Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Lợi dụng phong thủy hóa giải mâu thuẫn gia đình

Việc xảy ra mâu thuẫn trong gia đình là điều không thể tránh khỏi với bất kỳ cuộc hôn nhân nào. Vậy thì những bí quyết phong thủy nào giúp hóa giải mâu thuẫn này đây?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.  Phong thủy trong phòng khách

Trong phòng khách những đồ dùng, vật dụng được bày đặt, trang trí nhiều hơn và có giá trị hơn các phòng khác. Bởi lẽ đây là nơi tương đối náo nhiệt, là nơi gia đình tiếp đón khách, trò chuyện, xem tivi cùng nhau… Ở một nơi “người hay lui tời càng sinh lắm điều” này thì rất dễ ảnh hưởng đến mối quan hệ vợ chồng.

Do vậy khi chọn lựa trang trí phòng khách bạn không nên chạy theo lối “khoe của” mà phải xem xét kỹ lưỡng. Không nên treo những bức tranh mãnh thú, bởi trong nó luôn luôn mang trong nó điềm hung, không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng con người mà lâu dài còn làm cho các cuộc “khẩu chiến” giữa hai vợ chồng càng khó chấm dứt.

 loi dung phong thuy hoa giai mau thuan gia dinh - 1

2. Phong thủy nhà bếp

Nhà bếp mang đến cho mối quan hệ vợ chồng sự ấm áp, gần gũi nhau hơn. Nếu thiết kế khu bếp không tốt, ví như cửa bếp đối diện cửa chính, phòng bếp đối diện nàh vệ sinh, phòng bếp nằm về hướng Hung vị (hướng các sao Hung tinh)… sẽ khiến sự hòa hợp trong cuộc sống của hai vợ chồng giảm sút.

Do vậy khi thiết kế khu bếp cần chú ý hài hòa Thủy – Hỏa, duy trì sự ngăn nắp, sạch sẽ. Bạn có thế thiết kế phòng bếp theo hướng Đông, hướng Đông là hướng Đại cát. Nếu phòng bếp thuộc các hướng khác thì bạn có thể đặt trên bàn ăn 1 bình hoa màu hồng để duy trì sức khỏe, ngăn chặn ám khí, mang đến tài vận, giảm thiểu áp lực cuộc sống và thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp của hai vợ chồng.

 loi dung phong thuy hoa giai mau thuan gia dinh - 2

3. Phong thủy phòng ngủ 

Đầu giường phòng ngủ không nên đối diện với tấm gương. Xét ở góc độ phong thủy thì gương có tác dụng phản chiếu cực lớn. Nếu đặt một chiếc gương đối diện giường ngủ thì ở bất kỳ vị trí nào hai vợ chồng cũng nhìn được nhau. Điều này lâu dài gây ảnh hưởng đến tinh thần, thậm chí là cảm giác khủng hoảng. Khi đôi bên không có được một giấc ngủ có chất lượng thì tự nhiên mối quan hệ vợ chồng cũng sẽ không được hòa hợp nữa. Tiếp theo nữa là bạn cần chú ý đến các vấn đề phong thủy khác như ánh sáng trong phòng ngủ, đuôi giường... đều có những cấm kỵ cần tránh để không gây ra sự bất an hay gây ra đấu khẩu. 

 loi dung phong thuy hoa giai mau thuan gia dinh - 3


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lợi dụng phong thủy hóa giải mâu thuẫn gia đình

Đặt tên hay cho con sinh năm Ngựa –

Để chuẩn bị đặt tên cho em bé sinh vào năm Giáp Ngọ, trước hết các bậc phụ huynh cần tìm hiểu đặc tính của loài ngựa thì mới có thể lựa chọn cho con yêu của mình một cái tên hay. Con ngựa thích sống nơi hang động, có thể khoác được áo màu thì càng tố

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để chuẩn bị đặt tên cho em bé sinh vào năm Giáp Ngọ, trước hết các bậc phụ huynh cần tìm hiểu đặc tính của loài ngựa thì mới có thể lựa chọn cho con yêu của mình một cái tên hay.

Con ngựa thích sống nơi hang động, có thể khoác được áo màu thì càng tốt. Giống ngựa có thể được vương quyền lại có thể truyền lệnh, càng hiển đạt cao quý. Ngựa mà được người cưỡi chứng tỏ được quan tâm, chiếu cố. Tên nên chứa đựng những hàm ý liên quan đến lương thực, hoa màu, có lửa hoặc thái dương, có thể liên quan đến vũ khí, hoặc cũng có thể liên quan đến rừng, thảo nguyên, bình địa. Nên có hình chữ liên quan đến chạy, phi. Tên mà có liên quan đến hổ, chó là thuộc về tam hợp, còn nếu liên quan đến rắn, dê là thuộc về tam hội. Cụ thể như sau:

at-ten-cho-con

1. Trong tên nên có những chữ liên quan đến Thảo (艸), bởi vì ngựa là động vật ăn cỏ, nếu có cỏ ăn thì sức khỏe dồi dào, thân mình tráng kiện. Lương thực càng đầy đủ thì thế giới nội tâm càng phong phú. Trong tên là có bộ “Thảo” nhất định là tên hay.

2. Trong tên mà có bộ Long (龍) thì cũng rất tốt, bởi nó đại diện cho “Long mã tinh thần”, mang ý nghĩa tích cực, sinh khí, đầy sức sống, tài năng, dễ đạt được thành công.

3. Tên cũng có thể phối hợp với các bộ có liên quan đến lương thực như Hòa (禾), Mạch (麥), Tắc (稷), Đậu (豆), Thúc (叔), Túc (粟), Lương (梁). Bởi vì ngoài việc thích ăn cỏ thì ngũ cốc hoa màu cũng là món ăn chính của loài ngựa, mang hàm ý cả đời áo ăn no đủ.

4. Tên của người sinh năm Ngựa cũng thích hợp với những chữ có bộ Mộc (木), bởi ngựa có thể đi lại tự do tự tại trong rừng cây, có cây cối là có thể che mưa nắng, lại thích hợp với sự tự do phóng khoáng, có thể thích ứng với các loại môi trường sống.

5. Trong tên cũng nên có các hình chữ hoặc bộ như Miên (宀), Mịch (冖), Quảng (广), Môn (門), Sách (冊), đại diện cho mái hiên, hang động có thể che mưa tránh gió, mang hàm ý có một nơi trú ngụ ấm áp.

6. Tên đặt cũng thích hợp với các bộ thủ như Hệ (系), Cân (巾), Sam (彡), Y (衣), Sơ (疋), Thái (采), có ý rằng một con ngựa hay thì mới được người ta quan tâm, khoác lên mình bộ áo quý. Ngoài ra, có thể dùng các bộ thủ đại diện cho mũ như Đầu (亠), Trảo (爫), biểu thị sự cao quý, đem lại cảm giác được tôn kính.

7. Tên người cầm tinh con ngựa cũng thích hợp với các tự căn có liên quan đến tam hợp như Dần (寅), Tuất (戌), Hổ (虎), Khuyển (犬). Ngoài ra cũng thích hợp với các tự căn liên quan đến tam hội như Tị (已), Mùi (未), Xà (蛇), Dương (羊), biểu thị có nhiều quý nhân phù trợ.

Bên cạnh những yếu tố tốt đẹp, bổ trợ cho tên hay thì chúng ta cũng cần tìm hiểu những yếu tố mà ngựa kỵ để tránh không đặt phải tên xấu. Ví dụ như những người sinh năm ngựa không nên đặt tên có bộ Nhục (肉), hoặc nếu có liên quan đến con Chuột thì phạm phải lục xung, gặp Ngưu, Sửu thì thành lục hại. Nếu tên mà có nước thì sẽ thành thủy hỏa tương khắc. Tốt nhất là tên không nên có bộ Sơn, sẽ khiến người ta có cảm giác mệt mỏi (vì leo núi). Phân tích cụ thể như sau:

dat-ten-cho-be-2013

1. Người cầm tinh con ngựa không nên dùng 2 bộ Nhân (人) hoặc bộ Xích (ㄔ) mang hình 2 người, vì ngựa tốt không thể khoác 2 bộ yên cương. Nếu phạm phải sẽ khiến cho ngựa mất đi phẩm chất trung thành, không có tiết tháo, thậm chí lạm tình, sầu tình…

2. Trong tên cũng không nên có những bộ như Tâm (心, 忄), Nhục (月, 肉) bởi vì nó đại diện cho thức ăn mặn, trong khi đó ngựa là động vật ăn chay, thành ra sẽ tạo ra cảm giác có đồ ăn mà không được ăn, cả đời vất vả, đói khát.

3. Những người sinh năm ngựa cũng không nên đặt tên có các bộ thủ hoặc chữ như Tý (子), Nhâm (壬), Băng (冫), Quý (癸), Bắc (北) vì dễ tạo ra thế thủy hỏa tương xung. Bởi vì, ngựa thuộc hành hỏa, các bộ chữ kia đều thuộc hành thủy, không thể kết hợp với nhau, nếu không sẽ gặp rất nhiều xung đột, trắc trở trong cuộc sống.

4. Trong tên không nên có bộ thủ hoặc chữ như Điền (田), Phủ (甫), Xa (車) vì nó mang hàm ý những con ngựa bị đào thải có sự ấm ức, cầu toàn, còn bị người ta hiềm nghi, chỉ là công cụ để canh tác trồng trọt, thành ra vất vả cả đời.

5. Trong tên cũng không nên có bộ Sơn (山) vì ngựa mà phải chạy đường đồi núi sẽ rất vất vả mệt mỏi, cả đời lao đao mà thu hoạch không đáng kể.

6. Trong toàn bộ họ và tên không được thấy có 2 chữ Khẩu (口) hoặc chữ Nhật (日), bởi chữ Mã (馬) mà thêm hai chữ Khẩu sẽ thành chữ Mạ (罵 – mắng chửi), dễ bị người ta hiềm nghi, nhiều thị phi, vận suy liên miên, làm việc không thuận lợi.

7. Người cầm tinh con ngựa cũng không nên đặt tên có bộ chữ Ngưu (牛), Sửu (丑) vì từ cổ đến nay, thanh ngưu gặp bạch mã, không đánh mà chạy, như có tiểu nhân phá hoại.

8. Người sinh năm ngựa cũng không nên dùng chữ có tự hình như Hựu (又), Nhập (入), Nhi (ㄦ) sẽ gây ra cảm giác tâm viên ý mã (đầu óc không sáng suốt, rối loạn), hoặc chân bị bẻ giạng ra như là ngựa ốm, mang hàm ý phúc đức bất định.
Cần lưu ý thêm là, các chữ và bộ chữ nói trên chỉ có ý nghĩa tham khảo nhất định. Để chọn được tên hay tên đẹp còn cần phải xem xét nhiều yếu tố khác nữa như âm dương, ngũ hành, âm vận…chứ không đơn giản chỉ vận dụng yếu tố con giáp vào đặt tên, đổi tên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên hay cho con sinh năm Ngựa –

Lễ Chung Thất và Tốt Khốc (Văn khấn trong tang lễ)

Lễ Chung Thất và Tốt Khốc (Văn khấn trong tang lễ). Lễ Chung Thất là lễ 49 ngày, lễ Tốt Khóc là lễ 100 ngày

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Ý nghĩa:

Lễ Chung Thất là lễ 49 ngày. Lễ Tốt Khốc là lễ 100 ngày

2. Văn khấn:

Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.

Hôm nay là ngày….tháng….năm…..âm lịch tức ngày…..tháng….năm dương lịch.

Tại (địa chỉ):…………………

Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là………

Vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ mẫu nếu là cha), các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.

Nay nhân ngày lễ Chung Thất (lễ Tốt Khốc) theo nghi lễ cổ truyền, có kính cẩn sắm các thứ lễ vật gồm:…………………………..

Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.

Trước linh vị của Hiển:………… chân linh

Xin kính cẩn trình thưa rằng:

Núi Hỗ sao mờ, nhà Thung bóng xế (Nếu là cha)/ Núi Dĩ sao mờ, nhà Huyên bóng xế (nếu là mẹ)

Tình nghĩa cha sinh mẹ dưỡng, biết là bao;

Công ơn biển rộng, trời cao khôn xiết kể.

Mấy lâu nay: Thở than trầm mộng mơ màng;

Tưởng nhớ âm dương vắng vẻ.

Sống thời lai lai láng láng, hớn hở chừng nào!

Thác thời kể tháng kể ngày, buồn tênh mọi lẽ!

Ngày qua tháng lại, tính đến nay Chung Thất (hoặc Tốt Khốc) tới tuần;

Lễ bạc tâm thành gọi là có nén nhang kính tế.

Xin mời: Hiển…………………
Hiển……………………………
Hiển……………………………

Cùng các bị Tiên linh, Tổ Bá, Tổ Thúc, Tổ Cô và các vong linh phụ thờ theo Tiên Tổ cùng về hâm hưởng.

Kính cáo: Liệt vị Tôn thần: Táo Quân, Thổ Công, Thánh sư, Tiên sư, Ngũ tự Gia thần cùng chứng giám và phù hộ cho toàn gia được mọi sự yên lành tốt đẹp.

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ Chung Thất và Tốt Khốc (Văn khấn trong tang lễ)

Nguồn gốc của ông già noel và ngày lễ giáng sinh

Mỗi năm Giáng Sinh về, hình ảnh Ông Già Noel xuất hiện khắp mọi nơi. Ông Già Noel thân thương gần gũi vui vẻ trao quà cho trẻ em. Ông Già Noel thăm viếng và chia sẻ cho những người kém may mắn.Tuy nhiên, không phải ai cũng biết ông già tuyết là ai và tại sao lại có ông già tuyết?
Nguồn gốc của ông già noel và ngày lễ giáng sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  >> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

1./ Nguồn gốc Lễ giáng sinh

Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel, Christmas hay Xmas (từ tiếng Pháp Noël, là viết tắt từ gốc Emmanuel, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta") là một ngày lễ kỷ niệm ngày Chúa Giê-su thành Nazareth sinh ra đời của phần lớn người Cơ Đốc Giáo.

Họ tin là Giê-su được sinh tại Bethlehem thuộc tỉnh Judea của nước Do Thái, lúc bấy giờ đang dưới quyền thống trị của Đế quốc La Mã giữa năm 6 TCN và năm 6. Một số nước ăn mừng ngày này vào 25 tháng 12, một số nước lại vào tối ngày 24 tháng 12.

Theo Công giáo Rôma, lễ chính thức là ngày 25 tháng 12 còn gọi là "lễ chính ngày", còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là "lễ vọng". Dù vậy, lễ đêm 24 tháng 12 thường thu hút tin đồ tham dự nhiều hơn. Những người theo Chính Thống giáo Đông phương vẫn sử dụng lịch Julius để định ngày này, cho nên họ tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory (lịch dương).

Chữ Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Chữ Christ (Đấng chịu sức dầu) là tước vị của Đức Giêsu. Chữ Mas là chữ viết tắt của Mass (thánh lễ). Khi chữ Christ và Mas viết liền thành ra chữ Christmas. Christmas có nghĩa là ngày lễ của Đấng Christ, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Giêsu.

Chữ Christmas và Xmas đều có cùng một ý nghĩa như nhau. Vì chữ Hy lạp viết chữ Christ là Christos,Xpiơtós hay Xristos. Người ta dùng phụ âm X để tượng trưng cho nguyên chữ Xristos hay Xpiơtós, rồi thêm chữ Mas kế cận để thành chữ Xmas. Như vậy Xmas cũng có nghĩa là ngày lễ của đấng Christ.

Thời kỳ Giáo hội cơ đốc sơ khai (2, 3 thế kỷ đầu công nguyên), lễ này được mừng chung với lễ Hiễn linh. Tuy nhiên ngay từ năm 200, thánh Clementê Alexandria (150-215) đã nói đến một lễ hết sức đặc biệt được cử hành vào ngày 20 tháng 5. Còn Hội thánh La tinh thì mừng kính lễ ấy vào ngày 25 tháng 12.

Theo một nguồn khác thì tín hữu cơ đốc sơ khai không ăn mừng lễ sinh nhật, vì họ cho rằng ăn mừng sinh nhật là làm theo thói quen của dân ngoại đạo thờ thần tượng. Bởi lẽ đó họ không ăn mừng lễ giáng sinh của Đức Jesus trong suốt ba thế kỷ đầu. Đến thế kỷ IV, những người Cơ đốc mới bắt đầu muốn ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Jesus mỗi năm một lần, nhưng lại sợ bị chính quyền La Mã phát hiện và bắt bớ bởi vì đến lúc đó, cơ đốc giáo vẫn chưa được công nhận là một tôn giáo hợp pháp.

Những người La Mã, hàng năm ăn mưng "Thần Mặt trời" đem ánh sáng đến cho trần gian vào ngày 25 tháng 12. Những người cơ đốc đã lợi dụng cơ hội này để tổ chức ăn mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh vào đem ánh sáng và sự sống đến cho nhân loại cùng một ngày với ngày lễ "Thần Mặt trời" của người La Mã. Nhờ vậy, chính quyền đã không phát hiện việc các tín hữu cơ đốc tổ chức ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Giêsu. Đến năm 312, Hoàng đế La Mã Constantine đã bỏ đa thần giáo và theo cơ đốc. Ông này đã hủy bỏ ngày lễ ăn mừng "Thần Mặt trời" và thay vào đó là ngày ăn mừng sinh nhật của Đức Jesus. Đến năm 354, Giáo hoàng Liberius công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành lễ Giáng sinh của Đức Jesus.

Trong nhiều thề kỷ, những nhà ghi chép Ki-tô giáo chấp nhận Giáng sinh là ngày Jesus được sinh ra đời. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ 18, các học giả bắt đầu đề xuất một cách giải thích khác. Isaac Newton cho rằng ngày Giáng sinh đã được lựa chọn để tương ứng với Đông Chí ở Bắc bán cầu, từng được đánh dấu là ngày 25 tháng 12. Năm 1743, Paul Ernst Jablonski người Đức lập luận ngày Giáng sinh được xác định ngày 25 tháng 12 để khớp với ngày Sol Invictus trong tôn giáo La Mã cổ. Ngoài ra trước người Kitô giáo, nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác cũng ăn mừng ngày lễ cuối tháng 12.

2./ Ý nghĩa lễ giáng sinh

Ngoài ý nghĩa theo đạo Thiên Chúa, Noel là một ngày lễ gia đình, một ngày đặc quyền để tụ tập quây quần mọi người, mọi thế hệ trong gia đình. Lễ này dưới mọi hình thức được biểu lộ, tạo những kỷ niệm chung và duy trì tình cảm giữa mọi người trong gia đình. Mỗi người tìm được, bằng cách thức riêng của mình, để tạo dựng mối liên hệ: chia sẻ với nhau một bữa ăn chung, một đêm không ngủ, nghe thuật lại một câu chuyện, quây quần bên cạnh cây sa pin Noel…

Với địa vị ngày càng lớn lao của trẻ con trong gia đình, ngày Noel trở thành một buổi lễ của trẻ em: một đêm thần diệu mà hầu như tất cả mọi ước nguyện trẻ con được thành sự thật trong sự sung sướng của những người lớn.

Ngày Noel cũng là một thông điệp của hoà bình: ” Vinh danh Thượng Đế trên cao – Bình an cho người dưới thế ” - đây là câu được hát bởi những thiên thần báo tin sự xuất hiện của vị cứu thế và Noel cũng là ngày người ta chia sẻ với những ai bị bỏ rơi, bị cô đơn, bệnh hoạn, già yếu….

3./ Giáng sinh ở Việt Nam thường diễn ra như thế nào?

Giáng sinh du nhập vào Việt Nam và được đông đảo mọi người hưởng ứng rất nhiệt tình. Dù không phải là ngày nghỉ chính thức nhưng Giáng sinh dần dần được coi như một ngày lễ chung, thường được tổ chức vào tối 24 và kéo sang ngày 25 tháng 12.

Trong những ngày này, cây thông Noel được trang trí ở nhiều nơi, có thể là cây nhân tạo làm bằng nhựa, hoặc cây thật thường là thông ba lá hoặc thông đuôi ngựa, trong khi ở các nước phương tây dùng đa dạng các loài thông, vân sam, lãnh sam. Trên cây, người ta thường treo các đồ trang trí nhiều loại nhưng thường có những cặp chuông, dây giả tuyết, những chiếc ủng, các gói quà tượng trưng và đèn trang trí giống như các nước phương Tây.

Lễ Giáng sinh ở Việt Nam là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhộn nhịp. Trong đêm Giáng Sinh, những đôi tình nhân tặng quà cho nhau, trẻ em háo hức chờ sự xuất hiện của ông già Noel, gia đình bè bạn rủ nhau hội hè, yến tiệc, hát karaoke,... và đặc biệt là những người Công Giáo thì chuẩn bị tham dự thánh lễ tại thánh đường giáo xứ hoặc giáo họ của mình.

3./ Ông Già Noel là nhân vật lịch sử hay chỉ là huyền thoại ?

Một nhân vật không thể thiếu trong ngày Lễ giáng sinh là Ông già Noel. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu xem nhé.

** Nguồn gốc của Ông già Noel

Thánh Nicôla và Ông Già Noel là cùng một người. Thánh Nicôla là một Giám Mục của Giáo Phận Myra, bên Thổ Nhĩ Kỳ.

Người Pháp gọi là:  Le Père Noel (ông Cha, linh mục Noel), người Anh gọi trực tiếp là Santa Claus (Thánh Nicôla), Thánh Giám mục, lễ mừng ngày 6 tháng 12 hàng năm.

Người Pháp thân mật gọi Ngài là “Le Père Noel” (ông cha Noel) vì ngài liên hệ nhiều đến lễ Noel, nhất là với trẻ em, đến nỗi sau khi Ngài qua đời đã lâu rồi, mà hình ảnh Ngài còn được lưu truyền cho hậu thế.

Đầu tiên ở Châu Âu, rồi tới toàn thế giới qua bóng dáng một cụ già đẹp lão, râu tóc bạc phơ, mặc áo choàng đỏ viền trắng, thắt lưng da đen,đội mũ chóp đỏ, lưng vác một giỏ lớn đây đồ chơi và bánh kẹo cho thiếu nhi.

