũng như sự tinh tế, mẫn cảm trong chuyện làm ăn. Khó khăn chỉ khiến cho tài năng của bạn càng thêm xuất chúng.

su nghiep nguoi sinh nam 1972
 
  Họ có trí nhớ rất tốt, thích tìm tòi học hỏi, khả năng phản biện cao. Trong công việc, họ là những con người hừng hực nhuệ khí, không ngừng tiến bộ mỗi ngày. Song họ lại khá ôm đồm, tham vọng làm được nhiều thứ nên khiến cho sức tập trung bị phân tán, phần nào ảnh hưởng đến công việc. Nên tập trung làm tốt từng việc ở từng thời điểm thì khả năng thành công sẽ cao hơn.   Tuy nhiên, có một điểm nổi bật ở người sinh năm Nhâm Tý, đó là sự cẩn trọng. Dù làm bất cứ chuyện gì họ cũng luôn xem xét kĩ càng, tính sẵn mọi khả năng có thể xảy ra cũng như tìm ngay đường lui cho mình từ lúc mọi chuyện còn chưa bắt đầu. Điều này có những khi rất tốt, giúp họ tránh khỏi những thất bại hay nguy hiểm cận kề, nhưng đôi khi nó lại là viên đá cản đường, khiến họ e sợ tương lai và không dám tiến bước.   Họ là mẫu người giỏi lên kế hoạch, thích hợp với những công việc đòi hỏi tính tỉ mỉ và cần tích lũy kinh nghiệm, ngoài việc kinh doanh thì họ có thể theo đuổi những nghề như kiến trúc sư, bác sĩ, biên kịch, nhà văn, nhà thơ, nhà thiết kế, nhiếp ảnh gia…

Mời bạn đọc thêm: Tuổi Tý nên kết hợp làm ăn với tuổi nào?
 

Tài vận của người sinh năm 1972

  Sinh năm 1972 mệnh gì? Người sinh năm Nhâm Tý 1972 mệnh Mộc có ý chí quyết tâm vô cùng to lớn, chỉ cần họ định sẵn một con số về tiền bạc để phấn đấu thì chắc chắn dù phải làm thế nào họ cũng sẽ cố gắng đến cùng, không bao giờ bỏ cuộc.

Có thể bạn quan tâm: Bài trí phong thủy văn phòng cho người tuổi Tý dễ phát tài.

tai van nguoi sinh nam 1972
 
  Nhìn chung thì đây là người cực kì chăm chỉ cần cù, nhờ thế mà cả đời họ hiếm khi phải chịu những nỗi phiền muộn lo lắng về tiền bạc. Tuy nhiên có một điểm này trở thành điểm yếu chí mạng của người sinh năm 1972, đó chính là sự mềm yếu. Tuy bình thường họ có thể quản lý tiền bạc rất cẩn thận nhưng vì dễ tin người, hay mủi lòng nên họ dễ bị người khác lừa gạt.    Họ không phải là người có khái niệm đúng đắn về tiền bạc, không có khả năng đầu tư sinh lời. Thời trẻ họ tiêu pha khá lãng phí, chỉ tới khi kết hôn lập gia đình thì mới dần nhận ra tầm quan trọng của tiền bạc.    Hy Vũ

Sinh năm Nhâm Tý, Giáp Tý, Bính Tý, Mậu Tý, Canh Tý thì mệnh gì? Xem hướng nhà theo tuổi: Người tuổi Tý nên và không nên làm nhà hướng nào? Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Tý, tuổi Sửu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sinh năm 1972 mệnh gì, cuộc đời như thế nào

Các bước luận đoán lá số Tử vi (phần 2)

Trong đời người, cứ mỗi 12 năm thì có 3 năm liên tiếp gặp hạn tam tai, thường thì hạn năm giữa là nặng nhất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Liên hệ giữa Mệnh-Thân và Hạn trong Tu Vi

Mệnh Thân và Hạn tốt - Người có cung Mệnh tốt thì chỉ xứng ý toại lòng lúc còn trẻ tuổi, đến tuổi trung niên và hậu vận thì cũng cần phải được cung Thân tốt thì mới được trọn vẹn. Nếu được Hạn tốt nữa thì ví như gấm thêm hoa.

Mệnh Thân tốt gặp Hạn xấu - Mệnh Thân tốt có thể giải trừ được một phần lớn ảnh hưởng xấu của Hạn.

Mệnh Thân xấu được Hạn tốt - Được phát ví như lúa non gặp mưa thuận gió hòa, cây khô gặp mùa Xuân, nhưng không bền.

Mệnh Thân và Hạn xấu - Rất xấu như sinh bất phùng thời.

phật từ bi

Ảnh hưởng của Chính tinh là Nam hay Bắc Đẩu Tinh nhập hạn trong Tu Vi

Nam Đẩu Tinh nhập hạn - Ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoảng nữa phần thời gian sau của Đại và Tiểu vận. Nếu bị Tuần Triệt thì đoán ngược lại.

Các Nam Đẩu Tinh là Thái Dương - Thiên Cơ - Thiên Đồng - Thiên Lương - Thiên Tướng và Thất Sát. Các chính tinh trên hợp với người dương nam và âm nữ, nếu được miếu vượng hay đắc địa thì càng thêm tốt đẹp.

Riêng hai chính tinh Tử Vi và Thiên Phủ là Nam Bắc Tinh

Bắc Đẩu Tinh nhập hạn - Ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoảng nữa phần thời gian đầu của Đại và Tiểu vận.

Các Bắc Đẩu Tinh là Thái Âm - Vũ Khúc - Tham Lang - Liêm Trinh - Phá Quân và Cự Môn. Các chính tinh trên hợp với người âm nam và dương nữ, nếu được miếu vượng hay đắc địa thì càng thêm tốt đẹp.

Ảnh hưởng của Sao nhập hạn

Ảnh hưởng các Sao lưu động mỗi năm 

Đại Tiểu Hạn trùng phùng 

Cung gốc đại vận 10 năm với lưu niên tiểu vận đồng cung, sự việc tốt xấu hay dở của năm xem hạn tại cung trùng phùng này sẽ gia tăng.

Thí dụ: hạn năm Ngọ 32 tuổi lưu niên chữ Ngọ trùng với cung gốc của đại vận 23-32 tuổi

Yếu tố thiên thời của đại-vận (10 năm) trong Tu Vi

Mỗi đại-vận là một thiên-thời, đắc được thiên-thời gặp vận hội tốt đời sẽ lên hương, còn mất thiên-thời thì đời sẽ thấy khó-khăn để rồi đi xuống.

Lấy ngũ hành của tam hợp tuổi đem so-sánh với hành tam hợp của cung đại vận nhập hạn:

Tam hợp tuổi tương đồng hành tam hợp vận - đắc vận Thái-tuế (thiên-thời) là đại-vận tốt đẹp nhất trong đời; thêm sao tốt nhập hạn thì được như gấm thêu hoa, nếu gặp ách-nạn thì cũng sẽ được cứu-giải mà qua khỏi.

Trường-hợp bị Hung-sát-tinh phá cách như Không-Kiếp ... thì vẫn được lên nhưng rồi dễ xuống, hay gặp khó-khăn và trở-ngại, vận hội tốt còn hưởng độ 50% mà thôi.

Đại-vận này cần phải được thêm tam-hợp Sinh-Vượng-Mộ hổ trợ thì mới được hưởng vận Thiên-thời một cách chính-đáng, trọn-vẹn và bền-bỉ.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Dần-Ngọ-Tuất (đại vận hỏa đồng hành tam-hợp tuổi hỏa)

Tam-hợp-vận sinh-nhập hành tam-hợp-tuổi - được thuận-lợi và sức-khỏe tốt; tuy-nhiên vì nằm trong tam-hợp Thiên-không nên cũng hay dễ xảy ra những sự thất-bại và buồn lòng, nếu đắc Hóa-khoa có thể cứu-giải.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Hợi-Mão-Mùi (đại vận mộc sinh hành tam-hợp tuổi hỏa)

Tam-hợp-tuổi khắc-xuất hành tam-hợp-vận - bị sa-lầy, nhiều vất-vả (Thiếu-âm), phải gắng công tranh-đấu (Phá-Hư-Mã); có thể nhờ đến phần Nhân-hòa (sao) giúp-đỡ.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Tỵ-Dậu-Sữu (đại vận kim bị hành tam-hợp tuổi hỏa khắc)

Tam-hợp-vận khắc-nhập hành tam-hợp-tuổi - khắc ngược rất xấu, cần phải có được nhiều sao tốt để cứu giải.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Thân-Tý-Thìn (đại vận thủy khắc hành tam-hợp tuổi hỏa)

Yếu tố địa lợi của Đại-vận (10 năm) trong Tu Vi

Địa-lợi là nơi an thân của bản mệnh tại đại vận. Nếu cung hạn tương sinh tất bản mệnh sẽ được vững chắc an lành. Phần này phải lấy ngũ hành nạp âm của mệnh so-sánh với ngũ hành của cung nhập-hạn :

Tương-Sanh - sức-khỏe dồi-dào và thường gặp may-mắn.

Thí dụ người mệnh hỏa đại vận đến hai cung Dần-Mão thuộc mộc được tương sinh.

Tương-Khắc - sức-khỏe kém, thường gặp nhiều khó-khăn và bất trắc xảy ra.

Thí duï người mệnh hỏa đại vận đến hai cung Hợi-Tý thuộc thủy bị tương khắc.

Nếu hành bản mệnh bị hành của cung đại-vận khắc rất xấu, nhưng được Chính-tinh tại cung đại-vận sinh-nhập lại mệnh (tức cung sinh sao và sao sinh lại mệnh) là cách "tuyệt xứ phùng sinh" rất tốt (ví dụ người mệnh hỏa bị hành của cung đại vận tại Hợi hay Tý thuộc thủy khắc, nhưng lại được chính tinh Thiên Cơ hoặc Thiên Lương tại Hợi-Tý thuộc mộc sinh lại bản mệnh)

Yếu tố nhân hòa của đại-vận (10 năm) trong Tu Vi

Nhân-hòa là thứ cách quan trọng sau yếu-tố Thiên-thời, nếu được Thiên-thời và Địa-lợi nhưng không được phần "Nhân-hòa" thì dù bản-thân có may-mắn đến đâu thì cũng phải bị nhiều vất-vả mới được thành-công, vì ít được sự trợ-giúp của bên ngoài.

Phần này phải xem bộ Chính tinh Đại-vận có cùng hay khác thế lưỡng-nghi với bộ Chính tinh của tam hợp Mệnh:

Nếu Chính tinh đồng bộ cùng phe phái lưỡng-nghi (như Tử-Phủ-Vũ-Tướng gặp Sát-Phá-Liêm-Tham) thì khi chuyển vận gặp nhau ít thay-đổi, thêm Trung-tinh đắc cách tam-hợp thì được hòa-thuận tốt đẹp.

Bằng như khác phe phái (như Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương gặp Sát-Phá-Liêm-Tham) thì hẳn là có sự đụng-độ và khó-khăn, phần thiệt-hại vẫn là phần của phe yếu thế là Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương; nếu gia thêm Sát-tinh nhập hạn thì sẽ gặp nhiều chuyện không may.

Tư-thế của bốn bộ Chính tinh (Tứ tượng) trên muốn được thêm hoàn-mỹ và thành-công thì cần phải có tối thiểu:

- Bộ T-P-V-T cần nhất là Tả-Hữu, Thai-Tọa

- Bộ S-P-L-T cần nhất là Thai-Cáo và Lục-sát-tinh

- Bộ C-N-Đ-L cần nhất là Xương-Khúc và Khôi-Việt

- Bộ C-N cần nhất là Hồng-Đào, Quang-Quý

* So-sánh hành Sao nhập hạn sinh hay khắc với hành Mệnh, bộ Sát-Phá-Liêm-Tham mỗi khi nhập hạn thường có những cuộc thăng-trầm khá quan-trọng xẩy ra.

Luận về Lưu niên đại hạn trong Tu Vi

Ngoài cách xem các đại vận 10 năm ra, nếu muốn xem đại vận một cách tường tận hơn thì phải xem cả lưu đại hạn của từng năm một.

Nếu muốn biết xem lưu đại vận từng năm một của mỗi 10 năm đại vận thì phải khởi năm thứ nhất từ con số đầu ghi ở cung gốc đại hạn muốn xem, tính tiếp sang cung xung chiếu của cung gốc hạn là năm thứ hai, sau đó:

Dương Nam - Âm Nữ : Từ năm thứ hai ở cung xung chiếu lùi lại một cung (theo chiều nghịch kim đồng hồ) là năm thứ ba, xong trở thuận lại cung xung chiếu ghi số tiếp năm thứ tư, rồi tiếp tục theo chiều thuận ghi tiếp mỗi cung một số cho các năm kế tiếp cho đến cung gốc của đại hạn sau.

Xem bảng thí dụ cách tính lưu đại vận của 10 năm đại vận từ 22 đến 31 tuổi của tuổi Dương Nam / Thủy Nhị Cục bên trái dưới đây.

Âm Nam - Dương Nữ : Từ số của năm thứ hai ở cung xung chiếu tiến lên một cung (theo chiều thuận kim đồng hồ) ghi số kế tiếp là năm thứ ba, xong trở lùi lại cung xung chiếu ghi số tiếp năm thứ tư, rồi tiếp tục theo chiều nghịch ghi tiếp mỗi cung một số cho các năm kế tiếp cho đến cung gốc của đại hạn sau.

Luận về Lưu niên tiểu vận (1 năm) trong Tu Vi

Trong lá số Tử Vi, chung quanh phần địa bàn (trung tâm của lá số) kế bên ô mỗi cung đều được ghi 1 địa chi (ví dụ Tý-Sửu-Dần-Mão ...) theo chiều nam thuận nữ nghịch, đó chính là năm tiểu vận tại mỗi cung của đời người - ví dụ năm Kỷ Mão thì xem tiểu vận tại cung có ghi chữ Mão, năm Canh Thìn thì xem tiểu vận tại cung có ghi chữ Thìn ...

Khi xem tiểu vận phải xem phối hợp với cung gốc của 10 năm đại vận của tiểu vận đó. Tiểu hạn (dầu tốt hay xấu) chỉ phụ giúp thêm hay làm giảm bớt 10% ảnh hưởng của Đại vận.

Mỗi tiểu hạn, chúng ta cần phải so sánh đến các tương quan giữa Can Chi của tuổi với Can Chi của năm nhập hạn vaø ngũ hành của các sao nhập hạn, sau đó phải so sánh hành bản mệnh với hành của cung tiểu vận nhập hạn theo bảng dưới đây để biết được tiểu vận đó tốt hay xấu.

So sánh hành Can của tuổi và Can năm nhập hạn (gốc, quan hệ)

So sánh hành Chi của tuổi và Chi năm nhập hạn (ngọn, thứ yếu)

So sánh hành bản mệnh và hành của năm hạn (tính theo nạp âm) để biết mức độ đắc thất.

So sánh Can của tuổi và Hành sao nhập hạn phụ thêm để quyết định.

Phụ luận :

Trong đời người từ nhỏ đến 60 tuổi có 5 lần gặp năm Thiên khắc Địa xung nhưng chỉ có 2 lần xung quan trọng là Năm 43 tuổi (hàng Can bị sinh xuất) và Năm 67 tuổi (hàng Can bị khắc nhập) vừa là giai đoạn gặp Thiên thương hay Thiên sứ.

Còn Năm 49 tuổi thường xấu vì tuy hàng Can của năm được sinh nhập (hưng vượng) nhưng hàng Chi lại nằm ở thế Phá Hư (không đắc ý) nên khiến cho từ chổ thành công mà lại đưa đến chỗ thất bại bất mãn; chẳng khác gì cây bị úng nước, rể phải hư và ngọn bị héo tàn.

Từ 49 đến 50 tuổi, 53 đến 60 tuổi và từ 67 đến 70 tuổi là ba đoạn đường đổ dốc để lượn lên các ngôi sơ thọ (50) - trung thọ (60) và thượng thọ (70) luôn luôn có Thương cung Nô và Sưù cung Ách là hai đồn canh đứng chặn giữa ba đoạn đường đại vận này để kiểm soát suôi ngược.

Người lái xe phải lành nghề (vòng Thái Tuế) vững tay lái, xe không ham chở nặng (Quyền Lộc) thì mới mong được an toàn.

Thương (thổ cung Nô) phụ tá của Thiên Sứ, gây ra tổn hại; có phần nào nhẹ tay hơn Sứ (cho người có đại vận đi xuôi gặêp Thương trước).

Sứ (thủy cung Ách) thi hành lệnh gieo tai ách

Mức độ nặng nhẹ của Thương-Sứ thi hành nhiệm vụ là tùy thuộc vào các Sát tinh nhập cuộc tại cung Nô và Ách như Văn Xương, Kình Dương (cung Tứ chính / các tuổi Giáp Mậu Canh Nhâm), Không Kiếp, Thiên Không, Tang Môn ...

Ngoài ra trong 3 đại vận liên tiếp trên, ít nào cũng năm sáu lần tiểu hạn đụng đầu Đào Hồng gặp Thiên không, Lưu hà và Kiếp Sát rất dễ gây ra sức ép với tuổi già.

Trừ phi Mệnh hay Thân đắc Thọ tinh hợp hành làm nồng cốt và không bị nghiệp báo Hình Riêu, Không Kiếp lũng đoạn.

Trong đời người, cứ mỗi 12 năm thì có 3 năm liên tiếp gặp hạn tam tai, thường thì hạn năm giữa là nặng nhất. Trong các năm nhập hạn tam tai thường gặp nhiều trở ngại, rủi ro hoặc khó khăn trong công việc. Ngoài ra không nên tu tạo hay tậu mãi nhà đất trong những năm hạn này. Còn việc hôn nhân, cưới hỏi thì ít bị ảnh hưởng. Đây chỉ là những dự đoán về hạn xấu chung để mà phòng tránh thôi chứ không chắc hẳn sẽ xảy ra như vậy.

Nếu năm nhập hạn trong lá số Tử Vi tốt thì hạn xấu của năm tam tai sẽ được giảm bớt, ngược lại nếu năm hạn trong lá số xấu mà gặp thêm năm tam tai thì năm hạn xấu sẽ càng xấu thêm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các bước luận đoán lá số Tử vi (phần 2)

Giật mình với tỷ lệ trở thành người thứ 3 của 12 con giáp

Chuyện trở thành người thứ 3 gần đây rất phổ biến, khiến kẻ khóc người cười. Vậy khả năng trở thành kẻ chen chân vào tình cảm của 12 con giáp là bao nhiêu.
Giật mình với tỷ lệ trở thành người thứ 3 của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyện trở thành "người thứ 3" gần đây rất phổ biến, khiến kẻ khóc người cười. Vậy khả năng trở thành kẻ chen chân vào tình cảm của 12 con giáp là bao nhiêu? Hãy cùng ## tìm câu trả lời.


Giat minh voi ty le tro thanh nguoi thu 3 cua 12 con giap hinh anh
 
Tuổi Tý: 30%

Người tuổi Tý thông minh nên biết rằng "người thứ 3" khó có kết quả tốt khi phóng túng tình cảm. Họ đa phần không làm kẻ phá hoại hạnh phúc của người khác nếu khống thấy hạnh phúc của mình trong đó

Tuổi Sửu: 80%
Mệnh chủ là người thật thà nhưng lại khó khống chế cảm xúc và dục vọng của bản thân, vậy nên rất nhiều khả năng người tuổi Sửu sẽ trở thành "kẻ thứ 3".

Dựa vào bát tự tìm người khởi nghiệp thành công
Từ góc nhìn bát tự tử vi, người muốn khởi nghiệp cũng cần một số yếu tố nhất định, hãy cùng ## tìm hiểu.

Tuổi Dần: 50%

Con giáp tuổi Dần khi thích đối tượng nào đó đa phần sẽ nói gần nói xa, sau khi nhận định cơ hội thành công thì họ mới "ra tay".

Tuổi Mão: 60%
Mão là con giáp thích sự ấm áp và phụ thuộc trong tình cảm, vậy nên họ không thể khống chế cảm xúc của mình khi có người khác giới ra tay giúp đỡ khi gặp khó khăn. Do đó, khả năng trở thành "tiểu tam" của người tuổi Mão không hề thấp.

Tuổi Thìn: 10%
Người tuổi Thìn thích vui chơi trước khi tìm đến bạn đời đích thực của mình, sau khi xác định được đối tượng sẽ rất chung tình. Họ cho rằng tình cảm giữa hai người là rất thần thánh nên sẽ không chấp nhận hành vi không tôn trọng tình cảm đối phương.

Giat minh voi ty le tro thanh nguoi thu 3 cua 12 con giap hinh anh 2
 
Tuổi Tỵ: 90%
Bát tự trụ năm Tỵ không hạn chế bản thân trong phương diện này, họ không quan tâm đến kết quả và những vấn đề sâu xa ngoài tình cảm của họ, vậy nên khi đã thích đối phương thì họ sẽ không chấm dứt tình cảm của mình và sẵm sàng trở thành người thứ 3.
  Tuổi Ngọ: 20%
Mệnh chủ năm Ngọ là người đơn thuần, họ trở thành "tiểu tam" khi không biết sự tình, một khi đã hiểu rõ họ sẽ lập tức rời bỏ. Vấn đề của người tuổi Ngọ là do quá lương thiện nên bị lừa dối tình cảm.
  Tuổi Mùi: 35%
Người sinh năm Mùi thường không có kế hoạch với chuyện tình cảm, cũng chưa từng nghĩ đến chuyện trở thành "người chen chân" và không có khả năng chống cự với chuyện tình cảm. Khi đã trở thành người thứ 3 thì họ cũng quyết "bảo vệ" tình cảm của mình.
  Tuổi Thân: 70%
Với biểu hiện vui tươi, tràn đầy sức sống, người tuổi Thân luôn được người khác chú ý. Đối với người đã kết hôn hoặc đã có người yêu thì họ cũng không từ chối tình cảm khi có người tiếp cận.

Giat minh voi ty le tro thanh nguoi thu 3 cua 12 con giap hinh anh 3
 
Tuổi Dậu: 75%
Dậu là con giáp có cơ duyên phá hoại tình cảm của người khác, điều này không phải đến từ nhân phẩm của họ mà mệnh đã định như vậy.

Tuổi Tuất: 15%
Bởi vì người tuổi Tuất khá tùy hứng, nên họ không thích tiếp nhận người đã có đối tượng. Lòng tự cao của mệnh chủ không cho phép họ trở thành "người thứ 3" trừ khi vận mệnh đã xác định
  Tuổi Hợi: 0%
Mệnh chủ năm Hợi yêu thích cuộc sống an nhàn nên tự hạ quyết tâm không trở thành người thứ 3 bởi vì sẽ khiến cuộc sống của họ "gà bay chó sủa", vô cùng hỗn loạn.

Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giật mình với tỷ lệ trở thành người thứ 3 của 12 con giáp

Ý nghĩa phong thủy của lục bình –

Thú chơi lộc bình (lộc bình) đang trở thành một "mốt" của nhiều gia đình. Lộc bình được làm từ nhiều chất liệu khác nhau nhưng chúng đề mang một ý nghĩa phong thủy nhất định. Lộc bình, ngày nay người ta thường gọi là Lục bình. Lộc bình có hình dạng r

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thú chơi lộc bình (lộc bình) đang trở thành một “mốt” của nhiều gia đình. Lộc bình được làm từ nhiều chất liệu khác nhau nhưng chúng đề mang một ý nghĩa phong thủy nhất định.

Untitled

Lộc bình, ngày nay người ta thường gọi là Lục bình. Lộc bình có hình dạng rất đặc trưng, thân phình to, cổ thắt lại trên miệng thường loe ra. Trong phong thủy, lộc bình mang ý nghĩa tượng trưng cho sự sung túc về tiền bạc, phát tài phát lộc, sự sinh sôi nảy nở, sự phát triển những điều mới mẻ, may mắn và cát khánh đồng thời nó cất giữ, bảo quản tài sản và của cải cho gia chủ. Lộc bình có nhiều hình dạng và được làm từ nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau như gốm sứ, gỗ quý, thủy tinh …

Trong phong thuỷ, theo thuyết hình khí (hình nào khí nấy) thì hình dạng của lộc bình có tác dụng thu và giữ khí rất tốt. Nhất là khi kết hợp với các hoa văn, đường vân uốn lượn hoặc trạm trỗ Rồng, Phượng sẽ làm tăng thêm sự huyền ảo, sự lưu chuyển, tụ hội của trường năng lượng. Lộc bình không phải là một thú chơi của người hiện đại mà nó đã được sử dụng từ rất xa xưa nhưng không được phổ biến. Những loại lộc bình quý, trạm trỗ công phu, … chỉ thấy xuất hiện trong những nhà quyền quý, bậc quan lại triều đình.

Ngày nay người ta chuộng loại lộc bình được làm từ gỗ quý, không chạm trỗ công phu nhưng phải tận dụng tốt nét đẹp mộc mạc của những đường vân gỗ tự nhiên. Giá cả của các loại lộc bình gỗ thường khác nhau, phụ thuộc vào kích thước, loại gỗ làm nên nó. Những loại lộc bình được làm từ gỗ quý như thủy tùng, cẩm lai, trắc, hương thường có giá rất cao, riêng lộc bình thủy tùng đang được các đại gia săn lùng bởi độ quý hiếm và ý nghĩa phong thủy của nó.

Bình ngược gỗ hương

Từ những ý nghĩa, công dụng của Lộc bình nói trên mà ngoài thú chơi lộc bình theo nghĩa thông thường ra, người ta còn trưng bày một chiếc hoặc một đôi lộc bình tại những vị trí tốt trong nhà (vị trí tài lộc, vị trí tình duyên, …) để kích hoạt khí tốt, phù trợ cho những mong muốn, ước nguyện của gia chủ. Vị trí đặt bình Nếu bình bằng thủy tinh, gốm sứ đựng nhiều đá quý, thuộc hành Thổ bạn nên đặt bình ở trong tủ thuộc góc Thổ của phòng ngủ, tức là góc Tây Nam. Đặt ở góc Đông Bắc cũng có thể chấp nhận được. Còn bình bằng kim loại thì đặt ở góc Tây hoặc Tây Bắc. Bạn nên đặt bình vào nơi kín đáo, ví dụ trong tủ của phòng ngủ. Lưu ý, bình tài lộc không được đối diện với cửa chính vì điều này tượng trưng cho sự thất thoát tiền bạc, tài sản. Đồng thời không để cho bất cứ ai nhìn thấy bình tài lộc của bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy của lục bình –

Những tên hay dành cho các bé trai –

Dưới đây là những gợi ý nho nhỏ để gia đình bạn có thể chọn cho quý tử nhà mình một cái tên đầy ý nghĩa An Cơ An Khang Ân Lai An Nam An Nguyên An Ninh An Tâm Ân Thiện An Tường Anh Ðức Anh Dũng Anh Duy Anh Hoàng Anh Khải Anh Khoa Anh Khôi Anh Minh Anh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là những gợi ý nho nhỏ để gia đình bạn có thể chọn cho quý tử nhà mình một cái tên đầy ý nghĩa

mu-len-cho-be-trai-03

An Cơ

An Khang

Ân Lai

An Nam

An Nguyên

An Ninh

An Tâm

Ân Thiện

An Tường

Anh Ðức

Anh Dũng

Anh Duy

Anh Hoàng

Anh Khải

Anh Khoa

Anh Khôi

Anh Minh

Anh Quân

Anh Quốc

Anh Sơn

Anh Tài

Anh Thái

Anh Tú

Anh Tuấn

Anh Tùng

Anh Việt

Anh Vũ

Bá Cường

Bá Kỳ

Bá Lộc

Bá Long

Bá Phước

Bá Thành

Bá Thiện

Bá Thịnh

Bá Thúc

Bá Trúc

Bá Tùng

Bách Du

Bách Nhân

Bằng Sơn

Bảo An

Bảo Bảo

Bảo Chấn

Bảo Ðịnh

Bảo Duy

Bảo Giang

Bảo Hiển

Bảo Hoa

Bảo Hoàng

Bảo Huy

Bảo Huynh

Bảo Huỳnh

Bảo Khánh

Bảo Lâm

Bảo Long

Bảo Pháp

Bảo Quốc

Bảo Sơn

Bảo Thạch

Bảo Thái

Bảo Tín

Bảo Toàn

Bích Nhã

Bình An

Bình Dân

Bình Ðạt

Bình Ðịnh

Bình Dương

Bình Hòa

Bình Minh

Bình Nguyên

Bình Quân

Bình Thuận

Bình Yên

Bửu Chưởng

Bửu Diệp

Bữu Toại

Cảnh Tuấn

Cao Kỳ

Cao Minh

Cao Nghiệp

Cao Nguyên

Cao Nhân

Cao Phong

Cao Sĩ

Cao Sơn

Cao Sỹ

Cao Thọ

Cao Tiến

Cát Tường

Cát Uy

Chấn Hùng

Chấn Hưng

Chấn Phong

Chánh Việt

Chế Phương

Chí Anh

Chí Bảo

Chí Công

Chí Dũng

Chí Giang

Chí Hiếu

Chí Khang

Chí Khiêm

Chí Kiên

Chí Nam

Chí Sơn

Chí Thanh

Chí Thành

Chiến Thắng

Chiêu Minh

Chiêu Phong

Chiêu Quân

Chính Tâm

Chính Thuận

Chính Trực

Chuẩn Khoa

Chung Thủy

Công Án

Công Ân

Công Bằng

Công Giang

Công Hải

Công Hào

Công Hậu

Công Hiếu

Công Hoán

Công Lập

Công Lộc

Công Luận

Công Luật

Công Lý

Công Phụng

Công Sinh

Công Sơn

Công Thành

Công Tráng

Công Tuấn

Cường Dũng

Cương Nghị

Cương Quyết

Cường Thịnh

Ðắc Cường

Ðắc Di

Ðắc Lộ

Ðắc Lực

Ðắc Thái

Ðắc Thành

Ðắc Trọng

Ðại Dương

Ðại Hành

Ðại Ngọc

Ðại Thống

Dân Hiệp

Dân Khánh

Ðan Quế

Ðan Tâm

Ðăng An

Ðăng Ðạt

Ðăng Khánh

Ðăng Khoa

Đăng Khương

Ðăng Minh

Đăng Quang

Danh Nhân

Danh Sơn

Danh Thành

Danh Văn

Ðạt Dũng

Ðạt Hòa

Ðình Chiểu

Ðình Chương

Ðình Cường

Ðình Diệu

Ðình Ðôn

Ðình Dương

Ðình Hảo

Ðình Hợp

Ðình Kim

Ðinh Lộc

Ðình Lộc

Ðình Luận

Ðịnh Lực

Ðình Nam

Ðình Ngân

Ðình Nguyên

Ðình Nhân

Ðình Phú

Ðình Phúc

Ðình Quảng

Ðình Sang

Ðịnh Siêu

Ðình Thắng

Ðình Thiện

Ðình Toàn

Ðình Trung

Ðình Tuấn

Ðoàn Tụ

Ðồng Bằng

Ðông Dương

Ðông Hải

Ðồng Khánh

Ðông Nguyên

Ðông Phong

Ðông Phương

Ðông Quân

Ðông Sơn

Ðức Ân

Ðức Anh

Ðức Bằng

Ðức Bảo

Ðức Bình

Ðức Chính

Ðức Duy

Ðức Giang

Ðức Hải

Ðức Hạnh

Đức Hòa

Ðức Hòa

Ðức Huy

Ðức Khải

Ðức Khang

Ðức Khiêm

Ðức Kiên

Ðức Long

Ðức Mạnh

Ðức Minh

Ðức Nhân

Ðức Phi

Ðức Phong

Ðức Phú

Ðức Quang

Ðức Quảng

Ðức Quyền

Ðức Siêu

Ðức Sinh

Ðức Tài

Ðức Tâm

Ðức Thắng

Ðức Thành

Ðức Thọ

Ðức Toàn

Ðức Toản

Ðức Trí

Ðức Trung

Ðức Tuấn

Ðức Tuệ

Ðức Tường

Dũng Trí

Dũng Việt

Dương Anh

Dương Khánh

Duy An

Duy Bảo

Duy Cẩn

Duy Cường

Duy Hải

Duy Hiền

Duy Hiếu

Duy Hoàng

Duy Hùng

Duy Khang

Duy Khánh

Duy Khiêm

Duy Kính

Duy Luận

Duy Mạnh

Duy Minh

Duy Ngôn

Duy Nhượng

Duy Quang

Duy Tâm

Duy Tân

Duy Thạch

Duy Thắng

Duy Thanh

Duy Thành

Duy Thông

Duy Tiếp

Duy Tuyền

Gia Ân

Gia Anh

Gia Bạch

Gia Bảo

Gia Bình

Gia Cần

Gia Cẩn

Gia Cảnh

Gia Ðạo

Gia Ðức

Gia Hiệp

Gia Hòa

Gia Hoàng

Gia Huấn

Gia Hùng

Gia Hưng

Gia Huy

Gia Khánh

Gia Khiêm

Gia Kiên

Gia Kiệt

Gia Lập

Gia Minh

Gia Nghị

Gia Phong

Gia Phúc

Gia Phước

Gia Thiện

Gia Thịnh

Gia Uy

Gia Vinh

Giang Lam

Giang Nam

Giang Sơn

Giang Thiên

Hà Hải

Hải Bằng

Hải Bình

Hải Ðăng

Hải Dương

Hải Giang

Hải Hà

Hải Long

Hải Lý

Hải Nam

Hải Nguyên

Hải Phong

Hải Quân

Hải Sơn

Hải Thụy

Hán Lâm

Hạnh Tường

Hào Nghiệp

Hạo Nhiên

Hiền Minh

Hiệp Dinh

Hiệp Hà

Hiệp Hào

Hiệp Hiền

Hiệp Hòa

Hiệp Vũ

Hiếu Dụng

Hiếu Học

Hiểu Lam

Hiếu Liêm

Hiếu Nghĩa

Hiếu Phong

Hiếu Thông

Hồ Bắc

Hồ Nam

Hòa Bình

Hòa Giang

Hòa Hiệp

Hòa Hợp

Hòa Lạc

Hòa Thái

Hoài Bắc

Hoài Nam

Hoài Phong

Hoài Thanh

Hoài Tín

Hoài Trung

Hoài Việt

Hoài Vỹ

Hoàn Kiếm

Hoàn Vũ

Hoàng Ân

Hoàng Duệ

Hoàng Dũng

Hoàng Giang

Hoàng Hải

Hoàng Hiệp

Hoàng Khải

Hoàng Khang

Hoàng Khôi

Hoàng Lâm

Hoàng Linh

Hoàng Long

Hoàng Minh

Hoàng Mỹ

Hoàng Nam

Hoàng Ngôn

Hoàng Phát

Hoàng Quân

Hoàng Thái

Hoàng Việt

Hoàng Xuân

Hồng Ðăng

Hồng Đức

Hồng Giang

Hồng Lân

Hồng Liêm

Hồng Lĩnh

Hồng Minh

Hồng Nhật

Hồng Nhuận

Hồng Phát

Hồng Quang

Hồng Quý

Hồng Sơn

Hồng Thịnh

Hồng Thụy

Hồng Việt

Hồng Vinh

Huân Võ

Hùng Anh

Hùng Cường

Hưng Ðạo

Hùng Dũng

Hùng Ngọc

Hùng Phong

Hùng Sơn

Hùng Thịnh

Hùng Tường

Hướng Bình

Hướng Dương

Hướng Thiện

Hướng Tiền

Hữu Bào

Hữu Bảo

Hữu Bình

Hữu Canh

Hữu Cảnh

Hữu Châu

Hữu Chiến

Hữu Cương

Hữu Cường

Hữu Ðạt

Hữu Ðịnh

Hữu Hạnh

Hữu Hiệp

Hữu Hoàng

Hữu Hùng

Hữu Khang

Hữu Khanh

Hữu Khoát

Hữu Khôi

Hữu Long

Hữu Lương

Hữu Minh

Hữu Nam

Hữu Nghị

Hữu Nghĩa

Hữu Phước

Hữu Tài

Hữu Tâm

Hữu Tân

Hữu Thắng

Hữu Thiện

Hữu Thọ

Hữu Thống

Hữu Thực

Hữu Toàn

Hữu Trác

Hữu Trí

Hữu Trung

Hữu Từ

Hữu Tường

Hữu Vĩnh

Hữu Vượng

Huy Anh

Huy Chiểu

Huy Hà

Huy Hoàng

Huy Kha

Huy Khánh

Huy Khiêm

Huy Lĩnh

Huy Phong

Huy Quang

Huy Thành

Huy Thông

Huy Trân

Huy Tuấn

Huy Tường

Huy Việt

Huy Vũ

Khắc Anh

Khắc Công

Khắc Dũng

Khắc Duy

Khắc Kỷ

Khắc Minh

Khắc Ninh

Khắc Thành

Khắc Triệu

Khắc Trọng

Khắc Tuấn

Khắc Việt

Khắc Vũ

Khải Ca

Khải Hòa

Khai Minh

Khải Tâm

Khải Tuấn

Khang Kiện

Khánh An

Khánh Bình

Khánh Ðan

Khánh Duy

Khánh Giang

Khánh Hải

Khánh Hòa

Khánh Hoàn

Khánh Hoàng

Khánh Hội

Khánh Huy

Khánh Minh

Khánh Nam

Khánh Văn

Khoa Trưởng

Khôi Nguyên

Khởi Phong

Khôi Vĩ

Khương Duy

Khuyến Học

Kiên Bình

Kiến Bình

Kiên Cường

Kiến Ðức

Kiên Giang

Kiên Lâm

Kiên Trung

Kiến Văn

Kiệt Võ

Kim Ðan

Kim Hoàng

Kim Long

Kim Phú

Kim Sơn

Kim Thịnh

Kim Thông

Kim Toàn

Kim Vượng

Kỳ Võ

Lạc Nhân

Lạc Phúc

Lâm Ðồng

Lâm Dũng

Lam Giang

Lam Phương

Lâm Trường

Lâm Tường

Lâm Viên

Lâm Vũ

Lập Nghiệp

Lập Thành

Liên Kiệt

Long Giang

Long Quân

Long Vịnh

Lương Quyền

Lương Tài

Lương Thiện

Lương Tuyền

Mạnh Cương

Mạnh Cường

Mạnh Ðình

Mạnh Dũng

Mạnh Hùng

Mạnh Nghiêm

Mạnh Quỳnh

Mạnh Tấn

Mạnh Thắng

Mạnh Thiện

Mạnh Trình

Mạnh Trường

Mạnh Tuấn

Mạnh Tường

Minh Ân

Minh Anh

Minh Cảnh

Minh Dân

Minh Ðan

Minh Danh

Minh Ðạt

Minh Ðức

Minh Dũng

Minh Giang

Minh Hải

Minh Hào

Minh Hiên

Minh Hiếu

Minh Hòa

Minh Hoàng

Minh Huấn

Minh Hùng

Minh Hưng

Minh Huy

Minh Hỷ

Minh Khang

Minh Khánh

Minh Khiếu

Minh Khôi

Minh Kiệt

Minh Kỳ

Minh Lý

Minh Mẫn

Minh Nghĩa

Minh Nhân

Minh Nhật

Minh Nhu

Minh Quân

Minh Quang

Minh Quốc

Minh Sơn

Minh Tân

Minh Thạc

Minh Thái

Minh Thắng

Minh Thiện

Minh Thông

Minh Thuận

Minh Tiến

Minh Toàn

Minh Trí

Minh Triết

Minh Triệu

Minh Trung

Minh Tú

Minh Tuấn

Minh Vu

Minh Vũ

Minh Vương

Mộng Giác

Mộng Hoàn

Mộng Lâm

Mộng Long

Nam An

Nam Dương

Nam Hải

Nam Hưng

Nam Lộc

Nam Nhật

Nam Ninh

Nam Phi

Nam Phương

Nam Sơn

Nam Thanh

Nam Thông

Nam Tú

Nam Việt

Nghị Lực

Nghị Quyền

Nghĩa Dũng

Nghĩa Hòa

Ngọc Ẩn

Ngọc Cảnh

Ngọc Cường

Ngọc Danh

Ngọc Ðoàn

Ngọc Dũng

Ngọc Hải

Ngọc Hiển

Ngọc Huy

Ngọc Khang

Ngọc Khôi

Ngọc Khương

Ngọc Lai

Ngọc Lân

Ngọc Minh

Ngọc Ngạn

Ngọc Quang

Ngọc Sơn

Ngọc Thạch

Ngọc Thiện

Ngọc Thọ

Ngọc Thuận

Ngọc Tiển

Ngọc Trụ

Ngọc Tuấn

Nguyên Bảo

Nguyên Bổng

Nguyên Ðan

Nguyên Giang

Nguyên Giáp

Nguyễn Hải An

Nguyên Hạnh

Nguyên Khang

Nguyên Khôi

Nguyên Lộc

Nguyên Nhân

Nguyên Phong

Nguyên Sử

Nguyên Văn

Nhân Nguyên

Nhân Sâm

Nhân Từ

Nhân Văn

Nhật Bảo Long

Nhật Dũng

Nhật Duy

Nhật Hòa

Nhật Hoàng

Nhật Hồng

Nhật Hùng

Nhật Huy

Nhật Khương

Nhật Minh

Nhật Nam

Nhật Quân

Nhật Quang

Nhật Quốc

Nhật Tấn

Nhật Thịnh

Nhất Tiến

Nhật Tiến

Như Khang

Niệm Nhiên

Phi Cường

Phi Ðiệp

Phi Hải

Phi Hoàng

Phi Hùng

Phi Long

Phi Nhạn

Phong Châu

Phong Dinh

Phong Ðộ

Phú Ân

Phú Bình

Phú Hải

Phú Hiệp

Phú Hùng

Phú Hưng

Phú Thịnh

Phú Thọ

Phú Thời

Phúc Cường

Phúc Ðiền

Phúc Duy

Phúc Hòa

Phúc Hưng

Phúc Khang

Phúc Lâm

Phục Lễ

Phúc Nguyên

Phúc Sinh

Phúc Tâm

Phúc Thịnh

Phụng Việt

Phước An

Phước Lộc

Phước Nguyên

Phước Nhân

Phước Sơn

Phước Thiện

Phượng Long

Phương Nam

Phương Phi

Phương Thể

Phương Trạch

Phương Triều

Quân Dương

Quang Anh

Quang Bửu

Quảng Ðại

Quang Danh

Quang Ðạt

Quảng Ðạt

Quang Ðức

Quang Dũng

Quang Dương

Quang Hà

Quang Hải

Quang Hòa

Quang Hùng

Quang Hưng

Quang Hữu

Quang Huy

Quang Khải

Quang Khanh

Quang Lâm

Quang Lân

Quang Linh

Quang Lộc

Quang Minh

Quang Nhân

Quang Nhật

Quang Ninh

Quang Sáng

Quang Tài

Quang Thạch

Quang Thái

Quang Thắng

Quang Thiên

Quang Thịnh

Quảng Thông

Quang Thuận

Quang Triều

Quang Triệu

Quang Trọng

Quang Trung

Quang Trường

Quang Tú

Quang Tuấn

Quang Vinh

Quang Vũ

Quang Xuân

Quốc Anh

Quốc Bảo

Quốc Bình

Quốc Ðại

Quốc Ðiền

Quốc Hải

Quốc Hạnh

Quốc Hiền

Quốc Hiển

Quốc Hòa

Quốc Hoài

Quốc Hoàng

Quốc Hùng

Quốc Hưng

Quốc Huy

Quốc Khánh

Quốc Mạnh

Quốc Minh

Quốc Mỹ

Quốc Phong

Quốc Phương

Quốc Quân

Quốc Quang

Quốc Quý

Quốc Thắng

Quốc Thành

Quốc Thiện

Quốc Thịnh

Quốc Thông

Quốc Tiến

Quốc Toản

Quốc Trụ

Quốc Trung

Quốc Trường

Quốc Tuấn

Quốc Văn

Quốc Việt

Quốc Vinh

Quốc Vũ

Quý Khánh

Quý Vĩnh

Quyết Thắng

Sĩ Hoàng

Sơn Dương

Sơn Giang

Sơn Hà

Sơn Hải

Sơn Lâm

Sơn Quân

Sơn Quyền

Sơn Trang

Sơn Tùng

Song Lam

Sỹ Ðan

Sỹ Hoàng

Sỹ Phú

Sỹ Thực

Tạ Hiền

Tài Ðức

Tài Nguyên

Tâm Thiện

Tân Bình

Tân Ðịnh

Tấn Dũng

Tấn Khang

Tấn Lợi

Tân Long

Tấn Nam

Tấn Phát

Tân Phước

Tấn Sinh

Tấn Tài

Tân Thành

Tấn Thành

Tấn Trình

Tấn Trương

Tất Bình

Tất Hiếu

Tất Hòa

Thạch Sơn

Thạch Tùng

Thái Bình

Thái Ðức

Thái Dương

Thái Duy

Thái Hòa

Thái Minh

Thái Nguyên

Thái San

Thái Sang

Thái Sơn

Thái Tân

Thái Tổ

Thắng Cảnh

Thắng Lợi

Thăng Long

Thành An

Thành Ân

Thành Châu

Thành Công

Thành Danh

Thanh Ðạo

Thành Ðạt

Thành Ðệ

Thanh Ðoàn

Thành Doanh

Thanh Hải

Thanh Hào

Thanh Hậu

Thành Hòa

Thanh Huy

Thành Khiêm

Thanh Kiên

Thanh Liêm

Thành Lợi

Thanh Long

Thành Long

Thanh Minh

Thành Nguyên

Thành Nhân

Thanh Phi

Thanh Phong

Thành Phương

Thanh Quang

Thành Sang

Thanh Sơn

Thanh Thế

Thanh Thiên

Thành Thiện

Thanh Thuận

Thành Tín

Thanh Tịnh

Thanh Toàn

Thanh Toản

Thanh Trung

Thành Trung

Thanh Tú

Thanh Tuấn

Thanh Tùng

Thanh Việt

Thanh Vinh

Thành Vinh

Thanh Vũ

Thành Ý

Thất Cương

Thất Dũng

Thất Thọ

Thế An

Thế Anh

Thế Bình

Thế Dân

Thế Doanh

Thế Dũng

Thế Duyệt

Thế Huấn

Thế Hùng

Thế Lâm

Thế Lực

Thế Minh

Thế Năng

Thế Phúc

Thế Phương

Thế Quyền

Thế Sơn

Thế Trung

Thế Tường

Thế Vinh

Thiên An

Thiên Ân

Thiện Ân

Thiên Bửu

Thiên Ðức

Thiện Ðức

Thiện Dũng

Thiện Giang

Thiên Hưng

Thiện Khiêm

Thiên Lạc

Thiện Luân

Thiên Lương

Thiện Lương

Thiên Mạnh

Thiện Minh

Thiện Ngôn

Thiên Phú

Thiện Phước

Thiện Sinh

Thiện Tâm

Thiện Thanh

Thiện Tính

Thiên Trí

Thiếu Anh

Thiệu Bảo

Thiếu Cường

Thịnh Cường

Thời Nhiệm

Thông Ðạt

Thông Minh

Thống Nhất

Thông Tuệ

Thụ Nhân

Thu Sinh

Thuận Anh

Thuận Hòa

Thuận Phong

Thuận Phương

Thuận Thành

Thuận Toàn

Thượng Cường

Thượng Khang

Thường Kiệt

Thượng Liệt

Thượng Năng

Thượng Nghị

Thượng Thuật

Thường Xuân

Thụy Du

Thụy Long

Thụy Miên

Thụy Vũ

Tích Ðức

Tích Thiện

Tiến Ðức

Tiến Dũng

Tiền Giang

Tiến Hiệp

Tiến Hoạt

Tiến Võ

Tiểu Bảo

Toàn Thắng

Tôn Lễ

Trí Dũng

Trí Hào

Trí Hùng

Trí Hữu

Trí Liên

Trí Minh

Trí Thắng

Trí Tịnh

Triển Sinh

Triệu Thái

Triều Thành

Trọng Chính

Trọng Dũng

Trọng Duy

Trọng Hà

Trọng Hiếu

Trọng Hùng

Trọng Khánh

Trọng Kiên

Trọng Nghĩa

Trọng Nhân

Trọng Tấn

Trọng Trí

Trọng Tường

Trọng Việt

Trọng Vinh

Trúc Cương

Trúc Sinh

Trung Anh

Trung Chính

Trung Chuyên

Trung Ðức

Trung Dũng

Trung Hải

Trung Hiếu

Trung Kiên

Trung Lực

Trung Nghĩa

Trung Nguyên

Trung Nhân

Trung Thành

Trung Thực

Trung Việt

Trường An

Trường Chinh

Trường Giang

Trường Hiệp

Trường Kỳ

Trường Liên

Trường Long

Trường Nam

Trường Nhân

Trường Phát

Trường Phu

Trường Phúc

Trường Sa

Trường Sinh

Trường Sơn

Trường Thành

Trường Vinh

Trường Vũ

Từ Ðông

Tuấn Anh

Tuấn Châu

Tuấn Chương

Tuấn Ðức

Tuấn Dũng

Tuấn Hải

Tuấn Hoàng

Tuấn Hùng

Tuấn Khải

Tuấn Khanh

Tuấn Khoan

Tuấn Kiệt

Tuấn Linh

Tuấn Long

Tuấn Minh

Tuấn Ngọc

Tuấn Sĩ

Tuấn Sỹ

Tuấn Tài

Tuấn Thành

Tuấn Trung

Tuấn Tú

Tuấn Việt

Tùng Anh

Tùng Châu

Tùng Lâm

Tùng Linh

Tùng Minh

Tùng Quang

Tường Anh

Tường Lâm

Tường Lân

Tường Lĩnh

Tường Minh

Tường Nguyên

Tường Phát

Tường Vinh

Tuyền Lâm

Uy Phong

Uy Vũ

Vạn Hạnh

Vạn Lý

Văn Minh

Vân Sơn

Vạn Thắng

Vạn Thông

Văn Tuyển

Viễn Cảnh

Viễn Ðông

Viễn Phương

Viễn Thông

Việt An

Việt Anh

Việt Chính

Việt Cương

Việt Cường

Việt Dũng

Việt Dương

Việt Duy

Việt Hải

Việt Hoàng

Việt Hồng

Việt Hùng

Việt Huy

Việt Khải

Việt Khang

Việt Khoa

Việt Khôi

Việt Long

Việt Ngọc

Viết Nhân

Việt Nhân

Việt Phong

Việt Phương

Việt Quốc

Việt Quyết

Viết Sơn

Việt Sơn

Viết Tân

Việt Thái

Việt Thắng

Việt Thanh

Việt Thông

Việt Thương

Việt Tiến

Việt Võ

Vĩnh Ân

Vinh Diệu

Vĩnh Hải

Vĩnh Hưng

Vĩnh Long

Vĩnh Luân

Vinh Quốc

Vĩnh Thọ

Vĩnh Thụy

Vĩnh Toàn

Vũ Anh

Vũ Minh

Vương Gia

Vương Triều

Vương Triệu

Vương Việt

Xuân An

Xuân Bình

Xuân Cao

Xuân Cung

Xuân Hàm

Xuân Hãn

Xuân Hiếu

Xuân Hòa

Xuân Huy

Xuân Khoa

Xuân Kiên

Xuân Lạc

Xuân Lộc

Xuân Minh

Xuân Nam

Xuân Ninh

Xuân Phúc

Xuân Quân

Xuân Quý

Xuân Sơn

Xuân Thái

Xuân Thiện

Xuân Thuyết

Xuân Trung

Xuân Trường

Xuân Tường

Xuân Vũ

Yên Bằng

Yên Bình

Yên Sơn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tên hay dành cho các bé trai –

Sao xấu: Ly Sàng, Tứ Thời Cô Quả, Không Phòng

Sao Ly Sàng: kỵ giá thú. Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch): tháng 1, 2, 3: ngày Dậu; tháng 4, 5, 6: ngày Dần, Ngọ.
Sao xấu: Ly Sàng, Tứ Thời Cô Quả, Không Phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Sao Ly Sàng: kỵ giá thú

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1, 2, 3: ngày Dậu; tháng 4, 5, 6: ngày Dần, Ngọ; tháng 7, 8, 9: ngày Tuất; tháng 10, 11, 12: ngày Tỵ.

Sao xau Ly Sang, Tu Thoi Co Qua, Khong Phong hinh anh
Tranh cát tường

2. Sao Tứ Thời Cô Quả: kỵ giá thú

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1, 2, 3: ngày Sửu; tháng 4, 5, 6: ngày Thìn; tháng 7, 8, 9: ngày Mùi; tháng 10, 11, 12: ngày Tuất.

3. Sao Không Phòng: kỵ giá thú

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1: ngày Thìn; tháng 2: ngày Tỵ; tháng 3: ngày Tý; tháng 4: ngày Tuất; tháng 5: ngày Hợi; tháng 6: ngày Mùi; tháng 7: ngày Dần; tháng 8: ngày Mão; tháng 9: ngày Ngọ; tháng 10: ngày Thân; tháng 11: ngày Dậu; tháng 12: ngày Sửu.

Theo Bàn về lịch vạn niên


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao xấu: Ly Sàng, Tứ Thời Cô Quả, Không Phòng

Những lưu ý quan trọng để đặt tên hay cho con gái

Đặt tên hay cho con gái chính là đặt cả kì vọng, sự yêu thương và tương lai cho con. Vì vậy, các bậc phụ huynh hãy ghi nhớ những lưu ý khi đặt tên cho con gái
Những lưu ý quan trọng để đặt tên hay cho con gái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

dưới đây.


Nhung luu y quan trong de dat ten hay cho con gai hinh anh
 
1. Điều lưu ý khi đặt tên cho con gái đầu tiên là thiên, nhân, địa, ngoại tổng hợp ở 81 sổ cách phải đón cát tránh hung (tra 81 sổ cát hung). Nhân cách cùng ngoại cách có quan hệ ảnh hưởng đến tính cách của đứa trẻ, tính cách tốt xấu ảnh hưởng đến sự sướng khổ, hạnh phúc hay bất hạnh trong cuộc đời. Vì thế, tên và đời có sự tương quan mạnh mẽ, không thể tách rời.   2. Âm vận là động lực linh hoạt, tên sản sinh ra từ trường thanh âm, tên tốt dễ nghe, tên xấu khó nghe, tạo nên từ trường xấu, quấy nhiễu đến cuộc đời đứa trẻ. Mà cái tên hay được nhắc đến nhất, nên đã tốt thì càng tốt, đã xấu thì càng xấu. Tên hay không chỉ để lại ấn tượng cho người khác mà chính mình cũng có thể tự nhận thức được.    3. Tránh âm hài hước, buồn cười khi đặt tên hay cho con gái. Cái tên khi xướng lên không thanh nhn, gây cười sẽ khiến đứa trẻ mặc cảm, nảy sinh tính cách tiêu cực, cuộc đời không thể tốt đẹp được.
Nhung luu y quan trong de dat ten hay cho con gai hinh anh
 
4. Chú ý ý nghĩa khi đặt tên cho con gái, không nên đặt những cái tên có nghĩa xấu, tối nghĩa, vô nghĩa hay nghĩa không thông dụng. Tốt nhất là hãy tra từ điển, chọn một cái tên thật hay, thật ý nghĩa, mang điềm lành như Hạnh, Phúc, Hoa, Mĩ, Hương,… để dành cho cô con gái nhỏ của mình.
  5. Quan trọng nhất là tên hay cho bé gái phải hợp với bát tự ngày sinh tháng đẻ, ngũ hành tương sinh thì mới tốt lành. Tham khảo hỉ dụng thần, lợi dụng bát tự, mệnh cách để đặt tên phù hợp, giúp cải thiện vận số cho đứa trẻ. Ví dụ, bát tự âm dương không cân bằng hay ngũ hành khuyết thiếu, lỗi mùa sinh, sinh không được tuổi, được giờ đều có thể dùng tên để cải thiện, sổ sung, bù đắp. Tên hợp với mệnh thì vận trình hanh thông, một đời suôn sẻ, là tiền đề để đứa trẻ tiến lên. 
Sinh con trai con gái như ý muốn theo phương pháp Thanh Cung Đặt tên đặt cả tương lai cho con với 6 lưu ý vàng Đặt tên theo tiếng vàng tiếng ngọc
Trình Trình

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý quan trọng để đặt tên hay cho con gái

Xem tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Thìn

Tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Thìn may mắn rơi vào cục diện Thân Tý Thìn tam hợp cục. Với tổ hợp cát tường này, mọi mặt cuộc sống của bạn rất thuận lợi.
Xem tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi tháng 7 âm lịch, người tuổi Thìn may mắn rơi vào cục diện Thân Tý Thìn tam hợp cục. Với tổ hợp cát tường này, mọi mặt cuộc sống của bạn rất thuận lợi, đặc biệt người làm ăn sẽ trôi chảy hơn khi tiếp nhận các hợp đồng mới. 


Tu vi thang 7 am lich cua tuoi Thin hinh anh
Tử vi tháng 7 âm lịch của người tuổi Thìn
 
Tử vi tháng 7 âm lịch
của tuổi Thìn, chuyện tình cảm hòa giải mọi xích mích, người độc thân tìm được đối tượng có cùng cách nhìn về cuộc sống. Mặt tài lộc thì phải vận động nhiều hơn mới có hi vọng làm dày túi tiền. Đó cũng là điềm chủ do Thân Kim sinh Hoa Cái tinh tại Thìn Thổ, Hoa Cái vừa là cát tinh vừa là hung tinh, người tuổi Thìn không cần quá căng thẳng. Những người làm về nghệ thuật, ca nhạc, thiết kế có thể mỉm cười vì Hoa Cái sẽ đem lại may mắn cho bạn.
  Đồng thời, Thìn Thổ trường sinh Thân Kim, người này sẽ gặp nhiều giúp đỡ từ Chính Ấn và Thiên Ấn sát thần. Người tuổi Thìn sẽ là con giáp may mắn nhất trong tháng “cô hồn” âm lịch.  

Sự nghiệp

Tu vi thang 7 am lich cua tuoi Thin hinh anh
Ảnh minh họa

Trong tháng Hỏa vượng Bính Thân, người tuổi Thìn được vận trình tam hợp nâng đỡ nên gặp nhiều thuận lợi. Những người làm việc văn phòng sẽ có nhiều tài lẻ về nghệ thuật hay văn học, bạn sẽ phát huy rất tốt ở các cuộc họp hoặc các chương trình hoạt động của công ty. Khiếu hài hước thiên bẩm khiến bạn vụt trở thành ngôi sao, điều này cũng có mặt trái của nó khi bạn trở nên đơn độc trong đoàn thể. Trong cuộc sống bất kỳ cá tính nghệ thuật nào cũng phải “chiến đấu đơn độc” trên con đường mình đã chọn.
  Người tuổi Thìn sẽ dễ dàng giải quyết các công việc được giao đột xuất hay cần thời gian ngắn, sự thông minh bất ngờ sẽ đưa đường chỉ lối cho bạn. Tuy nhiên cá tính lạnh lùng khiến bạn không được lòng khách hàng hay đồng nghiệp đâu! Mặt khác Chính Ấn tọa Hoa Cái cũng khiến bạn gặp nhiều cơ hội thăng quan tiến chức trong nghề nghiệp hoặc học hành. Những người đang làm trong cơ quan nhà nước thì có điềm điều chuyển chức vụ mới. Những người làm việc bên ngoài thì sẽ được cấp trên tin cậy mà giao nhiều việc quan trọng.  

Tài lộc

Tu vi thang 7 am lich cua tuoi Thin hinh anh
Ảnh minh họa

Tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Thìn về tài lộc tương đối khả quan nhờ có Hoa Cái tinh. Hoa Cái tinh nhắc nhở người làm ăn phải di chuyển, vận động thì mới sinh tiền tài. Bạn nên thường xuyên gặp gỡ khách hàng, “hâm nóng” quan hệ với các đối tác cũ, đây là tháng để bạn trái ngọt từ các mối làm ăn đó! Tuy nhiên bạn không được bỏ qua quan hệ tam hợp Thủy cục với Thái Tuế và Nguyệt Lệnh.

Trong hợp tàng khắc, Thân Thìn bán hợp, song Thân tự hình, điềm báo về những cuộc cạnh tranh tiền bạc không có hồi kết. Thủy cục sinh tại Thân, vượng tại Tý và lâm “Khố” tại Thìn; người này trong chuyện tiền bạc chỉ cần chủ tích lũy không chi ra là được. Những chi tiêu cố định hàng tháng thì không thể tránh, nhưng những suy nghĩ bốc đồng về các nhu cầu tinh thần như quần áo, ca nhạc, vui chơi giải trí… phải được suy tính kĩ càng.
 

Tình cảm

Tu vi thang 7 am lich cua tuoi Thin hinh anh
Ảnh minh họa

Tử vi tuổi Thìn ghi nhận chuyện tình cảmrất tốt đẹp, đặc biệt với người còn độc thân. Tư tưởng biến hóa linh hoạt, người này ăn nói lưu loát được lòng mọi người trong bất kỳ cuộc hẹn hò nào. Là người thân thiện, dễ gần nên người độc thân sẽ gặp được đối phương có đồng tư tưởng và quan điểm trong cuộc sống. Hai bạn trở nên tâm đầu ý hợp, nói chuyện hợp gu, nhiều thói quen tương đồng có thể gọi như “thiên duyên kỳ ngộ”.   Người đã có gia đình thì không khí gia đình có phần lủng củng, Hoa Cái tinh an bài tính cách cô độc cho bất kỳ ai gặp nó trong cung mệnh. Người tuổi Thìn bỗng trở nên xa cách với mọi người trong nhà, gặp chuyện muốn tự mình gánh vác từ chối sự chia sẻ. Vẻ bề ngoài lạnh lùng cũng đẩy bạn ra xa hơn với con cái.  

Sức khỏe

Tu vi thang 7 am lich cua tuoi Thin hinh anh
Ảnh minh họa

Tháng 7 âm lịch, âm khí tràn trề, bạn nên nghỉ ngơi điều độ, dưỡng dương khí trong mình. Đây là khoảng thời gian giao hòa giữa tiết Đại Thử và Tiểu Thử, thời tiết oi nóng tạo cơ hội cho bệnh dịch lan tràn. Những người tuổi Thìn có tiền sử về bệnh tim hoặc bệnh về máu thì nên ngủ đủ giấc, giữ phòng ốc sạch sẽ thoáng mát.
  Trong những ngày thời tiết tăng nhiệt đột ngột thì phải bổ sung nhiều nước, ăn uống thật vệ sinh, đề phòng bệnh về dạ dày. Quan hệ tam hợp Thủy cục chủ về âm khí nhiều, dương khí thoái trào gây chứng Dương hư. Cơ thể suy nhược, phản ứng chậm chạp khiến con người thường xuyên mệt mỏi, chân tay không còn sức lực. Dương khí thiếu thốn còn gây chứng dương hư cho tì vị và thận. Âm thắng thế gây bệnh lạnh chân tay, nhiệt lưỡi,… đặc biệt là tinh thần suy sụp.   Nhìn chung, xem tử vi tháng 7 âm lịch tuổi Thìn có nhiều may mắn tìm đến. Quan hệ bán hợp mang lại nhiều thuận lợi trong công việc và tài lộc. Có điều vì lâm Khố tại Thìn nên người này đôi lúc giải quyết vấn đề bị lâm vào ngõ cụt. Công việc được thăng hoa ở các mảng tài năng, hay tài lẻ; nhưng lại hơi khó khăn khi làm việc nhóm. Nếu biết cách dung hòa, thì đây sẽ là một tháng hoàn hảo cho người tuổi Thìn. 

Tài lộc sẽ đến nếu bạn tích cực gây dựng các mối quan hệ xã giao hơn nữa. Chuyện tình cảm thì phong phú đa đoan, người độc thân thuận lợi nhưng người đã có gia đình thì hơi vất vả. Nếu biết cách gỡ bỏ rào cản nội tâm, sẻ chia với người thân hay bạn bè có lẽ các mối quan hệ tình cảm của người tuổi Thìn sẽ được cải thiện rất nhiều. Mặt sức khỏe cần lưu ý dưỡng dương trừ âm, ăn nhiều thức ăn bổ dương, bổ tỳ vị. Nghỉ ngơi, cân bằng giữa làm việc và giải trí.

► Mời các bạn: Xem tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh chuẩn xác

Lichngaytot.com

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Thìn

Hướng bếp hợp người sinh năm 1982 Nhâm Tuất –

Hướng bếp tuổi Nhâm Tuất 1982: - Năm sinh dương lịch: 1982 - Năm sinh âm lịch: Nhâm Tuất - Quẻ mệnh: Ly Hoả - Ngũ hành: Đại Hải Thủy (Nước biển lớn) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp tuổi Nhâm Tuất 1982:

file.403715

– Năm sinh dương lịch: 1982

– Năm sinh âm lịch: Nhâm Tuất

– Quẻ mệnh: Ly Hoả

– Ngũ hành: Đại Hải Thủy (Nước biển lớn)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1982 Nhâm Tuất –

Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Một bài viết tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên. Mời mọi người cùng đọc.
Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả Hà Uyên về dịch số, quẻ dịch, mai hoa trên các diễn đàn lý số

Sự Thiếu Sót của quẻ Mai Hoa Năm Tháng Ngày Giờ

Vinhl, Thứ tư, 20/05/2009 | 01:35, hỏi:

Xin Chào các bạn,

Gần đây VinhL cùng với một người bạn nghiên cứu và bàn luận về quẻ Mai Hoa của Năm Tháng Ngày Giờ, qua nhiều khảo nghiệm thì khám phá ra quẻ Mai Hoa Năm Tháng Ngày Giờ chỉ sử dụng được 192 quẻ trùng một hào động.

VinhL xin giải thích như sau:

Quẻ Mai Hoa của Năm Tháng Ngày Giờ:

Dùng tổng số của Niên Chi, Tháng Âm Lịch, Ngày Âm Lịch, chia cho 8, lấy số dư làm Thượng Quái

Dùng tổng số của Niên Chi, Tháng Âm Lịch, Ngày Âm Lịch, Giờ (12 Chi), chia cho 8, lấy số dư làm Hạ Quái

Dùng tổng số lấy được khi tìm Hạ Quái chia cho 6, lấy số dư làm Hào Động.

Quẻ Mai Hoa dùng 64 trùng quái, mỗi quái có 6 hào, như vậy mỗi trùng quái có 6 quẻ một hào động. Như vậy toàn bộ có 64 x 6 = 384 quẻ một hào động.

Trong các phương pháp lấy quẻ Mai Hoa, ngoài trừ phương pháp dùng Năm Tháng Ngày Giờ, thì các phương pháp khác đều có thể lấy được bất cứ quẻ nào trong 386 quẻ một hào động.

Tại sao phương pháp dùng Năm Tháng Ngày Giờ của Mai Hoa chỉ có thể lấy được 192 quẻ một hào động mà không phải 384 quẻ?

Xin dẫn chứng như sau:

Thượng Quái = (Năm + Tháng + Ngày) – 8t, t=0,1,2,....

Hạ Quái = (Năm + Tháng + Ngày + Giờ) – 8h, h=0,1,2,...

Hào Động = (Năm + Tháng + Ngày + Giờ) – 6d, d=0,1,2,...

Từ sự tương quan giữa Hạ Quái và Hào Động ta có

Hạ Quái + 8h = Hào Động + 6d

tức là

(Hạ Quái – Hào Động) = 2 x (3d – 4h)

Vì vậy ta có

(Hạ Quái – Hào Động) / 2 = 3d – 4h

Theo công thức trên (Hạ Quái – Hào Động) / 2 phải là một số nguyên, tức (Hạ Quái – Hào Động) phải là một số chẳn. Như vậy muốn có được (Hạ Quái – Hào Động) là số chẳn thì Hạ Quái và Hào Động đều phải cùng là số chẳn hoặc số lẻ.

Từ đó ta có: Hạ Quái là số lẻ thì Hào Động là số lẻ, Hạ Quái là số chẳn thì Hào Động là số chẳn.

Nay xin liệt kê tất cả các quẻ có thể xảy ra khi dùng Năm Tháng Ngày Giờ để lấy quẻ Mai Hoa (một hào động).

Hạ Quái............ Hào Động....................... Tổng số quẻ

Càn 1................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Càn

Đoài 2............... 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Đoài

Ly 3.................. 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Ly

Chấn 4.............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Chấn

Tốn 5................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Tốn

Khảm 6............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Khảm

Cấn 7................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Cấn

Khôn 8.............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Khôn

24 x 8 = 192 quẻ một hào động.

Như thế phương pháp lấy quẻ Mai Hoa bằng Năm Tháng Ngày Giờ không phải đã thiếu đi một nửa bộ của dịch 384 quẻ một hào động không?

Kết quả trên cho thấy dùng Năm Tháng Ngày Giờ để lấy quẻ Mai Hoa thì các bạn sẻ không bao giờ lấy được quẻ Thiên Phong Cấu động hào 4, vì Hạ Quái Tốn là số 5, thì chỉ có thể động hào 1, 3, va 5 thôi.

Thiển nghỉ theo phương pháp của ông Thiệu Khang Tiết thì ta thấy Thượng Quái không thay đổi trong 1 ngày, Hạ Quái và Hào Động thì thay đổi từng giờ, mà mỗi giờ thì Hào Động lệ thuộc vào Hạ Quái và chỉ có thể động 1 hào trong 3, thay vì 6.

Để có thể sử dụng toàn bộ 384 quẻ một hào động thì phương pháp lấy hào động không nên lệ thuộc vào Hạ Quái. Có thể chỉ lấy giờ để tính hào động hoặc lấy tổng số (Ngày + Giờ) để tìm hào động.

Thân

Vâng, xin chào VinhL

Phương pháp phân tích, chứng minh và giải quyết vấn đề của anh VinhL, thông qua ví dụ diễn giải, đã làm sáng tỏ một cách minh triết vấn đề, mà không phải ai, khi đọc sách ứng dụng nó, nhìn nhận được ra. Cảm ơn anh.

Hà Uyên chỉ thắc mắc, đối với "Hoàng cực kinh thế" và "Mai hoa dịch số", cùng một tác giả, có lẽ Thiệu Ung xây dựng một hệ thống tính toán chặt chẽ hơn. Đây có phải do lỗi Nhà xuất bản không in, hay vì một lý do nào đấy không? Vậy mà cuốn sách vẫn được phát hành.

Hà Uyên cùng trao đổi với anh VinhL, ở góc độ này, Hà Uyên đang thống kê để tìm quy luật:

- Năm-Tháng-Ngày-Giờ, xác định được "thứ tự số" theo Tiên thiên, ví dụ Ngoại quái được "thứ tự số" là 3, Nội quái được "thứ tự số" là 7, ta được quẻ Hỏa Sơn Lữ.

- Khi theo Hậu thiên, thì số 3 Ngoại quái gồm những quẻ:3, 13, 23, 33, 43, 54, 63. Số 7 Nội quái gồm những quẻ: 7, 17, 27, 37, 47, 57

- Trên nguyên lý: Dịch luôn luôn biến đổi không ngừng - Vậy thì sau quẻ Hoả Sơn Lữ, sẽ tiếp diễn đến quẻ nào? Và khi nào thì xác định được "đầu" và "cuối" (có chung có thuỷ), có đầu có cuối?

- Khi chúng ta sử dụng hệ thống Thiên can để xác định thời điểm Khởi đầu - Kết thúc, Hà Uyên vẫn đang còn lúng túng về vấn đề này, Ví dụ:

+ BÍNH TÂN HỢP: năm 1916 - 1917 là năm Bính - Đinh, cho chúng ta biết điểm khởi đầu là "Tụ", đến năm 1991 là năm Tân, cho chúng ta biết điểm kết thúc là "Tán". Thực tiễn cho chúng ta thấy Liên bang Xô viết "tụ" lại thành một khối thống nhất năm 1916 - 1917, và đến năm 1991 thì "tán". Ở đây chúng ta chỉ xét về những tinh hoa của quá khứ đã để lại cho chúng ta, mà không bàn về Chính trị. Đây là nguyên lý âm - dương, tụ tán, ẩn hiện, đến đi, chính phản,...

+ Điểm xuất phát của phương pháp, Hà Uyên vẫn từ thứ tự số Tiên thiên, nhưng khi tính thì theo Hậu thiên.

Xin cảm ơn VinhL

...

VinhL, Thứ năm, 21/05/2009 | 12:01 hỏi:

Thưa Bác Hà Uyên,

VinhL đọc thấy Sư Phụ Thiên Sứ gọi Bác là Anh, thế thì VinhL phải thành thật xin lỗi là đã xưng hô với Bác là Bạn. Theo các bài viết của Bác thì Bác đã đọc qua Hoàng Cực Kinh Thế rồi, như thế thì chắc củng biết là sau quẻ Hoả Sơn Lư thì đến quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá theo như vòng tròn 64 quái của ông Thiệu Khang Tiết. Theo Hoàng Cực Kinh Thế thì bắt đầu là quẻ Phục, đến quẻ Bác, thì trở Phục, vì một vòng tròn thì đâu có kết thúc.

Nếu Bác lập một bảng trùng quái theo Ngoại quái Nội quái, sự vận hành của các quái trong bảng này sẻ hình thành một vòng Thái Cực Càn Đoài Ly Chấn nghịch hành Tốn Khảm Cấn Khôn thuận hành.

Theo cách lấy quẻ trong Hoàng Cực Kinh Thế:

(Để phân biệt Phút Giây theo Hoàng Cực Kinh Thế, VinhL xin gọi Phút là Phân, và Giây là Miễu theo Hán Việt)

1 Nguyên = 12 Hội = 129600 năm

1 Hội = 30 Vận = 10800 năm

1 Vận = 12 Thế = 360 năm

1 Thế = 30 Phân = 30 năm

1 Năm = 12 Tháng = 129600 Phân

1 Tháng = 30 Ngày = 10800 Phân

1 Ngày = 12 Giờ = 360 Phân

1 Giờ = 30 Phân

1 Giờ = 12 Miễu

Theo quyển “Nguyên Lý Chọn Ngày Theo Lịch Can Chi” của Tiến Sỉ Hoàng Tuấn thì Hội Ngọ bắt đầu vào năm 2198 Trước Công Nguyên.

Năm 1916 có

2198 + 1916 = 4114

4114 / 360 = 11 dư 136 năm tức hiện đã ở Vận thứ 12 của Hội Ngọ

136 / 30 = 4 dư 16 năm tức hiện ở vào Thế 5 của Vận 12, Hội Ngọ

1916 đang ở Hội Ngọ, Vận 12, Thế 5, năm thứ 16

Theo Hoàng Cực Kinh Thế thì 64 quẻ trùng không dùng 4 quẻ tứ Chính Càn Khôn Khãm Ly, còn lại 60 quẻ chia cho 12 Hội, mỗi Hội được 5 quẻ. Hội Tý có 5 quẻ Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Chấn Vi Lôi, vvv... Hội Ngọ có 5 quẻ Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại Quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Tốn Vi Phong.

Mồi Hội có 5 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào, 5x6 = 30 Vận.

1916 ở vào Vận thứ 12 Hội Ngọ tức quẻ Trạch Phong Đại Quá Động Hào Lục biến thành quẻ Cấu.

1 Vận có 12 Thế, mồi quẻ có 6 hào, tứ 2 Thế biến 1 hào. Thế 5 biến hào tam của quẻ Cấu tức là quẻ Thiên Thủy Tụng. 1 Thế có 30 năm, 2 Thế tức 60 năm, quẻ Thiên Thủy Tụng có 6 hào vậy 10 năm động một hào.

Năm thư 16 động hào 2 của quẻ Thiên Thủy Tụng tức được quẻ Thiên Địa Bỉ.

Tóm Lại 1916 có

Vận 12 Hội Ngọ: Quẻ Trạch Phong Đại Quá biến Cấu

Thế 5: Cấu biến Thiên Thủy Tụng

Năm thứ 16: Tụng biến Bỉ

Thưa Bác Hạ Uyên đó là diễn quái theo sự hiểu biết của VinhL khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế.

VinhL thì củng ít khi sử dụng kiến thức của mình để chiêm đoán thế sự, về mặt này rất là kém, phải nhờ Bác chỉ dạy thêm.

Nếu Bác muốn nghiên cứu sâu vào sự ứng dụng của Hoàng Cực Kinh Thế kết hợp với Tử Vi, thì Bác phải nghiên cứu đến Thiết Bản Thần Số rồi. Hiện nay VinhL củng đang tìm tòi sưu tầm sách về môn này đây.

Theo truyền thuyết, ông Thiệu Khang Tiết biết con gái mình sẻ không tài ba như mình nên lập ra Thiết Bản Thần Số để đường cùng thì có thể dùng nó để sinh sống. Vì vậy mà củng có thuyết là bí mật của Thiết Bản Thần Số chỉ truyền cho phái nử (Không biết truyền thuyết này có đúng không). Hiện nay trên thị trường mỗi môn phái mồi cách tính, không biết đâu là giả đâu là thật. Ngoài Thiết Bản Thần Số lại còn Hà Lạc Lý Số củng do ông Thiệu Khang Tiết kết hợp Bát Tự Hà Lạc với phương pháp của Thiết Bản Thần Số mà lấy các câu quyết đoán.

Nếu có chỗ nào sơ sót xin Bác cứ thẳng thắng mà chỉ giáo nhé.

Kính

Hà Uyên xin chào các Anh Chị trên diễn đàn

Hà Uyên chào VinhL

Sự đàm luận cùng bầu bạn tâm giao, bằng những ngôn ngữ hiểu nhau, có phần hơi kiêu kỳ, nó được coi như một hoạt động tinh thần tế nhị. Sự thanh đàm này, chỉ có được giữa bạn bè có cùng một nhận thức. Chữ "nhận thức" ở đây, Hà Uyên chỉ muốn nói về góc độ, khi chúng ta đọc sách Dịch Kinh, tìm hiểu về Dịch học và khi ứng dụng những kiến thức của Dịch học, vào cuộc sống thực tiễn vậy.

Thực học càng được, thì Tính càng mất đi.!

Chúng ta có thể, nên thống nhất với nhau, rằng: chúng ta đã trải qua giai đoạn "Đồng thanh tương ứng", mà hiện tại, chúng ta đang ở giai đoạn "Đồng khí tương cầu", có nghĩa là, chúng ta đang chạy maratong 42 km, không phải là đang chạy 100 mét.

Người nước lớn công nhận tên được ban là "Khang Tiết" tại đời vua Nguyên Hựu, hiện tại chúng ta đang thừa nhận tìm hiểu hệ thống học thuyết, nên gọi chính danh là: Thiệu Ung.

Chúng ta bắt đầu từ: QUY LUẬT THỜI GIAN

- Toàn thể loài người đang sử dụng thời gian: một ngày có 24 giờ, một giờ có 60 phút, một phút có 60 giây. Chúng ta tạm gọi là Dương lịch.

- Thiệu Ung khi xây dựng kết cấu cho hệ thống tính toán của mình, đã lấy "đơn vị ngày" làm đơn vị cơ sở cốt lõi, với phương pháp theo "tư duy số". Tại sao phải lưa chọn như vậy?

Khi chọn "năm" làm đơn vị để tính, thì sẽ vướng phải lịch "tiết khí", cứ 19 năm thì có 7 năm, phải tồn tại một "tháng nhuận", mâu thuẫn với nguyên tắc của "số 7", đó là 12 +7 = 19, sẽ là 19 x 360 = 3420, khi lấy đơn vị tính là "một Nguyên = một năm", thì 129600 là số không chia hết.

Khi chọn "tháng" làm đơn vị tính, thì sẽ mâu thuẫn với Nguyên lý Ngũ hành, về "Kỳ hạn biến hoá" (thời gian tới hạn) của vật chất làm đơn vị tính để tính, khi định cát - hung.

Thiệu Ung xây dựng hệ thống "tư duy số" cho cá nhân mình, Ông lấy đơn vị là "ngày" có 12 giờ, một Giờ có 30 vận, một Vận có 12 thế, một Thế có 30 Giây. Chúng ta tạm gọi là Ngày âm lịch, có nghĩa là:

- Một ngày có 129600 giây, tương đương với một Giờ có 10800 giây

- Một Giờ có 30 vận, thì một giờ có 180 phút, có nghĩa là: một Vận là 6 phút, và như vậy thì: một Thế có 30 giây

Như vậy mối quan hệ của một ngày Dương lịch là 86400 giây, so với ngày Âm lịch 129600 giây, sẽ tồn dư 129600 - 86400 = 43200 giây, tương đương với 72 phút, tương dương với 4 giờ âm lịch.

Đến đây, có thể Thiệu Ung đành phải dùng Lý học, mà không dùng "tư duy số". Tại sao lại như vậy? Vì một ngày, theo giờ phương Đông có 12 Giờ, chi phí cho thời gian bảo tồn năng lượng và tái hồi sức sống, thì loài người, chúng ta phải ngủ mất 4 Giờ, chỉ còn lại 8 giờ là thức. Do vậy, trong "Hoàng cực Kinh thế" ông đã viết: "bỏ một lấy hai, bỏ ba chọn bảy,..." (Hoàng cực kinh thế - tập 2). Có nghĩa là, trong tính toán, chia làm 3 phần, thì bỏ một phần lấy hai phần, tức là bỏ 4 lấy 8 để dụng.

Về công thức tính, chúng ta sẽ trao đổi từng phần. Theo Hà Uyên, với công thức tính toán của Thiệu Ung, thì loài người đang ở vào Tháng Bảy, ngày 12 âm lịch, giờ Mão.

Hà Uyên xin cảm ơn VinhL đã quan tâm.

....

VinhL, Thứ sáu, 22/05/2009 | 13:57

Chào Bác Hà Uyên,

Nghiên cứu lại các bài viết về 12 biến của Bác, và vấn đề tại sao Kinh Phòng khi quy nạp quẻ theo Ngũ Hành, không cho biến đến hào 6, thì VinhL suy luận là chổ quan trọng không phải là 2 quẻ động hào 6 mà là sự thiếu sót của phương pháp biến hào tiệm tiến. Nếu lấy 8 quẻ bát thuần theo phương pháp biến hào tiệm tiến thì sẻ không bao giờ biến ra được 8 quẻ Du Hồn và 8 quẻ Quy Hồn, cho nên khi biến đến hào năm thì phải quay lại biến hào 4 và kế đến là biến 3 hào dưới. Theo phương pháp biến hào tiệm tiến 6 biến sau củng chính là 6 biến đầu của quẻ đối hào, cho nên có sự lập lại. Vì vậy theo phương pháp biến hào tiệm tiến thì 8 quẻ Bát Thuần chỉ biến ra được 48 quẻ thiếu đi 16 quẻ Du Hồn và Quy Hồn.

Nếu tám quẻ thuần biến quẻ theo thứ tự quẻ đơn của Tiên Thiên Bát Quái thì sẻ biến ra đủ 64 quẻ, có lẻ vì vậy mà ông Thiệu Khang Tiết dùng phương pháp biến quẻ Tiên Thiên làm gốc, và kết hợp với cách biến hào tiệm tiến. 12 Hội thì dùng quẻ biến theo Tiên Thiên, Vận Thế thì biến theo tiệm tiến.

Về năm tháng ngày theo Nguyên Hội Vận Thế của 1916 thì theo Bác là Tháng 7 Ngày 12 Giờ Mão. Theo VinhL tính thì Hội Ngọ, Vận 12, Thế 5, Phân 16, tức là Tháng 7 Ngày 12, giờ Thìn, 16 Phút, như vậy có sai biệt 1 giờ, mong Bác giải thích cách tính của Bác để VinhL biết được chổ sai. Thành thật cám ơn.

Vài lời suy luận nếu có gì sai Bác cứ thẳng thắng chỉ điểm.

Kính

Vâng VinhL đã để lại cho Hà Uyên một nội hàm (cảm giác bên trong) thực sự phấn chấn. Sau hơn 2000 năm, người Việt nam, khi nói theo đơn vị hành chính, dân tôc Lạc Việt, khi nói theo tiến trình logic của Lịch sử, đã và đang tìm về côi nguồn của mình. Chúng ta đã đánh giá đúng về Kinh Phòng, khi ông dùng hào 1 quẻ Thuần Càn: "vật dụng", phối hợp với Ngũ hành nạp hào quẻ Dịch, thì 8 quẻ "Bát thuần", Kinh Phòng gọi là quẻ Bố - Mẹ, không tồn tại quẻ "Quỷ dịch": Du hồn và Quy hồn. Đây là một "chìa khoá" rất quan trọng đối với các môn học thuật Phương Đông. Cảm ơn, cảm ơn VinhL nhiều. Đến tại thời điểm này, theo những gì Hà Uyên được biết, Thiệu Vĩ Hoa hay những diễn đàn chính thức, chưa có những công bố về: công thức tính toán trên của Kinh Phòng. Do vậy, khi Bốc Dịch theo phương pháp của Kinh Phòng, gặp phải quẻ Quỷ Dịch, chất lượng thông tin thường gặp phải những vấn đề nghiêm trọng. Chúng ta sẽ bàn lại chủ đề này sau. Một hào của một quẻ Dịch bất kỳ, luôn luôn trải qua 12 giai đoạn tiệm tiến, theo Hà Uyên, đây là Nguyên lý cơ bản của Dịch học. Tại sao? Trải dài với thời gian hơn 5000 năm, không một ai thay đổi Quái danh, Quái tượng, ngôn ngữ của Hào từ. Một hào tiệm tiến trải qua 12 quá trình (12 quẻ dịch), nhưng ngôn ngữ của Hào 1, luôn luôn thông khí với toàn bộ các hào 1 của 11 quẻ còn lại. Đây là một "chìa khoá" cũng rất quan trọng, khi đưa ra lời giải cho những môn học thuật cao. Ví du: quẻ Sơn Lôi Di hài 1: - Hào 1 quẻ Sơn Lôi Di: "Hào Chín Đầu, người bỏ phần tốt đẹp như rùa thiêng của mình, mà nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, có hung hiểm." - Hào 1 quẻ Sơn Trạch Tổn: "Hào Chín Đầu, hoàn thành sự nuôi dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp người ở ngôi cao, tất không có cữu hại, nên trông trước giảm bớt tính cương cứng của bản thân" -....... Như vậy, quẻ Di có hình tượng tượng trưng là: "nuôi dưỡng", thì hào 1 quẻ Tổn tiếp lời: "hoàn thành sự nuôi dưỡng,...". Khi chúng ta thống kê toàn bộ 64 quẻ, hay 4608 sự chuyển hoá, ta sẽ thấy rất nhiều điều thú vị, đặc biệt là phương pháp tư duy "tượng số" đối với những môn học thuật cao (Tam minh). Tại một thời điểm thuộc quá khứ, khi Anh Hoàng Tuấn làm Trưởng đoàn, vào miền Nam nghiên cứu môn bấm huyệt của bà Huỳnh thị Lịch tại quận Phú Nhuận, phương pháp bấm có tên gọi: "Thập Thủ Đạo", thì Hà Uyên có trao đổi với anh Hoàng Tuấn: Hội Ngọ được tính bắt đầu từ năm 2198 Tr.CN là căn cứ vào đâu?, anh Hoàng Tuấn có trả lời rằng: lấy theo quyển: Địa Lý Ngũ quyết và quyển Địa lý mật truyền cáo tập. Về việc này, chúng ta sẽ trao đổi sau. Cảm ơn VinhL đã quan tâm.

...

VinhL, Thứ sáu, 22/05/2009 | 23:46  hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Thấy Bác phấn chấn, VinhL củng phấn chấn theo. VinhL rất vui mừng có người để chia sẻ và bàn luận những khám phá trong khi nghiên cứu Dịch.

Thấy Bác nói đến học thuật cao (Tam Minh), có phải là Tam Thức theo như các sách Hán đề cập không?

Như Thái Ất, Kỳ Môn và Lục Nhâm. Thú thật VinhL củng có nghiên cứu sơ qua 3 môn này. Nếu Bác thích thú bàn thảo về 3 môn này thì VinhL củng rất vui mừng hồi ứng.

Trong các bài viết của Bác về sự thông khí, không thấy đề cập về Lục Khí (Ngũ Vận Lục Khí).

Theo sự suy luận của VinhL, nguồn gốc của các hào thế ứng trong kinh Dịch củng chính là dựa vào Lục Khí.

Tại sao hào sơ lại ứng tam, hào nhị ứng ngũ, vv..... mà không phải là sơ ứng lục hay ứng các hào khác.

Khi nạp chi cho các hào, quẻ Càn nạp Tý Dần Thìn, Ngọ Thân Tuất, Tý đối Ngo, Dần đối Thân, Thìn đối Tuất.

Theo Khách Khí của thuyết Ngũ Vận Lục Khí, các năm Tý Ngọ thì khí Dương Minh tại tuyền ứng với khí Thiếu Âm tại thiên. Năm Dần Thân, thì khí Quyết Âm tại tuyền ứng với Thiếu Dương tại Thiên., vv....

Lục Khí, Tam Âm ứng với Tam Dương, Sơ với Tam ứng nhau, Nhị với Tứ ứng nhau, và Tam với Lục ứng nhau.

Trong các sách về Dịch và Lý Số, không hiểu tại sao không có sách nào bàn đến Ngũ Vận Lục Khí, trong khi đó nó là lý thuyết vô cùng quan trọng trong môn Y học Đông Phương. Có phải bí mật của sự tương quan của Ngũ Vận Lục Khí trong Dịch và các môn lý số đã bị thất truyền??? Chỉ có môn Thái Ất là có đề cập và sự ứng dụng tới thuyết này.

Có gì thiếu sót, sai lầm mong Bác chỉ điểm.

Kính

Chào VinhL Trên diễn đàn này, chúng ta đã dùng Đạo "hối minh", thì "minh" ấy càng được sáng tỏ. VinhL và Hà Uyên khởi đầu giao lưu từ ngày 10/5/2009, bắt đầu từ Mai Hoa Dịch số, đến ngày 22/5/2009, thì VinhL đã Thấy được Bốc Dịch, do học thuyết của Kinh Phòng xây dựng nên, mà ngày hôm nay người Phương Đông đang ứng dụng nó một cách phổ biến, những căn nguyên mà VinhL đã tìm hiểu ra, sự không đồng bộ trong hệ thống tính toán của Kinh Phòng, sự thiếu chặt chẽ trong học thuyết mang tính ngiêm trọng, nó ảnh hưởng tới tính chính xác và độ tin cậy của thông tin rất nhiều. Cho phép Hà Uyên nghĩ thế này: kể từ ngày 10/5/09, cộng thêm với 196 ngày nữa, VinhL sẽ ở vào một tư thế mới. Dương khí có xu hướng đang tiệm tiến chuyển dịch vào bên trong con người của VinhL "nén chặt". Khi Dương khí co rút vào càng nhiều, càng lớn, càng mạnh, thì sự giãn nở ra càng lớn. Giới hạn giữa sự hiểu biết và không hiểu biết, là chu vi phát triển ngày càng lan rộng. Hà Uyên tin như vậy. Cũng như Hà Uyên đã trao đổi với Liêm Trinh, người thứ 5 giao lưu với Hà Uyên là anh Thiên Sứ. Vì rằng, VinhL đã quyết định đúng, khi nói Thiệu Ung dùng phương pháp biến quẻ Tiên thiên làm gốc. Có điều này, Hà Uyên cũng nghiêm túc muốn trao đổi với VinhL. Khi tiến tới một giới hạn cho phép, thì chúng ta phải đối mặt với sự hiểm nguy. Người nước lớn không bao giờ muốn dân tộc chúng ta có người tài giỏi cả đâu. Đặc biệt là những môn học thuật này. Lịch sử đã cho chúng ta biết như vậy. Đến tận ngày hôm nay, sự hiểm nguy còn lan rộng hơn. Vấn đề này hết sức nhậy cảm và tế nhị.! Thiệu Ung khi xây dựng hệ thống kết cấu cho học thuyết của mình, không thể để "thời gian" trôi tuột đi được. Do vậy, Hà Uyên đã trao đổi với VinhL giữa học thuyết tính toán của Thiệu Ung, so sánh với thời gian thực, đã ẩn giấu một "chìa khoá". Từ xưa đến nay, dù chúng ta có dùng "100 khắc", hay gọi là "miễu", thì thời gian vẫn không thay đổi. Một ngày gồm 86400 giây là đơn vị tính cơ sở, khi thêm đơn vị tính cơ sở của Thiệu Ung là 4320 (43200), thì chúng ta hiểu: tai sao Thiệu Ung dùng 129600 làm đơn vị để tính. Từ ngày 10/3/2008 khai trương diễn đàn Lyhocdongphuong, cho tới ngày hôm nay 23/5/2009, số ngày đã trải qua là 439 ngày. Chúng ta đang ở Hạ nguyên, vậy thì từ Giáp Tý sau đông chí Thượng nguyên, đến ngày hôm nay là bao nhiêu ngày? Thiệu Ung có nghĩ như vậy Không? Tại sao chúng ta lại lệ thuộc vào sự quy định khởi đầu của Hội Ngọ, vào những năm TR.CN như vậy?

....

"Trong các bài viết của Bác về sự thông khí, không thấy đề cập về Lục Khí (Ngũ Vận Lục Khí).

Theo sự suy luận của VinhL, nguồn gốc của các hào thế ứng trong kinh Dịch củng chính là dựa vào Lục Khí.

Tại sao hào sơ lại ứng tam, hào nhị ứng ngũ, vv..... mà không phải là sơ ứng lục hay ứng các hào khác."

Đất chựu Trời thì chấp thuận 5 vận (chế)

Trời chựu Đất thì chấp thuận 6 khí (tiết)

Đối ngoại thì có 4 phương, cùng với Trung tâm mà sinh ra "khí" - "động"

Đối nội thì có bởi 8 cực. Khi tĩnh thì hướng tâm, xu hướng phát triển theo "vỹ". Khi động thì ly tâm, xu hướng phát triển theo "kinh".

Cửu cung: khi số Trung tâm là số "chẵn", thì số ở 4 góc là số "lẻ". Số nhập Trung cung là số "lẻ", thì số của 4 góc là số "chẵn". Sao Thuỷ chuyển 4 độ thì trái đất chuyển 1 độ.

Năm 1999: Chính của Dương minh thuộc về kỷ của Mão - Dậu: Dương minh - Thiếu giác - Thiếu âm thanh nhiệt, thắng phục đồng, giống, chính, thương. Đinh Mão tuế hội - Đinh Dậu vận ấy là thanh nhiệt. Thiếu giác sơ chinh, thiếu cung, thái dương, thiếu vũ cuối.Chính của Dương minh chỉ năm Dương minh táo kim Tư thiên.

Kỷ Mão - 1999: vận Thổ bất cập, Khí Tư thiên là Dương minh táo kim, khí tại tuyền là Thiếu âm quân hoả. Tố vấn di biên - Thiên luật pháp: Kỷ Mão: sao Lâu, hành Kim ở phương Tây, trộm cướp Thái quá, giao thông bế tắc. Sao Kim - Hoả có ảnh hưởng nhiều tới trái đất.

Ngày 3/10/1999, Làng văn hoá các dân tộc Viết nam động thổ tại Đồng Mô - Sơn tây. Bản tính Dự báo Thời tiết năm 1999 đã được gửi từ đầu năm, ghi rõ: ngày 3/10/1999 là ngày Giông tố. Chủ khí Dương minh táo kim, gió Tây và Tây Bắc hanh khô (21/9 - 21/11). Khách khí Quyết âm phong mộc, xuân lệnh nghịch lại lưu hành. Khí gió thiên thắng. Khí hậu lạnh không lạnh được. Thực tiễn ngày 3/10/1999 đã xẩy ra giông tố.

Đây là một đóng góp mang tính thực tiễn mà Hà Uyên đã làm. Chỉ tiếc rằng, tại thời điểm đó lãnh đạo vẫn chọn ngày 3/10 làm ngày động thổ với số vốn đầu tư 70 triệu us.

...

VinhL,.. hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế, thì có hai số mà được lập đi lập lại đó chính là số 12 và 30. Toàn bộ Nguyên Hội Vận Thế Niên Nguyệt Nhật Thì Phân Miễu (Giờ Phút Giây) điều dùng 12 và 30 xen kẻ lẫn nhau.

Nguyên = 12 Hội

1 Hội = 30 Vận

1 Vận = 12 Thế

1 Thế = 30 Niên

1 Niên = 12 Nguyệt

1 Nguyệt = 30 Nhật

1 Nhật = 12 Giờ

1 Giờ = 30 Phút

1 Phút = 12 Giây.

Phút và Giây đây không phải là đơn vị Phút và Giây chúng ta đang dùng hiện tại mà là đơn vị thời gian do ông Thiệu Ung phân chia theo phương pháp 12, và 30 xen kẻ.

Trong Hoàng Cực Kinh Thế có đề cặp đến Niên (Tuế) Nguyên, Nguyệt Hội, Nhật (Tinh) Vận, Thìn (Thời) Thế. Từ đó ta thấy Nguyên Hội Vận Thế Niên, Niên Nguyệt Nhật Thời Phân, tương quan với nhau vì tính ra thì đều là 12x30x12x30 = 129600. Khi coi Nhật là Nguyên, thì Bác phải chia Giờ ra thành Vận, Thế rồi đến Giây tức là Nhật, Thời, Vận, Thế, Giây, thì đơn vị Phút đã không còn tuân theo luật 12, 30 của Hoàng Cực Kinh Thế nữa.

Theo VinhL nghĩ, đễ khỏi vướng phải “tháng nhuận”, cho nên ông Thiệu Ung đã dùng Nguyệt theo Tiết Khí, tức một tháng là 2 tiết khí, tháng Tý bắt đầu ở tiết Đông Chí. Một năm lúc nào củng có 24 tiết khí, vì tiết khí căn cứ vào vòng hoàng đạo 360 độ (Sun Longtitude), mồi tiết khí là 15 độ. Luật nhuận được dùng khi tính tháng theo chu kỳ mặt trăng. Mùng 1 âm lịch thì lúc nào củng phải đúng vào ngày trăng mới (New Moon), nên có năm lại có tới 13 lần trăng mới nên phải đặt nhuận.

Cũng vì vậy khi ông Thiệu Ung đề cặp đến Tuế (Niên), 1 Niên = 12 Nguyệt x 30 Nhật = 360 Ngày, ở đây có thể hiểu là 360 độ của vòng hoàng đạo. 1 độ là 1 ngày. Như vậy muốn chính xác 100% thì chúng ta phải dùng đến công thức của Thiên Văn Học để tính ra các đơn vị Nguyệt, Nhật, Thời, vv...

VinhL có đọc qua phần Thiên Môn Địa Hộ của Bác, theo như vậy, trong Kỳ Môn Quý Nhân Đăng Thiên Môn tức là khi sao Bắc Đẩu (Khôi hay Âm Quý tức Tứ Mộ Khu Toàn Cơ Quyền, củng là Tham Cự Lộc Văn, Việt hay Dương Qúy tức Tam Quang Tiêu Dao Du củng là Liêm Vũ Phá ) ở vào khu vực Khuê Bích.

Nhân đây nhắc đến Kỳ Môn, không biết Bác có ý kiến gì về sự khác biệt giữa các môn Bát Trạch, Huyền Không Phi Tinh, Phép Tôn trong Thái Ất, và Kỳ Môn Độn Giáp. Ngoại trừ Bát Trạch, thì 3 môn kia đều bày bố Bắc Đẩu Thất Tinh theo phương pháp khác nhau.

Huyền Không thì cho sao phi vào cung trung, Kỳ Môn thì theo tiết khí và Lục Nghi mà bày bố, Thái Ất Phép Tôn không chú trọng đến tiết khí. Trong 3 môn thì chỉ có Kỳ Môn Độn Giáp là coi trọng việc Siêu Thần Tiếp Khí để lập Cục. Theo như sách của ông Thẩm Trúc Nhưng, thì nhờ mượn đọc được tác phẩm “Âm Dương Nhị Trạch Lục Nghiệm” của Trương Trọng Sơn thêm vào nhiều năm nghiên cứu mà biết được phương pháp sao nhập trung cung. So sánh giữa 2 phương pháp bày bố cửu tinh, thì VinhL thấy sao nhập trung cung thiếu sự hợp lý với các hiện tượng thiên văn. Phương pháp của Kỳ Môn thì có vẽ hợp lý hơn. Có khi nào ông Thẩm Trúc Nhưng thấy sao vào cung giữa mà cứ nghỉ đó là phương pháp, mà thật ra cửu tinh phải bày bố theo Kỳ Môn Độn Giáp lấy Cục của tiết khí mà khởi Lục Giáp theo đường lường thiên xích (Tiên Thiên Bát Quái Nạp Số Thái Huyền) mà an bày 9 sao. Không biết nếu dùng cách an sao của Kỳ Môn áp dụng vào Huyền Không có thích hợp hơn không?. Theo VinhL biết trong quyển La Kinh Thấu Giải có nói đến phương pháp ứng dụng Kỳ Môn và trùng quái để tìm 24 ngôi châu bảo thấu địa long.

Vài lời lạm bàn nếu có sai sót mong Bác chỉ điểm.

Kính

Hà Uyên chào VinhL Tại thời gian của Thiệu Ung, lịch Đại diễn vẫn đang được sử dụng. Năm 721 (CN) Tăng Nhất Hành phung chiếu, sáng tác Lịch mới được gọi là lịch Đại diễn. Thực chất sáng tác của lịch Đại diễn này, là bê y nguyên thuyết Quái khí của Mạnh Hỷ vào lịch pháp của Tăng Nhất Hành. Hà Uyên nghĩ Thiệu Ung vẫn phải sử dụng hệ thống lịch Đại diễn này. Ví dụ: Tháng Dần - hội thứ ba, hào 6 - 3 trở về trước quẻ Phong, cùng với quẻ Ký tế, Gia nhân chủ khí Vũ thuỷ. Hào 9 -4 quẻ Phong trở về sau, cùng với quẻ Cách, và quẻ Đồng nhân chủ khi Kinh trập. Do vậy, số 129600 sẽ không chia hết cho 2520. VinhL tham khảo thêm

..

THUYẾT QUÁI KHÍ CỦA TĂNG NHẤT HÀNH VỚI LỊCH ĐẠI DIỄN

Năm Khai Nguyên thứ 9 triều Đường (721 CN), Tăng Nhất Hành phụng chiếu, sáng tác Lịch mới. Nhất hành dựa vào thuật suy diễn các con số để diễn giải Lịch mới. Năm Khai Nguyên thứ 17 (729CN), Lịch mới đã được ban hành, được gọi là Lịch Đại diễn. Song, số liệu Thiên văn và phương pháp giải thích của Nhất Hành còn thiếu độ chính xác. Tại thời điểm đó, đã được kiểm tra lại, thì Lịch Đại diễn đạt độ chính xác 70% - 80%.

Ảnh hưởng từ Dịch - Hệ từ, ông nói: “Trời bắt đầu từ 1, Đất bắt đầu từ 2. Hợp hai số đầu này lại thì thành “cương – nhu”. Số cuối của Trời là 9, số cuối của Đất là 10, hợp hai số cuối lại để ghi số dư. Số giữa của Trời là 5, số giữa của đất là 6, hợp hai số giữa này để thông luật Lịch”. Hệ từ: “Trời số 5, Đất số 5, năm vị trí đều thành, và các vị trí có sự hoà hợp khác nhau, nên mới có biến hoá của Quỷ thần”. Từ đây, ông đã suy ra phép thông 3040 trong Lịch pháp đại diễn.

3040 là nhật pháp, phương pháp tính ngày, tương tương trong Lịch chia 4 cổ, và 81 trong Lịch Thái sơ. Song, trong lịch Đại diễn, tất cả ngày, tháng, và chu kỳ vận động của 5 hành tinh lớn, đều được biểu thì bằng phân số, có mẫu số chung là 3040. Ví như 3040 = 19 x 160, trong đó 19 là biểu thị 19 năm tăng thêm 7 tháng nhuận, được gọi là “Chương pháp”, các nhà làm Lịch gọi là “thông pháp” (nghĩa như chương pháp cũ).

Theo Tăng Nhất Hành, 19 của chương pháp cũ, là sự phối hợp hai số cuối (9&10) của Trời - Đất để tính. Ông cho rằng: “Phu số tượng vi vu tam, tứ, nhi chương vu thất, bát”. Nghĩa là nói: 3 và 4 là “vi”, còn 7 và 8 là “chương”.

Ông lại nói: “Tự ngũ dĩ giáng, vi ngũ hành sinh số, tự lục dĩ vãng, vi ngũ tài thành sinh số”. Sinh số là 1, 2, 3, 4, 5, thành số là 6, 7, 8, 9, 10. Tổng của sinh số là 15, tổng của thành số là 40. Khi 15 x 40 = 40 x 15 = 600. Tổng thành số nhân với tổng sinh số gọi là “tích thiên trung”, đều có tích là 600.

Tích của Thiên trung và Địa trung, nghìn có 200 (tức là 1200). Gấp 4 thành hệ số hào là 300. Đem 10 vi nhân với 2 chương, thì có tích là 3000. Đem 5 tài nhân với 8 tượng, thì được 2 vi, hoặc được tích là 40. Tích của chương nhân vi, là mẫu số của khí số. đây chính là nguồn gốc của 3040.

Nhất Hành còn sáng tạo thuận Hô - Hấp kết hợp với lịch Đại diễn, đây chính là tìm cách tiếp cận quái khí, đem 64 quẻ đối chiếu với 72 hậu, đồng thời đưa Ngũ hành vào cuộc.

Dịch vốn là “Khí”, về sau mới rõ Dịch còn nói về con người và sự vật. Chứng tỏ thuyết Quái khí của Nhất Hành là bê y nguyên thuyết Quái khí của Mạnh Hỷ.

Đầu tiên là lịch Chính Quang thời Bắc Nguỵ. Phương pháp của nó là, trước tiên suy ra 4 quẻ chính, tức là cầu ngày Đông chí là ngày quẻ Khảm vào cuộc, ngày Xuân phân là ngày quẻ Chấn tham gia, ngày Hạ chí là ngày quẻ Ly hành sự, ngày Thu phân là ngày quẻ Đoài hành sự. Sau đó, thông qua ngày Đông chí, hoặc ngày quẻ Khảm vào cuộc, để cầu quẻ Trung phu. Từ đây, tiếp tục cầu các quẻ khác.

Suy diễn 72 hậu, ví như ngày Đông chí bắt đầu nhập vào Hậu, mỗi một tiết khí tương ứng với 3 đốt hậu. Song, trng thuật hô hấp và lịch Đại diễn áp dụng, trước tiên lập một số liệu cơ bản, tức là: chuỗi 5 của thiên trung (thiên số 1, 3, 5, 7, 9), chuỗi 6 của địa trung (địa số 2, 4, 6, 8, 10), chuỗi của 3 chinh hối, (quẻ xấu). Cầu 72 hậu: “các nhân trung, tiết mệnh chi, đắc sơ hậu”. Ý nói là, căn cứ vào Trung khí và Tiết khí định được tên gọi của 3 hậu. Trước tiên từ Trung khí được: Sơ hậu, thêm chuỗi (5 ngày) của thiên trung được Thứ hậu, tiếp tục thêm, thì được Mạt hậu. “Nhân trung khí mệnh chi, đắc công quái dụng sự”, tức là quẻ Công quái bắt nguồn từ Trung khí. Luỹ tiến (tăng dần theo cấp số cộng) của địa trung, thì được quẻ tiếp theo.. Giả sử đem chuỗi 3 của “trinh hối”, cộng với quẻ Hầu, thì được đầu của 12 tiết, là quái thể ngoài vào cuộc (tức là thể trên của quẻ hầu)

...

Hà Uyên chào VinhL.

Tất cả các môn học thuật mà chúng ta đã và đang quan tâm, đều phải thông qua đơn vị "thời gian", đó là Lịch pháp. Đặt vào bối cảnh Lịch sử của các môn học thuật này khi ra đời, được truyền bá và ảnh hưởng rông rãi trong dân gian, thì vấn đề Lịch pháp, theo Hà Uyên, chiếm 50% giá trị thông tin, còn mức độ tính toán học thuật là phần còn lại cộng với kinh nghiệm bản thân của mỗi người.

Trước triều Hán, lịch pháp được dùng là “Cổ tứ phân lịch” (lịch chia bốn). Đến đời Hán, gọi là “Tứ phân lịch”. Cơ sở của lịch đời Hán là căn cứ vào sự giãn cách thời gian của mặt Trời hai lần liên tục, thông qua thời điểm Đông chí. Mãi sau này mới chọn thời điểm giãn cách hai lần liên tục của mặt Trời thông qua điểm Lập Xuân. Tức là trái Đất quay xung quanh mặt Trời một vòng, lấy điểm Lập Xuân làm mốc khởi, để tính lịch.

Như vậy, từ ngày Đông chí tới trước quẻ Khôn đợi lệnh, khi tới ngày Đông chí, một dương được sinh ra thành quẻ Phục đối ứng với tháng 11 Thiên chính Tý, tháng 12 Địa chính Sửu là quẻ Lâm, tháng Giêng Nhân chính Dần là quẻ Thái. Đối với Lịch pháp hiện nay chúng ta đang sử dụng, thì lại lấy điểm Lập xuân để khởi Lịch pháp. Hà Uyên cũng tự hình thành cho mình một loại Lịch pháp quái khí riêng, để trong quá trình tính toán áp dụng, thấy tính thực tiễn thông tin khác rất nhiều so với khi chúng ta sử dụng Lịch hiện hành.

Có thể Hà Uyên đánh giá chưa hết, nhưng rõ ràng, Kinh Phòng và Thiệu Ung đều phải sử dụng lịch Thái sơ làm kết cấu khung khi xây dựng học thuyết cho mình.

Hà Uyên chỉ muốn đặt chúng ta vào bối cảnh cách đây hàng ngàn năm, thì sự định hướng trong tư duy sẽ có những thay đổi nhất định. Vấn đề ở chỗ là đi tìm mức độ chính xác của thông tin, khi chúng ta sử dụng các môn học thuật liên thông với quy luật thời gian Lịch pháp. Công thức tính toán thì căn cứ vào Lịch pháp Quái khí, khi xác lập thông tin ngày hôm nay thì lại căn cứ theo Lịch pháp hiện hành.

VinhL tham khảo thêm.

...

VinhL đã viết

"Thưa Bác Hạ Uyên đó là diễn quái theo sự hiểu biết của VinhL khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế."

Hà Uyên kiến thức sư phạm không có, từ trước cho tới nay, bằng sự yêu thích mang tính cá nhân của mình, vậy thôi. Sự yêu thích khởi đầu của Hà Uyên bắt đầu như sau:

---------------------------------------------------------------

G. Tý - Â.Sửu - B.Dần - Đ.Mão - M.Thìn

1 -------2 ----3 ----- 4 ------ 5 ------ ==> Sinh

---------------------------------------------------------------

KTị - C.Ngọ - T.Mùi - N.Thân - Q.Dậu

6 ---- 7 ----- 8 ---- 9 ----- 10 ------ ==> Thành

---------------------------------------------------------------

G.Tuất - A.Hợi - B.Tý - Đ.Sửu - M.Dần

11 ------ 12 ---- 13 --- 14 ---- 15 ------ ==> Sinh

----------------------------------------------------------------

K.Mão - C.Thìn - T.Tị - N.Ngọ - Q.Mùi

16 ----- 17 ----- 18 ----- 19 ----- 20 ==> Thành

----------------------------------------------------------------

G.Thân - A.Dậu - B.Tuất - Đ.Hợi - M.Tý

21 ----- 22 ------ 23 ------ 24 ----- 25 ----- ==> Sinh

----------------------------------------------------------------

K.Sửu - C.Dần - T.Mao - N.Thìn - Q.Tị

26 ----- 27 ----- 28 ---- 29 ----- 30 ------- ==> Thành

------------------------------------------------------------------

G.Ngọ - A.Mùi - B.Thân - Đ.Dậu - M.Tuất

31 ------ 32 ------ 33 ----- 34 ------ 35 -------- ==> Sinh

------------------------------------------------------------------

K.Hợi - C.Tý - T.Sửu - N.Dần - Q.Mão

36 ----- 37 ----- 38 ----- 39 ----- 40 -------- ==> Thành

-------------------------------------------------------------------

G.Thìn - A.Tị - B.Ngọ - Đ.Mùi - M.Thân

41 ---- 42 ---- 43 ----44 ----- 45 ------ ==> Sinh

--------------------------------------------------------------------

K.Dậu - C.Tuất - T.Hợi - N.Tý - Q.Sửu

46 ----- 47 ----48 ----- 49 ----- 50 ------- ==> Thành

--------------------------------------------------------------------

G.Dần - A.Mão - B.Thìn - Đ.Tị - M.Ngọ

51 ---- 52 ----- 53 ---- 54 ----- 55 ------ ==> Sinh

--------------------------------------------------------------------

K.Mùi - C.Thân - T.Dậu - N.Tuất - Q.Hợi

56 ------ 57 ---- 58 ----- 59 ---- 60 ----- = => Thành

Giáp - Kỷ phối ứng cặp số đồng đẳng 1 - 6, Ất - Canh phối ứng với cặp số đồng đẳng 2 - 7, Bính - Tân phối ứng với 3 - 8. Đinh - Nhâm phối ứng với 4 - 9, Mậu Quý phối ứng với 5 - 10

Khi ta coi 60 là một đơn vị tính, thì 60 - 3 = 57 là hệ số can chi Canh Thân, là mốc thời gian để tính trước CN và sau CN. Nhất âm nhất dương = 60 + 60 = 120 - 3 = 117. Trước Công nguyên thì trứ đi 117, sau Công nguyên thì cộng thêm với 117, thì thời gian tính sẽ chia hết cho 360 (117 hay 110 là số tính tương thông với Thái ất)

(8 x 60) - 3 = 477 - 177 = 360 ==> 129600/360 = 360

(14 x 60) - 3 = 837 - 117 = 720 ==> 129600/720 = 180

(20 x 60) - 3 = 1197 - 117 = 1080 ==> 129600/1080 = 120

(26 x 60) - 3 = 1557 - 117 = 1440 ==> 129600/1440 = 90

(32 x 60) - 3 = 1917 - 117 = 1800 ==> 129600/1800 = 72

(38 x 60) - 3 = 2277 - 117 = 2160 ==> 129600/2160 = 60

(44 x 60) - 3 = 2637 - 117 = 2520 ==> 129600/2520 = 51 dư 1080.

+ Bính Tân 3 - 8 hợp: Liên Bang Xô viết "tụ" năm 1916 can "Bính-, năm 1991 can Tân -thì "tán," đến năm Bính Dần 1984 lại xẩy ra sự cố nhà máy điện nguyên tử,....

VinhL tham khảo thêm

...

VinhL,.., hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Thành thật cám ơn Bác đã cung cấp nhiều thông tin về Lịch Pháp cổ. Sách về Lịch Pháp cổ thì VinhL không có nên về vấn đề này thì mù tịt. Với kiến thức uyên bác về Lịch Pháp, không biết Bác có ý kiền gì về phương pháp Siêu Thần Tiếp Khí của Kỳ Môn trong việc tính nhuận?

Thưa Bác hai con số 57 và 117 này đúng là có liên quan đến con số 10153917 của Thái Ất.

10153917 / 60 dư 57, 10153917 / 360 dư 117. Con số 10153917 này có thể dùng để tính ra Can Chi của tứ trụ năm tháng ngày giờ bằng dương lịch không cần phải dùng đến âm lịch.

Sẳn đây Bác đề cập đến cái Hợp của Thiên Can, VinhL có một nghi vấn mong Bác có thể giải thíc cho.

Thiên Can có 10, chia 2 thì được 5 cặp, 1 với 6, 2 với 7, 3 với 8, 4 với 9, 5 với 10. Mỗi cặp đều có ngũ hành tương khắc nhưng không gọi là Xung, mà tại sao lại gọi là Hợp?

Địa Chi có 12, chia 2 thì được 6 cặp, 1 với 7, 2 với 8, 3 với 9, 4 với 10, 5 với 11, 6 với 12 tức Tý Ngọ, Sửu Mùi, vv... ngũ hành của mỗi cặp củng đều là tuơng khắc nhưng lại không được gọi là Hợp, mà tại sao lại gọi là Xung?

Thành Thật Cám Ơn Bác.

Kính

Hà Uyên chào VinhL VinhL có thể tham khảo sách: DI SẢN HAN NÔM VIỆT NAM - Thư mục đề yếu - Bổ di 1 - 2 - 3 - Quyển thượng, hạ. Tìm phần "Cổ chỉ". Chuyên đề về Mai hoa chúng ta có thể tạm dừng ở đây được không VinhL? Cảm ơn VinhL đã dành thời gian và quan tâm. Hà Uyên.

Mai Hoa Dịch Số

Minh An, on Oct 17 2009, 10:12 PM, said:

Cháu nghĩ nó là 1 mẹo hỗ trợ trong việc xác định thời gian ứng nghiệm.Cháu còn thiếu kinh nghiệm nên mong các bậc tiền bối kiểm nghiệm.

Không biến dịch thì không sinh ra cái mới, vậy thì tại sao lại tính 2 lần 1 quẻ không động?

Chào Minh An.

Một quẻ Dịch luôn có 7 hào. Hào thứ Bảy luôn ẩn, mà không được nhắc tới, được gọi là Thần tàng, hay là Quy viêm, hay được gọi là Quy tàng. Tại sao lại được cấu tạo như vậy?

Từ hào Một cho tới hào Sáu, luôn có một hào động, được gọi là hào Chủ, đồng thời với hào Bảy, là hào Quy tàng, cũng luôn luôn động. Như vậy, một quẻ Dịch sẽ có 2 động 5 tĩnh. Kinh Dịch gọi mối quan hệ này là "Hàm tam vi nhất" (5 - 2 = 3 Một Tĩnh ba Động, một chân Tĩnh, chân còn lại và hai tay Động => đạp một đội chín, đạp một đội ba,...,). Đây là nguyên lý: một tĩnh thì có ba động, hai Tĩnh thì có sáu Động, ba Tĩnh thì có chín Động,..., => bỏ một dùng ba (360 thì chỉ dùng 270) => bỏ hai dùng sáu (bố mẹ thân lùi mà sáu con tiến, hai lùi sáu tiến) => bỏ ba dùng chín (12 địa chi thì dùng 9, chỉ dùng từ Trường Sinh tới Mộ, bỏ không dùng Tuyệt, Thai, Dưỡng)

Trong 5 hào tĩnh này, dùng để phản ánh mối quan hệ với 2 hào động. Trong hai hào động này, thì một hào là Quy tàng (Thần tàng), còn một Hào động là hào làm Chủ. Hai Động một Tĩnh, Âm một Dương hai, một tối hai sáng, là để tìm hiểu về xu hướng phát triển của vạn vật trong thế giới Tự nhiên của Người xưa.

Cùng nhau học dịch

Chào Anh Chị Em

Chủ đề: "Cùng nhau học Dịch", được gợi mở khi anh Dichnhan đặt vấn đề: "Người đời học Dịch". Cũng mong Anh Chị em nhìn từ nhiều góc độ với sách Kinh Dịch, chúng ta cùng bình giải và bình luận khi học Dịch.

- Anh Dichnhan viết:

Hiện tại tôi đang soạn 2 tập tài liệu Kinh Dịch Tự Điển và Giải Mã Hào Từ nên mất rất nhiều thời gian suy nghĩ cho chúng. Nhưng may sao nhờ có chương V của Tâm Pháp nên đã bớt đi được phần nào khó khăn, giống như có chiếc la bàn chỉ hướng vậy.

Tôi vừa mới giải lại hào 1 quẻ Quải, mời Bác cùng nghiệm xét:

Sơ Cửu: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.”

- Hà Uyên viết:

Quá trình nhận thức cá nhân, thường tôi phân: giải Dịch theo trường phái - hoặc giải Dịch theo "thuyết". Có nghĩa rằng, giải Dịch theo "thuyết", thường tự xây dựng một học thuyết riêng, mang tính độc lập. Đối với giải Dịch theo trường phái, thường lấy căn cứ theo Âm Dương chọn nghĩa, tam tài chọn tượng.

Hướng tư duy cá nhân tôi, đang thăm dò hướng tới kết cấu khung, trong tổng thể 384 hào, để khảo chứng tìm về nguyên nghĩa của ý nghĩa hào từ, trên nguyên tắc: phải mang tính liên tục, tính hệ thống lôgíc của hào từ, sau đó mới xét tới không gian Quái danh, sau tiếp mới xét tới thời điểm Quái vị.

Cụ thể:

1. Kinh viết: "Quải, Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu"

- Dịch: Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn tới cưu hại.

2. Anh Dichnhan giải Dịch: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.”

Tôi bình giải theo kết cấu khung:

1. Tính liên tục hào từ: tìm nguyên nhân: trước hào Sơ quẻ Quải, là hào Sơ quẻ Hàm

- Hàm, Sơ Lục, hàm kỳ mẫu.

- Dịch: Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái.

2. Tính hệ thống: tìm xu hướng từ quẻ "đối" và quẻ "đảo", sau đó mới giải thích được tại sao lại " tráng vu tiền chỉ".

Mong anh chị em cùng tham gia bình giải khi học Dịch

Hà Uyên.

...

Khi giải Dịch theo trường phái tam tài Thiên - Địa - Nhân, trong chu kỳ 1864 - 2043, thì đối với "tài" của Thiên, chúng ta đang ngồi Hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, lời hào 6 quẻ Đại súc viết:

Hà thiên chi cù, hanh.

Tượng quẻ Sơn Thiên Đại súc

Posted Image

Hỏi rằng:

- Trước hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào đây?

- Sau hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào?

Dịch im lặng, không trả lời.

- Phải chăng, "sau" hào 6 quẻ Đại súc, là hào 1 quẻ Địa Phong Thăng. Rồi tiếp đến hào 2 quẻ Địa Sơn Khiêm.

Posted Image Posted Image Posted Image

- Phải chăng, "trước" hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào 5 quẻ Thủy Thiên Nhu. Lại trước hào 5 quẻ Nhu, là hào 4 quẻ Lôi Thiên Đại tráng.

Posted Image Posted Image Posted Image

Dịch vẫn im lặng.

Vấn đề này, khi chú giải về "Kinh", thật là mông lung về tính liên tục của Hào từ. Vì đã gọi là "Kinh", thì phải là một hệ thống lôgíc chặt chẽ và hoàn chỉnh.

Có thể đây vẫn là một khoảng trống, mà Dịch Kinh chưa đề cập tới. Hay, cũng có thể đã hình thành một hệ thống phương pháp luận về: tính liên tục của hào từ, mà ta chưa biết tới. Hoặc cũng là sự tồn nghi của cá nhân tôi, con người lại đòi hỏi về "tri thiên" thật mơ hồ.

Vậy thì câu: "sổ vãng giả thuận, tri lai giả nghịch" chúng ta nên hiểu như thế nào đây.

...

VinhL, on May 27 2010, 12:08 PM, said:

Kính Bác Hà Uyên,

Thấy bác hỏi về tính liên tục của các hào, và quái, trong đầu lại nghỉ đến âm thanh.

Các lần sóng trong âm thanh và trị số của Hào là giống nhau, sau bác không tìm câu trả lời trong âm thanh. Âm thanh vút cao rồi chìm xuống, ngân nga chuyển qua các sóng, thật tự nhiên, dịch tự nhiên củng thế.

Một ý kiến thoáng qua trong đầu, nếu không hợp lý mong bác bỏ qua nhé.

Kính

Thân mến, chào VinhL

Cảm ơn VinhL đặt vấn đề, đưa ra một hướng kiến giải, tôi sẽ dành thời gian tìm hiểu sâu thêm về góc độ: "Các tần sóng âm thanh và trị số hào giống nhau".

Tôi đặt vấn đề về tính thống nhất và tuần tự liên tục của hào từ. Nguyên nhân nào đã quyết định "chí" hướng chỉ đạo "phương" hướng, mà buộc Người và vạn vật tất phải "vãng - lai", trong nguyên nghĩa của Hào từ (?). Điều gì lấy làm căn cứ, để dựa vào của Hào từ (?).

VinhL có thể gợi mở, đặt vấn đề từ nhiều góc độ, để cùng anh chị em tham gia kiến giải từng bước, tôi cũng hiểu rằng, cái trừu tượng thường gợi mở cho chúng ta một phương hướng nào đó, rồi dần hướng tới quy luật chung của sự vật.

Hà Uyên.

..

dichnhan07, on May 31 2010, 05:40 PM, said:

Tôi nghĩ những câu hỏi của Bác không quan trọng bằng việc là câu trả lời sẽ giúp giải quyết vấn đề gì? Có thể cách nghiên cứu đặt vấn đề của tôi không giống mọi người, có gì bác bỏ qua cho.

Chào anh Dichnhan

Cảm ơn anh có ý kiến về cách diễn ngữ của bài viết, tôi sẽ rút kinh nghiệm.

Tôi cũng đang nghĩ về bộ khung dàn bài, nên bắt đầu học Dịch từ đâu: nói về "Kinh" thì là những quy luật thường hằng bất biến, không thay đổi. Còn đối với "Dịch": thì sự ảnh hưởng của yếu tố Lịch sử, từ quá trình hình thành sách Dịch, các học phái chú giải, kết hợp với Học thuyết Tam Huyền của Hình nhi thượng, hoặc Học thuyết Tam giáo,...v.v...

- Ví như, chú giải về quẻ Càn, thì sách: Liệt Tử Dịch chú (NXB Thượng Hải cổ tịch - 1986), có viết:

"Thiên hữu thời, Địa hữu lợi", làm căn cứ cho điều kiện tự nhiên khách quan đối với: "Nhân hữu hòa".

Nhưng sách Dịch Vỹ chú về Dịch viết: "Bẩm sinh thụ số, ký hữu chế chi giả hĩ, diệc hữu tri chi giả hỹ, tri mệnh kỳ như nhữ hà" (Bẩm sinh thụ số, thì đã chế định rồi, cũng đã biết, biết mệnh để làm gì).

- Lại như, trong sách Chu Dịch, khi chúng ta đọc và nghiên cứu, cũng thấy sự ảnh hưởng của Nho giáo độc tôn, mà "Dịch truyện" đã định rõ rằng:

"Hình nhi thượng giả, đạo dã".

Vậy mà, đối với tôn chỉ của Đạo giáo, khẳng định đề xuất, tại "Hệ từ" viết:

"Nhất âm nhất dương chi vị đạo".

Như vậy, giữa "Dịch truyện" và "Hệ từ", ta thấy rất rõ sự ảnh hưởng bản chất "Học thuyết", của hai trường phái vào sách Dịch đã rất sâu rộng, mang theo ẩn nghĩa đặc trưng của từng Học thuyết, từng trường phái.

Mong được anh Dịchnhan luôn quan tâm, gợi mở, định hướng khi chúng ta cùng nhau học Dịch.

Hà Uyên.

...

Thi Quy là cơ sở để Dịch Kinh dựa vào mà hình thành nên sự "chu lưu". Chúng ta khảo sát về con số 49 trong sách Dịch, khi ta đã biết được 1 = 13, tiếp theo là tìm hiểu tại sao lại biết được:

1 = 49

Có nghĩa rằng: Giáp Tý = Nhâm Tý

Sự khởi nguồn nguyên nhân hình thành về TUẦN KHÔNG - Số "trùng lưu", hay là số "trùng hư".

...

Tìm hiểu mối quan hệ giữa Hệ thống 60 Can Chi với Dịch Kinh. Đây là phần kiến thức ít thấy sách vở bàn tới. Trọng tâm tìm hiểu là trường phái Tam huyền đời nhà Hán.

Nhà Đại Dịch học Trịnh Huyền đã công bố về "HÀO THẦN ĐỒ", chúng ta bắt đầu khảo chứng từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH sau:

乾宫八卦属金

Càn cung bát quái thuộc kim 乾为天

Càn Vi Thiên 天风姤

Thiên Phong Cấu 天山遁

Thiên Sơn Độn 天地否

Thiên Địa Bỉ 风地观

Phong Địa Quán 山地剥

Sơn Địa Bác 火地晋

Hỏa Địa Tấn 火天大有

Hỏa Thiên Dại Hữu

坎宫八卦属水

Khảm cung bát quái thuộc thủy 坎为水

Khảm Vi Thủy 水泽节

Thủy Trạch Tiết 水雷屯

Thủy Lôi Truân 水火既济

Thủy Hỏa Ký Tế 泽火革

Trạch Hỏa Cách 雷火丰

Lôi Hỏa Phong 地火明夷

Địa Hỏa Minh Di 地水师

Địa Thủy Sư

艮宫八卦属土

Cấn cung bát quái thuộc thổ 艮为山

Cấn Vi Sơn 山火贲

Sơn Hỏa Bí 山天大畜

Sơn Thiên Đại Súc 山泽损

Sơn Trạch Tổn 火泽睽 Hỏa Trạch Khuê 天 泽履

Thiên Trạch Lý 风泽中孚

Phong Trạch Trung Phu 风山渐

Phong Sơn Tiệm

震 宫八卦属木

Chấn cung bát quái thuộc mộc 震为雷

Chấn Vi Lôi 雷地豫

Lôi Địa Dự 雷 水解

Lôi Thủy Giải 雷风恒

Lôi Phong Hằng 地风升

Địa Phong Thăng 水风井

Thủy Phong Tỉnh 泽风大过

Trạch Phong Đại Quá 泽雷随

Trạch Lôi Tùy

巽宫八卦属木

Tốn cung bát quái thuộc mộc 巽为风

Tốn Vi Phong 风天小畜

Phong Thiên Tiểu Súc 风火家人

Phong Hỏa Gia Nhân 风雷益

Phong Lôi Ích 天雷无妄

Thiên Lôi Vô Vọng 火雷噬嗑

Hỏa Lôi Phệ Hạp 山雷颐

Sơn Lôi Di 山 风蛊

Sơn Phong Cổ

离宫八卦属火

Ly cung bát quái thuộc hỏa 离为火

Ly Vi Hỏa 火 山旅

Hỏa Sơn Lữ 火风鼎

Hỏa Phong Đỉnh 火水未济

Hỏa Thủy vị Tế 山水蒙

Sơn Thủy Mông 风水涣

Phong Thủy Hoán 天水讼

Thiên Thủy Tụng 天火同人

Thiên Hỏa Đồng Nhân

坤宫八卦属土

Khôn cung bát quái thuộc thổ 坤为地

Khôn Vi Địa 地雷复

Địa Lôi Phục 地泽临

Địa Trạch Lâm 地天泰

Địa Thiên Thái 雷天大壮

Lôi Thiên Đại Tráng 泽天夬

Trạch Thiên Quải 水天需

Thủy Thiên Nhu 水地比

Thủy Địa Tỉ

兑宫八卦属金

Đoái cung bát quái thuộc kim 兑为泽

Đoài Vi Trạch 泽水困

Trạch Thủy Khốn 泽地萃

Trạch Địa Tụy 泽山咸

Trạch Sơn Hàm 水山蹇

Thủy Sơn Kiển 地山谦

Địa Sơn Khiêm 雷山小过

Lôi Sơn Tiểu Quá 雷泽归妹

Lôi Trạch Quy Muội

Từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH, chúng ta lần lượt xắp xếp Can Chi theo hệ thống, khởi đầu từ Giáp Tý, để xác định HÀO THẦN phối hợp với 60 Can Chi:

1. Giáp Tý – hào 1

2. Ất Sửu – hào 4

3. Bính Dần – hào 6

4. Đinh Mão – hào 2

5. Mậu Thìn – hào 2

6. Kỷ Tị - hào 6

7. Canh Ngọ - hào 4

8. Tân Mùi – hào 4

9. Nhâm Thân – hào 5

10. Quý Dậu – hào 6

11. Giáp Tuất – hào 6

12. Ất Hợi – hào 5

13. Bính Tý – hào 5

14. Đinh Sửu – hào 3

15. Mậu Dần – hào 1

16. Kỷ Mão – hào 1

17. Canh Thìn – hào 3

18. Tân Tị - hào 5

19. Nhâm Ngọ - hào 4

20. Quý Mùi – hào 1

21. Giáp Thân – hào 5

22. Ất Dậu – hào 6

23. Bính Tuất – hào 4

24. Đinh Hợi – hào 4

25. Mậu Tý – hào 6

26. Kỷ Sửu – hào 2

27. Canh Dần – hào 2

28. Tân Mão – hào 6

29. Nhâm Thìn – hào 3

30. Quý Tị - hào 2

31. Giáp Ngọ - hào 4

32. Ất Mùi – hào 1

33. Bính Thân – hào 3

34. Đinh Dậu – hào 5

35. Mậu Tuất – hào 5

36. Kỷ Hợi – hào 3

37. Canh Tý – hào 1

38. Tân Sửu – hào 1

39. Nhâm Dần – hào 2

40. Quý Mão – hào 3

41. Giáp Thìn – hào 3

42. Ất Tị - hào 2

43. Bính Ngọ - hào

44. Đinh Mùi – hào 6

45. Mậu Thân – hào 4

46. Kỷ Dậu – hào 4

47. Canh Tuất – hào 6

48. Tân Hợi – hào 2

49. Nhâm Tý – hào 1

50. Quý Sửu – hào 4

51. Giáp Dần – hào 2

52. Ất Mão – hào 3

53. Bính Thìn – hào 1

54. Đinh Tị - hào 1

55. Mậu Ngọ - hào 3

56. Kỷ Mùi – hào 5

57. Canh Thân – hào 5

58. Tân Dậu – hào 3

59. Nhâm Tuất – hào 6

60. Quý Hợi – hào 5

Hoa Giáp Phối Hào

1. Can Giáp: Càn - Cấu - Độn – Bĩ – Quan – Bác - Tấn - Đại hữu

- Giáp Tý hào 1

- Giáp Tuất hào 6

- Giáp Thân hào 5

- Giáp Ngọ hào 4

- Giáp Thìn hào 3

- Giáp Dần hào 2

2. Can Ất: Khôn - Phục – Lâm – Thái - Đại tráng - Quải – Nhu - Tỷ

- Ất Sửu hào 4

- Ất Hợi hào 5

- Ất Dậu hào 6

- Ất Mùi hào 1

- Ất Tị hào 2

- Ất Mão hào 3

3. Can Bính: Cấn – Bí - Đại súc - Tổn – Khuê – Lý – Trung phu - Tiệm

- Bính Dần hào 6

- Bính Tý hào 5

- Bính Tuất hào 4

- Bính Thân hào 3

- Bính Ngọ hào 2

- Bính thìn hào 1

4. Can Đinh: Đoài - Khốn - Tụy – Hàm - Kiển – Khiêm - Tiểu quá – Q.Muội

- Đinh Mão hào 2

- Đinh Sửu hào 3

- Đinh Hợi hào 4

- Đinh Dậu hào 5

- Đinh Mùi hào 6

- Đinh Tị hào 1

5. Can Mậu: Khảm - Tiết – Truân – Ký tế - Cách – Phong – M.di

- Mậu Thìn hào 2

- Mậu Dần hào 1

- Mậu Tý hào 6

- Mậu Tuất hào 5

- Mậu Thân hào 4

- Mậu Ngọ hào 3

6. Can Kỷ: Ly - Lữ - Đỉnh - Vị tế - Mông – Hoán - Tụng - Đồng nhân.

- Kỷ Tị hào 6

- Kỷ Mão hào 1

- Kỷ Sửu hào 2

- Kỷ Hợi hào 3

- Kỷ Dậu hào 4

- Kỷ Mùi hào 5

7. Can Canh: Chấn - Dự - Giải - Hằng – Thăng - Tỉnh - Đại quá – Tùy

- Canh Ngọ hào 4

- Canh Thìn hào 3

- Canh Dần hào 2

- Canh Tý hào 1

- Canh Tuất hào 6

- Canh Thân hào 5

8. Can Tân: Tốn - Tiểu súc – Gia nhân – Ích – Vô vọng - Phệ hạp - Di - Cổ

- Tân Mùi hào 4

- Tân Tị hào 5

- Tân Mão hào 6

- Tân Sửu hào 1

- Tân Hợi hào 2

- Tân Dậu hào 3

9. Can Nhâm: Càn - Cấu - Độn – Bĩ – Quan – Bác - Tấn - Đại hữu

- Nhâm Thân hào 5

- Nhâm Ngọ hào 4

- Nhâm Thìn hào 3

- Nhâm Dần hào 2

- Nhâm Tý hào 1

- Nhâm Tuất hào 6

10. Can Quý: Khôn - Phục – Lâm – Thái - Đại tráng - Quải – Nhu - Tỷ.

- Quý Dậu hào 6

- Quý Mùi hào 1

- Quý Tị hào 2

- Quý Mão hào 3

- Quý Sửu hào 4

- Quý Hợi hào 5

VÒNG 8

....................ĐỒNG NHÂN

...........CỔ.........................TỶ

...TUỲ...............+...............QUY MUỘI

..........TIỆM.....................ĐẠI HỮU

......................MINH DI

VÒNG 8

1. Giáp Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (1 ~ 49)

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

- Tượng “Đại hữu Sơ Cửu, vô giao hại dã” – Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại. Thân tuy ở cuộc “đại hữu”, nếu giữ cho sự ăn ở của mình được yên ổn, không lạm “giao” với vật, thì có thể vô hại.

2. Ất Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (2 ~ 50)

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.

- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật với đáng quân chủ, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.

3. Bính Dần – Phong Sơn Tiệm, hào 6

- “Thượng Cửu, hồng tiệm vu lục, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát”.

- “Chín Trên, chim đại nhạn bay từ từ lên núi cao, lông vũ của nó có thể làm đồ trang sức đẹp tinh khiết, tốt lành”.

4. Đinh Mão – Lôi Trạch Quy muội, hào 2

- “Cửu Nhị, diểu năng thị, lợi u nhân chi trinh”.

- “Chín Hai, chột mà cố gắng nhìn được, lợi về giữ vững chính bền của bậc u tĩnh điềm đạm”.

5. Mậu Thìn - Địa Thủy Sư, hào 2

- “Cửu Nhị, tại sư, trung cát, vô cựu ; vương tam tính mệnh”.

- “Chín Hai, thống xuất quân đội, giữ đúng mức không thiên lệch sẽ được tốt lành, tất không bị cữu hại, nhà vua nhiều (ba) lần ban thưởng, giao cho trọng trách”.

6. Kỷ Tị - Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 6

- “Thượng Cửu, đồng nhân vu giao, vô hối”.

- “Chín Trên, hòa đồng với mọi người ở nơi giao ngoại xa xôi, chưa có được kẻ chí đồng cũng không hối hận”.

7. Canh Ngọ - Trạch Lôi Tùy, hào 4

- “Cửu Tứ, tùy hữu hoạch, trinh hung ; hữu phu tại đạo, dĩ minh, hà cữu!”.

- “Chín Bốn, được người theo, thu hoạch được nhiều, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm ; chỉ cần giữ lòng thành tín, hợp chính đạo, sáng suốt trong sự lập thân, như vậy thì làm sao có cữu hại được”.

8. Tân Mùi – Sơn Phong Cổ, hào 4

- “Lục Tứ, dụ phụ chi cổ, vãng kiến lận”.

- Sáu Bốn, dùng dằng không trị sự tệ loạn của cha, nếu cứ như vậy mãi thì tất sẽ hối tiếc”.

9. Nhâm Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (9 ~ 21)

- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.

- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.

10. Quý Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (10 ~ 22)

- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.

- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.

11. Giáp Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (11 ~ 59)

- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.

- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.

12. Ất Hợi - Thủy địa Tỷ, hào 5 (12 ~ 60)

- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.

- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.

13. Bính Tý – Phong Sơn Tiệm, hào 5

- “Cửu Ngũ, hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng ; chung mạc chi thắng, cát”.

- “Chín Năm, chim đại nhạn bay từ từ lên gò cao, (giống như chồng đi xa), vợ ba năm không có mang ; (nhưng vợ chồng tất sẽ được xum họp) kẻ khác cuối cùng không thể xâm phạm ngăn trở mà thủ thắng, tốt lành”.

14. Đinh Sửu – Lôi Trạch Quy muội, hào 3

- “Lục Tam, quy muội dĩ tu, phản quy dĩ đệ”.

- “Sáu Ba, người con gái sau khi lấy chồng mỏi cổ mong được thành vợ cả, nên quay về đợi thời, làm vợ lẽ”.

15. Mậu Dần - Địa Thủy Sư, hào 1

- “Sơ Lục, sư xuất dĩ luật, phủ tang hung”.

- “Sáu Đầu, quân đội khi xuất quân thì phải dùng quân luật, hiệu lệnh để ước thúc, quân kỷ không khéo tất có hung hiểm”.

16. Kỷ Mão – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 1

- “Sơ Cửu, đồng nhân vu môn, vô cữu”.

- “Chín Đầu, vừa ra khỏi cửa mà đã có thể hòa đồng ngay với người, tất vô cữu hại”.

17. Canh Thìn - Trạch Lôi Tùy, hào 3

- “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh”.

- “Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền”.

18. Tân Tị - Sơn Phong Cổ, hào 5

- “Lục Ngũ, cán phụ chi cổ, dụng dự”.

- “Sáu Năm, vì uốn nắn sự tệ loạn của cha mà được tiếng khen”.

19. Nhâm Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (19 ~ 31)

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.

- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.

20. Quý Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (20 ~ 32)

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.

- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.

21. Giáp Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (21 ~ 9)

- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.

- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.

22. Ất Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (22 ~ 10)

- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.

- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.

23. Bính Tuất – Phong Sơn Tiệm, hào 4

- “Lục Tứ, hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ dốc, vô cữu”.

- “Sáu Bốn, chim đại nhạn bay từ từ lên cây cao, may mà tìm được cành bằng đậu thoải mái, không bị cữu hại”.

24. Đinh Hợi – Lôi Trạch Quy muội, hào 4

- “Cửu Tứ, quy muội khiên kỳ, trì quy hữu thời”

- “Chín Bốn, người con gái đi lấy chồng bị lỡ thì con gái, dềnh dàng chưa lấy chồng, yên đợi thời cơ”.

25. Mậu Tý - Địa Thủy Sư, hào 6

- “Thượng Lục, đại quân hữu mệnh, khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng”.

- “Sáu Trên, thiên tử ban phát mệnh lệnh, phong thưởng cho các công thần, là chư hầu, là đại phu ; còn kẻ tiểu nhân thì không thể trọng dụng”.

26. Kỷ Sửu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 2

- “Lục Nhị, đồng nhân vu tông, lận”.

- “Sáu Hai, hòa đồng với mọi người trong họ, có sự đáng tiếc”.

27. Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2

- “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu”.

- “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng”.

28. Tân Mão – Sơn Phong Cổ, hào 6

- “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự”

- “Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình”.

29. Nhâm Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (29 ~ 41)

- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.

- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.

30. Quý Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (30 ~ 42)

- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”

- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.

31. Giáp Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (31 ~ 19)

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.

- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.

32. Ất Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (32 ~ 20)

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.

- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.

33. Bính Thân – Phong Sơn Tiệm, hào 3

- “Cửu Tam, hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung ; lợi ngư khấu”.

- “Chín Ba, chin đại nhạn bay từ từ đến ngọn núi nhỏ, giống như người chồng đi xa, một đi không trở về, người vợ không giữ được trinh chính, có mang để con không nuôi, có hung hiểm ; (nếu có thể giữ chính, dụng cương, thì) lợi về sự chống trả giặc mạnh.

34. Đinh Dậu – Lôi Trạch Quy muội, hào 5

- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, kỳ quân chi duệ, bất như kỳ đệ chi duệ lương ; nguyệt cơ vọng, cát”.

- “Sáu Năm, Đế Ất cho em gái về nhà chồng, y phục của người vợ chính không đẹp bằng y phục của cô vợ lẽ ; (đức hạnh rất cao, ví như) trăng đến ngày sắp tròn mà chưa đầy, tốt lành.

35. Mậu Tuất - Địa Thủy Sư, hào 5

- “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu ; trưởng tử suất sư, đệ tử dư thi, trinh hung”.

- “Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vậy bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nghiệm cho bậc trưởng giả cương chính, thì có thể thống suất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọn người trẻ tuổi không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm”.

36. Kỷ Hợi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 3

- “Cửu Tam, phục nhung vu mãng, thăng kỳ cao lăng, tam tuế bất hưng”

- “Chín Ba, phục binh giữa nơi rừng rậm, thỉnh thoảng lên gò cao trông ngóng, qua ba năm cũng không dám dấy binh giao chiến”.

37. Canh Tý - Trạch Lôi Tùy, hào 1

- “Sơ Cửu, quan hữu du, trinh cát ; xuất môn giao hữu công”.

- “Chín Đầu, có quan niệm tư tưởng giữ vững chính bền, thì sẽ được tốt lành ; ra cửa kết bạn với người, tất sẽ thành công”.

38. Tân Sửu – Sơn Phong Cổ, hào 1

- “Sơ Lục, cán phụ chi cổ, hữu tử khảo, vô cữu, lệ chung cát”.

- “Sáu Đầu, uốn nắn sự tệ loạn của cha, người con có thể nối được nghiệp tổ tiên, tất không có cữu hại, tuy có thể nguy hiểm nhưng cuối cùng tất được tốt lành”.

39. Nhâm Dần - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (39 ~ 51)

- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.

- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.

40. Quý Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (40 ~ 52)

- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.

- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.

41. Giáp Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (41 ~ 29)

- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.

- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.

42. Ất Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (42 ~ 30)

- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”

- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.

43. Bính Ngọ - Phong Sơn Tiệm, hào 2

- “Lục Nhị, hồng tiệm vu bàn, ẩm thực hãn hãn, cát”.

- “Sáu Hai, chim đại nhạn bay từ từ đến bên phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi vui vẻ, tốt lành”.

44. Đinh Mùi – Lôi Trạch Quy muội, hào 6

- “Thượng Lục, nữ thừa khuông, vô thực ; sỹ khuê dương, vô huyết, vô du lợi”.

- “Sáu Trên, người con gái tay xách giỏ tre, không có gì ở trong ; người con trai cầm dao giết dê, không thấy máu: (vợ chồng làm lễ không thành), không có gì lợi”.

45. Mậu Thân - Địa Thủy Sư, hào 4

- “Lục Tứ, sư tả thứ, vô cữu”.

- “Sáu Bốn, quân lui về, tạm giữ thế thủ thì tránh được cữu hại”.

46. Kỷ Dậu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 4

- “Cửu Tứ, thừa kỳ dung, phất khắc công, cát”.

- “Chín Bốn, cưỡi lên tường thành rồi lại lui không dám tiến công, tốt lành”.

47. Canh Tuất - Trạch Lôi Tùy, hào 6

- “Thượng Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi ; vương dụng hưởng vu tây sơn”.

- “Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà ràng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây”.

48. Tân Hợi - Sơn Phong Cổ, hào 2

- “Cửu Nhị, cán mẫu chi cổ, bất khả trinh”.

- “Chín Hai, uốn nắn sự tệ loạn của mẹ, khi tình thế khó tiến hành thì không thể gượng làm được, mà phải giữ vững chính bền để đợi thời”.

49. Nhâm Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (49 ~ 1)

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

50. Quý Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (50 ~ 2)

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.

- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành”.

51. Giáp Dần – Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (51 ~ 39)

- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.

- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.

52. Ất Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (52 ~ 40)

- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.

- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.

53. Bính Thìn – Phong Sơn Tiệm, hào 1

- “Sơ Lục, hồng tiệm vu can ; tiểu tử lệ, hữu ngôn, vô cữu”.

- “Sáu Đầu, chim nhạn bay dần đến bên bờ nước (không được an toàn) ; giống như trẻ nhỏ gặp lúc nguy hiểm, bị trách mắng, nhưng nếu có thể tiến dần không vội thì tránh được cữu hại”.

54. Đinh Tị - Lôi Trạch Quy muội, hào 1

- “Sơ Cửu, quy muội dĩ đệ, phả năng lý, chinh cát”.

- “Chín Đầu, người con gái về nhà chồng làm vợ lẽ, chân thọt mà cố gắng đi được, tiến lên thì được tốt lành”.

55. Mậu Ngọ - Địa Thủy Sư, hào 3

- “Lục Tam, sư hoặc dư thi, hung”

- “Sáu Ba, quân chốc chốc phải chở xác về, có hung hiểm”.

56. Kỷ Mùi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 5

- “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ”.

- “Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp”.

57. Canh Thân - Trạch Lôi Tùy, hào 5

- “Cửu Ngũ, phu vu gia, cát”.

- “Chín Năm, tỏ rõ lòng thành tín với kẻ thiện, tốt lành”.

58. Tân Dậu – Sơn Phong Cổ, hào 3

- “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu”.

- “Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn”.

59. Nhâm Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (59 ~ 11)

- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.

- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.

60. Quý Hợi - Thủy Địa Tỷ, hào 5 (60 ~ 12)

- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.

- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.

Vòng 8, với sự khởi đầu là ngày Giáp Tý, cho chúng ta nhận thức được một hàm nghĩa rất rõ ràng: "nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại".

Đạo lý hay thật!!!

...

VÒNG 7

..........................Nam

..........................TỤNG

...........DI............................NHU

...ĐẠI QUÁ...............+...............TIỂU QUÁ

........TRUNG PHU.....................TẤN

...........................MINH DI

.............................Bắc

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

VÒNG 5

.............................MÔNG

......VÔ VỌNG.......................ĐẠI TRÁNG

...THĂNG.....................+...................KIỂN

........KHUÊ...................................QUAN

...........................CÁCH

VÒNG 4

...........................VỊ TẾ

........ÍCH.............................THÁI

...HẰNG.....................+...............HÀM

..........TỔN...................................BĨ

...........................KÝ TẾ

VÒNG 3

...........................ĐỈNH

........GIA NHÂN.........................LÂM

...GIẢI.....................+.................TỤY

........ĐẠI SÚC......................ĐỘN

..........................TRUÂN

VÒNG 2

...........................LỮ

........TIỂU SÚC.........................PHỤC

...DỰ.....................+....................KHỐN

..........BÍ..................................CẤU

...........................TIẾT

VÒNG 1

...........................LY

........TỐN.............................KHÔN

...CHẤN.....................+..............ĐOÀI

.........CẤN.............................CÀN

...........................KHẢM

Khảo sát ngày Giáp Tý phối hợp với Hào từ quẻ Dịch, thông qua 8 vòng

Giáp Tý

1. Ngày Giáp Tý vòng 1: Càn hào 1

- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”.

- “Hào Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng”.

2. Ngày Giáp Tý vòng 2: Cấu hào 1

- “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịch trục.”

- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.”

3. Ngày Giáp Tý vòng 3: Độn hào 1

- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”

- “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.

4. Ngày Giáp Tý vòng 4: Bĩ hào 1

- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.

- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.

5. Ngày Giáp Tý vòng 5: Quán hào 1

- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”

- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”

6. Ngày Giáp Tý vòng 6: Bác hào 1

- “Sơ Lục, bác sàng dĩ túc, miệt ; trinh hung.”

- “Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gãy gục, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

7. Ngày Giáp Tý vòng 7: Tấn hào 1

- “Sơ Lục, tấn như tồi như, trinh cát ; võng phu, dụ vô cữu.”

- “Sáu Đầu, sự tiến thịnh khởi đầu đã bị ghìm lui chắn lại, giữ chính thì được tốt lành ; hãy tạm ung dung đợi thời thì không gặp cữu hại”.

8. Ngày Giáp Tý vòng 8: Đại hữu hào 1

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

Xét thấy ngày Giáp Tý thông qua 8 vòng mà sao lời Hào từ lại nói "vật dụng" khởi đầu ở Vòng 1, mà tới cùng là Vòng 8 nói "chưa đi lại giao du thì chưa mắc hoạ", lạ thật!!!.

Vậy thì, có sự liên hệ tới Độn Giáp chăng?

...

Bài số #13, chúng ta đã có ví dụ về VÒNG 8, hệ thống 60 can chi phối hợp với Hào từ của 8 quẻ thuộc Vòng 8.

Nhận xét thấy:

- Mỗi quẻ Dịch có 6 hào, ta ví dụ mỗi một Hào trong quẻ Dịch tương đương với đơn vị tính là một ngày. Như vậy, một vòng Dịch Can Chi sẽ tương đương với 60 ngày. Thuận tự hết 8 vòng, thì số ngày là: 60 x 8 = 480 ngày tương đương với 480 hào từ.

- Khi người xưa quy định sự phối hợp Thiên can với quẻ Dịch, thì can Giáp - Nhâm phối với quẻ Càn, can Ất - Quý phối với quẻ Khôn. Từ nguyên nhân này, đã nảy sinh ra số "Trùng lưu" (Lão Tử gọi là Trùng hư), cụ thể như sau:

- Số 1 ~ số 49 ==> Giáp Tý <=> Nhâm Tý

- số 2 ~ số 50 ==> Ất Sửu <=> Quý Sửu

- số 9 ~ số 21 ==> Nhâm Thân <==> Giáp Thân

- số 10 ~ số 22 ==> Quý Dậu <==> Ất Dậu

- số 11 ~ số 59 ==> Giáp Tuất <==> Nhâm Tuất

- số 12 ~ số 60 ==> Ất Hợi <==> Quý Hợi

- số 19 ~ số 31 ==> Nhâm Ngọ <==> Giáp Ngọ

- số 20 ~ số 32 ==> Quý Mùi <==> Ất Mùi

- số 21 ~ số 9 ==> Giáp Thân <==> Nhâm Thân

- số 22 ~ số 10 ==> Ất Dậu >==> Quý Dậu

- số 29 ~ số 41 ==> Nhâm Thìn <==> Giáp Thìn

- số 30 ~ số 42 ==> Quý Tị <==> Ất Tị

- số 31 ~ số 19 ==> Giáp Ngọ <==> Nhâm Ngọ

- số 32 ~ số 20 ==> Ất Mùi <==> Quý Mùi

- số 39 ~ số 51 ==> Nhâm Dần <==> Giáp Dần

- số 40 ~ số 52 ==> Quý Mão <==> Ất Mão

- số 41 ~ số 29 ==> Giáp Thìn <==> Nhâm Thìn

- số 42 ~ số 30 ==> Ất Tị <==> Quý Tị

- số 49 ~ số 1 ==> Nhâm Tý <==> Giáp Tý

- số 50 ~ số 2 ==> Quý Sửu <==> Ất Sửu

- số 51 ~ số 39 ==> Giáp Dần <==> Nhâm Dần

- số 52 ~ số 40 ==> Ất Mão <==> Quý Mão

- số 59 ~ số 11 ==> Nhâm tuất <==> Giáp Tuất

- số 60 ~ số 12 ==> Quý Hợi <==> Ất hợi

Như vậy, trong 24 ngày được gọi là "trùng lưu" này, thì số ngày thực tính mang thông tin, chỉ còn 12 ngày, vậy nên số "thông tin" thực có sẽ là 60 - 12 = 48, tương đương với một vòng Dịch Can Chi - Khi trải qua 8 vòng thì số "thông tin" là 48 x 8 = 384, tương đương với số hào của 64 quẻ Dịch.

Ta có thể đưa ra một kết luận rằng: trong quá trình thực tính, thì tổng số hào của Kinh Dịch là 480 hào, được phân làm 8 vòng, mỗi một vòng là 60 hào tương đương với 60 can chi, trong mỗi một vòng thì số "trùng lưu" sẽ là 12.

Từ đây, chúng ta nhận thức được tại sao LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN chỉ dùng đơn vị số quẻ là 48. Nhưng bên trong số 48 này, vẫn ẩn tàng số "trùng hư", để thuận theo số chu kỳ của thời gian là 60.

480 HÀO LÀ SỐ THỰC CỦA KINH DỊCH.

...

Hệ thống 60 can chi, khi phối ứng với 384 Hào từ quẻ Dịch sẽ thuận tự trải qua 8 vòng, nhận thấy một vòng 60 ngày sẽ có 12 ngày mang "thông tin" trùng nhau, được trường phái "Tam huyền" (Tiêu Diên Thọ, Kinh Phòng, Dương Hùng) gọi là số "Trùng lưu". Ta xét tỷ lệ: 1 / 4, có nghĩa rằng: 48 ngày mang "thông tin" tỷ lệ với 12 ngày mang "thông tịn" trùng lưu (thông qua một mà biết bốn - Khổng Tử). Tỷ lệ này, được ứng dụng một cách nghiêm mật, rải khắp trong các môn thuật toán Đông Phương học.

Phép bói Cỏ thi mà sách Dịch có bàn tới, sử dụng số 49 cọng cỏ thi. Con số "49" này, xét thấy tương đương với số "1". Chúng ta đã phối ứng "Thời gian" với Hào từ Kinh Dịch, thấy rằng một "thông tin" ẩn tàng trong "can chi", ví như trong ngày Giáp Tý, thì sau 49 ngày, tới ngày Nhâm Tý thì "thông tin" quay trở lại (phản bản hoàn nguyên - quy luật Phản Tổ).

Ta đang bàn về học thuyết thuyết "Bản thể", đã nhận thấy sự khởi nguồn khi người xưa định "Tuần không", khi chúng ta tìm hiểu về học thuyết thuyết "Sinh - Thành", thì sẽ nhận thức rõ thêm tại sao người xưa quy định như vậy.

...

Một Ví dụ mà Tôi thường ứng dụng và trải nghiệm:

Can Chi ngày sinh của Tôi là ngày Ất Mùi, nếu tính theo số TỬ BÌNH hay LỤC NHÂM, thì hiện tại Tôi đang ở trong VÒNG 6.

Trước tiên, Tôi tìm hiểu ý nghĩa cấu tạo của VÒNG 6 cho ta biết về những "Sự" gì?

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

- Hướng Nam, đó là sự lìa tan - Phong Thuỷ Hoán

- Hướng Bắc, đó là sự thịnh lớn - Lôi Hoả Phong

- Hướng Đông, đó là "Mạch nước ngấm không cùng" - Thuỷ Phong Tỉnh

- Hướng Tây, đó là sự khiêm tốn - Địa Sơn Khiêm

- Hướng Tây - Bắc, đang là sự bong ra từng mảng - Sơn Địa Bác

- Hướng Tây - Nam, đang có sự quyết đoán - Trạch Thiên Quải

- Hướng Đông - Nam, đang có sự cắn để hợp lại - Trạch Thiên Quải

- Hướng Đông - Bắc, đang có nhắc nhở về "sự thận trọng trong đi lại" - Thiên Trạch Lý.

Một người bạn có lời mời Tôi đi miền Nam, từ VÒNG 6 xét thấy, phía Nam đang có sự lìa tan, ứng hợp vào tháng nào đây? Chắc là tháng Nhâm Ngọ vậy. Tôi thành thật cảm ơn bạn mình, và trả lời không thể đi được.

Hướng Tây Nam đang có sự quyết đoán, lại có lưu "Lộc Tồn", tôi chiêm đoán rằng: cơ quan mà tôi đã làm việc, đang cân nhắc tiền thưởng cho một số cán bộ lão thành.

Khi tính theo số ĐỘN GIÁP thì can ngày sinh Ất Mùi của Tôi cho tôi biết những thông tin gì đây?

.........................................Tân gia Mậu

..................Kỷ gia Canh................................Đinh gia Nhâm (Đinh gia Giáp)

....Mậu / Tân...............................+.......................Ất / Bính

...................Nhâm / Đinh................................Bính / Quý

.............................................Canh / Kỷ

Như vậy, Can ngày sinh của Tôi đang nhắc nhở tôi, cho tôi biết thông tin rằng: tôi cần phải có sự khiêm tốn (Địa Sơn Khiêm) trong những ngày tới.

Không biết số Thái ất của Tôi còn nói cho tôi biết thêm những thông tin gì đây.!

...

Khảo sát vòng 2

...........................LỮ

.....TIỂU SÚC.........................PHỤC

...DỰ.....................+....................KHỐN

..........BÍ..................................CẤU

...........................TIẾT

Nhận xét thấy

- Hướng Tây -Nam cung Khôn 2, mang quẻ Địa Lôi Phục phối hợp với hướng Đông, cung Chấn 3 mang quẻ Lôi Địa Dự, hướng Tây - Nam thì: Địa ở bên ngoài mà Lôi ở bên trong ; Địa ở trên mà Lôi ở dưới ; Địa ở ngọn mà Lôi ở gốc,...v.v... Đối với hướng Đông thì vị trí Nội quái và Ngoại quái được thay đổi cho nhau (không phải là đảo - ngược quái): Lôi lại ở bên ngoài còn Địa lại ở bên trong => Lôi Địa <==> Địa Lôi (Tây Nam <==> Đông). Tương tự:

- Hướng Tây - Bắc cung Càn 6, mang quẻ Thiên Phong Cấu phối hợp với hướng Đông - Nam cung Tốn 4, mang quẻ Phong Thiên Tiểu súc => Thiên Phong <==> Phong Thiên (Đông Nam <==> Tây Bắc)

- Hướng Đông - Bắc quẻ Cấn 8, mang quẻ Sơn Hoả Bí phối hợp với hướng Nam cung Ly 9 mang quẻ Hoả Sơn Lữ => Sơn Hỏa <==> Hỏa Sơn (Đông Bắc <==> Nam)

- Hướng Bắc cung Khảm 1, mang quẻ Thuỷ Trạch Tiết phối hợp với hướng Tây cung Đoài mang quẻ Trạch Thuỷ Khốn => Thuỷ Trạch <==> Trạch Thuỷ (Bắc <==> Tây)

Nội ngoại, trong ngoài, trên dưới, trước sau, gốc ngọn, nhân quả...v.v... đều thay đổi vị trí cho nhau. Khi sự thay đổi vị trí quái như vậy, thì chúng ta nhận thức được gì đây? Phải chăng, cái "bên ngoài" của hướng Tây phản ảnh thông tin cái "bên trong" của hướng Đông - Bắc, cũng như cái "bên trong" của hướng Tây Bắc phản ánh thông tin về cái "bên ngoài" của hướng Đông Nam,...v.v...

VÒNG 3

...........................ĐỈNH

........GIA NHÂN.........................LÂM

...GIẢI.....................+.................TỤY

........ĐẠI SÚC......................ĐỘN

..........................TRUÂN

NHẬN XÉT:

- Cung Càn 6 với cung Cấn 8: trong ngoài, trên dưới, nội ngoại, thay đổi vị trí cho nhau: Thiên Sơn <=> Sơn Thiên, hướng Tây Bắc <=> Đông Bắc.

- Cung Khảm 1 với cung Chấn 3: trên dưới thay đổi vị trí cho nhau: Thuỷ Lôi <=> Lôi Thuỷ

- Cung Khôn 2 với cung Đoài 7: trên dưới thay đổi vị trí: Địa Trạch <=> Trạch Địa

- Cung Tốn 4 với cung Ly 9: Phong Hỏa <=> Hoả Phong.

VÒNG 4

...........................VỊ TẾ

........ÍCH.............................THÁI

...HẰNG.....................+...............HÀM

..........TỔN...................................BĨ

...........................KÝ TẾ

- Cung Càn 6 với cung số Khôn 2: Thiên Địa <=> Địa Thiên => Giáp Nhâm = Ất Quý >> hướng Tây Bắc và hướng Tây Nam

- Cung Đoài 7 với cung Cấn 8: Bính <=> Đinh

- Cung Khảm 1 với cung Ly 9: Mậu <=> Kỷ

- Cung Chấn 3 với cung Tốn 4: Canh <=> Tân

VÒNG 5

.............................MÔNG

......VÔ VỌNG.......................ĐẠI TRÁNG

...THĂNG.....................+...................KIỂN

........KHUÊ...................................QUAN

...........................CÁCH

- Cung Cấn 8 với cung Khảm 1: Bính <=> Mậu

- Cung Tốn 4 với cung Khôn 2: Tân <=> Ất (Quý)

- Cung Chấn 3 với cung Càn 6: Canh <=> Giáp (Nhâm)

- Cung Ly 9 với cung Đoài 7: Kỷ <=> Đinh

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

- Tây Bắc cung Càn 6 phối ứng với Tây cung Đoài 7: Đinh <=> Nhâm (Giáp)

- Đông Bắc cung Cán 8 phối ứng với Tây Nam cung Khôn 2: Bính <=> Quý (Ất)

- Hướng Bắc cung Khảm 1 phối ứng với hướng Đông Nam cung Tốn 4: Mậu <=> Tân

- Hướng Đông cung Chấn 3 phối ứng với hướng Nam cung Ly 9: Canh <=> Kỷ.

VÒNG 7

..........................Nam

..........................TỤNG

...........DI............................NHU

...ĐẠI QUÁ...............+...............TIỂU QUÁ

........TRUNG PHU.....................TẤN

...........................MINH DI

.............................Bắc

- Cặp [ 9 <=> 2 ] => Ly <=> Khôn (Nam ~ Tây Nam)

- Cặp [ 7 <=> 4 ] => Đoài <=> Tốn (Tây ~ Đông Nam), (Đinh ~ Tân)

- Cặp [ 6 <=> 1 ] => Càn <=> Khảm (Tây Bắc ~ Bắc)

- Cặp [ 8 <=> 3 ] => Cấn <=> Chấn (Đông Bắc ~ Đông)

VÒNG 8

....................ĐỒNG NHÂN

...........CỔ.........................TỶ

...TUỲ...............+...............QUY MUỘI

..........TIỆM.....................ĐẠI HỮU

......................MINH DI

- Cặp 6 ~ 9 => Hỏa Thiên ~ Thiên Hỏa

- Cặp 3 ~ 7 => Trạch Lôi ~ Lôi Trạch

- Cặp 1 ~ 2 => Địa Thủy ~ Thủy Địa

- Cặp 8 ~ 4 => Phong Sơn ~ Sơn Phong

Chúng ta đã xong được một bước. Tiếp theo, ta cần phải biết được, trong 32 cặp phối hợp này, cặp nào là cặp có sự "dao động" mạnh nhất. Hệ số "dao động" này, giúp được gì cho chúng ta khi ứng dụng vào thực tiễn?

Có người, gặp hệ số "dao động" thấp mà vẫn bị họa tai, có người lại gặp hệ số "dao động" cao mà họ vẫn có khả năng vượt qua (!).

Ta tiếp tục khai phá những điều mà người xưa cho là "nghiêm mật".

...

Điều mà người xưa cho là "nghiêm mật", chính là "cái mà phải dựa vào đang dần mất đi sự ổn định".

Phàm là 10 tuổi thích chạy, 20 tuổi thích đi nhanh, 30 tuổi thích đi bộ, 40 tuổi thích sự ngồi, 50 tuổi thích sự nghỉ, 60 tuổi thích sự nằm.

Dịch - Sơn Địa Bác, tượng hào 2 nói: "Bác sàng dĩ biện, vị hữu dữ dã", có nghĩa rằng: "Đã đến lúc muốn nằm nghỉ, thì giường nằm từ cứng mạnh đang chuyển thành hư yếu".

Phải dừng lại, vì người ta không thể quên nguồn cội của mình. Thường ngày cần phải củng cố cái "gốc" để phòng sự "bác". Khi "thời gian" tích lại ngày một lớn, có nghĩa rằng tuổi ngày một tăng lên, thì "vật chất" ngày càng mất dần đi.

Cái mà ta phải dựa vào đó vậy!

...

Chúng ta tiếp tục khảo sát xem người xưa đã tổ hợp như thế nào (?), từ 48 cặp can chi mang thông tin này, làm sao có thể quy tụ về còn 12 cặp can chi, mà người xưa gọi là 12 "thần". Như vậy, sẽ hình thành 4 chu kỳ của 12 "thần".

...

Năm Canh Dần - 2010, do vậy ta bắt đầu khảo sát từ LỤC CANH

Canh Dần

1. Chu kỳ 1 - Canh Dần - Thuần Chấn, hào 2

- “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc.”

- “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.”

- Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – ý nói tượng hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy.

2. Chu kỳ 2 - Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2

- “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát.”

- “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – "Không đợi ngày mà biết", vì Sáu Hai đã trung, lại chính.

3. Chu kỳ 3 - Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2

- “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát.”

- “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – "Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành", nói lên được đạo ở giữa không lệch.

4. Chu kỳ 4 - Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2

- “Cửu Nhị, hối vong.”

- “Chín Hai, hối hận tiêu hết.”

- Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – "Chín Hai hối hận tiêu hết", nói lên Chín Hai có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch.

5. Chu kỳ 5 - Canh Dần - Địa Phong Thăng, hào 2

- “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.”

- “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi tội lỗi.”

- Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” - Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh.

6. Chu kỳ 6 - Canh Dần - Thủy Phong Tỉnh, hào 2

- “Cửu Nhị, tỉnh cốc xạ phụ, ủng tệ lậu.”

- “Chín Hai, rốn giếng bị uổng dùng để bắn mấy con cá nhỏ, lúc này gầu bị thủng không có gì để múc lên.”

- Tượng “Tỉnh cốc xạ phụ, vô dữ dã.” - "Rốn giếng bị uổng dùng", nói lên Chín Hai không có ứng với trên. (Mỹ, Nga, Trung quốc)

7. Chu kỳ 7 - Canh Dần - Trạch Phong Đại quá, hào 1

- “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.”

- “Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.”

- Tượng “Tạ dụng bạch mao, nhu tại hạ dã.” - "Lấy cỏ tranh trắng lót vật biếu người trên", nói ý hào Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng.

8. Chu kỳ 8 - Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2

- “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu.”

- “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng.”

- Tượng “Hệ tiểu tử, phất khiêm dữ dã” - "Quấn quýt với kẻ tiểu tử", nói lên Sáu Hai không thể cùng một lúc thân hiếu với nhiều nơi.

...

Khảo sát từ LỤC CANH Dịch - Hệ từ thượng - Chương 9 - Tiết 1 viết: "Thiên nhất địa nhị. Thiên tam địa tứ. Thiên ngũ địa lục. Thiên thất địa bát. Thiên cửu địa thập." Như vậy trong hệ chu kỳ số đếm 10, thì can Canh ở vị trí thứ 7. Dịch - Hệ từ thượng - Chương 9 - Tiết 5 viết: "Nhị thiên chi sách, vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã" (Số trong hai thiên của Kinh Dịch là 11520, tương đương với số chỉ vạn vật." Dịch viết: số 11.520 là số tương đương chỉ vạn vật (!), như một di ngôn "mật khẩu" được mật truyền trong Kinh, ta nhận thức như thế nào về lời di ngôn này? Từng bước tiếp cận, khởi đầu từ lời Dịch viết: " Vạn vật xuất hồ Chấn ". Sử dụng 3 chu kỳ: đó là chu kỳ 10, chu kỳ 12, và chu kỳ 14 làm phương tiện nhận thức về Thiên đạo (đường vận hành trời). Chu kỳ 10 được gọi là chu kỳ Thiên can, gồm thứ tự số đếm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Chu kỳ 12 được gọi là chu kỳ Địa chi, gồm thứ tự số đếm: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Chu kỳ 10 và 12 cho chúng ta một hệ chu kỳ số đếm 60, khởi nguyên từ Giáp phối ứng với Tí, kết thúc khi Quý phối ứng với Hợi, thường gọi là một Giáp Tí. Khi tổ hợp phối ứng với chu kỳ 14, có nghĩa là khởi nguyên đồng thời cả ba chu kỳ, thì ta được một hệ chu kỳ số đếm 420, thường được gọi là một Đại Giáp Tí (7 x 60). Một Đại Giáp Tí là một chu kỳ gồm 420 năm (ngày).

...

Khảo sát một số sách chú giảng về Dịch nói: số chỉ vạn vật tương đương với số 11520 (!)

1. Sách " Chu Dịch Đại truyện " - Nhà XB KHOA HỌC XÃ HỘI - 2006 - Lê Anh Minh dịch - chú (tr 94):

- "Thiên" = Kinh dịch có hai thiên ; thượng thiên (tức thượng kinh) có 30 quẻ ; hạ thiên (tức hạ kinh) có 34 quẻ.

- 64 quẻ cả thảy 192 hào dương và 192 hào âm. Khi bói:

- Lập được hào Dương, số que kẹp kẽ tay là 13, còn lại là 36 que. Vậy 36 x 192 = 6912.

- Lập được hào Âm, số que kẹp kẽ tay là 25, số que còn lại là 24. Vậy 24 x 192 = 4608

- Kết quả: 6912 + 4608 = 11520

- Khi nói "vạn vật", thì "vạn" là mười ngàn (nhưng đó là nói tổng quát).

- Số 11520 tương đương với con số chỉ vạn vật.

2. Sách: KINH DỊCH - ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ - Nguyễn Hiến Lê - Trang 462 - CHƯƠNG IX - Tiết 5 viết:

- " Nhị thiên chi sách vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã "

- Dịch: " Số thẻ của hai thiên (tức thiên thượng và thiên hạ trong Kinh dịch, tức số thẻ của 64 quẻ trùng - vì thiên thượng gồm 30 quẻ, thiên hạ gồm 34 quẻ) là 11.520, hợp với số của vạn vật ".

- Chu Hi giảng: Hai thiên trong Kinh dịch gồm tất cả 192 hào dương và 192 hào âm. Như tiết trên đã nói, số của quẻ Càn là 216, vậy số của mỗi hào quẻ Càn, tức mỗi hào dương là 216 / 6 = 36. Số của quẻ Khôn là 144, vậy số của mỗi hào quẻ Khôn, tức mỗi hào âm là 144 / 6 = 24.

- Tổng số 192 hào dương là 36 x 192 = 6.912 ; Tổng số 192 hào âm là 24 x 192 = 4.608 Cộng cả dương lẫn âm được 6.192 + 4.608 = 11.520

- Số 11.520 hợp với số của vạn vật là nghĩa làm sao? Chúng tôi không hiểu. Có lẽ người Trung Hoa thời đó cho rằng trong vũ trụ thời đó có khoảng một vạn mốt loài chăng?

3. Nguồn sách: Thư viện Đại học Cambridge University Library

http://www.lib.cam.a...lu/fb70306.html

TRUNG HOA ĐẠO THÁNH [ 中华 道 藏 ]

Dịch Số 7 - 8 - 9 - 6

Chúng ta có bốn con số, được quy định như sau: cặp số 7 - 8 được quy định đại diện cho "tĩnh", cặp số 9 -6 được đại diện cho "động".

Trong cặp số 7 - 8 đại diện cho cho "Tĩnh", thì số "8" là số đại diện cho Dương "Tĩnh", còn số "7" là số đại diện cho Âm "Tĩnh".

Các bước thực hiện:

- Quẻ Càn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Càn là 8 + 16 + 32 = 56

- Quẻ Khôn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khôn là 7 + 14 + 28 = 49

- Quẻ Chấn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 8 + 14 + 28 = 50

- Quẻ Khảm: hào một có trị số là 7, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là 7 + 16 + 28 = 51

- Quẻ Đoài: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là 8 + 16 + 28 = 52

- Quẻ Cấn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Cấn là 7 + 14 + 32 = 53.

- Quẻ Ly: hào một 8, hào hai là 7 x 2 = 14, hào ba là 16 x 2 = 32. Tông trị số ba hào quẻ Ly là 8 + 14 + 32 = 54

- Quẻ Tốn: hào một là 7, hào hai là 16, hào ba là 32. Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là 7 + 16 + 32 = 55

Bát quái tương đương với trị số quẻ được xếp như sau:

..49.....50.......51......52.....53....54....55....56.

Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn.

Từ đây, chúng ta thấy mối liên hệ của thuật toán "Cỏ thi", tại sao lại dùng có 49 cây Cỏ thi để thực hiện 18 lần chia, mỗi lần 3 biến thì được một hào, 18 lần thì được 6 hào của một quẻ Dịch. Từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "Có", từ tối tới sáng, từ đêm tới ngày,..., Cũng từ đây, có thể số 50 được coi là "Đế xuất hồ Chấn"

Bây giờ, chúng ta xếp các trị số của quẻ theo mô hình được gọi là Tiên thiên như sau:

....................56....................

...........52................55..........

...54...............+.................51..

..........50.................53............

.....................49....................

Khi chúng ta đọc thứ tự số từ "không" tới "có", từ Âm tới Dương, lần lượt tăng thêm một đơn vị, bắt đầu từ số 49, thì chúng ta thấy đường đi hình chữ số 8 thật là vui mắt.

Tổng trị số của Càn-Đoài-Ly-Chấn, đều có hào một là hào dương là: 56 + 52 + 52 + 50 = 212

Tổng trị số của Tốn-Khảm-Cấn-Khôn, đều có hào một là hào âm là: 55 + 51 + 53 + 49 = 208

Như vậy, trị số của Dương và Âm có khác biệt 4 đơn vị. Không hiểu tại sao người xưa lại gọi 4 là chìa khóa của âm dương khi sinh Ngũ hành?

Nhìn vào đồ hình sắp xếp các trị số của quẻ, ta thấy những cặp số đứng liền nhau mà khác biệt 4 đơn vị gồm có: Càn và Đoài, Khôn và Cấn, Chấn và Ly, Tốn và Khảm. Có thể từ đây, mà người xưa đặt ra điều lệ: cặp Khôn-Cấn và cặp Càn-Đoài là Tây tứ trạch. Còn cặp Tốn-Khảm và Chấn-Ly là Đông tứ trạch (?) Những cặp này đều có trị số cách nhau 4 đơn vị

Tiếp tục khảo sát, tổng trị số của 8 quái là: 212 + 208 = 420. Thật lạ, như vậy Tổng trị số của tám quẻ khi "Tĩnh" lại bằng với Tổng Trị số tám quẻ Khi "Động", đều bằng 420. (?)

Lại tiếp tục khảo sát:

..49.....50.......51......52......53....54....55....56......... (khi dùng cặp số 7 - 8)

Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn.

..63.....60.......57......54......51.....48....45....42..........(Khi dùng cặp số 6 - 9)

Nhận thấy, từ Khôn tới Đoài số thứ tự là 4 khi "Tĩnh", thì khi "Động" có trị số cách nhau là 42 + 9 = 51. Tiếp tục từ Đoài tới Tốn, thì thứ tự khi "tĩnh" cũng cách nhau là 4, mà khi "động" cũng có trị số cách nhau là 9, cụ thể là 51 + 9 = 60.

Từ "Tĩnh" chuyển sang "động", từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "có", thông qua 9 con số Cửu cung, chúng ta từng bước tìm hiểu về những con số của Dịch 7 - 8 - 9 - 6.

...

Có thể, những con số là sợi dây nối liền Bốc Dịch với Khoa học.

...

Chúng ta khảo sát lại với cặp số 9 - 6, được coi là cặp số đại diện cho "động"

....................CÀN.........................KHÔN..........

Hào ba.......18 x 2 = 36...............12 x 2 = 24......

Hào hai...... 9 x 2 = 18.................6 x 2 = 12.....

Hào một...............= 9..........................= 6......

- Quẻ Chấn:

hào một dương 9,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba âm 12 x 2 = 24.

Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 9 + 12 + 24 = 45 (Hàm tam vi nhất)

- Quẻ Khảm:

hào một âm 6,

hào hai dương 9 x 2 = 18,

hào ba âm 12 x 2 = 24.

Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là: 6 + 18 + 24 = 48

- Quẻ Cấn:

hào một âm trị số là 6,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba dương 18 x 2 = 36.

Tổng 3 hào: 6 + 12 + 36 = 54.

- Quẻ Tốn:

hào một âm trị số là 6,

hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18,

hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36.

Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là: 6 + 18 + 36 = 60

- Quẻ Ly:

hào một dương trị số là 9,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36.

Tổng trị số ba hào quẻ Ly là: 9 + 12 + 36 = 57.

- Quẻ Đoài:

hào một dương trị số là 9,

hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18,

hào ba âm trị số là 6 x 2 x 2 = 12.

Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là: 9 + 18 + 24 = 51.

Tổng trị số 3 hào của Càn là: 9 + 18 + 36 = 63.

Tổng trị số 3 hào của Khôn: 6 + 12 + 24 = 42.

.42.......45.........48.........51......54........57.......60.........63...

Khôn....Chấn......Khảm.....Đoài....Cấn......Ly.......Tốn.......Càn..

.49.......50.........51.........52.......53.......54........55........56...

Tổng trị số tám quái khi tĩnh: 420 (cặp số 7 - 8)

Tổng trị số tám quái khi động: 420 (cặp số 6 - 9)

Âm Dương sinh Ngũ hành, có thể thông qua chìa khóa của Ngũ hành là số 4, và những con số từ 1 => 9, chúng ta nhận thức được không? Người xưa đã thực hiện tính toán như thế nào để quy tám quái về Ngũ hành?

Tại sao Càn Đoài thuộc Kim, Chấn Tốn thuộc Mộc, Ly thuộc Hỏa, Khảm thuộc Thủy, Cấn Khôn thuộc Thổ???.

Người xưa nói: phương Đông sinh Mộc, vậy phương Tây có sinh Mộc không?

...

Trước khi tìm hiểu về Âm Dương sinh Ngũ hành như thế nào? Có lẽ, chúng ta khảo sát trước về những con số Âm Dương khi sinh.

Một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Khôn là 49 như sau:

..1......2......3......4......5......6......7......8......9..

.49....48.....47....46.....45....44.....43....42....41..

.40....39.....38....37.....36....35.....34....33....32..

.31....30.....29....28.....27....26.....25....24....23..

.22....21.....20....19.....19....17.....16....15....14

.13....12.....11....10......9......8......7......6......5

..4......3......2......1......0..............................

.................................9......8......7......6.....???

Thông qua năm lần hàng ngang, trị số giảm dần của Khôn, thì hàng dọc cho chúng ta thấy những cặp số: 1 -4, 2 - 3, 3 -2, rồi lại 1 - 4, thì trị số của quẻ Khôn từ 49 => 1 ở vị trí có số thứ tự là 4.

Tiếp tục một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Càn là 56 như sau:

...1......2......3......4......5......6......7......8......9..

..56.....55....54....53.....52....51.....50....49....48..

....................................................................

....................................................................

....................................................................

....................................................................

..11.....10.....9......8......7......6......5.....4.......3..

...2.......1.....0................................................

Trị số của Càn là 56, nếu theo thứ tự là một, thì từ hàng dọc, trị số của Càn được khởi đầu lại là 2, là số "Chẵn", là số "Ngẫu". Vậy thì tại sao Dịch lại nói: Dương lẻ Âm chẵn, Dương cơ âm ngẫu?

...

Khảo sát Lịch sử về chiêm bốc, thì "cỏ thi" đã thay thế cho "mai rùa". Trên thực tế, ngoài ghi chép của Khổng Tử ra, không có phương pháp bói "cỏ thi" nào khác, được ghi chép lại. Tới tận đời Đường, thời gian có tới hơn hai ngàn năm. Một cuộc cách mạng đã làm thay đổi thời gian Bốc quẻ, khi thay thế Ba đồng tiền để tiến hành lắc quẻ. Theo thời gian, Bốc dịch lại sản sinh ra một cuộc cách mạng trọng đại nữa, cho tới khi xuất hiện Thiệu Ung. Ông cho rằng: "Thần sinh Số, Số sinh Tượng, Tượng sinh Khí". Được gọi là Khang Tiết Thần số. Thời Tam quốc, Vương Bật, một người thanh niên đề xướng tư tưởng trị dịch: "đắc ý quên tượng". Thì Dịch học đã chuyển từ Chiêm Bốc sang Triết học. Trường phái Nghĩa - Lý đã thay thế Dịch Số thời nhà Hán. Cho tới ngày hôm nay, Bốc Dịch cần Khoa học, hiện đang là thời mà Khoa học không cần Chiêm Bốc.

Chiết Tự Số - Chữ Quốc Ngữ

Chào Anh Chị Em trên diễn đàn.

Khi tìm hiểu những phương pháp để lập quẻ Dịch, trong MAI HOA DỊCH SỐ của ngài Thiệu Ung, có phương pháp CHIẾT TỰ SỐ. Theo sách "Bí bản trắc tự toàn thư", ngài Tự Thạch đã nổi danh thiên hạ về khoa Chiết tự. Chữ Quốc ngữ VN có thể xây dựng nên phương pháp Chiết tự này. Tham khảo từ Nguồn: Dichminh.co.cc, được xây dựng Chiết tự số như sau:

A: 3 nét ; Ă: 4 nét ; Â: 5 nét

B: 3 nét

C: 1 nét

D: 2 nét ; Đ: 3 nét

E: 4 nét ; Ê: 6 nét

G: 2 nét ;

H: 3 nét

I: 1 nét

K: 3 nét

L: 2 nét

M: 4 nét

N: 2 nét

O: 2 nét

Ô: 4 nét

Ơ: 3 nét

P: 2 nét

Q: 3 nét

R: 3 nét

S: 1 nét

T: 2 nét

U: 1 nét

Ư: 2 nét

V: 2 nét

X: 2 nét

Y: 3 nét

Sắc(/): 1 nét

Huyền (\): 1 nét

Hỏi (?): 2 nét

Ngã (~): 1 nét

Nặng (.): 1 nét

Một ví dụ về khoa Chiết tự số tương ứng với chữ Quốc ngữ: Câu thành văn như sau:

Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá,

Mọi người ở dưới thấp, nên tự chán.

Cụ thể:

- "Trèo lên ngọn cây": tổ hợp Chiết tự số làm Ngoại quái

- "thấy mình cao quá": tổ hợp Chiết tự số làm Nội quái

Thực hiện:

- Chữ "Trèo": T = 2, r = 3, e = 4, 0 = 2, dấu "huyền" = 1

=> 2 + 3 + 4 + 2 + 1 = 12

- Chữ "lên": l = 2, ê = 6, n = 2

=> 2 + 6 + 2 = 10

- Chữ "ngọn": n = 2, g = 2, 0 = 2, n = 2, dấu "nặng" = 1

=> 2 + 2 + 2 + 2 + 1 = 9

- Chữ "cây": c = 1, â = 5, y = 3

=> 1 + 5 + 3 = 9

Tổ hợp câu "Trèo lên ngọn cây" = 12 + 10 + 9 + 9 = 40

40 / 8 = 5 => được quái Khôn.

- Chữ "thấy": t = 2, h = 3, â = 5, y = 3, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 3 + 5 + 3 + 1 = 17.

- Chữ "mình": m = 4, i = 1, n = 2, h = 3, dấu "huyền" = 1

=> 4 + 1 + 2 + 3 + 1 = 11

- Chữ "cao": c = 1, a = 3, 0 = 2

=> 1 + 3 + 2 = 6

- Chữ "quá": q = 3, u = 1, a = 3, dấu "sắc" = 1

=> 3 + 1 + 3 + 1 = 8

Tổ hợp câu: "thấy mình cao quá" = 17 + 11 + 6 + 8 = 42

42 / 8 = 5 dư 2 => được quái Đoài

Câu: "Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá" được quẻ ĐỊA TRẠCH LÂM.

Tiếp tục với vế đối là câu: "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán", lại phân câu này thành 02 quái:

- Chữ "mọi": m = 4, 0 = 2, i = 1, dấu "nặng" = 1

=> 4 + 2 + 1 + 1 = 8

- Chữ "người": n = 2, g = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "huyền' = 1

=> 2 + 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 11

- Chữ "ở": ơ = 3, dấu "hỏi" = 2

=> 3 + 2 = 5

- Chữ "dưới": d = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 9

- Chữ "thấp": t = 2, h = 3, â = 5, p = 2, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 3 + 5 + 2 + 1 = 16

Tổ hợp câu: "mọi người ở dưới thấp" = 8 + 11 + 5 + 9 + 16 = 59

59 / 8 = 7 dư 3 => được quái Ly

- Chữ "nên": n = 2, ê = 6, n = 2

=> 2 + 6 + 2 = 10

- Chữ "tự": t = 2, ư = 2, dấu "nặng" = 1

=> 2 + 2 + 1 = 5

- Chữ "chán": c = 1, h = 3, a = 3, n = 2, dấu "sắc" = 1

=> 1 + 3 + 3 + 2 + 1 = 10

Tổ hợp câu: "nên tự chán" = 10 + 5 + 10 = 25

25 / 8 = 3 dư 1 => được quái Càn

Câu "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán" được quẻ HOẢ THIÊN ĐẠI HỮU.

- Tượng hai quẻ Lâm thừa Đại hữu: theo Bốc Dịch, động hào 3, 4, 6

Posted Image Posted Image

- Theo Dịch Lâm được quẻ Lâm chi Đại hữu.

Chúng ta tham khảo thêm một phương thức lập quẻ Dịch.

Hà Uyên.

...

dichnhan07, on May 17 2010, 03:04 PM, said:

Tôi có một thắc mắc đó là tại sao không phải là an quẻ từ dưới lên mà lại an từ trên xuống, trong khi đó tên gọi lại là Lâm (dưới)-Đại Hữu (trên). Tôi thử biến lại thành Tụy (dưới)-Đồng Nhân (trên), bác thử xét xem liệu quẻ nào hợp hoàn cảnh hơn.

Kính Bác.

Anh Dichnhan

Khi ngài Tiêu Diên Thọ xây dựng kết cấu cho học thuyết của mình, Ông lấy Can Chi "ngày" làm "Bản" (gốc). Do vậy, ngài Tiêu mới lấy "Trực nhật" để minh chứng cho "Tiêu Lâm".

Hôm nay, là ngày Đinh Mão, là Can Chi ứng cho ngày "Âm", nên tôi trải nghiệm theo nguyên tắc mà ngài Tiêu Diên Thọ đã đặt ra.

Anh tham khảo thêm.

Hà Uyên.

...

Chào Thiên đồng

Cảm ơn Bạn rất nhiều từ những ý kiến mà Bạn đặt vấn đề. Tôi đang trải nghiệm, cùng luận giải thêm với Thiên Đồng sau.

Gần đây, về cá nhân, tôi đang thử nghiệm, nhưng không nói ra, về: Họ và Tên của sự Hợp khí, với điều kiện là: Âm dương đã hợp hóa => đã "sinh". Ví dụ như tên của Dương: Trần văn A, tên của Âm là Nguyễn thị B => tôi phân: Trần Văn làm Ngoại quái, còn tên là chữ A, thì đặt làm Nội quái. Đối ứng với Âm, thì Nguyễn Thị tổ hợp làm Ngoại quái, còn tên chữ là B, thì tổ hợp làm Nội quái. Tôi thử nghiệm xét thấy, có nhiều điều rất lạ khi thông tin được bộc lộ ra, từ hai quẻ Đối ứng.

Chia sẻ cùng Thiên Đồng và Anh Chị Em.

Hà Uyên.

HÀO DỊCH THÔNG KHÍ - 72 SỰ CHUYỂN HOÁ CỦA QUẺ DỊCH

SƠN LÔI DI – 72 CỤC

Di: Trinh cát ; quan di, tự cầu khẩu thực.

Dịch: “Quẻ Di tượng trương cho sự nuôi dưỡng: giữ vững chính bền thì được tốt lành. Xem xét hiện tượng nuôi dưỡng sự vật, cần biết dùng chính đạo trong việc từ tìm thức ăn nuôi mình.”

Chú thích: chứ “di” cổ văn mà nhìn ngang thì giống như cái mép, là tên gọi “cái mép”, tượng trưng trong mồm ngậm thức ăn, dưới Chấn động trên Cấn ngưng chỉ, có tượng như đang nhai thức ăn, nhai vật, khi động khi ngừng. Trời đất tạo hóa nuôi nấng muôn vật, mỗi vật được một cách nuôi riêng thì đó cũng là chính đạo mà thôi. Xem cách nuôi của người và cách họ tự tìm thức ăn cho mình, thì sự thiên ác lành giữ có thể thấy được.

Thoán viết: Di, trinh cát, dưỡng chính tắc cát dã. Quan di, quan kỳ sở dưỡng dã ; tự cầu khẩu thực, quan kỳ tự dưỡng dã. Thiên địa dưỡng vạn vật, thánh nhân dưỡng hiền dĩ cập vạn dân: di chi thời đại hỹ tai.

Dịch: “Thoán truyện nói: Nuôi dưỡng, giữ vững chính bền thì được tốt lành. Quan sát hiện tượng nuôi dưỡng sự vật, là quan sát điều kiện khách quan để có được sự nuôi dưỡng ; nên biết dùng chính đạo trong việc tự tìm thức ăn nuôi mình, tức quan sát để biết được về phương pháp chủ quan tự nuôi mình đúng đắn nhất. Trời đất nuôi dưỡng vạn vật, thánh nhân nuôi dưỡng người hiền cho tới muôn dân ; công hiệu của thời “di dưỡng” lớn vậy thay!”

Chú thích: Người quân tử cắt (miếng thịt) không ngay ngắn không ăn, huống chi là miếng ăn phi nghĩa. Bởi vậy cho nên kẻ được nuôi dưỡng phải là kẻ hiền minh, từ nuôi mình tất phải hợp lễ, đó là nghĩa “dưỡng chính” vậy. Về sự sinh và sự dưỡng của muôn vật, thì “thời” là lớn.

Tượng viết: Sơn hạ hữu Lôi, di ; quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực.

Dịch: “Tượng truyện nói: Dưới núi vang động tiếng sấm của quẻ Chấn (dưới động trên ngưng, như miệng nhai thức ăn), tượng trưng cho sự “nuôi dưỡng”, người do vậy thận trọng nói năng để dưỡng đức, tiết chế sự ăn uống để nuôi mình.”

Chú thích: noi theo đạo “dưỡng chính” của quẻ Di, dưỡng đức và dưỡng thân rất quan trọng đối với thời “nuôi dưỡng”. Họa theo miệng mà ra, hoạn theo miệng mà vào, cho nên đối với sự nuôi dưỡng, thì phải “thận trong” và “tiết chế” vậy.

HÀO 9.1

1- Sơn Lôi Di 9.1:

- “Xả nhĩ linh quy, quan ngã đóa di, hung.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, người bỏ phần tốt đẹp như rùa thiêng của mình mà nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, có hung hiểm,”

- Tượng: Hào Chín Đầu không đáng được tôn trọng. Chưa đủ nói lên sự sang giầu quý phái.

2- Sơn Trạch Tổn hào 1:

- “Sơ Cửu, dĩ sự xuyền vãng, vô cữu ; chước tổn chi.”

- Dịch: Hào Chín Đầu, hoàn thành việc tự tu dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp người ở ngôi cao, tất không có cữu hại, nên châm chước giảm bớt chất cứng của bản thân.”

- Tượng: Hào Chín Đầu tâm chí hợp nhất với bậc tôn trưởng.

3- Sơn Thiên Đại súc hào 1:

- “Sơ Cửu, hữu lệ, lợi dĩ.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, có nguy hiểm, lợi về sự tạm dừng không tiến.”

- Tượng: Hào Chín Đầu không thể cứ dấn thân vào tai biến, hoạn nạn mà đi. Không gặp tai ương.

4- Hỏa Thiên Đại hữu: hào 1

- “Cửu Tứ, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp tội tỗi.”

- Tượng: Hào Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai thì cũng không mắc phải họa hại.

5- Thuần Càn hào 1:

- “Cửu Ngũ, Tiềm long, vật dụng.”

- Dịch: “Hào Chín đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.”

6- Trạch Thiên Quải hào 1:

- “Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn đến cữu hại.”

- Tượng: Hào Chín Đầu không thể thủ thắng mà vội tiến lên, là mời gọi sự họa hại đến.

7- Trạch Phong Đại quá hào 1:

- “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng.

8- Trạch Sơn Hàm hào 1:

- “Sơ Lục, Hàm kỳ mẫu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu chí hướng phát triển ra phía ngoài.”

9 Trạch Địa Tụy hào 1:

- “Sơ Lục, hữu phu bất chung, nãi loạn nãi tụy, nhược hào, nhất ác vi tiếu: vật tuất, vãng vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, nếu không giữ được đến cùng sự thành tín trong lòng, tất sẽ làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người ; nếu chuyện tình mà kêu gọi người ở trên, thì có thể chỉ một cái bắt tay với người bạn dương cứng là lại vui cười được ngay ; Không phải lo nghĩ, đi lên tất không gặp cữu hại.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu tâm chí có sự mê loạn.

10- Thủy Địa Tỷ hào 1:

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô vữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục, mà hưởng được sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu nói hào Chín Năm ứng rộng tới các nơi khác, tất sẽ được tốt lành.

11- Thuần Khôn hào 1:

- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí.”

- Dịch: “ Hào Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu nói lên khí âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày sẽ đến.

12- Sơn Địa Bác hào 1:

- “Sơ Lục, bác sàng dỹ túc, miệt ; trinh hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gãy gục, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu trước tiên bị làm ruỗng mọt phần nền móng phía dưới.

13- Sơn Lôi Di 9.1

HÀO 6.3

1- Sơn Lôi Di 6.3:

- Lục Tam, phất di ; trinh hung, thập niên vật dụng, vô du lợi.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, trái với lẽ thường “nuôi dưỡng” ; giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, mười năm dài lâu không được thi thố tài dụng, nếu thi thố tất sẽ không được lợi gì.”

- Tượng: Hào Sáu Ba đại nghịch bất đạo với chính đạo nuôi dưỡng.

2- Hỏa Lôi Phệ hạp 9.4:

- “Lục Tam, phệ tích nhục, ngộ độc ; tiểu nhân lận, vô cữu.”

- Dịch: “ Hào Sáu Ba, gia hình không thuận lợi, như cắn phải thịt khô rắn cứng, lại ngộ độc ; nhưng như vậy bất quá chỉ hơi tiếc, chứ không đến nỗi cữu hại”

- Tượng: Hào Sáu Ba cư vị không thỏa đáng, đến nỗi bị kẻ thụ hình sinh oán.

3- Thiên Lôi Vô vọng 9.5:

- “ Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.”

- Tượng: Hào Sáu Ba vận số đến lúc bị tai bay vạ gió, bị đổ tội oan.

4- Trạch Lôi Tùy 6.6:

- “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền.”

- Tượng: Hào Sáu Ba là bỏ kẻ tiểu tử ở dưới.

5- Trạch Địa Tụy 6.1:

- “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự tiếc nhỏ.”

- Tượng: Sáu Ba lòng muốn hướng lên trên thuận theo dương cứng.

6- Trạch Thủy Khốn 9.2:

- “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung.”

- Dịch: “khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dừa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm.”

- Tượng: Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi lên kẻ cương cường. “Về nhà không thấy vợ” đây là hiện tượng chẳng lành.

7- Trạch Phong Đại quá 9.3:

- “Cửu Tam, đống náo, hung.”

- Dịch: “hào Chín Ba, cột ỏe, hung.”

- Tượng: Chín Ba không thể thêm gì để phụ giúp.

8- Thủy Phong Tỉnh 6.4:

- “Cửu Tam, tỉnh tiết bất thực, vị ngã tâm trắc ; khả dụng cấp, vương minh tịnh thụ kỳ phúc.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, giếng nước được nạo vét sạch sẽ mà không được múc nấu ăn, khiến ta động lòng trắc ẩn, nên mau mau múc lấy nước giếng trong này, được vị vua sáng suốt thì vua tôi sẽ chung hưởng phúc trạch.”

- Tượng: Chín Ba có hành vi chưa được hiểu, thật khiến cho người ta động lòng chắc ẩn, “nhà vua sáng suốt” là để cho vua tôi cùng hưởng phúc trạch.

9- Địa Phong Thăng 6.5:

- “Cửu Tam, thăng hư ấp.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.”

- Tượng: Chín Ba thượng thăng sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ.

10- Sơn Phong Cổ 9.6:

- “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn.”

- Tượng: Chín Ba mạo hiểm đưa ra lời can gián, cuối cùng không thể có cữu hại

11- Sơn Thiên Đại súc 9.1:

- “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh, nhật nhàn cư về, lợi hữu du vãng.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe, lợi về có sự đi.”

- Tượng: Chín Ba hợp chí với hào Chín Trên.

12- Sơn Hỏa Bí 6.2:

- “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững chính bền được lâu dài sẽ được sự tốt lành.”

- Tượng: Chín Ba có thể làm được như vậy thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn.

13- Sơn Lôi Di 6.3

HÀO 6.4

1- Sơn Lôi Di 6.4:

- “Lục Tứ, điên di, cát ; hổ thị đam đam, kỳ dục trục trục, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, đảo điên mà cầu dưới nuôi dưỡng (rồi lại dùng sự nuôi dưỡng đó nuôi lại mọi người), tốt lành ; như mắt hổ nhìn đăm đăm, gấp gáp cầu xin tiếp liền không dứt, tất không có cữu hại.”

- Tượng: Sáu Bốn ở ngôi trên mà có thể tỏa rọi ánh sáng của đức đẹp xuống dưới. Lòng đầy thèm muốn. Điềm cát, đã thực hiện xong công việc.

2- Phong Lôi Ích hào 4:

- “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân.”

- Tượng: Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công

3- Thủy Lôi Truân hào 4:

- “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.”

- Tượng: Sáu Bốn muốn cầu hôn ở phía dưới mà tiến lên, như vậy là kẻ sáng suốt hiểu biết.

4- Thủy Địa Tỷ hào 4:

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, ở ngoài thân mật, gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành.”

- Tượng: Sáu Bốn thuận theo bậc tôn thượng.

5- Thuần Khảm hào 4:

- “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu.”

6- Thủy Phong Tỉnh hào 4:

- “Lục Tứ, tỉnh trụ, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, giếng nước đang được xây lại, tất không cữu hại.”

- Tượng: Sáu Bốn chỉ có thể sửa giếng (không thể nóng vội mà nuôi người.

7- Trạch Phong Đại quá 9.4:

- “Cửu Tứ, đống long, cát ; hữu tha, lận.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, cột vươn thẳng như trước, tốt lành ; nếu ứng viện với dưới, tất sinh thẹn tiếc.”

- Tượng: Chín Bốn không thể cho cột lại ỏe xuống nữa.

8- Lôi Phong Hằng hào 4

- Lục Tứ, điền vô cầm.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, đi săn không được cầm thú.”

- Tượng: Sáu Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú?

9- Hỏa Phong Đỉnh hào 4:

- “Cửu Tứ, đỉnh chiết túc, phúc công tốc, kỳ hình ốc, hung.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, vạc khó lòng chựu nổi sức nặng, chân vạc gãy, cao lương mỹ vị của vương công bị đổ hết, thân vạc ướt át bẩn thửu, có hung hiểm.”

- Tượng: Chín Bốn làm sao còn tín nhiệm được nữa. Chân đỉnh bị cắt, tức là lật đổ chế độ cũ, nên tin như thế nào cho phải?

10- Hỏa Thiên Đại hữu hào 4:

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, đừng để tỏ ra quá sự giầu có thì không bị họa hại.”

11- Thuần Ly hào 4:

- “Cửu Tứ, đột như kỳ lai như, phần như, tử như, khí như.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán diệt vong, bị vứt bỏ sạch trơn.”

- Tượng: hư thế của Chín Bốn sẽ làm cho nó không còn nơi phụ bám, chứa chấp. Vật đột nhiên đến, không có chỗ dung thân.

12- Hỏa Lôi Phệ hạp hào 4:

- “Cửu Tứ, phệ can tỷ, đắc kim thỉ ; lợi gian trinh, cát.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, gia hình không thuận lợi như cắn miếng thịt có xương khô, nhưng có khí phách cương trực như mũi tên đồng, lợi về trong gian nan giữ vững được chính bền, tốt lành.”

- Tượng: đạo trị ngục của Chín Bốn chưa phát huy được sáng lớn, không sáng sủa gì.

13- Sơn Lôi Di hào 4

HÀO 6.5

1- Sơn Lôi Di 6.5

- “Lục Ngũ, phất kinh, cư trinh cát, bất khả thiệp đại xuyên.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm (ví như bậc “quân vương” dựa vào sự kẻ trên nuôi nình để nuôi thiên hạ), trái với lẽ thường, ở yên giữ vững chính bền thìđược tốt lành, không thể vượt qua sông cả sóng lớn.”

- Tượng: Sáu Năm nên thuận theo và dựa vào người hiền lương dương cứng Chín Trên. Thuận tình đi theo cấp trên, là điềm lành do “cư trinh”.

2- Địa Lôi Phục hào 5:

- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận.”

- Tượng: Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, tự mình suy xét để thành được đạo phục thiện.

3- Thuần Khôn hào 5:

- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.”

- Tượng: Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ đạo “trung”. “Hoàng thường”, văn hóa là trung tâm.

4- Địa Thủy Sư hào 5:

- “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu, trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vây bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nhiệm cho bậc trưởng giả cương chính thì có thể thống xuất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọ tuổi trẻ không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

- Tượng: “trưởng tử xuất sư”, hoạt động của trung tâm ; “đệ tử dư thi”, là kết quẻ của việc sử dụng người không đích đáng. Lệnh ban ra không thỏa đáng.

5- Địa Phong Thăng hào 5:

- “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.”

- Tượng: hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao, ý chí thật lớn lao.

6- Lôi Phong Hằng hào 5:

- “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm.”

- Tượng: cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà tất có hung hiểm. Chồng ở rể, theo vợ là hung.

7- Trạch Phong Đại quá hào 5:

- “Cửu Ngũ, khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sỹ phu ; vô cữu vô dự.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, cây dương khô ra hoa mới, bà già lọm khọm lấy được người chồng khỏe mạnh, không bị cữu hại, cũng không được khen.”

- Tượng: “dương khô ra hoa” như vậy thì sức sống làm sao lâu bền được. “bà già lọm khọm”, tình trạng như vậy thật đáng xấu hổ.

8- Thiên Phong Cấu hào 5:

- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự nhiên.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che trở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống.”

- Tượng: tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời. Hàm nghĩa 9.5 nói về hiện tượng lạ “thiên thạch từ trời rơi xuống.”

9- Thuần Càn hào 5:

- “Cửu ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

10- Thiên Hỏa Đồng nhân hào 5:

- “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp.”

- Tượng: “trước thì khóc lóc kêu rên”, do Chín Năm trung chính, chân thành thẳng thắn. “Phải đến khi đại quân xuất chiến mới tương ngộ hội hợp cùng kẻ chí đồng”, là do Chín Năm cùng với kẻ địch giao chiến và đã chiến thắng.

11- Thiên Lôi Vô vọng hào 5:

- “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà vui vì khỏi bệnh.”

- Tượng: Chín Năm không dùng thử linh tinh, không thể thử thuốc.

12- Phong Lôi Ích hào 5:

- “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: Hữu phu huệ ngã đức.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, có lòng chân thành, tín thực ban ơn cho thiên hạ, không cong nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp: Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta.”

- Tượng: “tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi. “báo đáp ân đức của ta”, nói lên hào Chín Năm được lớn chí tổn thượng ích hạ. Cái đạt được lớn nhất là ý chí.

13- Sơn Lôi Di hào 5

HÀO 9.6

1- Sơn Lôi Di hào 6

- “Thượng Cửu, do di ; lệ cát, lợi thiệp đại xuyên.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, thiên hạ nhờ nó mà được nuôi dưỡng, biết nguy mà thận trọng thì được tốt lành, lợi về vượt qua sông cả sóng lớn.”

- Tượng: Chín Trên có phúc khánh lớn.

2- Sơn Địa Bác hào 6:

- “Thượng Cửu, thạc quẻ bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, quẻ lớn chưa bị hái xuống ăn, người quân tử hái được nó thì có thể ruổi xe đi cứu đời, kẻ tiểu nhân hái được tất sẽ đi đến chỗ phá vạn nhà.”

- Tượng: “quân tử đắc dư”, nói lên ý trăm họ do vậy được bề trên che trở. “tiểu nhân bác lư”, nói lên kẻ tiểu nhân cuối cùng không thể tin dùng được. Cuối cùng nhà nát không thể dùng được nữa.

3- Sơn Thủy Mông hào 6:

- “Thượng Cửu, kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối, không lợi về dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên ngừa giặc mạnh.”

- Tượng: Chín Trên có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận.

4- Sơn Phong Cổ hào 6:

- “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình.”

- Tượng: ý chí của Chín Trên đáng để noi theo. Không việc gì là không đến tay vương hầu.

5- Hỏa Phong Đỉnh hào 6:

- “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi.”

- Tượng: Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm. Cương nhu hòa hợp.

6- Thiên Phong Cấu hào 6:

- “Thượng Cửu, cấu kỳ giác, lận, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, gặp nơi trống vắng, lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cưu hại.”

- Tượng: ở nơi cao cùng cực nên dẫn tới sự hối tiếc là tương ngộ mà không người. Nghèo hèn sinh ra tiếc của (từ giầu có tụt dốc xuống thành nghèo khổ).

7- Trạch Phong Đại quá hào 6:

- “Thương Lục, quá thiệp diệt đỉnh ; hung, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, lội nước quá sâu đến nỗi ngập cả đầu ; có hung hiểm, nhưng không có lỗi gì.”

- Tượng: cứu đời mà mất mạng, không thể coi là có lỗi. qua sông hỏng thuyền.

8- Trạch Thiên Quải hào 6:

- “Thượng Lục, vô hào, chung hữu hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, không phải gào khóc, cuối cùng khó tránh sự hung hiểm.

- Tượng: Với tình thế ở cao bên trên cuối cùng không thể lâu dài.

9- Trạch Hỏa Cách hào 6:

- “Thương Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện, chinh hung, cư trinh cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau làm thay đổi khuynh hướng thời trước, lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng: “quân tử báo biến”, ngôn ngữ hoa mỹ bay bổng. “Đánh dấu vào mặt tiểu nhân”, thuận tòng sự niến cách của nhà vua.

10- Trạch Lôi Tùy hào 6:

- “Thương Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi; vương dụng hưởng vu tây sơn.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà rằng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây.”

- Tượng: ở ngôi trên cùng, đạo theo cùng tận, “trên” nghèo khổ.

11- Thủy Lôi Truân hào 6:

- “Thương Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có sự cảm ứng) nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa.”

- Tượng: làm sao mà có thể trường cửu như vậy được.

12- Địa Lôi Phục hào 6:

- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại, dĩ kỳ quốc, quân hung, chí vu thập niên bất khắc chinh.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến nhiều năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển.”

- Tượng: Sáu Trên đi ngược với con đường của đạo quân chủ dương cứng. Ngược với đạo lý của vua.

13- Sơn Lôi Di hào 6

...

Chào VanTrungHac

- Theo Hà Uyên, 1 hào chỉ có 5 quá trình tiệm tiến chuyển hoá, Hà Uyên cũng đã trao đổi với Liêm Trinh. Khi chúng ta trao đổi với nhau, thì Hà Uyên phân tích 12 quá trình là để hiểu thêm về những nguyên lý của Kinh Dịch.

- Hai người cùng Năm-Tháng-Ngày-Giờ đến hỏi vận mệnh, thì Hà Uyên chưa có câu trả lời với VanTrungHac.

- Quẻ ứng tức thì,...Hà Uyên rất ít, thiếu kinh nghiêm.

Hà Uyên có thể cùng thảo luận với VanTrungHac về chủ đề: tại sao một cung, lại quy định 7 quẻ phải theo Ngũ hành của quẻ Bát Thuần, vì phần này Hà Uyên vẫn có nhiều chỗ lúng túng.

TIÊN THIÊN NỘI TĨNH NGOẠI ĐỘNG - HẬU THIÊN NỘI ĐỘNG NGOẠI TĨNH

TIÊN THIÊN NỘI TĨNH NGOẠI ĐỘNG

Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số là 99, trong và ngoài đều là số “thành”, nội tĩnh ngoại tĩnh

Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49, trong là số “thành”, ngoài là số “sinh”, do quẻ Càn hào 6 biến. Ngoại động nội tĩnh.

Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, ngoài “sinh” trong “thành”, ngoaì do quẻ Càn hào 5 biến.

Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89, cả trong và ngoài đều là số “thành”, ngoài do quẻ Khôn hào 4 biến.

Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29, nội tĩnh ngoại động, ngoại động do quẻ Càn hào 4 biến.

Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu, số là 79, nội và ngoại đều là số “thành”, ngoại do quẻ Khôn hào 5 biến.

Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69, nội và ngoại đều là số “thành", ngoại do quẻ Khôn hào 6 biến.

Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái, số là 19, nội “thành” ngoại “sinh”.

Vị trí thứ 9 là Thiên Trạch Lý, số là 94.

Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài, số là 44.

Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê, số là 34.

Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội, số là 84 Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu, số là 24.

Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết, số là 74.

Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64 Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm, số là 14.

Vị trí thứ 17 là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93.

Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách, số là 43.

Vị trí thứ 19 là Thuần Ly (10 + 9), số là 33.

Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong, số là 83.

Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23.

Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73.

Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí, số là 63.

Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13.

Vị trí thứ 25 là Thiên Lôi Vô vọng, số 98 Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy, số là 48.

Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp, số là 38.

Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88.

Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích, số là 28 Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân, số là 78.

Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di, số là 68.

Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục, số là 18.

Vị trí thứ 33 là Thiên Phong Cấu, số là 92.

Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá, số là 42.

Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32.

Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng, số là 82.

Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22.

Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72.

Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, số là 62.

Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12.

Vị trí thứ 41 là Thiên Thủy Tụng, số là 97.

Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47.

Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37.

Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 82 Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán, số là 27.

Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77.

Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông, số là 67.

Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư, số là 17.

Vị trí thứ 49 là Thiên Sơn Độn, số là 96.

Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm, số là 46.

Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ, số là 36.

Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá, số là 86.

Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm, số là 26.

Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76.

Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66.

Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm, số là 16 Vị trí thứ 57 là Thiên Địa Bĩ, số là 91.

Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy, số là 41.

Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn, số là 31.

Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự, số là 81.

Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan, số là 21.

Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71.

Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác, số là 61.

Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11.

HẬU THIÊN NỘI ĐỘNG NGOẠI TĨNH

1- Càn ngoại:

- Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số thực dụng là 99

- Vị trí thứ 9 (1 +8) là Thiên Trạch Lý, số là 94.

- Vị trí thứ 17 (9 + 8) là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93.

- Vị trí thứ 25 (17 +8) là Thiên Lôi Vô vọng, sô là 98

- Vị trí thứ 33 (25 +8) là Thiên Phong Cấu, số là 92.

- Vị trí thứ 41 (33 +8) là Thiên Thủy Tụng, số là 97.

- Vị trí thứ 49 (41 + 8) là Thiên Sơn Độn, số là 96.

- Vị trí thứ 57 (49 + 8) là Thiên Địa Bĩ (bế tắc), số là 91 2- Đoài ngoại:

- Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49,(58 + 8 = 66 – 64 = 2)

- Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài (vui vẻ), số là 44

- Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách (cải cách), số là 43.

- Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy (theo), số là 48.

- Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá (quá lớn), số là 42.

- Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47.

- Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm (trai gái cảm nhau), số là 46.

- Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy (nhóm họp), số là 41. 3- Ly ngoại:

- Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, (59 + 8 = 67 – 64 = 3)

- Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê (chia lìa), số là 34.

- Vị trí thứ 19 là Thuần Ly, số là 33.

- Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp (cắn để hợp), số là 38.

- Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32.

- Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37.

- Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ (bỏ nhà đi tha hương), số là 36.

- Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn (tiến lên), số là 31. 4- Chấn ngoại:

- Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89,(60 + 8 = 68 – 64 = 4)

- Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội (em gái về nhà chồng), số là 84.

- Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong (thịnh, lớn) số là 83.

- Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88.

- Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng (lâu dài), số là 82

- Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 87.

- Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá (quá chút ít), số là 86.

- Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự (vui sướng), số là 81. 5- Tốn ngoại:

- Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29 (61 + 8 = 69 – 64 = 5)

- Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu (có đức tin trong lòng), số là 24.

- Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23.

- Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích (tăng lên), số là 28. -

- Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22.

- Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán (chia lìa, tan tác), số là 27.

- Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm (tiến dần), số là 26.

- Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan (xem xét), số là 21. 6- Khảm ngoại:

- Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu (chờ đợi), số là 79 (62 + 8 = 70 – 64 = 6)

- Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết (tiết chế lại), số là 74.

- Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73, nạp Mậu Thìn, hành 9 vận.

- Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân (đầy và khó khăn), số là 78.

- Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72.

- Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77.

- Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76.

- Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71. 7- Cấn ngoại:

- Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69 (63 + 8 = 71 – 64 = 7)

- Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64.

- Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí (rực rỡ, sáng sủa), số là 63.

- Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di (nuôi nấng), số là 68

- Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, (đổ nát, công việc), số là 62.

- Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông (non yếu, mù mờ), số là 67.

- Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66 (46), Cấn nạp Bính Dần, hành 1 vận.

- Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác (tiêu mòn, bóc lột), số là 61 8- Khôn ngoại:

- Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái (hanh thông), số là 19.

- Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm (lớn tới), số là 14.

- Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13.

- Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục (trở lại), số là 18.

- Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12.

- Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư (đám đông), số là 17.

- Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm (nhún nhường), số là 16.

- Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11.

...

Thiệu Ung viết: "Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8". Theo Tiên thiên, thì quẻ Thuần Càn ở vị trí thứ 1, cộng thêm với 9 thì tới quẻ Thuần Đoài có số thứ tự là 1 + 9 = 10. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Ly có số thứ tự là 10 + 9 = 19. Tiếp tục cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Chấn có số thứ tự là 19 + 9 = 28. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Tốn có số thứ tự là 28 + 9 = 37. Tiếp tục công thêm với 9 thì được quẻ Tập Khảm có số thứ tự là 37 + 9 = 46. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Cấn có số thứ tự là 46 + 9 = 55. Tiếp tục cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Khôn có số thứ tự là 55 + 9 = 64. Theo Hậu thiên, quẻ Thuần càn gồm: 1, 9, 17, 25, 33, 41, 49, 57 (1, 9, 7, 5, 3, 1, 9, 7). Từ số thứ tự cuối của quẻ Càn 57 + 9 = 66 ta trừ đi 64 quẻ 66 - 64 = 2. Nên quẻ thuần Đoài mang số thứ tự khởi đầu là 2. Thiệu Ung nói: Càn 1, Đoài 2. Theo Hậu thiên, quẻ Đoài gồm các số: 2, 10, 18, 26, 34, 42, 50, 58 (2, 0, 8, 6, 4, 2, 0, 8). Từ số thứ tự cuối của quẻ Đoài cộng thêm với 9, tức là 58 + 9 = 67 - 64 = 3. Do vậy 3 là số thứ tự đầu tiên của quẻ Ly. Nên nói Ly 3. Tiếp tục như vậy, nên Thiệu Ung viết: Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Thiên Trạch Hỏa Lôi, Phong Thủy Sơn Địa - 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8.

...

Từ hai sườn dốc - từ đó sinh ra các đối lập tạo nghĩa. Âm Dương, tự nhiên luôn tồn tại "thái quá" và "bất cập", đối lập tạo nghĩa của Âm Dương cũng theo quy luật của tự nhiên, Âm thái quá và bất cập, cũng như Dương thái quá và bất cập, hình thành bốn trạng thái: Thái âm, Thiếu dương, Thái Dương, Thiếu âm. Trong tự nhiên, đặc thù mang tính khái quát cao đó là "nước", luôn luôn giữ được sự "thăng bằng". Trời 1 ở Bắc, Đất 2 ở Nam, Trời 3 ở Đông, Đất 4 ở Tây, Trời 5 ở Trung tâm, Đất 6 ở Bắc.

...

ỨNG DỤNG TIÊN THIÊN - HẬU THIÊN

Can Chi Năm-Tháng-Ngày-Giờ nạp quẻ Dịch

Ví dụ: Năm Kỷ Sửu 2009, tháng Kỷ Tị, ngày Canh Tý, giờ Mậu Tuất.

- Năm Kỷ Sửu, nạp quẻ Hỏa thủy Vị tế, có số thứ tự là 43, có số thực dụng là 37.

- Tháng Kỷ Tị, nạp quẻ Thủy Lôi Truân, có số thứ tự là 30, có số thực dụng là 78

- Ngày Canh Tý, nạp quẻ Lôi Phong Hằng, có số thứ tự là 36, có số thực dụng là 82.

- Giờ Canh Tuất, nạp quẻ Phong Hỏa Gia nhân, có số thứ tự là 21, có số thực dụng là 23.

+ Thiên Can: Kỷ - Kỷ - Canh - Canh nạp số thực dụng là 3-7-8-2, đã hội đủ TAM QUÝ: Sinh khí - Thiên y - Diên niên (Tham Cự Vũ)

+ Địa chi: Sửu - Tị - Tý - Tuất nạp số thực dụng là 7 -8- 2- 3, cũng hội đủ Sinh khí - Diên niên - Thiên y (Tham-Cự-Vũ)

...

Ý NGHĨA CỦA SỰ KẾT HỢP

CẶP SÔ KÊT HƠP

16, 27, 38, 49 là sao Tham lang, thần là Sinh khí (hào 3 biến)

12, 34, 67, 89 là sao Liêm trinh, thần là Ngũ quỷ (hào 2 – 3 biến)

19, 28, 37, 46 là sao Vũ khúc, thần là Diên niên (3 hào đều biến)

13, 24, 68, 79 là sao Văn khúc, thần là Lục sát (hào 1 – 3 biến)

18, 29, 36, 47 là sao Lộc tồn, thần là Họa hại (hào 1 biến)

14, 23, 69, 78 là sao Cự môn, thần là Thiên y (hào 1 – 2 biến)

17, 26, 39, 48 là sao Phá quân, thần là Tuyệt mệnh (hào 2 biến)

1- Sinh khí – Tham lang: phát sinh sự quan hệ về vật chất hay tinh thần, như có tiền, có tiền để trả nợ,… hay gặp gỡ đồng nghiệp, bạn cũ, chiêu đãi, …Sức khỏe tốt, sinh tài thêm đinh. Là những điều kiện sinh sôi, nảy nở, tiến hành thuận lợi, cây côi tươi tốt, chăn nuôi phát triển,…

2- Ngũ quỷ - Liêm trinh: là 5 thứ tà khí quấy rối sự sống, quấy rối quan hệ con người với con người, thường gây ra sự bực mình, rắc rối (do bị tai nan, mất mát, kiện thưa, cãi vã, vạ miệng,…), đi họp đi công tác, công việc bận rộn. Hay bị tai nạn nếu gặp thêm Ngũ hoàng (số 5)

3- Diên niên – Vũ khúc: là chủ về sự bền vững dài lâu, sức khỏa vững vàng, trường thọ, sự may mắn trong các mối quan hệ tình cảm gia đình và xã hội có tính bất ngờ (như trúng số, hay bị tai nạn mà người thì không bị sao,…) {chỉ Chấn và Tốn kết hợp mới được trường thọ bách niên}

4- Lục sát – Văn khúc: là sự thiệt hại những gì thuộc phạm vi chủ thể có trách nhiệm chăm sóc: như con cái, gia súc, cây trái,…là sự cản trở, công việc trái với ý định ban đầu, quan hệ bị xấu đi do tác động của bên ngoài. Tâm trạng thường bất an, công việc khó có kết quả (va chạm xe cộ).

5- Họa hại - Lộc tồn: là sự thiệt hại, hao tán tài vật thuộc quyền chủ thể quản lý sử dụng. Thiệt hại về vật chất hay tinh thần (trả tiền, mất tiền, đồ đạc đang sử dụng tự nhiên bị hư hỏng, cãi vã về đồ đạc, thị phi điều tiếng,…), phải đi xa, tổn tài, dễ mắc bệnh tật.

6- Thiên y - Cự môn: là sự giải thoát những vướng mắc trong đời sống mọi mặt. Người xưa cho rằng Thiên y như là một lực âm phù đã theo sát để cứu nguy. Giả thoát khỏi sự bế tắc. Đúng lúc gay go nhất, bí nhất, nan nguy nhất thì lại có cơ hội để vượt được qua như vật chất hay tinh thần. Có lợi cho sức khỏe, ít bệnh hay nếu có bệnh thì mau khỏi. Tâm lý ổn định, đạo đức lành mạnh.

7- Tuyệt mệnh – Phá quân: sức khỏe suy giảm, sự nghiệp trở ngại, tai nan, tình cảm hay các mối quan hệ bị xấu đi, bị người trở mặt, gặp sự chia lìa, gặp khách không mời mà đến,…, nhưng những việc lớn trong đời lại thường đến vào thời điểm này, tùy theo mệnh cục của mỗi người mà gặp hung hay cát.

8- Phục vị: là khí chất sinh học theo tự nhiên, mọi việc diễn tiến bình thường, nếu gặp tốt thì sẽ tốt, nếu gặp xấu thì sẽ xấu, căn cứ phụ thuộc vào các mối quan hệ và tại thời gian, thời điểm ảnh hưởng vào lúc đó. Ví như ngày là Phục vị, mà gặp tháng hay năm là Thiên y, thì sẽ thuộc về Thiên y, còn nếu gặp năm, tháng hay giờ là Ngũ quỷ, thì sẽ là Ngũ quỷ. Tuổi Khôn Cấn hay có sự va chạm nhất về xe cộ.

...

Đất và Trời giao nhau thì thái bình (Địa Thiên Thái), Sấm (lôi) và Gió (phong) giao nhau thì lâu dài (Lôi Phong Hằng), Thủy và Hỏa giao nhau thì vượt qua (Thủy Hỏa Ký tế), Đầm (trạch) và Núi (sơn) giao nhau thì trai gái cảm nhau (Trạch Sơn Hàm). Cứ một âm một dương gọi là Đạo, là con đường của sự điều chỉnh.

Dương sinh ở Đông mà thịnh ở Nam ; Âm sinh ở Tây mà thịnh ở Bắc ; trong Dương có Âm, trong Âm có Dương, rồi Lưỡng nghi, rồi Tứ tượng, rồi Bát quái, đều là tự nhiên mà có.

Hà đồ giải thích sự sinh thành của Ngũ hành: “Thiên 1 sinh Thủy, địa 6 đã thành ; Địa 2 sinh Hỏa, Thiên 7 đã thành ; Thiên 3 sinh Mộc, Địa 8 đã thành ; Địa 4 sinh Kim, Thiên 9 đã thành ; Thiên 5 sinh Thổ, Địa 10 đã thành”.

Lạc thư: “Dọc ngang đều là 15, mà 7, 8, 9, 6 lặp lại là giảm đi. Hư 5 chia 10, mà 1 hàm 9, 2 hàm 8, 3 hàm 7, 4 hàm 6, như vậy tham ngũ tổng hợp. Đan xen không thích hợp thì không gặp số hợp của nó.

Vạn vật sinh – thành đều có số và môi trường tồn tại, sinh - tử tồn vong, đủ số thì sinh, số tăng thì trưởng, số giảm thì suy, số hết thì mất. Thịnh suy được mất tất cả đều ở số.

Thiên thời, tức là sắp xếp sử dụng thời gian Năm – Tháng – Ngày - Giờ

...

Thiệu Ung viết: “Cái gọi là cung vị Mậu là ở hai ngôi sao Khuê (Tuất) và sao Bích (Hợi). Cung vị Kỷ là ở hai sao Giác (Thìn) sao Chẩn (Tị).

Khuê Bích là thời tiết giữa Lập thu đến Lập đông. Giác Chẩn là giữa Lập xuân đến Lập hạ, vì vậy là cửa ngọc của Trời Đất.”

Ngày dài thì thời tiết ấm áp, vạn vật phát sinh, đều bắt đầu từ cung vị sao Khuê sao Bích (Tuất - Hợi). Ngày ngắn thì thời tiết giá lạnh, vạn vật thu tàng, đều bắt đầu từ cung vị sao Giác, sao Chẩn (Thìn - Tị), vì vậy mà nói rằng: tiết Xuân phân thì chủ “mở”, tiết Thu phân thì chủ “đóng”.

Từ sao Khuê – Bích đi về phương Nam, mặt Trời là đạo Dương, vì vậy gọi là Thiên môn. Từ sao Giác - Chẩn đi về phương Bắc, mặt Trời là đạo Âm, vì vậy gọi là Địa hộ.

Từ cung vị sao Khuê, sao Bích, và can Mậu thì bắt đầu ngày dần dài ra, khí Dương thịnh dần, giống như là mở cửa Trời. Đến cung vị sao Giác, sao Chẩn, can Kỷ thì ngày dần ngắn lại, khí Âm thịnh dần, khí Dương thu bế, giống như mở cửa Đất. Cho nên gọi là Thiên môn Địa hộ.

Thuyết Thiên môn Địa hộ trình bày: “do Âm xuất Dương, do Dương nhập Âm”, thể hiện quy luật thịnh suy, chuyển hoá, tiêu trưởng Âm Dương bốn mùa. Trùng âm tất dương, trùng dương tất âm. Nguyên lý này cùng ý nghĩa với “dương trưởng thì âm tiêu”, “âm tiêu thì dương trưởng”.

Cái máy của tạo hoá không thể không có sinh, cũng không thể không có chế ước. Không có sinh thì không có sự phát triển, không có chế ước thì sự phát triển cao lên mà có hại. Do vậy, trong sinh phải có chế ước, trong chế ước phải có sinh. Nếu giữa Âm Dương mất chế ước, thì sẽ phát sinh thiên thắng (mất cân đối), thậm chí quyết ly máy tạo hoá không thể nào duy trì được.

Nguyên nhân cái gì gây ra sự mất chế ước giữa Âm Dương?

Quá trình sinh mệnh của con người từ khi sinh ra, lớn lên, khoẻ mạnh, già yếu và chết, cũng là giai đoạn chuyển hoá tiêu trưởng của Âm Dương, từ Dương bắt đầu sinh, Dương thịnh dần, Dương thịnh vượng, đến Âm bắt đầu sinh, Âm thịnh dần, Âm cực thịnh.

Nguyên lý Thái cực sinh ra Âm Dương, Âm Dương hoá hợp sinh ra Ngũ hành, Ngũ hành hàm chứa vạn vật. Khí hoá vận hành, Âm Dương thăng giáng: “Thuỷ là chí âm, cho nên ở dưới ứng với vị trí cực âm. Hoả là chí dương, nên ở trên, ứng với vị trí thịnh dương. Mộc chủ thăng phát, nên ở trên, ứng với vị trí phương Đông. Kim chủ thu giáng, nên ở bên phải, ứng với phương Tây. Thổ là mẹ của số thành, nên ở giữa.

Địa khí thăng lên, Thiên khí giáng xuống, là khí của Trời Đất tác dụng hỗ tương. Sau khi thăng rồi giáng xuống, đó là tác dụng của Trời. Sau khi giáng rồi thăng, đó là tác dụng của Đất. Thiên khí giáng xuống, khí rót về mặt đất. Địa khí thăng lên, khí bay bốc ở khung trời. Cho nên, trên dưới giao nhau và hô ứng với nhau, thăng giáng lấy làm nhân quả lẫn nhau, mà phát sinh biến hoá.

Kỳ số

Nhất Lục cư hạ, Nhị Thất cư thượng, Tam Bát cư tả, Tứ Cửu cư hữu, Ngũ Thập cư trung. Phục hy tắc chi, dĩ họa Bát quái.

Số sinh từ 1 đến 5, tượng trưng sự phát sinh của vạn vật. Số thành từ 6 đến 10, tiêu biểu cho sự hình thành của sự vật. Thổ là nơi vạn vật bắt đầu sinh ra. Thổ là gốc của số sinh, cho nên số sinh và số thành đều là “5”.

Số dương của Hà đồ sinh ở “1”, cực ở “9”. Số âm sinh ở “2”, cực ở “8”. Lấy “9” làm cực của số dương, là bắt đầu của số âm.

...

Mô hình “từ trong ra” là mô hình mở, đi ngược chiều kim đồng hồ, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Khác với chiều vặn đi vào, đi thuận chiều kim đồng hồ, từ trái sang phải, là mô hình đóng.

Khi xét việc đã qua phải theo trật tự thuận, đi theo các con số lớn dần, (tức là chiều từ âm đến dương). Còn khi xét việc sắp tới thì phải theo trật tự nghịch của các con số, đi theo các con số nhỏ dần.(tức là chiều từ dương sang âm)

Theo nguyên tắc cơ chế tâm truyền, mọi thông tin đều phải từ giữa phát ra, đây là thời điểm xẩy ra sự việc. Nếu lấy thời điểm này mà xét, thì việc trở về quá khứ của sự việc, là trở về những quẻ đã sinh, tức là những quẻ ta đã biết trước. Như vậy phải là những quẻ ở miền dương, tức là từ Chấn-4 đến Ly-5, đến Đoài-6, rồi đến Càn-7. Đi từ Chấn đến Càn là miền Dương, là đi theo chiều thuận của các con số 4-5-6-7 là chiều các con số lớn dần.

Khi muốn xét tương lai của sự việc đang xẩy ra thì phải theo hướng các quẻ chưa sinh, tức là những quẻ chưa biết. Như vậy phải là những quẻ ở miền âm, tức là từ Tốn-3 đến Khảm-2, rồi đến Cấn-1, và đến Khôn-0, tức là đi theo chiều ngược của các con số (chiều các con số nhỏ dần 3-2-1-0), như người kể ngược bốn mùa vậy!

Càn-7, Đoài-6, Ly-5, Chấn-4, Tốn-3, Khảm-2, Cấn-1, Khôn-0.

<-- <-- <-- <-- --> - - -> - - -> - - ->

Khi ta cho rằng Chấn-Tốn là thời điểm hiện tại của sự việc thì, muốn biết tương lai phải đi theo chiều nghịch của các con số, tức là chiều các con số giảm dần cùng với các quẻ tương ứng của chúng. Cũng có thể tìm hiểu quá khứ của sự việc để đoán biết tương lai thông qua các quẻ đối xứng, là các quẻ biến dịch hay “quẻ đối” phản của chúng, vì quy luật sinh-thành của các con số là đối xứng từng cặp một, các con số đều có hai miền đối xứng: quá khứ và tương lai so với thời điểm xẩy ra. Tìm hiểu quá khứ để biết được tương lai, đây chính là chìa khóa của Dịch.

Mặt trời mọc từ Đông sang Tây, là quy luật của tạo hóa, là từ tối đến sáng, là từ âm đến dương, từ “không” đến “có”; giai đoạn này được gọi là “ quẻ đã sinh”, đây là trật tự thuận. Ngũ hành thuận bắt đầu từ: Thổ - Thủy - Mộc - Hỏa – Kim. Giai đoạn quẻ chưa sinh bắt đầu bằng trật tự từ Tây sang Đông, từ sáng đến tối, ngũ hành ngược lại là: Kim-Hỏa-Mộc-Thủy-Thổ. Nên nói Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8 thì đều được các quẻ chưa sinh, như người kể ngược thứ tự bốn mùa vậy. Đây là thứ tự của quẻ chưa sinh.

Quy luật của tự nhiên tiến từ “không” đến “có”, cái “không” thuộc âm, cái “có” thuộc dương. Âm Dương cũng là trạng thái “đóng - mở” của tạo hóa. Tạo hóa tiến từ trạng thái “đóng” sang trạng thái “mở”, từ không đến có, từ thế giới vô hình sang thế giới hữu hình. Cái “có” đầu tiên thuộc về Dương, nó tương ứng với số 1, là số lẻ, số cơ.

Vạn vật hiện hữu quanh ta thì muôn hình vạn trạng theo từng chủng loại, theo từng loài. Tất cả, đều xuất phát từ sự “sinh-thành” và vị trí ban đầu của các con số trong không gian, cũng như quy luật biến hóa theo “tượng âm dương” của chúng.

Biến Dịch là vòng tuần hoàn lớn của Tạo hóa, Càn Khôn đóng vai trò mở đầu và kết thúc những quá trình lâu dài. Đối với đời người cũng như vạn loại sinh giới, sự biến dịch từ Càn tới Khôn, đồng nghĩa với sự kết thúc chu trình sống này, để chuyển sang một chu trình sống khác. Sự biến dịch từ Âm sang Dương hay từ Dương sang Âm, là sự biến đổi về bản thể các tượng số, luôn luôm tiệm tiến trải qua 10 giai đoạn.

Suy nghĩ về bát quái

Trải qua mấy ngàn năm, hệ Bát Quái được sắp đi xếp lại nhiều lần, trong đó lần sắp xếp của Chu Văn Vương phản ánh một sự biến đổi nhất định về chất. Bát Quái sắp xếp theo cách được coi là của Chu Văn Vương này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”. Đây là hình Bát Quái phổ biến nhất cho đến ngày nay.

Bài báo này nói riêng về một số điều tìm hiểu thêm về trật tự trong “Hậu Thiên Bát Quái”.

Trong sách Kinh Dịch, Nguyễn Hiến Lê cho biết hai tên “Tiên Thiên Bát Quái” và “Hậu Thiên Bát Quái” không thấy dấu hiệu xuất hiện trong Kinh Dịch, chắc là do người đời sau đặt ra, có thể là từ đời Hán. Nhưng, những “người đời sau này” căn cứ vào đâu để đặt ra hai cái tên đối chọi nhau như vậy. Hình như ngay tên gọi đó đã xác nhận một sự phân biệt rạch ròi, một bước biến đổi về chất. Nguyễn Hiến Lê cũng đưa ra một số lời giải thích, nhưng rồi chính ông lại bác bỏ cả, và thú thật là “không hiểu nổi”, và “Kinh Dịch có nhiều điều khó hiểu”... “ta phải chấp nhận vậy thôi”.

Trong một công trình hết sức nghiêm túc và rất có triển vọng, mới đây ông Nguyễn Hoàng Phương đã dùng lý thuyết dập mờ để nghiên cứu phân tích một số thuyết dự báo Trung Quốc cổ, trong đó có Bát Quái. Về Bát Quái, ông đã đưa ra một hệ phương trình có hai hệ nghiệm, và ông gán cho một hệ nghiệm là của “Tiên Thiên”, còn hệ nghiệm kia là của “Hậu Thiên” thì chưa có lời giải thích. Nhưng vì sao cái này là "Tiên Thiên", cái kia là "Hậu Thiên" thì chưa có lời giải thích. Và từ những hệ nghiệm đó tìm ngược trở lại các đặc thù của “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” thì chưa thấy nói đến, ngay đến cách làm việc này cũng còn bỏ ngỏ. Cho nên, chưa thể từ các hệ nghiệm đó mà nhận biết sự phân biệt về chất giữa “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên”, thậm chí cũng chưa nêu bật được sự khác nhau về hình thức giữa hai cách sắp xếp này.

“Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” khác nhau trước hết ở cách sắp xếp thứ tự, và đặc biệt ở nội hàm, tượng ở “Hậu Thiên” được mở rộng thêm nhiều. Mỗi cách sắp xếp là theo một tiêu chí riêng nào đó, và chính cái tiêu chí sắp xếp đó sẽ bộc lộ tư tưởng, ý đồ của sự sắp xếp. Như bài báo trước đã trình bày, “Tiên Thiên” được sắp xếp theo hệ thống cấu trúc. Cứ theo ngôn từ mà xét, từ điển Hán ngữ hiện đại cho biết “Tiên Thiên” là để chỉ “người và động vật khi còn là bào thai”. Vậy “Tiên Thiên Bát Quái” là Bát Quái thời kỳ phôi thai, còn là một “cấu trúc tự thân”, thậm chí chưa phải là một sự vật cụ thể, có sức sống. “Kinh dịch” Khi chỉ mới có Bát Quái, chưa có lời văn, thì ý nghĩa “dịch” dù có hàm súc mấy đi nữa cũng chứa đựng một nội hàm rất mờ. Khi Văn Vương viết lời văn đầu tiên cho “Kinh Dịch”, có thể ông còn được học truyền khẩu cái nội hàm mờ đó, và đã chế biến nó theo cách của ông.

Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo những tiêu chí nào đó phù hợp với những lời giải thích “dự báo học” mà ông gán cho các quẻ. “Kinh Dịch” hình thành và ra đời dưới dạng hoàn chỉnh, cả về biểu tượng và lời văn. Bát Quái được sắp xếp lại này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”, tức là Bát Quái thời kỳ đã thực sự ra đời và hoạt động như “người và động vật sau khi rời khỏi thân thể mẹ và có một đời sống độc lập” (Từ điển Hán ngữ hiện đại). Vấn đề của chúng ta là dò tìm lại các tiêu chí mà ngày xưa các cụ đã dùng để sắp xếp lại thành “Bát Quái Hậu Thiên”. Gần như không có khả năng tìm được đúng các tiêu chí đã được sử dụng, chẳng qua chỉ là một cách minh họa lời phán đoán về các tiêu chí có thể đã được dùng.

Bát Quái thường được đưa ra cùng với các sơ đồ “Hà Đồ” và “Lạc Thư”, hai hình tượng được coi là hình tượng gốc gợi lên ý tưởng và biến dịch cho Bát Quái. Thực ra, mối liên quan giữa: “Hà Đồ” và “Lạc Thư” với Bát Quái tỏ ra khá mỏng manh, có tỉnh hình thức. Có thể nghĩ rằng người xưa có hứng thú đặc biệt với các “ma phương”, vĩ “Hà Đồ” và “Lạc Thư” đều thuộc loại “ma phương” theo nghĩa nào đó. “Lạc Thư” rõ ràng là một “ma phương” cấp 3 theo nghĩa tương tự như ngày nay (tổng theo dòng ngang, cột dọc và đường chéo đều bằng 15). Còn “Hà Đồ” lại là một ma phương loại khác, theo đường xoắn (tham khảo “Chu Dịch Thập Nhật Đàm”, Trung Văn, Nhà xuất bản Thượng Hải, 1946).

Posted Image

Trong Hà Đồ và Lạc Thư, số 5 đứng giữa không ứng với quẻ nào, nên thứ tự sắp xếp các quẻ của Văn Vương có thể mã hóa thành.

Posted Image

Trật tự Quẻ: Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài

Mã xuôi..........1..... 2...... 3.... 4...... 6.. 7... 8...... 9..

Mã ngược...... 9..... 8...... 7.... 6...... 4...3... 2...... 1

Có thể thấy ngay rằng dù mã xuôi hay mã ngược, cách sắp xếp theo thứ tự này của Văn Vương cũng không phù hợp với trật tự các con số trong Lạc Thư hay Hà Đồ.

Ngược lại, có thể mã theo trật tự Tiên Thiên rồi theo các con số của Lạc Thư hay Hà Đồ mà đổi thành trật tự Hậu Thiên chăng?

Bảng mã sẽ là:

Posted Image

Trật tự Quẻ Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn

Mã xuôi........ 1..... 2... 3.... 4.....6.... 7..... 8...... 9...

Mã ngược..... 9..... 8... 7.... 6..... 4.... 3..... 2...... 1...

Với Hà Đồ, ta cũng vẫn không thể làm cho cách sắp xếp phù hợp được. Còn với Lạc Thư, mặc dù bằng các phép chuyển vị (đổi dòng thành cột). đổi hàng, đổi cột ta có thể có 8 ma phương khác nhau, nhưng vẫn không thấy được sự phù hợp cần thiết. Vậy là với giả thiết dựa vào sự gợi ý của Lạc Thư hay Hà Đồ, ta đều chưa tìm ra được một hình ảnh có thể minh hoạ cách sắp xếp của Văn Vương. Có thể còn có những khóa mã khác nữa mà người viết bài này không biết đến. Mong rằng nó vẫn còn là một gợi ý có ích.

Tiêu chí sắp xếp thứ hai có thể nghĩ đến là tiêu chí “giá trị”. Do bói toán có nhu cầu xác định trình độ “Cát - Hung” nên mỗi quẻ có thể được gán một “giá trị” biểu thị phần cát, phần hung, và có thể có phần phi cát, phi hung. Có thể coi giá trị của một quẻ là tổng hợp (theo một nghĩa nào đó) của các giá trị của các hào tạo nên nó. Ta có thể lấy giá trị ban đầu của các hào là bằng nhau vào bằng 0,5. Và, vì theo lý thuyết Trung Quốc cổ đại, trong âm có dương và trong dương có âm, nên phép hợp ở đây có thể dùng phép cộng xác suất biến cố không độc lập (giá trị được coi như xác suất), tức là phép hợp phi bài trung (hợp (a, :lol: = a + b - ab). Cáo hào âm và dương ban đầu có giá trị 0,5 như nhau, nhưng khi trở thành thành phần một quẻ thì giá trị của nó thay đổi tuỳ theo vị trí và vai trò trong quẻ. Vị trí và vai trò này được thể hiện bằng những hệ số làm thay đổi giá trị của hào. Trong mỗi quẻ có ba hào, mà sự phân chia hệ số thay đổi phải tùy thuộc vào tính chất của hào mà thay đổi. Theo Nguyễn Hiến Lê, giá trị của hào có thể thay đổi theo các điều kiện sau đây:

- Đắc trung: hào chiếm vị trí giữa của quẻ.

- Đắc chính: hào dương chiếm vị trí lẻ, hào âm chiếm vị trí chẵn.

Có thể xét thêm hai điều kiện phụ:

- Hợp chủ: hào dương trong quẻ dương, hào âm trong quẻ âm.

- Có thế: hào ở trên được coi là thế phát triển cao hơn hào ở dưới.

Tôi đã chọn các hệ số sau đây để tính giá trị các quẻ:

- Trung: đắc trung = 0,6; không đắc trung: 0,2.

- Chính: đắc chính = 0,5; không đắc chính: 0,25.

- Chủ: hợp chủ = 0,4; không hợp chủ: 0,3

- Thế: hào trên tăng giá trị 1,5 so với hào dưới.

Với các hệ số này, tôi đã tính giá quẻ theo hai cách:

- Cách thứ nhất: kết hợp phép hợp xác suất với phép tính thông thường (với các yếu tố không phụ thuộc).

- Cách thứ hai: dùng phép hợp xác suất phổ biến và đã thu được kết quả như sau:

Posted Image

Quẻ.... Càn........ Đoài........ Ly.... Chấn...... Tổn..... Khảm... Cấn...... Khôn...

Giá tích 0.12267 -0.11725 -0.12164 0.12149 -0.12556 0.12457 0.12227 -0.11950

Giá hợp 0.99963 -0.25264 -099219 0.91971 -0.99546 0.95432 0.94987 - 0.25529

Xếp riêng các quẻ âm và dương và theo thứ tự trị tuyệt đối của “giá trị” giảm dần, ta sẽ được:

Posted Image

............Quẻ dương...................................... Quẻ âm.............................

Càn (giá tích: 0.12667; giá hợp: 0.99963.. Tốn giá tích: - 0.12556; giá hợp: - 094546

Khảm (GT:0.12457; GH: 0.95432)............. Ly (GT: - 0.12164;GH: - 0.99219)

Cấn (Giá Thành 0.12227; GH:0.94987)....... Khôn (GT: - 0.11950; GH: - 0,25529)

Chấn (GT:0.12149; GH:0.91971)............... Đoài (GT: - 0.11726; GH: - 0.25264)

Trong kết quả tính trên đây, riêng quẻ Đoài đã được điều chỉnh bằng một hệ số bộ phẩn bổ sung).

Thứ tự sắp xếp trên đây phù hợp với cách sắp xếp “Hậu Thiên Bát Quái” của Văn Vương. Như vậy, lời phán đoán trong số báo trước nói “thứ tự sắp xếp các quẻ... được làm lại theo nhu cầu bói toán”... đã được minh họa bằng cách tính giá trị các quẻ, có thể coi như “biểu thị hàm lượng cát - hung” chứa đựng trong quẻ đó. Chưa ai tìm được tư liệu đáng tin cậy nào có thể chứng minh được rằng Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo tiêu chí gì và như thế nào. Cách suy nghĩ và tính toán như trên nhiều lắm cũng chỉ đáng coi là một ví dụ minh hoạ một cách tiếp cận vấn đề nan giải này.

Việc dùng tập mờ có giá để minh hoạ “Hậu Thiên Bát Quái” trên đây mới chỉ được thực hiện với 8 quẻ đơn, 24 hào. Tôi chưa dám đi vào 64 quẻ trùng, với 368 hào, một việc vượt quá xa khả năng rất hạn chế của mình. Xin nêu cách làm như một lời gợi ý thô thiển./.

Đỗ Nguyên Đương - Tạp chí Hán Nôm

...

Một danh xưng khi bàn về Dịch, đó là phép xem Hồng phạm, dùng hai chữ "trinh, hối". Trong đó "trinh" tức là tĩnh, còn "hối" tức là động.

Nội dung chính của sánh căn cứ theo hai nghĩa “biến dịch” và “không biến dịch” làm chuẩn mực để làm sáng tỏ lẽ động và tĩnh của nhân sự. Cho nên, sách có nói, số cơ ngẫu là 7, 8 vậy, giao trùng là 6, 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7, 8 là “không biến dịch”, hào vạch theo số 6, 9 là "biến dịch" vậy. Quẻ tuy “không biến dịch”, mà bên trong có “biến dịch”, thì có nghĩa là "hối ". Hào tuy “biến dịch”, mà trong lại có cái "không biến dịch”, thì gọi là “trinh”.

Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ có dùng. Khi thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ có xử. Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt. Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đầu cho thoát được. Đó là nghĩa lý thâm sâu vi tế mà Thánh nhân làm Dịch vậy.

...

Hàm nghĩa cơ bản của “thần” là chỉ sự biến hoá. Sự biến hoá của “thần” được khởi nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ thượng: “Không suy đoán dược âm dương được gọi là thần”. Ý nghĩa của sự biến hoá, không những biểu thị “không lường được” biến hoá của âm dương, mà còn chứng tỏ sự biến hoá của vạn vật cũng rất diệu kỳ. Thần, chính là sự biểu hiện biến hoá tới những chi tiết nhỏ nhất của vạn vật, đạt tới đỉnh tối cao của tinh thần. Đây chính là: “cùng thần tri hoá, đức chi thịnh dã” (thần biến hoá đến tận cùng, để đạt được đức tối đa). Số chẵn, số lẻ và hào tượng cương nhu, sự biến hoá kỳ diệu của nó rất khó đoán định, cũng gọi là “thần”. Khi hào tượng biến hoá, trước tiên cũng khó xác định được: hào nào là hào Lão âm (6), hào nào là hào Lão dương (9), mà gốc nguồn cũng bởi âm dương rất khó đoán định. Tính chất biến hoá khôn lường của âm dương, Kinh Dịch gọi là “đạo”, còn Hệ từ” gọi là “thần”. Nên có câu “người biết đạo của biến hoá, thì hiểu được hành vi của thần”. Trời Đất vận hành, vạn vật động – tĩnh, đều là tự tạo - tự chuyển dịch - tự hoá, để thích nghi với môi trường của tự nhiên; Nó không phụ thuộc vào sự điều khiển chủ quan của ý chí con người, mà cùng chựu sự tác động qua lại, chi phối bởi tính chất của tự nhiên. Nguyên nhân của sự biến hóa khôn lường này, cũng được gọi là “thần”.

...

Thiên nhiên, cơ chế của tạo hoá luôn thấy ở "sinh," đồng thời cũng luôn thấy ở "chế ước". Không có "sinh" thì không có sự phát triển, không có "chế ước" thì sự phát triển thái quá mất đi tính quy luật của tự nhiên mà có hại. Do vậy, trong sinh phải có chế ước, trong chế ước phải có sinh. Nếu giữa Âm Dương mất chế ước, thì sẽ phát sinh thiên thắng (mất cân đối), thậm chí quyết ly máy tạo hoá không thể nào duy trì được. Nguyên nhân cái gì gây ra sự mất chế ước giữa Âm Dương? Giai đoạn chuyển hoá tiêu trưởng của Âm Dương. Từ Dương bắt đầu sinh do Âm xuất Dương, Dương thịnh dần, Dương thịnh vượng; rồi đến Âm bắt đầu sinh do Dương nhập Âm, Âm thịnh dần, Âm cực thịnh. Địa khí thăng lên, Thiên khí giáng xuống, là khí của Trời Đất tác dụng hỗ tương. Sau khi thăng rồi giáng xuống, đó là tác dụng của Trời. Sau khi giáng rồi thăng, đó là tác dụng của Đất. Thiên khí giáng xuống, khí rót về mặt đất. Địa khí thăng lên, khí bay bốc ở khung trời. Cho nên, trên dưới giao nhau và hô ứng với nhau, thăng giáng lấy làm nhân quả lẫn nhau, mà phát sinh "biến" và "hoá".

...

Âm Dương có nguồn gốc từ động tĩnh. Thịnh suy có nghĩa là đắp đổi lẫn nhau, nuôi nhau, cái này nương tựa vào cái kia mà biến thông, nhờ biến thông nên phối hợp với Bốn mùa. Âm thắng Dương thì Tĩnh, Âm thịnh thì nhu. Dương thắng Âm thì Động, Dương thịnh thì cương. Động đúng quy luật thì việc gì cũng thắng, động sai quy luật thì việc gì cũng hỏng. Động gây họa phúc, động tạo ra hưng thịnh hay diệt vong cũng là ý nghĩa ấy. Tại Thiên thì Dương động mà Âm tĩnh, Âm sinh ở trên. Tại Địa thì Dương tĩnh mà Âm động, Dương sinh ở dưới. Thăng giáng gây nên sự biến hóa. Thăng chủ sinh, giáng chủ tiêu. Do vậy, vạn vật đều phản sinh.

...

HÒA

Vạn vật luôn luôn sống động theo những hòa điệu nhịp nhàng. Heraclitus, nhà triết học cổ Hy Lạp, cho rằng tính năng động tuần hoàn của những cặp siêu lực đối nghịch là nguyên nhân của sự sống động của vũ trụ

Triết học Đông phương cũng có niềm tin tương tự. Triết học Trung Hoa cho rằng vạn vật luôn luôn biến hóa năng động nhịp nhàng giữa hai thái cực âm dương. Triết học Phật giáo thì có đạo trung dung biểu hiện qua Bát Chánh Đạo.

Khái niệm về một vũ trụ hài hòa và sống động cũng được biểu hiện trong những triết học cận đại. Saint-Simon nhìn những lịch sử văn minh nhân loại như những xen kẻ giữa những thời kỳ “hữu cơ” và những thời kỳ “khủng hoảng”. Herbert Spencer nhìn vũ trụ như đang biến đổi theo những thời kỳ thăng trầm hợp tan. Hegel thấy lịch sử nhân loại phát triển theo hình xoắn ốc từ hợp nhất đến phân hóa rồi trở lại hợp nhất ở một mức độ cao hơn. Toynbee thấy được những thăng trầm tuần hoàn của các nền văn minh nhân loại. Sorokin thấy được sự thăng trầm tuần hoàn của những nền triết học duy vật và duy linh.

Đạo, là quá trình biến đổi liên tục của vũ trụ, trong đó vạn vật biến đổi hài hòa trật tự giữa hai thái cực âm dương. Khi dương thịnh, sự biến hóa sẽ có khuynh hướng về âm. Tương tự, khi âm thịnh, sự biến hóa sẽ có khuynh hướng về dương. Âm dương điều hòa chính là Đạo. Những thái cực âm và dương không phải là hai thái cực riêng rẻ độc lập. Trái lại, chúng là hai giới hạn của một thể thống nhất. Quá trình biến đổi của mỗi hiện tượng hay sự vật là những dao động không ngừng giữa hai thái cực đó. Quá trình của một hiện tượng hay sự vật kể cả chúng ta, dù nam giới hay nữ giới, đều có cả âm tính lẫn dương tính. Dịu dàng, trực cảm, tổng hợp, hợp tác, bảo tồn là những âm tính. Hung hăng, thuần lý, phân tích, cạnh tranh, khai thác là những dương tính. Âm tính và dương tính liên hệ mật thiết với hai loại tâm thức tương ứng trong mỗi chúng ta. Chúng bổ sung lẫn nhau, phản ảnh những tầm nhìn, lời nói, hành động của chúng ta.

Xã hội đương thời của chúng ta dường như đang ở vào thời kỳ dương thịnh, một xã hội dựa trên phát triển khoa học kỹ thuật để cạnh tranh khai thác tài nguyên thiên nhiên, làm ô nhiễm và gây hại môi trường sống. Phương pháp phân tích dường như vẫn được tận dụng so với phương pháp tổng hợp. Điều này làm xã hội mất đi sự hài hòa âm dương, do đó trì trệ sự phát triển trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, y học, kinh tế, chính trị, quân sự, v.v.

Sự nhấn mạnh vào triết học Descartes phân chia ranh giới giữa tri thức và vật chất đã dẫn đến quan điểm trong đó vũ trụ được xem như một hệ thống cơ khí với những vật thể được xem như những bộ phận riêng rẻ. “Cái tôi” của mỗi người được dựng nên như để tượng trưng cho phần hồn của mình với đầy đủ đầu óc phán đoán suy luận. Phần xác được xem như thứ yếu. Dần dần con người quên đi cái bản chất thực sự của suy tư là, không những xuất phát từ toàn bộ con người chúng ta mà còn từ môi trường chung quanh chúng ta nữa. Từ đó, chúng ta xem cơ thể chúng ta như những chiếc máy cơ khí, và xem thiên nhiên quanh chúng ta như độc lập với chúng ta, cần được chế ngự và khai thác triệt để.

Chúng ta tin rằng tính chất cục bộ có thể hoàn toàn xác định tính chất của toàn bộ. Do đó, chúng ta xem nhẹ mối tương quan mật thiết giữa những cơ cấu xã hội như giáo dục, văn hóa, y tế, kinh tế, chính trị, quân sự. Chúng ta xem trọng phẩm lượng và xem nhẹ phẩm chất. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng tương tự, các nhà nghiên cứu dường như xem những ngành chuyên môn khác không dính dáng gì đến ngành mình đang nghiên cứu. Môn hình học vị tướng chẳng hạn, trước đây được xem như một sản phẩm thuần túy của trí tuệ, độc lập với các ngành nghiên cứu khoa học. Bây giờ họ đã thấy tầm quan trọng của hình học vị tướng được áp dụng hữu hiệu trong nhiều ngành khoa học.

Thời xưa, thiên nhiên và nhất là địa cầu được xem như một người mẹ hiền hòa nuôi dưỡng chăm sóc sự sống trên địa cầu. Cổ Hy Lạp có nữ thần Gaia tượng trưng cho mẹ địa cầu. Vào thời cận đại, dương thịnh âm suy, thiên nhiên và mẹ địa cầu bị thống trị. Nam giới chiếm ưu thế. Capra cho rằng quan điểm này được Do Thái giáo và Ky Tô giáo ủng hộ, và do đó Thượng Đế được nhân cách hóa thành một nam giới, thống trị thiên nhiên bằng những định luật nhiệm mầu với những suy lý và quyền lực tối cao. Những định luật khoa học tự nhiên được xem như phản ảnh của những định luật nhiệm mầu đó của Thượng Đế. Ngày nay, thời dương thịnh đó dường như đã đạt đến mức tối đa và đã bắt đầu suy thoái. Nhiều người không còn tin rằng Thượng Đế là một nam giới đầy phép nhiệm mầu nữa. Kaku cho rằng sở dĩ khoa học và tôn giáo khó thông cảm nhau bởi vì khoa học tin vào một “thượng đế của trật tự” trong lúc tôn giáo tin vào một “thượng đế của phép lạ”.

Dường như văn minh nhân loại đã chuyển mình hướng về sự điều hòa âm dương. Đã đến lúc phân tích cần được phối hợp với tổng hợp, cạnh tranh phối hợp với hợp tác, thuần lý phối hợp với trực cảm, khoa học phối hợp với tôn giáo, nam tính phối hợp với nữ tính, văn hóa phối hợp với sinh hóa, v.v.

Tâm Đàn.

...

Lời của Đại tượng truyện 64 quẻ Dịch luôn hướng tới HÒA.

Tâm cảm.

...

Tự nhiên vốn tĩnh, đó là gốc của Đạo. Tĩnh sinh ra động, thế rồi Động sinh ra Trời Đất, mà sinh ra muôn loài. Vạn vật đoạt Khí của Trời Đất, con Người đoạt chất của vạn vật, vạn vật đoạt Khí lực của con người. Đây có phải cái lý tương sinh, tương dưỡng, tương thành của Tam tài: Trời Đất Người. (?) Có thể, Đạo Tam tài là kết cấu tạo nên một quái Dịch, có cấu tạo ba Hào. (!) Tâm sự.

...

DỊCH HỌC HỌ HÙNG VIẾT:

Tam Tòa hay Tam Tài

Tòa trong tiếng Việt có nghĩa là đơn nguyên, Thiên Chúa tam ‘tòa’ tức Thiên chúa ba ‘ngôi’. Tòa nhà tức một khối nhà. Chu Dịch viết rất giản đơn: Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái … có người gọi đó là Dịch, thực ra đó chỉ là phương pháp luận Dịch lý chứ không phải là Dịch học.

1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8 chính là định luật sóng đôi mà ta đã nói tới. Ngoài sự diễn biến theo qui luật trên Dịch học còn có một loại hình diễn biến khác.

1 → 3 → 5 → 9

thái cực → tam tài → ngũ hành → cửu trù

1 cục →3 tòa → 5 hình → 9 chỗ

Ở lưỡng ngôi ta có 2 thành phần hợp tác với nhau để sinh thành. Con người đầu đội trời, chân đạp đất như vậy con người đứng giữa, ở trung tâm đúng nghĩa chữ nhân; do mối tương quan tay ba.

Xã hội < = > Con người < = > Tự nhiên.

Một bên là tương quan: người – xã hội; bên kia là tương quan: người – tự nhiên thông qua trung tâm là con người, 2 mối tương quan này trở thành ràng buộc của nhau, chế độ xã hội phải phù hợp với mối quan hệ người – tự nhiên. Tức trình độ khoa học và công cụ kỹ thuật. Tam tài có tính mẫu mực là Thiên Nhân Địa, vẫn được dùng để tôn cao địa vị con người ngang với trời đất. Thiên là những yếu tố vô hình, địa là những yếu tố hữu hình cụ thể. Năng lượng, ánh sáng đến từ vũ trụ hợp với các nguyên liệu từ đất tạo thành cây cỏ thực vật, đến khi có sự tham gia của bàn tay khối óc con người thành ra sự kết hợp tay ba: Thiên – Nhân – Địa và nền nông nghiệp ra đời từ sự kết hợp đó. Sự ra đời của kỹ thuật trồng trọt được Dịch học đánh giá rất cao trong hào Nhị quẻ Kiền: “hiện long tại điền lợi kiến đại nhân” nếu dịch là “rồng hiện trên mặt ruộng kiến (gặp) đại nhân thì có lợi” chỉ đúng về mặt chữ còn đối với Dịch học thì coi như vô nghĩa. ý nghĩa câu trên theo kiến giải Dịch học là: “con người trở nên người lớn tức vượt qua thời người nguyên thủy khi bắt đầu biết trồng trọt, lúc chấm dứt sự phụ thuộc hoàn toàn vào giới tự nhiên cũng là lúc xuất hiện thần tính (được ví như con rồng) khiến con người vượt trên mọi sinh vật, sánh ngang cùng trời đất. Cặp từ Thiên và Địa không nhất thiết phải là trời và đất như ở trên ta đã nói đến: trời chỉ các yếu tố vô hình, đất là những gì cụ thể, có thể nắm bắt được. Thí dụ: trong công thức nổi tiếng về binh pháp: ‘thiên thời – địa lợi – nhân hòa’, thì thiên đâu có nghĩa là trời mà là thời cơ lịch sử, địa là điều kiện vật chất đang thủ giữ, còn nhân là lòng người, lòng quân và lòng dân, yếu tố quan trọng nhất. Trong Tam tòa thì Tòa Nhân luôn luôn là quan trọng nhất, có một thế giới gọi là khách quan vận động một cách mù lòa, vô hướng, vô nghĩa; tất cả những giá trị xuất phát từ thế giới ý thức, vũ trụ trở nên có “giá trị” từ khi nó được phản ánh bằng thông tin vào não con người và được chính con người ban cho phần giá trị để trở thành 1 phần của thế giới đã được định hướng.

Ở Âm mà vô Âm, Âm do đó được sinh ra. Ở Dương mà vô Dương, Dương do đó mà hình thành. Khi nói "nhất Âm nhất Dương", tuy là hai Khí, xong thường lấy cái nhất làm Đạo ở hư vô để sử lý. Theo thuộc tính riêng của vạn vật, khi ta làm một chiếc bàn gỗ, đứng ở quan điểm gỗ là "phá", nhưng đứng ở quan điểm cái bàn là "thành". Như vậy, "phá" và "thành" cũng là tương đối ở trong tình trạng biến đổi không ngừng, như Dịch đã bàn đến.

Nhất Tĩnh - Tam Động - Ngũ ứng - Cửu thông.

Có cách nào để bốc dịch chính xác hơn

Hà Uyên mới tham gia vào diễn đàn này, với những bầy tỏ của Liêm Trinh, trong quá trình nghiên cứu vì sự yêu thích cá nhân của mình, Hà Uyên xin được chia sẻ cùng Liêm Trinh.

Chắc Liêm Trinh cũng hiểu cấu tạo của quẻ Dịch có 6 hào, khi một hào (hay nhiều) động, thì đều phải trải qua 10 quá trình. Ví dụ: quẻ Trạch Sơn Hàm động hào 2:

- Ta coi quẻ Trạch Sơn Hàm là số 1, theo thứ tự đến số 2 là quẻ Quan hào 3, đến số 3 là quẻ Tỷ hào 4, đến số 4 là quẻ Khôn hào 5, đến số 5 là quẻ Bác hào 6, đến số 6 là quẻ Di hào 1, đến số 7 là quẻ Tổn hào 2, đến số 8 là quẻ Đại súc hào 3, đến số 9 là quẻ Đại hữu hào 4, đến số 10 là quẻ Càn hào 5, đến số 11 là quẻ Quải hào 6, và cuối cùng đến số 12 là quẻ Đại quá hào 1.

- Như vậy, khi độn được 1 quẻ như ví dụ trên, quá khứ đã để lại cho chúng ta: hào âm biến thành hào dương, hào dương biến thành hào âm, gieo quẻ được quẻ Hàm hào 2 được quẻ Đại quá.

- Khi ta coi quẻ Hàm là "đầu", thì quẻ Đại quá là "cuối", nhưng thực chất bên trong đã phải trải qua 10 quá trình (10 quẻ)

- Trong 10 quá trình phải trải qua này, có 2 quẻ động đến hào 6, đó là quẻ Bác theo thứ tự là số 5 và quẻ Quải theo thứ tự là 11. Vấn đề ở đây, tại sao Kinh Phòng khi quy nạp quẻ theo Ngũ hành, thì không cho biến động đến hào 6?

- Khi từ quẻ cuối cùng có số thứ tự là 12, là quẻ Đại quá, ta tiếp tục cho động hào 2 thì lại trở về quẻ ban đầu là Trạch Sơn Hàm hào 2. (1 = 13)

Như vậy, theo Liêm Trinh, thông tin được bộc lộ từ quẻ Dịch, chúng ta sẽ chon lựa điểm dừng ở đâu?

Mỗi một hào quẻ Dịch luôn chuyển hóa 12 lần, một quẻ có 6 hào, vậy một quẻ Dịch có 72 sự chuyển hoá. Do vậy 64 quẻ Kinh Dịch sẽ có 4608 sự chuyển hoá.

Mong được chia sẻ cùng Liêm Trinh, có thể chưa được sự đồng cảm, cũng mong sao Liêm Trinh góp ý thêm.

...

Cùng được bộc lộ thêm với Liêm Trinh, khi Hà Uyên có nói: 1 = 13 Tulokho có 52 quân bài (bỏ 2 fan), khi chia làm 4 thì được 4 phần, mỗi phần có 13 con bài, nếu ta coi f - q - k - a có trị số bằng 1 (f = q = k = A = 1). Chia 52 quân bài làm 2 phần bằng nhau (52/2=26). Lấy 1 phần có 26 quân bài, rút 1 quân bài xem. Xem xong, trộn đều 52 quân, thì ta vẫn tìm được con bài mà ta đã rút ra xem. Người Ấn độ nói: muốn học lập trình ở đất nước họ, thì phải hiểu văn hóa dân tộc của họ. Hà Uyên thấy có mối liên hệ giữa Kinh Dịch và 52 quân bài. Liêm Trinh có nghĩ như vậy không?

..

Vâng, chào Liêm Trinh.

Để thống nhất được với nhau về phương pháp tính toán, Hà Uyên xin được trình bầy theo quan điểm của mình, mong rằng các anh chị, cùng Liêm Trinh chia sẻ:

- Khi bốc Dịch được một quẻ, ta coi là số 1, thì quẻ số 7 luôn luôn là quẻ "đối phản".

Theo ví dụ mà Hà Uyên đã trình bầy, bốc Dịch được quẻ Trạch Sơn Hàm hào 2, thì quẻ thứ 7 là quẻ Sơn Trạch Tổn, cũng động hào 2 (Thất sát)

- Sự thông "khí" của hào động

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Hàm thuộc cung Đoài - Kim, động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ, theo thứ tự của 12 quẻ, sẽ có quá trình tiệm tiến thông tin như sau:

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ.

2- Trạch Địa Tụy hào 2 là Quan quỷ Tị.

3- Thủy Địa Tỷ hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

4- Thuần Khôn hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

5- Sơn Địa Bác hào 2 là Quan quỷ Tị

6- Sơn Lôi Di hào 2 là Thê tài Dần (Huynh đệ)

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Mão (Huynh đệ)

8- Sơn Thiên Đại súc 2 là Thê tài Dần (Quan quỷ)

9- Hỏa Thiên Đại hữu hào 2 là Thê tài Dần

10- Thuần Càn hào 2 là Thê tài Dần

11- Trạch Thiên Quải hào 2 là Thê tài Dần

12- Trạch Phong Đại quá hào 2 là Tử tôn Hợi (Phụ mẫu)

Theo như quá khứ đã cho chúng ta biết, Quan quỷ động hóa Tử tôn, nhưng quẻ thứ 7 lại cho chúng ta thông tin về Thê tài. Thông qua quá trình trải nghiệm với nhiều môi trưỡng và lĩnh vực khác nhau, Hà Uyên cũng nhận thức được một số quy luật, xin được trình bầy sau.

- Sự thông "khí" của quẻ Dịch

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Trạch Sơn Hàm (không xét thuộc cung Đoài - Kim), động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ

2- Trạch Địa Tụy hào 3 là Huynh đệ Dậu

3- Thủy Địa Tỷ hào 4 là Tử tôn Thân

4- Thuần Khôn hào 5 là Thê tài Hợi

5- Sơn Địa Bác hào 6 là Thê tài Dần

6- Sơn Lôi Di hào 1 là Phụ mẫu Tý

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Dần

8- Sơn Thiên Đại súc hào 3 là Huynh đệ Thìn

9- Hỏa Thiên Đại Hữu hào 4 là Huynh đệ Dậu

10- Thuần Càn hào 5 là Huynh đệ Thân

11-Trạch Thiên Quải hào 6 là Huynh đệ Mùi

12- Trạch Phong Đại quá hào 1 là Thê tài Sửu

Khi ta lấy quẻ thứ 7 là quẻ Sơn Trạch Tổn làm "Trung Tâm", từ vị trí thứ 7 ta tiệm tiến thuận 7-8-9-10-11-12 và tiệm tiến nghịch 7-6-5-4-3-2-1, ta sẽ có 2 phương pháp để suy luận thông tin.

Hà Uyên xin phép sẽ cùng luận bàn sau.

...

Hà Uyên xin được trình bầy tiếp:

- Khi bốc được quẻ Dịch, ta coi là số 1 tương ứng với cung Tý, thì quẻ số 7 sẽ tương ứng với cung Ngọ. Tại thời điểm khi bốc quẻ, đồng thời ta bấm số Tử vi, sau đó ta an 12 quẻ theo thứ tự. Thì nẩy sinh rất nhiều điều kỳ lạ về thông tin. Liêm Trinh thử nghiệm cùng nhé.

- Kinh Phòng khi nạp Ngũ hành vào quẻ không cho "khí" Dịch phát triển đến hào 6. Hà Uyên sẽ trình bầy quan điểm ở một chuyên đề khác nhé.

...

- Sự thông "khí" của hào động

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Hàm thuộc cung Đoài - Kim, động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ, theo thứ tự của 12 quẻ, sẽ có quá trình tiệm tiến thông tin như sau:

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ.

2- Trạch Địa Tụy hào 2 là Quan quỷ Tị.

3- Thủy Địa Tỷ hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

4- Thuần Khôn hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

5- Sơn Địa Bác hào 2 là Quan quỷ Tị

6- Sơn Lôi Di hào 2 là Thê tài Dần (Huynh đệ)

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Mão (Huynh đệ)

8- Sơn Thiên Đại súc 2 là Thê tài Dần (Quan quỷ)

9- Hỏa Thiên Đại hữu hào 2 là Thê tài Dần

10- Thuần Càn hào 2 là Thê tài Dần

11- Trạch Thiên Quải hào 2 là Thê tài Dần

12- Trạch Phong Đại quá hào 2 là Tử tôn Hợi (Phụ mẫu)

13- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ

..

Hà Uyên tản mạn thêm. Khi bốc được quẻ Dịch, ta coi là số 1 tương ứng với cung Tý, thì quẻ số 7 sẽ tương ứng với cung Ngọ. Tại thời điểm khi bốc quẻ, đồng thời ta bấm số Tử vi, sau đó ta an 12 quẻ theo thứ tự 12 cung từ Tý, Sửu,..., đến cung Hợi. Như chúng ta đã biết, tổng số tối đa của môn Tử vi chỉ có 512640 bảng là số. Khi áp dụng mối quan hệ thông tin giữa Tử vi và Bốc Dịch, thì thống kê được: 512 640 x 4 608 = 2 052 245 120 So sánh với 6 tỷ người, mức độ tin cậy cần phải thống kê thêm.

...

Xin chào các Anh các Chị trên diễn đàn. Hà Uyên chào VIETHA. Quá trình nghiên cứu những gì Người xưa để lại, với sự đam mê tìm hiểu của mình mang tính cá nhân, Hà Uyên trong mục đích, không mang tính chuyên nghiệp. VIETHA có viết: "nguyên tắc trong gieo quẻ Dịch là: Tâm không động không được gieo, nếu gieo quẻ thì không chính xác". Xét về Ngôn ngữ học, tại thời điểm quyển sách được viết ra cho tới ngày hôm nay, đã để lại những "quy định" cho mỗi một người khi đọc, tiến tới thử nghiệm, rồi trải nghiệm, đều có những đắng cay riêng. Xét về mặt "thời gian", từ Tiêu Diên Thọ, Kinh Phòng, Trần Đoàn, Thiệu Ung cho tới Thiệu Vĩ Hoa, cũng chỉ có mấy con người để lại những kiến thức mà chính chúng ta đang quan tâm. Hà Uyên cũng có tìm hiểu về: thế nào là "Tâm không động"? Hà Uyên đọc, trong đó có quyển HUỲNH ĐÌNH KINH dịch từ nguyên tác tiếng Đức, cũng thấy rất nhiều vấn đề cần phải bàn về "TÂM" động và không động. Hà Uyên thấy rất lạ, một Người đàn ông quốc tịch Đức ở Thế kỷ 16, sau khi nghiên cứu về Thiệu Ung, lại thấy đồng cảm và đồng thuận về HỆ NHỊ PHÂN. Và ngày hôm nay, chính chúng ta đang được hưởng những lợi ích hết sức to lớn. Vấn đề VIETHA quan tâm là một khoảng trời rộng lớn, Hà Uyên xin phép được chia sẻ khi chúng ta cùng đồng thời có một sở thích.

...

Chào Liêm Trinh Cảm ơn Liêm Trinh đã dành thời gian cho Hà Uyên. Khi giao lưu trên diễn đàn này, Hà Uyên không hề có ý gì về "mưu lược". Hà Uyên chỉ bộc lộ quan điểm của mình: tại sao Trần Đoàn lại cấu tạo 12 cung trong môn TỬ VI, tại sao THÁI ẤT lại có cấu tạo 16 cung? Hà Uyên đã nhận thức được KINH DỊCH là gốc nguồn của các môn học thuật: 1 = 13. Tại sao Trần Đoàn trong môn TỬ VI, vòng Tứ hóa: LỘC-QUYỀN-KHOA-KỴ lại căn cứ vào Can của Năm để an sao.? Năm nay 2009 - Kỷ Sửu, Hóa kỵ an theo GIỜ, như vậy vào giờ Thân chiều nay, Hà Uyên gặp Hóa Kỵ rồi.

...

dichnhan07, on May 5 2009, 05:34 PM, said:

Bàn về Mai Hoa Dịch Số, trong lòng có thắc mắc nghi vấn điều gì đó đã có thể coi là Tâm động, giả sử có người cho rằng Tâm mình vẫn chưa thật động, chẳng lẽ lại phải đi cầu cho Tâm động thật mạnh hay sao?. Lập quẻ xong, nếu chỉ căn cứ vào quẻ đó thì e rằng phiến diện chủ quan nên cần thêm các phương pháp hỗ trợ đảm bảo, đó là Tam Yếu và Thập Ứng. Mai Hoa Dịch Số chỉ nói tới các sự việc bất thường, xem việc gần mà biết việc xa. Luận sự việc không nhiều được như lục hào hay các môn khác nhưng để trắc nghiệm một điều nghi vấn thì rất tiện lợi. Nói không luận được nhiều đó là nói về phương pháp lấy quẻ chủ động chứ không phải theo như các quẻ ví dụ trong sách Mai Hoa Dịch Số, phương pháp khác nhau do lý dùng khác nhau, điều này cần phải phân biệt rõ.

Vâng, xin chào dichnhan07.

Thú thực, Hà Uyên hầu như rất ít khi BỐC DỊCH, mà đã dành thời gian rất nhiều để tự trả lời với chính mình rằng: Tại sao (?) "Quá khứ - Hiện tại - Tương lai", khi nào thì hội tụ thành 1, có nghĩa là:

Quá khứ + Hiện tại + Tương lai = 1

Có thể, chỉ có như vậy, thì các môn Học thuận mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta một sân chơi, mà không biết bao nhiêu Thế hệ, đều có rất nhiều Người đã dành THỜI GIAN về chủ đề này.

Khi đã và đang có số " 1 ", loài Người lại luôn luôn hướng về số " 0 "

Cảm ơn dichnhan07.

...

Liêm Trinh viết "Tôi gieo một que đơn thấy Hà uyên suất hiện ở diễn đàn vào vào đoài cung". Theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, thì Hà Uyên có thể tính như sau: Số người đã đăng ký tham gia diễn đàn LYHOCDONGPHUONG, tới lượt Hà Uyên là 3717. Hà Uyên lấy 3717 chia cho 64, số dư còn lại là 5. Số của Năm-Tháng-Ngày-Giờ mà Hà Uyên đăng ký tham gia lam Tổng chia cho 6 tìm hào động. - Theo Tiên thiên thì 5 là số thứ tự của quẻ Phong Thiên Tiểu súc. - Theo Hậu thiên, thì số 5 bao gồm những quẻ: theo thứ tự như sau: Tiểu súc - Tổn - Vô vọng - Đỉnh - Hoán - Thuần Cấn. Liêm Trinh thấy Hà Uyên theo phương pháp này có được không?

...

Dear Liêm Trinh. Một tâm sự! Trước khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, số người đã đọc bài viết của Liêm Trinh là (ví dụ là:...), sau khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh, thì số người đã đã đọc bài viết này, tại thời điểm này là (ví dụ:... lượt đọc). Đây là một chủ đề mà Hà Uyên đang rất quan tâm, sẽ dành phần nhiều giời gian để tìm hiểu về chủ đề này. Trước khi TA sinh ra, đã tồn tại bao nhiêu Người? Sau khi TA sinh ra, sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao nhiêu NGƯƠI nữa? Trước khi ÂM gặp DƯƠNG, hoặc trước khi DƯƠNG gặp ÂM, sau khi ÂM gặp DƯƠNG hay sau khi DƯƠNG gặp ÂM, điều gì sẽ đến với chúng ta? Mong Liêm Trinh đừng hiểu sai ý nghĩa của sự giao lưu giữa hai chúng ta, Hà Uyên chỉ lấy "số lượt người đã đọc" (làm Hình - Tượng) mà làm một ví dụ thôi.

...

Xin chào các anh chị trên diễn đàn. Hà Uyên chào VanTrungHac. Khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, Liêm Trinh có nói: "...thống nhất về phương pháp tính..." Quá khứ mà "Cổ nhân" đã để lại cho mỗi người yêu thích về những môn học thuật này, đối với Hà Uyên còn nhiều trăn trở, Hà Uyên chưa dành nhiều thời gian về luận quẻ Dịch. Trước tiên mong VanTrungHac thật sự thông cảm. Hà Uyên đang tập trung vào tìm hiểu về: Nguyên lý cấu tạo các môn Học thuật mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta. Tính chính xác? Độ tin cậy? Tại sao lại "quy định" như vậy?. Hà Uyên.

...

Chào Liêm Trinh Khi Liêm Trinh nói: "Làm thế nào để BỐC DỊCH chính xác hơn" Hà Uyên xin kể lại: Những người đi trước đã hướng dẫn cho Hà Uyên: tư duy về "tượng quẻ trước". Sau đó mới tư duy về "Lục thân". Ví dụ: khi Bốc Dịch được quẻ Trạch Sơn Hàm hào 2 được quẻ Trạch Phong Đại quá - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Dịch: quẻ Hàm tượng trưng cho sự giao cảm. Quẻ Đại quá tượng trưng cho sự quá mức - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Phòng, Bốc phệ chính tông, Tăng san bốc dịch: quẻ Hàm có tượng "Manh nha xuất thổ", rồi đến quẻ Đại quá có tượng: "Dạ mộng kim ngân" Cũng phải mất đến 8 tháng hay một năm sau, Hà Uyên mới thuộc được tượng của 64 quẻ, và cảm nhận được một phần nào đó về ý nghĩa của "tượng quẻ". Mặc dù tại thời điểm đó, Hà uyên trong lòng vẫn thích xác định được hào động, tìm lục thân, an Thế - Ứng, tìm dụng thần,... Bước thứ hai là: đi sâu vào phân tích 8 quẻ "bát thuần", khi Kinh Phòng đưa Ngũ hành vào nạp cho hào quẻ Dịch. Đây là bước quan trọng, mối quan hệ "mẹ - con"? từ quẻ Mẹ với 7 quẻ con? Hình thành một phương pháp tư duy cho mỗi người, thì các nước phát triển đã làm rất có hiểu quả. Phương Tây hình thành một phương pháp sư phạm chuẩn mực cho loài người. Từ cá nhân Hà Uyên, một chia sẻ kinh nghiệm, một người Hà Uyên giao lưu đầu tiên trên diễn đàn (số "1")

...

Hà Uyên trao đổi tiếp tục Mỗi chúng ta, không ai có thể làm đảo lộn được trật tự của thời gian. Từ đây, chắc rằng cũng rất ít người làm thay đổi được quá trình nhận thức của mỗi một cá nhân. Ví như, Hà Uyên không thể tự cho mình dùng kiến thức của học sinh lớp 4, mà chưa qua quá trình nhận thức của lớp 1, lớp 2. Cũng ví như, Hà Uyên và Liêm Trinh giao lưu trên diễn đàn lyhocdongphuong, được gọi là "số 1", thì đến vị trí thứ 5, Hà Uyên giao lưu với anh Thiên Sứ, số "5" được coi như vị trí "Trung tâm" của Hà - Lạc. Giả thiết như Hà Uyên có "mưu lược" như Liêm Trinh đã nói, từ cái "ngẫu nhiên" để biến thành cái "tất nhiên", thì đương nhiên đến người thứ năm Hà Uyên giao lưu, là anh Thiên Sứ. Vị trí của Trung tâm. Một đặc trưng cơ bản của BỐC DỊCH, là "dụng thần" lại do đối tượng Khách quan quy định, trên nền giao lưu của Hoàng đế Nội kinh: Hoàng đế hỏi - Kỳ Bá trả lời. Làm thế nào để bốc dịch được chính xác?, Ai là Hoàng đế, ai là kỳ bá? Ai là Âm, ai là dương? Giả thiết là Liêm Trinh chủ động giao lưu với Hà Uyên, như vậy Liêm Trinh là Dương mà Hà Uyên là Âm, nhưng thực tiễn thì Hà Uyên chủ động chào Liêm Trinh, như vậy thì Hà Uyên là âm chủ động gặp dương. Vậy thì, chưa thể dùng một mình hào động làm nguyên nhân "gốc" để xác định thông tin.

...

Tại sao lại như vậy? Khi Hoàng đế hỏi, có nghĩa rằng Hoàng đế động, tại sao lại coi là Hoàng đế động? Vì Hoàng đế có thắc mắc ở trong lòng mà chưa hiểu, như vậy là bên trong của Hoàng đế động, có thể coi như "Nội quái động" mà "Ngoại qoái tĩnh", cũng có nghĩa Hoàng đế là Dương gặp Âm vậy. Như vậy, ta có thể nói Dương động - Âm tĩnh được không?

...

Khi Hà Uyên chọn thông số ban đầu để tính, là căn cứ theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, lấy "số thứ tự" của Hà Uyên khi tham gia vào diễn đàn là 3717, chia cho 64 quẻ, được số 5. Lấy Năm-Tháng-Ngày-Giờ khi Hà Uyên đăng khí tham gia làm Tổng chia cho 6 tìm hào động.

- Đối với Hà Uyên, thì số 5 theo Tiên thiên là quẻ Phong Thiên Tiểu súc.

- Với diễn đàn này, thì số 5 được hiểu như thế nào đối với Hà Uyên? Vì sự giao lưu là: Liêm Trinh --> VIETHA --> dichnhan07 --> VanTrungHac --> Thiên Sứ (thực ra còn Như Thông nhưng vì Hà Uyên chưa giao lưu). Số 5 đối với Hà Uyên là anh Thiên Sứ.

Theo Nguyên lý vị trí: Vị trí trung tâm 5 - 10, thì Hà Uyên chọn giải pháp ứng xử theo "Đại cục", có nghĩa là, từ "Trung tâm", Hà Uyên tôn trọng nguyên tắc: Tìm về cội nguồn.

...

Chào Liêm Trinh

Thực tình, Hà Uyên chủ động chọn cách viết, khi chúng ta trao đổi trên diễn đàn, không phải là vì viết nhiều.

Hà Uyên trở lại với chủ đề: Có cách nào để bốc dịch chính xác hơn? Trên tinh thần: Tìm về cội nguồn.

Cội nguồn của Bốc Dịch, có thể bắt đầu từ Kinh phòng. Ông nói:"Dương thắng âm là tráng, tráng cực tắc phản ở âm".

Trong 64 quẻ của Kinh Dịch, thì có 3 quẻ nói về số 7, quan trọng hơn cả là quẻ Địa Lôi Phục. Tại sao lại nói đến số 7?

Quy luật của tự nhiên đã để lại cho người phương Đông thích ứng theo thời gian: cứ 19 năm thì có 7 năm có tháng nhuận.! Thời gian vẫn cứ tiếp tục trôi, khi chúng ta phải chấp nhận: tháng nhuận = "0", trong quá trình tính tháng nhuận cho chu kỳ 19 năm. (19 - 7 = 12, hoặc 7 + 12 = 19).

Kinh Phòng đưa ra thuyết Ngũ hành nạp vào Hào của quẻ Dịch, cũng vẫn trên nguyên lý của Kinh Dịch: số 7

Ví dụ: quẻ Thuần Càn, là quẻ Cha - Mẹ, khí Dịch bắt đầu từ hào 1

1- Thuần Càn hào 1

2- Thiên Hoả Đồng nhân hào 2

3- Thiên Lôi Vô vọng hào 3

4- Phong Lôi Ích hào 4

5- Sơn Lôi Di hào 5

6- Địa Lôi Phục hào 6

7- Thuần Khôn hào 1

Từ quẻ Thuần Càn hào 1, đến quẻ thứ 7 là quẻ Thuần Khôn, thì hào 1 là hào Dương quẻ Càn mới biến thành hào 1 là hào Âm quẻ Khôn. Tiếp tục từ quẻ Thuần Khôn khí Dịch lại bắt đầu từ hào 1:

7- Thuần Khôn hào 1

8- Địa Thuỷ Sư hào 2

9- Địa Phong Thăng hào 3

10- Lôi Phong Hằng hào 4

11- Trạch Phong Đại quá hào 5

12- Thiên Phong Cấu hào 6

13- Thuần Càn hào 1

Quẻ Thuần Càn khí Dịch bắt đầu từ hào 1, thì đến quẻ thứ 7 hào 1 dương biến thành âm, và đến quẻ thứ 12, thì "thể" của quẻ Thuần Càn trở lại ban đầu, duy nhất chỉ có hào 1 biến đổi dương thành âm. Ta có thể viết như sau:

1 -> 2 -> 3 -> 4-> 5 -> 6 -> 7 -> 8 -> 9 -> 10 -> 11 -> 12 -> 13

Như vậy: 1 = 13

Khi ta chấp nhận quẻ số 7 là quẻ "Trung tâm". Từ quẻ số 2 đến quẻ số 6 bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Tý -> Giáp Thân. Từ quẻ số 8 đến quẻ số 12 cũng bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Ngọ -> Giáp Dần. Mối quan hệ Lục thập hoa giáp với 60 hào này như thế nào? Vấn đề Giáp Tý bắt đầu khởi từ đâu?

Hà Uyên đang ở hào 3 quẻ Thuần Càn, khi cộng thêm với 7 thì ở hào 4 quẻ Thuần Khôn: "Thắt chặt miệng túi".

...

Liêm Trinh nói: "Đây là vấn đề hóc búa nhất và cũng cần giải quyết nhất vì nó liên quan đến đông y học cứu người. Liêm trinh đã mất không ít thời gian tìm cơ sở khoa học cho vấn đề này mà chưa tìm ra. Trong ứng dụng thực tiễn trên hệ tính toán Liêm trinh thấy hình như hệ này không nhất quán."

Như vậy, chúng ta cùng bắt tay nhau, tiến thêm một bước nữa xem xét lại từ đầu: những cống hiến của Kinh Phòng, để trả lời cho câu hỏi: có cách nào để bốc dịch được chính xác hơn?

Việc này, Liêm Trinh chủ động mở chủ đề mới, Theo Hà Uyên, chủ đề nên tập trung vào thế hệ đi trước chúng ta "một đời", tức là theo cách nói của Kinh Phòng, là quẻ Bố - Mẹ --> Càn - Khôn

...

Hà Uyên xin chào các anh chị trên diễn đàn Chào VinhL

Trước khi chúng ta trao đổi học thuật, chúng ta xem lại bối cảnh Lịch sử giai đoạn khi xuất hiện Thiệu Ung. Bắt đầu từ Khổng Tử, Ông nói: "Đồng Đồ nhi thù quy" (nghĩa cùng một dòng mẹ mà chia làm hai dòng con vậy). Tại thời điểm này, hình thành hai trường phái: phái tượng số và phái nghĩa lý. Phái Tượng số có quan hệ mật thiết với khoa học tự nhiên, còn phái Nghĩa lý lại có mối quan hệ chặt chẽ với khoa học xã hội. Trong Lịch sử, hai trường phái này, là một "thể" thống nhất của cặp mâu thuẫn. Trong Kinh Dịch có viết: "Quan vật thủ tượng" (xem vật lấy tượng). Trong Dịch truyện có viết: "Quan tượng thủ nghĩa" (xem tượng lấy nghĩa). Chiêm phệ chỉ là một bộ phận của phái Tượng số, nhưng "chiêm phệ" có vai trò quan trọng trong việc ứng dụng và lưu truyền, nó có ý nghĩa truyền bá rộng và sâu cho Kinh Dịch. Thiệu Khang Tiết là người đại diện tiêu biểu cho phái Tượng số, phương pháp "tư duy số " của Thiệu Ung, hình thành một hệ thống, mà nền tảng từ Kinh Dịch, là một đóng góp hết sức to lớn. Như chúng ta đã biết, một người đàn ông quốc tịch Đức thế kỷ 16, Ông không bàn về "tâm" động hay tĩnh, mà Ông đã đồng cảm và đồng thuận với Thiệu Ung về HỆ NHỊ PHÂN. "Số" có hai nghĩa lớn: nghĩa thứ nhất là "âm dương số", ví như số lẻ gọi là dương, số chẵn gọi là âm. Nghĩa thứ hai là "hào số", lấy thứ tự của các "hào", để nói lên mối quan hệ về ngôi vị giữa các sự vật. Đặc trưng là lấy "số" 9 làm số dương, số 6 làm số âm. Do vậy, "tượng" và "số" là nội dung cơ bản của Dịch học, đã được Thiệu Ung phát huy, phát triển lên một tầm cao mới. Đối với quy luật của "thời gian", người Phương Đông xây dựng hệ thống Can - Chi, ngày âm lịch dựa vào chu kỳ của Mặt Trăng, mà hệ quả của hệ thống này là: tháng "nhuận" = "0". Theo Hà Uyên, thì Thiệu Ung đã nghiên cứu rất sâu ở lĩnh vực này, tìm ra những quy luật sai số về "thời gian" giữa mặt Trời với mặt Trăng. Cụ thể là, cứ 19 năm, thì có 7 năm có tháng "nhuận" = "0". Điều này có ý nghĩa rất lớn khi Thiệu Ung xây dựng học thuyết cho mình. Ví dụ: một hào luôn luôn trải qua 12 quá trình (12 quẻ), còn hệ thống Can - Chi, theo Thiệu Ung: 60 x 60 x 60 x 60 = 12 960 000 là một đơn vị tính. Khi Quá khứ + Hiện tại + Tương lai = 1, thì buộc người Phương Đông phải chấp nhận "tháng nhuận", với quy luật của số "7". Thiệu Ung đã căn cứ vào đây, lấy số "7" làm vị trí "trung tâm", làm phương pháp cho tư duy của mình, khi ông tự ngôn. Do vậy, khi VinhL hỏi: Năm-Tháng-Ngày-Giờ để lấy quẻ Mai hoa, sử dụng bao nhiêu quẻ khi một hào động. Theo Hà Uyên thì có 7 quẻ, nhưng thực chất chỉ có 5 quẻ. Tại sao lại như vậy? Có lẽ, Hà Uyên phải dùng "tượng" của Dịch để trả lời: theo Nguyên lý vị trí của "trung tâm", với con số "nhị - ngũ" (2 - 5), nhiệt độ trung bình của con người là 37 độ, khi tiến thêm 5 (37 + 5 = 42), hoặc khi lùi đi 2 (37 - 2 = 35), đây là giới hạn cho sự tồn tại của con người, Hà Uyên qua quá trình trải nghiệm, thấy có tính thực tiễn, nên trao đổi với VinhL như vậy, VinhL có thể kiểm nghiệm thêm. Tại sao Càn 9 Khôn 1? Khi tư duy theo phương pháp của Thiệu Ung, Ông là người đưa ra khái niệm Tiên thiên - Hậu thiện thông qua Động - Tĩnh của âm dương chuyển hoá. Ví dụ, theo Tiên thiên, ta gọi Càn là vị trí số 1 thì cộng thêm với 9 là tới số thứ tự của Thuần Đoài. Như vậy, số "10" là một giới hạn cho sự chuyển hóa từ Càn đến Đoài. Nên Thiệu Ung lấy Tứ tượng xắp xếp như sau: - Thái dương tương ứng với cặp số 4 - 9, trong đó: Càn - 1, Đoài - 4 - Thiếu âm tương ứng với cặp số 3 - 8, trong đó: Ly - 3, Chấn - 8 - Thái âm tương ứng với cặp số 1 - 6, trong đó: Khôn - 1, Cấn - 6 - Thiếu Dương tương ứng với cặp số 2 -7, trong đó Tốn - 2, Khảm - 7 Đây là sự đối đãi giữa những con số, khi xây dựng học thuyết cho Ông. Những trao đổi trên, mang tính cá nhân, mong rằng đây là một sự tham khảo vậy.

...

Hà Uyên đính chính lại: - Thái dương tương ứng với căp số 4 - 9: trong đó Càn - 9, Đoài - 4

(Nguồn: Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Bí ẩn Bình Hoa trong phong thủy

Hiện nay nhiều người thích chơi cá cảnh, từ người bình dân đến các “đại gia”, chẳng có gì lạ… Nhưng có những người yêu phong thủy cũng thích chơi “bình hoa”, nhất là các loại bình hoa cổ hoặc giả cổ, đủ chủng loại và màu sắc, thì chỉ có những người có mức sống từ khá trở lên, hoặc những người ham thích Tổng Hợp những vật lạ mang tính mỹ thuật cao để trang trí nhà cửa cho đẹp.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì vậy đôi khi ta thấy có những ngôi nhà, nơi phòng khách hoặc phòng ngũ đều có trang trí một hoặc nhiều “bình hoa” từ loại vừa đến loai to cao với đũ màu sắc để chiêm ngưỡng…

Thực ra việc chưng bình hoa hoặc biếu tặng bình hoa cho nhau trong những dịp người thân hoặc bạn bè “về nhà mới” với mục đích đầy ý nghĩa tốt đẹp là: Mong cho người thân, hoặc bạn bè của mình được “bình an”, bình an trong chữ bình, đây là cách chơi chữ mang hàm ý tốt đẹp của người châu á chúng ta từ xưa đến nay…

Nhưng ít ai biết được “bình hoa” đã ảnh hưởng đến xem phong thủy như thế nào trong cuộc sống của chúng ta, nhất là việc gây cho chủ nhà ngoại tình trong hôn nhân, khi đặt bình hoa rỗng (không có nước) trên “Đào hoa vị”, như vậy “Đào hoa vị “ trở thành “Đào hoa sát” mà các chuyên gia phong thủy đã dày công tìm ra. Vì vậy ta cần phải biết mà tránh, để khỏi gây mất hạnh phúc gia đình.

1. Phương pháp hóa giải “Đào hoa sát”

- Không đặt bình hoa rỗng trên Đào hoa vị

- Không đặt bể cá không có nước trên Đào hoa vị.

- Nếu không, chủ nhà sẽ có chuyện ngoại tình, không sao bỏ được.

2. Cách tìm Đào hoa vị (Vị trí Đào hoa)

- Nhà hướng Nam, thuộc Hỏa: Thì Đào hoa vị nằm ở hướng Tây.

- Nhà hướng Tây, Tây Bắc, thuộc Kim: Thì Đào hoa vị nằm ở hướng Bắc.

- Nhà hướng Bắc, thuộc Thủy: Thì Đào vị nằm ở hướng Đông.

- Nhà hướng Đông, Đông Nam, thuộc Mộc: Thì Đào hoa vị nằm ở hướng Nam.

- Nhà hướng Tây Nam, Đông Bắc, thuộc Thổ: Thì Đào hoa vị nằm ở hướng Tây.

Chúng ta có thể dùng la bàn đứng ở giửa nhà, thi có thể tìm ra 4 vị trí này. Hướng Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu (Bằc, Nam, Đông, Tây) như trên là 4 hướng chính của Đào hoa vị, 4 hướng này là Đào hoa vị chung tùy theo hướng nhà.

3. Đối với người chưa kết hôn hoặc muộn kết hôn

Người chưa kết hôn hoặc muộn kết hôn, mà muốn gặp Đào hoa vận, thi ngoài 4 hướng chính như trên, cần phải kết hợp năm sinh của một người mới có thể định ra Đào hoa vị của người đó. Mà nên đặt một số vật kích thích tại vị trí này, có thể làm cho vận đào hoa càng mạnh, có thể làm quen được với người bạn đời lý tưởng:

- Tuổi: Hợi, Mẹo, Mùi: Hướng Tý (Bắc) là Đào hoa vị.

- Tuổi: Tỵ, Dậu, Sửu: Hướng Ngọ (Nam) là Đào hoa vị.

- Tuổi: Dần, Ngọ, Tuất: Hướng Mẹo (Đông) là Đào hoa vị.

- Tuổi: Thân, Tý, Thìn: Hướng Dậu (Tây) là Đào hoa vị.

Sau khi biết Đào hoa vị của mình thì tốt nhất NÊN:

- Đặt bể không có cá, nhưng đầy nước lên Đào hoa vị.

- Đặt bình hoa có nước, trong đó chưng hoa tươi, hoặc cây xanh loại trồng trong nước, lên Đào hoa vị.

Hình dáng bình hoa: Tốt nhất là hinh tròn. Bởi vì hình tròn tượng trưng cho sự viên mãn, đầy đủ. Ngoài đặt bình hoa ra, có thể đặt một số con vật tượng trưng cho điềm lành như chim bồ câu, hoặc bức tượng ông tiên.

4. Chọn màu sắc bình hoa theo từng phương vị


Màu sắc bình hoa: Đa số bình hoa đèu có hoa văn màu sắc sặc sỡ, như vậy trong trường hợp này chỉ cần tìm những màu chủ đạo của bình hoa. Bình hoa có màu sắc nhã nhặn thì càng đơn giản.

- Đào hoa vị ở hướng Đông: Đặt bình hoa màu xanh lục.

- Đào hoa vị ở hướng Nam: Đặt bình hoa màu Đỏ, Tím, Cam.

- Đào hoa vị ở hướng Tây: Đặt bình hoa màu Vàng kim (Vàng óng), màu Trắng.

- Đào hoa vị ở hướng Bắc: Đặt bình hoa màu Đen, Xám.

Sau đó cắm hoa tươi vào bình, và bạn sẽ thấy mình sẽ gặp vận đào hoa trong một thời gian không xa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí ẩn Bình Hoa trong phong thủy

Thể loại: Nhật Trầm Thủy Bể

Khi phác họa về mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta đã nêu rõ những đặc tính của sao Thái Dương trong một vài vị trí đặc biệt. Ở đây, chúng ta chỉ nhắc lại những đặc tính của Thái Dương trong những vị trí tốt đẹp trước khi nói đến Thái Dương sẽ như thế nào ở vào các vị trí hãm địa.
Thể loại: Nhật Trầm Thủy Bể

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thái Dương thuộc Nam Đẩu tinh, hành Hỏa, miếu ở hai cung Tỵ Ngọ, tức là mặt trời lúc giữa trưa và vượng địa ở hai cung Dần Mão, là lúc mặt trời lúc bình minh. Ở 4 vị trí này, Thái Dương chủ sự thông minh, lòng nhân đức, tài lộc và uy quyền. Thái Dương hợp với những người Dương Nam, Dương Nữ và những người sinh vào ban ngày. Ngoài những vị trí miếu vượng vừa nêu trên, hai cung Sửu Mùi cũng là hai vị trí đắc địa của Thái Dương, mặc dù đó là thời gian đã là giao điểm giữa đêm và ngày. Như vậy sáu cung còn lại từ cung Thân đến cung Tí là những vị trí hãm địa của Thái Dương, là thời điểm của bóng đêm, mặt trời không ánh sáng. Trong sáu cung hãm địa này, Thái Dương có hai vị trí khá đặc biệt là cung Tí và Hợi, khoa Tử Vi gọi là cách Nhật Trầm Thủy Bể (NTTB), nghĩa là mặt trời chìm xuống đáy nước. Tuy vậy, nhưng ít nhiều mặt trời vẫn còn giữ được ánh quang huy, vẫn còn giá trị của một vầng Thái Dương. Người có Thái Dương thủ Mệnh tại hai cung Tí Hợi là người hiền lương rộng lượng, có lòng nhân từ với mọi người nhưng đôi lúc tính tình cũng hơi cố chấp, có lẽ vì lúc nào cũng đối xử tốt đẹp với mọi người, cho nên nghĩ rằng người khác cũng sẽ đối xử với mình như vậy.

Là người thông minh, tuy nhiên không được bền chí, làm việc gì cũng muốn nhanh chóng, gặp trở ngại thì dễ dàng nản lòng, bỏ cuộc. tính khí thanh cao, thích sự tao nhã, thích cuộc sống an nhàn, đặc biệt là có năng khiếu về thẩm mỹ, văn chương và nghệ thuật. Mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể từ nhỏ đã có nhiều bệnh tật. Đáng kể nhất là những bệnh về mắt, bệnh về máu huyết như áp huyết cao, thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị chứng đau đầu kinh niên. Nếu muốn qua khỏi bệnh tật này, lúc trẻ phải sống xa gia đình hoặc xa quê hương càng tốt. Được như vậy thì sức khỏe sẽ ngày một khá hơn và tuổi thọ cũng kéo dài hơn. Tuy nhiên vẫn phải thận trọng với đôi mắt của mình, nếu trong người hay tay chân không bị khuyết tật gì bẩm sinh, và nếu có thêm nhưng sao như Kình Đà, Thiên Hình, Kiếp Sát thì mắt có thể bị vật nhọn đâm vào hay phải chịu sự mổ xẻ. Nói về đường công danh sự nghiệp thì mẫu người NTTB là những người có khả năng thiên phú, nổi bật nhất là trong lãnh vực văn học, nghệ thuật. Nhưng oái oăm thay, tài năng của họ cũng như mặt trời chìm sâu đáy nước cho nên hầu hết, họ là những ngưới bất đắc chí. Trong cuộc sống, trong công việc, hoặc trong những môi trường sinh hoạt hàng ngày họ thường gặp phải những hoàn cảnh khiến cho họ không thể thi thố hết tài năng của mình được. Đây cũng là trường hợp những người mang khả năng tâm huyết đạt thành qủa, nhưng thành qủa đó lại do người khác hưởng chứ người đời không biết đến mình.

Chẳng hạn như những người chuyên dự thảo chương trình, kế hoạch, tham mưu, cố vấn, các chuyên viên, các khoa học gia âm thầm làm việc trong những phòng thí nghiệm v.v… NTTB dù nam hay nữ cũng là những người khéo tay và có khiếu về thẩm mỹ. Họ xuất sắc trong những lãnh vực như nấu ăn, trang điểm, thêu thùa, trang trí nhà cửa… Nếu có thêm những sao về văn học như Thái Âm, Xương Khúc, Khôi Việt, Đào Hồng Hỷ… hợp chiếu thì họ là những nghệ sĩ có thực tài nhưng vì hoàn cảnh mà tài năng phải bị mai một, hoặc là tác phẩm của họ chỉ được người đời biết đến khi họ đã khuất. Và những trường hợp mà chúng ta vẫn thường thấy là đôi lúc tên tuổi của một ca sĩ, một diễn viên trên sân khấu, màn ảnh… lại được nhiều người biết đến và hâm mộ hơn là những nhạc sĩ, người soạn tuồng, đạo diễn.

Cũng như những tác phẩm nổi tiếng, những hồi ký của một chính khách, một nhân vật nào đó, thường vẫn do một người khác viết dùm (người Mỹ gọi là Ghost Writer) Đó là ý nghĩa của mặt trời chìm đáy nước. Riêng với nữ mệnh, Thái Dương ở Tí Hợi là người có nhan sắc nhưng nét mặt lúc nào cũng phảng phất một nét buồn bởi có câu “Nhật lạc nhàn cung, sắc thiểu xuân dung.” Tính tình đa sầu đa cảm, tâm địa hiền thục thanh cao và có thể nói bốn chữ công dung ngôn hạnh đều hội đủ. Họ thường hợp và sống gần với cha hơn mẹ, nhưng cũng vì Thái Dương hãm, cho nên khi lập gia đình thì lại khắc chồng, chuyện tình duyên buồn nhiều hơn vui. Nói chung, Thái Dương dù hãm nhưng nếu không gặp những hung tinh hay ám tinh thì cuộc đời cũng đủ ăn đủ mặc. Nếu may mắn được những sao tốt đi kèm, hoặc được Tuần Triệt án ngữ thì hậu vận cũng có một cuộc sống an nhàn sung sướng.

Người Thái Dương hãm địa thủ mệnh thiếu thời thường gặp những nghịch cảnh để rồi lúc nào cũng phải phấn đấu, chỉ khi về già thì cuộc sống mới có phần toại nguyện. Nhưng đặc biệt với những người tuổi Bính và tuổi Đinh thì lại rất hợp với Thái Dương tại cung Tí, cuộc đời vẫn được giàu sang phú qúy: “Thái Dương cư tí, Bính Đinh phú qúy trung lương.” Với các tuổi khác, tuy là có tài năng, nhưng suốt đời chỉ gặp toàn là những cảnh bất đắc chí, cũng giống như nhà thơ Tú Xương hay Cao Bá Quát mà thôi.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thể loại: Nhật Trầm Thủy Bể

Chòm sao may mắn trong tháng 10, có quý nhân tận tình chỉ lối

Tháng 10 khí thu thật là sảng khoái. Và càng sảng khoái hơn nữa với 3 chòm sao may mắn trong tháng 10 dưới đây vì họ sẽ có quý nhân phù trợ.
Chòm sao may mắn trong tháng 10, có quý nhân tận tình chỉ lối

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 10 khí thu ngập trời, thời tiết hiu hiu gió nhẹ, thật là sảng khoái. Và càng sảng khoái hơn nữa với 3 chòm sao may mắn trong tháng 10 dưới đây vì họ sẽ có quý nhân phù trợ, đi đến đâu cũng được giúp đỡ, dễ dàng đạt được thành tựu.


► ## cập nhật thông tin Tử vi hàng ngày, Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất gửi tới bạn đọc

Chom sao may man trong thang 10, co quy nhan tan tinh chi loi hinh anh 2
 

Hạng 3: Song Tử

  Chòm sao may mắn trong tháng 10 Song Tử yêu thích sự bận rộn, biến hóa, không để cho bản thân rảnh rỗi, chỉ cần ngồi không một phút thôi là cả người cảm thấy khó chịu. Vì thế, lúc nào họ cũng kiếm việc để làm, làm xong việc của mình rồi còn nhiệt tình hỏi những người xung quanh xem có cần giúp đỡ gì không.   Chính nhờ tấm lòng này mà Song Tử được đền đáp xứng đáng, tháng 10 là tháng của họ, đi đến đâu cũng được quý nhân nâng đỡ, phúc khí cực kì tốt. Có nghĩa khí trợ giúp người khác thì nay nhận được sự tương trợ trở lại, Song Tử như cá gặp nước, làm việc thuận buồm xuôi gió.  

Hạng 2: Nhân Mã

  Nhân Mã là người thẳng thắn, chính trực, đối với nhân sinh có lý tưởng vô hạn, đối xử với người khác hết mực chân thành, tình càm, cũng rất thích giúp đỡ, chia sẻ, gánh vác hộ phần nào. Bản tính lạc quan nên Nhân Mã lúc nào cũng hướng về phía trước, tin tưởng rằng mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp lên.   Và đúng là trời không phụ lòng người, Nhân Mã chính là chòm sao may mắn trong tháng 10, người tốt tất có báo đáp, trong tháng này, chỉ cần bạn gặp khó khăn là sẽ có quý nhân nâng đỡ, bất cứ chuyện gì cũng được toại nguyện, cứ chờ thăng chức tăng lương đi.
Chom sao may man trong thang 10, co quy nhan tan tinh chi loi hinh anh 2
 

Hạng 1: Bạch Dương

  Mạnh mẽ và bùng nổ, một khi Bạch Dương đã nhận định điều gì thì sẽ toàn lực ứng phó, không bao giờ bỏ dở giữa chừng dũng cảm thử nghiệm, một lòng tiến lên. Mười phần nhiệt tình, mười phần nỗ lực, dù thành công hay thất bại đều là động lực khích lệ Bạch Dương.   Chính loại kiên trì, không ngừng cố gắng này của Bạch Dương khiến nhiều người cảm phục và yêu mến, vận khí cũng tăng lên rất nhiều, biến họ trở thành chòm sao may mắn trong tháng 10. Cát vận đến nhà, càng ngày càng phú quý, Bạch Dương chỉ cần vui vẻ mà hưởng thụ thành quả thôi.
Đáng ngưỡng mộ 3 chòm sao có gia đình hạnh phúc Các chòm sao sinh ra có phú quý mệnh
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chòm sao may mắn trong tháng 10, có quý nhân tận tình chỉ lối

Lựa chọn cây phong thủy mang đến tài vận dồi dào

Lựa chọn cây phong thủy thích hợp sẽ giúp tăng cường tài vận, may mắn và sự thịnh vượng. Vậy cây cảnh nào là tốt hoặc xấu theo phong thủy?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thực tế, cây phong thủy được đánh giá là tốt hoặc xấu phụ thuộc vào vị trí bạn bố trí chúng trong từng khu vực bát quái cụ thể của nhà ở hoặc văn phòng làm việc.

Cây xanh luôn luôn là biểu tượng và giải pháp phong thủy tuyệt vời dành cho nhà ở hoặc nơi làm việc, bởi vì chúng mang đến nguồn khí/nguồn năng lượng mới mẻ, năng động vào trong từng không gian cụ thể. Khi chúng được chăm sóc khỏe mạnh, tươi tốt, được đặt đúng khu vực bát quái cũng như được trồng trong những chiếc chậu phù hợp, bạn có thể yên tâm chúng là phong thủy tốt.

Hãy bắt đầu với những loại cây thường được gọi là cây phong thủy tốt. Chúng ta có thể phân chia chúng thành 2 nhóm cơ bản:

1. Cây phong thủy có tác dụng làm sạch không khí tốt nhất

Ngôi nhà hoặc văn phòng làm việc khó có thể sở hữu phong thủy tốt nếu thiếu đi nguồn không khí đạt chất lượng cao, trong lành và tươi mới. Rất nhiều loại cây, hoa cảnh xinh đẹp có tác dụng thanh lọc không khí hoàn hảo để bạn lựa chọn, chẳng hạn như cây vạn niên thanh, cây cọ cành, cây dây nhện, cây thường xuân,...


Trưng bày nhóm cây phong thủy thanh lọc không khí trong nhà sẽ cải thiện chất lượng
không khí, cung cấp sinh khí mới cho không gian sống của gia đình bạn.

2. Cây phong thủy thuộc nhóm cây tiền truyền thống

Nhóm thứ 2 bao gồm tất cả các loại cây tiền nói chung, nhưng có ít nhất 2 loại cây được sử dụng phổ biến và rộng rãi nhất với ý nghĩa cây tiền phong thủy, đó là cây kim tiền và cây kim ngân. Ngoài ra, bạn có thể trồng cây phất dụ, cây dừa cạn... đều có tác dụng chiêu tài, mang lại may mắn, thịnh vượng cho gia chủ.


Nhóm cây phong thủy tiền truyền thống như cây kim tiền, kim ngân, phất dụ,... đại diện
cho sự "phú quý", có tác dụng chiêu tài.

Cây phong thủy được coi là xấu chủ yếu do hình dạng có thể đem đến năng lượng không mong muốn vào trong ngôi nhà của bạn. Xương rồng là ví dụ điển hình của cây phong thủy xấu vì những chiếc gai nhọn trên thân cây tỏa ra năng lượng khắc nghiệt, cứng nhắc...

Đôi khi, cây lưỡi hổ cũng được liệt vào danh sách cây phong thủy xấu. Thế nhưng, điều này không thực sự chính xác vì cây lưỡi hổ có thể mang lại năng lượng phong thủy rất hữu ích khi cần thiết cho từng khu vực cụ thể trong nhà hoặc chỗ làm việc. Thêm vào đó, loại cây này còn sở hữu năng lượng bảo vệ cực kỳ mạnh mẽ.


Cây lưỡi hổ là trường hợp đặc biệt. Mặc dù hình dáng lá nhọn, vút cao nhưng theo
phong thủy lại có năng lượng bảo vệ tuyệt vời.

Vị trí tốt nhất để bố trí cây - hoa cảnh phong thủy trong nhà hoặc văn phòng phải là khu vực bát quái được nuôi dưỡng bởi yếu tố Mộc. Do đó, Đông, Đông Nam và Nam là những khu vực lý tưởng nhất để trang trí cây phong thủy

Khu vực phía Bắc có thể bị suy yếu bởi sự hiện diện quá mạnh mẽ của yếu tố Mộc (ví dụ như có quá nhiều cây xanh). Vì vậy, cách tốt nhất là tránh sắp xếp nhiều cây xanh ở phía Bắc. Điều này cũng áp dụng cho các khu vực Tây, Tây Nam, Tây Bắc và Đông Bắc. Chỉ nên trồng tối đa 2 - 3 cây xanh ở những khu vực bát quái này.


Bài trí cây cảnh hợp phong thủy

Cây phong thủy phải được bố trí đúng khu vưc bát quái mới phát huy được tác dụng tiềm ẩn. Ngược lại, chúng có thể làm suy yếu phong thủy của ngôi nhà hoặc văn phòng nếu nằm sai vị trí.

Vị trí đặt cây phong thủy trong những khu vực bát quái khác nhau dựa trên sự tương tác của 5 yếu tố phong thủy cơ bản là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Một khi hiểu rõ sự tương tác này, bạn sẽ dễ dàng đưa ra lựa chọn đúng đắn khi trang trí không gian sống hoặc chỗ làm việc của mình với cây phong thủy.

(Theo Eva)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lựa chọn cây phong thủy mang đến tài vận dồi dào

Thanh Liêm Hình Sát hiển đạt Sát Kình

Thất Sát có Tả Hữu phù tá thì tốt đẹp. Nhưng mang tính sát nên đồng thời phù hợp với đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình; do đó gặp Thiên Hình không bất lợi, chỉ thể hiện một chiều hướng khác. Thất Sát miếu vượng thì thanh liêm, nghiêm khắc, hãm thì tàn nhẫn.
Thanh Liêm Hình Sát hiển đạt Sát Kình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Sát phù hợp nhất với tính dũng cảm của Thất Sát là Kình Dương, tức sao dương của cặp Kình Đà, Thất Sát gặp Kình Dương như chủ can đảm gặp tớ liều lĩnh, chỉ cần một trong hai sao đắc vị là có thể thành công to lớn. Nhưng đây là một kết hợp đầy sát khí nên rất nguy hiểm, bạo phát thường đi liền với bạo tàn, nhất là một trong hai sao hãm địa thì rất khó lòng thoát khỏi tai họa. (Hai sao cùng hãm thành cảnh "kẻ dùng gươm chết vì gươm", chính là đại họa).

Thất Sát gặp Đà La ý nghĩa tương tự Kình Dương, nhưng mức thành đạt và xác suất thành đạt thấp hơn, vì Đà La là sao âm phát triển không nhanh bằng Kình Dương là sao dương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thanh Liêm Hình Sát hiển đạt Sát Kình

Việc chế hóa và chiết tự trong Tử Vi

Bài viết của tác giả Ân Quang về vấn đề chế hóa và chiết tự trong tử vi. Đây là một bài phân thích rất hay!
Việc chế hóa và chiết tự trong Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài của Ân Quang

“Xem Tử Vi thì phải biết Sinh Khắc Chế Hóa, và phải là người thâm nho mới thấu triệt ý nghĩa”.

Ngày tôi còn bé thường nghe các cụ nói thế. Nghe vậy thì biết vậy, chứ thực ra tôi chẳng hiểu mấy về câu nói này.

Khi vừa biết viết gọn quốc ngữ, tôi liền được cụ tôi hướng dẫn lập thành lá số Tử Vi cho những người đến nhờ cụ xem giùm. Lúc ấy, tôi sung sướng nghĩ rằng lấy một lá số Tử Vi là việc làm không mấy khó khăn.

Tôi thầm nghĩ rằng, có lẽ ngày xưa cần người thâm nho chỉ để đọc các sách chữ Hán dạy về cách lập thành, và cách đoán số Tử Vi. Nếu nay, cứ tìm được các bộ sách chân truyền từ xưa, rồi dịch ra Việt ngữ thì Tử Vi không còn gì là bí hiểm, không còn là độc quyền của các cụ già thâm nho. Chỉ việc giở sách ra là có thể lập thành một lá số Tử Vi, rồi quy nạp, dựa vào các bộ sao, suy đoán các cách phú quý, bần tiện, thọ yểu, hạn rủi, vận may v.v…

Thời gian trôi qua, càng nghiên cứu Tử Vi, tôi càng cảm thấy rằng đó không phải là một việc làm giản dị như trước kia tôi lầm tưởng.

Ngoài việc phân định sự Miếu, Vượng, Hãm địa của các sao, ngoài sự Sinh Khắc Ngũ Hành, ngoài việc phối hợp Thiên Can, Địa Chi, Bát Quái, ngoài việc quy nạp độ 500, 700 cách đoán số, (cho nhiều nhất là 1000 cách, trong các bài phú) lại còn phải hiểu hình tính, ý nghĩa các vị sao mà Chế Hóa, vì có những sao gặp nhau mà không thuộc về cách nào ghi trong các sách Tử Vi. Thí dụ như Hỏa Tinh cư Ngọ thì đắc địa, gặp Kình Dương cư Ngọ hãm địa thì sao? Thái Dương cư Tuất hãm địa gặp Kình Dương cư Tuất nhập miếu thì sao? Không thể áp dụng tinh thần máy móc, cộng hai vị sao lại rồi chia hai, lấy trung bình. Tốt vừa vừa hay xấu in ít?

Trong những trường hợp này, sự Chế Hóa, tinh thần diễn dịch đóng một vai trò rất quan trọng.

Nếu chỉ áp dụng tinh thần công thức một cách máy móc, thì sẽ gặp rất nhiều công thức này chống ngược lại công thức khác.

Sách ghi là: “Tử Phá mộ cung, bất trung, bất hiếu”, sách lại cũng nói là “Khôi Việt, Quan Phúc” chủ thông minh, thanh cao, nhân hậu, v.v… Vậy thì Tử Phá cư Mùi gặp Khôi Việt, Quan Phúc là thế nào? Bất trung bất hiếu vừa vừa hay là thanh cao nhân hậu in ít??

Một vị chính tinh dù là hung ác mà được quần thần, cố vấn, tham mưu đều thanh cao, nhân hậu thì có thể trở thành nhà cải cách, cách mạng tuy hành động có hơi cứng rắn, đi khác với thông lệ, vượt qua dư luận. Nhưng vị chính tinh ấy vẫn được bộ tham mưu đưa về những chiều hướng xây dựng.

Nói đến “Liêm Tham Tỵ Hợi” thì người nghiên cứu Tử Vi, có thể nghĩ đến công thức Liêm Trinh cộng với Tham Lang ở Tý, Hợi ra quan môn, hình ngục. Thế nhưng, Liêm Tham Tỵ Hợi cung Quan Lộc ở đó Mệnh, Quan, Tài, Di, được các quyền tinh, quý tinh, phúc tinh giao hội đủ bộ, thì ảnh hưởng sẽ chuyển ngược lại, không phải là người ta xử phạt mình mà lại là mình xử phạt, cầm cân nảy mực xét xử người khác (Đây là ngày giờ sinh của một ông Biện Lý trẻ tuổi, trong thân quyến của tôi, để quý vị chiêm nghiệm. Tuổi Đinh Sửu, tháng chạp ngày 28, cuối giờ Tý, đêm 27 rạng 28, giờ Tý tính vào ngày 28).

Không thể căn cứ vào bộ sao tốt rồi đoán rằng mọi sự phải tốt, không thể căn cứ vào một bộ sao xấu rồi đoán rằng việc gì cũng phải xấu. Cũng không thể quan niệm rằng lấy cái tốt, cộng với cái xấu, hòa lẫn, chia hai, ra cái trung bình.

Sinh Khắc, Chế Hóa là lời nhắc nhở từ căn bản vỡ lòng của những người nghiên cứu Tử Vi, mà các sách Tử Vi chỉ trình bày được phần Sinh Khắc Ngũ Hành, và bỏ lơ đi cái phần Chế Hóa, chỉ trình bày các công thức dưới những hình thức có vẻ Khoa học. Đến khi áp dụng công thức thì người nghiên cứu vô cùng hoang mang trước những công thức này chống công thức kia.

“Mệnh Đào mà ngộ Thiên Diêu
Chồng ra khỏi cửa dắt tay trai vào”

Phú đoán chỉ nói lên một khía cạnh có thể có, chứ không phải là một công thức máy móc.

Mệnh tại Mão được Thái Dương, Thiên Lương, Quan Phúc, nữ Mệnh được như vậy thì sách lại nói đến không biết bao nhiêu đức tính tốt như là thanh cao, phúc hậu, thủy chung, nhân từ v.v… lại có Đào Diêu ở đấy thì công thức lại nói là ngoại tình. Vậy thì là thế nào? Thủy chung nửa vời hay là ngoại tình in ít?

Chính tinh đã thủy chung lại được củng cố thêm bởi các phúc tinh, quý tinh, thì một vài sao Đào Diêu không thể tạo ảnh hưởng ngược lại được. Đó chỉ là dấu hiệu của một vài mối tính do người ngoài đem đến, ngỏ ý, v.v… nhưng đương số vẫn vững lòng trung trinh.

Mục đích của bài này không phải là thảo luận hay trình bày tất cả những trường hợp Chế Hóa. Chúng tôi chỉ muốn trình bày rằng, nếu hoàn toàn Việt ngữ hóa Tử Vi nếu vứt bỏ hai chữ Chế Hóa thì Tử Vi chỉ còn là một mớ công thức lộn xộn.

Sinh Khắc, Chế Hóa, bốn chữ “đầu môi chót lưỡi” thường được giới Tử Vi Dịch Lý xưa kia nhắc nhở. Thiết tưởng, cũng không nên vì một lý do gì mà bỏ đi chữ Chế Hóa, hoặc thay thế bằng một chữ nào khác mà mất đi cái thâm thúy của cổ nhân, và người hậu học có thể bị đi lạc đường.

Muốn Chế Hóa thì phải suy diễn. Mà muốn suy diễn theo Tử Vi, thì phải trở về với quan niệm Sinh Khắc, Ngũ Hành, Âm Dương, Bát Quái về vũ trụ, về nhân sinh, của người xưa. Gần hơn hết là phải hiểu ý nghĩa các vị sao.
Tên các vị sao không phải đặt theo hứng khởi, ngẫu nhiên. Có thể nói là tên mỗi vị sao kéo theo cả một vũ trụ quan, một nhân sinh quan. Tên mỗi vị sao lại có nhiều nghĩa khác nhau, liên hệ đến cách phát âm đó. Thí dụ như Thiên Việt là văn tinh, quý tinh, thế mà: “Hỏa Linh Hình Việt” lại là kiếm đao búa Trời, ngụ ý sét đánh, thì chữ Việt đây còn có nghĩa là cái gì rơi đổ xuống, chữ Việt (với bộ Kim bên cạnh) lại có nghĩa là cái búa lớn.

Như chữ Mộ là cái mồ, ngụ ý chôn vùi, lấp, bế tắc, trở ngại. Thế mà:

Mộ phùng Hóa Lộc mấy ai
Thực người có của tận tay chào mời”

Thì chữ Mộ này lại là mến.

Lại như sao Thiên Y là thuốc men mà lại cũng là biểu tượng của y là áo (ngụ ý chức tước y lộc).

Như sao Hóa Quyền ngụ ý về quyền uy, mà lại là biểu tượng của gò má (lưỡng quyền) lại có khi là quyền biến, thay đổi.

“Lưỡng Hao, Cự, Vũ, Hóa, Quyền
Chiếu sao trấn thủ một biên phương ngoài”

Cự là cách xa. Vũ viết như chữ Vũ là Võ, lại còn có nghĩa là vết chân, nối gót, như bộ vũ là làm nốt công việc của người trước.

Đó là một vài khía cạnh Chiết Tự trong Tử Vi, mà xưa kia các cụ thường áp dụng để có một cái nhìn sâu xa hơn.

Có Cự Môn, hoặc là có Vũ Khúc cũng có thể đi xa, được đi theo sự tự chọn hoặc là bị đổi đi, tùy theo ý nghĩa các sao kết hợp thành bộ. Chứ nào phải riệng một Lưu Thiên Mã gặp Thiên Mã cố định mới là đi. Đâu phải chỉ có con ngựa mới đi. Rồng (Long) cũng có thể bay lên hoặc bay đi vùng vẫy. Hổ cũng có thể đi tung hoành.

Trong Tử Vi có những tên gọi không phải là Sao. Chúng tôi sẽ có một bài khác nói về điểm này.

Thiên Mã là Khí Dịch Mã, tạo nên sự biến chuyển. Còn tùy các sao khác mà luận. Có khi chỉ là sự biến chuyển tốt hơn, xấu hơn, nhưng thay đổi tại chỗ mà thôi.

Như Linh Tinh, trong trường hợp tốt thì Linh là quyền lệnh (Hỏa Linh tương ngộ, đa trấn chư bang). Khi xấu thì Linh lại là rụng rơi, hoặc cô đơn, cô khổ (Hỏa Linh hãm ư tử tức, đáo lão vô như khốc). Hỏa Tinh, Linh Tinh trong một số trường hợp còn là tinh ma, yêu quái, linh hồn v.v… dĩ nhiên là còn phải xét thêm các sao khác mà luận.

Thí dụ như:

“Tử cung Thai ngộ Hỏa Linh
Bào thai những giống yêu tinh quỷ sầu”

Hoặc là ở Điền Trạch:

“Hồng, Diêu, Hoa Cái tốt sao
Khốc Hư, Linh Hỏa, có yêu quái gì”

Lại còn cách:

Tuế-Kỵ-Diêu-Linh-Khốc” là có oan hồn theo quấy phá, nếu được chính tinh tốt, phúc tinh phò trợ thì cũng có khi là mình được một vong linh nào đó theo phò hộ.

Trên đây không phải là những công thức Toán học Tử Vi, mà chỉ là những tinh lực, những khí vận, có thể biến chuyển như vậy. Người nghiên cứu không thể câu chấp, mà cần có cái nhìn rộng thêm về ảnh hưởng tương quan của các vị sao khác mà trình bày hết.

Có khoa học nào gom lại trong một hai cuốn sách mà được đầy đủ?

Chúng tôi chỉ xin trình bày để quý bạn mới làm quen với Tử Vi có một quan niệm rõ rệt về công dụng của Khoa này, cũng là có thêm một khái niệm về sự Chế Hóa, Chiết Tự.

Người xưa chiết tự Tử Vi là như vậy. Chứ không phải chiết tự để đoán tên người như câu chuyện “Ông Thầy Tử Vi Ba Trợn” mà cụ Hoàng Hạc đã có lần kể trong mục “1001 chuyện Tử Vi”.

Đến đây chắc có bạn đọc thắc mắc, một Linh Tinh nhiều nghĩa như vậy thì người xưa viết chứ Linh như thế nào?

Chúng tôi đã sưu tầm nhiều lá số Tử Vi bằng chữ Hán xưa kia, viết cũng như luận, rất sâu sắc, đứng đắn. Chúng tôi cũng sưu tầm một số sách Tử Vi từ Đài Loan thì chữ Linh ấy được viết với bộ Hào, với bộ Nữ và với bộ Kim một bên. Nhất là một số sách Tử Vi Đài Loan thì hiện nay dùng bộ Kim để viết chữ Linh.

Tại sao lại có tình trạng lạ như vậy?

Xin thưa, đó không phải là một sự rắc rối, lộn xộn.

Ngôn ngữ là do sự cảm xúc, giao cảm giữa con người và vũ trụ, vạn vật xung quanh mà tạo thành.

Văn tự chỉ là một cách để đánh dấu, ghi lại ngôn ngữ.

Khi đã có quá nhiều điểm tế nhị trong cùng một mối giao cảm thì dùng cách đánh dấu ghi dấu tượng trưng, rồi suy diễn sau. Do đó, viết chữ Linh nào cũng được, miến là hiểu hết những khía cạnh tế nhị liên quan đến cái cách phát âm ấy. Vì thế mà giới Tử Vi Trung Hoa (Đài Loan hiện nay) viết chữ Linh với bộ Kim bên cạnh, chỉ có nghĩa là cái chuông nhỏ, không xấu, không tốt, vô thưởng vô phạt, rồi người nghiên cứu sẽ vô tư kết hợp các sao khác mà suy diễn ý nghĩa tốt xấu, không thiên vị, cứu xét cả những điểm tế nhị có liên quan đến âm thanh Linh.

Mỗi khoa học đều xuất phát từ một nhân sinh quan, một vũ trụ quan. Khi nghiên cứu Tử Vi, chúng ta cần trở lại với cái nhân sinh quan vào thời phát sinh ra Tử Vi. Chúng ta cần hiểu cái quan niệm của thời đó mà Chiết Tự, Chế Hóa.

Không thể nào đem cái nhân sinh quan này áp dụng vào khoa học nọ. Cũng như không thể cầm một chai thuốc Tây, và nói rằng thuốc này trị về Hỏa vượng.

Khi Chiết Tự, khi Chế Hóa thì cần theo cái nhân sinh quan của thời đại phát sinh ra Tử Vi.

Thí dụ: Sao Bác Sĩ, nghĩa đen là kẻ sĩ học rộng, ngụ ý là thông minh và được trọng vọng (Thời đó chữ Sĩ, kẻ Sĩ được trọng vọng nhiều). Chứ nào có phải nói về tâm hồn nghệ sĩ, hay là ông Bác Sĩ. Do đó, không thể nào luận rằng các sao Thiên Y, Hóa Khoa, Bác Sĩ, họp lại thành ra bộ sao “Y Khoa Bác Sĩ”

Và cũng không thể áp dụng công thức sao Tuế Phá đi với Kình Dương là răng yểu, răng hô, lại thấy có Thiên Y, Hóa Khoa rồi luận ra đó là vị Nho Sĩ chuyên chữa răng vẩu, răng hô!

Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Việc chế hóa và chiết tự trong Tử Vi

Đi chùa đầu năm vào những ngày này thì cả năm tiền bạc rủng rỉnh

Đi chùa lễ Phật đã trở thành một nét đẹp tâm linh của người Việt bao đời nay. Đi chùa đầu năm không phân biệt nam nữ, nhưng thông thường các bà các mẹ
Đi chùa đầu năm vào những ngày này thì cả năm tiền bạc rủng rỉnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đi chùa lễ Phật đã trở thành một nét đẹp tâm linh của người Việt bao đời nay. Đi chùa đầu năm không phân biệt nam nữ, nhưng thông thường các bà các mẹ là những người thường xuyên đến chùa hơn.


► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem ngày tốt xấu theo Lịch âm để thuận lợi công việc

Phụ nữ đến kỳ kinh nguyệt có được đi chùa lễ Phật? 5 ngôi chùa cầu được ước thấy nên đi lễ đầu năm
Di chua dau nam vao nhung ngay nay thi ca nam tien bac rung rinh hinh anh
 
Đi chùa đầu năm không đơn giản chỉ là để ước nguyện mà còn là khoảnh khắc con người hòa mình vào chốn tâm linh, rũ bụi trần, mà còn là chốn thanh tịnh để con người thấy lòng mình thanh thản, nhẹ nhàng hơn.   Mùng 1 Tết: Theo phong tục xưa của người Việt, việc lên chùa vào mùng 1tếtđã trở thành tục lệ quen thuộc, thậm chí họ sẽ lên chùa ngay đêm giao thừa. Họ cầu cho bản thân, gia đình mạnh khỏe, tai qua nạn khỏi, hạn ách tiêu trừ, gia đình hòa thuận, thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc.   Nên đi chùa vào mùng 1 cũng đồng nghĩa cả năm bạn sẽ có được sự an lạc, cả năm may mắn. Hứa hẹn một năm mới tràn ngập tin vui.
Mùng 2,3 Tết: Ngày mùng 2, 3 là lễ đón Hỷ thần (may mắn, hạnh phúc), đón tài thần. vậy nên, đi chùa vào 2 ngày này sẽ được cầu nhiều tài lộc, tiền bạc dư giả nguyên năm.
Mùng 4 Tết: Thông thường, ngày mùng 4 là ngày các gia đình đón các vị thần từ thiên đình về hạ giới cai quản một năm. Nếu đi chùa vào ngày này và thành tâm, thì điều bạn mong muốn sẽ được linh ứng và dễ thành hiện thực, ngày này cầu gì sẽ được nấy, nên nhưng ai muốn cầu tình duyên có thể chọn ngày này.   Mùng 6 Tết: Theo quan niệm của ông bà ta thì mùng 6 là ngày bình an, và mùng 6 năm nay cũng là ngày rất tốt để xuất hành cho các chuyến đi. Vậy nên, đi chùa vào ngày này cầu mong bình an, sức khỏe, gia đạo sẽ rất tốt.   * Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, chiêm nghiệm!

Lễ chùa đầu xuân - đừng để mất phúc vì hiểu sai Điều dễ phạm phải khi đi đền chùa đầu năm Lễ chùa mà phạm phải 7 điều thì công quả mất hết
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đi chùa đầu năm vào những ngày này thì cả năm tiền bạc rủng rỉnh

Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp (24/5/2015)

Tử vi Chủ nhật: Dù là ngày nghỉ nhưng người tuổi Sửu vẫn lên kế hoạch cho công việc tuần tới, người tuổi Tỵ cần đề phòng có kẻ thứ ba phá đám tình cảm,...
Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp (24/5/2015)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp: Dù là ngày nghỉ nhưng người tuổi Sửu vẫn lên kế hoạch cho công việc tuần tới, người tuổi Tỵ cần đề phòng có kẻ thứ ba phá đám tình cảm của bạn và người ấy...
 

Tuổi Tý
 
Mọi sự nỗ lực và cố gắng trong công việc của người tuổi Tý tuần qua đã phần nào được ghi nhận. Chủ nhật là thời gian bạn nên nghỉ ngơi, lấy lại tinh thần làm việc cho đầu tuần tới. Thay vì nằm dài ở nhà, người tuổi Tý nên đi gặp gỡ bạn bè để giải tỏa tâm lí. Đồng thời, chuyện tình cảm của người tuổi Tý khá thuận lợi vì cả hai đều cố gắng dành thời gian bên nhau lâu nhất.
 
Con số may mắn: 1 và 4 Giờ tốt nhất trong ngày: 16h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Tý, tuổi Sửu và tuổi Dần   Tuổi Sửu
 
Dù là ngày nghỉ, nhưng người tuổi Sửu vẫn lên kế hoạch công việc một cách rõ ràng trong đầu. Tuần tới hứa hẹn sẽ có nhiều bước tiến triển tốt trong sự nghiệp của bạn. Tuy nhiên, bạn nên gạt bỏ suy nghĩ công việc sang một bên để tận hưởng ngày nghỉ trọn vẹn.
 
Người tuổi Sửu đã sẵn sàng cho một mối quan hệ tình cảm tốt đẹp, hãy mạnh dạn thổ lộ tình cảm để kết thúc cuộc sống đơn thân của bạn.
 
Con số may mắn: 2 và 8 Giờ tốt nhất trong ngày: 20h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Dần   Tuổi Dần   Nguồn tài chính ổn định do vận thế tốt giúp người tuổi Dần có thể mạnh tay chi tiêu vào dịp cuối tuần. Một khoản tiền bất ngờ sẽ đến và cho phép bạn có thể thực hiện sở thích hoặc thú vui đã ao ước từ lâu. 
 
Nửa kia của bạn đang cảm thấy ngột ngạt, khó chịu vì sự “quản lí” quá sát sao của bạn. Người tuổi Dần nên tạo không gian tự do cho đối phương, thực hiện chiến dịch “nạt mềm buộc chặt”.
 
Con số may mắn: 0 và 6 Giờ tốt nhất trong ngày: 17h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Tý, Thìn và Tỵ
Tuổi Mão
Vận thế của người tuổi Mão có chiều hướng tăng, theo đó bạn dễ dàng đạt được các mục tiêu trong công việc hơn. Vì quá căng thẳng do phải làm lượng công việc lớn trong tuần, người tuổi Mão nên tận dụng thời gian nghỉ ngơi để chăm sóc bản thân mình.    Chuyện tình cảm của người tuổi Mão khá thuận lợi. Tuy nhiên, bạn nên cân nhắc kĩ việc nhận lời tỏ tình của người cùng cơ quan. Điều đó sẽ gây cho bạn không ít điều bất tiện trong tương lai.    Con số may mắn: 2 và 9 Giờ tốt nhất trong ngày: 16h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Sửu và Mão
Tuổi Thìn
 
Nhìn lại thành quả công việc đạt được, không chỉ có bạn hài lòng mà cấp trên và đồng nghiệp đều ghi nhận. Tài vận của bạn có xu hướng tăng, nhân đà này bạn hãy khẳng định năng lực của mình hơn nữa, tạo bước tiến mới trong sự nghiệp. 
 
Tình yêu của người tuổi Thìn đang trong giai đoạn thử thách. Hai người cần phải tin tưởng nhau hơn và cùng nhau vượt qua mọi trở ngại cuộc sống, tiến tới hạnh phúc lâu bền.   Con số may mắn: 0 và 2 Giờ tốt nhất trong ngày: 21h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Mão và Mùi

Tu vi Chu nhat cua 12 con giap 2452015 hinh anh
Ảnh minh họa
  Tuổi Tỵ
 
Người tuổi Tỵ có thể tạm hài lòng với những tiến triển trong công việc tuần qua. Bạn nên toàn tâm toàn ý nghỉ ngơi, lấy lại sức khỏe và tinh thần. Tuy nhiên, nên cẩn thận hơn trong mối quan hệ bạn bè và gia đình, tránh những mâu thuẫn không đáng có xảy ra.   Hôm nay bạn cần lưu ý có kẻ thứ ba muốn chen ngang phá đám tình cảm của hai người. Thay vì cả giận mất khôn, người tuổi Tỵ nên bình tĩnh và cư xử khéo léo, không được gây mất hòa khí đôi bên, bởi khi đó tình cảm dễ bị rạn nứt.   Con số may mắn: 3 và 5 Giờ tốt nhất trong ngày: 19h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Sửu và Tỵ   Tuổi Ngọ
 
Một vài ý tưởng lãng mạn cho cuộc hẹn hò ngày cuối tuần đã chiếm hết tâm trí của bạn. Điều đó giúp hai bên cảm nhận được niềm hạnh phúc ngọt ngào. Nếu ai đó cho rằng bạn hơi bốc đồng hoặc thái quá, bạn cũng đừng buồn bởi mọi điều bạn làm đều nhằm mục đích tốt đẹp.
 
Có ai đó đang mong chờ câu trả lời từ bạn. Người tuổi Ngọ cần nhanh chóng đưa ra quyết định, tránh làm tổn thương người khác.   Con số may mắn: 2 và 3 Giờ tốt nhất trong ngày: 10h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Sửu và Ngọ   Tuổi Mùi   Mặc dù là ngày nghỉ, nhưng do vận thế tốt kéo theo những cơ hội tài chính tuyệt vời sẽ đến với người tuổi Mùi trong ngày hôm nay. Rất có thể sang tuần mới bạn sẽ thấy khoản đầu tư của mình có dấu  hiệu sinh lời. 
 
Tuy nhiên, chuyện tình cảm của người tuổi Mùi lại gặp chút rắc rối. Vì mọi người xung quanh, thậm chí cả đối phương cũng chưa thực sự hiểu điều bạn nghĩ, do đó một vài mâu thuẫn phát sinh. Tuy nhiên, mọi chuyện đều nằm trong tầm kiểm soát của bạn.   Con số may mắn: 5 và 8 Giờ tốt nhất trong ngày: 8h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Thìn, Mùi và Thân
Tuổi Thân   Hôm nay là thời điểm tốt để người tuổi Thân rà soát lại tình hình tài chính của mình, tránh tình trạng rỗng túi ngay đầu tuần mới. Bạn nên đi đâu đó hít thở không khí trong lành để tìm lại nguồn cảm hứng cho công việc sắp tới.   Người tuổi Thân sẽ nhận ra điều bất ngờ trong những mối quan hệ bạn bè cũ của mình. Tình cảm của bạn sẽ có sự biến động lớn vào tuần tới. Bạn cần chuẩn bị tâm lí sẵn sàng đón nhận.
 
Con số may mắn: 1 và 6 Giờ tốt nhất trong ngày: 13h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Thìn   Tuổi Dậu   Người tuổi Dậu nên tự thưởng cho mình một ngày cuối tuần hoàn toàn thư giãn. Nếu có cuộc gọi liên quan đến công việc, bạn có thể từ chối trả lời. Với vận thế đang khởi sắc, công việc của bạn sẽ thuận lợi, không cần phải lo lắng.   Tình cảm của người tuổi Dậu trong ngày hôm nay không có nhiều biến động. Tuy nhiên, cần chú ý hơn về ngoại hình để thu hút ánh nhìn của những người khác giới, tạo cơ hội kết thúc cuộc sống độc thân của bạn. Nếu đã có gia đình, một bữa tối lãng mạn là điều cần thiết cho bạn trong hôm nay.   Con số may mắn: 0 và 8 Giờ tốt nhất trong ngày: 15h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Dần   Tuổi Tuất   Hôm nay người tuổi Tuất nên lưu ý các mối quan hệ trong gia đình, vì nhiều khả năng sẽ có mâu thuẫn với bố mẹ hoặc anh chị em. Đồng thời, tình cảm giữa bạn và nửa kia cũng gặp trục trặc do bất đồng quan điểm. Người tuổi Tuất nên kiểm soát tốt cảm xúc của mình, tránh gây mất hòa khí hoặc rạn nứt tình cảm.
 
Con số may mắn: 6 và 9 Giờ tốt nhất trong ngày: 14h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Mão và Tỵ   Tuổi Hợi   Người tuổi Hợi có thể nghỉ ngơi hoàn toàn trong ngày cuối tuần này. Khi đã lấy lại tinh thần, sang tuần tới bạn sẽ thêm động lực làm việc và tiến thêm bước xa trong sự nghiệp của mình.   Tình cảm của bạn và người ấy đang thiếu đi yếu tố lãng mạn vì cả hai quá bận rộn trong công việc. Hai bạn nên tận dụng thời gian của ngày nghỉ để sắp xếp một buổi tối lãng mạn và thú vị.   Con số may mắn: 3 và 5 Giờ tốt nhất trong ngày: 14h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Dần và Mùi
 
Việt Hoàng (Theo Astrology)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp (24/5/2015)

Tổng hợp những câu nói hay về con gái khi yêu

Tổng hợp những câu nói hay về con gái khi yêu. Bạn đã bao giờ được nghe câu chuyện về sự tích tại sao trên thế giới này lại có con trai và con gái chưa?
Tổng hợp những câu nói hay về con gái khi yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng hợp những câu nói hay về con gái khi yêu. Bạn đã bao giờ được nghe câu chuyện về sự tích tại sao trên thế giới này lại có con trai và con gái chưa? Vì “Con trai-con gái, là hai sắc màu của cuộc sống, nếu con gái là màu hồng ngọt ngào thì con trai là màu xanh của sức sống. Không có con trai thì thế giới thật buồn.Con trai mà vắng bóng con gái nhớ con trai lắm đấy!” Thế nên mới xuất hiện con trai và con gái, nhưng hôm nay chúng ta chỉ bàn về vấn đề của con gái thôi nhé.

“Con gái” là nhiều vấn đề lắm đấy nhé, hãy cùng tham khảo những câu nói hay về con gái khi yêu mà chúng tôi tổng hợp được sau đây nhé để hiểu rõ hơn về con gái nhé

Những câu nói hay về con gái khi yêu

Con gái thuộc môn phái yếu nên trong tình yêu con gái có lẽ sẽ chịu nhiều thiệt thòi và khổ đau hơn con trai. Nhưng con gái cũng có những điểm đáng yêu và rất “riêng”

——-

Là con gái, bạn nên :
– Tập ngủ sớm
– Yêu bản thân mình hơn
– Bớt tin người
– Bớt ngốc
– Sống đơn giản
– Tẩy não một số kí ức buồn

– Cười thật tươi nhé con gái

– Khi một người con gái vừa đi vừa khóc trên phố mà chẳng cần quan tâm rằng có hay không người đang nhìn mình, thì lúc đó, chắc chắn rằng trái tim họ đã thật sự tan nát.

– Con gái chỉ “lảm nhảm” với người mà họ yêu, và cũng chỉ nhõng nhẽo với người mà họ thực sự quan tâm.

– Sự ương ngạnh, tính khí thất thường, tỏ ra như một “đứa bé” hư, tất cả cũng chỉ vì họ muốn bạn chú ý, quan tâm đến họ nhiều hơn.

– Nếu như họ không yêu bạn, họ sẽ chẳng nỗi giận với bạn, không mong bạn tới dỗ dành, và cũng sẽ không vì bạn mà rơi nước mắt.

– Bởi nếu là người mà họ không yêu, sẽ chẳng bao có khả năng khiến họ như thế.

Và bạn có biết… khi bạn rời xa họ, bỏ họ lại một mình… Họ sẽ mong đợi. Và lo sợ biết bao nhiêu…”.

Là con trai hãy nên nhường nhịn con gái các bạn nhé, khi mà con gái giận thì họ sẽ không làm bạn với con trai nữa đâu, các bạn sẽ buồn lắm đấy? Biết chưa?

Là con gái hãy trân trọng bản thân, và biết mình, biết người nghe chưa? Hãy cùng tham khảo những câu nói hay để rút ra nhiều kinh nghiệm sống cho mình nữa nhé.

Một người con gái khi yêu, yêu thật lòng là trọn vẹn, là hết mình cho người thương, là không ngại thay đổi tâm hồn mình để vừa vặn hơn với bản chất không hề biến đổi của người con trai. Khi yêu, dù người con gái có ích kỷ đến bao nhiêu thì cũng trở nên thật rộng lượng trước người ấy. Sẵn sàng tha thứ tất cả, mà có khi điều nhận lại được chỉ là một câu xin lỗi, một câu nhớ hay một câu yêu không thật lòng.

Một người con gái khi yêu, yêu thật lòng luôn cố gắng thay đổi bản thân, làm mọi việc, kể cả những điều ngu ngốc chỉ để trở nên vừa lòng, xinh đẹp trong mắt người ấy. Đôi khi đó có thể là “lần đầu tiên em nói dối” rồi cả những lần sau nữa… cũng chỉ bởi vì yêu… và dẫu biết những điều đó là sai, vẫn cứ ngây thơ tôn thờ chủ nghĩa yêu thương.

Một người con gái khi yêu, yêu thật lòng là sẵn sàng bỏ qua tất cả lời ra tiếng vào, khen chê này nọ để bảo vệ những cảm xúc dành cho người ấy, coi người ấy là thần thánh mà tôn sùng một cách vô điều kiện. Cái kiểu bảo vệ ấy, giống như thể một người mẹ sẵn sàng hi sinh tất cả mọi thứ để bảo vệ đứa con của mình. Có khi đúng và có khi sai.

Một người con gái khi yêu, yêu thật lòng là trọn vẹn, là hết mình cho người thương, là không ngại thay đổi tâm hồn mình để vừa vặn hơn với bản chất không hề biến đổi của người con trai. Khi yêu, dù người con gái có ích kỷ đến bao nhiêu thì cũng trở nên thật rộng lượng trước người ấy. Sẵn sàng tha thứ tất cả, mà có khi điều nhận lại được chỉ là một câu xin lỗi, một câu nhớ hay một câu yêu không thật lòng.

Một người con gái khi yêu, yêu thật lòng thì dù trái tim có cứng rắn, mạnh mẽ như thế nào đi nữa rồi cũng trở nên mềm nhũn trước những điều mang nghĩa là yêu thương. Chỉ cần người con trai nhẹ nhàng quan tâm, chỉ cần người ấy biết cách đưa tay, khẽ chạm vào sợi tóc của mình trước mỗi cơn gió thoảng qua là người con gái đã trở nên yếu mềm như chưa từng vậy.

Bởi một người con gái khi yêu, yêu thật lòng là tự sâu tâm can luôn có hơi hướng của sự đợi chờ. Cứ chờ, cứ đợi hết lần này đến lần khác và cố gắng cho đến một ngày người ấy chỉ yêu mỗi mình thôi… cứ tin thế mà đôi khi biết nó là vô vọng.

Bởi một người con gái khi yêu, yêu thật lòng luôn hi vọng đến một ngày người con trai có thể nhận ra bản thân mình đặc biệt, là duy nhất trên cõi đời này và rất đáng để người ta tự nguyện bỏ đi tất cả mọi thứ chỉ để có được mình.

Bởi một người con gái khi yêu, yêu thật lòng dù có keo kiệt đến bao nhiêu cũng không không tiếc gì tình cảm, những giọt nước mắt cho đi vì người mình yêu. Khi đã trót thương một người con trai, người con gái vô thức quên đi bản thân mình trong cuộc sống ngày thường, cứ lãng đãng tồn tại như cánh bèo trên dòng nước chảy ngang.

Nhưng một người con gái khi yêu, yêu thật lòng sẽ chấp nhận bước đi không tính toán khi tất cả niềm tin yêu bị phá vỡ, khi nhận ra không còn điều gì có thể bấu víu lấy được. Dù người con gái hiểu rằng, tìm thấy được tình yêu trong đời này là rất khó, phải bằng mọi cách mà nắm giữ nó… Nhưng để làm gì, khi cố níu kéo một thứ tình yêu vô vị, mãi chỉ có sự cố gắng đơn phương như thế…

Một người con gái khi yêu, yêu thật lòng sẵn sàng chia tay, cố gắng quên đi một người con trai không phải bởi vì hết yêu, hết tình cảm mà bởi vì đã quá đau rồi mà thôi. Khi đó, với người con gái, yêu thương qua đi, chỉ còn nỗi đau ở lại.

Một người con gái khi yêu, yêu thật lòng là sẵn sàng bỏ qua tất cả lời ra tiếng vào, khen chê này nọ để bảo vệ những cảm xúc dành cho người ấy, coi người ấy là thần thánh mà tôn sùng một cách vô điều kiện. Cái kiểu bảo vệ ấy, giống như thể một người mẹ sẵn sàng hi sinh tất cả mọi thứ để bảo vệ đứa con của mình. Có khi đúng và có khi sai.

Nhiều khi người con gái vì yêu nên mù quáng, để rồi ngu ngốc, tin vào người mình yêu, nhưng nhận lại tất cả chỉ là sự lừa dối, sự giả tạo mà thôi. Nhưng biết làm sao được, khi mẹ sinh con ra là con gái nhỉ.

Và người con trai sẽ có cảm xúc như thế nào trong tình yêu nhỉ? Nếu bạn là một người con trai khi đọc được những dòng chia sẻ này hãy chia sẻ cảm xúc của mình cho chúng tôi bằng cách để lại bình luận bên dưới nhé. Dù thế nào đi nữa, là con trai hay con gái thì hi vọng mọi người sẽ nhận được một tình yêu như tình yêu mà mình đã trao tặng nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng hợp những câu nói hay về con gái khi yêu

Mơ thấy bắp ngô: Hy vọng thành hiện thực –

Tất cả những hình ảnh có liên quan đến bắp ngô trong mơ đều tượng trưng cho niềm hy vọng của bạn đã trở thành hiện thực. Mơ thấy bắp ngô là điềm tốt, tượng trưng cho mọi thành công. Hình ảnh một đồng ngô xanh xuất hiện trong mơ có nghĩa những hy vọn
Mơ thấy bắp ngô: Hy vọng thành hiện thực –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bắp ngô: Hy vọng thành hiện thực –

Các lễ hội ngày 19 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đức Bác

Các lễ hội trong tháng 2 âm lịch vào ngày 19 tháng 2 có lễ hội tiêu biểu đó là Hội đền Bà Tấm, Hội Quán Thế Âm. Các lễ hội diễn ra trong ngày 19 tháng 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 19 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đức Bác

Các lễ hội ngày 19 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đức Bác

Các lễ hội diễn ra trong ngày 19 tháng 2 âm lịch gồm:

1. Hội đền Bà Tấm

Thời gian: Tổ chức vào ngày 19 tháng 2 âm lịch - ngày hội lớn là ngày 25 tháng 7 âm lịch.

Địa điểm: xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Bà Tấm (tức Nguyên Phi Ỷ Lan).

Nội dung: Tương truyền, ngày 19 tháng 2 là ngày sinh cả Bà Tấm. Ngày hội được mở đầu bằng một đám rước long trọng - rước nước. Đám rước khởi hành từ Đền Bà Tấm lên đến giếng nước cạnh Chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km. Đi đầu đám rước là cờ ngũ hành, tiếp đến là tổng cờ, rồi đến chiêng, trống, bát bửu. Liền sau đó là long đình rước bài vị của bà Ỷ Lan, có những người phục dịch theo kiệu. Sau kiệu bà là kiệu dựng chóe lấy nước.

Trong lúc diễn ra cuộc rước nước, thì từ các thôn cũng tiến hành lễ rước vật ra đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào Đền yên vị thì cuộc lễ bắt đầu.

Trong hội còn có các trò chơi khác như: tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt pháo và thời pháp thuộc còn có cả hát cô đầu...

2. Hội Quán Thế Âm

Thời gian: Tổ chức vào ngày 19 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn đức Phật Bồ Tát Quán Thế Âm.

Nội dung: phần lễ có rước ánh sáng gồm: rước đuốc, rước kiệu, múa lân, múa rồng để cầu mong ánh sáng soi đường cho chúng sinh, và trong phật giáo ánh sáng đồng nghĩa với trí tuệ, trí tuệ sáng thì tấm lòng, đạo đức cũng trong sáng, sẽ làm nhiều việc thiện; lễ khai kinh để cầu nguyện cho quốc thái dân an, chúng sinh an lạc. Lễ trai đàn chuẩn tế để cầu siêu, cúng thập loại chúng sinh. Lễ thuyết giản về Bồ Tát Quán Thế Âm và dân tộc ngợi ca lòng từ bi bác ái của Đức Phật Bồ Tát Quán Thế Âm và cầu nguyện cho dân tộc bình an thình vượng; Lễ rước tượng Quán Thế Âm nhằm cầu nguyện cho đồng bào chúng sinh đi biển làm ăn trên sông nước được bình an và thuận lợi.

Phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc như: hội hóa trang, hát dân ca, thi cờ, nhạc, họa, điêu khắc, múa tứ linh, thả đèn trên sông, hát tuồng... các hoạt động văn hóa như triển lãm thư pháp và tranh thủy mặc, hội thi thuyết minh về danh thắng Ngũ Hành Sơn, hội thi nấu ăn chay...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 19 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đức Bác

Đức Phật nói về tái sinh, cuộc sống sau khi chết

Chủ đề tái sinh, cuộc sống sau khi chết là điều không ít người tò mò nhưng không phải ai cũng hiểu rõ và bài viết sau sẽ giúp bạn hiểu rõ.
Đức Phật nói về tái sinh, cuộc sống sau khi chết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chủ đề tái sinh, cuộc sống sau khi chết là điều không ít người tò mò nhưng không phải ai cũng hiểu rõ và bài viết sau sẽ giúp bạn hiểu rõ và tự tìm được câu trả lời cho mình.  

Đầu thai là gì?


Đức Phật cho chúng ta biết cuộc sống có sự tiếp nối, tức là tái sinh mà dân gian gọi là đầu thai. Đầu tức là quăng là ném, thai là bào thai. Vì chúng ta không có năng lực để tự đi tái sinh mà lại bị nghiệp dẫn đi, nghiệp này nắm chúng ta và quăng chúng ta vào bào thai cho nên chúng ta có người sinh ra trong gia đình giàu có, có người lại sinh ra trong gia đình nghèo khó chứ làm gì ai muốn mình nghèo không? 
 
Chúng ta đâu có ai muốn mình dốt nát quê mùa sinh ra ở những vùng sâu vùng xa đâu? Vậy mà những người ở vùng đó nhiều người vẫn đẻ con đều đều. Người ta cho rằng tại vì những người ở đó dân trí thấp cho nên họ liên tục sinh con trong khi đó có nhiều người không sinh được con.

Lý do là nghiệp dẫn mình đi, nó ném mình đi vào đó và chiêu cảm, đưa chúng ta đi từ cảnh giới này sang cảnh giới khác và cuối cùng mình dừng lại bằng sự chiêu cảm thích thú. Chúng ta sân si, nóng nảy thì nó sẽ chiêu cảm đến những cảnh giới nóng nảy, bực bội, hơn thua, hễ mà mở miệng ra là gây gổ, mâu thuẫn. Nghiệp ném chúng ta vào bào thai tương ứng với tâm thức và cái tâm của chúng ta đang khởi lên nghiệp.

Tham khảo thêm: Bảy cửa ải sau khi chết con người phải trải để đầu thai sang kiếp khác
 
Duc Phat noi ve tai sinh, cuoc song sau khi chet
 
Trừ những vị đại bồ tát do nguyện lực tái sinh cho nên các ngài này có thể đến những cảnh giới theo tâm nguyện độ sinh mà không bị nghiệp chi phối có thể đến tới bất cứ đâu từ địa ngục hay tới tất cả những cảnh giới cao hơn thẳm sâu trong thiền định, các ngài đến một cách tự tại đó là bồ tát thừa nguyện lực mà tái sinh. Trong khi đó chúng ta hoàn toàn không có khả năng này, không thể tới nơi mà mình mong muốn, đành để bị nghiệp lực dẫn đi tái sinh. Việc chúng ta không chọn được nơi mình tái sinh được Đức Phật gọi là đảng sinh trong dân gian gọi là đầu thai. 
 

Thân Trung Ấm là gì?


Sau khi thân này đã kết thúc tứ đại trả về cho tứ đại, hành trình để chúng ta đi tìm thọ một cái thân kế tiếp, chặng giữa của thân trước và thân sau chúng ta có thọ một thân, thân đó rất đặc biệt đó là thân trung hữu còn gọi là Thân Trung Ấm.

Thân mà chúng ta đang sống gọi là tiền hữu (chịu đủ đớn đau, buồn, khổ trong cuộc đơi), thân mà chung ta sau khi chết chúng ta bắt đầu đầu thai thì thân đó gọi là hậu hữu (tức là bắt đầu của một cái thân khác, cũng chịu sinh tử, cũng chịu phiền não, cũng trôi trong sinh tử luân hồi). Chặng giữa của thân trước và thân sau gọi là thân trung hữu. Thân trung hữu vẫn còn chịu sinh tử, vẫn còn chịu phiền não, vẫn còn đầy tham sân chấp ngã. Thân đó còn có một cái tên khác là Thân Trung Ấm bởi vì cũng được cấu thành từ 5 ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. 
 
Tất cả chúng ta sau khi chết đều phải thọ qua Thân Trung Ấm này hay còn gọi là thân trung hữu chỉ trừ những chúng sinh đặc biệt ở hai trường hợp sau đó là chúng sinh tạo nghiệp cực ác đọ vào cảnh giới địa ngục thì sinh liền vào cảnh giới địa ngục gọi là hóa sinh không thọ thân trung ấm này. Trường hợp thứ hai là khi chúng sinh tạo nghiệp cực thiện thì được sinh vô cõi trời vô sắc thì đó là cảnh giới hóa sinh, sinh ngay nơi đó không cần trải qua Thân Trung Ấm.
 
Còn lại kỳ dư tất cả chúng ta đều phải thọ vào Thân Trung Ấm để là bước chuyển giao giữa thân đời trước và thân đời sau. Tất cả những điều này Đức Phật đều nói trong Luận Du Già.  
Tham khảo: Kỳ lạ hiện tượng người đầu thai truyền kiếp có thật
 
Sau khi chet, tam chung ta bi loan dong
 
Cho nên thân trung hữu này là thân quả báo, nó vẫn chịu quả báo là thân quả báo của khoảng giữa đời trước và đời sau vì quả báo nên thân này vẫn chịu khổ. Vì thế, khi người thân mới mất, mất vì oan khuất hay chưa tới số, hoặc vì lý do gì đó đột tử thì trong khoảng 7 hay 49 ngày (thân này tuổi thọ tối đa là 49 ngày). Theo tinh thần Tị Nại Gia Tạp Sự là thân này chỉ có tuổi thọ 49 ngày và có đầy đủ sức thần thông, mắt có thể thấy xa không chướng ngại, đi xuyên tường, hay có thể nói đơn giản là thân trung ấm này có thần thông, biết hết, biết tất cả chuyện này chuyện kia và thỉnh thoảng chúng ta khởi niệm hướng về người này thì chúng ta có cảm nhận là người đó đang buồn, đang vui hay đang khổ. 
 
Những người chết đột ngột, tâm niệm của họ vẫn là ái niệm, họ thương tiếc vợ/chồng, con cái, những người thân yêu và chỉ có họ mới chuyển hóa được họ, mình chỉ bắc cầu, còn muốn qua vực thẳm sinh tử chính những người đó phải bước chân đi. Vì thế, khi họ vẫn đang theo ta thì cố gắng phát tâm bình an, ăn chay, tránh phạm các giới vì đó là khi chúng ta cho người thân của mình cơ hội để siêu thoát.
 
vi dai bo tat do nguyen luc tai sinh cho nen cac ngai nay co the den nhung canh gioi theo tam nguyen do sinh
 
  Chúng ta có cái thân nằm ở giữa thân trước và thân sau - Thân Trung Ấm vẫn còn cảm nhận buồn, vui, thương ghét. Thân này còn cảm nhận đầy đủ giống như chúng ta, không thay đổi được gì, chỉ có thay đổi là thân tứ đại không còn chứ anh linh vẫn còn. 
 
Trong Tì Gia Nạp Sự ghi lại những lời Đức Phật nói với Tôn giả An An: “Này An An khi cha mẹ gần gũi với nhau chính là lúc thân trung hữu vào bào thai. Trung ấm có hai loại, loại hình sắc xinh đẹp và dung mạo xấu xa, thân trung hữu của điạ ngục hình tướng rất xấu, sắc đen như than, trung hữu của súc sinh sắc nám như khói, trung hữu của ngạ quỷ sắc đạm như nước, trung hữu của người và trung hữu của đời ở cõi dục thì như vàng ròng, trung hữu của chư thiên cõi sắc thì đẹp lộng lẫy màu tươi sắc trắng rực rỡ.
 
Thân trung hữu của hàn nhân thiên của cõi dục như đứa trẻ 5-7 tuổi. Thân trung ấm của chúng sinh ở cõi sắc lớn bằng thân bạn hữu và có ý phục do có nhiều chủng tử tàm tu (Tàm: tức là hổ thẹn, tu là có tu tập). Chúng sinh ở cõi vô sắc không có trung ấm thân bởi vì không có hình sắc, loại  hữu tình cực thiện như nghiệp báo cõi vô sắc và loại cực ác như nghiệp báo ở địa ngục ngay khi chết liền thọ sinh mà không trải qua thân trung ấm.
 
Trung hữu của chư thiên đầu hướng lên, trung hữu của người và súc sinh và quỷ nằm ngang mà bay đi, thân trung hữu của chúng sinh ở cõi địa ngục thì chúc xuống, các trung ấm thân đều có thần thông, nương nơi hư không mà đi, mắt có thể nhìn rất xa và sáng suốt. Trong một khoảnh khắc có thể đi tìm đến chỗ mà thọ sinh”.  
Than trung am ton tai toi da trong 49 ngay
 
Ở đoạn kinh này Đức Phật nói rất là chính xác với Tôn Giả An An là thân trung ấm này có thần thông nên mới có chuyện cầu hồn, cầu cơ. Đó là lý do nhiều người có thể gọi hồn người chết hoặc có hiện tượng nhập hồn.
 
Ngài cho biết thêm: “Này An An, trung ấm thân chỉ trụ được 7 ngày đêm, nếu trong thời hạn ấy không tìm được chỗ thác sinh thì chết rồi sống lại đại khái là trong vòng 49 ngày nhất định trung ấm thân phải được thọ sinh 
 
Trung hữu sau khi chết hoặc sinh trở lại như thân trước hoặc do nghiệp lành dữ đổi thành thân của loại khác. Trung ấm còn có tên là hương hành tức là cái thân này tìm mùi hương mà bay tới, đi lấy mùi thơm đó để làm thức ăn nuôi sự sống của mình nên gọi là hương hành.
 
Cho nên chúng ta cúng bày ra rất nhiều thứ nhưng chúng ta cúng bằng hương, bằng mùi. Sắc và hương này chúng sinh nào có duyên sẽ được thọ nhận, họ lấy cái hương này để sống. (Đây là lý do cơm cúng dễ bị thiu hơn cơm chúng ta nấu thường ngày).
 
Lại nữa này An An, thân trung ấm khi sắp diệt để thọ thân hậu hữu tùy theo nghiệp đã tạo thấy nhiều tướng khác nhau, bấy giờ tâm thức mơ màng dường như là đang ở trong mộng, 
 
Những kẻ tạo nghiệp xác, hay giết chết các súc vật như heo, dê, gà, vịt, tôm, cá thì lúc ấy thấy những loài đó mà có thấy người đang làm thịt, tùy theo túc nghiệp tự nhiên sinh ra ưa thích thành ra ưa thích đến đó để xem, để coi khi đến nơi liền bị cảnh sắc đó lôi cuốn và trở ngại không thoát li được trung hữu liền diệt mà thọ thân hậu hữu ngay nơi đó.
 
Lúc sắp diệt trung ấm thấy nhiều màu sắc sinh diệt liên tục như người sắp chết thấy những hình tướng tạp loạn mắt chăm chú nhìn, tay chỉ chỗ này, chỗ khác.
 
Lúc gần chết, tâm mình tán loạn, niệm Phật không được, cố gắng niệm lớn lên cũng không ra được vì thế, người hộ niệm giúp cho người đó giữ được chính niệm. Chính vì giữ được chính niệm người đó không bị các ác nghiệp dẫn đi nên mới được thọ sinh vào cảnh giới tốt.

Kate Nguyễn

Vong hồn, cô hồn thực sự có hay không? Vong hồn, ma quỷ, yêu tinh và Thần Phật khác nhau như thế nào? Áp vong - giao tiếp với thế giới âm hay chứng tưởng tượng ám thị

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đức Phật nói về tái sinh, cuộc sống sau khi chết

Kiến giải vận trình của người sinh giờ Thìn

Giờ Thìn từ 7 giờ đến 9 giờ, đại diện cho sự mới mẻ, phấn chấn. Cùng xem vận trình của người sinh giờ Thìn dựa vào luận bát tự mệnh lý.
Kiến giải vận trình của người sinh giờ Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

1. Tổng luận vận trình chung của người sinh giờ Thìn

  Vận trình của người sinh giờ Thìn thông minh linh hoạt, tiền vận có thể hiển đạt như tới trung vận sẽ tổn hao, hậu vận tốt đẹp trở lại, có thể an hưởng tuổi già.
 
Nam mệnh sinh giờ Thìn có vẻ ngoài đẹp, trưởng thành, lịch sự, biết cách thể hiện bản thân nhưng quan điểm tình yêu lại không để ý vẻ bề ngoài, thích người con gái thiện lương, hiếu thuận.   Nữ mệnh sinh giờ Thìn có vận trình tình cảm trầm ổn, thích lãng mạn, có tư tưởng truyền thống, biết thể hiện tình ý với người khác.
Kien giai van trinh cua nguoi sinh gio Thin hinh anh
 
Người sinh đầu giờ Thìn cha mẹ song toàn, 43 tuổi có tai họa bệnh tật, muốn tiêu trừ bệnh phải tín Phật, tích cực làm việc thiện để được che chở   Người sinh giữa giờ Thìn khắc mẹ, một đời vô công, những năm đầu vận trình trắc trở, càng về già phúc càng lớn.   Người sinh cuối giờ Thìn khắc cha, thông minh hiền lành, có khả năng thành công. Mệnh mang đào hoa, nên cưới người có tính tình cứng rắn mới tốt bằng không sẽ có trở ngại, tiền vận đảo điên, hậu vận vinh hoa.
Xem thêm bài viết: Coi số mệnh sướng khổ qua giờ sinh theo mùa
 

2. Tính cách người sinh giờ Thìn

  Xem vận trình của người sinh giờ Thìn cho biết người này tính cách lạc quan, quang minh. Sinh giờ Thìn – lúc sáng sớm, thời điểm mặt trời nhô lên có tiềm năng vô hạn, tiền đồ sáng sủa. Người này đại diện cho hi vọng, tượng trưng cho tương lai. Thông thường vì mười phần phấn chấn nên tính cách kích động, dễ mang tới phiền phức cho bản thân.   Người này phải trải qua trừng phạt mới tích lũy được kinh nghiệm, hoàn thân mình hơn. Cần không ngừng phấn đấu để trau dồi, dốc lòng phát huy nguồn năng lượng để chính mình tốt hơn và lan truyền không khí sôi nổi tới những người xung quanh.
Kien giai van trinh cua nguoi sinh gio Thin hinh anh
 
Sinh vào giờ Thìn có không gian tiến bộ, trường thành rất lớn, tiền đồ vô lượng. Họ không chỉ trời sinh động lực dồi dào mà còn có tư tưởng lạc quan, nếu có thể kiên trì với động lực ban đầu thì càng ngày càng leo cao hơn. Tuy quá trình vất vả, thậm chí nhiều lần thất bại nhưng thành công sẽ đến và càng vang dội hơn.   Trong con người tiềm tàng một con rồng, lặng lẽ ở đáy vực sâu hoàn thiện bản thân, đề cao mình, nghỉ ngơi dưỡng sức rồi thời cơ thích hợp sẽ hành động, thông qua mài dũa mà tiến lên, từng bước gặt hái được thành quả.  

3. Vận trình của người sinh giờ Thìn theo từng tuổi

 

Tuổi Tý

  Người tuổi Tý sinh vào giờ Thìn bát tự có Thìn Thổ khắc Tý Thủy nên một đời gập ghềnh, vất vả. Người này có chí lớn, có hoài bão lại tài hoa trí thức nhưng tổ nghiệp không có căn cơ, anh em không hỗ trợ nên sự nghiệp tuy có thời gian thành công nhưng cuối cùng khó khăn, không thể giữ vững thành quá, tạo thành nuối tiếc cả đời.
Xem thêm bài viết Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Tý
 

Tuổi Sửu

  Mọi việc đều không cát lợi, lưu luyến buồn phiền, âm khí trùng điệp. Hôn nhân hình khắc, sau khi cưới có nhiều trắc trở, nhiều điều không may. Một đời xui xẻo, làm việc không thuận lợi. Tuy rằng ăn no mặc ấm nhưng cũng không có tích trữ quá lớn.   Bạn nên chọn người hợp tuổi để kết hôn, quyết không thể xung đột, khắc tuổi với nhau. Thứ hai nhà nên ở hướng Đông để mặt trời chiếu rọi vào nhà lúc nào cũng có sinh khí để bù đắp những thiếu sót về giờ sinh.  

Tuổi Dần

  Người tuổi Dần sinh giờ Thìn số mệnh không có quan lộc nên thiếu quý nhân dẫn đường, một đời bôn ba lao lực, ít có ngày phát đạt. Đầu óc thông minh, phản ứng nhạy cảm, đầy bụng học vấn, thân thể khỏe mạnh, một đời không bệnh, tuy rằng tai hiểm không ít nhưng không có gì đáng ngại.   Phải rời bỏ quê quán mới có thể hoàn thành nghiệp lớn, càng không được sợ bôn ba, hết mình cố gắng. Sự nghiệp không thể ở cố hương, càng đi xa càng có lợi.  

Tuổi Mão

  Vận trình của người sinh giờ Thìn tuổi Mão báo rằng người này thông minh, có tài học, một đời nổi bật hơn người nhưng bôn ba lao lực. Cuối cùng thành công ít, thất bại nhiêu, nhược điểm lớn nhất là làm việc không chu đáo, tỉ mỉ, mù quáng tiến lên. Mãi tới tuổi trung niên mới rút được kinh nghiệm thì hối hận không kịp, rốt cuộc tỉnh ngộ may ra thành công.  

Tuổi Thìn

  Thông minh sáng suốt, dung mạo xinh đẹp, khôi ngô, vợ chồng hòa hợp, áo cơm sung túc, phàm mưu đắc ý, quan hệ xã giao vui vẻ. Bởi giờ sinh năm sinh đều là cầm tinh Thìn nên một đời hạnh phúc phong lưu, hôn nhân mỹ mãn. Sự nghiệp có quý nhân trợ giúp, trong gia đình có cha mẹ vợ chồng chống đỡ, một đời không hung hiểm tai nạn, nhân duyên cực tốt. Bất kể là quan lớn hiển quý hay bình dân bách tính đều vô cùng mến mộ.  

Tuổi Tị


Kien giai van trinh cua nguoi sinh gio Thin hinh anh
 
Tị Hỏa tương sinh Thìn Thổ, thuận buồm xuôi gió, nhiều niềm vui, không thích tự ái, tao nhã cao thượng, có nhiều bạn bè.  Sự nghiệp có quý nhân phù trợ, được cha mẹ nâng đỡ nên phát triển nhanh, áo cơm sung túc, giàu có.
Xem thêm bài viết Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Tỵ

Tuổi Ngọ

  Ngọ Hỏa tương sinh Thìn Thổ, ít thanh nhàn, chìm nổi bất định, cuộc đời cô quạnh, chuyện không như ý, lúc nào cũng có ngăn trở. Người này sống rất bình thản, không dựa vào cha mẹ anh chị em, chỉ có thể tự lực cánh sinh khai sáng sự nghiệp. Nhưng vì không có quý nhân nên lúc khó khăn sẽ rất gian nan.   Tuổi Ngọ tự lập từ nhỏ, chí hướng vững vàng, lúc nào cũng tu dưỡng bản thân , thích học những ngành kĩ thuật, có can đảm và đấu tranh, làm người 3 phần dựa vào số, 7 phần dựa vào sức.

Tuổi Mùi

  Người tuổi Mùi sinh giờ Thìn trong bát tự có Dịch Mã, rời xa quê hương để phát triển sự nghiệp. Sự nghiệp cũng không quá lớn, không nhiều tài nguyên nhưng có quý nhân trợ giúp nên tiến hành vẫn thuận lợi. Chuyện tình cảm có tranh chấp, phát sinh tình yêu ngoài luồng mà vướng thị phi.  

Tuổi Thân

  Thìn Thổ tương sinh Thân Kim, mọi việc đều cát lợi nhưng gặp Thiên La, có nhiều hiểm. Người này thông minh, bên ngoài có quý nhân nâng đỡ, sự nghiệp triển khi thuận lợi nhưng khó lâu dài, gặp nhiều rủi ro bất ngờ. Tính tình ngay thẳng, gặp chuyện sẽ không cân nhắc tỉ mỉ chu đáo, có phần mù quáng nên xuất hiện thất bại cũng là lẽ thường.  

Tuổi Dậu

  Vận trình của người sinh giờ Thìn tuổi Dậu có Thìn Thổ tương sinh Dậu Kim, tính tình đôn hậu, biết cách ăn nói, chức quyền chí cao, cuối cùng lại thất bại. Một đời hạnh phúc, cơm áp phong phú, tính cách dịu dàng, làm người thành thực, lời nói đi đôi với việc làm nhưng rất cố chấp, yêu là nói, người khác nói lời khó nghe là không thích. Bất luận trên đường hoạn lộ hoặc tài lộ đều có quý nhân nên phát triển thuận lợi.  

Tuổi Tuất

  Thìn Tuất gặp Tỷ Kiên, tài khố cần động, tính cách kiên cường chính trực, một đời trắc trở khó khăn. Người này tổ nghiệp héo tàn, không dựa vào người thân, tuổi trẻ dễ tai nạn, trung niên chuyển vận, tay trắng làm nên sự ngiệp. Tuổi già nghèo khó, cả đời làm việc phải cẩn thận.
Xem thêm bài viết Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Tuất
 

Tuổi Hợi

  Thìn Thổ khắc chế Hợi Thủy, vượng vận đáng quý, có tài nịnh hót, yêu hư vinh, thích xa hoa. Một đời vinh quang, hạnh phúc nhiều, tâm địa thiện lương, thích làm người khác vui, tổ nghiệp tốt, được người thân trợ giúp. Một thân anh tuấn phóng khoáng, được nhiều người khác phái yêu thích, thích được người khác nịnh nót, nói lời dễ nghe.
Kiến giải vận trình của người sinh giờ Mão Kiến giải vận trình của người sinh giờ Sửu Kiến giải vận trình của người sinh giờ Tý

Trần Hồng
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến giải vận trình của người sinh giờ Thìn

Phong thủy phòng làm việc –

Trong phong thủy, việc đặt cái bàn, cái ghế trong nhà, văn phòng… cũng hết sức quan trọng. Vì tất cả những yếu tố này đều tác động đến khí và vận của gia chủ. Để có một phong thủy tốt cho khu vực văn phòng cũng như đặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bàn làm việc đúng hướng của cung tuổi, gia chủ cần hội đủ một số điều kiện về ngoại thất, nội thất

file.392840

Hài hòa ngoại thất

1. Tìm vị trí khu vực chọn nơi làm chỗ đặt văn phòng phải thông thoáng, có lối đi thuận tiện cho nhân viên và khách hàng.

2. Bên ngoài văn phòng nên tránh có những nhánh cây to đâm trực tiếp vào cửa chính của văn phòng. Cửa văn phòng tối kỵ đối diện cột điện và bình điện hoặc gốc cây to.

3. Cửa văn phòng không được đối diện cửa toilet vì rất ảnh hưởng sức khỏe vận may và sự nghiệp hoặc đối diện song song với cửa phòng dễ bị thị phi.

4. Cửa văn phòng không nên đối diện với cầu thang. Vì cầu thang đâm thẳng vào được ví như là một xe ủi đất. Văn phòng nơi làm việc sẽ không tồn tại lâu dài.

5. Tránh góc cạnh của các căn nhà đối diện đâm thẳng vào cửa văn phòng. Theo phong thủy cho là lưỡi gươm hoặc cây đao phủ vô hình đâm thẳng vào gia chủ làm cho thân thể ể oải, bất lực, suy nhược hệ thống thần kinh.

6. Nền nhà của văn phòng phải cao ráo và bố trí các bậc tam cấp phải hợp lý (nếu có) nếu nền nhà của văn phòng quá thấp thì công việc của gia chủ sẽ bị hãm về tài năng chiến lược trong kinh doanh cũng như sự quyết định không dứt khoát rõ ràng làm cho đối tác không tin cậy về mình.

7. Chọn hướng văn phòng theo cung tuổi thuộc mệnh Đông tứ hay Tây tứ trạch. (Điều này rất quan trọng cho sự nghiệp của gia chủ, được ví như là một căn nhà ở của gia chủ)

Nội thất hợp trạch mệnh

1. Tìm hướng tốt nhất cho cung mệnh tuổi, để đặt bàn làm việc.

2. Tránh bàn làm việc đối diện với cửa ra vào

3. Tránh đối diện song song với người ngồi làm việc

4. Tránh đặt bàn làm việc xéo. Nếu phương hướng không đúng cũng nên để ngay ngắn. Khi gia chủ tiếp khách hàng chỉ cần ngồi xéo góc 1 chút nhưng với điều kiện là gia chủ phải biết được phương hướng tốt mà điều chỉnh ghế ngồi cho hợp lý để dể tiếp khách. Bàn làm việc thuộc về tịnh, ghế ngồi thuộc về động.

5. Bàn hội họp hoặc bàn tiếp khách không được đặt đâm thẳng trực xung với bàn làm việc.

6. Không đặt bàn làm việc đối diện với cửa toilet. Rất ảnh hưởng trí tuệ và sự minh mẫn, có cảm giác lúc nào cũng muốn đi toilet. Nên đặt toilet ở phía ngoài công ty trong phạm vi cho phép.

7. Phía sau chỗ ngồi làm việc không nên có cửa sổ. Cảm giác bị bất an, được ví như có kẻ trộm đang rình rập. Cửa sổ nên đặt bên hông văn phòng là tốt nhất.

8. Phía sau bàn làm việc nên có tranh ảnh về núi non. Tượng trưng cho điểm tựa vững chắc, lưng dựa vào núi được ví như phòng thủ, nhưng hình núi non phải có màu sắc thích hợp theo ngũ hành.

9. Phía trên không được có xà ngang hay đèn trang trí treo, sẽ ảnh hưởng đến đầu óc cũng như sự thăng quan tiến chức.

10. Trước mặt bàn làm việc nên có một bức tranh vui có ý nghĩa, trường hợp này dùng khi các bạn làm việc quá căng thẳng, sẽ nhìn vào bức tranh đó tạo cảm giác nhẹ nhàng sẽ giãm bớt áp lực trong công việc.

11. Trên bàn làm việc bố trí giấy tờ cũng như máy vi tính gọn gàng. Các bạn cần lưu ý máy vi tính cũng xếp cho đúng hướng.

12. Phải có ánh sáng tự nhiên hợp lý, khí thông… tránh trường hợp trong văn phòng tối tăm âm u, đầu óc dễ bị lú lẫn u muội.

13. Màu sắc trong văn phòng cũng không nên đặt vấn đề trong phong thủy nặng quá, chủ yếu có màu sắc thanh mát có tác dụng kiềm hãm áp lực trong công việc.

14. Trong phòng làm việc nếu có các vết nứt nẻ sâu trên tường, lập tức sửa chửa ngay.

15. Tránh hút thuốc trong văn phòng là một tác nhân gây căng thẳng đầu óc và dễ nhiễm khí độc, phiền phức cho người xung quanh.

16. Trên bàn làm việc phải có những vật khí phong thủy mang biểu tượng sự quyền lực cũng như tăng trí, thiêu tai, trừ mạn…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng làm việc –

Chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người Do Thái

Trong Kinh Cựu ước, nhà tiên tri Moses là một con người lỗi lạc của chủng tộc Do Thái…

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nhiều ý kiến cho rằng, Do Thái là tộc người thông minh xuất chúng nhất trên thế giới. Dân tộc này đã sản sinh ra nhiều thiên tài cho hành tinh, một trong số đó là nhà bác học vĩ đại Albert Einstein - người được biết đến nhiều với Thuyết tương đối.

Tuy nhiên, người Do Thái nổi tiếng nhất lại là nhà tiên tri Moses…

Thưở thiếu thời đầy sóng gió…

Những tư liệu đề cập tới Moses phần lớn là các tác phẩm tôn giáo, trong đó chủ yếu là Kinh Torah. Theo đó, Moses sinh ra ở Ai Cập, vào thời kì người Do Thái bị nền văn minh này đô hộ và bắt làm nô lệ.

Pharaoh đã ra một đạo luật tàn ác, tàn sát tất cả những bé trai người Do Thái bằng cách dìm chúng xuống sông Nile. Để cứu con trai mình, sau khi sinh ra Moses, mẹ ông đã đặt ông vào một chiếc nôi thả trôi theo dòng sông thần thánh.

chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người do thái 1
Bà Jochebed - mẹ của Moses thả con trai 3 tháng tuổi trôi theo dòng sông Nile.

Moses may mắn khi chiếc nôi đã trôi tới chỗ công chúa Thermuthis đang tắm cùng các tì nữ. Bà đã cho vớt đứa bé lên, nhận làm con nuôi.

Luôn theo sát chiếc nôi của đứa em trai, Miriam - chị gái của Moses đã tới xin công chúa cho phép trở thành vú nuôi của đứa trẻ. Cái tên Moses cũng là do công chúa Ai Cập đặt, nó có nghĩa là “cứu khỏi nước”.

chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người do thái 2

Khi Moses trưởng thành, ông nhận thấy, đồng bào Do Thái của mình đang sống trong lầm than kiếp nô lệ. Chứng kiến một quản nô Ai Cập đánh đập người Do Thái, Moses đã giết chết người Ai Cập đó, vùi xác trong cát.

Không ngờ, sự việc bại lộ, Moses buộc phải bỏ trốn sang bán đảo Sinai. Tại đây, ông đã bênh vực, bảo vệ 7 cô gái chăn cừu khỏi một nhóm mục tử hung hăng. Để cảm ơn Moses, cha của 7 cô gái thiết đãi Moses hậu hĩnh và cho ông chăm sóc bầy chiên. Ông ở đây tới 40 năm liền.

chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người do thái 3
Moses bảo vệ 7 cô gái khỏi những kẻ hung hãn.

Hành trình trở lại Ai Cập…

Ở Sinai, Moses đã gặp Thiên Chúa, được Ngài trao cho quyền năng nhìn thấy trước tương lai và giao sứ mệnh dẫn dắt dân tộc mình thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập.

Moses trở lại Ai Cập với phép thuật to lớn, ông thuyết phục được các trưởng lão Do Thái tin và hành động theo qua những lời tiên tri. Cùng với anh trai Aaron, Moses tới gặp Pharaoh và đòi quyền lợi cho đồng bào mình.

chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người do thái 4
Moses được Chúa ban cho cây gậy phép đầy quyền năng và sứ mệnh cao cả.

Sau vài lần gặp, Pharaoh đều không đồng ý, lật lọng thậm chí ép người Do Thái lao dịch khổ sai hơn, Moses nổi giận và trừng phạt toàn xứ Ai Cập bằng 10 tai họa trong các lời tiên tri. Đó là dịch ếch nhái, dịch muỗi, ruồi mòng, châu chấu, dịch lệ tiêu diệt hết súc vật, dịch ghẻ, mưa đá, sấm sét… 

chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người do thái 5
Moses trừng phạt người Ai Cập bằng 10 tai họa.

Tai họa cuối cùng, thảm khốc nhất là lời nguyền “tất thảy con trưởng nam trong xứ Ai Cập đều chết, từ thái tử của Pharaoh ngồi trên ngai, cho đến con cả người nô lệ ngồi sau cối xay”. Sự kinh hãi bao trùm đất nước Ai Cập. Sau cùng, người Do Thái đã được trả lại tự do.

chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người do thái 6
Tại nạn thứ mười - tai nạn thảm khốc nhất người Ai Cập phải hứng chịu.

Dẫn dắt dân tộc tới miền đất hứa…

Rời Ai Cập, Moses lãnh đạo những người nô lệ Do Thái cùng gia súc đi về phía Đông, hướng tới miền đất hứa. Họ đi qua rất nhiều hoang mạc, gặp phải nạn thổ phỉ, nạn đói, khát. Song lần nào, Moses với cây gậy phép cùng sự giúp đỡ từ Chúa trời đều vượt qua, tiếp tục cuộc hành trình dài.

chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người do thái 7

Trên hoang mạc, có lần lương thực cạn kiệt, Moses làm phép cầu khấn đấng bề trên. Chúa trời đã tạo ra manna - một loại bánh giống lương khô trên trời rơi xuống, đồng thời phái chim cút bay tới các lều trại, tạo nguồn thực phẩm cho đoàn người Do Thái.

Khi đến Marah, tất cả gặp phải nguồn nước đắng, không thể uống được, Moses chỉ lấy một thanh gỗ ném xuống nước. Kì lạ thay, nước bỗng trong ra và dùng được ngay.

chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người do thái 8
Một lần khác, tại Rephidim, Moses gõ chiếc gậy phép vào tảng đá, nước từ đâu tuôn ra cho toàn bộ đoàn người vơi đi cơn khát.

Không chỉ vậy, đoàn người Do Thái của Moses còn phải đối mặt với những chiến binh Amalek hung bạo. Khi đó, Moses đã cho tuyển những tráng sĩ từ đồng bào mình, tập hợp lại thành một đội quân ứng chiến. 

Phần mình, Moses lên trên đỉnh đồi, giơ cao cây gậy phép Chúa ban cho. Khi ông giơ lên cao, quân Do Thái áp đảo quân địch, khi hạ tay xuống, chiến binh Amalek chiếm thế thượng phong. 

May sao, nhờ sự giúp đỡ của anh trai của Moses - Aaron và Hur - một người dân Do Thái mà Moses đã giương cao gậy phép được cho tới cuối ngày, cũng là lúc quân Do Thái đánh bại được quân đội Amalek.
 chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người do thái 9

Khi đi qua Biển Chết, rất nhiều dân chúng bị rắn lửa từ đâu kéo đến cắn chết. Để bảo vệ họ, Moses hóa phép ra một con rắn đồng treo lên cao. Những người dân bị rắn cắn chỉ cần nhìn vào con rắn đồng là mọi bệnh tật bỗng chốc tiêu tan.

chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người do thái 10

Theo một số ghi chép, Chúa trời đã báo với Moses, hành trình của ông sẽ bị dang dở bởi ông không còn sống được bao lâu nữa. Vì vậy, Moses đã trao lại quyền lãnh đạo, cẩn thận dặn dò các trưởng lão về mọi việc sau này. Sau đó, Moses một mình lên núi Nebo, ngắm nhìn lại toàn bộ hành trình đã trải qua và từ trần tại đỉnh Pisgah đúng sinh nhật 120 tuổi.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện về nhà tiên tri nổi tiếng nhất của người Do Thái

Xác định tọa và hướng của dương trạch –

Chắc chắn rằng cho đến nay có rất nhiều người không biết phân biệt Tọa. Hướng của gia đình quý vị như thế nào. Chúng tôi xin hướng đẫn mọi người cách nhận biết tương đối cơ bản để xác định Hướng và Tọa Sơn của căn nhà. Nếu nhà ở Là kiến trúc tầng lầu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chắc chắn rằng cho đến nay có rất nhiều người không biết phân biệt Tọa. Hướng của gia đình quý vị như thế nào.

8-497a6

Chúng tôi xin hướng đẫn mọi người cách nhận biết tương đối cơ bản để xác định Hướng và Tọa Sơn của căn nhà. Nếu nhà ở Là kiến trúc tầng lầu. bạn cần lấy mặt ánh sáng của căn nhà Làm hướng. Cái gọi là mặt ánh sáng chính là lấy mặt mà nhà hay mở cửa sổ nhiều nhất làm hướng. Thường Là năm ở mặt cửa sổ sát đất, mặt ánh sáng của ngôi nhà này là hướng Bắc, vì thế ngôi nhà này là dương trạch toạ Nam hướng Bắc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xác định tọa và hướng của dương trạch –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd