Nuốt ruồi trong lòng bàn tay –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: làng Nành (tên chữ là Phù Ninh), xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Phật Mẫu Man Nương, Pháp Vân (Bà Nành), đức phật Thích Ca, đức Trần Hưng Đạo.
Nội dung: Lễ hội chùa Nành gồm có lễ Tế, rước kiệu bà Nành ra Thạch Bàn (bãi cây vông). Lễ kéo ngựa, rước hương, rước hoa từ nhà tổ lên Chùa. Trong lễ hội còn diễn ra nhiều trò chơi dan gian vô cùng đặc sắc như: đấu vật, cờ người, thi nấu cơm, thi hát, chọi gà, bơi thuyền, rối nước. Tuy nhiên, độc đáo nhất vẫn là trò nâng cây phan. Cây phan là một bó khoảng 60 cây tre để bó nguyên cả thân và ngọn. Mọi người luôn tin rằng, nghệ thuật nâng cây phan thể hiện cuộc sống ấm no của cả dân làng. Các trò chơi trong hội đều nhằm ý nghĩa thể hiện sự cầu mưa, cầu nước, cầu phần thực của cả dân với nền nông nghiệp lúa nước ở đồng bằng sông Hồng.
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Phụ nữ tuổi Tỵ có khả năng sắp xếp mọi việc trong gia đình một cách chu toàn. Vì vậy, họ được chồng rất nể trọng. Những người này cũng có thể từ bỏ tất cả vì gia đình của mình. Họ là một nữ công gia chánh, luôn cố gắng để làm tròn thiên chức của người vợ hiền. Tuy nhiên, một số nữ giới tuổi Tỵ lại dễ nghi ngờ và hay ghen.
(Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân)
Ảnh minh họa |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Lời chúc buổi sáng ngọt ngào dành cho người yêu. Buổi sáng thường là lúc con người có được tinh thần thoải mái nhất sau khi đã được nghỉ ngơi qua một đêm dài. Đây là lúc để bạn thu nạp năng lượng chuẩn bị cho một ngày học tập và làm việc phía trước.
Có một cách đơn giản để người ta thu nạp năng lượng và có một tinh thần sảng khoái, vui tươi nhất đó là đọc được những lời chúc buổi sáng lãng mạn. Tin nhắn gọi bạn thức giấc, cùng bạn đón ngày mới với ánh nắng chan hòa và giúp bạn mỉm cười vì biết rằng có ai đó đang nhớ đến bạn.
Hãy mượn những lời chúc buổi sáng ngọt ngào để gửi đến người ấy sự ngọt ngào, hạnh phúc và vui vẻ bạn nhé.
Nắng buổi sáng ấm áp và ông mặt trời đang mỉm cười! Em chúc anh buổi sáng tốt lành, một ngày thật tuyệt và làm việc hiệu quả nhé!
——–
Tặng em người con gái anh yêu món quà có tên “buổi sáng tốt lành” được gói bởi sự chân thành, buộc bằng sợi dây quan tâm và đính kèm một lời nguyện cầu cho em được bình an và hạnh phúc trọn ngày.
——–
Đêm lạnh đã qua và bắt đầu ngày mới ấm áp. Chúc em luôn mỉm cười như những vệt nắng lấp lánh lúc bình minh và một ngày thật tuyệt em nha.
Chúc em buổi sáng tốt lành, nhớ ăn sáng trước khi đi làm em nhé. Cả ngày phải nhớ là luôn vui vẻ và hạnh phúc nghen.
Sáng rồi kìa em, tạm chia tay giấc mơ hồng đêm qua, thức dậy và đánh răng đi nhé. Chúc em ngày mới tốt lành và một ngày vui vẻ.
Ê đồ lười! Dậy ăn sáng đi chứ. Chúc anh buổi sáng ấm áp và ngày mới thật tuyệt nha. Good morning!
Nếu như anh có một điều ước ngay lúc này, anh sẽ ước người yêu anh có một ngày vui vẻ và hạnh phúc. Buổi sáng tốt lành em nhé.
Mỗi ngày, khi Chúa mở cánh cửa thiên đường, Ngài nhìn em và hỏi: “Điều ước hôm nay của con là gì?”. Em trả lời: Xin Người hãy bảo vệ người đang đọc tin nhắn này!
Anh có nhờ một thiên thần đến đánh thức em dậy vào sớm nay, nhưng đáng tiếc thiên thần ấy cũng ngái ngủ giống em nên anh phải tự mình nhắn tin đánh thức em dậy. Dậy đi nhé, chúc em một buổi sáng tốt lành.
Đêm qua em ngủ ngon chứ? Anh nhắn tin để chúc em một ngày mới hạnh phúc và luôn mỉm cười nhé. Yêu em!
Anh gửi cho em tin nhắn này để chúc em một ngày tốt lành. Hy vọng
rằng mỗi ngày em sẽ luôn cười nhiều và hạnh phúc nhé.
Mỗi ngày khi anh thức dậy, điều anh ước trước tiên là mong người nhận được tin nhắn này sẽ luôn vui vẻ và đón ngày mới với nhiều may mắn!
Tặng em một món quà: Đây là lời bác sĩ khuyên: Ăn sáng đều đặn, nhiều nước, đừng quên ăn vitamin C và nhắn tin cho anh ít nhất 3 lần/ngày”. Chúc em một buổi sáng ấm áp nhé.
Anh biết em vẫn còn đang nằm lười, tay em cố gắng để cầm chiếc điện thoại và cặp mắt dễ thương kia chỉ mở được 1 nửa để đọc tin nhắn của anh thôi phải không. Đến lúc thức dậy rồi đấy… Good morning.
Chúc buổi sáng tốt lành. Chúc bạn có một ngày tràn ngập những khoảnh khắc hào hứng và tuyệt vời.
Trên thế giới này chỉ có 2 loại người hạnh phúc… thứ nhất là kẻ điên và thứ hai là trẻ con. Hãy bị điên để thực hiện điều mà bạn mong muốn và hãy trẻ con để tận hưởng những gì bạn có. Buổi sáng tốt lành nhé!
Có hai điều anh thích nhất đó chính là em và công việc. Và có một điều anh ghét nhất là có công việc mà không có em. Đi làm đi nhé, anh đợi em ở công ty.
Em à, quen biết em là điều anh thích nhất, yêu em là điều anh hạnh phúc nhất và mỗi sớm mai thức dậy anh lại có thêm động lực bởi người anh nghĩ đến đầu tiên là em.
Em này, em đừng để công việc bận rộn của mình cuốn em đi mất khỏi anh nhé! Mỗi ngày hãy dành cho anh mấy giây trong tâm trí em. Ngày mới tốt lành em nhé!
Anh đã dậy để đi làm chưa hay vẫn còn cuộn tròn trong chăn ấm thế, anh đừng nướng kỹ quá nhé, muộn giờ làm đấy. Chúc anh ngày mới vui vẻ và làm việc hiệu quả!
Nếu bạn vẫn đang loay hoay không biết gửi tin nhắn với nội dung như thế nào đến nửa kia của mình thì những lời chúc buổi sáng lãng mạn chính là những gợi ý tuyệt vời dành cho bạn. Tuy nhiên, đừng làm dụng quá nhiều một tin nhắn nhé.
Hãy tạo sự bất ngờ cho người ấy với những tin nhắn khác nhau cho những buổi sáng khác nhau sao cho phù hợp với hoàn cảnh và tâm trạng. Bạn cũng có thể biến tấu để tạo nên những tin nhắn mang dấu ấn của riêng bạn. Chắc chắn nửa kia của bạn sẽ yêu thương bạn nhiều hơn mỗi ngày. Chúc các bạn vui vẻ nhé!
Xem tử vi người tuổi Hợi khá cẩn trọng trong tình yêu, không vội vàng yêu ai đó như kiểu “tình yêu sét đánh”. Tuổi Hợi trước khi quyết định yêu một người nghĩa là đã hiểu rõ bản thân mình thực sự có tình cảm với đối phương và hiểu rõ về con người của đối phương. Nhìn chung, họ cũng có khuynh hướng kết hôn khá muộn so với các tuổi khác.
Nam giới tuổi Hợi thường là những người rất đáng yêu và nhiệt tình. Khi đã yêu ai đó, họ cũng thường yêu hết lòng. Họ cũng là những người rất coi trọng gia đình. Sau khi kết hôn, họ luôn đặt hạnh phúc và lợi ích của gia đình lên hàng đầu để làm động lực phấn đấu trong sự nghiệp. Những người phụ nữ lấy chồng tuổi Hợi đều sẽ được trở thành người vợ, người mẹ vô cùng hạnh phúc.
Vì rất coi trọng gia đình nên với những người đàn ông tuổi Hợi, vợ và con cái của họ là những người chiếm vị trí cao nhất và không thể thay thế được. Người đàn ông tuổi Hợi thì thường không biết bày tỏ tình thương yêu. Họ khá vụng về trong cách biểu đạt tình cảm của mình cho những người thân yêu nhất nhưng lại làm khá tốt với những người ngoài khi cần xã giao.
Nữ giới tuổi Hợi lại là điển hình của những người vợ chịu thương chịu khó. Họ cũng luôn hoàn thành, chăm lo tôt tất cả mọi việc trong gia đình, coi trọng vấn đề giáo dục con cái. Tình yêu thương con cái vô bờ bên của họ biến họ trở thành những người mẹ nhân từ và tuyệt vời nhất. Họ cũng không thích chủ động mà thích được người khác chăm sóc, hỏi han ân cần, nhẹ nhàng. Nếu có một người vợ tuổi Hợi, các ông chồng sẽ gần như không phải lo lắng bất kỳ điều gì về gia đình của mình. Ngưòi tuổi Hợi cũng không cần có một cuộc sống phải thật giàu sang, phú quý. Điều mà họ quan tâm nhất chính là tình cảm giữa vợ chồng, con cái trong gia đình.
Những người vợ tuổi Hợi cũng luôn đối xử ân cần, chu đáo với bạn bè của mình lẫn của chồng và không ngại trả lời những câu hỏi “bất tận” của lũ trẻ. Họ thích chăm lo tốt nhất cho cuộc sống của cả gia đình và coi đó là niềm vui của mình. Khi được ở bên họ, những người khác sẽ luôn cảm thấy vui vẻ, thoải mái. Họ đi đến đâu là nơi đó tràn ngập tiếng cười và không khí vui nhộn, hoạt bát. Sự dịu dàng, nhẹ nhàng của họ còn được thể hiện ngay cả khi họ kêu ca, phàn nàn về một điều gì đó.
Xem bói tình duyên người tuổi Hợi
Người tuổi Hợi đôi khi cũng cảm thấy phiền lòng, dẫn đến cãi cọ với người yêu của mình. Họ cũng tương đối đào hoa nhưng điều đó không được thể hiện rõ ràng lắm. Rất nhiều trưòng hợp, có một đối tượng lý tưởng nào đó xuất hiện bên cạnh họ nhưng họ lại bỏ qua mà không nắm bắt lấy cơ hội đó, để rồi khi mọi việc qua đi lại thấy vô cùng hối hận. Họ có thể cãi cọ với người yêu chỉ vì những chuyện rất nhỏ nhặt để rồi sau đó lại thấy rằng mình hoàn toàn không nên làm như vậy.
Xem bói đường tình yêu hôn nhân của nam giới tuổi Hợi với các tuổi khác
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Tý: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn. Chỉ cần người vợ không quá nồng nhiệt và người chồng không quá trầm tĩnh thì mọi chuyện sẽ trở nên vô cùng tốt đẹp.
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Sửu: Những mâu thuẫn nhỏ nhoi tưởng chừng vô hại lại gặm nhấm nỗi lòng của mỗi người. Hãy rộng lượng với bản thân hơn và rộng lượng với chính người mà mình yêu thương thì sẽ đem lại hạnh phúc thực sự.
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Dần: Hai người có thể chung sống hòa thuận với nhau với điều kiện hai người không quá kỳ vọng và ảo tưởng về nhau quá.
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Mão: Tất cả mọi việc đều sẽ tốt đẹp, người vợ luôn biết cách nhường nhịn chồng nhưng vẫn khéo léo lái người chồng theo ý mình.
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Thìn: Hai người có thể chung sống với nhau bền lâu. Người chồng tuổi Hợi có xu hướng chăm sóc gia đình còn người vợ thì năng động bên ngoài nhiều hơn.
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Tỵ: Nếu hai người kết hợp lại thì người vợ sẽ may mắn cho người chồng. Sự tinh tường của người vợ tuổi Tý sẽ là kim chỉ nam cho những bước đường thăng tiến trong sự nghiệp của người chồng tuổi Hợi chăm chỉ, cần mẫn.
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Ngọ: Hai người đều luôn cảm thấy vui vẻ và thỏa mãn bên nhau. Sự thông minh nhanh nhạy của cô nàng tuổi Ngọ mang lại cho gia đình nhiều tiền tài vật chất trong khi người chồng rất là chu đáo trong công việc gia đình, bên nội lẫn bên ngoại.
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Mùi: Nếu kết hợp lại, người vợ thường sẽ gánh vác trọng trách gia đình, chu toàn mọi sự để người chồng phấn đấu cho công danh sự nghiệp mang lại thịnh vượng cho tổ ấm của hai người.
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Thân: Quan hệ của hai người tương đối tốt đẹp. Tài năng và tính cách của người chồng khiến người vợ luôn thoải mái, hài lòng. Hơn nữa, tiền tài và địa vị mà họ có được cũng nhờ sự khéo léo của 2 vợ chồng mà ra.
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Dậu: Sự khoan dung, thông cảm của người chồng có thể khiến cho người vợ cảm thấy vui vẻ, thoải mái. Người chồng cũng tìm thấy niềm vui và sự an ủi trong cuộc sống gia đình.
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Tuất: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tình yêu là cơ sở để hai người chăm sóc, lo lắng cho nhau và cùng nhau xây đắp một gia đình hạnh phúc và ấm êm.
- Nam giới tuổi Hợi với Nữ giới tuổi Hợi: Đây quả là một cặp trời sinh. Hai người thông cảm và yêu thương nhau, tạo nền tảng cho việc xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc sau này.
Xem bói đường tình yêu hôn nhân của nữ giới tuổi Hợi với các tuổi khác
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Tý: Quan hệ của hai người tương đối hòa hợp. Nếu hai người cùng làm trong một ngành nghề nào nó hoặc cùng nhau thực hiện các công việc chung mọi việc còn tốt hơn thế rất nhiều.
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Sửu: Người vợ có thể chăm lo chu đáo cho chồng con mà không ngại mệt nhọc, cả hai người đều cảm thấy hài lòng, thỏa mãn với mối quan hệ bền chặt này.
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Dần: Người tuổi Dần khá mạnh mẽ nên có thể nhiều lúc làm tổn thương người vợ mà không biết. Tuy nhiên người vợ tuổi Hợi lại rất hiểu biết và bản tính hiền hòa, khiêm nhường dần dần có thể giúp chồng nhận ra điều đó.
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Mão: Đây sẽ là một cặp đôi tuyệt vời, hai người có một cuộc sống gia đình bình lặng, êm đềm được bao người hằng mơ ước.
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Thìn: Hai người sẽ rất hợp nhau. Người vợ luôn biết cách chăm sóc, yêu thương và khiến cho người chồng được hài lòng, mãn nguyện và càng yêu thương vợ hơn.
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Tỵ: Người chồng tuổi Tỵ thích người vợ tuổi Hợi phải mạnh mẽ, nồng nhiệt hơn là sự dịu dàng, nhỏ nhẹ thường thấy. Tuy nhiên, lạt mềm thường buộc rất chặt nên người chồng vẫn không thể rời xa người vợ được.
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Ngọ: Người chồng tuổi Ngọ luôn cố gắng mang lại nhiều hạnh phúc cho người vợ bởi những hy sinh và cống hiến của người vợ tuổi Hợi cho gia đình chung của hai người là không hề nhỏ.
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Mùi: Với tính cách của cặp đôi này thì cuộc sống dù thế nào đi nữa vẫn luôn tiến triển theo chiều hướng tốt đẹp. Sự thành công, tiền tài có thể đến chậm rãi nhưng rất xứng đáng với nỗ lực của hai người.
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Thân: Hai người có thể chung sống được với nhau trong một thòi gian dài. Cả hai đều biết nghĩ cho đối phương để cuộc sống luôn tốt đẹp hơn.
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Dậu: Người vợ thì đảm đang còn người chồng thì biết tính toán, lo toan. Cả hai đều khéo “xử thế, ứng thời” nên đều có thể làm ra tiền tài vật chất một cách dễ dàng.
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Tuất: Quan hệ giữa hai ngưòi rất tốt. Cả hai người rất khẳng khái. Hơn nữa, người chồng tuổi Tuất thông minh và thương yêu vợ con nên không quản mệt nhóc mang tiền tài, vật chất về cho gia đình.
- Nữ giới tuổi Hợi với Nam giới tuổi Hợi: Đây quả là một cặp trời sinh, cả hai người đều yêu thương đối phương hết lòng và cũng rất biết suy nghĩ cho nhau. Hai người cũng đều rất nỗ lực để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc trong tương lai.
Vị trí đặt két sắt
Về phương vị, két sắt cần đặt ở nơi vượng khí hay đón được nhiều năng lượng nhất trong phòng. Thông thường đó là những vị trí chéo góc với cửa chính.
Trong trường hợp có nhiều lựa chọn, ưu tiên đặt két tại các cung Đông Nam (tài lộc) hoặc những cung tốt so với tuổi của chủ nhân.
Nên đặt két sắt ở hướng Sinh Khí
Một người có 4 hướng tốt và 4 hướng xấu, tùy theo tuổi mà chia ra các hướng tốt khác nhau như Sinh Khí, Diên Niên (Phước Đức), Thiên Y, Phục Vị.
Để tìm được hướng Sinh khí, gia chủ hãy lấy cung phi của mình phối với 8 Quái của 8 hướng. Các cặp Quái dưới đây phối với nhau xuôi ngược đều được Sinh khí: đó là Khảm – Tốn ; Ly – Chấn ; Cấn – Khôn ; Càn – Đoài.
Nếu không tìm được hướng Sinh Khí, gia chủ có thể mời các thầy phong thủy nào có dụng cụ đo sóng từ trường để đo và quyết định nơi nào có năng lượng mạnh nhất và hạp hướng nhất để đặt phương vi đó cho hoàn chỉnh hơn.
Nên đặt hướng mở cửa két sắt theo tuổi
Về hướng mở cửa két, tốt nhất nên quay về hướng tốt so với tuổi của chủ nhân. Trong trường hợp không quay được về hướng tốt thì nên ưu tiên quay ra cửa phòng, chú ý không trực tiếp đối diện với cửa phòng. Trước mặt két cần phải rộng rãi, sáng sủa không bị cản trở bởi đồ đạc trong phòng.
Nên đặt két sắt theo trạch mệnh, nó là yếu tố quyết định theo Bát trạch, trạch mệnh từng con người. Nếu gia chủ nào may mắn về hướng Sinh Khí (thuộc hướng Đông Nam) thì coi như quá tuyệt vời.
Bài trí két sắt trong phòng ngủ
Việc đặt két sắt trong phong ngủ về cơ bản vẫn cần tuân theo những nguyên tắc trên. Trước mặt két cần phải rộng rãi, sáng sủa không bị cản trở bởi đồ đạc trong phòng. Ngoài ra gia chủ nên đặt thêm 1 con Tỳ Hưu và 2 đồng tiền hoa mai vào trong két tiền.
Hai đồ vật này có tác dụng rất lớn trong việc thu hút tiền tài, thăng quan tiến chức và phòng tránh thị phi, tiểu nhân.
Nếu được đặt trong két sắt thì việc sinh nhập càng diễn ra suôn sẻ và thuận lợi. Đồng tiền có năm cánh, giống bông hoa mai, có tác dụng rất lớn trong con đường công danh, sự nghiệp góp phần làm thăng quan tiến chức và hóa giải kẻ tiểu nhân.
Đặt Tỳ Hưu lên két sắt
Tỳ Hưu có tác dụng hút tài lộc bốn phương về cho gia chủ.
Kinh nghiệm hàng ngàn năm của các đại sư phong thủy Trung quốc cho biết Tỳ Hưu là một loại mãnh thú hung mãnh, nhưng lại là một loại mãnh thú mang ý nghĩa tốt lành. Theo truyền thuyết, Tỳ Hưu là 1 loài thú có sừng, có bờm uốn cong rất dài nên còn có tên gọi là "hươu trời". Hai cái sừng của nó có tác dụng trừ tà, về sau nó có xu hướng phát triển thành con thú một sừng.
Người ta nói rằng Tỳ Hưu có tác dụng hút tài lộc bốn phương về cho gia chủ. Khi đặt lên két sắt, đầu Tỳ Hưu phải hướng ra cửa chính, hoặc hướng ra cửa sổ để chiêu tài khí bốn phương.
Đặt Thiềm Thử trên nóc két sắt
Ngoài ra, có thể đặt Thiềm Thử trên nóc két sắt. Tương truyền rằng, Thiềm Thừ vốn là yêu tinh xấu, được Lưu Hải Tiên Ông thu phục, cải tà quy chính, tỏa đi muôn ngả giúp đỡ người nghèo khổ bằng cách nhả tiền cho họ.
Thiềm Thừ xuất hiện vào đêm trăng tròn ở gần nhà ai, thì đó là sự báo tin gia chủ nhà ấy sẽ nhận được sự giàu có, phú quý.
Vì vậy, Thiềm Thừ được người đời tôn xưng là con vật quý, biểu tượng cho vượng tài. Khi để Thiềm Thừ trên nóc két sắt, cần chú ý hướng phần đầu của Thiềm Thừ vào trong nhà, cũng không nên đặt đối diện với cửa mà nên đặt hướng theo đường chéo cửa ra vào.
Đặt đồng tiền hoa mai
Đồng tiền có năm cánh, giống bông hoa mai, có tác dụng rất lớn trong con đường công danh, sự nghiệp góp phần làm thăng quan tiến chức và hóa giải kẻ tiểu nhân.
Việc đặt đồng tiền hoa mai lên trên két sắt sẽ thu hút được tiền tài về cho gia chủ, tốt cho con đường công danh của gia đình./.
Theo Nhật Linh (tổng hợp) / Gia đình Việt Nam
1. Tuổi Chuột
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Hổ
Trong cuối năm, người tuổi Hổ thường vội vã muốn thành công, cho nên sẽ liên lụy đến bạn, gây ra những phiền phức không đáng có.
2. Tuổi Trâu
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Trâu
Vốn dĩ vận thế của người tuổi Trâu cuối năm không tốt. Kết quả nếu 2 người tuổi Trâu cùng hợp tác sẽ khiến thành công đã khó càng thêm khó.
3. Tuổi Hổ
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Khỉ
Trong cuối năm sẽ tranh chấp do những vấn đề liên quan đến lợi ích tiền bạc, do vậy sự nghiệp đầu tư của cả hai sẽ vì thế mà bỏ dở giữa chừng.
4. Tuổi Mèo
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Ngựa
Trong cuối năm, hai người đều thấy phong cách làm việc của đối phương không thuận mắt nên không thể đồng tâm hiệp lực, không thể cùng nhau làm tốt việc.
5. Tuổi Rồng
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Dê
Người tuổi Dê trong nửa cuối năm đa số là làm rối việc, đem lại rất nhiều phiền phức cho người tuổi Rồng.
6. Tuổi Rắn
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Chuột
Trong nửa cuối năm, hai người do đều ích kỷ nên hay đùn đẩy trách nhiệm.
7. Tuổi Ngựa
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Rồng
Người tuổi Rồng sẽ làm mất tài liệu quan trọng hoặc làm tổn thất rất nhiều tiền trong dịp cuối năm, nên khó mà hợp tác thành công.
8. Tuổi Dê
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Lợn
Nửa cuối năm người tuổi Dê thường hay bị dụ dỗ bởi lời ngon ngọt, lại thêm người tuổi Lợn có phán đoán sai lầm, nên hai người cùng làm ăn sẽ rất dễ bị lừa.
9. Tuổi Khỉ
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Rắn
Nửa cuối năm, hai người hợp tác sẽ dễ gây rủi ro mất thực quyền hoặc bị mất hết tài sản.
10. Tuổi Gà
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Mèo
Nếu như thời gian quen người tuổi Mèo chưa đến một năm thì cần phải thận trọng, tốt nhất không nên liên quan đến họ trong các mối quan hệ lợi ích.
11. Tuổi Chó
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Gà
Cần cẩn thận, có những việc người tuổi Gà đồng ý với bạn nhưng lại không làm được, ngược lại còn làm lỡ cả thời cơ tốt cho công việc của bạn.
12. Tuổi Lợn
Người hợp tác đem lại vận xui: tuổi Chó
Nếu như người tuổi Chó gặp được lợi ích lớn hơn, họ sẽ rất dễ lựa chọn phản bội người cùng hợp tác.
Theo Lạc Lạc (toutiao) (Khám phá)
No.1: Tuổi Sửu
Tính cách cơ bản của người tuổi Sửu là ôn hòa, cẩn thận và thật thà. Họ nghĩ sao nói vậy, không khoa trương hoa mỹ hay khéo léo khen ngợi người xung quanh. Sự thẳng thắn của con giáp này đôi khi lại mang họa vào thân cho họ. Điển hình như mất lòng những mối quan hệ xã giao hoặc mới tiếp xúc. Chỉ ai thân thiết mới ngầm hiểu được lòng tốt của người tuổi Sửu.
Họ nghĩ gì sẽ trả lời vậy nếu được hỏi và suy luận theo ý kiến chủ quan. Do đó, con đường công danh hay ngay cả chuyện tình cảm, người tuổi Sửu sẽ gặp trắc trở. Con giáp này nên cẩn trọng tập trung vào công việc, tránh đưa ra những suy luận vội vã.
No.2: Tuổi Thìn
Ít ai chê trách người tuổi Thìn về độ chân thành và nhiệt tình. Họ sẵn sàng cống hiến cho công việc, giúp đỡ bạn bè hay hy sinh lợi ích của bản thân để mọi người xung quanh thấy vui vẻ hơn. Tuy nhiên, lòng nhiệt thành quá mức của con giáp này đôi lúc mang lại rắc rối. Họ bị quy chụp cho tội danh thích thể hiện, muốn được làm trung tâm vũ trụ.
Ngoài ra, một tật xấu của người tuổi Thìn là thiếu kiên nhẫn. Khi nhận lời giúp đỡ ai đó, vì quá nóng vội mà họ sẽ nản và từ bỏ, không đi cùng bạn tới cuối con đường. Thậm chí, người cầm tinh con rồng sẽ tìm cách đổ lỗi cho hoàn cảnh, nói ra những câu làm tổn thương bạn bè. Vậy nên, họ mất dần niềm tin của chính mình. Hãy “uốn lưỡi bày lần” trước khi nói nhé!
No.3: Tuổi Tỵ
Người tuổi Tỵ ít nói, khiêm nhường và thường thể hiện trí tuệ của mình bằng hành động và hiệu quả công việc. Họ được đánh giá rất cao và thường cất nhắc vào vị trí lãnh đạo. Đôi lúc con giáp này tỏ ra thần bí, khó nắm bắt và không thể đoán trước suy nghĩ của mình. Mặt khác, người tuổi Tỵ lại có tật xấu là để ý vào những tiểu tiết, ghi vào sổ để có dịp sẽ phơi bày.
Nếu ai đó từng khiến con giáp này tổn thương, thì chắc chắn họ sẽ nằm trong danh sách sổ đen. Tính hay để bụng khiến người tuổi Tỵ nghĩ đến phương án “trả miếng”. Sự khốc liệt này dẫn đến việc người cầm tinh con rắn không được lòng thần dân họ cai quản. Lời khuyên dành cho họ là sống phóng khoáng, bao dung hơn.
Mr.Bull (theo DZYX)
Cặp con giáp nào dễ là thảm họa trong tình yêu |
Phải thôi, phải thôi! Do phấn đấu cả đời người mà chưa thi thố được tài năng về chính trị, cuối cùng Khổng Tử phải làm ông thầy dạy học, sau khi đã bươu đầu sứt trán, bất đắc dĩ phải cúi đầu nhận mệnh. “Không biết mệnh, không phải là nhà nho”, đó là ông tự vận vào mình sau khi bị nhiều lần thất bại, tâm tình ngày càng đi xuống, thế thì làm thế nào để “biết mệnh” được sớm? Thời Khổng Tử còn sống. Ngoài một số tướng thuật lẻ tẻ ra, đó là một việc không thể làm được, vì rằng lúc đó chỉ biết có mệnh mà không biết cách đoán mệnh.
Sau khi đã phát minh ra thuật đoán mệnh, do bởi tuân theo lời di huấn của bậc đại sư nho giáo, phần lớn là nghiên cứu dự đoán phú quý nghèo hèn, thọ yểu bệnh tật của một con người, tự nhiên đó là mục đích chủ yếu của thuật đoán mệnh.
Tại sao cũng một con người, sau khi sinh ra hoàn cảnh mỗi người lại khác nhau? Theo cách giải thích của nhà mệnh lý học. Tức là khi người đó mới thụ thai, khí âm dương giao lưu, chân tinh hoà hợp, nếu tiếp nhận được thanh khí thì có trí lực, tài năng, nếu tiếp nhận trọc khí thì sẽ ngu đần, có tài trí trong xã hội hẳn được lợi lộc nhiều, cho nên hoặc giàu hoặc thọ, nếu ngu đần làm ăn không phấn phát thì sẽ nghèo hèn mà chết yểu.
Nó phản ánh vào trong mệnh, tự nhiên sẽ hiện ra trong bát tự sao sinh của mỗi người.
Nói về cách tính tương lai của bản thân mệnh chủ, mỗi nhà mệnh lý học đều có một lô biện pháp của mình, đó là đoán phú quý nghèo hèn trước tiên phải xem can ngày trong mệnh của người đó có được lệnh hay không được lệnh, sau đó xem dụng thần có đắc lực hay không đắc lực, cuối cùng xem hành vận có thuận lợi hay không thuận lợi, nếu như can ngày đắc lệnh, dụng thân đắc lực, vận gặp tài quan, thường là phú nhiều phát phúc, đại cát đại lợi, ngược lại thì nghèo khó chao đảo, khổ không kể xiết.
Đoán sinh tử thọ yểu phải xem kỹ tuế vận và nguyên cục dụng thần là hỷ hay kỵ, nếu như tuế vận gặp kỵ thần trùm đấu, hỷ thần không cứu được, nếu nhẹ là hung, nặng thì chết. Nhưng cũng có cách nói. Lấy “tháng sinh mà định” (ngọc môn quan tập) rằng: thọ sinh lấy tháng sinh mà định, tháng sinh ở vào chỗ can chi nạp âm vượng, là ngũ hanh tương sinh không nghịch, giò Tỵ cùng thai, đều đắc số không cùng hình khắc, chủ thượng thọ. Ngoài ra trích thiên tuỷ có cách nói về phú quý nghèo hèn thọ yểu, có ảnh hưởng rất lớn:
1. Làm thế nào biết người ấy giàu, tài khí thông qua cửa ngõ
Thế nào gọi là tài khí thông qua cửa ngõ? Lưu Cơ chú giải rằng: tài liệu thân cường, quan tinh vệ tài, kỵ ấn mà tài có thể phá ấn, hỉ nhật mà tài có thể sinh quan, thương quan trọng tài thần lưu thông, tài thần trọng mà thương quan có hạn vô tài mà ám thành tài cục, tài bộ mà thương cùng lộ, đó đều là tài khí thông cửa ngõ, cho nên giàu. Nhậm Thiết Tiều thì nói bổ sung: tài diệu thân nhược không có quan, tất phải có thực, thương. Thân vượng tài vượng thì không có thực, thương, hẳn phải có quan có sát. Thân có ấn vượng thực, thương nhẹ, tài tinh đắc cục. Thân vượng quan suy ấn thụ nặng, tài tinh đương mệnh. Thân nhảy sang kiếp, không tài ấn mà có thực thương. Thân nhược tài trọng, không quan ấn mà có tỉ kiếp, đều là tài khí thông của ngõ. Do ở mệnh cục, cách luận tài cũng giống luận thê, cho nên có cách nói “thân tài thân thanh mà thân vượng thì vợ đẹp, tài thần trọc mà thân vượng thì giàu có, nếu đi sâu vào nghiên cứu thì thuyết của họ Nhậm có thể tham khảo được. Ông nói: nếu thân vượng có ấn, quan tinh tiết khí, tứ chi không thấy thực, thương đều là tài tinh sinh quan, không thực, thương thì tài tinh cũng nông, chủ thể đẹp nhưng tài mỏng. Thân vượng không có ấn, quan nhược phùng thương, đắc tài tinh hoá thương sinh quan, thì cũng thông căn quan cũng được giúp, không những thê đẹp mà phú dày, thân vượng quan nhược, thực, thương trung kiến, tài tinh không thông với quan, nhà tuy phú nhưng thê xấu. Thân vượng nguyên quan, thực, thương có khí, tài tinh không liền với kiếp, không ấn mà thê, tài đều đẹp, có ấn thì tài vượng mà thê tổn thương. Bốn điều đó cần nghiên cứu kỹ.
Bát tự của mệnh:
Năm Giáp Thân Tháng Bính Tý
Ngày Nhâm Dần Giờ Tân Hợi
Nhâm Thuỷ sinh vào tháng giữa đông, dương nhận đương quyền, xem bề ngoài, chi ngày Dần thực thần Giáp Mộc bị Thân Kim xung phá nhưng hay ở chỗ chi ngày chi giò Dần Hợi hợp cục, hai cái đó là đất của niên can trung hoà và nguyệt can Bính Mộc Hoả trường sinh, thêm vào Tý Thân hợp Thuỷ, Thân Kim không những không xung Dần Mộc và sau khi hợp Thuỷ Thực Thần Giáp Mộc ngược lại được sinh phú, cho nên nói tài khí thông với cửa ngõ, là mệnh của phú ông trăm vạn, phàm là mệnh của bậc cự phú, không phải là tài tinh nhiều ít, chỉ cần sinh hoá có tình, thì tài khí sẽ thông cửa ngõ. Nếu tài tinh lâm vượng địa chi nên kiến quan vì quan tinh có thể làm tiết bớt khí của tài tinh. Nếu như nhật chủ thất lệnh thì hẳn phải có tỷ kiếp tương trợ mới là đẹp và tốt.
Bát tự của mệnh:
Năm Nhâm Thân Tháng Bính Ngọ
Ngày Quý Hợi Giờ Mậu Ngọ
Quý Thuỷ sinh vào tháng giữa mùa hạ, lại gặp giờ Ngọ tháng theo trụ giờ thấu xuất Bính Hoả Mậu Thổ, khó tránh được tài quan quá vượng. Hay ở chỗ trụ ngày Quý Thuỷ đắc địa, càng hay hơn là can năm Nhâm chi tiết toạ trường sinh, thân vượng Nhậm được tài quan, thêm vào ngũ hành không có Mộc, Thuỷ không tiết mà Hoả không trợ, cho nên lấy can năm Nhâm Thuỷ làm dụng thần. Sau đó vận đi về Tây Bắc, Kim Thuỷ đắc địa tuy nói di sản của tổ tiên để lại không nhiều, tay trắng làm nên, trở thành người giàu có 4-5 chục vạn.
2. Làm thế nào biết được quý (sang) quan tinh có lý hội
Giải thích về quan tinh có lý hội, Lưu cơ cho rằng: “quan vượng thân vượng, ẩn thụ vệ quan kỵ kiếp nên quan có thê khử kiếp, hỉ kiếp mà quan có thể sinh ấn, tài thần vượng mà quan tinh thông đạt, quan tinh vượng mà tài thần có đốt, không quan mà ngầm thành quan cục, quan tinh tàng mà tài thần cũng tàng. Những cái đó đều làm quan tinh có lý hội, cho nên quý.
Nhậm Thiết Tiêu thì nói: Thân yếu quan nhược, tài có thể sinh quan. Quang vượng thân nhược, quan có thể sinh ấn. An vượng quan suy, tài có thể phá hỏng ấn. ấn suy quan vượng, tài tinh không hiện. Kiếp nặng Tài nhẹ, Quan có thể khử Kiếp. Tài tinh hoại ấn, quan có thể sinh ấn. Dùng quan quan tàng tài cũng tàng dùng ấn lộ, quan cũng lộ, các quan tinh có- lý hội cho nên quý hiển vậy. Trong mệnh cục do luận quan và luận con cách làm giống nhau, cho nên lại có cách nói! Quan tinh thanh mà thân vượng thì quý, quan tinh trọc (đục) mà thân vượng thì nhiều con về chỗ này, Nhậm Thiết Tiêu nói thêm: nếu thân Vượng, quan vượng ấn cũng vượng, cách cục rất nhanh mà thương, thực tứ trụ, chẳng lẫn chút nào, tài tinh lại không xuất hiện, tình của quan tinh dựa vào ấn, tình của ấn dựa vào nhật chủ, chỉ sinh được một người, cho nên có quan không có vậy. Dù thực thương có hơi tạp cũng bị ấn tinh khắc, can cũng gian nan. Nếu thân vượng, quan vượng, ấn vượng, thực thương ám tang, không thương tổn quan tinh, không bị ấn tinh khắc, tự nhiên quý mà đông con. Nếu thân vượng quan suy, thực thương có khí, có ấn mà tài có thể hoại ấn, không tìa mà ngầm thành tài cục, không quý mà đông con và giàu. Nếu thân vượng quan suy, thực thương vượng mà không tài, có con tất nghèo, nêu thân nhược quan vượng, thực thương vượng mà không có ấn, nghèo mà không có con, hoặc có ấn phùng tài cũng theo luận thuyết này.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Đinh Dậu Ất Tỵ
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Đông phương
Ngày Mậu Dần Quý Mão Mộc địa
Giáp Mộc trong Dần là sát dụng thần
Giờ Đinh Tỵ Nhâm Dần
Tân Sửu Bắc phương
Canh Tý Thuỷ địa
Mệnh này được tạo nên, nhật chủ Mậu Thổ, sinh vào tháng Ngọ giữa mùa hạ, Hoả khí viêm thịnh, lại gặp Hoả của Bính Đinh can chi năm, tháng, giờ sinh phù, Thổ của Mậu Kỷ trợ thân có thể nói thân cực vượng. Vượng lắm nên chế nên tiết cho nên lấy Dần trong chi ngày chế Giáp Mộc của ta thất sát, hoặc trong chi năm tiết Tân Kim trong Dậu của ta, lấy làm dụng thần. Lại xem hành vận, sớm trong năm Dần Mão Thìn Hợp Mộc, vạn hành phương đông được Mộc chế khắc, giữa và cuối năm chuyển sang Bắc phương Tý Sửu Thuỷ Vận, Thuỷ vượng sinh sát, cho nên là mệnh quý và quá phú.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm sát Quý Mão Nhâm Tuất Tây phương
Tháng sát Quý Hợi quan ấn Tân Dậu Kim địa
Ngày Đinh Mão ấn Canh Thân
Kỷ Mùi Nam phương
Giờ Tân Hợi Mậu Ngọ Hoả địa
Đinh Tỵ
Trong cục quan sát nắm quyền, tựa hồ thương uý, tốt ở địa chi Hợi Mão cung ấn, lưu thông Thuỷ khí, cho nên quan tinh có được lý hội. Đầu vận Tân Dậu. Canh Thân sinh sát hoại ấn, công danh đau tranh. Kỷ Mùi nhất vận, đại vận địa chi Mùi sẽ cảm ứng với mệnh cục Mão suy: Đại vận thiên can thấu xuất thực thần Kỷ Thổ, cho nên vận trình đi lên. Từ đó về sau Mậu Ngọ, Đinh Tỵ, thương sát thấu ra Tỷ kiếp trợ Thân, nên con đường thi cử huy hoàng, do đó có thể thấy, có mệnh ấy thì được vận ấy, nếu không chỉ mãi là hàn nho.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm quan Quý Dậu Bính Thìn Đông phương
Ât Mão Mộc địa
Tháng kiếp Đinh Tỵ Giáp Canh
Ngày Bính Ngọ Quý Sửu Bắc Phương
Giờ sát Nhâm Thìn Nhâm Tý Thuỷ địa
Tân Hợi
Bính Hoả sinh vào tháng đầu mùa hạ, toạ lộc lâm vượng, lại gặp can tháng Đinh kiếp trợ thân, cho nên bản thân thuộc cường, tốt ở địa chi Kỷ Dậu cung Kim, tài có thể sinh quan, quan lại chế kiếp. Càng hay hơn là Can giờ thấu xuất Nhâm Thuỷ, giúp khởi can năm quý quan, trỏ thành tượng ký tế của trụ tháng trụ ngày, kết hợp đại vận, một khi tiền vào Bắc Phương Thuỷ Địa, đăng khoa phát giáp, danh lợi đều sáng.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tài Giáp Ngọ sát ấn Đinh Mão
Tháng quan Bính Dần tài quan ấn Mậu Thìn
Ngày Tân Dậu tỉ Ky Tị
Giờ ấn ẩn tỉ thực Canh Ngọ
Tân Mùi Nhâm thân Quý Dậu
Mệnh này bản thân can ngày Tân Kim, can năm tài tinh, can tháng quan tinh, can giờ ấn tinh, đều thông căn lộc vượng. Canh Ngọ nhất vận, 5 năm trước canh vận đeo vào người, nên trong vận năm Quý Dậu đăng khoa phát Giáp, sau 5 năm Ngọ vận thì sát vượng bệnh phát, thân thuộc hình tang đi đến Tân vận, tỉ đến trợ thân ở năm Kỷ Mão phát giáp lên cao, sau đó vận đi đến Kim Thuỷ. Giúp Thân chế sát, tung cánh bay cao.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Tỵ Canh Thìn
Tháng Tân Tỵ Kỷ Mão
Ngày Canh Thìn Mậu Dần
Giò Giáp Thân Đinh Sửu
Canh Kim ở vào ngày 5 lập hạ, Thổ đương lệnh mà Bính Hoả lại chưa nắm quyền, sinh canh Kim toạ thực, thêm vào chi Thìn, giờ Thân, sinh phù đều vượng, can tháng Tân kiếp, chi năm trường sinh là giúp, có thể thấy đấy là mệnh chưa sát ít. Phân tích trong mệnh tuy chi năm thấu xuất tài tinh nhưng tài tinh này vô căn mà gặp kiếp, cho nên có thê bói khi giao vào Đinh vận, do quan tinh nguyền thần phát lộ. Cho nên trong 2 năm Mậu Dần, Kỷ Mão tài tinh đắc địa. Thời hỉ dụng đều đến, khoa Giáp cùng đạt, sách nói: lấy sát hoá quyền, hiện rõ vẻ quý nơi cửa.
3. Sao biết người ấy nghèo
Tài thần Phân Bất gọi là “tài thần Bất Trân”, Nhậm Thiết Tiều cho rằng đại thể có 9 loại tình hình: một là tài năng mà thực, thương nhiều, hai là tài nhẹ hỉ thực, thương, mà ấn lườm tổn tài, ba là tài nhẹ kiếp nặng mà kỵ thấy thực thương, bốn là tài nhiều kiếp nhẹ mà quan tinh chế kiếp, năm là hỉ ấn mà tài tinh hoại ấn, sáu là kỵ ấn mà tài tinh sinh quan, bảy là hỉ tài mà tài hợp giảm thần mà hoá, tám là kỵ tài mà tài hợp gián thần hoá tài, chín là quan sát vượng dung ấn mà tài tinh đắc cục, đều là: phàm mệnh bại nghiệp phá gia, mới xem tựa hồ tốt đẹp, không tài quan đều đẹp thì can chi đều thanh không sát ấn tương sinh, thì tài làm vượng địa, không biết tài quan tuy có thể dưỡng mệnh vinh thân, đầu tiên nhật chỉ phải vượng tướng, mới có thể đảm đương tài phú, nếu thái quá bất cập, đều là bất trân, có thể tán có thể hao; rốt cục không thể phú quý được.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Quý Mão Quý Sửu
Tháng Giáp Dần Nhâm Tý
Ngày Đinh Tỵ Tân Hợi
Giò Kỷ Dậu Canh Tuất
Mệnh này Dậu tài tàng mà Quý sát lộ và sát ấn nối liền Bắc Phương, nhưng do sát can năm vô căn và tinh hoa của sát bị ấn thụ lấy mất, cho nên không dùng Quý Thuỷ làm dụng thần. Lại xem tài của Dậu Kim ở chi giờ, bên trên có Kỷ Thổ che trùm đầu, xem ra là đẹp nhưng mà toàn bộ cách cục Mộc vượng Thổ hư, tướng Hoả phùng sing, cho nên Kỷ Dậu không hội Kim thành tài, khiến cho tài tinh bất chân. Kết hợp đại vận khi giao Nhâm Tý, tiết Kim sinh Mộc, làm suy bại hết tổ nghiệp. Sau đó đi đến Quý vận, ấn gặp trường sinh, sẽ bị chết đói.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Nảm Tân Sửu Ất Mui
Tháng Bính Thân Giáp Ngọ
Ngày Qúy Tỵ Quý Tỵ
Giò Canh Thân Nhâm Thìn
Trong mệnh Bính tài tọa lộc, trong Sửu nhất sát độc thanh, xem ra tựa tốt đẹp, đáng tiếc trong cục ấn tinh qúa nặng, Sửu sát sinh ấn che tài, thêm vào Bính Tân Kim hợp mà hoá Thuỷ, biến tài thành kiếp, canh thân ở Tỵ, tài càng bất chân. Đầu hành vận, người Ất Mùi, Giáp Ngọ, Mộc Hoả đều vượng, thực thần sinh tài. Tổ nghiệp phong lưu. về sau một khi giao với Quý Tỵ, Tỵ cùng Thân Kim trong mệnh, đều hợp thành Thuỷ, khắp nơi Tỷ kiếp, bại tan như vôi, cuối cùng lâm cảnh ăn mày.
4. Sao biết người đó hèn
Quan tinh vẫn không thấy, Nhậm Thiết Tiều cho rằng quan tinh không thấy là do 3 tình huống, mức trên, mức giữa và mức dưới. Quan nhẹ, ấn nặng, thân vượng hoặc quan nặng ấn nhẹ, thân nhược, hoặc quan ấn bằng nhau, nhật chủ hưu tù, đây là quan tinh không thấy ở mức trên. Quan nhẹ, kiếp nặng, vô tài hoặc quan sát nặng vô ân, hoặc tài nhẹ kiếp nặng, quan phục, đó là quan tinh không thấy ở mức giữa.
Quan vượng hỉ ấn, tài tinh hoại ấn hoặc quan sát nặng vô ấn, thực thương cường chế hoặc quan nhiều kỵ tài, tài tinh đắc cục hoặc hỉ quan tinh mà quan tinh hợp với thần khác mà hoá thương, hoặc kỵ quan tinh, thần khác hợp quan tinh mà lại hoá quan, đó là quan tinh không thấy ở mức dưới.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý
Ngày Đinh Hợi Giờ Giáp Thìn
Đinh Hoả sinh vào giữa mùa Đông, Can tháng thấu xuất Nhâm Thuỷ, địa Chi Hợi Tý Sửu hội bắc phương Thuỷ cục, mà Thìn lại là đất ướt. Không thể không chế được Thuỷ mà còn làm mò Hoả, thêm vào nhật chủ hư nhược, Giáp Mộc khô héo, Mộc ướt không thể sinh ra ngọn lửa được. Cho nên quan tinh vượng cực bất chân, trở thành tượng trong và khô. Tốt ở trong cục không có Kim, khí thế thuần trong, là người học vấn thực sự, xử thế không câu nệ, lấy việc dạy học làm kế sinh sống hàng ngày, chịu phận thanh bần, đó gọi là “quan tinh không thấy ở mức cao”
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Bính Thìn Tân Mão
Tháng Canh Dần Nhâm Thìn
Ngày Bính Ngọ Quý Tỵ
Giờ Nhâm Thìn Giáp Ngọ
Ất Mùi
Mệnh này Canh tài lâm vào tuyệt địa, vô căn, khí quan tinh cũng không đủ, vận đi về đông nam đất của Mộc Hoả, cho nên lúc nhỏ chết cha, mẹ đi lấy người khác, mấy năm sau mẹ chết, chăn trâu sông qua ngày. Lúc mối lớn lên đi ở kiếm sống, về sau không may mù cả hai mắt, không làm thuê mà đi xin ăn để sống.
5. Sao biết người ấy cát
Hỉ thần là phù bật hỉ thần là dụng thần phù bật, thuộc về cát thần trong tứ trụ nếu như có hỉ thân dụng thần có thể cả đời cát nhiều hung ít. Ngược lại trong tứ trụ không có hỉ thần xuất hiện, tuy có dụng thần nêu tuế vận không gặp kỵ thần xung khắc thì thôi, nếu qủa gặp kỵ thần, phần lớn khó tránh hung tai.
Bát tự của mệnh:
Năm sát Giáp Tý Tháng ấn Bính Dần sát ấn tĩ
Ngày Mậu Dần Giờ Kỷ Mùi
Đầu xuân, đất lỏng cát vượng phùng tài, cho nên lấy chính ấn Bính Hoả là dụng thần. Chi năm tài tinh sỏ thích cách với quả ấn và tài sinh sát, sát sinh ấn, có sinh sinh không sạch, lại lấy giờ Mùi giúp bản thân làm hỉ thần, hơn nữa tứ chi thuần tuý, chủ tòng đắc nghi thần, cho nên sớm đăng khoa Giáp, cả đời chỉ cát không hung, làm tới chức quan sát. Cuối đòi về hưu, phu phụ song toàn, thọ đến 80, mấy đời con cháu đều thi cử đỗ đạt
Bát tự của mệnh:
Năm Bính Thân Tháng Kỷ Hợi
Ngày Canh Thìn Giờ Mậu Dần
Đây là hàn Kim hỉ Hoả, can năm Bính Hoả được chi giờ Dần Mộc tương sinh, thì Hoả có ngọn lửa, nhưng dụng tài sát đầu tiên phải thân ngày vượng, hiện tại can ngày Canh Kim hỉ phùng Kim trong chi năm là lộc và tam ấn can tháng Kỷ Thổ, can giờ Mậu Thổ, chi ngày Thìn Thổ đều sinh, thêm vào chi Hợi Thuỷ đương quyền, thân Kim tham sinh không xung Dần Mộc. Xem cả toàn cục, không Hoả thì Thổ đông Kim hàn, không Mộc thì Thuỷ vượng Hoả hư, cho nên cân nhắc lấy Hoả làm dụng thần, Mộc làm hỉ thần, cả hai Mộc Hoả không thể thiếu một. Trong đoàn viên trúng hỉ, dụng thần. Cho nên cả đòi không hung không hiểm, đăng khoa phát Giáp, quan chức lên cao, con cháu đều đẹp, thọ ngoài 80 tuổi.
6. Sao biết người ấy gặp hung
Kỵ thần theo Triển Thế Công nói: gọi là kỵ thần tức là thần làm tổn hại dụng thần. Kỵ thần trong bát tự là bệnh, hỷ bệnh không thuốc. Có bệnh có thuốc là cát, có bệnh không thuốc là hung, như người sinh tháng Dần, nếu không dùng Giáp Mộc mà dùng Mậu Thổ, thế thì Giáp Mộc khắc Thổ sẽ thành kỵ thần của đương lệnh. Lúc này trong mệnh cục của nhật chủ nêu có Hoả hoá Mộc, có Kim chế Mộc, Hoả Kim này sẽ thành hỉ thần, nếu từ đó về sau hành vận càng phù hỉ ức kỵ đều có thể chuyển hung thành cát. Ngược lại nếu trong mệnh trong vận không có Hoả hoá Mộc, không có Kim chế Mộc, trái lại có Thuỷ sinh Mộc, có Mộc nuôi Mộc thế thì tai hoạ nhiều bề, đến già cũng không cát, ngoài ra, tuế vận tuy chưa thể phù hỉ ức kỵ nhưng cũng không kết bè với kỵ thần thế thì suốt đời không hung không cát làng nhàng đến già. Vì thế Lưu Cơ nói: tài cung không có khí, dụng thần vô lực, chẳng qua không phát đạt được mà thôi, cũng không bị hình hung. Còn như kỵ thần quá nhiều, hoặc hình hoặc xung, tuế vận trợ giúp. Chuyển sang công kích thần trong cục không được chuẩn bị, lại không theo chủ, không tránh khỏi hình tang phá bại, phạm tội, đến già cũng không cát.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Hợi Đinh Sửu
Tháng Mậu Dần Bính Tý
Ngày Bính Tý Ất Hợi
Giờ Giáp Ngọ Giáp Tuất
Mệnh này Bính Hoả sinh vào ngày tháng Dần. Trong cục Dần Hợi hoá Mộc, năm đi vào Giáp Ất đều thấu, ấn tinh quá thịnh vượng mà chi ngày Tý Thuỷ lại bị chi giờ Ngọ Hoả xung phá, cho nên đành lấy can tháng khiếm Thổ làm dụng thần. Lại nhìn khí thế trong cục. Giáp Ất Mộc vượng, ngược lại được Hợi Tý Thuỷ sinh, đó là nói kỵ thần triển thế công vậy. Kết hợp vận trình, vận đầu Đinh Sửu, trợ khởi dụng thần, xuất thân cự phú, vui sướng đầy nhà. Khi giao với Bính Tý, Hoả không thông căn, Thuỷ trợ kỵ thần, nếu bố mẹ không chết, thì liên tiếp gặp Hoả tai. Vận đến Ất Hợi, Thuỷ Mộc đều vượng kỵ thần mỏ rộng, lại gặp Hỏa tai, khắc tam thê tự tử, nhảy xuống nước mà chết.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tân Tỵ Kỷ Sửu
Tháng Can Dần Mậu Tý
Ngày Bính Thìn Đinh Hợi
Giờ Kỷ Sửu Bính Tuất
Ất Dậu
Bính Hoả tuy sinh vào tháng Dần nhưng xem rộng toàn cục Thổ Kim đều vượng, cho nên lấy Bính Mộc làm dụng thần. Nhưng Dần là cây non đầu mùa xuân, kỵ thấy Canh Kim che đầu nên lấy Canh là kỵ thần trong cục. Hành vận lúc đầu giao với Kỷ Sửu, Mậu Tý, sinh Kim tiết Hỏa, cha mẹ đều mất, sống cô độc không chịu nổi Đinh Hợi, Bính Tuất, vì Hoả đến Dậu đất Phương Bắc, không thể khử hết kỵ thần, cho nên trải đủ phong sương, lập nên gia nghiệp vừa phải. Khi giao với Ất Dậu, Ất hợp với can tháng Canh Kim, Dậu hợp với chi ngày Thìn Thổ mà hoá Kim, kỵ thần đắc thế, hình thê khắc tử, gặp Thuỷ tai mà chết.
7. Sao biết người ấy thọ
Tính định nguyên thần dày gọi là “tính định” tức là 4 chi trong cục đắc địa, ngũ hành dừng đều, những gì hợp đều là gian thần, những gì hoá đều là dụng thần, những gì xung đều là kỵ thần, những gì lưu đều là hỉ thần. Khuyết nguyên không hãm, không thiên lệnh không bóp méo. Con người “tính định” không tham yêu đương, không làm việc cẩn thả, là người nhân hậu hoà bình, nhân đức đều đủ, cho nên nhiều phúc, nhiều thọ. Gọi là “nguyên thần dày” tức là 4 chi trong cung nhược, gặp tài, tài nhẹ, gặp thương, thân nhược có ấn thụ sinh thân, thân vượng có Thực, Thương, Thổ ra, những gì hỉ đều là thần của đề cương, những gì kỵ là vật thất lệnh, hơn nữa đề cương có tình với chi giờ, hành vận cũng hỷ dụng thần không dừng, cho nên phú và thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Tân Sửu Tháng Quý Tỵ
Ngày Giáp Tý Giờ Bính Dần
Mệnh này tứ trụ thông căn sinh vượng, đầu nguồn lưu thông, rất là đặc sắc. xem trước 4 chi, bản thân Giáp Mộc, quy lộc ở chi giờ, ấn thụ Quý Thuỷ lộc ở chi ngày, thực thần Bính Hoả, lộc ở chi tháng, quan tinh Tân Kim, chi toạ bại địa. Lại xem ngũ hành chi tháng Tỵ Hoả sinh chi năm Sửu Thổ. Chi năm Sửu Thổ sinh can năm Tân Kim, can năm Tân Kim sinh can tháng Quý Thuỷ, can tháng Quý Thuỷ sinh can ngày Giáp Mộc, can ngày Giáp Mộc sinh can giờ Bính Hoả, Bính Hoả lại toạ ở trường sinh địa, có thể nói là nguồn xa chảy ra. Vì vậy, người có mệnh chủ này nhân đức đều đủ, cương nhu giúp nhau, chức ở tam phẩm, giàu có trăm vạn, thọ đến trăm tuổi, chỉ chết vì già.
Bát tự của mệnh:
Năm Ất Mùi Tháng Mậu Dần
Ngày Ất Mão Giờ Canh Thìn
Đông phương này chĩa thẳng vào nhân thọ cách, do Hoả khí trong cách suy vi, tài thần suy nhược nguyên khí, Mộc thế quá vượng, quan tinh mỏng mảnh vô cấn, cho nên suốt đời lận đận, trọng nghĩa khinh tài sông nếp thanh bần, nhưng hay ở đông phương nhất khí, nhân thọ thành cách. Lưu Cơ nói rằng: “khí của Giáp Ất Dần Mão lớn, không gặp xung chiến tiết thương, thiên vượng phù phiếm, có được an nhàn nên thọ. Mộc thuộc nhân, nhân thì tho, ai cũng ứng nghiệm”. Vì vậy tuy cuộc sống thanh bần nhưng thọ đến 94 tuổi mới mất.
8. Sao biết người ấy yếu, khí đục thần khô
Gọi là “khí đục”, Nhậm Thiết Tiêu cho rằng: đục tức là nhược. Người khí đục, nhật chủ thất lệnh. Dụng thần nông mỏng, kỵ thần sâu nặng, đề cương cùng chi giờ không chiếu nhau, chi năm và chi ngày không hoà, hỉ xung mà không xung, kỵ hợp mà không hợp, hành vận vô tình với hỉ dụng thần, ngược lại kỵ thần kết bè đãng, tuy không thọ nhưng có con. Gọi là “thần khô”, Nhậm Thiết Tiêu nói tiếp: thần cây bách, thân nhược mà ẩn thụ quá nặng, thân vượng mà đều không khắc tiết. Nhưng trọng dụng ấn mà tài tinh hoại ấn, thân nhược vô ấn mà trùng điệp thực, thương hoặc Kim hàn Thuỷ lãnh mà Thổ ướt hoặc Hoả bốc Thổ táo mà Mộc Khô, đều chết yểu mà không con. Lưu Cơ đã khái quát chung rằng i mệnh khí nhờn thần khô rất dễ xem., An thụ quá vượng, nhật chủ không có cái gì đến, tài sát quá vượng, nhật chủ không chỗ dựa, kỵ thần và hỉ thần tạp mà đánh nhau, tứ trụ nghịch với dụng thần mà tuyệt. Xung mà không Hoà, vượng mà không bị kiềm chế, ướt mà trệ, táo trên mặt, tinh lưu khí tiết, tháng bỏ giò thoát, đó đều là người không thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Nhâm Dần Bắc Phương
kỷ Thổ thương quan
Tháng Ọuý Mão Canh Tý Thuỷ Địa
Ẩt Mộc ân thụ dụng thần
Giờ thực thần
Mậu Tuất Ất Hợi
Mậu Thổ
thực thần Mậu Tuất Tây Phương
Đinh Dậu Kim Địa
Mệnh này Nhật chủ Bính Hoả, sinh tháng Mão giữa mùa xuân, Ất Mộc sinh Hoả, vốn thuộc việc tốt, đáng tiếc Kỷ Thổ trong chi năm Sửu. Mậu Thổ trong chi ngày Tuất, can chi trụ ngày lưỡng trùng Mậu Thổ, thực thương trùng trùng, khiến cho tự mình tiết khí quá nhiều, nhìn xem toàn cục khi lấy Ất Mộc ấn thụ làm dụng thần, đã có thể sinh ra mà còn chế phục được Thổ thái quá. Lại xem đại vận, từ Nhâm Dần về sau, cả một dày Hợi, Tý, Sửu là Thuỷ địa. Thuỷ tuy có thể chế Hoả nhưng Thuỷ lại có thể sinh Mộc, vận ở bước này không thể tốt hơn vận Mộc từ đông phương trực tiếp đến, nhưng lại không miễn cưỡng nói rằng đi qua. Nhưng một hành vận đi vào Tuất Dậu Kim địa, tuy nói Kim là tài vận nhưng Kim có thể khắc Mộc, tài tinh phá ấn, dụng thần bị chế, thế thì khó lòng giữ mệnh.
Bát tự của mệnh: Đại Vận
Năm Ấn thụ Ất Sửu Tân Kim Giáp Thấn
Tháng Ân thụ Ât Dậu Tân Kim, tử Quý Mùi
Ngày Bính Thìn Nhâm Ngọ
Giờ Chính tài Tân Mão Tân Tỵ
Mệnh này Bính Hoả sinh ở tháng Dậu tử địa, không có căn khí, thêm vào can giờ thấu xuất chính tài Tân Kim, chi năm chi tháng, Sửu Dậu cũng ngầm chứa chính tài Tân Kim, có thể nói là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thân, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần, vì rằng ấn, có thể sinh Thân, cho nên dụng thần ở đây sẽ áp tại Ất Mộc sinh ta vậy. Nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày cạn giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ tọa chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thần, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần. Vì rằng ấn có thể sinh ta vậy, nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày can giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ toạ chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài tinh phá ấn, trên dưới vô tình, ở trường hợp này, bề ngoài xem ra dụng thần tuy nhiên, nhưng lại không phải trân dụng, hơn nữa không có Tỷ, kiếp, lộc, nhậm sở hỉ trong mệnh bắt nhau, không khỏi gặp cảnh gian nan. Tốt ở đại vận Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Hoả đến trợ Thân, can ngày đắc địa nên có thể lấy vợ sinh con, nhưng khi giao vào vận Tân Tỵ can ngày Tân trong vận tước bỏ dụng thần Ất Mộc, tài có thể hoại ấn, địa chi trong vận cùng chi năm, chi tháng Sửu, Dậu trong mệnh cấu thành Kim cục, lại ra sức khắc chế thương tinh, ấn tinh chứa trong chi ngày chi giờ trong mệnh, chết yểu khó tránh ở kiếp tinh.
Về vấn đề sinh, tử, thọ, yểu trong Uyên Hải Tử Bình ở phần Cách cục sinh tử dẫn dụng có 7 điều, nêu lên để tham khảo
1. Phàm là cách cục, tự có định luận, giờ nói tóm tắt. Ấn thị kiến Tài hành tài vận lại kiêm tử tuyệt, tất xuống suối vàng, nếu có Tỷ kiên, có thể giải.
2. Chính quan gặp sát và thương quan hình xung phá hại, tuế vận song hành, tất tử,
3. Chính tài thiên tài gặp tỷ kiên chia nhau đoạt, kiếp tài dương nhận, lại gặp Tuế vận xung hợp, tất tử
4. Cách của thương quan, tài vượng thân nhược, quan sát gặp lại, hỗn tạp dương nhận. Lại gặp tuế vận, tất tử, nếu sống bị thương tật.
5. Giữ lộc, giữ quý, sang bằng lại gặp quan xung, nhận gặp tuế vận.
6. Lộc ngày quy giờ, hình xung phá hại, gặp thất sát, quan tinh, không vong, quan sát đại kỵ, tuế vận cùng vận tất tử.
7. Các cách khác đều kỵ sát và san bằng tuế vận cùng đến, tất tử, Gặp các hung thần ác sát, ấn thụ không vong, điếu khách, mộ, bệnh, tử cung chư sát, thập tử nhất sinh. Quan tinh thái tuế, tài nhiều thân nhược, nguyên phạm thất sát, thân được cứu thì cát, không được cứu thì hung, Kim nhiều yểu chết, Mộc thịnh bay trôi, Mộc vượng thì yểu, Thổ nhiều si ngây, Hoả nhiều ngu dốt. Thái quá bất cập, không để câu nệ mà phải quả đoán, cần phải lý hội để tìm ra sinh tử.
Ngoài ra Tam mệnh thông hội ở quyển 8 nói: “Ngày Đinh Hợi, giờ Ất Tỵ, ngày giờ đều xung, tổn thương vợ con, Tỵ, Dậu, Sửu, Than Ty, Thìn 2 cục Kim thuỷ, tài cung đắc dụng nên phú quý vậy. Tiếp theo còn nêu hai ví dụ về Bát tự của mệnh, một là Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Đinh Hợi, Ất Tỵ, nói đó là mệnh nghèo chờ chồng, một là Đinh Hợi, Giáp Thìn, Ất Hợi, Ất Tỵ, đó là mệnh ăn mày. Trên thực tế, do tồn tại khách quan nhiều loại không chuẩn xác, cho nên Trần Tố Am trong khán phú quý cát thọ bần tiện hung yếu pháp đã ra sức cổ vũ khuyến khích tư tưởng làm điều thiện, báo ứng nhân quả của Phật giáo. Lập luận của ông có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng mệnh học của các thế hệ đời sau, cho nên chúng tôi đã trích dẫn sau đây:
Cách cục phú quý cát, nghèo hèn hung, lấy lẽ đã định tương đối chuẩn, nhưng dùng đoán mệnh cho người không ứng nghiệm hoàn toàn là do bản thân có thiện ác và gia tộc có thiện ác. Phúc thiện dâm là lẽ tất nhiên. Như người làm điều ác, mệnh quý đến nhất phẩm thì giảm xuống chỉ còn tứ, ngũ phẩm, mệnh đáng giàu trăm vạn thì giảm xuống còn 6 - 7 chục vạn, mệnh đáng thọ trăm tuổi thì giảm xuống còn 6 - 7 chục tuổi; mệnh đáng hưởng đủ ngũ phúc thì giảm xuống còn 1 - 2. Như người làm điều thiện, mệnh lẽ cực hèn mà được vinh hiển một phần, mệnh đáng cực nghèo, có được tài sản của kẻ trung lưu, mệnh đáng chết sớm mà thọ được mấy chục tuổi, mệnh đáng gặp nhiều hung mà tránh được vài ba. Lẽ đời kẻ làm điều ác sao được hưởng phúc? Người làm điều thiện sao lại gặp hoạ, há không biết phúc đã bị tổn, hoạ đã bị diệt sao? Người biết hoạ phúc sao không biết mệnh, biết thiện ác là âm của hoạ phúc thì là biết mệnh. Tuy vậy, biết thì có ích gì? Có thay đổi được không, xưa Viên Liễu Phàm tiên sinh gặp thầy pháp thuật đoán mệnh, nói đi thì chỉ dừng ở cống sĩ mà không có con. Do trình bày cặn kẽ lý lịch, lúc đầu cái gì cũng đúng, sau gặp vị cao tăng, hướng dẫn học tạo mệnh, tích được phép làm điều thiện và cầu khoa bảng, tích được phép làm điều thiện cầu con cái. Thiên số đã định, thi hai kỳ đỗ cao, điều pháp sư đoán không có gì không nghiệm, cho nên phàm muôn cầu phú quý cát thọ mà tránh nghèo hèn hung yêu thì phải biết tích thiện là cần, hàng ngày tự nhớ việc làm, phải luôn tâm niệm nhân đức, việc việc đều thiện, lâu sẽ được như ý muốn. Nếu cậy mệnh thiện mà dám làm điều ác, mong mệnh giúp đỡ mà không biết suy nghĩ lại, đó là loại người ngu nhất trong thiên hạ, là kẻ sĩ chẳng có ý chí gì.
Đoán mệnh, ngoài đoán giàu nghèo thọ yểu là chính ra, có sách đoán mệnh còn không quên đoán bệnh tật cho người. Muốn đoán bệnh tật trước tiên phải liên hệ ngũ hành với lục phủ, sau đó căn cứ nguyên lý sinh ngũ hành để phân tích. Theo lý luận của Ô y, sự tương phối của ngũ hành với ngũ tạng, lục phủ như sau:
Giáp mật (đỏm) Ất gan (can)
Bính tiểu tràng Đinh tâm
Mậu dạ dày (vị) Kỷ tì
Canh đại tràng Tân phổi (phế)
Nhâm bàng quang Quý thận, tâm bào lạc tam tiêu
Trong đó mật, dạ dày, đại tràng, tam tiêu, bàng quan thuộc lục phủ, tính chất thuộc dương, cho nên đều phối với dương can, gan, tâm, tỳ thận thuộc ngũ tạng, tâm bào lạc thì thuộc vào tâm, tính chất thuộc âm, cho nên đều phối với âm can, ca rằng:
Giáp đơm Ất can Bính tiêu tràng
Đinh tâm Mậu vị Kỷ tỳ hương
Canh thị đại tràng Tân thuộc phế
Nhâm hệ bàng thoát Quý thận tàng
Tam tiêu diệc hướng Nhâm trung ký
Bào lạc đồng quy nhập Quý phương
Lại nói rằng:
Giáp đầu Ất hạng Bính kiên cầu
Đinh tâm Mậu hiếp Kỷ thuộc phúc
Canh thị tề luân Tân vi cổ
Nhâm cảnh Quý túc nhất Thân phúc
Chú thích: hạng (gáy) kiến (vai) hiếp (sườn) phúc (bụng) tề (rốn) cổ (đùi) túc (chân) Nam Định.
Đồng thòi, người xưa còn liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể nhưng nó không quan trọng bằng liên hệ với ngũ tạng, cho nên thường không được coi trọng.
Bây giờ đem việc liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể, ghép thành bài ca như sau:
Tý thuộc bàng quang thuỷ đạo nhĩ
Sửu vi bào đồ cập tỳ dương
Dần dởm phát mạch tịnh lưỡng thủ
Mão bản thập chỉ nội can phương
Thìn Thổ vì tỳ thận hung loại
Tỵ nhi xĩ yết hạ cửu cang
Ngọ Hoả tinh thần tự nhãn mục
Mùi Thổ vị quản cách tích lương
Thân Kim đại tràng kinh lạc phế
Dậu trung tỉnh huyết tiểu trường tàng
Tuất Thổ mệnh môn thoái Hoả túc
Hợi thuỷ vi đầu cập thận nang
Chú thích: bào (tâm bào) đỗ (bụng) đởm (mật) lưỡng thủ (hai tay) thập chỉ (10 ngón) can (gan) hung (ngực) xĩ yết (răng yết hầu) cửu cang (hậu môn) nhãn mục (mắt) vị quản (dạ dày) cách (hoành cách mô) tích lương (cột sống) phế (phổi) thoái (đùi) Hoả (mắt cá) túc (chân)...
Khi xem cụ thể, lấy can chi ngày làm chính, kết hợp ngũ hành sinh khắc thái quá bất cập mà định. Ví dụ can ngày là Giáp, Ất Mộc. Trong bát tự tứ trụ xuất hiện Kim trong Canh, Tân, Thân, Dậu, Mộc sẽ bị khắc, có thể sẽ bị gan mật, kinh sợ, lao lực, tay chân tê cứng, gân cốt đau nhức, đầu váng mắt hoa, hoặc mồm méo mắt xếch, phải trái bị liệt hoặc quỵ ngã thành thương tật. Ví dụ can ngày sinh vẫn là Giáp, Ất Mộc, trong Bát tự tứ trụ xuất hiện Hoả nhiều trong Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ mà không có thuỷ đến trợ giúp, lúc này Mộc khí bị tiết quá nhiều, có thể bị nội nhiệt miệng khô, đòm suyễn khạc ra máu, trúng phong không nói được, phụ nữ kinh nguyệt không đều: mang thai bị sẩy, trẻ con kinh phong cấp mạn tính, ho thở khóc đêm, da xanh xám. Tại sao Mộc bị Kim chế hoặc Hoả tiết quá nhiều mà sinh ra những chứng bệnh này, trong y học cổ truyền đã nói và phân tích nhiều, ở đây không đi sâu bàn luận.
Về cách xem bệnh tật nói ở trên, Trần Tố Am có cách kiên giải độc đáo của ông: xưa phân ngũ hành, luận về bệnh tật của người, không gì không hợp lý nhưng Ngũ hành tạng phủ kinh lạc của con người đều đủ, nhưng trong trụ mệnh trong vận của con người, ngũ hành vị tất đã đủ đầy, phải lấy một hành nào đó để đoán bệnh thì chia đủ linh nghiệm. Phải xem ngày và cách cục của nó, nêu mạnh khoẻ, trung hoà hoặc Hoả thuận đều là mệnh không có bệnh, nếu yếu đuối, xô tạp hoặc rũ xuống đều là mệnh có bệnh. Lại xem khí thế của thần, hoặc thái quá, hoặc bất cập, rồi kết hợp xem ngũ hành trong trụ trong mệnh mà tính, tức là không có Mộc mà sinh Mộc, khắc Mộc, xem thần Mộc sinh Mộc khắc mà có thể đoán Mộc có bị bệnh hay không. Còn như can chi phôi với đầu, mắt, tay chân là ý muốn nói tìm biết tín hiệu. Nếu các bệnh đều thuộc về tâm thì theo luận thuyết của danh y, đâu phải ngũ hành? Phải trích mấy trăm loại sách thuốc để đưa vào mệnh vậy.
Để giản tiện dễ nhớ, lấy một phần bài phú cổ trích ra sau đây:
Gân cốt sưng đau, do Mộc bị Kim làm tổn thương, mắt mờ tối hẳn do Hoả bị thuỷ khắc; Thổ hư gặp Mộc vượng, tỳ bị tổn thương; Kim nhược gặp Hoả viêm là bị bệnh huyết lại nói:
Mộc gặp Kim khắc, bị tai nạn ở lưng sườn, Hoả bị Thuỷ làm tổn thương, tất bị tật mắt; tâm yếu thỏ dội thuộc về Kim Hoả tương hình; tỳ vị tổn thương do Thổ Thuỷ khắc nhau, chi Thuỷ can đều có Hoả bốc nên bụng đau tim bị che; chi Hoả can đầu có Thuỷ tích nên nội chướng mắt mờ; viêm trên (Hoả) đốt Thổ ướt nên đầu váng mắt hoa, nhuận dưới (Thuỷ) thuần ướt không Thổ chế, thận hư tai rè; đom đóm nháy (Hoả tinh) thừa vượng lâm li (Hoả phong); trong gió (trung phong) mất tiếng, thái bạch (Kim tinh) cứng sắc hợp Đoài Khôn (Kim Thổ) mất hồn mất vía.
Kết hợp với học thuật của các học giả Đài Loan thời nay, Từ Bình Bát tự đại đột phá cho rằng: phàm mệnh người, cường Kim phạt Mộc, Thổ nặng Mộc gãy, thuỷ nhiều Mộc trỗi. Hoả viêm Mộc bị đốt, Mộc nặng không tiết đều là gan mật có bệnh”, “phàm mệnh người, thuỷ nhiều Hoả tắt, Thổ nhiều Hoả mờ, Kim nhiều Hoả biến, Mộc nhiều Hoả tắc, Hoả nhiều không tiết, đều là bệnh tiểu tràng, bệnh tim”. “Phàm mệnh người, Mộc nặng Thổ lún, thuỷ nhiều Thổ hoang, Kim nhiều Thổ hư, Hoả nhiều Thổ cháy, Thổ vượng không tiết, đều là bệnh ở tỳ vị”, “phàm mệnh người , cường Hoả làm chảy Kim, Mộc rắn Kim bị thương, Thổ nhiều Kim bị vùi, thuỷ nhiều Kim bị chìm, Kim vượng không tiết, đều là đại tràng và phổi có bệnh” “Phàm mệnh người, Thổ nhiều thuỷ tắc, Kim nhiều thuỷ đục, Hoả nhiều thuỷ bốc hơi, Mộc nhiều thuỷ co lại, thuỷ vượng không tiết, đều là bàng quang và thận có bệnh.
Cách xem tật bệnh ở mệnh cục, học giả Đài Loan Lương Tâm Minh trong cuốn Hiện đại mệnh học còn tích cực để mắt tới việc nuôi dưỡng hậu thiên, đã nêu lên cách nói “tiên thiên hậu thiên điều hoà phù nhau bổ sung cho nhau. Trong sách Luận kiên khang cư gia chính quyết ông nói: thần điều hậu là thần dược, rất quan trọng trong mệnh cục. Mệnh chính cách sinh vào hạ lệnh viêm nhiệt, cần có thuỷ điều hậu tư nhuận, nếu không trong cục Hoả nhiệt quá táo sẽ không tốt. về mặt ăn uống, ăn chất mát thì tốt cho thân thể, những thức ăn táo nóng thì nên ăn ít. Mệnh chính cách sinh vào mùa đông lạnh, cần điều hoà cho ôn ấm, để lạnh quá sẽ không tốt, cho nên ăn chất nóng có lợi cho thân thể”.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
► Bói tử vi khoa học để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Chùa Bồ Tát còn có các tên gọị chùa Thượng Phúc tự (theo địa danh của làng), Chùa Bảo Tháp (Bảo Tháp tự). Chùa thuộc thôn Thượng Phúc, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Chùa Bồ Tát được xây dựng từ thời Lý, vị sư tổ đầu tiên là Lý Thâm (một vị hoàng thân quốc thích). Đến đầu thế kỷ 14, có một vị cao tăng họ Hồ (gọi là Hồ Bà Lam) đến tu tại chùa, đã bỏ tiền của ra tu bổ, mở rộng chùa và chiêu tập trẻ mồ côi cũng như những người thất cơ lỡ vận để cứu giúp nuôi dưỡng. Người đời tôn xưng ông làm Bồ Tát và đặt tên cho chùa là chùa “Bồ Tát”. Ngài tu ở chùa cho đến khi Hoàng thái hậu Minh từ Hồ Thuận Nương (mẹ vua Trần Nghệ Tông) về lánh nạn Chiêm Thành đánh phá Thăng Long. Nhà sư thấy bà tướng mạo cốt cách quả là người nhân hậu, có căn duyên nên đã trao truyền Y Bát rồi tự lên giàn hỏa, hóa Phật. Đó là ngày 14 tháng Tư.
Vị Bồ Tát thứ ba đến tu tại chùa chính là bà Minh từ Hồ Thuận Nương. Bà người huyện Diễn Châu, Nghệ An, lấy vua Trần Minh Tông, sinh ra hai con đều làm vua (Trần Hiến Tông 1329 – 1341, Trần Nghệ Tông 1370 – 1372). Từ khi trông coi chùa Bảo Tháp, trong hơn ba năm, bà tu sửa chùa, lại xây thêm chùa Phúc Khê (còn gọi là chùa Dâu thờ Pháp Vũ) ở cuối làng. Khi triều đình đón bà về kinh, đúng lúc có đám mây ngũ sắc sà xuống bao phủ, khi mây tan, bà đã hóa. Dân liền lập miếu thờ ngay trên nền đất nhà cũ, gọi là miếu Minh từ.
Trên đất Thượng Phúc trong khoảng thời gian thịnh đạt của đạo Phật đã có 3 người tu đắc đạo, được nhân dân tôn thờ.
Chùa Bồ Tát có diện tích : 5788m2, mang nét nghệ thuật thế kỷ 17-18. Tam quan chùa là một tòa nhà ba gian, liền phía trước hai tường hồi là hai cột trụ trên đỉnh được trang trí hình con nghê. Qua tam quan vào sân chùa, trong có hai bảo tháp lớn hình bát giác ba tầng.
Qua sân đến nhà tiền đường, đầu hồi là hai cột trụ lớn trên đỉnh trụ đắp hình bốn chim phượng. Bờ nóc nhà tiền đường được trang trí lưỡng long chầu nguyệt, các góc mái trang trí hình con ly. Trên khung nhà tiền đường được trang trí cảnh Đường Tăng đi thỉnh kinh cùng ba đồ đệ. Sát tường hậu và tiền đường có xây bệ thờ đức Thánh Hiền và đức Chúa Ông.
Ở hai bên tiền đường đặt tượng thờ các vị Thập điện Diêm vương, La Hán, Hành Giả, Quan Âm Nam Hải và Quan Âm tọa sơn. Nằm hai bên đầu thượng điện một sân hẹp là nhà phương đình tám mái với bộ khung chạm khắc hình rồng mây, ly, quy, phượng là nơi thờ vị sư tổ Hồ Bà Lam.
Hậu cung được nối liền với tiền đường tạo thành một nội thất thống nhất. Giữa hậu cung là bệ thờ các đức Phật Tam Thế, A Di Đà, Thích Ca, Bồ Tát, các quan Nam Tào, Bắc Đẩu.
Chùa Bồ Tát còn giữ được nguyên bản 11 đạo sắc (chủ yếu của miếu Minh từ) cùng nhiều vật quý giá: Bia đá khắc năm Quang Thái thứ Nhất (1388) thời Trần Thuận Tông (1388-1398). Bia gỗ “Mộc Bản” khắc năm trùng tu chùa: Bảo Thái Ất Tỵ (1725), chiêng đồng đúc năm Gia Long thứ 12 (1813), khánh đồng đúc năm Thiệu Trị thứ ba (1843) và nhiều tượng phật cổ quý giá, nhiều đồ thờ cúng bằng ngọc, bằng ngà, bằng bạc.
Năm 1990, Chùa Bồ Tát đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng Di tích Lịch sử – Văn hóa. Chùa Bồ Tát có bề dày lịch sử, có ý nghĩa tâm linh sâu sắc, nơi ghi dấu ấn ba vị tu thành Phật. Chùa còn là một di tích có kiến trúc và điêu khắc mang giá trị nghệ thuât tiêu biểu.
Người tuổi Sửu mệnh Mộc là những người sinh năm Quý Sửu 1913, 1973... Không trầm tĩnh như người tuổi Sửu mệnh Thổ, không mạnh mẽ như người tuổi Sửu mệnh Kim nhưng vẻ ngoài của họ toát lên khí chất nho nhã, thanh cao và luôn gây được thiện cảm với người xung quanh.
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Người tuổi Sửu mệnh Mộc vốn không sôi nổi nhưng luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác. Họ có chí tiến thủ nhưng không quá tham vọng với quyền lực như người tuổi Sửu mệnh Hỏa. Trong công việc, họ cẩn trọng, biết tiếp thu ý kiến của người khác, có tinh thần cầu thị. Có thể nói, con người họ giống như tính chất của hành Mộc, luôn vươn lên tươi xanh và cân bằng và chan hòa sức sống.
Người tuổi Sửu mệnh Mộc có tinh thần hợp tác và biết cách tạo dựng các mối quan hệ tốt đẹp trong công việc cũng như trong cuộc sống. Cũng có không ít người tuổi Sửu mệnh Mộc khá thông minh, nhanh nhẹn. Họ biết tận dụng mọi cơ hội khi có thể để biến lý tưởng của mình trở thành hiện thực.
Cuộc đời của người tuổi Sửu mệnh Mộc tuy có gặp khó khăn nhưng họ đều biết cách vượt qua để tạo lập sự nghiệp cho bản thân.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
“Thân em như hạt mưa sa, Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”. Con gái lấy chồng ai chẳng mong được chồng thương yêu, chiều chuộng. Nhưng chọn chồng đâu có dễ, bạn đã biết trong 12 con giáp thì anh chàng nào là người yêu chiều vợ nhất hay chưa? Cùng Lịch ngày tốt khám phá bí mật này nhé. Hôn nhân là chuyện trọng đại cả đời người. Có thể nói hôn nhân có sức mạnh diệu kì, thậm chí đủ sức để thay đổi cả một con người. Một anh chàng trông bề ngoài dữ dằn hổ báo song sau cánh cửa hôn nhân lại có thể trở thành một người chồng dịu dàng chu đáo, nuông chiều vợ hết mực. Rồi cả những người đàn ông tưởng chừng khô khan, chẳng có tí xíu tế bào lãng mạn trong người thì bỗng một hôm khiến mọi người tròn mắt vì sự yêu thương dâng tràn trong mắt khi ngắm nhìn nửa kia của mình, nâng niu vợ trong lòng bàn tay. Chắc hẳn được lấy một người như vậy làm chồng thì cuộc sống của người vợ sẽ vô cùng ngọt ngào và hạnh phúc. Người ta vẫn thường nói, chồng càng yêu chiều thì vợ càng xinh đẹp. Điều này thậm chí còn được các nhà khoa học Mĩ nghiên cứu và khẳng định nữa. Vậy bạn có biết xem bói tử vi thì chàng giáp nào là người thương vợ, chiều vợ nhất không? Cùng đọc để chọn được người chồng lý tưởng trong 12 con giáp nhé.
Những vật bạn nhìn thấy trong phòng làm việc cũng là yếu tố quan trọng. Dưới đây là một số nhân tố có thể đáng chú ý:
– Đảm bảo tất cả đồng hồ và lịch trong phòng làm việc chì thời gian chính xác; nếu không, bạn sẽ thấy mình thật sự không “khớp” với nhu cầu của công việc.
– Đồng hồ đặt đối diện mặt bàn làm việc hoặc treo trên bức tường, phía trên bàn làm việc, có thể góp phần tạo cảm giác áp lực về thời gian. Hãy chuyển đồng hồ đi chỗ khác nhưng vẫn đảm bảo xem giờ thuận tiện, không để đồng hồ kêu tích tắc ở ngay trước mặt.
– Khi bước vào phòng, vật cần tránh nhìn thấy đầu tiên là các hóa đơn chưa thanh toán ở trên bàn. Chúng sẽ khiến bạn tập trung vào chi phí, thay vì thu nhập.
– Khi ngồi làm việc, nếu bạn quay mặt vào tường, hãy trang trí khoảng không đó. Đối diện với bức tường trống không hàm ý tâm trạng trống rỗng, có thể góp phần tạo cảm giác vô dụng và chán nản. Hãy đặt các đồ vật dễ khơi dậy xúc cảm: bức ảnh gia đình, cuốn sách quảng cáo du lịch với kỳ nghỉ bạn đang dự định thực hiện vào cuối năm, mô hình giải thưởng “Doanh nhân của năm” bạn hy vọng sẽ được nhận trong tương lai, hoặc bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào để truyền cảm hứng.
Nói chung, tất cà hình ảnh trong phòng làm việc càng mang tính tích cực và đem lại sự phát đạt càng tốt. Bất cứ vật gì biểu lộ sự nghèo nàn hoặc thiếu thốn đều không thuộc về căn phòng này.
Sự bừa bộn trong phòng làm việc cũng có tác động xấu như ở các phòng khác. Bừa bộn khiến bạn rối trí, khó tập trung và bị tiêu hao năng lượng. Hãy chú ý giữ mặt bàn làm việc và các khu vực xung quanh gọn gàng. Sự bừa bộn tiềm ẩn cũng đáng quan tâm. Nếu bạn muốn có nhiều khách hàng và công việc hơn, hãy hoàn tất các hồ sơ dạng mềm và tạo chỗ cho các tài liệu mới vốn đi kèm với sự mở rộng công việc.
=> Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
Ngày Ngưu Lang Chức Nữ hay còn gọi là ngày ông Ngâu bà Ngâu, theo văn hóa một số nước phương Đông thì ngày này là ngày 7 tháng 7 Âm lịch. Nguồn gốc ngày lễ gắn liền với sự tích về Ngưu Lang – Chức Nữ.
Ở một số nước Đông Á như Việt Nam và Trung Quốc thì ngày 7 tháng 7 Âm lịch theo Lịch âm dương được coi là ngày lễ Thất tịch, ngày ông Ngâu bà Ngâu hay ngày Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau.Ngày lễ Thất tịch hay còn gọi là ngày ông Ngâu bà Ngâu |
Nguồn gốc ngày Thất Tịch gắn liền với sự tích Ngưu Lang Chức Nữ |
Những câu nói, bài thơ hay về tình thầy trò. Một câu danh ngôn, một bài thơ hay về tinh cảm thầy trò trong tác phẩm báo tường sẽ góp phần làm phong phú và khiến bài báo tường của bạn có ý nghĩa hơn khi dâng tặng thầy cô trong dịp 20/11 này.
1. Nghề giáo là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý
2. Dưới ánh mặt trời không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học- Comenxki
3. Một gánh sách không bằng một người thầy giỏi – Ngạn ngữ Trung Quốc
4. Trọng thầy mới được làm thầy – Ngạn ngữ Trung Quốc
5. Thầy giáo là đường tinh, học sinh là đường đã lọc – Ngạn ngữ Ba Tư
6. Đem việc làm mà dạy người thì người ta theo; chỉ đem lời nói mà dạy người thì người ta không phục – Đệ Ngũ luận
7. Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy – Tục ngữ Việt Nam
8. Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu kính thầy – Tục ngữ Việt Nam
9. Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách phạt nào khác – Usinxki
10. Phải tôn kính thầy dạy mình, bởi lẽ nếu cha mẹ cho ta sự sống thì chính các thầy giáo cho ta phương cách sống đàng hoàng tử tế – Philoxêne De Cythêrê
Thưa thầy, bài học chiều nay
Con bỏ quên ngoài cửa lớp
Dưới gốc phượng già, nằm nghe chim hót
Con hóa mình thành bướm và hoa
Thưa thầy bài tập hôm qua
Con bỏ vào ngăn khóa kín
Mải lượn lờ theo từng vòng sóng
Cái ngã điệu đàng, sân trượt patin
Thưa thầy, bên ly cà phê đen
Con đốt thời gian bằng khói thuốc
Sống cho mình và không bao giờ mơ ước
Mình sẽ là ai ? Tôi sẽ là ai ?
Thưa thầy, qua ngõ nhà thầy khuya nay
Con vẫn thấy một vầng trăng ấm sáng
Thầy ngồi bên bàn phẳng lặng
Soạn bài trong tiếng ho khan
Thưa thầy, cho là nhận: điều giản đơn
Sao con học hoài không thuộc
Để bây giờ khi con hiểu được
Biết làm sao tạ lỗi cùng thầy
Tạ Nghi Lễ
Thầy và chuyến đò xưa
Lặng xuôi năm tháng êm trôi
Con đò kể chuyện một thời rất xưa
Rằng người chèo chống đón đưa
Mặc cho bụi phấn giữa trưa rơi nhiều
Bay lên tựa những cánh diều
Khách ngày xưa đó ít nhiều lãng quên
Rời xa bến nước quên tên
Giờ sông vắng lặng buồn tênh tiếng cười
Giọt sương rơi mặn bên đời
Tóc thầy bạc trắng giữa trời chiều đông
Mắt thầy mòn mỏi xa trông
Cây bơ vơ đứng giữa dòng thời gian…Nguyễn Quốc Đạt
Xin lỗi các em
Tôi đâu phải người làm nông
Cày xong đánh giấc say nồng một hơi
Chuông reo tan buổi dạy rồi
Còn nghe ray rứt nỗi đời chưa yên.Trách mình đứng trước các em
Dửng dưng cả tiếng hồn nhiên gọi: Thầy!
Rụng dần theo bụi phấn bay
Ước mơ một thuở căng đầy tuổi xanhDẫu là lời giảng của mình
Cơn ho chợt đến vô tình cắt ngang
Dẫu là tiết học vừa tan
Bước qua cửa lớp đôi lần hụt hơi!Hiểu dùm tôi các em ơi
Giấu bao ám ảnh khôn nguôi từng giờ
Cảnh đời chộn rộn bán mua
Áo cơm nào dễ chi đùa với ai.Vờ quên cuộc sống bên ngoài
Nhiều điều xa lạ nói hoài riết quen
Dở hay, yêu ghét, trắng đen
Còn bao sự thật đã nhìn thẳng đâuAi còn dằn vặt đêm sâu
Trong từng sợi tóc bạc màu truân chuyên
Thật lòng tạ lỗi các em
Hiểu ra khi đã lớn lên mai này!Trần Ngọc Hưởng
Bụi phấn xa rồi
Ngẩn ngơ chiều khi nắng vàng phai
Thương nhớ ngày xưa chất ngất hồn
Một mình thơ thẩn đi tìm lại
Một thoáng hương xưa dưới mái trườngCho dẫu xa rồi vẫn nhớ thương,
Nầy bàn ghế cũ, nầy hàng me
Bảng đen nằm nhớ người bạn trẻ
Bụi phấn xa rồi… gửi chút hương!Bạn cũ bây giờ xa tôi lắm
Mỗi đứa một nơi cách biệt rồi!
Cuộc đời cũng tựa như trang sách
Thư viện mênh mông, nhớ mặt trời!!!Nước mắt bây giờ để nhớ ai???
Buồn cho năm tháng hững hờ xa
Tìm đâu hình bóng còn vương lại?
Tôi nhớ thầy tôi, nhớ… xót xa!Như còn đâu đây tiếng giảng bài
Từng trang giáo án vẫn còn nguyên
Cuộc đời cho dẫu về muôn nẻo
Vẫn nhớ thầy ơi! Chẳng thể quên!!!Thái Mộng Trinh
THỜI ĐÃ XA
Trở lại sân trường
Nắng ngẩn ngơ nhìn ta xa lạ
Chùm phượng đỏ hôm nao
Giờ chỉ xanh màu lá
Vết chân xưa mưa nắng cũng nhoà!Chỗ ngồi kia đâu phải của riêng ta
Còn đâu nữa những giờ học
Thả hồn theo gió
Lời mắng nhẹ nhàng của thầy
Giờ đây nghe xa quá!
Kỉ niệm tràn về thật ngân nga!Thật ư
Thời học trò đã xa
Tuổi thơ cũng vụt qua
Ta lặng lẽ bước đi trong niềm nhớ
Thầy cô bạn bè ơi!
Biết vao giờ gặp lại
Thời gian thì trôi mãi
Trôi xa!!
Cách bài trí bàn thờ cúng Thần Tài
Trong cùng bàn thờ, dán trên vách là một tấm bài vị. Sau lưng bàn thờ Thần Tài cần phải là vách tường chắc chắn, không được trổ cửa sổ hay đục lỗ vì làm vậy thì tài vận không tụ được. Trong những trường hợp không thể đặt bàn thờ dựa lưng vào tường do phải chọn hướng thì cần tạo vách để tránh góc nhọn sau lưng bàn thờ và giúp bàn thờ nằm vững chắc. Hai bên, bên trái (nguyên tắc là từ ngoài nhìn vào) là ông Thần Tài, bên phải là Thổ Địa (thường bàn thờ Thần Tài thờ chung với ông Thổ Địa). Ở giữa hai ông là một hũ gạo, một hũ muối và một hũ nước đầy. Ba hũ này chỉ đến cuối năm mới thay. Giữa bàn thờ đặt một bát nhang và cần tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ. Lọ hoa được đặt bên tay phải, đĩa trái cây bên tay trái. Hoa cúng Thần Tài nên là hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền. Trái cây nên chọn ngũ quả. Xếp 5 chén nước thành hình chữ thập để tượng trưng cho ngũ phương và ngũ hành phát sinh phát triển. Ông Cóc để bên trái, sáng quay Cóc ra, tối quay Cóc vào. Ngoài cùng trên mặt đất, nên chọn một cái bát hoặc đĩa sâu sứ hoặc thuỷ tinh thật đẹp, đổ đầy nước và rắc những cánh hoa hồng trên mặt (đĩa hoa này biểu trưng cho việc giữ tiền bạc khỏi trôi đi). Bên trên bàn thờ Thần Tài, có thể đặt thêm tượng Phật Di Lặc. Di Lặc Phật Vương sẽ quản lý và ngăn chặn các vị thần làm điều sai trái.
Một bàn thờ Thần Tài và Thổ Địa trong cửa hàng kinh doanh được đặt hợp phong thủy. Ảnh minh họa. |
Chọn hướng đặt bàn thờ Thần Tài
Nguyên tắc đặt bàn thờ Thần Tài – Ông Địa là phải là vị trí quan sát được hết sự vào ra của khách. Có 2 hướng nên chú ý để chọn khi đặt bàn thờ, một là theo hướng tốt của chủ nhà, hai là theo hướng đón Khí (Lộc) bên ngoài khi vào nhà. Vì vậy khi đặt bàn thơ Thần Tài nên chọn lấy các cung Thiên Lộc, Quý Nhân để có thể thu nhận được nhiều tài lộc cho cửa hàng kinh doanh.
1. Cung Thiên Lộc:
Thiên Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can. Nhà có cửa chính nằm trong cung Thiên Lộc rất tốt, may mắn. Bàn thờ Thần Tài nếu chọn cung Thiên Lộc sẽ mang lại những may mắn về tiền bạc, gia sản thăng tiến, nhà cửa vượng. Không những thế, đặt bàn thờ Thần Tài nằm trong cung này sẽ khiến cho gia chủ, cơ địa tốt tươi, thông minh, tuấn tú lại khéo léo, tài năng kinh doanh giỏi, làm ăn tiến phát. Vì vậy, hướng Thiên Lộc là được coi là hướng tốt nhất để đặt bàn thờ Thần Tài. Tuy nhiên, trước khi chọn hướng an vị bàn thờ Thần Tài bạn cũng nên quan tâm tránh các hướng có sự ảnh hưởng của hướng có sao Không Vong, Tử, Tuyệt. Nếu gặp Không Vong, Tử, Tuyệt thì Khí tán, tài không tụ, có lộc cũng như không. Nhiều người cho rằng hướng Thiên lộc phạm các sao Không Vong, Tử, Tuyệt gọi là hướng Tuyệt Lộc, dù tài sản có như nước, rồi cũng tiêu tan hết.
2. Cung Quý Nhân:
Quý Nhân Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động, chí tôn mà có thể trấn được phù trợ. Đặt bàn thờ Thần Tài vào cung Quý Nhân gia đạo sẽ được bình an, hỷ khí đầy nhà, làm ăn buôn bán may mắn, có nhiều khách hàng thân thiết và nhiều người giúp đỡ, gặp dữ hóa lành. Tuy nhiên nếu gặp Không Vong, Tử, Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều, hoặc nếu có mắc nạn cũng khó tránh, bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực, người và gia súc bị tổn thất, kiện cáo, thị phi.
Cung Thiên Lộc tại hướng Đông-Nam, cung Quý Nhân tại hướng Tây-Bắc. Tuy nhiên, phải sử dụng la bàn để xác định rõ 2 cung này, tùy theo tuổi của gia chủ. Sau khi đặt bàn thờ Thần Tài ở các vị trí trên, nên có sự chuẩn bị cẩn thận, trước mặt bàn thờ phải quang đãng, sạch sẽ. Bàn thờ Thần Tài tuy thờ dưới đất nhưng vị thần này tính rất thích thơm tho, sạch sẽ. Vì vậy nên để sẵn một lọ nước hoa tươi và phải thường xuyên lau dọn, xức nước thơm cho bàn thờ được thơm tho.
Chuyên gia phong thủy Nguyễn An
(Trung tâm phong thủy Hoàn Kiếm)
Cứ đến mùa Vu lan, hầu hết người Việt Nam, dù ở bất cứ nơi đâu, cũng đều được dự lễ “Bông Hồng cài áo”, để tưởng nhớ công ơn của Mẹ, dù còn hiện tiền hay không còn lưu dấu. Nghi lễ này bắt nguồn từ tùy bút "Bông hồng cài áo" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Xin được đăng ở đây Tùy bút này để chúng ta cùng đọc và suy ngẫm.
"Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không "lớn" lên được. Cằn cỗi , héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: Tai nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi.
Những bài hát, bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu.... sợ sệt lo âu một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chưa chắc chắn phải đến:
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời !
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi...
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.
Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức:
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Ngon biết bao ! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta.
Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay hay là tơ trời đâu la miên ?) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi ", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận.
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra .
Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi được biết tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý thương yêu của tôn giáo vốn dạy về tình thương.
Đạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ Mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương tín ngưỡng và hành động thì không xa chi mấy bước.
Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ ( Mother"s Day ) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương.
Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.
Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!". Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh.
Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: "Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!" Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: " Mẹ ơi, mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi người cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.
Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Kiền Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương Tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ rồi. Cần chi nói đến bổn phận.
Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con.
Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: "Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?" Tôi trả lời: "Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi". Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi " làm thế nào " nữa! Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt hại cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi. Để mai này anh chị đừng có than thở rằng: Đời ta không còn gì cả.
Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ. Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng nhẽ chị tôi không đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi. Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói: "Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác".
Chị tôi gục đầu xuống mâm khóc. Chị nói: "Thôi con không lấy chồng nữa". Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. "Cắt ái từ sở thân" là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào mà không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng qúi báu đó.
Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau. Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: "Không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ!". Tôi đã nói là tôi không khuyên răn gì hết -- tôi không giảng luân lý đạo đức -- rồi mà! Tôi chỉ nhắc anh: "Mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương". Để chị đừng quên, để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn : Cũng không phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo anh một bông hoa hồng: để anh sung sướng, thế thôi.
Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh, như thế này. Chiều nay, khi đi học hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: "Mẹ ơi, mẹ có biết không?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: "Mẹ có biết là con thương mẹ không?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi, thì anh cũng hỏi một câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em là con của mẹ.
Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Và ngày mai mất mẹ, Anh sẽ không hối hận, đau lòng , tiếc rằng anh không có mẹ. Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đóa hoa mầu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi."
Theo quan niệm truyền thống của cha ông ta, việc thờ cúng tổ tiên là vô cùng quan trọng. Điều đó không những thể hiện chữ hiếu của con cháu với tổ tiên cha mẹ và dù mất đi, tổ tiên vẫn phù hộ cho con cháu. Tuy nhiên, việc này quyết định bởi phần đặt bàn thờ, tốt hay xấu, thì sau khi đặt từ 3 đến 4 tuần là ứng nghiệm. Việc bạn xem ngày tốt xấu để đặt bàn thờ cũng quan trọng như bạn đặt bàn thờ đúng hướng.
Lưu ý là hướng của bàn thờ là hướng ngược lại với chiều của người đứng khấn. Một số lưu ý khác để phong thủy bàn thờ ông bà được tốt hơn:
Tọa cát hướng cát, nghĩa là đặt ở vị tốt xoay về hướng tốt
Dưới và trên bàn thờ không đặt các loại cửa người đi được, không đặt bàn thờ ở chỗ bị dầm đè lên.
Không đặt bàn thờ ở phần đất lấn chiến khoảng không
Không đặt bàn thờ ở chỗ có đường đi lại
Bàn thờ không nhìn vào phòng vệ sinh, và không đặt dưới hay dựa vào phòng vệ sinh
Trên chỗ bàn thờ ở tầng trên không kê giường, bàn ghế, tủ quần áo phụ nữ
Bàn thờ không được đặt trong phòng ngủ, đặc biệt là phòng của vợ chồng
Đèn trên bàn thờ luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương
Có thể cân nhắc đặt bàn thờ ở Trung Cung và hướng về hướng tốt.
Đối với bàn thờ Ông Địa, Thần Tài nên đặt gần cửa để nghinh tiếp tài lộc, và quay về các hướng tốt, tương tự như bàn thờ tổ tiên ở trên phong thủy cho bàn thờ. Cách bày trí kết cấu bàn thờ Ông Địa, Thần Tài.
Còn với bàn thờ Ông Táo nên được đặt ở sau bếp. Đây cũng chính là vị “nhất gia nhì chủ”, có nhiệm vụ coi sóc việc gia cư, định hoạ phước, trừ ma diệt quỷ. Nguyên tắc đặt là toạ hung hướng cát, tương như bếp nấu.
Luận giải tử vi trọn đời của 12 con giáp cho rằng, do có khả năng kinh doanh thiên bẩm, đầu óc tính toán ưu việt, nhạy bén với thị trường mà những con giáp này là con giáp phát tài trong tương lai.
► Đoán vận mệnh, tài lộc của bạn qua việc tự xem chỉ tay |
4 đường chỉ tay cơ bản: 1. Đường Sinh đạo; 2. Đường Tâm đạo; 3. Đường Trí đạo; 4. Đường Định mệnh |
Số (1) chính là đường Công danh trên bàn tay |
Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng đó là câu nói rất có lý trong tình yêu. Để biết mình biết ta cũng cần phải xem tuổi kết hôn một cách chính xác mới có thể đưa ra quyết định đúng đắn.
Nhân tướng học có thể bói tuổi kết hôn qua các biểu hiện của tướng tay như các đường chỉ tay, độ mềm mại của tay, các cử động của ngón tay qua đó có thể xác định được những người kết hôn muộn.
Những người có Đường Tình cảm hiện lên hình bậc thang biểu thị phương diện tình cảm có chủ kiến nên khi chọn người bạn đời thường không suy nghĩ kín kẽ, chỉ là dựa vào tình cảm nhất thời mà quyết định, đôi khi dễ bị lừa dối trong tình yêu, cộng thêm tính ỷ lại của bản thân lại khá cao, những người này sẽ nhẹ dạ cả tin vào những lời ngon ngọt của đối phương, cho nên thường bị những lời nói dối đánh lừa, không nhìn được hết chân tướng sự việc.
Nếu chỉ tay bạn có đặc điểm này, hãy bình tĩnh và sáng suốt. Dừng lại một chút, nghĩ kỹ một chút, chất vấn bản thân thêm. Nếu những câu hỏi, những suy nghĩ mà bạn vượt qua được, chí ít tình cảm của bạn với người ấy là chân thành.
Khi bói tình yêu người có ngón tay Cái mềm, có thể cong gập ra sau được cho thấy tình cảm của người này hỷ nộ vô thường, có biểu hiện gọi là tình cảm hóa. Nhưng bởi coi trọng chuyện quan hệ tình cảm, dường như là muốn đối phương toàn tâm toàn ý chăm sóc mình nên dễ bị đối phương lừa dối, cuối cùng rơi vào cảnh thương tâm, buồn bã, ân hận. Nếu bị phụ bạc một lần, họ sẽ vô cùng thận trọng khi yêu người khác nên tuổi kết hôn thường hay muộn màng.
Nếu bạn là người tình cảm hóa yêu thương, hãy nhớ rằng, tình yêu tuy một những vẫn là hai. Hai ở đây là hai người chung một tình yêu. Con người vẫn cần phải có không gian riêng, vẫn cần có những sở thích, vẫn cần có những đam mê khác. Nếu bạn chỉ muốn người ta toàn tâm toàn ý, lúc nào cũng nghĩ tới bạn, điều đó sẽ mang lại cho đối phương cảm giác ngột ngạt, bứt bối. Theo phản xạ, sẽ có xu hướng lánh xa bạn thêm. Có câu: “lạt mềm buộc chặt”, hãy khéo léo trong tình yêu!
Người có Đầu ngón út mềm vô lực cho thấy vận thế tình cảm không tốt, thường xuyên gặp phải những kẻ bạc tình, dẫn tối nhiều tổn hại, nhưng chính vì không biết nhìn xa trông rộng cho nên đối với những cám dỗ của họ hầu như là không thể kháng cự lại được, một khi đã rơi vào bẫy của đối phương thì cuối cùng chỉ còn tay trắng.
Bởi vậy, nếu bạn rơi vào trường hợp này, hãy lùi một bước mà trời cao biển rộng. Hãy nghĩ về tương lai, nghĩ về những mơ ước trong tình yêu của bạn, xem những ngọt ngào hiện tại bạn đang có, có thật sự là tình yêu không. Cả hai phía nhé. Dừng lại một chút giúp bạn không bị tình cảm chi phối hoàn toàn phán xét của mình. Ít nhất, hãy một lần để lý trí lên tiếng.
Đường Trí tuệ quá ngắn (như hình 1) cho thấy tình cảm dễ bị kích động, đời sống tình cảm hầu như xuất hiện rất nhiều vấn đề, cộng thêm thiên tính thuần nhất không phòng bị người khác, cho nên người này dễ bị người bạn đời cho vào mộng mị mà không hề hay biết đối phương sớm đã trở mặt với mình, cho tới khi chân tướng sự việc đã quá rõ ràng.
Hãy khôn ngoan trong tình yêu. Điều này không có nghĩa là bạn tính toán, làm lợi, hay chạy theo tình cảm mù quáng. Khôn ngoan ở đây là bạn sáng suốt trong vấn đề tình cảm của hai người. Hãy để bản thân bạn ở thế chủ động. Bạn có hiểu người yêu của mình không. Bạn có thể khéo léo làm cho anh ấy bị “sức hút” của bạn không thoát ra được không.
Những người có Đường Tình cảm phân nhánh song song (như hình 2) biểu thị là người rất coi trọng tình cảm, không muốn bị người khác ép buộc, thường vui vẻ đáp ứng yêu cầu của người khác, có khuynh hướng là người chín chắn, về mặt tình cảm, họ thiếu khả năng nhìn thấu sự việc, dù đã biết đối phương có hành vi quay lưng lại với mình cũng sẽ sẵn sàng tha thứ cho mọi hành động của đối phương.
Nếu gặp được người yêu thương mình thật sự, bạn sẽ thật hạnh phúc vì hai người đều trân trọng tình cảm của nhau. Nhưng nếu gặp thất bại ngay lần đầu, thường sẽ bị tổn thương sâu sắc. E dè trong mối tình mới nên khi bói tuổi kết hôn cũng thường được kết luận là chậm hơn.
Cần lưu ý là 5 trường hợp trên không phải nhất nhất là kết hôn muộn. Mà là bởi tính cách từ những đặc điểm của tướng tay dễ dẫn đến tình trạng như vậy mà thôi!
(theo Tử vi số mệnh)
Xòe bàn tay trên mặt phẳng và găng hết cỡ.
+ Ngón cái với bàn tay tạo một góc bằng 60° thì trí tuệ khoát đạt, thích tự do.
+ Ngón cái trắc diện (Profit) vuông 90n thì tinh thần trong sáng, tính minh bạch.
+ Ngón cái choạc càng rộng > 90° thì càng độc lập suy nghĩ và có bản lĩnh.
+ Ngón cái choạc càng hẹp < 45° thì sông thiếu bản lĩnh, lệ thuộc.
+ Ngón cái choạc < 60° thì khuynh hướng bình thường.