Người ta còn thi vị hóa, đem niềm vui cho trẻ em, bằng cách “bắt ông cha Noel đêm 24 tháng 12 chui qua lò sưởi vào phòng ngủ của các em, bỏ đồ chơi, bánh kẹo vào những chiếc giày các em để bên lò sưởi, hay bỏ vào những chiếc vớ mà các em treo ở chân giường”. Thật ra là cha mẹ các em bỏ vào đó để khuyên các em phải ngoan thì “Cha Noel” mới cho quà!  Một cách giáo dục hay!

Khi tới Việt Nam, dân chúng không hiểu rõ nguồn gốc, thấy hình cụ già râu tóc bạc phơ, nên gọi là Ông Già Noel.

Ông Già Noel ngày nay đã bị xã hội tục hóa quá nhiều khiến lu mờ đi ý nghĩa chính của câu truyện, đó là tấm gương quảng đại của vị Giám mục thánh thiện, Thánh Nicôla.

Cả hai giáo hội Ðông Phương và Tây Phương đều vinh danh ngài. Có thể nói, sau Ðức Mẹ, ngài là vị thánh thường được các nghệ sĩ Kitô giáo mô tả. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, chúng ta chỉ biết một dữ kiện, Thánh Nicôla là giám mục ở Myra vào thế kỷ thứ tư. Myra là một thành phố nằm trong Lycia, một tỉnh của Tiểu Á. Tuy nhiên, như nhiều vị thánh khác, chúng ta có thể biết được mối quan hệ giữa thánh nhân và Thiên Chúa qua sự ngưỡng mộ mà các Kitô hữu dành cho ngài. Sự ngưỡng mộ được diễn tả qua các câu truyện đầy màu sắc và thường được kể đi kể lại trong nhiều thế kỷ.

Có lẽ câu truyện nổi tiếng nhất về Thánh Nicôla là lòng bác ái của ngài đối với một gia đình nghèo khổ mà ông bố không có của cải để cho ba cô con gái làm của hồi môn. Vì không muốn trông thấy họ phải lâm vào cảnh đĩ điếm, Thánh Nicôla đã bí mật ném ba gói vàng qua cửa sổ nhà ông này vào ba trường hợp khác nhau, để giúp các cô con gái ấy đi lấy chồng. Qua các thế kỷ, huyền thoại này trở thành thói quen tặng quà nhân ngày lễ kính thánh nhân. Trong thế giới nói tiếng Anh, Thánh Nicôla trở thành Santa Claus và người Việt thường gọi là Ông Già Noel 

** Cuộc đời Thánh Nicôla

Năm 1969, Giáo Hội Công Giáo đã chính thức đặt vấn đề tra cứu về thân thế của Thánh Nicôla. Ngài là một vị thánh thực sự hay chỉ là một huyền thoại?

Sử liệu còn để lại đã chứng minh rằng Ngài là một nhân vật có thật.

Thánh nhân sinh năm 280 SCN, tại một ngôi làng nhỏ tên Batara thuộc vùng Tiểu Á (ngày nay thuộc lãnh thổ nước Thổ Nhỉ Kỳ). Cha mẹ đặt tên cho con trai bằng tiếng Hy Lạp là Nicôla. Lúc ấy nền văn minh và văn hóa Hy lạp còn thống trị nhiều vùng đất rộng lớn trong đó có Thổ Nhỉ Kỳ. Theo tiếng Hy Lạp, Nicôla có nghĩa là Người Anh Hùng của Dân Tộc. Cái tên định mệnh đó rất xứng đáng đối với ngài ít nhất ở lãnh vực đạo đức và tôn giáo. Ông bà thân sinh tuy không giàu có lắm nhưng luôn giúp đỡ người nghèo. Hấp thụ nền đạo đức bác ái từ cha mẹ : “Phải luôn là người lương thiện, nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến mình”, Nicôla đã trở thành một mẫu người thánh thiện ngay khi ngài còn ở độ tuổi thiếu niên. Một cơn dịch bệnh tràn qua thôn xóm. Cha mẹ qua đời, lúc này Nicôla mới 12 tuổi. Tuy vậy, cậu bé vẫn tiếp tục đem tiền bạc giúp đỡ cho những người cùng khổ. Nicôla miệt mài học tập giáo lý. Ngài có một khả năng siêu nhiên lạ lùng là có thể cảm nghiệm được nỗi khổ đau đang xảy ra ở đâu đó và lập tức đến nơi cứu giúp.

Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, có lẽ thánh Nicôla là người được phong chức Giám Mục thành Mira ở độ tuổi trẻ nhất. Lúc đó ngài mới có 19 tuổi. Vì vậy, bạn bè đặt cho ngài biệt danh vui nhộn là “chú nhóc Giám Mục”. Ngài cười đón nhận và chẳng phiền lòng tí nào.

Năm 303, lúc Nicôla 23 tuổi, Vua La Mã là Dio Pletian buộc mỗi vùng thuộc đế quốc La Mã phải tôn phục ông là thượng đế. Dĩ nhiên Giám Mục Nicôla và giáo dân địa phận Mira không chịu tuân phục. Ðối với Kitô hữu, chỉ có một Thượng Ðế duy nhất, đó là Thiên Chúa. Vì vậy, thầy trò Nicôla đều được ưu ái mời vô khám nằm đếm lịch, ăn bánh mì đen và uống nước lã. Riêng Nicôla bị biệt giam trong một cái nhà tù nhỏ xíu, bị bỏ đói, khát và lạnh đến 10 năm. Vô cùng mầu nhiệm, ngài vẫn sống.

Đến năm 313, hoàng đế Constantine lên ngôi, ra sắc chỉ Milan, đại xá thiên hạ. Lao lý 10 năm đã làm cho đức tin và con người của Nicôla thêm bền vững. Ngài dốc tâm giảng đạo, phát triển Giáo hội, bố thí của cải và đem vô số người về với Chúa.

Ngày 6 tháng 12 năm 343, Đức giám mục Nicôla từ trần, hưởng thọ 63 tuổi. Ngài để lại cho trần thế một công nghiệp đồ sộ, một tên tuổi rực chói và những câu chuyện có thật lẫn huyền thoại mà vẫn được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.

Một thời gian ngắn sau khi Đức giám mục Nicôla từ trần, người dân Mira dựng lên một ngôi đền thờ tôn kính ngài, lưu giữ tất cả các vết tích và các vật dụng của ngài.

Ðến năm 800 Giáo Hội Công Giáo Đông Phương chính thức tuyên dương ngài là thánh.

** Lý do ông già Noel trở nên nổi tiếng?

Như vậy, có thể thấy câu chuyện về ông già Noel xuất phát từ Cơ đốc giáo. Tuy nhiên ngày nay, nhân vật này xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới và nhiều người không theo tôn giáo này nhưng vào ngày lễ Giáng sinh vẫn thực hiện những phong tục giống những người theo đạo như: Tặng quà cho trẻ em hay hóa trang thành ông già Noel.

Vậy nhờ đâu mà người đàn ông bụng phệ mặc đồ đỏ này lại nổi tiếng đến vậy?

Trước hết, ông già Noel không chỉ là hóa thân của một vị thánh trong Cơ đốc giáo, mà ông còn là một hình ảnh tượng trưng cho lòng nhân từ, tình yêu thương giữa con người với con người. Câu chuyện về ông nhanh chóng lan truyền và được mọi người hưởng ứng.

Từ đó, ông già Noel cũng bắt đầu “làm việc” trong lĩnh vực quảng cáo. Hình ảnh ông già Noel trong chiến dịch quảng cáo của Cocacola. Cũng chính từ đây mà ông già Noel nổi tiếng khắp thế giới.

Tuy nhiên, hình ảnh về một nhân vật hiền hậu với chiếc bụng phệ trong bộ trang phục màu đỏ viền trắng cùng bộ râu trắng xóa chỉ trở nên nổi tiếng thế giới kể từ những năm 1930, khi hãng Cocacola sử dụng hình ảnh ông già Noel để thực hiện chiến dịch quảng cáo sản phẩm nhân dịp lễ Giáng sinh. Trong quảng cáo này, ông già Noel trên chặng đường phát quà cho các bạn nhỏ đã dừng lại nghỉ chân và thưởng thức một chai Cocacola giải khát. Vì là một chiến dịch quảng cáo, nên nhờ đó mà hình ảnh ông già Noel tràn ngập khắp các phương tiện truyền thông đại chúng và dần trở nên quen thuộc.

Khi chiến dịch quảng cáo kết thúc, hình ảnh dễ thương này của ông già Noel vẫn được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh khác và kết quả là ngày nay, trên thế giới ai cũng biết tới ông già Noel với tạo hình là một ông lão râu trắng, bụng to, mặc đồ màu đỏ và có một điệu cười vô cùng thân thiện. Thú vị thay, trang phục của ông già Noel có màu sắc cũng tương ứng với logo của hãng nước giải khát này.

4./ Những biểu tượng trong ngày Lễ giáng sinh

** Vòng lá mùa vọng

Vòng lá mùa vọng là vòng tròn kết bằng cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy. Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí - dấu hiệu của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi các tín hữu Pháo Lutheran ở Đức vào thế kỷ 16 để nói lên sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối.

Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hi vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. 4 cây nến bao gồm ba cây màu tím - màu của Mùa Vọng, cây thứ 4 là  màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng 

** Thiệp Giáng sinh

Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry Cole, một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ Horsley, một họa sỹ ở London, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên  thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kì người dân nào gửi thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.

** Quà Giáng sinh

Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bạn bè. Đối với một số người, những món quà Giáng sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giê-su, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người.

Khi Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba vị vua phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, trầm hương và mộc dược. Vàng tượng trưng Chúa Giêsu là vua ( tức con Chúa Cha - Vua Nước Trời), trầm hương tượng trưng Giê-su là Thiên Chúa và mộc dược biểu hiện hình ảnh Giê-su bị đóng đinh trên cây thánh giá hay nói rõ hơn là sự chịu chết của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại.

Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giê-su hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.

Ông già Nô-en thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc tất.

** Cây thông NOEL  

Cây thông Noel có nguồn gốc từ nước Ðức từ thế kỷ 16. Đây là loại cây sống trong khí hậu khắc nghiệt nhưng vẫn giữ được dáng vẻ mạnh mẽ, vững chãi và màu xanh vĩnh cửu. Dần dần hình ảnh của loài cây này xuất hiện thường xuyên hơn và nó được coi là trung tâm của lễ hội, nơi mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa xung quanh cây thông được trang trí công phu cả bên trong và bên ngoài bằng hoa hồng, táo và giấy màu.

Đến thế kỉ 19 thì cây Noel bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở Anh. Đến những năm 1820 cây Noel được những người Ðức ở Pennsylvania mang sang nước Mỹ. Ngày nay, gần đến dịp Noel, người ta thường sắm một cây thông và trang trí lên đó những ngôi sao, những quả châu, dải kim tuyến lấp lánh, hoa... Cây thông được xem là biểu tượng của niềm hy vọng và sức sống mới trong lễ hội đón chào năm mới.

** Quà tặng trong những chiếc bít tất

Tương truyền rằng, nhà kia có 3 cô gái đến tuổi lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia cảnh quá nghèo. Đức giám mục Myra rất thương xót nên đã ném những đồng tiền vàng xuống ống khói nhà của 3 cô gái. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống đúng các đôi bít tất mà các cô treo hong bên lò sưởi. Khỏi phải nói cũng biết rằng các cô vui mừng đến mức nào. Họ đã có cơ hội để thực hiện nguyện ước của mình.

Câu truyện thần kỳ kia được lan truyền đi khắp nơi, ai ai cũng muốn mình trở thành người may mắn nên đều bắt chước 3 cô gái treo bít tất bên lò sưởi dể hy vọng nhận được quà.

Trẻ em hy vọng nhận được nhiều quà nhất. Mọi người trong nhà cũng nhân cơ hội này để tặng quà cho các em với mong muốn là các em sẽ ngoan ngoãn và học giỏi. Từ đó có tục trẻ em treo bít tất bên cạnh lò sưởi dể nhận quà như ước mơ từ ông già Noel.

** Ngôi sao Giáng Sinh 

Ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rưc rỡ đủ màu sắc trong mùa Giáng sinh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía,có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt. 

Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì xuất hiện một ngôi sao rực rỡ. Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm còn nhìn thấy. Từ các vùng phía đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran va Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua. Từ đó, 3 vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các vật phẩm trầm hương và vàng bạc châu báu.

Ngôi sao trở thành biểu tượng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo chỗ sang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đem Giáng sinh để nhớ đến sự tích trên. Do ý nghĩa ngôi sao còn tượng trưng cho phép lạ của Thượng đế.

** Chiếc gậy kẹo

Vào những năm 1800, một người làm kẹo ở Ấn Độ muốn biểu đạt ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh qua một biểu tượng được làm bằng kẹo. Ông bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình bằng cách uốn cong một trong những thỏi kẹo của mình thành hình một chiếc gậy kẹo. Qua cây gậy kẹo của mình, ông đã kết hợp những biểu tượng thể hiện tình yêu và sự hi sinh của Chúa Giê su. Màu trắng biểu hiện cho sự trong trắng và vô tội của chúa Giê su. Sau đó, ba sọc nhỏ tượng trưng cho những đau đớn mà Ðức Chúa đã phải chịu trước khi ngài chết trên cây thập ác. Ba sọc đó còn biểu hiện ba ngôi thiêng liêng của Chúa (sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh thần). Ông thêm vào một sọc đậm để tượng trưng cho máu mà Chúa đã đổ cho loài người. Khi nhìn vào cái móc của cây gậy, ta thấy nó giống hệt cây gậy của người chăn cừu vì chúa Giê su chính là người chăn dắt con người. Nếu bạn lật ngược cây gậy, nó sẽ trở thành chữ J tượng trưng cho chữ cái đầu tiên của tên chúa Giê su (Jesus). Nhờ có người thợ làm kẹo đó mà mọi người đều biết được lễ Giáng Sinh nói về điều gì.

** Bài hát Giáng sinh 

Bài Jingle bell do nhạc sĩ J.Pierpont sáng tác nhưng lại đặt vào chùm bài hát trong danh sách những bản nhạc dân ca nổi tiếng của Mỹ với tên gọi American song bag của nhà thơ Carl Sandburg. Bài này không phải sáng tác cho đêm Noel như người ta lầm tưởng.

Lời bài hát đậm tính dân dã mộc mạc, diễn tả tâm hồn của người dân Mỹ hướng đến một mùa tuyết rơi thật tốt lành. Hình ảnh ông Noel với túi quà đồ chơi, ngồi trên xe tuần lộc với tiếng chuông leng keng diễn tả sinh động, quyến rủ làm cho người ta thích nghêu ngao, nó vô tình trở thành bài hát Giáng sinh. Bài Silent Night, Holy night có xuất xứ từ Đức với tựa đề “Stille Natch, Heiligo Natch” do linh mục Joseph Mohr sáng tác khi cuộc chiến Đức – Áo - Phổ kết thúc. Sau này được phổ biến sang Áo, Mỹ... nay đã được dịch ra gần 100 thứ tiếng.

** Nến Giáng Sinh 

Có nhiều truyền thuyết kể về những cây nến đêm Giáng Sinh. Nhiều người cho rằng Martin Luther là người đầu tiên có sáng kiến thắp nhiều cây nến trên các cành cây thông mùa Giáng Sinh. Khi trở về nhà vào một đêm mùa đông gần lễ Giáng Sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà để tượng trưng cho Ngôi Sao trên làng Bê-lem.

Có một huyền thoại khác kể rằng một bé trai nọ bị đi lạc đêm Giáng Sinh nhang nhờ ánh đèn nến nới cửa sổ phòng mẹ, đã tìm được lối về đến nhà.

Lại có một truyền thuyết khác kể rằng thánh Maria và Giu-se đêm Chúa Giáng Sinh đã tìm ra nơi trú ngụ nhờ lần theo ánh đèn hắt ra từ cửa nhỏ một cái chuồng bò lừa.

** Chuông Thánh Đường

Trong vài nền văn hóa Á Châu, tiếng chuông được dùng báo hiệu cho quần chúng biết một biến cố hoan hỉ hay một sự kiện buồn não vừa xảy đến. Sau khi Chúa hài đồng giáng sinh, tục lệ này được truyền đến cho những quốc gia Tây phương để rung lên chào mừng Chúa Cứu thế xuống trần. Tại đất nước Tây Ban Nha, các chuông nhà thờ ngân vang vào lúc nửa đêm báo hiệu Chúa ra đời.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc của ông già noel và ngày lễ giáng sinh

Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tỵ (P1)

Người tuổi Tỵ sinh ngày 12 âm lịch thích hợp đi xa để phát triển sự nghiệp, số mệnh vất vả, tay trắng lập nghiệp nhưng cũng đạt được thành quả nhất định trong
Xem ngày sinh đại cát cho  người tuổi Tỵ (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

sự nghiệp.

  Người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 1   Những người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 1 âm lịch làm việc gì cũng thuận buồm xuôi gió, gặp nhiều chuyện vui, thành công nhiều hơn thất bại, số mệnh cát tường, như ý.   Người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 2   Thông minh, hiền đức, nhiều tài năng, tiền vận trung bình nhưng trung và hậu vận khởi sắc, hưởng phúc lộc khi về già.   Người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 3   Cuộc sống người này nhiều vất vả, thăng trầm, không được nương tựa và gia đình, người thân, tiền và trung vận cực khổ, đến hậu vận mới khởi sắc và được hưởng phúc.   Người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 4   Người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 4 gặp bất lợi trong việc kết giao bạn bè, dễ chịu thu thiệt dẫn tới nóng nảy, không kiểm soát được cảm xúc nên phạm sai lầm gây tổn hao tài sản.   Người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 5   Cuộc đời người này vui nhẻ, yên bình, nhiều chuyện vui hơn buồn. Mệnh số đào hoa, cẩn thận vướng vào họa khẩu thiệt thị phi, đồng thời đề phòng rước họa tửu sắc vào thân.   Người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 6   Cuộc sống nhiều thăng trầm, bất ổn, hung cát đan xen, thành bại ngang nhau, số li hương gây dựng sự nghiệp, công danh sự nghiệp cũng đạt được những thành công nhất định.
Xem ngay sinh dai cat cho  nguoi tuoi Ty P1 hinh anh
Ảnh minh họa

Người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 7   Mệnh người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 7 có số đào hoa, tính tình phong lưu đa tình, tiêu tiền như nước, không biết tích lũy, về già chịu cuộc sống cô đơn khổ cực, không người nương tựa.   Người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 8   Vui buồn đan xen, tiền vận không tốt, dễ gặp tai nạn bất ngờ, cuộc sống vất vả cực khổ và trải qua nhiều sóng gió.   Người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 9   Người này có số mệnh khổ cực, dễ vướng vào những rắc rối thị phi, làm việc gì cũng gặp nhiều trở ngại, trúc trắc. Ngoài ra, trong đời còn nhiều biến cố về tài chính, thậm chí cơ nghiệp bị phá sản.
Người tuổi Tỵ sinh ngày mùng 10   Người này có số mệnh cát tường, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, có quyền thế, đường công danh sáng lạng, tài lộc dồi dào.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 11   Cuộc sống nhiều thăng trầm, vất vả, vui buồn đan xen, số mệnh khổ cực.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 12   Người tuổi Tỵ sinh ngày 12 âm lịch thích hợp đi xa để phát triển sự nghiệp, số mệnh vất vả, tay trắng lập nghiệp nhưng cũng đạt được thành quả nhất định trong sự nghiệp.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 13   Người này có tính cách vui vẻ, lạc quan, phóng khoáng, tiền vận trung bình, trung vận phát đạt nhưng hậu vận lại gặp không ít khó khăn.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 14   Cuộc sống gia đình hạnh phúc, vợ chồng hòa hợp, có sự tương hỗ lẫn nhau, đời sống vật chất sung túc.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 15   Công danh sự nghiệp thành đạt, gia đình hưng vượng, con đàn cháu đống, cần đề phòng tai họa bất ngờ.
► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

An Khánh (Theo XZ360)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tỵ (P1)

Top những con giáp phải vất vả kiếm tiền –

Những con giáp nào phải vất vả kiếm tiền? Mong muốn kiếm được bội tiền của người tuổi Mão vô cùng lớn nhưng họ lại thiếu động lực và sợ mạo hiểm, do đó thường để tuột nhiều cơ hội làm giàu. Các tuổi khác thì sao? củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những con giáp nào phải vất vả kiếm tiền? Mong muốn kiếm được bội tiền của người tuổi Mão vô cùng lớn nhưng họ lại thiếu động lực và sợ mạo hiểm, do đó thường để tuột nhiều cơ hội làm giàu. Các tuổi khác thì sao? củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bàu viết sau để biết củ thể nhé!

Nội dung

  • 1 Top những con giáp phải vất vả kiếm tiền
    • 1.1 Thứ 1. Tuổi Sửu
    • 1.2 Thứ 2: Tuổi Tuất
    • 1.3 Thứ 3: Tuổi Tỵ
    • 1.4 Thứ 4: Tuổi Mão
    • 1.5 Thứ 5: Tuổi Hợi

Top những con giáp phải vất vả kiếm tiền

Thứ 1. Tuổi Sửu

Suu-1970-1411082810

Người cầm tinh con trâu tuy chất phác nhưng lại khái tính, cố chấp và bướng bỉnh. Họ “đơn thân độc mã” xây dựng sự nghiệp cho mình chứ không thích tìm sự trợ giúp từ phía gia đình và bạn bè.

Con giáp này hơi phiến diện khi cho rằng bản thân mạnh mẽ, có thể chống đỡ và vượt qua mọi khó khăn mà không cần bất cứ sự giúp đỡ nào từ mọi người xung quanh. Do đó, lúc nào họ cũng gồng mình lên để làm việc và kiếm sống.

Thứ 2: Tuổi Tuất

Tuat-7659-1413270105

Vốn là người có tinh thần trách nhiệm cao trước gia đình và bạn bè, người tuổi Tuất thường chủ động gánh vác công to việc lớn và tự tạo áp lực tâm lý cho mình. Tuy nhiên, tinh thần trách nhiệm ấy lại hơi quá đà nên lúc nào con giáp này cũng phải nỗ lực hết sức, chật vật làm việc khiến mọi người hài lòng. Dù cho họ có kiếm được bội tiền thì tinh thần và trí lực đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Thay vì kiếm tiền chật vật, người tuổi Tuất nên suy nghĩ phóng khoáng hơn, đừng ràng buộc bản thân bởi lòng tự trọng thái quá của mình.

Thứ 3: Tuổi Tỵ

2-8658-1411381613

Đa nghi là bản tính khó thay đổi của người tuổi Tỵ. Vì hoài nghi người khác làm không tốt hoặc chống đối mình nên con giáp này muốn tự tay làm mọi chuyện để yên tâm. Từ việc nhỏ tới việc lớn, họ ôm đồm quá nhiều khiến cuộc sống trở nên áp lực, căng thẳng. Ngoài ra, công cuộc kiếm tiền của họ vô cùng chật vật và vất vả.

Nếu muốn kiếm tiền dễ dàng và thuận lợi hơn, người tuổi Tỵ nên tin tưởng mọi người xung quanh và tin vào chính sự lựa chọn của mình. Như vậy bạn mới có nhiều thời gian để chăm chút cho bản thân và tận hưởng cuộc sống.

Thứ 4: Tuổi Mão

mao-8757-1408665021

Mong muốn kiếm được bội tiền của người tuổi Mão vô cùng lớn nhưng họ lại thiếu động lực và sợ mạo hiểm, do đó họ thường để tuột mất nhiều cơ hội làm giàu. Vì quá thận trọng và thiếu sự quyết đoán nên con đường kiếm tiền, xây dựng sự nghiệp của con giáp này khá vất vả.

Muốn thay đổi được vận mệnh của mình, người tuổi Mão nên quyết đoán hơn nữa và bắt tay vào hành động ngay kẻo muộn.

Thứ 5: Tuổi Hợi

hoi-7700-1411775212

Mọi người thường cho rằng người tuổi Hợi có số mệnh giàu sang nên không phải lo lắng, vất vả kiếm sống. Thực tế trái ngược, họ cũng phải kiếm tiền khá khó khăn. Nguyên nhân quan trọng là do tầm nhìn hạn hẹp của họ.

Người tuổi Hợi chỉ quan tâm tới lợi ích nhỏ bé trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài nên phải nỗ lực hết lần này tới lần khác mới có được một vài thành công đáng kể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top những con giáp phải vất vả kiếm tiền –

Đặc tính sao Thiên Lương - Giải ách, gia tăng tuổi thọ

Cung mệnh có sao Thiên Lương tọa thủ là người thân hình thon gọn, cao, da trắng vẻ mặt thanh tú và khôi ngô, có tính khoan hòa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính sao Thiên Lương - Giải ách, gia tăng tuổi thọ

Đặc tính sao Thiên Lương - Giải ách, gia tăng tuổi thọ

Tìm hiểu về đặc tính của sao Thiên Lương trong Tử Vi

Tên sao Đẩu phận Âm dương ngũ hành Hóa Chủ Công năng Tứ hóa
Thiên Lương Nam Đẩu (thứ 2) Dương thổ Ấm Qúy thọ Giải ách, kéo dài tuổi thọ, đem lại điều lành Ất:Quyền, Kỉ: Khôi, Nhâm: Lộc

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên Lương thuộc âm Thổ, là sao đứng thứ hai trong chòm sao nam Đẩu, hóa khí là ấm, chủ về tuổi thọ và sang quý, làm chủ cung phụ mẫu, có công năng giải trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ và đem lại nhiều may mắn.

Thiên Lương là sao phùng hung hóa cát, gặp nạn được cứu, nhưng cũng chính vì vậy mà khó tránh gặp khó khăn trước rồi mới hóa nạn thành may, thân tâm cũng không được thanh nhàn.

Thiên Lương là sao không thích tiền của mà thanh cao, nếu như đồng cung với sao Lộc Tồn và Hóa Lộc, tuy có thể phát tài, nhưng sau lưng thường đeo mang khốn khó, rồi tai họa mới được giải thành may mắn, khó tránh khỏi lo lắng ưu phiền, thăng trầm lên xuống. Hay nói cách khác, sao Thiên Lương muốn phát tài, trước tiên phải vượt qua nhiều gian nan mới đạt được mục đích, chứ không thể ngồi mát ăn bát vàng. Vì vậy sao Thiên Lương không thích hợp tự lực kinh doanh. Nếu gặp phải thêm sát tinh, sẽ vì tiền tài mà gặp nhiều chắc trở hoặc hung hiểm.

Sao Thiên Lương là chủ tể của cung phụ mẫu, nếu đồng cung với sao Hóa Kị, hoặc có sao Hóa Kị ở đối cung xung chiếu, thì đặc biệt chú ý tới sức khỏe của cha mẹ hoặc bậc trưởng bối thân thuộc, e có chút điềm bất trắc.

Sao Thiên Lương rất ưa gặp sao Hóa Khoa, hoặc phát huy được tính chất thanh cao của Thiên Lương. Nếu gặp được lục cát tinh Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, thì khó khăn dễ được hóa giải, có biểu hiện xuất sắc trong lĩnh vực nghiên cứu nghệ thuật, đảm nhiệm được chức vụ quan trọng. Sao Thiên Lương vốn không thích đồng cung với Lộc Tồn, nhưng nếu có các sao Thái Dương, Văn Xương, Lộc Tồn tụ hội ở các cung vị tam phương tứ chính mệnh, tài, quan, tức tạo thành cách cục "Dương, Lương, Xương, Mộc", chủ về tiền tài chức vụ đều đẹp. Sao Thiên Lương cùng với các sao Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng tụ hội tại ba cung mệnh, quan, tài là thuộc cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", chủ về có tài năng xuất chúng và chức vụ trong các lãnh vực quân sự, giáo dục, truyền bá, văn hóa. Thiên Cơ (thiện), Thiên Lương (ấm) cùng thủ mệnh (cương) tại cung Thìn, Tuất, hoặc ở cung thiên di chầu chiếu cung mệnh, là cách "Thiện ấm triều cương", chủ về phúc thọ gồm đủ. Sao Thiên Lương nhập miếu thủ mệnh tại Tí, Ngọ, là cách "Thọ tinh nhập miếu", chủ về phúc thọ gồm đủ, phú quý thanh hiển.

Sao Thiên Lương tuy có khả năng đề kháng với lục sát tinh và Hóa Lộc, lộc Tồn nhưng cũng sẽ khiến cho sao Thiên lương bận rộn hóa giải khốn khó mà tăng thêm vất vả khó nhọc.Thiên Lương nếu không có cát tinh phò trợ dễ vì phải tốn sức hóa giải mà cuộc đời thường gặp hung hiểm, bất trắc.

Sao Thiên Lương gặp sao Thiên Cơ, Phá Quân (hao), là mệnh tăng ni, đọa sĩ thanh nhàn. Nếu đồng cung với sao Tham Lang, Cự Môn thì dễ xảy ra chuyện bại luân loạn tục. Nếu ở cung nô bộc hay tật ách, cũng luận không có phúc. Nếu gặp Liêm Trinh, Hình, Kị, tất không lo bị khắc chế; gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình ám, cũng không lo chính chiến. Bị Thái Tuế xung mà thành Phúc, gâp Bạch Hổ sẽ vô sự. Gặp Tấu thư sẽ vinh hiển bất ngờ. Thanh Long động sẽ có việc mừng từ văn thư. Gặp Tiểu Hao, Đại Hao không bị ảnh hưởng, gặp Bệnh Phù, Quan Phù không gặp tai họa. Nữ mệnh có cát tinh nhập miếu là số vượng phu ích tử; được Văn Xương, Văn Khúc kèm hai bên phải trái là được phong tặng. Gặp Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Hóa Kị thì dễ chuốc điều tiếng thị phi.

Sao Thiên Lương lạc hãm, thủ mệnh tại cung Tỵ, Hợi, lại có Mệnh Mã đồng cung là cách "Lương Mã phiêu đãng", Chủ về vất vả lao lực mà không có kết quả, phải phiêu lãng lưu lạc.

Sao Thiên Lương lạc hãm, thủ mệnh tại cung Thân, lại có sao Thái Dương lạc hãm tại cung thìn (tài bạch) hội chiếu là cách cục "Thiên Lương củng Nguyệt", chủ về cuộc đời nhiều biến động, phiêu bạt tha hương, dễ mất mạng về tửu sắc, hoặc phá gia bại sản.

Ca Quyết:

Thiên Lương nguyên thuộc thổ; Nam Đẩu tối cát tinh

Hóa ấm danh diên thọ; phụ mẫu cung chính tinh

Điền trạch huynh đệ nội; đắc chi phúc tự sinh

Hình thần tự trì trọng; tâm tính cánh hòa bình

Sinh lai vô tai hoạn; văn chương hữu thanh danh

Lục thân cánh hòa mục; sĩ hoạn cư vương đình

Cự Môn nhược tương hội; lao lục lịch gian tân

Nhược phùng Thiên Cơ chiếu; tăng đạo hưởng sơn lâm

Nhị tinh tại Thìn Tuất; phúc thọ bất tu luận.

Nghĩa là:

Thiên Lương vốn thuộc thổ, là Nam Đẩu cát tinh

Hóa ấm thêm tuổi thọ, làm chủ phụ mẫu cung

Tại điền trạch, huynh đệ, gặp được thì phúc lành

Hình thần vững chãi, chín chắn, tâm tính hiền lành

Một đời không tai họa, văn chương có thanh danh

Thân thích đều hòa mục, làm quan tại triều đình

Cự Môn nếu gặp phải, số vất vả gian nan

Nếu được Thiên Cơ chiếu; làm tăng đạo ẩn chốn sơn lâm

Hai sao Thìn, Tuất; phúc thọ hưởng vô cùng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính sao Thiên Lương - Giải ách, gia tăng tuổi thọ

Tướng người thông minh –

(Theo nhân diện học, trán là bộ phận quan trọng trong việc xem xét năng lực cũng như vận may của cá nhân. Xét riêng về mặt trí tuệ, sự khác nhau ở mỗi người sẽ tùy đặc điểm độ cao, chiều rộng, màu da, tính cân đối, độ bằng phẳng… của trán. Ngoài ra c
Tướng người thông minh –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người thông minh –

Xem tướng đàn ông trán chữ M là người như thế nào? –

Nam giới có phần trán và đường ngôi chân tóc phối hợp tạo thành hình chữ M thường được gọi là vầng trán của nghệ sĩ Nam giới có phần trán và đường ngôi chân tóc phối hợp tạo thành hình chữ M thường được gọi là vầng trán của nghệ sĩ Hình dạng vầng trá
Xem tướng đàn ông trán chữ M là người như thế nào? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn ông trán chữ M là người như thế nào? –

Nhìn tướng tay biết khả năng kiếm tiền của bạn

Tài vận của mỗi người được thể hiện phần nào qua tướng bàn tay. Ở mỗi giai đoạn giàu nghèo, sướng khổ, bàn tay bạn sẽ xuất hiện một vài dấu hiệu điển hình dưới
Nhìn tướng tay biết khả năng kiếm tiền của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tài vận của mỗi người được thể hiện phần nào qua tướng tay. Ở mỗi giai đoạn giàu nghèo, sướng khổ, bàn tay bạn sẽ xuất hiện một vài dấu hiệu điển hình dưới đây.


1. Tiểu khang

Nếu đường Thái Dương trong lòng bàn tay kéo dài từ ngón tay đeo nhẫn tới đường chỉ tay Tình cảm, là dấu hiệu cho thấy tài lộc của chủ nhân bắt đầu có dấu hiệu khởi sắc, đạt được mức tiểu khang, bắt đầu có của ăn của để, đời sống vật chất sung túc, dư dả.

Dấu hiệu dễ nhận thấy nếu bạn đạt mức tiểu khang là mua xe, mua nhà, có khoản tiết kiệm cố định trong ngân hàng. Nhìn chung, cuộc sống được ví như “nhìn lên thì chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống thì chẳng ai bằng mình”.

Nhin tuong tay biet ngay kha nang kiem tien cua ban hinh anh
 
2. Tiểu phúc


Sau khi đã đạt mức tiểu khang (như trên), nếu quan sát thấy đường Thái Dương càng rõ nét và sâu hơn, đồng thời vẫn kéo dài từ ngón tay đeo nhẫn rồi cắt đường chỉ tay Tình cảm; cộng thêm với cung Tài Bạch (phần mũi trên khuôn mặt) đầy đặn, không khuyết hãm thì tài vận hanh thông, có nhiều cơ hội phát tài, công danh sự nghiệp phát đạt.

Xem tướng tay, bắt đầu từ khoảng 31 tuổi, công danh sự nghiệp của người này càng rộng mở, cơ hội thăng quan tiến chức vừa nhiều lại khả thi, cuộc sống đạt mức tiểu phúc (vừa sung túc về vật chất, vừa được hưởng phúc lộc trời ban).

Nhin tuong tay biet ngay kha nang kiem tien cua ban hinh anh 2
 
3. Trung phúc


Khi có hai dấu hiệu sau đây xuất hiện, bạn có thể chắc chắn rằng cuộc sống của mình đang ở mức trung phúc (tài lộc hưng vượng, công danh sự nghiệp hanh thông, đời sống tinh thần phong phú).

Dấu hiệu thứ nhất: Đường Thái Dương sau khi cắt đường chỉ tay Tình cảm, lại tiếp tục kéo dài tới gò Hỏa tinh thứ 2.

Dấu hiệu thứ hai: Sau khi đường Thái Dương cắt đường chỉ tay Tình cảm, tiếp tục kéo dài tới cạnh gò Nguyệt.

Nhin tuong tay biet ngay kha nang kiem tien cua ban hinh anh 3
 
4. Đại phúc


Trong cuộc sống, người có thể đạt tới mức đại phúc xưa nay hiếm nhưng không phải là không có. Tướng tay của người này phải có đặc điểm xuất chúng, khác người.

Đường Thái Dương không những kéo dài và cắt đường chỉ tay Tình cảm mà còn cắt đường chỉ tay Sinh mệnh. Nhưng trên thực tế, hiếm có kiểu tay này bởi đường Thái Dương khó mà kéo dài như vậy.

=> Xem nốt ruồi biết số mệnh, vận hạn chuẩn xác

Hoàng Lam

Mắt một hay hai mí hé lộ điều bất ngờ về tình duyên
Những người sở hữu tướng mắt hai mí (cả hai bên mắt) có nhân duyên tốt, lối suy nghĩ lạc quan, được nhiều người yêu mến. Bên cạnh đó, người này cũng rất thủy
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tướng tay biết khả năng kiếm tiền của bạn

Những con giáp dễ nhặt được tiền trong tháng 12

Con giáp nhặt được tiền tháng 12: Sở dĩ những con giáp này dễ dàng nhặt được tiền bởi vì đường phụ tài của họ rất vượng.
Những con giáp dễ nhặt được tiền trong tháng 12

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sở dĩ những con giáp này dễ dàng nhặt được tiền bởi vì đường phụ tài của họ rất vượng.


1. Người tuổi Dần


Nhìn chung, tài lộc tháng 12 của người tuổi Dần khá vượng, đặc biệt là phụ tài. Theo đó, áp  lực về tài chính giảm, cảm giác kiếm tiền nhanh, dễ dàng và thuận lợi hơn. Ngoài ra, tháng này bạn gặp khá nhiều may mắn về tiền bạc, tỉ lệ trúng thưởng, thậm chí là trúng xổ số rất cao. Nếu nói bạn thuộc top những con giáp dễ nhặt được tiền trong tháng 12 này cũng không hề khoa trương.

Nhung con giap de nhat duoc tien trong thang 12 hinh anh
 
Tuy nhiên, người cầm tinh con Hổ nên nhớ rằng, chỉ nên tiến hành những việc nằm trong khả năng cho phép và không vi phạm quy định hay đi ngược lại lợi ích của bản thân, người xung quanh, có như vậy may mắn mới không rời xa bạn.

2. Người tuổi Mão

Có thể nói trong tháng 12 này, người tuổi Mão chỉ cần bỏ ra chút thời gian và công sức sẽ thu về kết quả ưng ý, thậm chí còn vượt xa cả sự mong đợi. So với những tháng trước, thu nhập của bạn đã tăng lên rõ rệt. Bên cạnh đó, tỉ lệ trúng thưởng hay trúng số khá cao, bạn có thể thử vận may của mình bằng một vài tờ vé số, nhưng nhớ cần biết điểm dừng nhé.

Ngoài ra, những ai làm trong lĩnh vực kinh doanh hoặc đầu tư nên lập kế hoạch rõ ràng trước khi hành động, tránh tổn hao về tài chính. Khi đã có chiến lược cụ thể, tinh thần bạn thêm thư thái, bình ổn, từ đó dễ dàng tìm ra hướng đi chính xác và gặt hái được nhiều thành công rực rỡ.

Nhung con giap de nhat duoc tien trong thang 12 hinh anh
 
3. Người tuổi Tỵ

Bước sang tháng 12, tình hình tài chính của người tuổi Tỵ có xu hướng tăng và ổn định. Ngoài nguồn thu chính, thu nhập ngoài luồng của con giáp này cũng tăng mạnh. Đặc biệt là những ai làm trong ngành đầu tư, kinh doanh, tỉ lệ phát tài cao, tiền bạc vào như nước.

Nhiều khả năng, những kế hoạch hay dự định lớn như mua nhà, xe cộ, đi du lịch... của người tuổi Tỵ sẽ được tiến hành suôn sẻ trong tháng này vì áp lực vật chất đã được giải tỏa.

Việt Hoàng (Theo MGSP)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp dễ nhặt được tiền trong tháng 12

7 sai lầm đẩy ngôi nhà vào thế phong thủy xấu

Có rất nhiều sai sót phong thủy trong sơ đồ ngôi nhà, một số sai sót còn mang tính chất khá nghiêm trọng. Từ việc đặt phòng tắm đối diện với cửa trước tới việc cầu thang đặt ở trung tâm ngôi nhà - tìm hiểu để xác định các khía cạnh phong thủy tiêu cực của bất kỳ ngôi nhà nào và biết cách cân bằng năng lượng trong nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn đang muốn mua một ngôi nhà mới, cố gắng hết sức để tránh mua phải ngôi nhà với các đặc điểm phong thủy tiêu cực. Nếu bạn sống trong một căn nhà có những đặc điểm đó, nghiên cứu các lời khuyên phong thủy ở trên và áp dụng vào căn nhà của mình càng sớm càng tốt.

Cửa trước thông thẳng vào cửa sau

 7 sai lam day ngoi nha vao the phong thuy xau - 1

Hãy tưởng tượng năng lượng giống như dòng nước chảy thẳng vào không gian trong nhà bạn. Nước sẽ nhanh chóng chảy mạnh qua hai hoặc nhiều cánh cửa nằm thông nhau một cách trực tiếp mà không thực sự ngừng lại và giàu thêm năng lượng trong không gian. Cần tránh đặt cửa trước thông thẳng vào cửa sau một cách trực tiếp. Nguyên nhân cần phải tránh tình trạng này là bởi vì tất cả năng lượng phong thủy tốt đi vào cửa chính sẽ dễ dàng thoát qua cửa sau mà không luân chuyển và làm giàu thêm năng lượng cho ngôi nhà của bạn.

Cầu thang đối diện với cửa trước

 7 sai lam day ngoi nha vao the phong thuy xau - 2

Cửa chính được coi là nơi hút năng lượng trong phong thủy vì đây là nơi mà ngôi nhà hấp thụ năng lượng cần thiết hoặc nuôi dưỡng nguồn năng lượng trong nhà. Khi một cầu thang đối diện trực tiếp với cửa chính, năng lượng phong thủy sẽ chảy nhanh chóng sang tầng thấp hơn hoặc tầng cao hơn; do đó, tầng chính sẽ không được nuôi dưỡng năng lượng phong thủy.

Phòng tắm đối diện với cửa trước

 7 sai lam day ngoi nha vao the phong thuy xau - 3

Có thể cải thiện phong thủy của một ngôi nhà có cửa phòng tắm đối diện với cửa trước hay không? Tất nhiên là có. Nếu phòng tắm của bạn đối diện với cửa trước, hầu hết năng lượng sẽ dễ dàng thoát ra khỏi nhà thông qua phòng tắm, khiến cho năng lượng phong thủy tốt không còn lưu trữ trong ngôi nhà.

Cầu thang đặt giữa trung tâm nhà

 7 sai lam day ngoi nha vao the phong thuy xau - 4

Nếu ngôi nhà hoặc văn phòng có cầu thang nằm ở trung tâm – không cần biết thiết kế, chất liệu và màu sắc như thế nào – ngôi nhà đó cần phải được áp dụng một số biện pháp cụ thể để cân bằng năng lượng bên trong. Theo quy tắc chung, một chiếc cầu thang đặt ở trung tâm mang lại phong thủy xấu và cần phải chú ý đến điều này.

Phòng tắm nằm ở trung tâm ngôi nhà

 7 sai lam day ngoi nha vao the phong thuy xau - 5

Một phòng tắm đặt ở trung tâm của ngôi nhà thường được coi là phong thủy xấu. Vì trung tâm của căn nhà là vị trí quan trọng nhất của không gian trong phong thủy hay còn gọi là điểm âm dương; vị trí này phải thoáng, sáng sủa và được trang trí đẹp đẽ. Trong phong thủy, trung tâm của ngôi nhà còn được coi là nơi mà các khu vực phong thủy khác tiếp nhận năng lượng.

Phòng ngủ đặt gần gara

 7 sai lam day ngoi nha vao the phong thuy xau - 6

Theo quy tắc chung, phòng ngủ gần gara mang lại phong thủy không tốt vì hai lý do sau đây. Gara có quá nhiều sự di chuyển ra vào, chứa đựng nguồn năng lượng không cố định, trái ngược hoàn toàn với nguồn năng lượng cần nuôi dưỡng trong phòng ngủ. Phòng ngủ đặt gần gara có nền tảng năng lượng bất ổn và không kích thích sự thư giãn cũng như giấc ngủ tốt.

Hành lang dài và hẹp

 7 sai lam day ngoi nha vao the phong thuy xau - 7

Một hành lang dài và hẹp được coi là dấu hiệu của phong thủy xấu nếu không chú ý. Nguyên do phong thủy của hành lang dài và hẹp được coi là xấu vì năng lượng của hành lang dài là sự kết hợp giữa năng lượng xấu (Sha Chi) và năng lượng tù đọng (Si Chi). Đừng quá lo lắng, chỉ có một vài thử thách thiết kế là không thể cải thiện bằng việc bài trí phong thủy một cách thông minh mà thôi!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 sai lầm đẩy ngôi nhà vào thế phong thủy xấu

Dễ dàng nắm trọn hạnh phúc với "đào hoa vị"

Theo phong thủy, để tăng may mắn trong đường tình cảm, người ta có thể sử dụng các phương pháp “đào hoa vị”. Cắm hoa trong phòng ngủ là phương pháp “đào hoa
Dễ dàng nắm trọn hạnh phúc với "đào hoa vị"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

vị” xưa truyền lại rất hiệu quả.

De dang nam tron hanh phuc voi dao hoa vi hinh anh
 
Cách làm này đòi hỏi phải xác định chính xác vị trí, màu sắc lọ hoa và số lượng hoa cắm trong lọ.
 
Trong Tử vi, ngôi sao tượng trưng cho đời sống tình dục và quan hệ tình cảm trai gái là sao Mộc Dục. Bảng dưới đây cho biết ngày, giờ, tháng năm ngôi sao Mộc Dục vượng theo tuổi âm lịch. 
 
Tuổi Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi
Sao Mộc Dục Dậu Ngọ Mão Dậu Ngọ Mão Dậu Ngọ Mão

Sau đó, dùng la bàn phong thủy xác định vị trí đặt bình hoa sẽ thúc đẩy vận đào hoa của chủ nhân. Cung Ngọ ở phía Nam (quẻ Ly), cung Tí ở phía Bắc (quẻ Khảm), cung Mão ở phía Tây (quẻ Đoài) và cung Dậu phía Đông (quẻ Chấn. Sao Mộc Dục vượng ở phương nào thì đặt lọ hoa ở phương ấy.
  Đoài thuộc chính Tay, nên chọn phòng ngủ phía Tây nhà. Giờ Dậu (5- 7 giờ chiều), năm Dậu, tháng 8 (tháng Dậu) sao Mộc Dục cực vượng, nên tiến hành bày lọ hoa thì phương pháp “đào hoa vị” càng hiệu quả. 
 
Màu sắc bình và số hoa trong bình dựa trên tuổi âm và ngũ hành như sau.
 
Tuổi Ngũ hành Màu sắc bình hoa Số lượng hoa
Thủy Xanh lam 1
Sửu Thủy Xanh lam 1
Dần Mộc Xanh lá cây 4
Mão Mộc Xanh lá cây 4
Thìn Mộc Xanh lá cây 4
Tỵ Hỏa Đỏ 9
Ngọ Hỏa Đỏ 9
Mùi Hỏa Đỏ 9
Thân Kim Trắng 7
Dậu Kim Trắng 7
Tuất Kim Trắng 7
Hợi Thủy Xanh lam 1

Theo
Phong thủy Cát tường
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dễ dàng nắm trọn hạnh phúc với "đào hoa vị"

Bày tủ lạnh biến thành siêu bảo bối phong thủy trong nhà

Bất kì đồ vật nào, dù nhỏ đến lớn, đều ảnh hưởng đến bố cục phong thủy trong ngôi nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi khi hè sang, vai trò của tủ lạnh lại trở nên vô cùng quan trọng trong cuộc sống. Không chỉ làm kem cho trẻ nhỏ, ướp lạnh bia cho nam chủ nhà, còn bảo quản hoa quả làm đẹp cho phụ nữ… Tuy nhiên, có thể bạn chưa biết, tủ lạnh còn có thể trở thành bảo bối phong thủy, giúp cải thiện bố cục phong thủy trong nhà.

 bay tu lanh bien thanh sieu bao boi phong thuy trong nha - 1

Tủ lạnh có thể trợ vận nếu bạn biết sử dụng đúng cách.

Cũng giống như các đồ điện khác trong gia đình, tủ lạnh không ngừng ảnh hưởng tới phong thủy trong nhà và sức khỏe của các thành viên trong gia đình thông qua sống quang điện từ mà nó phát ra. Trợ vận hay bại vận, có lúc cần phải xem bạn đã lợi dụng được nó hay chưa.

Tủ lạnh có lợi nhất cho người nào?

Đối với những người mệnh lý hợp Kim mà nói, tủ lạnh chắc chắn là một phương thuốc tốt giúp trợ vận. Nhiệm vụ mở tủ lạnh hàng ngày giao cho người này, để mỗi lần mở tủ lạnh đều có thể nâng cao vận thế của họ.

Tủ lạnh đặt ở đâu là thích hợp nhất?

Thông thường, để tiện sử dụng, tủ lạnh thường đặt trong phòng bếp. Phòng bếp là nơi hỏa vượng, lấy hỏa của phòng bếp khắc kim của tủ lạnh, sẽ dần dần làm tiêu hao tính hỏa của phòng bếp, có lợi cho việc cân bằng Ngũ hành của phòng bếp.

Tủ lạnh có những cấm kị phong thủy gì?

- Tủ lạnh không được để rỗng

Tủ lạnh có quan hệ mật thiết tới việc ăn uống của mọi người trong gia đình. Đồ ăn trong tủ lạnh có ngụ ý cơm no áo ấm; còn tủ lạnh trống rỗng là điềm báo tình trạng kinh tế không tốt đẹp.

 bay tu lanh bien thanh sieu bao boi phong thuy trong nha - 2

Tủ lạnh để rỗng ảnh hưởng tới tài vận.

- Lau rửa tủ lạnh định kỳ

Tủ lạnh xét về mặt phong thủy còn có liên quan đến tài vận, do vậy nên lau rửa tủ lạnh định kỳ, đảm bảo tủ lạnh luôn sạch sẽ mới có thể thúc đẩy tài vận.

- Tủ lạnh không được đối diện cửa

Bất kể tủ lạnh trong bếp hay phòng ăn, hay thậm chí phòng khách, thì vẫn nên tránh đối diện với cửa, nếu không sự đối nghịch của khí lưu sẽ khiến cho tài vận không ổn định, thậm chí hao tài.

- Trên tủ lạnh không nên đặt các đồ điện khác

Để tiết kiệm không gian, nhiều người đặt lò vi sóng, máy xay sinh tố, máy làm sữa đậu nành… trên tủ lạnh. Không nói đến khoa học, nếu chỉ xét về phong thủy, các loại điện khí phát ra các khí lưu và điện từ sẽ làm rối loạn khí trường xung quanh, không có lợi cho sức khỏe của chủ nhân. Hơn nữa, đặt nhiều đồ lên trên tủ lạnh không có lợi cho việc tụ tài.

Làm thế nào để dùng tủ lạnh “khai vận”?

- Kết hợp tủ lạnh với mệnh lý của chủ nhân

Mỗi người đều có thể tìm được phương vị phù hợp mệnh lý của mình trong nhà, ví dụ nam chủ nhà tương ứng với góc Tây Bắc, nữ chủ nhà tương ứng góc Tây Nam, con trai hướng chính Tây, con gái hướng Đông Nam… (Điều này chỉ áp dụng với gia đình 3 người, số lượng thành viên khác phương vị tương ứng sẽ khác).

- Trong gia đình, thành viên nào cần Kim, thì nên đặt tủ lạnh ở vị trí đó, sẽ có tác dụng tăng vận thế cho người đó.

- Tủ lạnh thường xuyên đựng nhiều đồ lạnh, có thể nâng cao vận thế sự nghiệp và tài vận của chủ nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày tủ lạnh biến thành siêu bảo bối phong thủy trong nhà

Dị biệt chính, Nam phái

TÌM HIỂU THÊM VỀ LỊCH SỬ TỬ VI (Trích lục của Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ) Lịch sử khoa tử vi Trung hoa và Việt nam Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ Quay về | Xem tiếp
Dị biệt chính, Nam phái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

VIII.- Dị biệt chính, Nam phái
1.- Sự khác biệt về số sao

1.1. Bộ Tử-vi chính nghĩa
     Được coi như là chính thư. Không nói về số sao. Song trong mục dạy an sao có 93 sao, đó là:

1.1.1. Các chòm.
Tử-vi: 6 sao là Thiên-cơ, Thái-dương, Vũ-khúc, Thiên-đồng, Liêm-trinh.
Thiên-phủ: 8 sao là Thiên-phủ, Thái-âm, Tham-lang, Cự-môn, Thiên-tướng, Thiên-lương, Thất-sát, Phá-quân.
Thái-tuế: 5 sao là Thái-tuế, Tang-môn, Điếu-khách, Bạch-hổ, Quan-phù.
Lộc-tồn: 17 sao là Lộc-tồn, Kình-dương, Đà-la, Quốc-ấn, Đường-phù, Bác-sĩ, Lực-sĩ, Thanh-long, Tiểu-hao, Tướng-quân, Tấu-thư, Phi-liêm, Hỉ-thần, Bệnh-phù, Đại-hao, Phụcbinh, Quan-phủ.
Trường-sinh: 12 sao là Trường-sinh, Mộc-dục, Quan-đới, Lâm-quan, Đế-vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai Dưỡng.
1.1.2. Các sao an theo tháng: 7 sao Tả-phụ, Hữu-bật, Tam-thai, Bát-tọa, Thiên-hình, Thiên-riêu, Đẩu-quân.
1.1.3. Các sao an theo giờ: 8 sao Văn-xương, Văn-khúc, Ấn-quang, Thiên-quý, Thai-phụ, Phong-cáo, Thiên-không, Địa-kiếp.
1.1.3. Tứ trợ tinh: 4 sao là Hóa-quyền, Hóa-lộc, Hóa-khoa, Hóa-Kî.
1.1.4. Các sao an theo chi: 17 sao là Long-trì, Phượng-các, thiên-đức, Nguyệt-đức, Hồngloan, Đào-hoa, Thiên-hỉ, Thiên-mã, Hoa-cái, Phá-toái, Kiếp-sát, Cô-thần, Quả-tú, Hỏatinh, Linh-tinh, Thiên-khốc, Thiên-hư.
1.1.5. Các sao an theo can: 5 sao là Lưu-hà, Thiên-khôi, Thiên-việt, Tuần-không, Triệtkhông.
1.1.6. Các sao cố định: 4 sao là Thiên-thương, Thiên-sứ, Thiên-la, Địa-võng.

1.2.Bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh
      Đều ghi có 93 sao, giống như bộ Tử-vi chính nghĩa.

1.3.Bộ Tử-vi đại toàn
     Ghi rõ ràng rằng trong lá số phải có 93 sao như Hi-Di tiên sinh, kỳ dư an thiếu, đủ hay khác đi đều là tạp thư, ma thư của bọn đạo sĩ bịa đặt để lừa nhau, còn giả đạo đức, tỏ ra là người bác học, song chẳng qua là phường lưu manh!

1.4.Bộ Tử-vi Đẩu-số toàn thư
     Nói về số sao rất lờ mờ. Phần dạy cách an sao có ghi rõ 85 sao. Các sao cũng giống như ba bộ trên. Duy thiếu các sao sau đây: Đào-hoa, Phá-toái, Kiếp-sát, Cô-thần, Quả-tú, Lưu-hà. Nhưng khi đọc bài phú nói về các sao, thì lại thấy nói tới Đào-hoa, Ân-quang, Thiên-quý v.v...

1.5.Bộ Đông-a di sự
      Thấy ghi đúng 93 sao như bộ trên, nhưng khi xét các lá số để chiêm nghiệm thì thấy thiếu các sao: Bác-sĩ, Thiên-la, Địa-võng, Thiên-thương, Thiên-sứ. Có lẽ các Tử-vi gia đời Trần quan niệm rằng các sao trên đều ở vị trí cố định, nên không cần an vào như sao Bác-sĩ bao giờ cũng đóng chung với sao Lộc-tồn. Sao Thiên-thương bao giờ cũng ở cung Nô, sao Thiên-sứ bao giờ cũng ở cung Tật-ách và sao Thiên-la bao giờ cũng ở cung Thìn cũng như sao Địa-võng bao giờ cũng ở cung Tuất.
Trên đây là các bộ chính thư, dưới đây là các bộ tạp thư.

1.6.Bộ Tử-vi Âm-dương chính nghĩa Bắc-tông
     Thấy ghi đến 104 sao. Các sao cũng như giống như chính thư về số sao cũng như cách an sao, song thêm các sao sau đây: Thiên-tài, Thiên-thọ, Thiên-trù, Thiên-y, Thiên-giải, Địa giải, Giải-thần, Thiên-lộc, Lưu-niên văn tinh, Thiên-quan quý nhân, Thiên-phúc quý nhân.

1.7.Bộ Tử-vi âm-dương chính nghĩa Nam-tông
      Ghi tới 128 sao, các sao cũng giống như sao Bắc-tông, nhưng thêm 24 sao là Thái-túc, Niên-xá, Thiên-khôi, Nguyệt-khôi, Niên-thổ-khúc, Nguyệt-thổ-khúc, Thiên-thương (Nghĩa là kho lúa khác với Thiên-thương ở cung Nô, như vậy trong lá số có hai sao Thiên-thương). Thiên-phủ-khố, Thiên tiễn, Hồng-diệm, Địa-không, Phù-trầm, Sát-nhận. Vòng Thái-tuế được thêm vào 7 sao nữa cho đủ 12 sao, đó là các sao Thiếu-dương, Thiếu-âm, Tử-phù, Tuế-phá, Long-đức, Phúc đức, Trực-phù, Tứ-phi-tinh, Thiên-trượng, Thiên-dị, Mao-đầu, thiên-nhận.

1.8.Bộ Tử-vi thiển thuyết gồm 128 sao
     Giống như bộ Nam-tông nhưng thêm vào 13 sao nữa rất quái dị, không có trong thiên-văn mà chỉ có trong tiểu thuyết thần kỳ chí quái, ma trâu đầu rắn. Đó là các sao: Nam-cực, Đông-đẩu tinh-quân, Bắc-đẩu tinh-quân, Nam-đẩu tinh-quân, Cửu-thiên huyền nữ, Dao-trì kim mẩu, Vũ-tinh, Lôi-tinh, Thiên-vương tinh, Địa-tạng tinh, Thái-bạch kim tinh.

1.9.Lịch số Tử-vi toàn thư
     Số sao cũng giống như bộ Tử-vi thiển thuyết song dạy an sao ngược với các bộ trên. Như sao Trường-sinh không những chỉ an ở Dần, Thân, Tî, Hợi mà còn thấy ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Vòng Tử-vi an xuôi, vòng Thiên-phủ an ngược. Số sao cũng có 128 mà thôi.

2.- Sự khác biệt về sao lưu niên
2.1.Chính thư
     Các sao lưu niên đều an giống nhau, số sao cũng giống nhau:
-Vòng Lộc-tồn với 15 sao không có Quốc-ấn, Đường-phù. (Bộ Tử-vi đẩu số toàn thư chỉ nói đến hai sao Kình, Đà thôi)
- Thiên-khôi, Thiên-việt, Thiên-mã, Thiên-khốc, Thiên-hư và vòng Thái-tuế 5 sao, Vănxương, Văn-khúc. Tất cả 27 sao.

2.2.Tạp thư
     Vẫn gồm các sao như bộ chính thư nhưng thêm: Hỏa-huyết, Lan-can, Quân-sách, Quyện thiệt, Bạo-tinh, Thiên-ách, Thiên-cẩu, Huyết-nhận, Huyết-cổ, Ngũ-quỷ và vòng Trường sinh 12 sao.

3.- Sự khác biệt về đại hạn
Chính phái an đại hạn như sau:
- Từ lúc đẻ ra tới số cục thì đại hạn an tại cung Mệnh.
- Đại hạn thứ nhất sẽ an vào cung phụ mẫu, hoặc huynh đệ.

Tỷ như: Người Hỏa-lục-cục, thì từ 1 tới 5 tuổi thì đại hạn ở cung Mệnh. Từ 6 tuổi trở đi thì đại hạn ở cung Huynh đệ hoặc Phụ-mẫu.

- Nhưng Nam phái lại an ngay đại hạn thứ nhất ở cung Mệnh, rồi đại hạn thứ nhì ở cung Phụ mẫu hoặc Huynh đệ. Như vậy từ lúc đẻ ra tới số tuổi “số cục” không có đại hạn.
Sự khác biệt này, đã khiến cho Nam phái phải đi tìm nhiều sao khác, hoặc nhiều thuật khác, để đoán cho đúng, nhất là đoán vận hạn chết rất quan trọng. Bắc phái đoán rất trúng, nhưng theo Nam phái lại khó khăn. Sự khác nhau về hạn, khiến cho Nam phái không dùng bài phú đoán của Hy-Di tiên sinh được. Bởi phú đoán thì an đại hạn theo Bắc phái. Những người học theo Nam phái thường tỏ ý nghi ngờ các bài Phú. Họ phải dò dẫm, tìm hiểu lâu năm mới đưa ra lối giải quyết. Trong khi những người học theo Bắc phái, thì ngay sau khi học an sao, học có thể học cách giải đoán bằng cách xử dụng phú đoán được.

     Tỷ dụ: Chính phái đoán số Hạng Vũ, căn cứ vào phú đoán:
Hạng Vũ anh hùng hạn ngộ Thiên-không nhi táng quốc. Thạch Sùng hào phú, vận phùng Địa-kiếp dĩ vong gia. Nghĩa là Hạng Vũ anh hùng nhưng hạn ngộ Thiên-không nên mất nước. Thạch Sùng giàu có nhưng hạn gặp Địa-kiếp nên tan nhà nát cửa. Nếu xét theo Nam phái thì câu phú trên không đúng được:

- Thứ nhất, theo Bắc phái chỉ có sao Thiên-không, Địa-kiếp đi đôi với nhau, không có sao Địa-không. Sao Thiên-không không đóng ở vị trí sao Địa-không của Nam phái và không
có sao Thiên-không trước Thái-tuế một cung. Hạng Vũ, đại hạn tới Dần gặp Địa-kiếp, tiểu hạn ở Thân gặp Thiên-không. Đại, tiểu hạn Kiếp, Không gặp nhau nên táng quốc. Dù đại hạn có Đồng, Lương, Quyền cũng không giải nổi. Bàn về số Thạch Sùng cũng tương tự. Nếu đoán theo Nam phái bài phú trên cũng không đúng:

- Đại hạn đang tới cung Mão, gặp Thái-tuế, mà Thiên-không đóng ở Thìn.
Như vậy không có vụ Hạng Võ chết về Kiếp, Không lâm nạn, Sở vương táng quốc. Mà chỉ có việc Hạng Võ gặp hạn Địa-không ở Thân mà thôi.
Hồi còn ở Việt-nam, chúng tôi dạy Tử-vi cho các vị yêu khoa này, thường thì những vị chưa biết gì học mau hơn. Còn các vị học theo Nam phái, học thêm mấy chục bài phú nữa, mất công chỉnh đốn lại. Bởi vậy chúng tôi có lời khuyên: Các vị học theo Nam phái thì không nên học những bài phú của Hy-Di, mà học các bài phú của Ma-Y thuộc Nam phái mà thôi. Nếu không đầu óc sẽ lộn tùng phèo.

4. Sự khác biệt về an sao
     Trong 93 tinh đẩu không có sự khác biệt. Nhưng duy sau này những bộ tạp thư đưa ra an những sao mới, hoàn toàn do họ đặt ra, có sự quái gở khi an vòng Trường-sinh: Họ khởi Trường-sinh ở cả Tý, Ngọ, Mão, Dậu.
Về an Khôi, Việt thì chính thư, tạp thư chỉ khác nhau có tuổi Canh mà thôi: Chính thư Khôi ở Sửu, Việt ở Mùi. Trong khi tạp thư thì cho ở Dần, Ngọ. Về an tứ hóa: Tuổi Canh cũng bị lộn như Hóa-lộc đi với Thái-dương, Hóa-quyền đi với Vũ-khúc, Hóa-khoa đi với Thiên-đồng, Hóa-kî đi với Thái-âm. Trong khi tạp thư Hóa-khoa đi với Thái-âm, trong khi Hóa-kî đi vối Thiên-đồng.

5. Đối với sách Tử-vi hiện tại
     Trừ bộ Tử-vi đẩu số toàn thư do Vũ Tài Lục lược dịch, một vài đoạn đúng với chính thư, còn các sách khác, chúng tôi không tiện phân tích xem sách của vị nào ảnh hưởng của phái nào bên Trung-quốc! Vân Điền Thái Thứ Lang là một đại đức Phật giáo, ông bị tử nạn xe hơi đã lâu, nên chúng tôi có thể bàn về sách của ông: Rất gần với chính phái. Ông Vũ Tài Lục là con của cụ Kép Nguyễn Huy Chiểu, hiện ở Hoa-kỳ. Còn ông Nguyễn Phát Lộc với chúng tôi có chút duyên văn nghệ, trước đây ông là phó Đặc-ủy trung ương tình báo VNCH, không rõ nay ở đâu, nếu ông còn ở Việt-nam thì có lẽ đã bị giết rồi.

     Chúng tôi quan niệm: Dù tất cả Tử-vi gia thuộc phái nào đi nữa, cũng cần có kinh nghiệm. Về phương diện nghề nghiệp, họ phải dùng Tử-vi làm kế sinh nhai là điều bất đắc dĩ, bới bỏ tâm não ra, an sao, chấm số, giải đoán một lá số Tử-vi không tiền nào, bạc nào trả họ nổi cả. Dù không trả tiền với tinh thần khoa học, họ cũng say mê nghiên cứu. Chính chúng tôi kiếm tiền rất dễ dàng, nhưng khi thấy một lá số kỳ lạ, cũng chẳng ngần ngại gì mà không bỏ ra cả ngày để nghiền ngẫm cho ra nguyên lý.

      1. Thư tịch về khoa Tử Vi
      2. Nguồn gốc khoa Tử Vi
      3. Khoa Tử Vi đời Tống
      4. Khoa Tử Vi sau Hi-Di
      5. Tử Vi vào Việt Nam
      6. Khoa Tử Vi đời Trần
      7. Khoa Tử Vi đời sau
      8. Dị biệt chính, Nam phái
      9. Kết luận

Quay về |Trở về đầu| Xem tiếp



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dị biệt chính, Nam phái

Các đồ vật không nên bài trí trong phòng ngủ

Hiện nay, nhiều gia chủ quan tâm đến vấn đề phong thủy phòng ngủ và những điều kiêng kỵ vì bài trí phòng ngủ hợp phong thủy sẽ đem lại sức khỏe, hạnh phúc, may mắn cho gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các đồ vật không nên để trong phòng ngủ

Phòng ngủ không để dao, kiếm

Thực tế, nhiều gia chủ có sở thích sưu tầm dao, kiếm và xem đó là một thú vui hằng ngày, đặc biệt còn trưng bày chúng ở phòng ngủ. Tuy nhiên, phong thủy cho rằng, chúng là những vật đại kỵ để trong phòng ngủ do sát khí rất nặng, chủ nhà dễ gặp áp lực công việc, bất an, đau đầu...

Phòng ngủ không đặt di ảnh người quá cố

Trong phòng ngủ, không để di ảnh người đã mất vì dễ bóng đè, mộng mị, không tốt cho sức khỏe và giấc ngủ. Để tiện cho việc thờ phụng, cúng bái, chủ nhà nên đặt di ảnh của người quá cố ở một nơi an tịnh sạch sẽ hay trong phòng khách.

Phòng ngủ không bài trí tượng thần, Phật

Nếu nhìn dưới góc độ sự tôn kính lễ giáo và tín ngưỡng, trong phòng ngủ, đặt tượng thần, Phật là điều đại kị. Còn phong thủy cho rằng, như vậy là “cất giấu” tài lộc và may mắn, khiến cho công danh, sự nghiệp sẽ luôn dừng ở mức trung bình.

Gia chủ nên xây riêng một Phật đường hoặc bài trí những vật này ở phòng khách sẽ tiện hơn là sắp xếp một căn phòng chuyên dùng cho việc thờ cúng.

Phòng ngủ không để cổ vật hoặc di vật

Mọi người đều biết, cổ vật hay di vật là những đồ vật có giá trị và rất quý báu. Vì thế, ai cũng muốn cất giữ, trưng bày chúng ở chốn riêng tư. Lúc đó, dường như phòng ngủ là một lựa chọn vô cùng phù hợp. Tuy nhiên, đó thực tế không phải là việc làm thông minh. Bởi vì, cổ vật hay di vật là những thứ đã thuộc về quá khứ.

Theo các nhà phong thủy, các món đồ thuộc về quá khứ này cất giữ trong phòng ngủ thường làm tâm trí bất an hay mơ kỳ quái và mất tinh thần làm việc...

Không thiết kế bể cá trong phòng ngủ

Trong phòng ngủ, không đặt bồn rửa mặt, bể cá, treo tranh vẽ hồ nước, biển, sông, suối... (hành Thủy) vì dễ gặp bất hòa, hiểu lầm và ngủ không an giấc.

phong thủy phòng ngủ
Trong phòng ngủ, không nên bài trí tượng thần, Phật

Phòng ngủ và những điều cần lưu ý khi bài trí

Nếu phòng ngủ đối diện hoặc ngay bên cạnh cửa ra vào, gia chủ sẽ có cảm giác như nằm trước những hang động. Vì thế, những phòng ngủ lý tưởng nên đặt càng xa cửa chính càng tốt.

Nhằm giúp chủ nhà bảo vệ được khí lực trong lúc ngủ, đầu giường phải cao và chắc chắn tạo ra cảm giác rất thoải mái và không bị hụt hẫng. Thông thường, sinh khí vào và thoát ra khỏi cơ thể người qua bàn tay, bàn chân và thóp đầu. Tinh thần bạn sẽ tốt hơn nếu có một điểm tựa vững chắc sau đầu khi ngủ. Vì thế, đầu giường không nên để bức tường trống trãi và lạnh lẽo.

Gia chủ nên chú ý tới những chiếc thành giường. Lý tưởng nhất là chọn những loại giường thành có cạnh tròn, cần tránh vuông góc để bảo đảm an toàn và không cản trở khí lực đang tập trung hướng đến chủ nhân căn phòng. Điều này càng phải đảm bảo nếu là giường dành cho vợ chồng bởi nó sẽ tạo ra trạng thái ổn định, đồng thời củng cố mối quan hệ cho hai người.

Là nơi có nhiều âm khí nên khi bố trí phòng ngủ, bạn nên chọn ánh sáng hòa. Do đó, ánh sáng lý tưởng nhất cho phòng ngủ thường là những ánh sáng dịu nhẹ. Bạn cần tránh để đèn trần chiếu trực tiếp trên giường của mình.

Phòng ngủ tốt nhất nên dùng các màu sắc nhạt nhẹ. Gia chủ nên chọn các màu xanh nhẹ, hồng nhạt, kem, trắng để không tạo cảm giác bị ức chế khi sống trong căn phòng.

Bên cạnh đó, gia chủ không nên để gương bên cạnh giường chiếu thẳng vào giường hoặc ngay phía trên đầu giường. Nhiều khách sạn hiện đại thường hay thiết kế gương chiếu thẳng vào giường. Nếu bạn chỉ thỉnh thoảng mới ở thì không sao nhưng lâu dài sẽ không tốt.

Phòng ngủ nên đặt nhiều đồ dùng bằng gỗ hơn là kim loại. Từ khi sinh ra, con người đã gắn liền với cây cối, có thể ví cây cối là cái nôi nuôi dưỡng loài người. Sau này, kim loại mới xuất hiện cùng với sự phát triển của lao động sản xuất và đấu tranh. Vì thế, chủ nhà nên bài trí nhiều đồ dùng bằng gỗ trong phòng ngủ hơn là các đồ dùng bằng kim loại lạnh giá.

(Theo CafeLand)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các đồ vật không nên bài trí trong phòng ngủ

Những lưu ý phong thủy nhà ở tốt cho bà bầu

Hoài thai chín tháng mười ngày là quá trình dài dằng dặc, ngoài chế độ dinh dưỡng và tập luyện, còn cần lưu tâm tới phong thủy nhà ở tốt cho bà bầu.
Những lưu ý phong thủy nhà ở tốt cho bà bầu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hoài thai chín tháng mười ngày là quá trình vừa hạnh phúc vừa dài dằng dặc, ngoài chú ý chế độ dinh dưỡng và tập luyện, còn cần lưu tâm tới phong thủy nhà ở tốt cho bà bầu để mẹ khỏe con ngoan. Hoàn cảnh sống, bố cục trong nhà sẽ có tác động rất lớn tới phụ nữ mang thai nên không thể chủ quan được.

Nhung luu y phong thuy nha o tot cho ba bau hinh anh 2
 

1. Phong thủy nhà ở tốt cho bà bầu

  Phụ nữ có thai coi trọng nhất là nạp khí nên khi bố trí phong thủy nhà ở thì trọng điểm nhất chính là đón khí lành, hứng dương khí và vượng khí. Nhà có người mang thai phải đầy đủ ánh mặt trời, duy trì nhiệt độ và ánh sáng thích hợp, không nên để nhà âm u, tối ám, ẩm thẩm. Xem thêm bài viết Đón cát tránh hung với những lưu ý phong thủy nhà ở năm 2017 (phần 1)   Mặt khác, nhà ở nói chung và phòng của bà bầu nói riêng nhất định phải có nhiều cửa sổ để thoáng đãng, duy trì không khí thông suốt. Đặc biệt trong mùa hè, bà bầu không nên vì ngại không khí nóng bức ngoài trời mà ở trong phòng điều hòa khép kín thời gian dài, rất bất lợi đối với sức khỏe.   Những phương vị mấu chốt trong phong thủy nhà ở tốt cho bà bầu là hướng chính Đông và hướng Tây Nam. Ở hướng chính Đông bày ra đồ vật trang trí có màu xanh lục sẽ thúc vượng hỉ khí, để thai nhi càng thêm khỏe mạnh thông minh. Ở hướng Tây Nam đặt chậu cây thủy sinh hoặc bể cá trang trí có thể nâng cao năng lượng tốt trong nhà, thuận lợi cho việc ra đời của đứa trẻ.  

2. Cấm kị phong thủy nhà ở cho bà bầu


Nhung luu y phong thuy nha o tot cho ba bau hinh anh 2
 
Đối với phụ nữ mang thai, phong thủy nhà ở giống như thân thể, không thể dễ dàng thay đổi, xáo trộn. Để loại trừ những nhân tố bất lợi, không gây ra những sự việc đáng tiếc thì tốt nhất là duy trì nguồn năng lượng ổn định trong nhà. Thông thường, ngôi nhà mà chủ nhân có thể thụ thai thành công thì sẽ không tồn tại vấn đề gì quá lớn nên đừng đột ngột sắp xếp lại để tránh phiền phức không đáng có.    Nhà có phụ nữ mang thai không nên trang trí lại, cải tạo, động thổ hoặc thay đổi phòng ốc thậm chí là di chuyển giường, đặt lại vòi nước cũng hết sức hạn chế. Quan trọng hơn là nhiều phụ nữ khi mang thai muốn di chuyển vị trí, trở về quê hoặc về nhà mẹ đẻ dưỡng thai. Xem thêm bài viết Hướng giường ngủ cho mẹ bầu khỏe mạnh   Thực tế, thai nhi đã quen với hoàn cảnh thai nghén, trưởng thành trong môi trường đó mà nay tùy tiện thay đổi hoàn cảnh mới không tránh khỏi xáo động về năng lượng. Thai nhi chưa thích nghi được với môi trường mới, chưa kể phong thủy nơi ở mới chưa chắc đã phù hợp, có thể mang tới những nguy hiểm cho đứa trẻ.  

3. Trang trí nhà ở cho bà bầu theo phong thủy


Nhung luu y phong thuy nha o tot cho ba bau hinh anh 2
 
Không ít người thích bày những vật trang trí trong nhà để làm đẹp, tăng mĩ quan hoặc đón cát tránh hung, mang ý nghĩa phong thủy. Tuy nhiên không phải thích gì bày nấy, tùy tiện ném loạn, bày sai đồ hoặc sai vị trí thì ngược lại đẹp đâu, tốt đâu không thấy mà sẽ gây hại. Đặc biệt với nhà có phụ nữ mang thai thì bày bất cứ đồ vật gì cũng nên hết sức thận trọng.   Phong thủy nhà ở tốt cho bà bầu nên ưu tiên bày trí những sản phẩm đơn giản, tươi sáng, mang tới cảm giác tích cực, tươi vui. Ví dụ như bức tranh, bức ảnh phong cảnh đẹp, tranh mặt trời mọc, tranh trẻ nhỏ mỉm cười. Màu sơn tường tốt nhất cũng chọn những màu nhã nhặn và hài hòa như hồng nhạt, vàng nhạt, trắng, xanh da trời,… Tránh tuyệt đối các yếu tố liên quan tới động vật như tranh động vật, sừng, da, xương động vật trong nhà. Xem thêm bài viết Chọn tranh phong thủy cát tường đúng chuẩn, phúc lộc lâm môn   Mặt khác, tỳ hưu, sư tử, hổ, voi, kiếm, chuông gió tuy là vật phẩm phong thủy cát tường nhưng lại không thích hợp bày trong nhà của thai phụ. Không những khiến mẹ bất an, khó chịu mà còn ảnh hưởng bất lợi tới thai nhi, có thể tạo thành sát khí đối với đứa trẻ.
5 kiểu người cần tránh giao tiếp khi bạn đang bầu bí Thuận theo phong thủy sinh con năm 2017, ắt sinh quý tử Đinh Dậu Giúp vợ chồng hiếm muộn cầu tự thành công với 4 mẹo phong thủy
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý phong thủy nhà ở tốt cho bà bầu

Quy tắc bất di bất dịch khi trưng bày tượng Phật trong nhà

Vị trí đặt tượng Phật trong nhà hợp phong thủy. Mỗi tượng Phật khác nhau nên đặt ở những vị trí khác nhau để phát huy tác dụng thờ cúng riêng.
Quy tắc bất di bất dịch khi trưng bày tượng Phật trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không ít người tín Phật đã dành ra một vị trí đặc biệt trong ngôi nhà hoặc khu vườn để lập bàn thờ cầu nguyện, trong đó không thể thiếu những bức tượng Phật. Ngoài ra, nhiều người cũng kết hợp tượng Phật vào trang trí nội hoặc ngoại thất. 
 

Trong phong thủy, bài trí một bức tượng Phật trong nhà có thể thu hút năng lượng tích cực. Tuy nhiên, khi bày tượng trong nhà sẽ có một vài quy tắc bất di bất dịch cần tuân theo để tránh xúc phạm đến Thần Phật. Trước hết, cần hiểu được ý nghĩa và biểu tượng của mỗi bức tượng trong mối quan hệ với khu vực bạn muốn đặt nó. Nếu tuân thủ những nguyên tắc dưới đây, gia đình luôn bình an, đón lành tránh dữ.
 
Vị trí đặt tượng Phật

- Không được đặt trực tiếp Phật trên mặt đất hoặc trong phòng tắm vì hai vị trí này được coi thiếu tôn trọng.
 
- Không nên đặt trong phòng ngủ của bạn trừ khi tượng được giữ trong tủ có cửa đóng kín.
 
- Luôn đặt tượng quay mặt vào trong phòng. Nếu tượng Phật đặt ở lối vào của ngôi nhà thì có thể ngoại lệ, đối mặt với những người bước vào trong nhà.
 
- Nếu đặt tượng Phật ở trong vườn cần quay mặt vào nhà để mang lại bình an cho gia đình.
 
Những loại tượng có thể trưng bày trong nhà để mang tới sự bình an
 
Tượng Đức Phật Thích Ca ngồi thiền
 
Trên bàn thờ Phật trong nhà có thể bày những bức tượng Đức Phật trong tư thế ngồi thiền. Tượng Phật Thích Ca nên đặt quay mặt về hướng Đông vì Đức Phật ngồi thiền luôn hướng về phía mặt trời mọc để giác ngộ.

It nguoi biet nen trung bay tuong Phat nao trong nha hinh anh
Phật Di Lặc

Tượng Phật Di Lặc

 
Phật Di Lặc khá được ưa chuộng để bài trí trong nhà. Ông Phật cười mang lại may mắn, thịnh vượng. Chiếc bụng lớn của ông chứa đầy của cải, tài lộc. Mọi người thường hay lấy tay xoa bụng Phật Di Lặc để mong muốn được ban tặng nhiều may mắn. Tượng ông Phật cười có thể bày trên két sắt, tủ đựng tiền hoặc góc Đông Nam của ngôi nhà.
 
Tượng Phúc  Lộc Thọ

Theo phong thủy tài lộc, tượng Phúc Lộc Thọ đem lại cuộc sống may mắn và trường thọ, tài vận cho gia đình. Những tượng này có thể làm từ rất nhiều chất liệu như gốm sứ, mạ vàng, ngọc thạch, nhưng tượng làm từ đồng nguyên chất được coi là linh nghiệm nhất. Thứ tự bày tượng phù hợp nhất: tượng ông Phúc đặt ở giữa, ông Lộc đặt bên trái và ông Thọ nằm ở bên phải.

It nguoi biet nen trung bay tuong Phat nao trong nha hinh anh 2
Tượng Phật Phúc Lộc Thọ

Tượng ba ông Phúc Lộc Thọ nên bày ở một trong hai vị trí bên cạnh cửa chính để mang Tam Tinh vào nhà. Khi đặt tượng, mặt tượng không được hướng ra ngoài, chỉ có thể hướng vào trong phòng. Nếu như mặt hướng vào trong tức là rước tiền tài đến cho người trong nhà, nếu như hướng ra ngoài tức là tiễn tiền tài ra ngoài.

Tượng Phật bà Quan Âm
 
Nhiều gia chủ lựa chọn tượng Phật bà Quan Thế Âm Bồ Tát nhằm cầu mong sự bình yên, cứu rỗi khi gặp khó khăn và mang đến cho gia đình nhiều điều may mắn. Tượng hoặc tranh ảnh Phật bà nên được dặt ở vị trí trang nghiêm, tốt nhất nên ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách.
 
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

Theo
Khám phá
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quy tắc bất di bất dịch khi trưng bày tượng Phật trong nhà

Chùa Bà Già - Hà Nội

Chùa Bà Già là một công trình kiến trúc Phật giáo, có niên đại hơn 1.000 năm. Được nhiều thế hệ người dân làng Phú Gia xây dựng, giữ gìn và bồi đắp
Chùa Bà Già - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Bà Già tại phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội là một công trình kiến trúc Phật giáo, có niên đại hơn 1.000 năm. Được nhiều thế hệ người dân làng Phú Gia xây dựng, giữ gìn và bồi đắp, ngôi chùa đã trở thành một địa chỉ văn hóa – du lịch của Hà Nội ngày nay.

Chùa Bà Già có một lai lịch khá cổ. Nguyên, Phú Gia (tên nôm là làng Gạ) là nơi các vua nhà Trần định cư. Một bộ phận người Chăm được đưa từ phía nam ra đã dựng một ngôi chùa mà sử Toàn thư đã phiên âm là Đa-da-li. Thái úy Trần Nhật Duật (1254-1330) thường tới đây đàm đạo về Phật giáo với vị sư người Chăm trụ trì. Có thể cái tên Bà Già là từ Đa-da-li mà ra. Nay trong chùa còn bức hoành phi cổ khắc ba chữ “Bà Già tự”. Ngôi chùa toạ trên một khuôn viên không rộng nhưng cây cối xum xuê, không khí trong lành, yên tĩnh. Sáng sáng tiếng chim hót trên cây hồng xiêm trước sân làm cho ngôi chùa càng thêm gần gũi.

Chùa Bà Già nằm ngay bên bờ sông Hồng, nay thuộc phường Phú Thượng (Tây Hồ), là một công trình kiến trúc Phật giáo có niên đại sớm.Ngôi chùa toạ trên một khuôn viên không rộng nhưng cây cối xum xuê, không khí trong lành, yên tĩnh. Sáng sáng tiếng chim hót trên cây hồng xiêm trước sân làm cho ngôi chùa càng thêm gần gũi. Sở dĩ chùa mang tên “Bà Già” bởi trên mảnh đất này, xưa lắm rồi, có ngôi chùa An Dưỡng tọa lạc. Do bị hư hại nặng, có hai chị em gái chuyên nghề buôn muối, đã phát tâm bồ đề bỏ tiền ra xây dựng, tu sửa lại chùa, tạc tượng Phật, dựng gác chuông đồng. Khi hai bà mất đi, để tỏ lòng biết ơn, dân trong vùng đã đúc tượng hai bà và rước vào chùa thờ, gọi là tượng hậu Phật, từ đó chùa được gọi là chùa Bà Già.

Được tận mắt ngắm hai pho tượng Bà Già mới thấy được nét đẹp, nét hồn nhiên với phong cách dung dị, trong tư thế ngồi rất đời thường của người phụ nữ Hà Nội xưa. Pho tượng bà chị được đúc to hơn, trong tư thế ngồi một chân gập, một chân chống, tay phải úp lên đầu gối, tay trái để vào lòng. Ngồi bên cạnh là bà em, ngồi xếp bằng, cả hai tay đều để trên lòng, trong tư thế một người mẹ luôn cầu mong cho mọi người an khang thịnh vượng, sẵn mở lòng nhân ái. Đặc biệt là khuôn mặt của hai bà tròn trịa, hiền lành, phúc hậu, nhưng không giấu nỗi suy tư. Từ thời Lê, chùa Bà Già đã có qui mô bề thế và nổi tiếng kinh thành Thăng Long xưa. Đã có câu ca rằng: “Thứ nhất chùa Bà Đá” (quận Hoàn Kiếm), “Thứ nhì chùa Bà Đinh” (chùa Châu Lâm, phường Thuỵ Khuê), “Thứ ba chùa Bà Già, (phường Phú Thượng).

Chùa được xây dựng trên một khu đất rộng, thoáng gọi là “Quy độ đầu”, thế đất hình con rùa đỗ ở phía Bắc của làng. Đây là điểm di tích khá hấp dẫn trong quần thể di tích chùa Kim Liên – Phủ Tây Hồ – Đình Vẽ – Đình Chèm. Căn cứ theo tấm bia “Bà Già tự bi ký” dựng tại chùa cho biết, chùa được trùng tu lớn vào tiết xuân năm Dương Hoà 2 (1636) và bài văn trên chuông “Trùng tạo chú hồng Chung Bà Già Tự” niên hiệu Chính Hoà 16 (1665) cho thấy, chùa Bà Già được xây dựng trước năm 1636, khoảng thời tiền Lê.

Chùa có bố cục mặt bằng kiểu chữ “công”. Từ ngoài vào chùa có các công trình kiến trúc: Cổng Tam quan, Nhà tiền đường, nhà thiên hương, thượng điện, nhà thờ tổ, thờ mẫu và các công trình kiến trúc được bố cục hài hoà trong một không gian rộng thoáng, những cây xanh toả bóng bốn mùa tạo thêm vẻ u tịch tĩnh lặng nơi cửa thiền. Tam quan, gác chuông của chùa làm theo kiểu nhà mái chồng diêm, hai tầng tám mái theo lối kiến trúc truyền thống. Nhà tiền đường gồm 7 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, bên trong bộ khung có tám bộ vì kiểu “chồng giường-giá chiêng” kết hợp vì xà nách bẩy hiên.

Toà thượng điện ba gian nối với toà tiền đường tạo thành kết cầu kiểu chữ đinh, thượng điện có kết cấu kiểu dáng đơn giản vì chồng giường nhưng toàn bộ vì làm bằng gỗ lim bền chắc. Hiện nay chùa còn bảo lưu bộ sưu tập di vật khá phong phú, trong đó có nhiều di vật có giá trị đặc sắc về nghệ thuật như tấm bia hậu Phật có niên đại Dương Hoà 2 (1636), hai pho tượng phỗng đá mang phong cách thế kỷ thứ 18, Một quả chuông đồng mang niên hiệu Chính Hoà 16 (1665), bộ tượng tròn gồm 46 pho tượng thuộc nghệ thuật thế kỷ thứ 18 -19, hai hương án thiếp vàng chạm khắc hình tứ quí, tứ linh, một đôi nghê và hai hạc thờ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 17, cùng nhiều di vật khác như bát hương đồng, hoành phi, cuốn thư …

quang cảnh chùa
Quang cảnh chùa

Chùa Bà Già là một vốn cổ quí giá cần được trân trọng và bảo tồn. Nhằm tôn vinh những giá trị văn hoá cũng như tín ngưỡng sâu sắc mà chùa Bà Già để lại cho đến ngày nay, các nhà quản lý văn hóa đã công nhận và xếp bằng Di tích lịch sử văn hoá cho chùa từ năm 1996. Với hệ thống giáo lý khuyến thiện trừ ác, chùa là trung tâm sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng dân cư, một địa chỉ văn hoá khá hấp dẫn về nội dung lịch sử và vẻ đẹp cổ kính thâm nghiêm với cái tên khá độc đáo – chùa Bà Già, góp vào nền văn hoá ngàn năm Thăng Long- Hà Nội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bà Già - Hà Nội

Sao Thai Phụ

Hành: Kim Loại: Quý Tinh Đặc Tính: Bằng sắc, ấn tín, quý hiển Tên gọi tắt thường gặp: Thai Phụ Tinh. Thuộc sao bộ đôi Thai Phụ và...
Sao Thai Phụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: KimLoại: Quý TinhĐặc Tính: Bằng sắc, ấn tín, quý hiểnTên gọi tắt thường gặp: Thai
Phụ Tinh. Thuộc sao bộ đôi Thai Phụ và Phong Cáo. Gọi tắt là bộ Thai Cáo.

Ý Nghĩa Thai Phụ Ở Cung Mệnh
Thai Phụ ở Mệnh là người có danh chức, học hành tốt, có sự đỗ đạt cao, thăng tiến về công danh, có bằng cấp, huy chương, bằng khen.
Lợi ích cho việc thi cử, cầu danh vì sao này chủ về bằng sắc, huy chương, công danh.
Ý Nghĩa Thai Phụ Ở Cung Quan Lộc
Phong Cáo, Thai Phụ đi chung mới đủ mạnh, và nhất định là đi cùng với cát tinh càng khác.

  • Phong Cáo, Thai Phụ, Xương Khúc, Khoa Quyền hay.
  • Phong Cáo, Thai Phụ, Âm Dương sáng sủa hoặc.
  • Phong Cáo Thai Phụ, Tướng Ấn: Rất quí hiển, được trọng dụng, có huy chương, tưởng lục.
Ý Nghĩa Thai Phụ Ở Cung Điền Trạch
  • Phong Cáo, Ấn, Thai Phụ: Được ban cấp điền sản ăn lộc, hay khẩn hoang.
Thai Phụ Khi Vào Các Hạn
  • Cũng có nghĩa như đắc tài, đắc danh, được tiếng khen, có huy chương.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thai Phụ

Sao Hoa Cái

Hành: Kim Loại: Cát Tinh Đặc Tính: Quyền uy, quý hiển Tên gọi tắt thường gặp: Cái
Sao Hoa Cái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là bộ Long Phượng Hổ Cái.

Ý Nghĩa Hoa Cái Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Người có bề ngoài sang trọng, đài các, thanh cao, được nhiều người yêu thích.
Công Danh Phúc Thọ
Hoa Cái chủ về phú quý, sự ngưỡng mộ, sự trọng vọng của người đời. Đây là trường hợp Hoa Cái đi với Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ thành bộ sao gọi là "Tứ Linh", chủ về công danh, chức vị, uy quyền.
Ý Nghĩa Hoa Cái Và Các Sao Khác

  • Hoa Cái gặp Tấu Thư là người thanh cao, lịch lãm, có mốt về ăn mặc, có năng khiếu về trình diễn; người biết thưởng thức ái tình một cách sành điệu.

  • Tiền Cái, Hậu Mã. Mệnh giáp Hoa Cái phía trước, Thiên Mã phía sau chủ về phú quý, sang cả.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Hoa Cái

Bát tự luận mệnh: Bạn muốn giàu và hạnh phúc?

Ai cũng muốn mình phát tài, nhưng cùng với việc phát đại tài, sẽ mất đi rất nhiều thứ. Đây là chân lý của Bát tự mệnh lý. Tất cả mọi người vợ trong thiên hạ đều muốn chồng mình phát đạt kiếm được nhiều tiền, nhưng lại không nghĩ rằng, sau khi chồng phát đạt sẽ cặp bồ, có các hành động lừa dối, phản bội.
Bát tự luận mệnh: Bạn muốn giàu và hạnh phúc?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nếu giải thích theo Bát tự mệnh lý, điều này là có căn cứ, vì trong Bát tự của người đàn ông, tài (tiền của) và thê (vợ) thuộc cùng một cung vị, cùng một tinh vận. Đặc biệt chính thê (vợ chính thức) cũng là Chính Tài, mà Chính tài là tiền kiếm được nhờ sức lao động, loại Tài này sẽ không làm ảnh hưởng tìn cảm vợ chồng. Nhưng nếu như người chồng Bát tự mệnh lý có Thiên tài, mà Thiên tài trong mệnh lý chính là tài lộc kiếm được khổng lồ một cách dễ dàng (dân gian hay gọi là vô mánh, trúng quả) và Thiên tài cũng đại diện cho cung thê thiếp (vợ bé, bồ bịch). Mặc dù kiếm tiền rất dễ dàng, nhưng trong lúc người vợ đang vui vẻ với những món tiền khổng lồ do chồng mang về, người chồng đã có vợ bé lúc nào không hay. 

Đây là nguyên lý cuộc đời được thể hiện qua Bát tự mệnh lý, nhưng các nhà thuật số thường chỉ theo đuổi tính chính xác của Bát tự mệnh lý, mà coi nhẹ tính triết lý. Thật ra Bát tự là một bộ môn triết lý về cuộc đời, qua thao tác dự đoán, sẽ tiết lộ được những bí mật của đời người. Tiền có nhiều đến mấy thì cũng chỉ là những con số mà thôi. Nên tiền nhân có câu: “ Vạn khoảnh lương điền nhất uyển phạn, thiên gian hoa hạ nhất trang sàng” nghĩa là Vạn khoảnh ruộng tốt ngày ăn một bát, nghìn gian nhà rộng đêm ngủ một giường. Theo đuổi tài phú quá mức, sẽ mất đi tình thương của mẹ và khả năng sáng tạo. Bằng học thuật bát tự mệnh lý, chúng ta có thể giải thích rõ vì sao khi có nhiều tài phú con người sẽ mất đi rất nhiều thứ như tình cảm, sức sáng tạo, đạo đức, phẩm hạnh.
Ví dụ sau đây để thấy được sự huyền diệu của Bát tự mệnh lý và cách hóa giải, cải thiện cho rất nhiều những tình huống của con người. Nếu một người là Giáp mộc, thì Thổ là tài, Thổ quá nhiều sẽ khắc Thủy tiết chế Hỏa, mà Thủy là Mẹ và Hỏa là tài hoa sáng tạo, tự nhiên sẽ mất đi cân bằng trên quan hệ nhân luân. Tài nhiều thì vợ nhiều và đào hoa cũng nhiều, đây là điều phiền não của những người giàu, trừ khi họ có thân cường vượng để lấy lại cân bằng. Ngoài ra, tài có thể phá Ấn tinh là Mẹ, là đạo đức, phẩm hạnh. Vì vậy khi giàu có phát đạt tới một mức độ nào đó, nếu là người thông minh sẽ làm từ thiện, hoặc chuyển bớt tài phú cho người thân, con cháu, thực ra đây chính là phương pháp cứu mạng, cũng là phương pháp tự bảo vệ trong Bát tự mệnh lý. Nếu như không tự bảo vệ, chắc chắn sẽ mất đi rất nhiều thứ. Tài nhiều con cái sẽ bất hiếu hoặc ngu đần, vì Thổ sinh Kim là con cái, Thổ nhiều, Kim sẽ bị chôn vùi hoặc ngưng trệ, nếu như Bát tự không có Thủy để thông quan, con cái sẽ đần độn bất hiếu, hoặc không thể giao tiếp được với cha. Đây đã trở thành bi kịch của cá nhà giàu. 
Bạn sẽ thấy rất ngạc nhiên khi hiểu được vì sao rất nhiều Tỷ phú như Tỷ phú Bill Gates, Tỷ phú Warren Buffett, Tỷ phú Lý Gia Thành,…. đã có đóng góp rất lớn cho công tác từ thiện, xây dựng trường học, y tế, giáo dục, nghiên cứu,…Nếu lý giải theo Phật pháp “Buông bỏ thì còn, Giữ chặt thì mất”.

Trích từ bài viết "Bất hạnh của người phát đại tài"
Đại sư LiKuiMing

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát tự luận mệnh: Bạn muốn giàu và hạnh phúc?

Những điều lưu ý khi luận lá số Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi

Tại đây dễ gặp các cách giáp hay. Đăc biệt giáp XƯƠNG KHÚC trong trường hợp nầy có câu: “XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Thực chất đây là bộ ÂM LƯƠNG gia thêm THÁI DƯƠNG hình thành tại đây bộ NHẬT NGUYỆT
Những điều lưu ý khi luận lá số Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NHẬN XÉT:

Tại đây dễ gặp các cách giáp hay. Đăc biệt giáp XƯƠNG KHÚC trong trường hợp nầy có câu: “XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Thực chất đây là bộ ÂM LƯƠNG gia thêm THÁI DƯƠNG hình thành tại đây bộ NHẬT NGUYỆT. NHẬT NGUYỆT tại Sửu ví như buổi bình minh Âm dần tàng, Dương bắt đầu sáng. Tại Mùi dương sắp tàn âm sắp vượng. Trong nầy có chứa đựng cách DƯƠNG LƯƠNG nhưng LƯƠNG ở đây không may mắn lắm. Nhưng Dương Lương tại Sửu vẫn còn hy vọng đẹp. Nhưng nói chung tùy thuộc Hung, Cát tinh kết luận mà thôi.
Bộ NHẬT NGUYỆT khi xấu là ÂM DƯƠNG điên đảo, ÂM DƯƠNG điên đảo là sao? Là phụ nữ có khi lấn quyền nam giới.

 LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU


BÌNH MINH và HOÀNG HÔN:
ÂM DƯƠNG tại Sửu.
Hình ảnh. Đây là nơi giao hòa của Âm và Dương tại Sửu thiên về âm tàn, dương sắp thịnh, buổi bình minh đang đến hoặc sắp đến, lợi cho DƯƠNG hơn là ÂM. Tức là lợi cho nam hơn là nữ. Lợi cho hành bản MỆNH thiên về Hỏa như Thổ, Mộc. Vì THÁI DƯƠNG thuộc hành Hỏa. Lợi cho sự công khai hơn âm thầm. Lợi cho công việc thiên về ban ngày hơn ban đêm…
ÂM ƯƠNG tại Mùi. 
Là cảnh chiều tà, là hoàng hôn buông xuống. Dương tàn Âm sắp thịnh hứa hẹn một đêm dài, đêm vui hay đêm buồn tùy từng trường hợp hợp ta mới biết được. Lợi Âm hơn Dương, lợi nữ hơn nam, lợi cho hành Thủy hoặc tương sinh như Kim, Thổ. Vì THÁI ÂM thuộc hành thủy. Lợi cho sự âm thầm hơn là công khai. Lợi cho công việc thiên về ban đêm hơn ban ngày…
ÂM DƯƠNG HÒA HỢP.
Đây là cảnh Âm Dương giao hòa của trời và trăng, của ngày và đêm, của trai và gái nếu như không có Hung Kỵ Hình tinh cảnh ‘bình minh’ báo hiệu một ngày lành (THIÊN LƯƠNG) và ‘hoàng hôn’ báo hiệu một đêm an vui bắt đầu. Chúng ta thường chúc nhau một ngày may mắn là đây. (Dương Lương: một ngày may mắn, một ngày tốt lành).


NGÀY VÀ ĐÊM:
Vất vả từ sáng sớm đến nửa đêm, một nắng hai sương. Buôn bán cả ngày lẩn đêm
Ngày chẳng yên đêm chẳng vui... tuỳ thuộc hung cát tinh để quyết đoán.
Tốt là ngày đêm yên vui. Xấu là khổ, buồn, cực cả ngày lẫn đêm. Đêm còn nghe tiếng khóc.
Có người công việc làm ban ngày đêm về nghĩ ngơi. Có người công việc khi đêm xuống, nhưng cũng có người đi từ khi (hoặc làm từ khi) còn sơm tinh mơ và trở về hoặc thôi làm khi đêm đã xuống. Thấy được cái cảnh một nắng 2 sương (sương mai và sương đêm). Nhưng cũng có thể là niềm vui như có nhiều thu nhập lớn, đáng buồn có người vất vả thì nhiều hưởng chẳng bao nhiêu.
Bộ ÂM DƯƠNG cho thấy cái cảnh suốt ngày, suốt đêm có thể là cảnh đầu tắt mặt tối (nắng trên đầu đã tắt, mặt tối sầm lại) cảnh suốt ngày ăn chơi đàn đúm, cờ bạc rượu chè, cảnh các chiến binh phải suốt ngày canh gác chiến đấu…. tùy hình ảnh ta nhìn thấy sao ta được quyền mô tả vậy. Nó học hành viết lách suốt đêm ngày, đó là hình ảnh đẹp.


NGÀY và THÁNG:
* Ngày tháng trôi qua, vui buồn, vinh nhục… Đây là yếu tố giúp ta đoán được thời gian. Thái Âm còn chủ tháng, THÁI DƯƠNG chủ ngày . Nếu có THÁI TUẾ chủ năm ta có bộ tam Thái. Từ những yếu tố nầy trình độ cao hơn ta có thể đoán được bao nhiêu năm tháng hạnh phúc hay tai họa, đau ốm bao nhiêu lâu thì khỏi… Chỉ cần bạn nhớ cho ngày và tháng là tốt rồi. Như: Những ngày tháng qua đi khi ta còn ngồi lại… Ngày và Đêm là những đề tài muôn thuở được khai thác nhiều, như thương như tiếc những ngày tháng trôi qua mà chẳng làm được chuyện gì có ích cho gia đình hay xã hội. Để khi cái chết cận kề thấy tiếc nuối.
Chính những người có bộ Âm Dương (không phân biệt Âm Dương Sửu Mùi, Âm Dương Tỵ Dậu, Âm Dương Thìn Tuất, Âm Dương Mão Hợi) dễ cảm xúc về ngày tháng, về đêm và ngày, về cái vất vả của ngày, cái buồn vương về đêm. Như: Thương ai về ngõ tối. Sương rơi ướt đôi môi. Thương ai buồn kiếp người. Lạnh lùng ánh sao rơi. Thương ai về ngõ tối. Bao nhiêu lá rơi rơi. Thương ai cười không nói. Ngập ngừng lá hôn vai.
Buồn kiếp người: Tang Kiếp. Lạnh lùng ánh sao rơi (LINH TINH khi xấu là vì sao rụng, là chiếc lá rơi rơi). Cười không nói là THIÊN LƯƠNG nông cạn, nói cũng chẳng ích gì thâm sâu để làm chi. Kẻ bán người mua thế đủ rồi. Đó là hình ảnh buồn do TCS vẽ ra trong đầu, hoặc chính là hình ảnh thấy trong vô thức lá số TỬ VI của ông ta. THÁI ÂM + TANG KIẾP+ LINH. Người đàn bà của TCS. Và thương ai là bộ HÀ TƯỚNG QUÂN nằm ở đó.
Khi ta dùng đến ngày… tháng … năm … tức là lúc ta có việc quan trọng mới dùng đến ngày tháng năm. Ví dụ ngày…tháng… năm Kỷ Dậu. Em ơi! Từ mặt trận P.T. anh viết vội thư này gởi về em… Từ đây nếu hỏa khí (Hỏa Linh Kình Đà) là những ngày khói lửa chiến tranh, nếu hòa bình là những ngày vất vả vì lịnh lạc khẩn cấp không phải những ngày tháng êm đềm luôn luôn có chuyện khẩn… Nếu có KHÔNG KIẾP là ngày tháng Không May… Tùy theo cái ta nhìn thấy mô tả nó một cách trung thực khi ta có dữ liệu sơ sở. Nếu không lấy gì mô tả, có chăng là nói bậy tùy hứng mà thôi, may nhờ rủi chịu, đúng sai không biết.


NGÀY LÀNH THÁNG TỐT
Âm Dương ngộ Lương là ngày lành tháng tốt (yếu tố này áp dụng cho tất cả cách ÂM DƯƠNG có LƯƠNG) nhưng ở vị trí này THIÊN LƯƠNG không may mắn lắm (đừng hiểu lầm là lạc hãm, hóa là bất lương. Lương cần đi với Phúc là phúc duyên, đi với cơ là cơ duyên. Hạnh Phúc đâu phải chỉ cơm ăn áo mặc cần có tiếng nói trẻ con THIÊN ĐỒNG, cần có căn nhà THIÊN CƠ cơ ngơi… như vậy phải hiểu không may mắn lắm là như vậy… Bộ ÂM DƯƠNG LƯƠNG chưa hoàn chỉnh. Ý Bửu Đình nói là như vậy đấy. Nếu bất lương hay không thì có các sao KHÔNG KIẾP KỴ HÌNH nó nói. Nói một cách dễ hiểu nhất.
Chính tinh là chủ từ, bàng tinh là túc từ. Tôi muốn là THAM LANG, tôi muốn ăn roi là THAM HÌNH, Tôi muốn yêu thương là TƯỚNG QUÂN, Tôi muốn phục vụ cho Bửu Đình. THAM PHỤC BINH + Bửu Đình. Quá dễ phải không. Phục vụ cho cái xấu + KHÔNG KIẾP vào. Đúng không? Bởi thế người viết đã từng viết những lá số đến 50 trang vở học trò là bình thường. Cứ tặng Đình một sổ carnet một cây bút là thấy khổ rồi, sẽ chết vì chấm TỬ VI. Đâu phải lá số nào cũng dễ nói, né qua tránh lại thiếu trung thực.
Ngày lành tháng tốt là một yếu tố quan trọng trong xây dựng gia đình, nhà cửa… và sinh ra đời được bộ NHẬT NGUYỆT như Sửu Mùi và các cách NHẬT NGUYỆT khác có THIÊN LƯƠNG mà không có Sát Tinh Kỵ Hình được xem như là sinh vào ngày lành tháng tốt. Từ đó có ngày Sinh Nhật, cao hơn là Đản Sinh của Phật, Giáng Sinh của Chúa. Nếu ta sinh vào những tháng ngày khói lửa mặc dù không có cách đó tại MỆNH. Sau nầy có dịp chúng ta sẽ nếm khói lửa thời chiến, khói lửa thời bình, khói lửa ngay chính trong căn nhà chúng ta. Chứ đừng nói rằng, làm gì có chiến tranh trong khi cả thế giới nói chung đang hòa bình. Chiến tranh ngay trong nhà của bạn. Với những ngày không yên đêm không vui, đó là nhẹ nhàng. Ngày hồi hộp đêm lo sợ, chết đi còn sướng hơn. Đôi khi sự thật rất cay đắng. Tốt nhất tự đoán số cho mình là hay nhất. Từ đó, nên TRIỆT đi, xóa đi những hình khắc bắt bẻ, những đòi hỏi thái quá, những ghen tị những cái mình không thể có. Mà người thân mình cũng không thể thỏa mãn cho mình được. Hiểu biết TỬ VI coi như đã đi tu rồi, mĩm cười với HÓA KỴ, vẫy tay với KÌNH DƯƠNG, sẵn sàng vui với ĐÀ LA một đoạn, HỎA TINH ta chọn nhiệt tình, LINH TINH ta chọn sáng suốt, KHÔNG KIẾP ta lấy sợ nạn mà không làm chứ đừng không ngờ gặp nạn. Như vậy là cải số với trời chứ không cãi cọ với người.
TỬ VI Ứng Dụng đem lại cho bạn niềm an vui với số phận. Và Số (THIÊN CƠ) một nơi Phận (TỬ VI) một ngã, số phận gặp nhau là số phận đã an bài. Việc làm hôm nay là việc làm trong định số của người viết. Một người có ngôi TỬ VI TẤU THƯ tại MỆNH hạn tại CƠ ĐỒNG BINH TƯỚNG.


NAM NỮ, ĐÀN ÔNG, ĐÀN BÀ, TRAI GÁI:
Đây là vị trí cả nam lẩn nữ giao hội với nhau với THIÊN LƯƠNG là phơi bày. Quan trọng là phơi bày cái gì? Phơi bày tâm sự. Đó là hình ảnh bên anh đọc sách bên nàng quay tơ, bên sông em giặt lụa trên cầu anh đứng trông, hay bên hiên anh thơ thẩn trong song em lặng nhìn… và sau đó THIÊN LƯƠNG phơi bày tâm sự, cũng từ đó lại chọn ngày lành tháng tốt để anh đến nhà em, để trình bày (chứ không phơi bày nhé) nếu như không có bọn KỴ ĐÀ cản mũi… cứ thế khi nên vợ nên chồng phơi bày cái gì sau đó chắc bạn thừa hiểu, có điều đáng nói là Đình không bày nhưng bạn lại làm rất tốt, cái Đình bày cho lại phản đối?
Nhưng vậy cách ÂM DƯƠNG LƯƠNG có hàm ý dâm tính ở bên trong, tùy dâm tinh tụ tập nhiều hay ít để luận đoán.


GÁI TRAI và LƯƠNG THỰC, LƯƠNG TIỀN.
Khi nên vợ nên chồng vấn đề cái ăn trở nên bức thiết. Tại đây ta chỉ có lương thực chứ chưa phải là cách Đồng Lương là lương tiền (từ ruộng đồng sinh ra lương thực chuyển qua lương tiền) Vì thế bị đánh giá là kém hay như đã giải thích ở trên. Cho nên dẫu sao có THIÊN LƯƠNG là may mắn rồi. Nếu như không có nó thì sao?


GÁI TRAI và một mái nhà.
Tại đây ta chỉ thấy đôi trai gái và một mái nhà đó là THIÊN LƯƠNG (chủ nóc nhà) THÁI ÂM chủ thềm trong, THÁI DƯƠNG chủ thềm ngoài. Nóc và thềm thôi chư đâu phải là cơ ngơi như THIÊN CƠ vì thế khiếm khuyết về nhà cửa chưa hoàn chỉnh nhưng có THIÊN LƯƠNG này cũng có bóng mát cuộc đời, dù là không cao sang.


TIẾNG ĐỘNG DẬY LÊN. ÂM THANH DẬY LÊN:
THÁI ÂM chủ tiếng động. THÁI DƯƠNG chủ dậy lên, phát lên. Tiếng động phát ra có thể lời văn hay ý tốt, là tiếng nhạc tiếng đàn, lời ca tiếng hát nếu đi với XƯƠNG KHÚC và bây giờ nếu bạn còn thắc không khi có người nói: “ÂM DƯƠNG hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực” chỉ câu này thôi là hay biết bao nhiêu. Ngần ấy thôi là thấy có công danh, có nghề nghiệp có niềm vui. Vậy thì bộ ÂM DƯƠNG rất cần gặp THANH LONG chủ tiếng nói, hoặc HỒNG LOAN ‘la to’ tiếng nói vui mừng đi với HỈ HỒNG ĐÀO nhưng có thể lời than, tiếng khóc, chưởi rủa, bôi nhọ khi đi với thị phi tinh, sầu tinh… từ đó hướng luận đoán nhiều vô số kể.
Âm Dương Lương là tiếng động phát lên bày tỏ ra, phơi bày ra. Chúng ta chưa biết rõ họ dùng tiếng động đó để làm gì, tín hiệu vui hay cầu cứu SOS. Nếu là tiếng nói. Ồ nói năng có văn hóa nhỉ, nghe được đấy. Là nhờ bởi XƯƠNG KHÚC. Nghe vui tai là đi với ĐÀO HỒNG HỈ, nghe như trăm oán nghìn sầu là đi với TANG KHỐC ĐƯỜNG LA. Sao mà nghe vô văn hóa, chưởi bới… Nhìn sao nói vậy, nghe sao viết vậy.


MỘT SAO CHỦ ẨN, MỘT SAO CHỦ HIỆN, HIDE và SHOW:
Nào chúng ta vào Tools nhấn Foder Option muốn ẩn thư mục nào ta chon hide. Đúng chưa. Biết rồi khổ lắm. Hà hà…
Ẩn là THÁI ÂM tên thiệt của y là ‘âm thầm thái quá’ và THÁI DƯƠNG là ‘công khai thái quá’. Khi cần ẩn là ẩn khi cần hiện là hiện, biến hóa vô lường. Khi ta có 2 yếu tố nầy khi vui ta hiện khi buồn ta bay. Khi nguy biến phải thoát ngay. Nếu không gặp chuyện đắng cay vô cùng.
Thoắt ẩn, thoắt hiện là bộ sao nầy. Như trong vi tính có chức năng ‘Hide’. Tốt là khi cần ẩn thì ẩn, khi cần hiện lại hiện ra. Xấu là khi cần ẩn lại hiện, khi cần hiện ra lại ẩn. Nhận xét chung vừa ẩn, vừa hiện là một yếu tố rất hay. Ví dụ: Như cô ca sĩ hát xong lui vào sân khấu (chẳng lê đứng hát hoài), như một chiến binh khi cần phục kích phải ẩn núp kín đáo, khi cần xung phong lại hiện ra (khiến địch quân khiếp vía, nếu núp nữa coi cũng kỳ).
Và đến đây bạn thấy đó không phải vô cớ Bửu Đình lại phân biệt nhóm sao ẩn hiện. Vì từ đó chúng ta đến THÁI ÂM đôi khi là sao tốt đẹp nhưng thật ra nó không lợi cho ta là bao nhiêu, trong khi ta ưa dương, ưa lộ, ưa phơi, ưa khoe. 
Vậy thì THÁI ÂM thuộc nhóm ẩn như TỬ VI THIÊN PHỦ ĐÀ TUẦN. 
THÁI DƯƠNG thuộc nhóm lộ THIÊN LƯƠNG TRIỆT KÌNH. Và xem tiếp càng về sau càng hấp dẫn lôi cuốn không chán phèo. Có thế mới là kỳ lạ.


BÓNG TỐI và̀ ÁNH SÁNG. ĐEN TỐI, MỜ ÁM và RÕ RÀNG, SÁNG SỦA:
Kẻ trong bóng tối, người ngoài ánh sáng là đây. Khi cần thì khuất vào bóng tối, khi cần xuất hiện ra ngoài ánh sáng. Cũng như khi cần tắt đèn, khi cần mở đèn. Khi có 2 yếu tố nầy cũng có thể rất nguy hiểm vì có thể làm những chuyện mờ ám, vì thế nó luôn luôn nhị hợp với một sao thủ đoạn là VŨ KHÚC. Đọc tiếp phần dưới ta sẽ rõ hơn.


ÂM THẦM VÀ CÔNG KHAI:
THÁI ÂM chủ âm thầm, lén lút, mờ ám 
THÁI DƯƠNG chủ công khai, hợp pháp, minh bạch rõ ràng
Ví dụ: Về mặt công khai đó là công ty bay (công ty hoá chất, vận tải, cửa hàng ăn uống...) nhưng dằng sau đó âm thầm mua bán (vận chuyển, trao đổi...) ma tuý (vũ khí, tiền giả...). Hoặc là nơi chứa chấp (cung cấp...) bọn khủng bô ́(gián điệp, đĩ điếm..).
Đây là bộ sao mang 2 bộ mặt khác nhau. Một bộ mặt hợp pháp, công khai một bộ mặt xã hội đen, buôn lậu, thế lực chống đối hoặc âm thầm, lén lút, mờ ám làm chuyện bất chính. Xung đột mâu thuẩn một bên mờ ám, lén lút, âm thầm và một bên công khai rõ ràng minh bạch như mặt trời với mặt trăng, như ban ngày không thể gặp ban đêm.
Nhưng dẫu sao xét cho cùng, đây cũng là một yếu tố rất hay. Có những cái ta cần âm thầm, có những cái ta cần công khai. Cái quan trọng là âm thầm cái gì? Công khai cái chi?. Đối với người, ta có thể âm thầm thương nhưng công khai la mắng, trong kinh doanh ta cũng có những cái âm thầm ngay nhân viên cũng không được tiết lộ, còn hàng hóa tất nhiên cần được công khai rồi. Trong Quân Sự, Chính Trị yếu tố nầy càng mạnh mẽ, trong âm thầm làm một đường, nhưng công khai làm một nẻo...
Đây là bộ sao phù hợp với một số người, nhưng bất bình cho một số khác. Điển hình là những người thuần dương (THÁI DƯƠNG) như THÁI DƯƠNG tại Tí Ngọ Dần Thân.
Kết luận là kết quả của Sát tinh có hay không? ĐÀO KỴ KIẾP có hay không? Có tạo ra tai họa cho người không?
Tôi âm thầm học tập nghiên cứu. Nay công khai tuyên bố là:…con vi khuẩn D35 có thể chữa bịnh cho người lãnh cảm.
Con âm thầm theo dõi người ấy lâu lắm rồi. Cô ấy là người rất tốt. Nay con công khai đến đây xin phép …
Công khai đưa người cửa trước, âm thầm rước người cửa sau…
Vầy thì cái âm thầm thuộc dạng âm mưu sợ gì? Sợ bại lộ.
Bây giờ giải thích với bạn rằng: Bộ NHẬT NGUYỆT rất khoái bộ TANG HƯ KHÁCH và rất kỵ TRIỆT đáo đầu.
Âm thầm và công khai tốt xấu tùy mục đích.
Âm thầm để một mai dương lên, vươn lên là đặc tính của bộ sao nầy. Một người có bộ Âm Dương tối tăm về già cuộc đời càng sáng sủa. Thuở trẻ thường hay chịu cảnh tối tăm.


TAI và MẮT. NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY.
Các sách TỬ VI thường cho là Bộ ÂM DƯƠNG là đôi mắt, điều nầy không có gì bàn cãi. Có chăng là THÁI ÂM còn đãm nhiệm sự nghe. THÁI DƯƠNG đảm nhiệm sự thấy. 5 ngũ quan là : Tai mắt mũi miệng và tay chân. Tay chân ta có THIÊN MÃ đúng rồi, CỰ MÔN là cái miệng ăn nói. Cái mũi, trời ơi! Cái mũi là cái nghệ sỹ… chưa bao giờ đề cập hoặc đề cập một cách kín đáo khó nhận biết. Nào là: Anh nhớ mắt môi em mĩm cười… má em gầy, vai em gầy guộc từng sợi nhỏ (là cái chi?), dài tay em mấy thuở mắt xanh sao. Có ai nhớ cái mũi đâu mà nữ giới đi sửa mũi làm gì tốn tiền vậy chứ. Nhưng Vua Tự Đức viết:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng.
Xếp tà y lại để dành hơi.
Và cũng chỉ nói cái mũi của mình thôi. Người có văn hóa đập phá cũng có văn hóa. Qua Trần Thiện Thanh là: Gương xưa còn đó nhưng bóng người nào thấy đâu. Áo xưa còn đó nhưng mùi hương phai nhạt rồi… trong ‘Từ đó em buồn’
Và cái mũi là ngôi sao THAM LANG. Đập phá để ngửi (xin cám ơn vua Tự Đức)
* Là thấy tận mắt, là nghe tận tai. Những điều ấy đem đi tố cáo với người khác trở thành 'tai mắt' cho người, có khi là cho địch, có lúc lại đem loan truyền… Cũng có khi không thấy tận mắt, chẳng nghe tận tai nhưng quả quyết là tai nghe mắt thấy.
* Là tai nghe chuyện vui, mắt thấy chuyện mừng. Tai nghe những cái hay, mắt thấy những cái đẹp…
* Cũng là tai nghe mắt thấy những chuyện chướng tai gai mắt, những chuyện không muốn nghe phải nghe, những chuyện không muốn thấy phải nhìn.
* Cũng là tai nghe mắt thấy nhưng tai nghe không tiếp thu, mắt thấy mà không hiểu. Tốt là nghe một hiểu mười, thấy một cái hiểu nhiều cái.
* Có tai như điếc, có mắt như mù, có cũng như không. 
* Tốt là tai thính, mắt sáng. Xấu là tai điếc mắt mù. Có cả bộ môn cho Khoa Tai Mắt Múi Họng.
Theo Nguyễn Du bộ ÂM DƯƠNG là những điều trông thấy.
"Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. "
Lần nữa ta lại thấy giá trị của câu: Âm Dương hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực. Được nghe được xem và được nói về văn học nghệ thuật. 
(So sánh với cái dò xét theo dõi đáng sợ của Liêm Trinh, cái quan sát của THẤT SÁT, xem xét của THIÊN TƯỚNG và THÁI DƯƠNG dương mắt ngó nhưng một hôm THÁI DƯƠNG dương mắt ngó xong rồi cãi nhưng nó không nằm tại đây).


SỐNG DỞ CHẾT DỞ, DỞ SỐNG DỞ CHẾT, ÂM DƯƠNG bàng hoàng:
* Khi xấu bộ sao nầy rơi vào trạng thái dở sống dở chết. Âm chẳng ra người âm, dương chẳng ra người dương, sống cuộc đời thực vật. Cũng như mọi bộ sao khác
Bộ ÂM DƯƠNG cư Sửu cần gặp và kị gặp
CẦN GẶP:
TAM MINH(ĐÀO HỒNG HỈ) xem mục “Tiếng động dậy lên”
“Mệnh cư ĐÀO, HỈ hướng TỬ, DƯƠNG (THÁI DƯƠNG) phú quí khả kì. 
Thân hữu HỒNG, ĐÀO, THAI TOẠ nhi công danh khả tất”
Tức MỆNH có TỬ VI hay THÁI DƯƠNG đi với ĐÀO Vui, Hỉ Mừng phú quý lạ kỳ (Dĩ nhiên không gặp thêm Hung tinh). Thân có 4 sao ĐÀO HỒNG THAI TỌA tất có công danh (ngồi cao la lớn không có công danh sao được)
XƯƠNG KHÚC: mới đắc lực, phú quí vinh hoa. Phú viết: ÂM DƯƠNG hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực.” hoặc Phú quý vinh hoa. Cũng như bộ TỬ PHỦ cần Tả Hữu bộ sao hành động cần người giúp đỡ. Bộ ÂM DƯƠNG đa phương tiện (Multidial) cần đi với bộ Nghệ Thuật XƯƠNG KHÚC .
BÁT TOẠ: Xuất nhập nơi quyền quí. Hợp cách.
“BÁT TOẠ hướng THÁI DƯƠNG thị tụng ư cung cấm’. Hình ảnh người đàn ông ngồi trên đài cao. Đặc biệt sao THÁI DƯƠNG rất ái mộ sao nầy.
KHOA LỘC: “NHẬT NGUYỆT KHOA LỘC Sửu cung định thị công danh. QUÍ ÂN, THAI TOẠ, KHÔI HỒNG. văn tài nguỵ lý xuất xử thành công”. Đi với KHOA LỘC tất thị có công danh (ở đây không thể có đủ bộ 3 sao KHOA QUYỀN LỘC 
TUẦN KHÔNG: “NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi ái ngộ TUẦN KHÔNG. QUÍ ÂN XƯƠNG KHÚC ngoại triều văn tất thượng cách đường quan xuất chính”. Vì Tuần chủ tập trung vào, thu hút vào, nhân vật quan trọng vì văn tài XƯƠNG KHÚC, và bộ QUÍ ÂN chủ ân thưởng vẽ vang. Để giải thích câu phú này cả một loạt tiểu mục để minh chứng. Nếu Âm Dương đắc cách là tiếng nói của một nhân vật quan trọng có văn tài rất vẽ vang, tập trung (tuần) mà nghe.
LỘC TỒN: “THÁI ÂM, VŨ KHÚC, LỘC TỒN đồng. TẢ HỮU tương phùng phú quí ông”
Tức THÁI ÂM + LỘC TỒN + TẢ HỮU, hoặc VŨ KHÚC đi với TỒN TẢ HỮU. Có LỘC TỒN không còn lo lắng bộ KÌNH ĐÀ phức tạp xuất hiện. Bộ LỘC TỒN TẢ HỮU đi với sao nào cũng hay trừ trường hợp đi với SÁT PHÁ, CỰ.
THÁI TUẾ : Tam thái cách. Thái sư, Thái phó, Thái bảo… mơ hồ khó đạt được cần có KHOA LỘC. Làm thái sư phụ dễ gặp. 
KỊ GẶP:
TAM ÁM (DIÊU ĐÀ KỊ). Tai nghe mắt thấy bị ám rồi còn nghe thấy chi nữa. Nếu MỆNH có bộ NHẬT NGUYỆT hạn đến bộ tam Ám là xui nhất. Đây là 2 bộ sao kỵ nhau nhất.
HAO TINH: Phi lễ thành hôn (đối với nam)
“Âm phùng Hao tú một phương. Thành hôn chẳng lọ là đường cưới xin.” Vì khi có HAO tức THÁI ÂM ngộ ĐÀ hay ngộ KÌNH
ĐÀ LA: Mệnh cung kị NGUYỆT ngộ ĐÀ LA có tính loạn dâm. Âm ám chủ bị nữ lôi kéo.
KÌNH ĐÀ : Đa khắc thân. Nhân ly tài tán. Vì hình thành các bộ ÂM KÌNH, DƯƠNG KÌNH ÂM ĐÀ, ÂM KÌNH tức âm thầm hay công khai chống đối 2 giới nam và cả nữ trong gia đình (đa khắc thân: khắc nhiều người thân). Từ đó vui thì sống, buồn thì đi (nhân ly tài tán là thế).
KÌNH DƯƠNG :”TUẦN TRIỆT bất khả LỘC TỒN tư cơ phá bại. DƯƠNG NHẪN bất nghi NHẬT NGUYỆT bệnh tật triền miên”. KÌNH ở đây còn chủ phải chống đỡ với nhưng nguy cơ âm thầm trong thân thể của mình (chứ tui không chống ai hết)
“THÁI ÂM ngộ DƯƠNG ĐÀ tất chủ nhân ly tài tán
DƯƠNG NHẨN bất nghi NHẬT NGUYỆT bệnh tật triền miên”
VIỆT LINH HÌNH: Phòng sấm sét, búa đao.
TRIÊT: Tất cả đều lộ ra hết, y như cặp trai gái nằm phơi bày lồ lộ. Cái lộ đó càng cay đắng hơn nếu như có chén thuốc đắng HÓA KỴ bên cạnh, nếu như thuốc độc không ngại gì mà không uống.
Tất cả Âm Mưu, tất cả sự thầm kín sẽ bị phơi bày (THIÊN LƯƠNG) công khai (hoặc đưa ra ánh sáng THÁI DƯƠNG). Xấu tốt do hung, cát tinh mà thôi. Tụ tập nhiều hay ít. Biết bao nhiêu người bị chết… cháy vì cách nầy. Như đã nói cách này không được hoàn chỉnh… vì thiếu một ngôi sao THIÊN ĐỒNG thâm sâu, ngôi sao THIÊN CƠ tính toán kỹ. Vì thế ta ít khi gặp lá số Âm Dương tốt. Nếu không có gì xấu xa khi bị lộ (mà rất dễ lộ. sao TRIỆT cứ chu kỳ 5 năm đến thăm Sửu Mùi một lần, có lúc rủ thêm Kỵ thế là họa đến) không làm điều xấu xa bị phơi bày ra ánh sáng có khi quảng cáo cho mình. Ờ cái đó là âm mưu à! Cái đó là âm thầm giúp đỡ mà thôi. Tại anh ghét anh nói vậy thôi.
Dĩ nhiên những âm thầm nguy hiểm (Kỵ Kiếp) chưa kịp tạo ra có khi bị bóp chết trong trứng nước là vì thế.
Ở đây người viết cần giải thích thêm. Ý người viết nói tại đây có bộ KỴ KIẾP, tức tại bản cung, tam hợp cung hội họp. Nếu có bộ này nằm ở cung xung chiếu mang ý khác. Bản cung có Kỵ cung xung chiếu có KIẾP mang ý khác và ngược lại, bản cung có Kiếp xung chiếu có KỴ tất phải mang ký khác. Ví dụ nội Kỵ ngoại Kiếp: Tại anh ăn hiếp (tức là KIẾP) tui, nên tui mới ghét (kỵ) anh. Vi dụ: Nội Kiếp ngoại Kỵ: Ê mày dám chê (vì Kỵ xung) tao hả? Tao sẽ ức hiếp mày bằng thích. Giải thích rất bình dân, thực tế như vậy không biết bạn có hiểu kịp không? Hay bạn ưa nghe mơ hồ: cần phân biệt thế xung và hợp, nói như vậy 10 người chỉ có 1 người lanh trí hiểu.
KHÔNG KIẾP:
“NHẬT NGUYỆT sát hội nam đa gian đạo nữ đa dâm”
Không cần giải thích bạn cũng hiểu. Đôi trai gái trời ơi này.
GIÁP HAY RẤT DỄ GẶP:
Tại vị trí Sửu Mùi thường dễ gặp các bộ sao đôi hợp chiếu và dễ gặp các cách giáp như: Long Phượng (kề cận quý nhân), Thai Tọa (công danh, nhàn hạ), Quang Quí (ân thưởng vẽ vang). Hay nhất là giáp XƯƠNG KHÚC (ví như tay trái xem sách, tay phải chơi đàn, 2 cung phụ mẫu huynh đệ là giới văn nghệ sỹ). Có câu:
“XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Trì là tên riêng của Âm Dương, Quế trì là THÁI ÂM, đan trì là THÁI DƯƠNG.


MỘT SỐ CÂU PHÚ LIÊN QUAN .
Ghi lại đây một số câu phú có liên quan, quan điểm một số nhận xét của người xưa.
“NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi. ÂM DƯƠNG hổn hợp tự giảm quang huy kị phùng sát tinh, nhược lai văn diệu, diệc kiến QUÍ ÂN, THAI TOẠ, KHÔI HỒNG văn tài nguỵ lý xuất xử thành công”
Tự giảm quang huy. Đình không đồng ý. Đã giải thích ở đầu bài ở Sửu lợi cho THÁI DƯƠNG ở Mùi lợi cho THÁI ÂM. Văn tài nguỵ lý cũng không đồng ý vì các bàng tinh sẽ đánh giá công việc ấy như HƯ PHÁ, PHI LIÊM.
“NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi ái ngộ TUẦN KHÔNG. QUÍ ÂN XƯƠNG KHÚC ngoại triều văn tất thượng cách đường quan xuất chính”
“Mấy người bất hiển công danh. Vì chưng NHẬT NGUYỆT đồng tranh Sửu Mùi”
Ngày xưa KHHB tranh luận câu này. Người cho bất hiển, người cho là phỉ hiển (Thỏa mãn toại nguyện). Xét cho cùng quá võ đoán, vớ vẩn chỉ bộ Âm Dương chưa đủ điều kiện ắt có và đủ như trong toán học. Thấy tốt ta mới kết luận tốt, xấu ta kết luận xấu. Đó là việc làm của các bàng tinh.
Kể các câu phú dưới đây thuộc loại võ đoán.
“NHẬT NGUYỆT Mệnh, Thân cư Sửu Mùi tam phương vô cát phản vi hung”.
“NHẬT NGUYỆT đồng lâm quan cư hầu bá”
“THIÊN LƯƠNG, THÁI ÂM tác phiêu bồng chi khách.”

Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều lưu ý khi luận lá số Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Các ý tưởng để có một chiếc giường sang trọng như trong khách sạn

Chúng ta dành một phần ba đời mình để ngủ và hàng giờ nằm trên giường, vậy sao không biến nó thành một trải nghiệm năm sao?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chúng tôi muốn chia sẻ những ý tưởng để làm cho giườn của bạn trở nên thoải mái và đẹp mắt, giống như một chiếc giường khách sạn sang trọng.

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_01
Sự kết hợp của màu xanh và trắng đem lại không khí mùa hè

Khi tìm hiểu xem các chuyên gia đã làm gì để tạo nên một chiếc giường thoải mái và hấp dẫn, chúng tôi đã khám phá ra vài mẹo đáng ngạc nhiên và hữu dụng. Tất cả những khám phá đều dẫn tới một chủ đề chính: năm lớp của giường.

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_19Hãy lấy cảm hứng từ chiếc giường nhiều lớp này khi thiết kế chiếc giường của riêng bạn

Bắt đầu lên ý tưởng

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_05Các lớp nệm lông vũ thêm vẻ sang trọng cho chiếc giường hiện đại này

Chiếc giường là nơi hoàn hảo để đưa màu sắc, hoạ tiết và sự sang trọng vào phòng ngủ của bạn. Khi lên ý tưởng trang trí giường cho phòng ngủ của mình, hãy liệt kê mỗi lớp của giường từ nệm tới vật trang trítrên mặt.


Việc sử dụng một tông màu cho các lớp của giường tạo nên vẻ sang trọng

Một trong các phần quan trọng nhất của các quá trình trang trí giường là xác định màu. Hãy lót những màu trung tính cổ điển (như trắng) cho drap trải giường của bạn, kết hợp với vải đơn sắc, các màu đậm hay những hoạ tiết hiện đại cho các vật sau: những chiếc gối trang trí, nệm chần bông (duvet cover) hay mền (chăn).

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_03Kết hợp sọc với các hoạ tiết cùng tông cũng là một ý tưởng không tồi

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_08Các màu đơn sắc và vật trang trí theo phong cách tối giản

Bàn Cao Cấp Werzalit (Sản Xuất Tại CHLB Đức) Cho Kinh Doanh Hay Nhu Cầu Của Gia Đình

Để có một chiếc giường nổi bật, hãy chọn màu chủ đạo của phòng ngủ cho vách đầu giường, bức tường sau giường thì dùng giấy dán tường hoặc một bức tranh lớn, nổi bật.

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_07Nhiều lớp hoạ tiết từ tường tới giường và gối trang trí đem lại vẻ nổi bật cho phòng ngủ này

Lựa chọn các màu cổ điển cho những vật đắt tiền kết hợp với các vật trang trí có màu và hoạ tiết nổi bật là bí quyết để thiết kế môt chiếc giường dùng được lâu dài. Với cách thiết kế này, bạn có thể thay đổi diện mạo của phòng ngủ một cách nhanh chóng với chi phí thấp khi chuyển mùa hay tuỳ tâm trạng.

Ví dụ: bạn có thể mua một bệ giường màu trắng với drap giường tông xanh nhiệt đới (tropical blue) vào mùa hè và tông màu trầm ấm với một tấm mền lông giả vào mùa đông như hình bên dưới

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_17Hãy thêm một chiếc mền trang trí bằng lông giả để có giấc mơ mùa đông êm ái

Sau đây là các ý tưởng và mẹo trang trí cho một chiếc giường năm lớp, để bạn có thể đắm mình trong sự xa hoa

Lớp 1: Nệm và tấm lót nệm

Một tấm nệm tốt là nền tảng cho một đêm ngon giấc. Bạn có thể nâng cấp một tấm nệm với một lớp lót tốt dưới drap trải giường để tạo cảm giác mịn màng và sự thu hút. Hãy thêm một tấm nệm lông vũ hoặc nệm memory foam dưới drap trải giường của bạn. Cả hai cách này đều sẽ giúp bạn có một chiếc giường mềm như một viên kẹo.

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_09
Chiếc giường được trang hoàng một cách lôi cuốn

Lớp 2: Drap trải giường

Các khách sạn dành rất nhiều thời gian và tiền bạc để nghiên cứu các yếu tố tạo nên một chiếc giường thoải mái cho khách hàng của họ. Ví dụ như khách sạn Hilton, Hyatt và Marriott đã khám phá ra bí quyết cho một chiếc giường khiến người ta dễ chịu: các tấm drap có mật độ mũi chỉ là 300 mũi trên một inch vuông (khoảng 6.5 cm2). Đáng ngạc nhiên là người tiêu dùng cảm thấy các tấm drap 300 mũi cũng tạo cảm giác thoải mái như những tấm có mật độ mũi chỉ cao hơn và tin tốt cho bạn là chúng cũng thường rẻ hơn.

Lớp 3: Gối

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_15
Một chiếc giường không chê vào đâu được

Gối nằm

Những chiếc gối rất quan trọng trong việc tạo sự thoải mái và đẹp mắt cho giường ngủ. Nhưng cần phải có sự điều độ: quá ít cũng không tốt và cũng không nên để bị “nuốt chửng” bởi quá nhiều gối. Sleep Comfortably Foundation đề nghị mỗi người nên có hai chiếc gối ngủ kích thước bình thường để cảm thấy dễ chịu nhất.

Về chất liệu, khách sạn Four Seasons nổi tiếng về những chiếc gối ngủ sang trọng làm từ lông tơ (down). Nhưng nếu bạn dị ứng với lông vũ, có nhiều sự lựa chọn khác cũng êm ái không kém. Hãy chọn chiếc gối bạn thấy thoải mái nhất chứ đừng theo trào lưu.

Gối trang trí

Một khi bạn đã chọn được chiếc gối ngủ hoàn hảo, đã tới lúc trang hoàng cho giường với những chiếc gối trang trí. Hãy chọn hoạ tiết yêu thích của bạn và màu chủ đạo của phòng ngủ cho một trong những loại gối dưới đây:

- Một chiếc gối ngang (bolster) lớn, dài bằng chiều rộng của giường
- Một cặp gối châu Âu (25 x 25 inch)
- Một bộ gối trang trí từ 16” tới 20”
- Một hay hai chiếc gối chữ nhật nhỏ, dài bằng chiều dài của một chiếc gối ngủ tiêu chuẩn (60 cm)

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_20
Một chiếc gối ngang hình chữ nhật hiện đại và tươi tắn tạo điểm nhấn cho căn phòng

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_06
Những chiếc gối trang trí với hình dạng và kích thước khác nhau tạo cho chiếc giường vẻ hiện đại

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_10
Thêm chữ viết tắt của tên bạn lên gối cũng là một ý tưởng hay

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_12
Những chiếc gối dài hình tròn lạ mắt

Lớp 4: Vải phủ giường (bed cover) hay khăn trải giường (comforter)

Một tấm khăn trải giường bằng lông tơ sẽ thêm sự thoải mái và sang trọng cho chiếc giường. Lông tơ mịn và thích hợp cho cả mùa hè lẫn đông, làm cho khoản đầu tư trở nên đáng giá. Nhưng như chúng tôi đã đề cập, nếu bạn dị ứng với lông tơ thì vẫn có nhiều loại khăn trải giường bằng lông nhân tạo chống dị ứng.

Hãy thêm cho giường của bạn một lớp mền chần bông chất lượng. Và trong những tháng ấm hơn, khi bạn không muốn có lớp phủ thêm, hãy dùng một lớp quilt(*) nhẹ thay vì một tấm khăn trải giường bằng lông.

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_11

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_16
Sự kết hợp của gối trang trí và vải quilt tạo ra một chiếc giường thời thượng

Lớp 5: Mền (chăn)

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_02
Các tông màu đá quý thêm vẻ ấm áp cho chiếc giường

Mền trang trí (throw blanket) đã trở thành một món đồ phổ biến gần đây. Nó là một vật dụng tuyệt vời khi bạn thấy lạnh, lại thêm nét hiện đại cho giường ngủ. Hãy gấp và đặt mền vắt ngang hay đặt chéo góc giường để trông nghệ thuật hơn.

Khi lựa chọn mền và gối trang trí, hãy nhớ là chúng phải hợp với nhau để tạo nên vẻ thu hút và cảm giác thoải mái như một chiếc giường trong khách sạn năm sao.

Cac-y-tuong-cho-giuong-ngu_04
Cách phối màu hiện đại với một chiếc mền trang trí nhẹ được đặt vắt ngang giường


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các ý tưởng để có một chiếc giường sang trọng như trong khách sạn

Bói tình yêu qua tướng mặt

Bói tình yêu thông qua tướng mặt của một người đã được Nhân tướng học tổng luận cho kết quả khá chính xác, ai chung thủy, ai lụy tình, trọng tình cảm
Bói tình yêu qua tướng mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những nhà Nhân tướng học đều biết rằng, tướng mặt có chứa rất nhiều thông tin về một con người, mà qua đó, chúng ta có thể bói tình yêu của những người này một cách khá chuẩn xác. Qua tướng mặt, ta có thể biết được ai là người lụy tình, ai chung thủy với tình yêu, ai là người trọng tình cảm, ai một lòng chung tình. Những nhân tố khác mà Nhân tướng học quan tâm như: lạc quan, tích cực, giữ chữ tín, độ lượng, yêu gét rõ ràng cũng là những thước đo quan trọng khi xem bói tình yêu cho một người nào đó.

Đối với tình yêu, điều đáng ngại nhất là bản thân toàn tâm toàn ý nhưng đối phương lại hững hờ, thờ ơ. Khi mới quen nhau, hai bên rất tâm đầu ý hợp, khi chính thức hẹn hò yêu nhau thì hai người lúc nào cũng gắn với nhau như keo. Nhưng thời gian yêu nhau càng dài thì tình cảm càng ngày càng phai nhạt, không còn mặn nồng như lúc mới yêu, thậm chí thái độ của đối phương dần hờ hững, tìm cách lảng dần. Nếu tỉnh táo thì có thể nhận ra những rạn nứt đó, biết được rằng quan hệ của hai người đã có sự biến chất. Nhưng nếu là người quá lụy tình sẽ không thể nhận ra sự thật, vẫn tiếp tục yêu hết mình. Cho đến khi đối phương đề nghị chia tay thì mới tỉnh mộng, có hối hận thì cũng đã muộn, đành phải nén lòng quên đi mối tình đẹp, để thời gian hàn gắn vết thương lòng. Dù bản thân rất nặng tình nhưng đối phương vấn không hề hay biết.

Xem Bói tình yêu theo diện mạo tướng mặt có thể giúp bạn nhận ra những người chung thủy, trọng tình cảm hoặc lời nói trong tình yêu của họ là chân thật. Ngoài ra khi xem tướng mặt mà cho thấy người này khiêm tốn và hiền hòa có đa phần thường chung tình. Xem tướng thấy người này chữ tín thì tình cảm họ nói ra thường là điều thổ lộ thật sự. Với tướng người khoan dung độ lượng, lạc quan yêu đời thì yêu ghét họ rành mạch, rõ ràng, sẽ không lừa dối bạn. Căn cứ vào những đặc điểm trên, bạn có thể coi bói tình yêu của người yêu đối với bản thân một cách khá chính xác.

1. Tướng mặt người chung thủy và người không chung thủy trong tình yêu

– Kích thước hai mắt bằng nhau, nhìn khá cân đối, vị trí của hai con mắt tốt nhất là nằm trên cùng một đường thẳng. Đây là con người chung thủy với người yêu của họ.

– Nếu một mắt thấp, một mắt cao hẳn cho thấy người này ý chí không kiên định, rất dễ bị quyến rũ, mê hoặc bởi người khác.

– Tướng tai có vị trí cân đối, không lệch lạc: tình cảm ổn định, khó thay lòng đổi dạ dù có sự quyến rũ từ bên ngoài.

– Tai nên có vị trí cao thấp vừa phải là tốt. Nếu vị trí của tai quá cao hoặc quá thấp thì người này thường không ổn định về tình cảm, rất dễ bị kích động thậm chí thay lòng đổi dạ.

– Ngưòi có mắt to nhỏ không thường không chung thuỷ. Hai mắt to nhỏ không đều nhau, thường là tình cảm bất ổn, tâm lý không vững vàng. Người có đôi mắt như vậy rất hay thay lòng đổi dạ, tình cảm không ổn đinh, thậm chí không chung thuỷ. Tình duyên theo đó thường trắc trở, ghệp ghềnh hơn người khác.

2. Bói tình yêu người trọng tình cảm yêu đương đắm đuối

– Tướng mũi thẳng: thận trọng trong giao tiếp. Mũi thẳng là tướng tốt. Những người có mũi cong, vẹo thường hay lừa dối trong tình cảm.

– Hai cánh mũi cũng nên có đường nét rõ ràng, kích thước đồng đều. Những người có tướng mặt như vậy thường thận trọng trong tình cảm, sẽ lựa chọn người yêu một cách cẩn thận, kỹ càng.

– Nhân trung sâu và dài: trọng tình cảm. Nhân trung ngay ngắn, sâu và dài, hoặc nở rộng dần xuống phía dưới là người thường rất rộng rãi, trọng tình cảm, nhu cầu sinh lý bình thường.

– Tướng miệng ngay ngắn: lời nói thành thật. Miệng ngay ngắn là tướng tốt. Những lời họ nói ra có thể tin cậy được, không sợ bị lừa dối trong tình cảm.

– Người có miệng méo, lệch thường nói những lời không thành thực, và cũng không nghiêm túc trong tình cảm.

3. Bói tình yêu người khiêm tốn, hiền hòa, chung tình

Sống trong xã hội, dù là trong tập thể lớn hay là tập thể nhỏ thì ai cũng muốn được người khác tôn trọng và khẳng định. Được tập thể chấp nhận là một việc rất đáng tự hào. Nhưng nếu sống trong tập thể lại làm việc một mình một kiểu, tự phụ kiêu căng, coi thường người khác, hống hách ngang ngược, chắc chắn sẽ bị mọi người ghét bỏ, thậm chí còn bị trừng phạt. Đây là trường hợp không được tập thể chấp nhận. Nhưng nếu một người khiêm tốn, cư xử khéo léo, có thể nhìn thấy những điểm tốt của mọi người xung quanh, sống hoà thuận với họ, biết cách khen ngợi động viên người khác thì chắc chắn sẽ được tập thể tin tưởng, có mối quan hệ tốt với tập thể, luôn luôn có người tình nguyện giúp đỡ thậm chí dù có lâm nguy cũng được cứu giúp. Ngoài ra trong phép bói tình duyên, thống kê cho thấy những người này trong tình yêu họ sẽ thật lòng, chung tình mà không bội bạc lại người yêu.

Tổ hợp tướng mặt tốt – khiêm tốn, khéo léo, không chê bai người khác, thật lòng trong tình yêu:

  • Ngũ quan đoan chính, kích thước trung bình, dễ chiêm được thiện cảm của người khác.
  • Miệng khép chặt, không có khe hở, môi đầy đặn, khoé miệng không bị trề Mắt không lồi không trũng mắt nhìn thẳng, có thần thái.
  • Mũi thẳng, ngay ngắn, trán cao, rộng
  • Lông mày dài quá mắt, mắt và lông mày cách nhau một khoảng thích hợp lông mày có đường nét rõ ràng.
  • Cánh mũi dày, nhìn chính diện không thấy lỗ mũi. Nhân trung sâu và dài không có nếp nhăn.
  • Tổ hợp tướng mặt xấu – kiêu cẳng tự phụ, không biết khen ngợi người khác, tình yêu đem cân đong đo đếm
  • Khuôn mặt to, ngũ quan nhỏ, thậm chí dường như ngũ quan tập trung một chỗ.
  • Khuôn mặt xương xẩu, ngũ quan nổi bật, lông mày vừa đen vừa rậm.
  • Khuôn mặt góc cạnh, vuông vức hoặc mặt tròn xoe không có góc cạnh nào
  • Tai thấp, cằm nhỏ, người có tướng mặt này thường ngoan cố, không chịu sửa đổi, mà đi theo con đường sai trái.
  • Người mắt nhỏ bụng dạ hẹp hòi, nhỏ mọn, cố chấp bảo thủ. Người miệng nhỏ môi mỏng thì tính cách rất ngoan cường háo thắng, đã nói là làm.

4. Bói tướng mặt người tự tin, lạc quan, lịch thiệp, yêu ghét rõ ràng

Khi gặp phải khó khăn, thất bại, mọi người thường hay nản chí, chán chường. Nhưng vẫn có những người trong khó khăn mà có thể xoay chuyển tình thế, tổng kết kinh nghiệm của sự thành công và bài học của sự thất bại và cuối cùng có được sự nghiệp thành công. Đương nhiên cũng có những người khi gặp khó khăn thì buông xuôi bỏ cuộc, không dám đối mặt với thực tế nghiệt ngã và cũng không nghĩ ra cách gì để thay đổi cục diện đó. Căn cứ theo lý luận của Nhân tướng học, sự lạc quan luôn đi cùng với sự tự tin và khiêm tốn, yêu ghét thì rành mạch; Bi quan tiêu cực thường đi với sự tự ti, hèn nhát, không biết rõ thực sự bản thân yêu ai, có tình cảm với ai.

– Khoảng cách giữa ấn đường vừa phải: người lạc quan – là tướng mặt tốt. Không vì một chút chuyện nhỏ mà thù ghét. Không vì xích mích đơn thuần mà bỏ rơi người yêu.

– Những người có ấn đường nhỏ, hẹp thường là người hẹp hòi, nhỏ mọn, tiêu cực, hiểu biết nông cạn, không thể nhận biết sự việc một cách đúng đắn, làm việc không đầu không cuối, lỗ mãng xốc nổi. Coi tình yêu là trò đùa. Không tôn trọng tình cảm của bản thân và của người yêu.

– Người có ấn đường quá rộng thường là người hèn yếu, không có chính kiến, bắt chước theo người khác.

Do đó thì khoảng cách giữa ấn đường vừa phải, không rộng không hẹp thì tốt nhất. Quá rộng hay quá hẹp đều không phải là tướng mặt tốt.

– Mũi cao: lạc quan tích cực. Mũi đại diện cho cá tính, chủ kiến của một người. Nếu mũi cân đối thể hiện được là người lạc quan, tích cực và rất có tinh thần trách nhiệm, không sợ khó khăn, quyết tâm kiên trì đến cùng. Trong tình yêu thì rất chừng mực, biết quan tâm, chia sẻ và lo lắng cho người yêu.

– Miệng có kích thước vừa phải: cư xử khoan dung, độ lượng. Miệng có kích thước vừa phải chứng tỏ đó là người rất lạc quan, rộng lượng, cư xử với người khác khoan dung, độ lượng, không những có thể bỏ qua lỗi lầm mà còn không tùy tiện chỉ ra điểm yếu của người khác; nếu không cũng rất sòng phẳng ý chí kiên định, làm việc luôn kiên trì tuân theo quy tắc của bản thân, không hề thay đổi, có đầu có cuối. Trong tình yêu thì kiên trì theo đuổi đến cùng; biết tha thứ lỗi lầm của người yêu; biết nói lời yêu thương, quan tâm tới người yêu.

– Cằm đầy đặn: người giữ chữ tín. Người có cằm đầy đặn thì thường lạc quan chủ động, hành động mạnh mẽ, nói là làm ngay đồng thời rất giữ chữ tín. Những việc đã hứa thì dù có khó khăn, trở ngại mấy cũng làm bằng được. Người như vậy rất dễ thành công. Trong tình yêu, đã nghĩ là nói ra; đã nói ra sẽ giữ lời và thực hiện đúng như vậy. Nếu ai đó bói tình yêu mà tìm được những người thương như vậy quả thật là an tâm.

– Người có cằm ngắn thường tính toán hơn thiệt, làm việc tiêu cực bị động không toàn tâm cho công việc. Tâm trạng rất dễ thay đổi, thường hoang mang; làm việc gặp một chút khó khăn liền bỏ cuộc giữa chừng. Không đeo đuổi tình yêu, an phận và chấp nhận thua thiệt mà không biết giành lấy hạnh phúc cho bản thân. Thường tự trách mình và chím đắm trong nỗi buồn khổ nếu thất bại trong tình yêu và hôn nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói tình yêu qua tướng mặt

Định danh các sao và cách phân biệt phụ tinh, chính tinh.

Trong tử vi đẩu số thì sao nào là chính tinh, sao nào là phụ tinh, ảnh hưởng của sao chính tinh và sao phụ tinh như tử vi, thái dương, cự môn, liêm trinh, vũ khúc, thái âm,... như thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Tử Vi Đẩu Số có nhiều ngôi sao khác nhau, có những sao tốt và những sao xấu.

Định danh các sao và cách phân biệt phụ tinh, chính tinh.

Trong Khoa Tử Vi có 5 loại sao dưới đây đáng được phân biệt:

+ Chính tinh: hay còn gọi là chính diệu gồm các sao: Cự Môn, Liêm Trinh, Phá Quân, Tham Lang, Thái Âm, Thái Dương, Thất Sát, Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Lương, Thiên Phủ, Thiên Tướng, Tử Vi, Vũ Khúc.

Trong các sao chính tinh thì chia làm các loại:

Đế tính chủ về các sao : Tử vi;

Phúc Tinh : Sao chủ về phúc thọ Thiên Đồng, Thiên Lương.

Thiện tinh: Chủ về hình đệ phúc thọ có sao Thiên Cơ

Quý tinh: Chủ về quan lộc có Thái Dương

Phú tinh: Chủ về của cải có Thái Âm

Quyền tinh: Chủ về tài lộc, uy quyền có Thiên phủ, Thiên Tướng, Thất Sát.

Tài tình: Chủ về tài lộc có Vũ khúc, Thiên Phủ

Đào hoa tinh: có Liêm Trinh

Ám tinh: Chủ về cản trở có Cự Môn

Hung tinh: Có Tham lang, Phá Quân, Liêm Trinh.

Tuy nhiên, bất luận sao nào đắc địa đều có ít nhiều ý nghĩa về phúc, thọ, phú quý, tài quyền. Sự phân loại trên cốt để chỉ vị trí thích hợp nhất với một chính tinh mà thôi.

+ Phụ tinh: hay còn gọi là bàng tinh gồm các sao: Ân Quang, Bạch Hổ, Bát Tọa, Bệnh Phù, Cô Thần, Đà La, Đại Hao, Đế Vượng, Địa Giải, Địa Không, Địa Kiếp, Lộc Tồn, Quả Tú, Tang Môn, Thái Tuế, ….

Sao chủ mệnh

Sao chủ Thân

Sao lưu động

Tổng cộng có khoảng 110 sao cố định.

Định danh của các sao trong lá số tử vi

  • Miếu địa: vị trí tốt đẹp nhất đối với một ngôi sao. Miếu địa ví như nơi mà sao đó được thờ kính.
  • Vượng địa: vị trí thuận lợi đối với một ngôi sao.
  • Đắc địa: vị trí hợp với một ngôi sao
  • Bình hòa: Vị trí mà không làm cho ngôi sao đó sáng sủa thêm nhưng cũng không làm cho mờ hay xấu đi.
  • Hãm địa: vị trí bất lợi đối với một ngôi sao, làm cho nó bị mờ đi.
  • Sao tọa thủ: sao đã được an tại một cung
  • Sao đơn thủ: Sao đã được an tại một cung, nhưng không gặp chính diệu khác cũng tại cung đó.
  • Nhiều sao tọa thủ đồng cung: Nhiều sao gặp nhau tại cùng một cung.
  • Nhiều sao hội hợp: nhiều sao gặp nhau cùng tại một cung, hay chiếu lẫn nhau.
  • Sao sáng sủa tốt đẹp: sao có đặc tính tốt, hay sao đã được an một trong những vị trí mà đối với nó là Miếu địa hay Vượng địa, Đắc địa.
  • Sao mờ ám xấu xa: Sao có đặc tính xấu hay sao đã được an tại vị trí mà đối với các sao đó là hãm địa.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Định danh các sao và cách phân biệt phụ tinh, chính tinh.

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd