SAO THIÊN THỌ TRONG TỬ VI
thiên thọ (Thổ)
***
Thiên Thọ là cát tinh, có nghĩa:
Đóng ở bất cứ cung nào cũng hay, nhất là ở Phúc.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
thiên thọ (Thổ)
***
Thiên Thọ là cát tinh, có nghĩa:
Đóng ở bất cứ cung nào cũng hay, nhất là ở Phúc.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Văn Khấn lễ Đại Tường (Giỗ Hết) được dùng trong ngày giỗ Hết hay còn gọi là ngày “Đại Tường”, tức là ngày Giỗ vào 2 năm 3 tháng sau ngày mất.
Giỗ Hết vẫn là Giỗ trong vòng tang. Ngày Giỗ Hết thương làm linh đình hơn, và sau Giỗ này, ngườ nhà bỏ tang phục, hay còn gọi là hết tang. Sau ngày giỗ Hết, người ta sẽ chọn ngày tháng tốt để làm lễ Cải cát, sang mộ cho người quá cố. Và từ năm thứ ba trở đi thì giỗ của người qua cố trở thành giỗ Thường hay “Cát Kỵ”
Bởi vậy, có người bảo “ngày giỗ hết là ngày giỗ quan trọng nhất trong tất cả những ngày giỗ đối với người qua đời”. Quan trong nhất vì nó đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của người còn sống cũng như đối với vong linh của người đã khuất. Với người đang sống, người ta trở lại đời sống thường nhật, có thể tham gia các tổ chức hội hè, đình đám. Theo quan niệm xưa thì chỉ sau Giỗ Hết của chồng, người vợ mới có thể đi bước nữa.
Giỗ Hết thường được tổ chức long trọng với: vàng mã, hương, hoa, phẩm oản, trái cây theo mùa, cùng mâm lễ mặn với đầy đủ các món ăn từ thịt lợn, tôm, cua, xôi, gà, …
1. Văn khấn Thổ Thần, Táo Quân, Long Mạch và các vị Thần linh trước khi Giỗ Hết
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành Hoàng chư vị Đại Vương.
– Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.
– Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.
– Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ………
Tín chủ (chúng) con là:…………… Ngụ tại:……………
Nhân ngày mai là ngày Giỗ Hết của………………
Tín chủ con cùng toàn thể gia khuyến tuân theo nghi lễ, sửa biện hương hoa lễ vật dâng cúng các vị Tôn thần.
Cúi xin các vị Bản gia, Thổ Công, Táo Phủ Thần Quân, Ngữ Phương, Long Mạch và các vị Thần linh, hiển linh chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho toàn gia chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành.
Chúng con kinh thỉnh các Tiên linh, Gia tiên họ………… và những vong hồn nội tộc được thờ phụng vị cùng về hâm hưởng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
2. Văn khấn chính ngày Giỗ Hết
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương.
– Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.
– Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.
– Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Tổ Tiên nội ngoại họ ………
Tín chủ (chúng) con là:………
Ngụ tại:…………………………
Hôm nay là ngày …… tháng …… năm……
Chính ngày Giỗ Hết của………………………
Thiết nghĩ……………… vắng xa trần thế, không thấy âm dung. Năm qua tháng lại vừa ngày Giỗ Hết. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Nhân ngày chính giỗ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương dãi tỏ tấc thành.
Thành khẩn kính mời………………………
Mất ngày……. tháng………năm…………
Mộ phần táng tại:……………………….
Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng.
Tín chủ lại mời vong linh các vị Tiền chủ, Hậu chủ trong đất này cùng tới hâm hưởng.
Tín chủ con lại xin kính mời các cụ Tổ Tiên nội ngoại, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá thúc, Huynh Đệ, Cô Di, Tỷ Muội và toàn thể các Hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
1. Trán thấp
Theo nhân tướng học, vầng trán được ví như trời, thuộc Ly Hỏa, là vị trí cung Quan Lộc và Thiên Tước. Do đó, tướng trán tốt xấu sẽ quyết định phần nào tới phúc lộc, quan lộc, trí tuệ, vận khí... của mỗi người. Chủ nhân của tướng trán rộng, đầy đặn và sáng sủa thường có số mệnh sung sướng, nhưng rất ít người có được đầy đủ các đặc điểm trên.
Trong năm Bính Thân, Bính Hỏa tương trợ Ly cung, nên những ai có tướng trán không lí tưởng có cơ hội chuyển mình, thậm chí tỉ lệ phát tài cao. Thời điểm sau khi lập xuân mà vùng trán sáng sủa, nhẵn nhụi thì cơ hội đột phá về tài chính lớn.
2. Tướng mũi không lí tưởng
Mũi là Trung cung, thuộc Thổ tinh, tượng trưng cho tài phúc. Đồng thời mũi chính là cung Tài Bạch, đại diện cho tài vận, tiền bạc. Trong tướng học, sống mũi cao, cánh mũi đầy đặn là tướng người phú quý, nhiều tài lắm lộc, đường chính tài vượng. Trái lại, mũi gầy guộc, ít thịt, lỗ mũi lộ thì phụ tài khá.
Trong năm 2016, Bính Hỏa sinh Thổ, người có tướng mũi lí tưởng càng dễ dàng phát tài, còn những ai sở hữu chiếc mũi có một vài đặc điểm khuyết hãm nào đó cũng thể kiếm được số tiền lớn.
3. Thiên thương đầy đặn, sáng sủa
Trên khuôn mặt, Thiên thương chính là vị trí từ tai đến đuôi lông mày. Nơi đây đại diện cho tài khố, cơ hội xuất ngoại và cung Phu thê. Bộ phận này sáng sủa ắt tài vận tốt, dễ phát tài. Năm 2016, nếu Thiên thương xuất hiện sắc tím, đỏ hay hồng đều không tốt. Trái lại, nếu xuất hiện sắc vàng và sáng sủa thì vạn sự như ý, đi xa cầu tài càng thuận lợi, phụ tài dồi dào.
4. Lông mày đậm nhạt không đều, đuôi mày phân tán
Trong nhân diện học, lông mày đậm nhạt không đều, đuôi mày phân tán thường không được coi là quý tướng, có ít quý nhân phù trợ. Lông mày và tóc đại diện cho ngũ hành Mộc. Trong năm 2016, Thân Kim khắc Mộc, nên những ai có tướng lông mày chưa lí tưởng vẫn có cơ hội phát tài nhờ quý nhân tương trợ.
5. Cằm tròn đầy
Cằm chính là Địa các, đại diện tài sản cố định đồng thời là phúc phận của mỗi người. Chủ nhân của tướng cằm đầy đặn thường có tài lộc dồi dào, nắm trong tay sản nghiệp lớn. Ngược lại, nếu cằm nhọn, gày guộc thì vận trình tiền tài không tốt.
Bên cạnh đó, Địa các là Khảm cung, Khảm cung lại mang đặc trưng của yếu tố Thủy. Trong năm 2016, Thân Kim sinh Thủy, nên những ai có tướng cằm tốt dễ dàng phát tài, kiếm được nhiều tiền bạc. Người có tướng cằm chưa lí tưởng cũng được hỗ trợ phần nào và thoát khỏi áp lực về vật chất.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Chùa Thiền Tôn tọa lạc trên một ngọn đồi cao của xã Dương Xuân ngày trước, nay là thôn Ngũ Tây, xã Thủy An, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, mặt hướng về phía Tây Bắc; nhìn xuống phía dưới là một vùng gò đất bằng phẳng, có nhiều khe suối ngang dọc chảy qua; bên phải chùa là phía triền thấp của núi Thiên Thai; cho nên trước kia, ngôi chùa nầy lại còn có tên là Thiên Thai Thiền Tự cũng còn gọi là Thiên Thai Nội Tự. Có sách ghi Chùa Thuyền Tôn, đây là nơi phát xuất phái thiền Liễu Quán ở Việt Nam.
Chùa do Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) khai sơ vào đầu thế kỷ XVIII. Chùa được trùng tu năm 1746 do ngài trụ trì Tế Hiệp – Hải Điện khởi công. Chưởng Thái giám Đoán Tài Hầu pháp danh Tế Ý đứng ra vận động xây dựng ngôi chùa khang trang, cho đúc đại hồng chung nay vẫn còn.
Các vị trụ trì kế tiếp là Tế Mẫn – Tổ Huấn, Đại Tuệ – Chiếu Nhiên đều có trùng tu ngôi tổ đình. Chùa Thiền Tôn tiếp tục được trùng tu vào năm 1793 do bà Đốc Hữu phát nguyện và năm 1799 do Hoàng đệ Thái Tể (thuộc triều Tây Sơn) phát nguyện trùng tu tự viện trang nghiêm. Năm 1803, ngài Đạo Tâm – Trung Hậu trụ trì đã tổ chức trùng kiến. Bà Lê Thị Tạ pháp danh Tiên Quý đã có công quả lớn trong lần trùng tu này. Chùa được làm sườn gỗ lợp ngói, sinh hoạt Phật sự được phục hưng và phát triển.
Chùa được trùng tu thành tòa phạm vũ nguy nga vào các năm 1807-1809 do hai vị công chúa trong triều phát tâm cúng dường và tứ chúng đồng tâm hỗ trợ; trùng tu năm 1886 do Đại sư Hải Nhuận – Phước Thiêm tổ chức và năm 1899 do Đại sư Tâm Thiền tổ chức.
Năm 1940, chùa bị hư hỏng nặng, Hòa thượng Trừng Thủy – Giác Nhiên, vị trụ trì đời thứ 10 đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Sau 60 năm chưa được sửa chữa, chùa bị hư dột nhiều nơi, năm 2000, Hòa thượng Thích Thiện Siêu, trụ trì đời thứ 11 đã cho khởi công đại trùng tu ngôi chùa với kinh phí khoảng 2 tỷ đồng, được khánh thành vào ngày 09-3-2001.
Đây cũng là tổ đình của Thiền Phái Liễu Quán, một hệ phái của Thiền Lâm Tế truyền bá từ Trung Hoa sang Việt Nam. Xung quanh chùa là những dãy đồi chập chùng, nối kế đuôi nhau. Sau lưng là phía đầu của ngọn núi, quanh năm mây trắng lửng lờ; nhiều hàng thông bát ngát nối nhau tưởng chừng như bất tận; một cảnh trí hùng vĩ trang nghiêm và siêu thoát trong toàn bộ cảnh quan của vùng này.
Con đường từ vùng chánh lộ vào chùa Thiền Tôn khá quanh co, khúc khuỷu, phải ngang qua vùng Đàn Nam Giao trước kia, theo con đường vào Nghĩa Trang hiện nay của thành phố. Đây cũng chính là mồ chôn tập thể trong biến cố Mậu Thân 1968. Một chiếc cầu dẫn vào chùa phải đi ngang qua con kênh Thủy Lợi Nam, do dân Huế đào trong khoảng 1977-1978, nhưng nay thì đã khô cạn. Rẻ vào đường, đi chừng hai cây số thì thấy được tìm bảng gỗ đề Tổ đình Thuyền Tôn.
Cảnh trí trong vùng này thật u tịch, phải đi quanh co theo những đường đồi nghiêng thoai thoải, khi lên, khi xuống, lại qua những khe suối nhỏ và lưng chừng của sườn núi. Thành thử vùng đất chùa này khá hoang vu, cô tịch nếu so với những ngôi chùa khác trong vùng. Một công trình kiến trúc nổi tiếng trong vùng này là tháp Liễu Quán. Nghệ thuật xây dựng và điêu khắc của ngôi tháp này khá hài hòa, khúc chiết, nếu so với những ngôi tháp các chùa khác.
Sau lưng Chùa Thiền Tôn, sâu vào trong núi, còn có một bảo tháp khác, lớn hơn và tinh vi hơn: đó là bảo tháp của ngài Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội PGVNTN Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, cố trụ trì của chùa Thuyền Tôn. Cả hai ngôi tháp này được ca tụng là đẹp nhất trong toàn vùng này.
Chùa Thiền Tôn đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục năm 2008 :”Chùa Thiền Tôn, nơi phát xuất phái thiền Liễu Quán ở Việt Nam.” Tổ đình Thiền Tôn là ngôi thiền tự lớn ở Huế xưa nay.
Kỷ Sửu nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1949, 2009 và 2069
Cung ĐOÀI
Mạng THÍCH LỊCH HỎA (lửa sấm chớp)
Xương CON TRÂU. Tướng tinh CHIM CÚ
Phật Bà Quan Âm độ mạng
Kỷ Sửu số mạng như vầy,
Lửa trời sấm chớp sáng đầy trời mưa.
Nếu sanh mùa Hạ thì sang,
Gái mà Kỷ Sửu số nàng như trai.
Lòng dạ cứng cỏi như trai,
Thấy mạnh hiếp yếu ra tay binh liền.
Số này chẳng chịu ở yên,
Có tay buôn bán lại chuyên nhiều nghề.
Bạc tiền như giấc chiêm bao,
Có rồi lại hết sớm vào tối ra.
Số cô phải chịu phong ba,
Ba mươi sáu tuổi mới là yên thân.
Số cô tuổi nhỏ bôn ba,
Nhưng mà cô số chẳng qua ông trời.
Làm giàu phải tự tay ta,
Chẳng cần cha mẹ cùng là phu quân.
Kỷ Sửu lập nghiệp nên nhà,
Công danh sẳn có nhờ căn tu.
Tuổi Kỷ Sửu, tuổi nhỏ vào trung vận có nhiều cay đắng, con người bao giờ cũng có nhiều ý nghĩ và ham thích những cái đẹp bề ngoài. Cuộc đời vào thời hậu vận mới có được những kết quả về công danh, tài lộc cũng như mọi khía cạnh tình cảm. Con người hay có tánh lạt lòng, nên thường bị lợi dụng về tình cảm. Tuy nhiên, sẽ có nhiều triển vọng vào những năm mà số tuổi từ 24 trở đi.
Tóm lại: Cuộc đời nhiều cay đắng vào lúc tuổi nhỏ nhưng cuộc sống có nhiều triển vọng tốt đẹp vào hậu vận và trung vận. Sự sống lên cao bắt đầu từ 24 tuổi trở đi. Trong tương lai có nhiều may mắn hơn thời tiền vận.
Cuộc sống hoàn toàn êm đẹp, trung vận và hậu vận tốt đẹp, số hưởng thọ trung bình từ 58 đến 66 tuổi, nhưng nếu làm phước, ăn ở hiền lành thì sẽ được gia tăng niên kỷ, gian ác thì sẽ bị giảm kỷ.
Về vấn đề tình duyên đối với tuổi Kỷ Sửu là cả một vấn đề nan giải. Gặp rất nhiều trở lực trong cuộc đời đối với vấn đề tình duyên và hạnh phúc. Tình duyên đối với tuổi Kỷ Sửu được chia thành ba giai đoạn như sau:
Nếu bạn sanh vào những tháng nầy, thì cuộc đời bạn đối với vấn đề tình duyên và hạnh phúc phải có ba lần thay đổi, đó là bạn sanh vào những tháng: 3, 6, 8 và 10 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn phải có hai lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 2, 4, 7, 9 và 11 Âm lịch. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn hoàn toàn hưởng được hạnh phúc và không bao giờ có thay đổi về vấn đề tình duyên, hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 5 và 12 Âm lịch.
Trên đây là diễn tiến về tình duyên và hạnh phúc của bạn xuyên qua tháng sanh và do sự nghiên cứu về chiêm tinh huyền bí học. Vậy bạn nên nhớ mình sanh vào tháng nào để biết được cuộc đời đối với vấn đề tình duyên để quyết định cuộc đời.
P hần gia đạo được đầy đủ và nhiều thương yêu. Công danh nếu có theo đuổi, thì tương lai có triển vọng đặc biệt, nhứt là thời trung vận, tức là từ khoảng tuổi 24 đến 35. Về công danh có nhiều tốt đẹp trong tương lai. Nếu không theo đuổi công danh, thì vấn đề làm ăn rất hạp với sự buôn bán.
Sự nghiệp nhiều hi vọng và đầy triển vọng vào thời trung vận, có ảnh hưởng rất nhiều đến sự sống và cuộc đời. Sự nghiệp rất hay đẹp, tạo cho cuộc sống có một địa vị vững chắc ngoài xã hội. Tiền bạc dồi dào và đầy đủ, nhờ ở khả năng và sự dễ dàng tạo lấy nhiều dịp may về tiền bạc.
N ếu cần trong sự làm ăn cộng tác hay hợp tác bằng tiền bạc hay bằng khả năng, tất cả mọi công việc tạo lấy tiền tài và danh vọng, làm cho cuộc đời có nhiều phấn khởi; trong mọi sự việc ở trên đời này, tuổi Kỷ Sửu rất hạp với các tuổi: Canh Dần, Quý Tỵ, Giáp Ngọ. Nếu cần bất cứ một việc gì trong việc hợp tác làm ăn thì nên hợp tác với những tuổi trên, mau phát đạt và không bao giờ sợ có thất bại.
Trong sự kết hợp lương duyên, xây dựng tình duyên và hạnh phúc, bạn cần nên chọn lựa những tuổi hạp với tuổi mình, mới có thể đẩy mạnh cuộc sống lên cao và làm cho cuộc đời đầy sung sướng. Tuổi Kỷ Sửu thuộc Nữ mạng rất hạp kết hôn với những tuổi nầy: Canh Dần, Quý Tỵ, Giáp Ngọ, Bính Thân, Mậu Tý, Đinh Hợi.
Hai tuổi Canh Dần và Quý Tỵ: Hợp với tuổi Kỷ Sửu về tình duyên, con cái đông đảo, hợp về đường tài lộc lẫn công danh, có thể đẩy mạnh cuộc sống lên đến tột đỉnh của cuộc đời. Với tuổi Giáp Ngọ và Bính Thân: Hợp với tuổi Kỷ Sửu về tình duyên và tài lộc, có thể tạo lấy tiền tài rất dễ dàng và có nhiều cơ hội thuận tiện để đưa đến sự giàu sang phú quý. Với tuổi Mậu Tý, Đinh Hợi: Hợp về lương duyên, hạnh phúc. Đường tài lộc có nhiều cơ hội phát đạt, cũng tạo được sự giàu sang và có đầy đủ cơ hội thuận tiện đẩy mạnh cuộc đời lên cao.
Trên đây về sự chọn lựa lương duyên của bạn được sống cao sang quyền quý, bạn nên chọn những tuổi trên mà kết hôn thì cuộc đời rất tốt đẹp.
Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy thì chỉ có thể tạo được cho cuộc đời bạn với một cuộc sống trung bình mà thôi, đó là bạn kết duyên với các tuổi: Nhâm Thìn, Giáp Thìn. Bạn kết hôn với hai tuổi nầy chỉ hợp về đường tình duyên mà không hợp về đường tài lộc, nên chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi.
Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy, cuộc sống của bạn có thể sẽ trở nên và khó tạo lấy được một cuộc đời như ý, vì những tuổi nầy không hạp về đường tình duyên và lẫn cả vấn đề tài lộc, nên sẽ gặp phải một cuộc sống trong sự khó khăn của cuộc đời. Nghèo khổ luôn luôn vây lấy cuộc đời, khó tránh được, và khó vượt qua con đường đi dến tốt đẹp. Đó là bạn kết duyên với các tuổi: Kỷ Sửu đồng tuổi, Ất Mùi, Tân Sửu, Đinh Mùi.
Những tuổi nầy kết duyên không hạp, có thể phải sống trong sự nghèo khổ suốt đời.
Những năm mà bạn ở vào tuổi nầy, bạn không nên kết hôn, vì những năm xung khắc tuổi. Nếu bạn kết hôn sẽ sanh ra cảnh xa vắng triền miên hay ít ra cũng có lo âu về việc chồng, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 17, 21, 23, 29, 33, 35 và 41 tuổi.
Ở vào tuổi nầy không nên kết hôn, vì không thành hay nếu thành thì có thể phải chịu cảnh đã nói ở trên.
Nếu gặp sanh vào những tháng nầy thì tuổi Kỷ Sửu có số đa phu hay ít ra cũng nhiều lo lắng về việc lấy chồng, đó là sanh vào những tháng: 7, 8, 10 và 11 Âm lịch.
N ếu đặt vấn đề làm ăn, hợp tác hay mọi việc gì khác trong cuộc đời, thì nên tránh những tuổi nầy, vì làm ăn hay hợp tác có thể sanh ra nhiều thương đau trong cuộc đời bạn, nếu không bị tuyệt mạng thì cũng mang cảnh biệt ly ở giữa cuộc đời, đó là những tuổi đại xung kỵ với tuổi Kỷ Sửu như các tuổi: Tân Mão, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Quý Mão, Bính Tuất, Ất Dậu. Tốt hơn muốn tránh đi những đau buồn, thì không nên hợp tác hay kết hôn với những tuổi trên.
Gặp tuổi kỵ về tình duyên không nên làm lễ hôn nhân, ra mắt họ hàng thân tộc. Trong gia đình thì phải cúng sao giải hạn cho cả hai tuổi. Về việc làm ăn, kết bạn gặp tuổi kỵ nên tránh xa thì tốt hơn, đề hầu tránh sự thất bại hoặc đau khổ về sau.
Tuổi Kỷ Sửu phải bước qua những năm khó khăn nhứt là những năm mà bạn ở vào số tuổi 21, 24, 28 và 42 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng, vì gặp sự làm ăn thất bại, bịnh tật hay mọi việc khó khăn trong cuộc sống.
Tuổi Kỷ Sửu có những ngày, giờ xuất hành hạp nhứt là ngày chẵn, giờ chẵn và tháng chẵn; xuất hành làm ăn và đi đúng như trên thì cuộc đời không bao giờ có thất bại, vì giờ, ngày và tháng trên rất hạp với tuổi của bạn nên sẽ mang lại được nhiều thắng lợi.
Từ 18 đến 25 tuổi: Năm 18 tuổi, năm nhiều thử thách trong cuộc đời, nên cẩn thận việc ra đi, xuất hành nhứt là việc đi xa nên đề phòng tai nạn, toàn năm chỉ ở trong mức độ bình thường. Năm 19 tuổi, tình cảm vượng phát, có nhiều triển vọng tốt đẹp về công danh, có tài lộc bất ngờ vào tháng 8 trở đi. Năm 19 tuổi, triển vọng về tình cảm và công danh, phần tài lộc bình thường. Năm 20 tuổi, phần tình cảm phát triển mạnh mẽ, phần tài lộc bình thường, phần công danh có nhiều triển vọng hay.
Năm 21 tuổi, năm nầy kỵ kết hôn và không nên đi xa hay mở rộng việc dự tính làm ăn sẽ có nhiều thất bại. Năm 22 tuổi, nhiều hay đẹp trong cuộc đời, có kỵ tháng 4, đề phòng tai nạn, bịnh hoạn bất ngờ. Năm 23 và 24, hai năm chỉ thắng lợi về tình cảm, tài lộc bình thường, công danh nếu có sẽ vượng phát mạnh. Nếu không có vấn đề công danh thì việc làm ăn sẽ thâu được nhiều thắng lợi. Năm 25 tuổi, năm phát đạt về nghề nghiệp, việc làm ăn cũng như tình cảm và công danh.
Từ 26 đến 30 tuổi: Năm 26 tuổi, có nhiều lo phiền, vào những tháng 5 và 6 buồn nhiều. Năm 27 tuổi, khá về đường danh vọng, năm nầy tạo được nhiều việc may mắn trong cuộc đời. Năm 28 tuổi, có khắc kỵ hay xung khắc về gia đình. Năm nầy sanh con vào tháng 8 trở đi thì khó nuôi. Năm 29 tuổi, toàn năm đều tốt đẹp, có thắng lợi về tiền bạc, nghề nghiệp. Những tháng đầu năm thì rất tốt, làm ăn, danh vọng có nhiều phát triển. Từ tháng 6 trở đi hơi xấu, tháng 11 kỵ đi xa, có hại. Năm 29 và 30, hai năm bình thường không có gì quan trọng xảy ra trong cuộc đời.
Từ 31 đến 35 tuổi: 31 tuổi tốt đẹp, tiền tài tốt đẹp, công danh hay việc làm tạo được nhiều cơ hội thuận tiện phát triển mạnh về nghề nghiệp. 32 tuổi, việc làm ăn cà công danh ngừng trệ, năm nầy có hao tài tốn của hay đau bịnh thình lình. 33 tuổi, năm nầy không được tốt lắm, nên coi chừng bạn bè phản phúc hay có người trong nhà phản, hao tốn tiền bạc nhiều, hãy cẩn thận. 34 và 35 tuổi, hai năm trung bình, không có thất bại và cũng không có thành công.
Từ 36 đến 40 tuổi: Năm 36 và 37 tuổi, hai năm tài lộc điều hòa, gia đình êm ấm, có thể phát triển thêm sự làm ăn trong hai năm nầy thì tốt. Năm 38 và 39 tuổi, hai năm nầy khá tốt về đường tài lộc và tình cảm, có thể gặp nhiều việc may mắn về tiền bạc, kỵ tháng 6 năm 38 và tháng 4 năm 39. Năm 40 tuổi, trọn vẹn và khá hay đẹp, năm nầy sinh con thì tốt, có phát tài.
Từ 41 đến 45 tuổi: Năm 41 tuổi, không được tốt lắm, năm nầy có hai tháng đại xung khắc, đi xa thì bị nạn, đi gần thì gặp nhiều chuyện chẳng lành, đó là tháng 4 và 7, hai tháng nầy nên cẩn thận đề phòng cho lắm. Năm 42 và 43 tuổi, không được nhiều tốt đẹp, làm ăn tiền bạc hay thua lỗ, việc gia đình có hơi bê bối, hai năm nầy quá xấu, không nên phát triển nghề nghiệp, cũng như về mọi khía cạnh khác. Năm 44 và 45 tuổi, hai năm nầy có triển vọng lên cao, khá tốt đẹp về tài lộc lẫn cả tình cảm. Nếu cố tạo lấy việc làm ăn sẽ giàu to.
Từ 46 đến 50 tuổi: Năm 46 và 47 tuổi, khá hay đẹp về vấn đề gia đình, công danh và sự nghiệp ở vào mức trung bình, tài lộc điều hòa, không có nhiều lo âu lắm. Năm 48 và 49 tuổi, hai năm nầy cũng còn khá đẹp không có việc gì quan trọng xảy ra, chỉ nên cẩn thận về bản thân và nghề nghiệp mà thôi. Năm 48 tuổi và 49, hai năm nầy thì tài lộc bình thường, đường nghề nghiệp có cơ hội phát triển, tình cảm êm ấm. Năm 50 tuổi, năm nầy yên vui nhứt, toàn năm đều tốt đẹp.
Từ 51 đến 55 tuổi: Khoảng thời gian nầy vẫn ở trong tình trạng bình thường, cuộc sống khá sung túc và đầy đủ, cuộc đời hoàn toàn sống trong sự giàu sang phú quý. Trừ năm 53 tuổi có xấu vào tháng 6 và 8 mà thôi.
Từ 56 đến 60 tuổi: Năm 56 đến 57 tuổi, có triển vọng về phần gia đình, sự nghiệp, tiền bạc dư dả, con cháu thuận hòa, gia đạo yên vui. Năm 58 và 59, tình cảm êm đẹp, gia đình có nhiều chuyện buồn lo, tiền bạc có hao tài tốn của. Năm 60 tuổi, đề phòng tánh mạng, năm nầy có xung khắc vào tháng 10 trở đi.
Xem thêm:
Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết
Xem bói tử vi tuổi Sửu
Xem tử vi năm mới
Hiện tượng: Phòng ngủ nếu nằm phía trên phòng bếp, khí hỏa sát sẽ rất lớn, khi trường của phòng ngủ sẽ khô nóng làm cho con người dễ bực bội, cáu giận, có ánh hưởng không tốt tới sức khỏe cơ thể, ngoài ra còn gây ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến trạng thái tinh thần người sống trong nhà.
Phương pháp hóa giải: Phía dưới giường có thể trải một tấm thảm màu vàng.
Chúng ta đều biết màu vàng thuộc Thổ, Hỏa sinh Thổ, Thổ có thế tiết Hỏa, như vậy tiết ra khí Hỏa sát để hóa giải. Đương nhiên nếu phía dưới tấm vải có thề đặt 36 đồng tiền cổ hiệu quả sẽ càng tốt.
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát |
Ảnh minh họa |
Trong phong thủy, quầy lễ tân thuộc khu vực minh đường. Đây cũng chính là nơi tụ khí. Nếu bố trí hợp lý, công việc kinh doanh sẽ phát triển, hưng thịnh.
Quầy lễ tân nên đặt ở phía Nam - hướng tượng trưng cho cái đẹp và sự sáng sủa. Khi trang trí, nên dùng màu đỏ hoặc tím để tạo không gian bắt mắt và mang lại may mắn, thuận lợi cho việc kinh doanh của công ty.
Trong phong thủy nhà ở - văn phòng, quầy lễ tân kỵ không đặt các đồ vật trang trí có hình tam giác.
Quầy tiếp tân hợp phong thủy sẽ mang lại may mắn cho công việc kinh doanh |
Cửa ở lối ra vào chính hay các cửa ra vào khác cần tương xứng với tòa nhà. Nếu dùng cửa 2 cánh, cả hai phải được mở rộng để dòng khí di chuyển vào tòa nhà. Loại cửa xoay giúp luân chuyển năng lượng ở lối ra vào, nhưng chỉ thích hợp với những tòa nhà văn phòng lớn.
Cửa chính phải dễ mở và không được quá nặng nếu không chúng sẽ làm tiêu hao năng lượng cá nhân.
Nếu có cửa sổ đặt đối diện ngay với cửa chính, cần đặt một số cây cảnh để ngăn chặn dòng khí đi vào tòa nhà rồi qua cửa sổ đi thẳng ra ngoài, không kịp luân chuyển bên trong tòa nhà. Ngoài ra, để hóa giải thế cửa đối cửa, bạn cũng có thể tham khảo thêm bài viết: Cách hóa giải đơn giản và hiệu quả cho thế "cửa đối cửa".
Khách đến công ty, khi bước qua cửa chính, phải nhìn thấy ngay bàn tiếp khách. Nhưng tránh đặt bàn quá gần hoặc đối diện ngay cửa chính, vì tạp âm có thể gây ảnh hưởng không tốt đến các nhân viên trực tại bàn lễ tân. Ghế ngồi của nhân viên tiếp tân thoải mái, vững chãi, phía sau có tường che chắn.
Luồng khí ở khu vực này được coi là rất quan trọng. Nó luôn phải trong lành và có sự luân chuyển tốt. Vì vậy, quạt máy, cây xanh và những vật trang trí từ nước đóng vai trò khá quan trọng ở đây.
Ở khu vực tiếp khách người ta thường đặt hồ cá. Những con cá nhỏ, linh hoạt, tạo năng lượng tích cực, rất phù hợp với các công ty thương mại. Trong khi những con to, bơi chậm chạp tạo cảm giác an bình lại thích hợp cho các bệnh viện hay phòng mạch. Bạn có thể tham khảo thêm bài viết: Chọn hình dáng bể cá để đón nhận tài lộc.
Những bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:
Áp dụng phong thủy để công việc lên như diều gặp gió Treo tranh hợp nghề, phong thủy văn phòng tốt đẹp rực rỡ Đại kỵ phong thủy khiến dân văn phòng gặp trắc trở trong sự nghiệp Phong thủy phòng làm việc cho sếp nữ mau thành công
Bức tranh đào thế chữ Tâm.
Loại đá quý như rupy, thạch anh...
Với tranh về hoa, cho dù là nhà ở, văn phòng làm việc hay cửa hiệu, việc sử dụng một cách khéo léo các tranh hoa chính là thể hiện sự thành khẩn một cách tao nhã. Nhìn những tranh hoa đẹp thường làm cho con người cảm thấy yên tĩnh, nhẹ nhõm, thanh thản, vô hình trung đã loại bỏ đi sự nóng nảy, bực dọc, tránh gây ra bất hòa trong các mối quan hệ giữa người với người, và ngăn ngừa chúng ta chỉ biết đắm chìm trong những khó khăn, thiếu thốn của hoàn cảnh hoặc cuộc sống. Có thể nói, nó có thể kích thích chúng ta hướng theo hướng tích cực và đạt được một thành tựu trong sự nghiệp. Không chỉ thế, trong phong thủy, các loài hoa từ ngàn xưa đã được nghiên cứu và chứng minh có nhiều công dụng với phong thủy. Với mỗi loài hoa khác nhau, lại mang trong mình một ý nghĩa phong thủy khác nhau:
Hoa đào:. Hoa đào là loại hoa nở khi mùa xuân về. Hoa đào tượng trưng cho cuộc sống, cho ước vọng hạnh phúc, cho niềm vui và sự yên ấm. Anh đào thường được sử dụng với ý nghĩa mang lại sự khởi đầu, sự tươi mới và trong trắng. Anh đào tượng trưng cho cung tình duyên, nhưng cũng vẫn được sử dụng như một phương thức hoá giải phong thuỷ đối với sức khoẻ
Vị trí gợi ý:
Phòng khách của nhà riêng hay công ty đều có thể lựa chọn các loại tranh vẽ trúc phú quý, cây lan đuôi hổ, cây thủy tùng, sen nhiều lá, cây cọ, cây phát tài, cây lan quân tử, hoa cúc, cây lan cầu, hoa lan, hoa đào, tắc, cây dương xỉ, cây huyết dụ…, các hoa này là “vật may mắn” trong phong thủy học, hàm ý như ý cát tường, tụ tài phát phúc.
Hãy đem màu sắc của hoa vào căn nhà hay văn phòng của bạn, bạn sẽ giúp cho luồng khí trong ngôi nhà được điều hoà và trôi chảy.
Nguồn: VietGem (st) Ðể giúp cho nhiều người luyện công lên cao được, đồng thời vẫn thỏa mãn yêu cầu của phần đông các người quyết chí tu luyện, tôi đã chỉnh đốn lại và cập nhật toàn bộ các phương pháp tu luyện này để thích hợp cho việc quảng bá trong quần chúng, mặc dù được sửa đổi, nó này vẫn vượt xa những kết quả và trình độ khi tập luyện các công pháp.
Tướng cách cô độc: Lông mày có hình chữ “bát”, tiếng nói như sấm
Nếu như xương to nặng, đó là người cô đơn.
Dái tai quá to, lông mày giao nhau, lông mao dày, tóc mai dày, đó là người cô đơn.
Nếu vành tai lật ngược người đó thường sống một mình.
Lông mày rậm dày, chủ cô đơn.
Nếu như tiếng nói như tiếng sấm, đó cũng là người cô đơn.
Nếu như nách có mùi, cằm lệch cũng là mệnh cô đơn.
Xương gò má cao chủ về người đơn độc, cô lẻ.
Nếu như khóe miệng hướng xuống cũng chủ người cô đơn.
Tướng cô quả: Xương gò má cao, dưới mắt không có thịt
Người có xương gò má cao, một đời cô độc, không có con nối dõi hoặc phải nhận con nuôi.
Người dái tai mỏng, sống xa cha mẹ vợ con, nhà cửa gia nghiệp phá tán, không bảo vệ được cơ nghiệp tổ tông.
Xương lông mày cao, nhiều vợ nhưng vợ phá hoại, bạc bẽo. Những người có hình tướng như thế còn lắm bệnh nhiều tật, tính khí bạo ngược, nóng nảy.
Người mà dưới mắt mỏng thịt, con gái gặp tai họa, ít khi giúp người khác, không được người ngoài quý mến.
Tướng yểu: Mặt như hoa đào, dáng đi nghiêng ngả
Người béo như không xương là tướng đoản mệnh.
Nếu người có hình tướng sau: 2 mắt không có thần, tai nhỏ vẹo, người mệt mỏi như vô thần vô khí, thân dài nhưng mặt ngắn, da mặt mỏng, lưng lõm xuống, sắc mặt giống như hoa đào, dáng đi nghiêng ngả là tướng đoản mệnh.
Tướng tản mạn: Tướng mệnh không thọ
Nếu người có hình tướng sau thì tuổi thọ không dài: Đuôi lông mày tản mạn, dái tai mỏng, khuôn mặt không hài hòa, mũi hếch, lỗ mũi lộ, trán nhọn, cằm nhọn, sống mũi lệch vẹo, da mặt lạnh, khí sắc ảm đạm, các bộ vị đều có nếp nhăn lại có nốt ruồi đen, 3 bộ vị là trán, mũi, cằm đều bằng phẳng và rộng, vẻ mặt sáng láng rạng rỡ thì người đó làm việc gì cũng thành.
hơn nhằm bảo vệ mình khỏi các tác hại.
‘Nốt ruồi tốt’ thường ẩn (trong lông mày, râu, hay tóc) hoặc không dễ dàng nhìn thấy. Trên thực tế, nốt ruồi ẩn may mắn hơn so với nốt ruồi nhìn thấy được.
Các nốt ruồi may mắn nhất có hình tròn. Có màu sắc đơn nhất, màu đỏ hay đen là nốt ruồi tốt. Nốt ruồi màu tối được coi là có nhiều thuận lợi hơn so với nốt ruồi nhạt màu hơn. Nuốt ruồi màu nâu, màu vàng, có viền trắng, hay nhìn mờ được xem là điềm xấu.
Nốt ruồi với lông (cũng là một nốt ruồi tốt) chỉ ra rằng nốt ruồi đó có sức sống. Một người đàn ông có thể giữ lông còn nữ thì có thể cắt nó đi.
Phát hiện ra nốt ruồi trên mái tóc cũng giống như việc tìm vàng trong bụi rậm, nó cho thấy tài sản và tuổi thọ lâu dài.
Nốt ruồi, vết bớt có thể được dùng trong bói toán, vị trí và kích thước của nó có thể nói về tướng số của một người. Cùng thử xem tướng nốt ruồi trên cơ thể, bằng cách giải mã bí ẩn nốt ruồi trên môi qua bài dưới đây.
Những người có nốt ruồi trên môi thường rất thích trò chuyện, họ hỏi và nói chuyện rất nhiều. Họ cũng thích ăn rất nhiều. Nhược điểm của những người này là có thể không có khả năng giữ bí mật trong một thời gian dài.
Nốt ruồi ở môi dưới thể hiện bạn là một người dễ gần, có tác phong làm việc cẩn thận, tỉ mĩ, nên dễ dàng đạt được sự tín nhiệm của cấp trên và đồng nghiệp. Ý nghĩa của nốt ruồi ở môi dưới cũng giống như ý nghĩa của nốt ruồi ở môi dưới bên trái và nốt ruồi ở môi dưới bên phải.
Về phương diện tình cảm thì người có nốt ruồi ở môi dưới thường khéo léo che đậy tình cảm của mình, thích được người khác chủ động yêu thương. Nhất là đối với những người nữ thì họ hay bị động trong tình cảm, dễ bị bạn trai thất vọng. Họ có thể rung cảm trước một bạn trai thực sự nhưng không thường xuyên bày tỏ tình cảm với đối phương.
Nếu bạn có nốt ruồi ở môi trên thì có ý nghĩa rằng bạn sẽ không bao giờ rơi vào cảnh nghèo túi, thường xuyên được thưởng thức các món ăn sơn hào hải vị, mà được người khác bao ăn chứ ít khi phải bỏ tiền túi. Ý nghĩa của nốt ruồi ở môi trên cũng giống như nốt ruồi ở các vị trí như: nốt ruồi ở môi trên bên phải, nốt ruồi ở môi trên bên trái đều mang ý nghĩa về tài lộc cho bản thân người sở hữu.
Nếu ở khóe miệng (hay còn gọi là mép) có nốt ruồi, hoặc nốt ruồi nằm đúng vị trí này trên đường Pháp lệnh được coi là “phúc chí” (tức nốt ruồi may mắn). Dù là nam hay nữ, nếu có nốt ruồi này đều tốt, thường xuyên được đi đây đó du hí, thưởng thức cao lương mĩ vị của nhiều nơi khác nhau. Vì được đi nhiều, tiếp xúc rộng rãi nên mối nhân duyên cũng tốt đẹp.
>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!
1./ Màu sắc móng tay, móng chân tiết lộ về các bệnh tật của bạn?
Nếu bạn nghi ngờ rằng cơ thể mình đang có vấn đề gì, hãy nhìn vào móng tay của mình vì nó có thể cho bạn biết rất nhiều điều.
Theo các chuyên gia y tế, màu sắc của móng tay của mỗi người phản ánh rất rõ nét tình trạng sức khỏe của người đó. Ví dụ móng tay biến màu vàng có nghĩa rằng bạn đang bị bệnh gan, vàng da hoặc rối loạn chức năng phổi.
Nếu bạn quan tâm về màu sắc của móng tay tiết lộ gì về tình trạng sức khỏe của mình, hãy tham khảo qua các trường hợp dưới đây nhé:
Khi móng tay xuất hiện những đốm nhỏ màu đen hoặc nâu. Nó có thể phản ánh bệnh vẩy nến, lupus hoặc thậm chí là bệnh tim.
Có các đường rãnh ngang móng. Điều này chỉ ra rằng móng tay hoặc móng chân đã bị một chấn thương. Nó cũng có thể là dấu hiệu một căn bệnh chẳng hạn quai bị hoặc sởi.
Màu móng tay đổi thành vàng. Điều này là một dấu hiệu tinh tế cảnh báo bạn có thể đang mắc bệnh gan hoặc vàng da. Ngoài ra nó còn có thể là bạn bị một rối loạn chức năng phổi khiến chất chuyển hóa chất thải không đào thải được các chất cặn bã ra ngoài cơ thể một cách hiệu quả.
Móng tay hoặc chân bị cong xuống là phản ánh bạn có thể đang bị bệnh phổi hoặc hiếm khí, asbestosis.
Móng bị lõm xuống. Điều này chỉ ra rằng cơ thể bạn đang bị thiếu sắt hay bị một bệnh liên quan đến gan gọi là hemochromatosis.
Khi móng tay xuất hiện một đường màu đen thế này có nghĩa là cơ thể bạn đang ủ một khối u ác tính hoặc bị ung thư da.
Móng tay giòn dễ gãy. Điều này thường xảy ra khi tay tiếp xúc với các hóa chất trong chất tẩy rửa hoặc chất đánh móng tay. Nhưng nó cũng có thể là triệu chứng của bệnh nhiễm nấm hoặc bệnh tuyến giáp.
Bề mặt móng tay không phẳng mà có những chỗ lấm tấm. Đây có thể là triệu chứng của bệnh viêm khớp, vẩy nến hoặc rụng tóc.
Móng dày bất thường có thể là do nhiễm nấm móng hoặc từ vùng da xung quanh.
Đường màu trắng chạy ngang móng tay. Đường này còn được gọi là đường Muehrcke. Nó chỉ ra mức độ protein trong cơ thể khá thấp hoặc là triệu chứng của bệnh gan và thận.
2./ Những thực phẩm giúp móng tay, chân khỏe đẹp
Sức khỏe của móng phần lớn là do gene quyết định. Tuy nhiên, chế độ ăn uống đóng vai trò không kém phần quan trọng trong việc giúp cho bộ móng của bạn trở nên khoẻ đẹp. Đặc biệt trong mùa đông giá lạnh, tình trạng móng tay khô nứt và dễ gẫy càng khiến bạn cảm thấy khó chịu và mất tự tin. Dưới đây là những loại thực phẩm mà các chuyên gia tư vấn, bác sỹ da liễu và bác sỹ thẩm mỹ đã chia sẻ giúp móng tay của bạn thêm chắc khỏe mỗi ngày.
Thực phẩm giàu biotin
Các chuyên gia dinh dưỡng đã nhận định rằng thiếu hụt biotin là một trong những nguyên nhân khiến cho móng tay của bạn dễ gẫy. Chính vì vậy bổ sung những loại thực phẩm giàu biotin như cá hồi, đậu phộng hoặc súp lơ và đặc biệt là chuối là một thói quen nên làm hàng ngày.
Chuối là một trong những loại thực phẩm tốt nhất cho móng tay của bạn vì chuối rất giàu biotin hay còn gọi là vitamin H, một vitamin cần thiết để giúp móng chắc khỏe và tẩy tế bào chết
Thực phẩm giàu protein
Thịt gà không là một loại thực phẩm tốt cho việc giảm cân của phái đẹp vì nó chứa nhiều protein và ít chất béo. Bên cạnh đó, thịt gà còn giúp móng tay bạn khỏe mạnh hơn. Trong thịt gà có 3 chất dinh dưỡng phong phú rất tốt cho sự phát triển của móng đó là protein, vitamin B và đặc biệt là kẽm. Thêm một chút thịt gà với hàm lượng vừa phải vào thực đơn hàng ngày sẽ giúp móng tay của bạn khỏe mạnh và có độ bóng tự nhiên rất đẹp.
Lòng trắng trứng nấu chín lành mạnh và tốt cho móng. Đây là một nguồn protein phong phú cần thiết cho móng tay. Nó có khả năng làm cho lớp keratin của móng dày và chắc hơn. Ngoài ra, lòng trắng trứng cũng cung cấp một lượng biotin đáng kể. Tuy nhiên, trứng sống có một chất kết dính gắn chặt biotin và làm cho cơ thể khó hấp thụ. Vì thế, những người tiêu thụ nhiều lòng trắng trứng sống có thể bị thiếu hụt biotin dẫn đến móng giòn và dễ gãy.
Sữa và các sản phẩm từ sữa như sữa chua và pho mát. Những sản phẩm có nguồn gốc từ sữa rất giàu calci, biotin và protein. Trong khi đó, móng được cấu thành chủ yếu từ keratin, một dạng protein.
Chính vì thế, một chế độ ăn giàu protein sẽ giúp tăng cường lượng keratin cần thiết. Đồng thời, biotin và calci có tác dụng tăng cường độ khỏe của móng và giảm thiểu hiện tượng nứt, gãy móng.
Thực phẩm giàu kẽm
Kẽm không chỉ có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể bạn mà nó còn giúp móng tay của bạn khỏe mạnh, ít bị gẫy hơn.
Do vậy, nếu muốn sở hữu một bàn tay đẹp với những móng tay xinh xắn, bạn nên lưu ý thêm vào bữa ăn hàng ngày của cả gia đình những thực phẩm giàu kẽm như đậu nành, đậu xanh, hạt điều, hạt bí ngô và yến mạch. Các loại hạt này là những nguồn thực phẩm giàu kẽm. Kẽm là một vi chất dinh dưỡng không có sẵn trong thực phẩm. Do đó, thiếu kẽm có thể dẫn đến móng tay giòn và dễ gãy, đồng thời làm xuất hiện những đốm trắng trên móng.
Thực phẩm giàu lưu huỳnh
Trứng gà cũng rất tốt cho móng tay của bạn. Bởi lòng đỏ trứng rất giàu lưu hình, một khoáng chất giúp cân bằng a xít – kiềm trong cơ thể. Ngoài ra, lưu huỳnh cũng có trong một số a xít amin giúp móng tay của bạn chắc khỏe hơn. Do vậy, nếu bạn muốn móng tay mình đẹp và chắc khỏe, hãy đa dạng chế độ ăn với các loại thực phẩm giàu lưu huỳnh như trứng, thịt, các loại hạt, phô mai và cá.
Cá rất giàu Omega 3, đồng thời cung cấp lượng protein và lưu huỳnh lành mạnh cho cơ thể. Cá hồi, cá thu, cá tuyết, cá mòi có hàm lượng cao Omega 3, chất có tác dụng giữ ẩm cho móng và tăng cường độ dẻo dai cho móng mỏng và dễ gãy. Bên cạnh đó, phốt pho và lưu huỳnh trong cá cũng có thể làm dày móng và giúp móng khỏe hơn.
Thực phẩm giàu sắt
Nếu móng tay bạn nhợt nhạt và dễ gãy, có thể là bạn đang bị thiếu sắt. Thiếu sắt là nguyên nhân phổ biến nhất khiến móng giòn và dễ gãy. Tình trạng này đặc biệt phổ biến ở những người ăn chay bởi nguồn cung cấp chất sắt từ thực phẩm chay không tốt như các loại thực phẩm bình thường. Khi ấy, bạn cần tăng cường các thực phẩm giàu sắt, chẳng hạn như đậu và đặc biệt là gan động vật vì có hàm lượng chất sắt rất cao.
Đối với những người ăn chay hoàn toàn, một chế độ ăn uống có chứa rau bina, đậu lăng, các loại đậu và đường thốt nốt có thể cung cấp một lượng chất sắt phù hợp
Thực phẩm giàu vitamin:
Rau bina có công dụng rất tốt trong việc giúp bạn bảo vệ bộ móng khỏe, chắc nhờ lượng vitamin A, vitamin B, C và folate có trong rau. Không chỉ đem đến cho bạn bộ móng đẹp, chắc khỏe, rau bina còn là thực phẩm rất có lợi cho tổng thể sức khỏe của cơ thể. Do đó đừng bỏ quên loại thực phẩm này vào bữa ăn hàng tuần của mình.
Bạn có thể ăn hoặc bôi dầu dừa lên móng để chăm sóc, nuôi dưỡng bộ móng của mình. Dầu dừa giúp cơ thể tăng cường khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng. Các thành phần trong dầu dừa như vitamin A, D, E, K đều đóng vai trò rất tốt trong việc giúp cho móng tay khỏe, đẹp..
Ngoài việc thường xuyên chăm sóc, bảo vệ bộ móng châm móng tay của mình để có được bộ móng khỏe mạnh, thì ăn bông cải xanh sẽ giúp cơ thể bạn cũng sẽ giúp cơ thể bạn hấp thu protein tốt hơn để nuôi dưỡng móng nhờ acid amin cysteine có trong bông cải. Vì thế đừng bỏ qua loại thực phẩm này nếu có được bộ móng chắc đẹp.
3./ Những thói quen giúp móng tay bạn đẹp hơn mỗi ngày
Để có được bộ móng tay, móng chân khỏe, đẹp đòi hỏi bạn phải có sự chăm sóc tỉ mẩn. Ngoài việc quan tâm đến chế độ ăn uống thì bạn cần chú ý một số hoạt động hàng ngày cũng sẽ giúp cho bộ móng của bạn khỏe đẹp, không bị yếu và gãy. Những thói quen dưới đây sẽ giúp móng tay của bạn luôn khỏe, đẹp hơn mỗi ngày.
Thói quen 1: Giữ tay luôn sạch sẽ
Trước khi làm bất cứ viêc gì bạn cũng nên chú ý đến móng tay. Quan trọng hơn là phải luôn đảm bảo móng tay và vùng da xung quanh luôn sạch sẽ, không còn bụi bẩn. Tiến sĩ Ava Shamban, tác giả của “Sức khỏe làn da” khuyến cáo bạn nên thường xuyên lấy một lượng nhỏ xà phòng để lên bàn chải đánh răng, sau đó nhẹ nhàng chà rửa vùng móng tay và làn da xung quanh. Điều này sẽ loại bỏ bụi bẩn và tẩy tế bào chết trên da mà không cần dung đến hóa chất hoặc các loại cọ đắt tiền.
Thói quen 2: Luôn nhẹ nhàng
Móng tay của bạn rất nhạy cảm, trong mọi tác động bạn cần luôn nhẹ nhàng. Việc chà móng tay quá thô bạo dẫn đến nhiều khả năng chúng sẽ bị nhiễm trùng. Bác sĩ da liễu Janet Brown cho biết, bạn không nên sử dụng các dụng cụ cắt móng tay ở phần dưới móng tay, bởi điều này gần giống như việc bạn đang đào càng ngày càng sâu phần rãnh phía dưới móng tay, khiến phần móng tay dễ bị tách ra khỏi da, dẫn đến tình trạng móng tay bị cong, vểnh lên.
Thói quen 3: Thường xuyên vệ sinh móng tay
Bác sĩ Brown khuyên rằng, hãy thường xuyên vệ sinh móng tay bằng cách cắt, tỉa chúng. Thông thường, mỗi tuần 2 lần bạn nên cắt, tỉa lại móng tay. Tuy vậy, cũng tùy theo mỗi cá nhân, “sức khỏe” của móng tay mà tinh chỉnh chu kì thời gian vệ sinh cụ thể.
Thói quen 4: Không cắt đi lớp biểu bì
Các lớp biểu bỉ có tác dụng rất quan trọng, nó như một lớp bảo vệ, phủ kín bề mặt móng tay, khiến chúng luôn được bảo vệ. Điều này có nghĩa khi bạn cắt bỏ lớp biểu bì này cũng là lúc móng tay của bạn có khả năng dễ bị vi khuẩn xâm hại và dễ bị nhiễm trùng. Lớp bảo vệ không còn, móng tay sẽ trở nên yếu hơn, việc xước, gãy móng tay xảy ra thường xuyên hơn.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ da liễu Debby Palmer, một tuần một lần bạn nên loại bỏ lớp biểu bì chết, sau đó bạn nên dùng kem dưỡng da để phục hồi lớp biểu bì mới.
Thói quen 5: Khử trùng các dụng cụ vệ sinh móng tay
Thuốc khử trùng, dụng cụ vệ sinh móng tay là những thứ bạn cần rất lưu tâm khi “chăm sóc” chúng. Điều này cũng giống như việc bạn thường xuyên phải vệ sinh cọ trang điểm, để loại bỏ vi khuẩn gây hại.
Theo Bác sĩ Brown, để móng tay của bạn luôn khỏe mạnh, cứng cáp, điều quan trọng nhất là bạn phải vệ sinh những vật dụng chăm sóc móng tay thường xuyên. Cụ thể, bạn nên rửa sạch chúng với nước sạch và xà bông, sau đó rửa lại bằng cồn, và nếu một vật dụng vệ sinh móng tay đã quá cũ, bạn đừng ngần ngại mua một cái mới.
Thói quen 6: Hạn chế sử dụng các loại hóa chất, sơn móng tay móng chân.
Cũng như các loại mỹ phẩm thông thường, không phải tất cả các nhãn hiệu sơn móng tay đều tốt. Hãy chắc chắn rằng, bạn đang sở hữu một lọ sơn móng tay chất lượng. Theo Tiến sĩ Debby Palmer, bạn nên tránh xa những nhãn hiệu sơn móng tay có các chất độc hại như dibutyl phthalate, formaldehyde, toluene…, vì những độc tố này khiến móng tay của bạn giòn hơn, dễ rạn nứt và dễ gãy hơn.
Thói quen 7: Hạn chế để tay và móng tay tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời
Khi móng tay và vùng da dưới tay tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời nguy cơ bị ung thư tăng lên bởi tác động của những tia cực tím.
Để giảm thiểu rủi ro này, Bác sĩ Brown khuyến cáo bạn nên sử dụng loại kem chống nắng có chỉ số SPF từ 30 đến 50, đồng thời bảo vệ tay và móng tay khi đi dưới trời nắng. Có thể sử dụng gang tay loại dày để tránh các tia UV có hại. Bạn nên lưu ý, bảo vệ tay và móng tay khỏi những tia UV, tia cực tím có hại, nghĩa là bạn đang trực tiếp bảo vệ sức khỏe của mình trước nguy cơ bị ung thư.
Thói quen 8: Để móng tay được nghỉ ngơi
Vào ngày cuối tuần, bạn có thể thỏa sức khoác lên những màu áo mới cho móng tay, những ngày còn lại nên để chúng được nghỉ ngơi. Theo Tiến sĩ Shamban, khi bạn sơn những màu nổi bật, mạnh mẽ, khả năng móng tay bị khô tăng lên. Theo thời gian móng tay có thể bị ngả vàng, thậm chí làm suy yếu cấu trúc của móng.
Thói quen 9: Sử dụng găng tay để bảo vệ móng
Bạn nên sử dụng găng tay khi phải tiếp xúc nhiều với nước. Theo Tiến sĩ, Bác sĩ Brown bất cứ khi nào bạn phải làm những công việc liên quan đến hóa chất mạnh như rửa chén, giặt quần áo…,công việc làm vườn, hoặc bất cứ công việc gì liên quan đến nước và có thể làm bẩn tay, bạn nên đeo găng tay bằng cao su, nhựa vinyl, hoặc nhựa nitrile găng tay, và tốt hơn nữa là có một lớp lót cotton.
Việc làm sạch thực phẩm trong nước nóng nóng, nước xà phòng mà không có găng tay có thể làm suy yếu các móng tay. Tương tự như vậy, khi khí hậu trở nên lạnh lẽo, nhớ đeo một đôi găng tay để giữ ấm tay và móng tay. Bởi công việc giữ ẩm cho móng tay rất khó khăn, bạn đừng dễ dàng để cho tay và móng tay bị khô, dễ bong tróc và dễ gãy.
Thói quen 10: Coi trọng sức khỏe hơn làm đẹp
Móng tay dài là đẹp. Tuy nhiên, nếu là người phải thường xuyên lao động nặng, hoặc làm những công việc sử dụng đến phần móng tay nhiều, quan trọng nhất theo tiến sĩ Shamban là bạn nên để móng tay ngắn, cao hơn hoặc bằng so với phần thịt ở đầu ngón tay. Móng tay ngắn thường sẽ có các cạnh tròn hơn, bạn cũng dễ dàng kiểm soát và chăm sóc chúng hơn. Hơn nữa, móng tay ngắn sẽ khiến bạn chỉ tập trung để ý về sức khỏe của chúng mà không có mối bận tâm nào khác. Móng tay đẹp đơn giản chỉ là dạng móng tay có sức khỏe tốt, độ dài tương đồng với các ngón tay còn lại, còn việc độ dài của chúng, bạn không nên quá đề cao.
Thói quen 11: Quan tâm đến chế độ ăn uống
Móng tay của bạn được làm bằng một loại protein đặc biệt gọi là keratin. Vì vậy cũng như làn da hay mái tóc, bạn có thể cải thiện sức khỏe móng tay của mình bằng cách tinh chỉnh chế độ ăn uống hợp lý. Tiến sĩ Falcone khuyên rằng, bạn nên thêm vitamin và các chất bổ sung như biotin, Vitamin E, dầu cá vào thực đơn ăn uống hàng ngày của bạn. Một số loại thực phẩm giàu protein như : đậu, cá, và các loại hạt. Các chuyên gia đồng thời khẳng định, khi bạn kết hợp tốt các chế độ dinh dưỡng này móng tay của bạn sẽ khỏe mạnh và đẹp hơn trông thấy.
>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!
>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!
Thể nghiệm là gì ? Khi ta nói “Tôi đau khổ”, “Tôi sung sướng”... thì điều muốn diễn đạt là một cảm giác có thật, cũng là diễn đạt một loại thể nghiệm, trần thuật lại một loại thể nghiệm. Còn vô số điều khó mà diễn đạt được bằng lời, chẳng hạn như “Chiêm bao” là sự trầm tích từ đáy lòng về một thế giới đa dạng, nhiều sắc thái, đầy sáng tạo. Mỗi vùng, mỗi đất nước đều có nền văn hóa với những hạt nhân khác nhau. “Trời” có thể nói là hạt nhân của văn hóa Trung Hoa . Không biết “ Trời” thì cũng không thể hiểu, hoặc không cảm nhận được sự thể nghiệm này.
Nhưng đây là khái niệm “Trời” có lịch sử. Sự ra đời của Văn hóa nhà Chu giữa giao thời An – Chu, hạt nhân của nó là “Lấy Trời làm trên hết, lấy đức làm gốc”. Nó được hun đúc qua các thời Chiến Quốc, Tần Hán và đã có những biến đổi to lớn. Nếu nói Trời của người đời Chu được hiện ra thành hệ thống lớn thiên hạ thì Trời ở thời Chiên Quốc, Tần Hán lại hiện thành hệ thống lớn thiên, địa, nhân.
Toàn bộ sự hiển hiện của thể nghiệm này là sự tiêu giảm, tăng trưởng của âm dương, tượng vận hành của năm khí. Đạo gia gọi đoa là “ Đạo”, lý học gọi đó “Lý”, Đồng Trọng Thư gọi đó là “ Trời”. Đương nhiên đạo, lý, Trời đều là sự xạ ảnh, mô phỏng, tượng trưng ra bên ngoài của sự thể nghiệm vũ trụ đó. Còn âm dương, ngũ hành là hệ thống công cụ để biễu diễn sự thể nghiệm đó.
Âm dương và ngũ hành đều khởi nguồn từ sự thể nghiệm sinh mệnh được tuôn trào ra từ tâm linh của người Trung Quốc cổ. Khác với sự thể nghiệm chân thực, ở đây là sự thể nghiệm mô phỏng, tượng trưng ẩn dụ.
Như mộng, theo dạng đặc biệt này mà nói: mộng cảnh là tượng, mộng ý là thể nghiệm. Về căn bản mà nói: sự thể nghiệm bị con người ngày nay xem là “ thần bí” đó không thể dùng lời nói và logic để truyền lại mà chỉ có thể tự mình “ cảm nhận”. Nhưng trải qua sự thể nghiệm trời, đất, vạn vật hòa quyện với nhau làm một và khi sự thể nghiệm đó đã “phát hiện” được cách biểu đạt thích hợp thì tự nhiên nó được giải thích bằng lời, bằng văn một cách sinh động. Sáng tạo là “thiên tích” (trời cho), tức là từ “tượng” mà toát thành lời. Giống như nghệ thuật tạo hình là phương thức thể nghiệm không diễn đạt được thành lời còn nhiều, còn phong phú hơn cả những cái đã được diễn đạt bằng lời. Chữ Hán không có sự lặp lại một cách máy móc như các loại chữ khác mà ưu tạo hình của nó chính là kết tinh của phương thức biểu đạt sự kết hợp giữa sự thể nghiệm của con người đối với thế giới chung quanh cộng thêm ngôn ngữ. Âm dương, ngũ hành đã mượn cái công năng vượt khỏi ngôn ngữ trong Hán tự, nó là hệ thống ngôn ngữ để biểu diễn sự thể nghiệm về vũ trụ, song nó vẫn chưa diễn đạt hết những ý cảnh không nói được bằng lời đó.
Nếu nói âm dương, ngũ hành là cái giá, cái khuynh, vậy thì chỉ có xuyên qua nó mới có thể ngầm hiểu được thế giới ẩn tàng trong đó, mới có thể nắm được cái thế giới mà người xưa sống trong đó. Cho nên nói, ta muốn thông qua âm dương, ngũ hành để học các dạng kỹ thuật, thuật số thì trước hết phải hiểu rõ tính chất của : kim, mộc, thủy, hỏa, thổ mà người đời xưa đã thể nghiệm. Tức là dùng một hệ thống khái niệm và một tự tính toán tối giản để cố gắng diễn đạt một tư tưởng hết sức hòan chỉnh và phong phú. Quan niệm về âm dương và ngũ hành được bắt nguồn không phải từ văn hoá đời Chu. Từ thời Tần Hán, học thuyết âm dương, ngũ hành đã bắt đầu trở thành hệ thống biểu diễn được quán triệt trong mọi lãnh vực. “Lã thị xuân thu” được hình thành ở miền đất phía Tần đã cụ thể hoá một bước thuyết âm dương, ngũ hành vốn đã được lưu truyền rất rộng rãi, rất thịnh hành thời đó. Trong “ Thập nhị kỷ” đã miêu tả trong một năm, các thiên tượng, khí tượng, vật tượng tương ứng với sự vận động của năm khí và lấy đó làm căn cứ để chế dịnh ra luật lệnh vũ trụ của mười hai tháng trong một năm.
“Lệnh tháng” là dùng ngũ hành và âm dương để miêu tả lại sự cảm thụ đối với sự thay đổi thời tiết của các mùa. Đến giữa đời Tây Hán hai học thuyết âm dương và ngũ hành đã kết hợp lại với nhau và dần dần được thừa nhận là một hệ thống biễu diễn chung. Trong hệ thống khái niệm mà học thuyết âm dương ngũ hành biểu diễn này, vũ trụ là một bức tranh trong đó trời đất, vạn vật hòa quyện với nhau, cảm ứng lẫn nhau, xâm nhập lẫn nhau “khiến cho con người vừa bị ràng buộc, vừa sợ hãi”. Con người sống trong thế giới đó “thuận theo thì tốt, nếu làm ngược lại, không chết thì cũng gặp tai hoạ”. Người hòan thành cuối cùng của hệ thống biểu diễn này là “Chuẩn nam tử” và Đổng Trọng Thư. Họ tuy phân biệt đại biểu cho hai truyền thống lớn là Đạo gia và Nho gia, nhưng cùng đưa ra một hệ thống quan niêm, cùng sử dụng một hệ biểu diễn ( âm dương, ngũ hành), cùng có một phẩm chất tinh thần như nhau. Trong hệ thống văn hóa Trung Quốc cổ, tuy hai người ở những tầng thư và lĩnh vực khác nhau, nhưng lại xác lập cho nhau, bổ trợ cho nhau, thống nhất làm một. Nền văn hóa Trung Quốc luôn lấy “hệ thống lớn” làm đạo.
Đạo này không phải là “hệ thống lớn thiên hạ” gồm hai chiều không gian mà các nhà Nho, Pháp đời Tần trước đây truy tìm mà là “ Hệ thống lớn: cổ, kim, thiên, địa, nhân”, lập thể và thời gian gồm bốn chiều lấy âm dương và ngũ hành làm biểu tượng. Nho, Đạo, Mặc, Danh, Pháp gia đều tìm thấy vị trí của mình trong hệ thống này. Âm dương, ngũ hành là từ thời Tần Hán về sau, người Trung Quốc sống trong thế giới lập pháp chế định ra, là nhân tố thống triệt trong mọi lĩnh vực văn hóa khác và hình thành nên văn hoá Trung Quốc ngày nay.
“Người” là con người có gốc ở trời. Về bản chất Trời là cái gì đó không thể nói được bằng lời, nhưng trời thông qua âm dương và ngũ hành để thể hiện. Con người thông qua hiểu rõ âm dương, phân biệt ngũ hành để có thể hiểu được chí trời, đạo trời. Thực tế là con người lấy âm dương, ngũ hành để miêu tả lại sự thể nghiệm đối với trời. Người là con người có gốc ở trời. Đổng Trọng Thư qua “Thái cực đồ thuyết” nói rõ: âm dương, ngũ hành đều ra đời từ Thái cực. Thái cực là chỉ “năm khí phân bố”, “hai khí giao cảm”, tức là muốn nói âm dương, ngũ hành đều là khí.
Con người là tú khí của âm dương ngũ hành nên cao quý nhất trong vạn vật. Con người là vật quý nhất trong vũ trụ, vì hình thể của con người là do thiên số hóa thành; khí huyết của con người là do thiên khí hóa thành; đức hạnh của con người”. Vì trời là tổ của vạn vật, con người được thụ mệnh của Trời trong hệ thống lớn, do đó con người phải hành động thuận với lẽ trời, không được làm ngược lại.
Con người vì sao lại có mệnh vận ? Cái quan trọng nhất của con người là mệnh vận. Điều mà con người thể nghiệm sâu sắc nhất là mệnh vận. Cái khó nhất, mơ hồ nhất của con người thể nghiệm về thế giới cũng là mệnh vận. Mệnh vận mà chúng ta nói không phải là một lực lượng siêu tự nhiên, siêu nhân nào khác nằm bên ngoài hoặc từ bên ngoài đến, mà thực chất là một loại thể nghiệm. Cái gọi là “thần của mệnh vận”, “lực của mệnh vận” chẳng qua là sản vật được thể hiện ra bên ngoài của sự thể nghiệm về mệnh vận. Mệnh vận tồn tại khắp mọi nơi, mọi lúc. Tất cả mọi cảm thụ, mọi hoạt động, mọi sự sáng tạo của con người đều lấp lánh ánh sáng của sự thể nghiệm về vận mệnh. Mệnh vận với tư cách là một dạng thể nghiệm, rất khó nói bằng lời, căn bản không thể tìm ra được một định nghĩa ngắn gọn thích hợp. Mênh vận tuy có thể biết được, nhưng là vô hình, muốn nói rõ về nó thì trước hế phải thể hiện nó bằng hình tượng. Sự thể nghiệm hệ thống lớn thiên, địa, nhân là lấy tượng âm dương, ngũ hành để diễn đạt.
Sự biến đổi của thiên tượng là ở sự biến đổi của âm dương ngũ hành. Sự biến đổi của âm dương, ngũ hành bắt nguồn ở sự biến mất của người hay sự việc. Cho nên nói: sự biến mất của người hay sự việc và sự biến đổi của thiên tượng là đều do cảm ứng của âm dương, ngũ hành mà ra. Mệnh của con người thể hiện sự “biến đổi” của vũ trụ, cũng tức là sự thể nghiệm một trạng thái nhất định nào đó trong quá trình biến dịch của vũ trụ. Con người tàng chứa toàn bộ “thông tinh” của những trạng thái này. Điều đó được gọi là “bẩm sinh”. Những “thông tin” của trạng thái vũ trụ được biểu tượng bởi âm dương, ngũ hành. Người ta dùng can, chỉ để biểu thị nó. Nhưng sự biến đổi khác nhau của vũ trụ, mệnh sẽ biểu hiện thành những vận khác nhau. Vì vậy mới có từ gọi là mệnh vận. Mệnh là một trạng thái vũ trụ nhất định nào đó cố kết lại, còn vận là những cảnh ngộ gặp phải trong trạng thái vũ trụ khong ngừng lưu biến.
Âm dương, ngũ hành là khí. Mệnh vận mà nó biểu hiện được hiển hiện thành những khí có cấu thành bởi các “thành phần” khác nhau. Đối với mỗi người mà nói, vì phân lượng khó bẩm sinh thụ đắc khác nhau nên có sự chênh lệch nhau. Người hấp thụ được khí trong, thuần khiết, đầy đặn thì bẩm sinh tốt, người hấp thu được khí đục, tạp, khô, mỏng thì bẩm sinh không tốt. Con người sống giữa trời đất. Một trạng thái khí nhất định nào đó của vũ trụ đều nằm trong sự biến đổi không ngừng của vũ trụ.
Khi ta đã hiểu rõ tượng của âm ương, ngũ hành thì sẽ ngầm hiểu được thế giới “vạn vật với ta làm một”. Trong thế giới này, một sự vật dù to hay nhỏ, đều tuân theo quy luật “ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, giao cảm lẫn nhau, tác động lẫn nhau. Do đó thế giới này là “thế giới thông tinh” mà âm dương, ngũ hành là biểu tượng của các thông tin đó. Mệnh vận của từng cá thể vốn có trong vũ trụ. Đó chính là ý nghĩa cơ bản của trị mệnh. “Tri mệnh thì không lo”, đó thực sự là chân trời cao cả.
Lược trích "Dự đoán theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa.
Đông Chí năm 2015 sẽ diễn ra vào ngày 22 tháng 12 dương lịch tức ngày 12 tháng 11 theo âm lịch. (Các bạn có thể xem rõ hơn lịch về ngày Đông Chí 2015 tại lịch vạn niên).
Có nhiều lễ hội truyền thống trên thế giới được tổ chức vào ngày Đông chí như Lễ hội Yule của đạo Wicca, một trong tám lễ hội Sabbat của những người theo đạo đa thần giáo kiểu mới (Neopagan) này. Và rất nhiều nền văn hóa khác cũng tổ chức lễ hội vào ngày này hoặc xung quanh ngày này như lễ hội lễ hội Yalda, lễ hội Saturnalia, lễ Giáng Sinh, Hanukkah, lễ hội Festivus, lễ hội Kwanzaa và lễ hội HumanLight….
Rộn rã lễ hội Đông Chí trên thung lũng Pakistan
Trong các lễ hội này phải kể đến Tết Đông chí - một ngày tết truyền thống đặc sắc của người Hoa ở khắp nơi trên thế giới và là một trong những thời điểm tổ chức nghi lễ, chiếm vị trí quan trọng trong tín ngưỡng truyền thống Trung Hoa từ nghìn năm qua. Vậy Tết Đông Chí của người Hoa như thế nào? Có nguồn gốc từ đâu? Có phong tục tập quán thú vị ra sao? … Chúng ta hãy cùng tìm hiểu để làm phong phú hơn kiến thức của mình nhé!
>>> Đã có TỬ VI 2016. Xem ngay nhé!
>>> Đã có XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016. Xem ngay nhé!
1./ Ngày Đông Chí là ngày gì?
Đông Chí là một trong 24 tiết khí trong năm: “Đông” có nghĩa là mùa đông. Chữ “Chí” trong cụm từ “Đông Chí” có nghĩa là cực điểm, đỉnh điểm. Nhưng đỉnh điểm, cực điểm không phải là lạnh đến cực điểm mà là chỉ vị trí Trái đất xoay quanh Mặt trời, đến tiết Đông Chí, người dân sống ở Bắc bán cầu trong ngày Đông Chí sẽ thấy ban ngày có thời gian rất ngắn; đến sau Đông Chí thì ngày mới bắt đầu dài dần ra và ngược lại người dân ở Nam bán cầu sẽ có ngày rất dài.
Vị trí của trái đất bốn mùa trong năm
Ngày đông chí là ngày chứa điểm đông chí tính theo múi giờ địa phương. Theo quan điểm của người Trung Hoa và các dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại như Việt Nam thì ngày Đông chí là phù hợp với các tính toán của thiên văn học đối với Bắc bán cầu. Ngày Đông chí là một yếu tố quan trọng để xác định ngày Tết Nguyên Đán cũng như xác định tháng nhuận, các ngày tốt xấu và tất cả các tiết khí khác trong âm lịch năm sau….
2./ Nguồn gốc Tết Đông Chí của người Hoa.
Tiết Đông chí là một trong những thời điểm tổ chức nghi lễ, chiếm vị trí quan trọng trong tín ngưỡng truyền thống Trung Hoa từ nghìn năm qua.
Trung Quốc cổ đại chia một năm thành 24 tiết khí, mỗi mốc 15 ngày đánh dấu sự thay đổi của khí hậu và quá trình chuyển mùa. Điều này thể hiện rõ trong hoàng lịch của Trung Hoa và thời điểm tổ chức lễ hội và nghi lễ, bao gồm những sự kiện diễn ra vào ngày Đông chí.
Tết Đông Chí là một ngày lễ có nguồn gốc từ Trung Quốc, theo sử sách ghi lại, vào thời phong kiến, đến ngày “Đông Chí”, vua quan sẽ cùng nhau thưởng thức âm nhạc trong vòng 5 ngày, còn trong các gia đình người dân, mọi người cũng sẽ cùng nhau diễn tấu các loại nhạc cụ để cùng chung vui.
Từ xa xưa, các triều đình phong kiến Trung Quốc đã coi Đông Chí đã trở thành ngày quốc lễ
Từ triều đại Thương và Chu đến triều đại Tần (221 TCN – 206 SCN), Đông chí được coi là sự khởi đầu của năm mới và cũng là ngày lành tháng tốt để vua chọn cử hành lễ tế trời.
Vào triều Hán (206 TCN – SCN 220), Đông Chí được gọi là “Đông Tiết” và thịnh hành tập tục tặng quà chúc mừng nhau (gọi là “bái đông”). Đông chí trở thành ngày quốc lễ, được đánh dấu bằng việc các quan và quân tạm dừng công vụ, đóng cửa biên giới và ngưng giao thương. Đối với những người làm việc chăm chỉ và cống hiến không mệt mỏi trong mọi tầng lớp, ngày ngày là ngày nghỉ ngơi hiếm hoi và rất xứng đáng.
Thời Ngụy Tấn, “Đông Chí” được gọi là “Á Tuế”, dân chúng thường tổ chức chúc mừng cha mẹ và các bậc trưởng bối.
Kể từ triều đại nhà Đường và Tống, Đông Chí bắt đầu trở thành ngày cúng thờ tổ tiên. Nhà vua sẽ tổ chức một nghi thức tế lễ lớn để tỏ lòng tôn kính đối với Thiên thượng. Thiên Đàn ở Bắc Kinh được xây dựng khoảng 600 năm trước để phục vụ cho nghi thức này. Trong “Thanh Gia Lục”, một tài liệu thời nhà Thanh, Đông chí và các nghi lễ diễn ra vào hôm đó chiếm vị trí quan trọng tương đương với nghi lễ mừng năm mới.
Uống rượu ngày Tết
Kính ngưỡng Thiên thượng là nguyên lý cốt lõi trong niềm tin truyền thống của Trung Hoa, qua đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thuận theo Thiên ý và quy luật tự nhiên. Giống như giai đoạn khắc nghiệt của mùa đông cũng như một hành trình gian khó để bắt đầu thời kì mới, đây cũng là khoảnh khắc suy tư và lắng đọng.
Các quy tắc lễ nghĩa, mà nổi tiếng là Đạo Khổng, đóng vai trò cốt lõi trong đời sống tinh thần của các lãnh đạo Trung Hoa cổ đại và người dân của họ. Thiên tử giáo hóa dân chúng bằng sự khiêm nhường trước ân đức và sức mạnh vô biên của vũ trụ. Các vương triều cổ đại tạ ơn Trời và biết rõ vị trí nhân loại trong thế giới tự nhiên.
3./ Phong tục đón Tết Đông Chí của người Hoa.
Phong tục họa và treo bức tranh hình cây đào với 9 bông hoa để trắng trên tường sau ngày Đông Chí
Tranh hoa đào treo ngày Tết
Tại Trung Quốc đại lục, vào thời điểm Đông chí, ngày ngắn nhất, đêm lại dài nhất, nên đây được xem là cột mốc chuyển dịch quan trọng trong quy luật tự nhiên, qua thời điểm này, bóng tối vốn mang khí âm phải nhường chỗ cho ánh sáng đầy dương khí, tiết trời sẽ rạng rỡ hơn bao giờ hết. Ngoài ra, khi Đông chí đến cũng là thời điểm báo hiệu một chu kì năm sắp kết thúc.
Mặc dù Đông chí là ngày tối nhất trong năm, đánh dấu sự khắc nghiệt của mùa đông, nhưng nó không hẳn là lạnh nhất. Dân gian có câu: “sổ cửu hàn thiên” tức, ngày Đông chí đến thì những ngày đông lạnh giá nhất cũng bắt đầu. Vì ngày trở nên dài hơn, nên sẽ mất vài tuần để ánh sáng Mặt trời bao phủ khắp Bắc bán cầu.
Mùa đông sau ngày Đông chí kéo dài chín lần chín là 81 ngày, điều này được ghi nhận trong truyền thống dân gian Trung Hoa, theo đó mỗi mốc chín ngày đại diện cho một giai đoạn khác nhau của mùa lạnh giá này đươc gọi là một ‘cửu’.
Chu kỳ 81 ngày mùa đông được thể hiện trong bài đồng dao có tên là “Đông Cửu Cửu ca”:
Nội dung bài đồng dao phụ thuộc vào vùng miền, dưới đây là bài đồng dao vùng Hoa Bắc:
“Nhất cửu nhị cửu bất xuất thủ,
Tam cửu tứ cửu băng thượng tẩu,
Ngũ cửu lục cửu duyên hà vọng liễu,
Thất cửu hà khai, bát cửu nhạn lai,
Cửu cửu gia nhất cửu, canh ngưu biến địa tẩu”.
Tạm dịch:
“Cửu một, cửu hai, tay không động,
Cửu ba, cửu bốn, bước trên băng,
Cửu năm, cửu sáu, liễu rủ xanh bờ,
Cửu bảy băng tan, cửu tám nhạn về,
Cửu chín, hết mùa đông, trâu ta lại ra đồng”.
Để đánh dấu mỗi khi các ngày cửu đi qua, người dân Trung Quốc thường cho họa một bức tranh hình cây đào với 9 bông hoa để trắng, rồi treo lên tường, mỗi cửu đi qua, một bông hoa được tô màu đỏ, phong tục này được gọi là “họa cửu”, còn tranh có tên gọi là “mai hoa tiêu hàn đồ”. Khi mùa xuân đến, bức tranh sẽ rực rỡ sắc màu kịp lúc đón xuân về, muôn hoa đua nở.
Phong tục ăn thang viên – một món chè gần giống chè trôi nước trong ngày Đông Chí.
Tới ngày Tết Đông Chí, các gia đình người Hoa khắp nơi trên thế giới thường nghỉ ngơi, tổ chức các lễ hội, cỗ bàn để cúng tế thần và ông bà tổ tiên của mình.
Chè trôi hay bánh trôi tàu - Món ăn truyền thống ngày Tết Đông Chí
Cũng như tết Nguyên Đán, Đoan Ngọ và Trung Thu có các món bánh đặc trưng của mình như bánh tổ, bánh ú, bánh Trung Thu, ngày tết Đông Chí cũng có món ăn đặc trưng của mình, đó chính là món “chè trôi nước” (còn gọi là chè trôi tàu hoặc là bánh trôi tàu).
Xa xưa, Đông chí rất lạnh nên thường diễn ra cùng với loại thực phẩm giúp giữ ấm cơ thể như bánh bao hấp và hoành thánh. Với lãnh thổ rộng lớn, sự khác biệt trong truyền thống giữa các vùng miền ở Trung Quốc rất rõ rệt. Ở phía Bắc lạnh lẽo, các món thịt và thức uống được coi là ‘nóng’ sẽ trở nên rất phổ biến, trong khi miền Nam có tập tục ăn thang viên – một món chè gần giống chè trôi nước và dần dần trở thành món ăn truyền thống trên khắp Trung Quốc cho tới ngày nay.
Bên cạnh đó, đây còn là món ăn được cho rằng liên quan đến tích truyện người con gái hiếu thảo trong “sự tích chè trôi nước” với ý nghĩa đoàn viên.
Tuy nhiên, trong không khí náo nhiệt này lại có một nhóm người Hoa lại không hề tổ chức cúng tế và ăn món chè trôi nước truyền thống, họ là ai và tại sao lại như vậy? Đó chính là những người Hoa họ Phùng (gốc gác tại huyện Hạc Sơn tỉnh Quảng Đông Trung Quốc), do trong quá khứ xa xưa, có một cô gái họ Phùng nghèo khó phải đi làm người ở cho một gia đình họ Tăng, gia đình nhà chủ này khá khắt khe và kiêng cữ trong cuộc sống hàng ngày nhất là vào các dịp lễ tết trong năm. Có một lần vào dịp tết Đông Chí, trong lúc dọn cỗ bàn cúng tế, người con gái họ Phùng này lỡ tay làm rơi một đĩa thức ăn, nhà chủ nổi giận và đánh đập cô đến chết. Hành vi tàn ác của gia đình nhà chủ này đã gây nên lòng căm phẫn của bà con họ Phùng và họ đã tuyên bố từ đó về sau sẽ không tổ chức mừng ngày tết Đông Chí để nhớ đến mối ân thù của cô gái bị đánh chết chỉ vì một chuyện nhỏ nhặt. Đây cũng là một điểm đáng buồn và làm phong phú hơn những câu chuyện về ngày Tết Đông Chí mang ý nghĩa đoàn viên này.
4./ Phong tục đón Tết Đông Chí của bà con người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, do yếu tố di dân nên người Hoa khi di cư đến vùng đất mới thường đem theo cả những phong tục tập quán của mình, và “Tết Đông Chí” cũng được người Hoa mang đến vùng đất mới.
Một góc thành phố Hồ Chí Minh ngày Tết
Khác với các tập tục nguyên gốc vốn có của ngày lễ, khi đến định cư tại các vùng đất mới, người Hoa thường có xu hướng kết hợp với các đặc điểm của vùng đất mới mà gia giảm các tập tục nguyên gốc của ngày lễ truyền thống để nó trở nên phù hợp hơn với cộng đồng xã hội mới mà mình đang sinh sống.
Chính vì vậy, ngày “tết Đông Chí” tại TP.HCM đã có nhiều biến đổi khác so với nguyên gốc của nó và chỉ còn thịnh hành là ngày cúng tế tổ tiên, ông bà. Món ăn chính thức trong ngày này vẫn là món “chè trôi nước” với ý nghĩa “đoàn viên, đoàn tụ”.
Thiết nghĩ, với cuộc sống không còn khó khăn như hiện nay, việc tổ chức ngày Tết Đông chí truyền thống của dân tộc mình ở mỗi gia đình không phải là việc làm quá khó mà vẫn giữ được nét văn hóa đẹp, rất đáng được trân trọng bảo tồn./.
Bạch Dương có vẻ khá mũm mĩm và trắng trẻo |
Nụ cười hổng có "răng" của Kim Ngưu |
Song Tử luôn cười tít mắt |
Cự Giải có đẹp "zai" không ạ? |
Sư Tử: "Con là chúa sơn lâm đó nha!" |
Các nàng Xử Nữ điệu tự bé nè |
Thiên Bình: "Lớn lên con sẽ làm người đại diện cho công lý ạ!" |
Hổ Cáp: "Blêu blêu" |
Nhân Mã thật là rắn rỏi và mạnh mẽ từ nhỏ |
Ma Kết đáng yêu quá đi à |
Bảo Bình cũng dễ thương không kém nè! |
Nụ cười tỏa nắng của Song Ngư |
Sở dĩ y phục được dệt từ sợi tơ tằm lại đẹp như vậy, bởi vì vốn dĩ nó là thứ ở trên Thiên Thượng được Cát Tường Tiên Tử mang xuống nhân gian.
Cát Tường Tiên Tử nắm giữ một loại tiên thuật chỉ cần khẽ hé môi liền có thể phun ra rất nhiều sợi tơ tuyệt đẹp. Vậy nên nàng được Ngọc Đế phong làm Chức y Cát Tường Tiên Tử, chuyên phụ trách y phục của chúng tiên trong thiên cung.
Một ngày nọ, sau khi hoàn thành một ngày làm việc, Chức y Cát Tường Tiên Tử cưỡi mây dạo chơi, trong lúc rảnh rỗi nàng nhẹ vén màn mây nhìn xuống nhân gian thì nhìn thấy ngay cảnh sắc Hàng Châu, sông núi nơi này cực kỳ tươi đẹp.
Vậy mà người dân ở vùng đất xinh đẹp này, lại đều mặc áo gai màu vàng xám tro, loại vải thô sơ chưa được qua xử lý; những bộ áo quần lam lũ này so với phong cảnh tự nhiên tươi đẹp kia là không một chút hài hòa. Lúc này, Chức y Cát Tường Tiên Tử tâm xuất từ bi, quyết định hạ phàm dùng thuật dệt vải của mình giúp nhân loại cải thiện trang phục, vì nhà nhà mà mang đến may mắn và hạnh phúc.
Ý nguyện của Chức y Cát Tường Tiên Tử khiến Ngọc Đế hết sức kinh ngạc, liền nói với nàng: “Nếu như xuống đến nhân gian liền sẽ bị nhiễm bẩn mà trở nên vô cùng xấu xí, khó trở về thiên đình”.
Nhưng Chức y Cát Tường Tiên Tử tâm đã quyết định, không sợ bản thân chịu khổ. Ngọc Đế nói với nàng: “Được rồi, ngươi đã khăng khăng phải đến nhân gian dạy con người dệt vải may y phục, sau khi xuống đến nhân gian thì sẽ trở thành một con tằm lấy lá dâu làm thức ăn”.
Thế là Chức y Cát Tường Tiên Tử mang theo hạt giống của cây dâu, xuống trần gian, nàng đi vào trong núi ở vùng Hàng Châu, biến thành một con tằm cát tường.
Một ngày nọ, Cát Tường Tiên Tử thấy dưới chân núi có A Xảo cô nương đáng thương đang cắt cỏ xanh. Thế là nàng liền để một con chim đầu trắng dẫn A Xảo cô nương lên núi. Để dẫn A Xảo cô nương lên trên núi, con chim đầu trắng liền cất tiếng hát: “Muốn cắt cỏ xanh thì đến bên khe suối ở giữa núi! Muốn cắt cỏ xanh thì đến bên khe suối ở giữa núi!”.
A Xảo nghe tiếng chim mách bảo, chẳng nghĩ ngợi gì, cô vội bước đi theo và vô tình bị lạc đường trong núi sâu. Lúc này, Cát Tường Tiên Tử lại xuất hiện, nàng mặc một bộ đồ trắng trông hết mực xinh đẹp. Cát Tường Tiên Tử đã giữ A Xảo ở lại trong núi mấy ngày, dạy A Xảo cô nương dùng lá cây dâu nuôi ấu trùng tằm, dạy nàng từ kéo tơ trong kén tằm, đến dùng chất lỏng của trái cây đem tơ tằm trắng nhuộm màu, rồi xe thành sợi tơ đặc biệt, cuối cùng đan thành những bộ y phục.
Sau khi học thành thục thuật dệt vải may áo, A Xảo cô nương đem hạt giống cây dâu và con tằm xuống núi. Khi A Xảo về đến nhà thì cha mẹ cô đều đã qua đời, hóa ra đúng là “Một ngày trên núi, mười năm nhân gian”. Vì vậy, A Xảo cô nương lẻ loi một mình ở lại Hàng Châu dạy người dân nơi đây nuôi tằm, kéo tơ, xe sợi, dệt y phục. Con người nhân gian từ đó mà biết trồng dâu nuôi tằm và dệt nên những tấm vải đủ màu sắc. Và Hàng Châu cũng từ đó mà trở thành “con đường tơ lụa” nổi tiếng bốn phương.
Về sau, mọi người đều nói rằng A Xảo cô nương chính là phi tử Luy Tổ của Hiên Viên Hoàng Đế. Còn về Cát Tường Tiên Tử, nàng sau đó cũng đã cam tâm tình nguyện hạ thế làm tằm cát tường vĩnh viễn lưu tại nhân gian, nhiều đời vì con người mà nhả tơ cung cấp nguyên liệu làm y phục, mang đến may mắn và hạnh phúc cho nhân loại.
Iris dịch từ Epochtimes
1. Làm điều ác, thu lợi từ việc hãm hại người khác là điều gây họa mà phong thủy tốt cũng không tránh được. Khổng Tử răn rằng, hôm nay hại người ắt mai người sẽ hại lại, bằng không, của bất chính không bền lâu, người bất nhân không hưởng thọ.
2. Không chăm lo, hiếu kính đúng mực với người lớn tuổi. Trưởng bối là cội rễ, lưu truyền gia phong, nếp nhà. Nhà không có cội như cây không có rễ, sớm ngày tàn lụi.
3. Suy rộng ra, một quốc gia là một gia đình lớn, quốc gia mà kẻ vô đạo lên nắm quyền, người gian ác được trọng dụng hơn hiền tài thì ắt đi vào diệt vong. Trí tuệ và đức độ là điều mạnh hơn phong thủy. Mỗi quốc gia đều lựa chọn kinh đô hoặc những công trình kiến trúc bề thế ở vị trí đắc địa, đẹp về phong thủy. Nhưng phong thủy tốt mà chính quyền không tốt, thì không thể phát triển hưng thịnh.
4. Văn hóa dân tộc là nền móng quốc gia. Văn hóa vững thì quốc gia mạnh, văn hóa yếu thì quốc gia suy đồi. Người già biết làm gương, con trẻ biết học hỏi, ấy là phúc phần mà không phong thủy nào có thể mang lại. Nhược bằng ngược lại thì phong thủy hay cũng chẳng để làm gì.
5. Lời răn về phong thủy của Khổng Tử còn mở rộng ra, mỗi quốc gia như một gia đình trong thế giới rộng lớn. Người có đạo đức, trí tuệ và tâm huyết bị thay thế bởi những kể tham lam, vô độ, tàn bạo trong những vị trí chủ chốt, thì thế giới đi vào con đường lầm lạc. Thế giới lầm lạc thì quốc gia chịu ảnh hưởng, gia đình chịu họa lây.
Vì thế, phúc phận, điều hay tốt của một gia đình, một quốc gia, cả thế giới không gói gọn trong phong thủy, hướng nhà, cuộc đất mà là đức nghiệp được gây dựng sâu xa. Như câu “đức năng thắng số” là vậy. Người đức độ, kẻ hiền lương, thì địa thế xấu đến đâu cũng ắt thành đại nghiệp. Theo Qtcs
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thùy Dung (##)
Phi tinh và Loan đầu (loan đầu đây là nói về hình thể bên ngoài, không liên quan tới phái Loan đầu) là 2 yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau trong việc quyết định cát, hung của 1 căn nhà, còn thiết kế bên trong cũng có tác dụng nhưng yếu hơn, nên chỉ là phụ thuộc mà thôi. Cũng giống như 1 căn nhà tuy phía trước có biển lớn, phía sau có núi cao, 2 bên Long, Hổ hùng tráng bảo vệ. Nhưng nếu phi tinh lại gặp phải cách vượng khí của Sơn tinh tới phía trước, Vượng khí của Hướng tinh tới phía sau thì vẫn bị cách “Thượng Sơn, Hạ Thuỷ” mà gia nghiệp suy bại thê thảm. Nếu những căn nhà đã bị như thế thì dù thiết kế bên trong có hoàn mỹ tới đâu cũng không thể làm thay đổi cục diện xấu của căn nhà. Ngược lại, 1 nhà tuy phía trước có núi cao, còn phía sau có biển lớn, tuy đối với phái Loan đầu là cục diện thất bại, nhưng nếu có vượng khí của Sơn tinh tới phía trước, vượng khí của hướng tinh tới phía sau thì vẫn có thể phát phúc 1 thời. Cho nên mới nói Loan đầu phụ thuộc vào Phi tinh, Phi tinh phụ thuộc vào Loan đầu là vậy.
Về sự tương quan giữa vận-sơn-hướng tinh trong cùng 1 cung thì cũng đã có nhiều sách vở đề cập tới, thậm chí còn chia ra thành tỷ lệ phần trăm giữa 3 sao này để cứu xét. Nhưng có lẽ các tác giả đó 1 là không muốn tiết lộ những gì họ biết, 2 là vì không hiểu rõ tính chất vượng, suy hay “thất, đắc” của những phi tinh nên mới bày vẽ đủ cách tính toán mà thôi. Nhưng thực chất là vì toạ và hướng là 2 phương vị quan trọng quyết định vận khí của 1 căn nhà, nên Sơn tinh và Hướng tinh mới có tầm quan trọng đặc biệt, và cũng vì vậy mà khi lấy trạch vận cho 1 căn nhà thì người ta mới lấy những Vận tinh tới TOẠ VÀ HƯỚNG nhập trung cung xoay chuyển để xác định những phương vị sinh, vượng, suy, tử của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi. Chứ không ai lấy hết Vận tinh chung quanh nhà đem nhập trung cung xoay chuyển làm gì, dù là phía trước của căn nhà đó có thuỷ hoặc cửa ra vào hay không? Hoặc phía sau có núi hoặc nhà cao che chắn hay không? Điều này cho thấy 2 phương toạ và hướng có tác động quyết định lên vận khí của 1 căn nhà, và do đó, sức mạnh của Sơn và Hướng tinh mới có tầm quan trong đặc biệt hơn Vận tinh. Riêng Vận tinh chỉ là vị trí cố định của phi tinh trong từng Vận, nên tác dụng rất yếu, chỉ có khả năng phối hợp với Sơn và (hoặc) Hướng tinh để làm tăng thêm sự tốt, xấu mà thôi, chứ không thể có khả năng chi phối hay giảm thiểu, hoặc làm thay đổi tính chất của Sơn, Hướng tinh cùng vị trí với nó. Còn sự tương tác giữa Sơn tinh và Hướng tinh, trên thực tế phải tuỳ thuộc vào sự “đắc cách” hay “thất cách” của chúng mới có thể biết được sao nào nắm quyền chủ chốt tại khu vực đó. Muốn biềt được điều này thì phải nắm vững những nguyên lý về “Thu Sơn, Xuất Sát” mới không bị lầm lẫn hoặc rối trí trong việc xét đoán những ảnh hưởng của phi tinh trong cùng 1 cung. Biết rằng khí sinh, vượng của Sơn tinh cần phải đóng trên những chỗ cao. Nếu được như thế thì tức là Sơn tinh đã đắc cách, uy lực của nó đương nhiên được phát huy tới mức tối đa, cho nên chẳng những nó có đủ sức để chi phối cả Vận tinh và Hướng tinh tại đó, mà nếu gặp trường hợp Hướng tinh tại đây lại là khí suy, tử thì mọi hung khí của Hướng tinh đều được nó hoá giải. Cho nên đây chính là trường hợp “dùng Sơn thần xuất sát của Thuỷ thần”, hay còn được gọi tắt là “Xuất Sát”.
Ngược lại, khí sinh, vượng của Hướng tinh cần phải đóng tại những nơi có Thuỷ như sông, hồ, ao, biển, hoặc những nơi có cửa nẻo ra, vào nhà. Nếu được như thế là Hướng tinh đã “đắc cách”, nên uy lực của nó đủ để khống chế cả Vận tinh lẫn Sơn tinh tại đây. Nếu trong trường hợp Sơn tinh là khí suy, tử thì sẽ được Hướng tinh hoá giải, làm mất hết hung khí, nên đây là trường hợp “dùng Thuỷ thần để thu sát của Sơn thần”, hay còn được gọi tắt là “Thu Sơn”.
Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí sinh, vượng: nếu khu vực này có núi hay nhà cao thì Sơn tinh nắm quyền, chi phối Vận tinh và Hướng tinh. Nếu khu vực này có Thuỷ thì Hướng tinh nắm quyền, chi phối Vận tinh và Sơn tinh. Nếu khu vực này không có núi, cũng không có Thuỷ, tức là cả Sơn tinh lẫn Hướng tinh đều không có hiệu lực. Đây là cục diện ngang hoà, không có sao nào chi phối nhau cả, và cũng không có ảnh hưởng gì tới vận khí căn nhà.
Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí suy, tử: nếu khu vực này có núi hay nhà cao thì Sơn tinh đó đắc thế, nên nhà sẽ bị tai hoạ do đối tượng ứng với Sơn tinh đó gây ra. Lấy thí dụ như nhà trong vận 8, nơi phía ĐÔNG có Sơn tinh 7, hướng tinh 3. Nếu khu vực đó có núi hay nhà cao thì nhà sẽ bị tai hoạ do Sơn tinh số 7 này mang tới. Vì số 7 thất vận chủ kẻ tiểu nhân hay trộm cướp, nên nhà này dễ bị kẻ tiểu nhân hãm hại, hay trộm cuớp đến phá nhà. Trong trường hợp này, Sơn tinh sẽ khống chế Vận tinh và Hướng tinh. Còn Hướng tinh thất vận lại nằm trên cao nên vô lực. Ngược lại, nếu khu vực đó không có núi, nhưng lại có Thuỷ thì nhà sẽ bị tai hoạ hay thất tán tiền bạc do Hướng tinh đó đem tới. Trong trường hợp này, Hướng tinh đã khống chế cả Vận tinh và Sơn tinh. Còn Sơn tinh vừa là khí suy, tử, vừa đóng tại nơi thấp, trũng nên vô lực.
Cho nên sự tương tác giữa những Sơn tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung là tuỳ thuộc vào sự thất, đắc của chúng mà thôi. Nói “thất, đắc” không phải là nói thất vận hay đắc vận, mà là ám chỉ chúng có đóng tại những nơi phù hợp hay không mà thôi. Sơn tinh nếu đóng trên núi cao là “đắc cách”, sẽ có đủ uy lực sai khiến Thuỷ thần (tức Hướng tinh). Hướng tinh nếu đóng tại những nơi có Thuỷ là “đắc cách”, sẽ có đủ uy lực mà điều động Sơn tinh. Nhưng cũng phải phân ra nếu khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh mà “đắc cách” thì sẽ chủ đại phúc lộc, còn nếu khí suy, tử của Sơn, Hướng tinh mà “đắc cách” thì sẽ chủ đại hoạ. Còn nếu khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh mà “thất cách”, tức là Sơn tinh gặp Thuỷ, Hướng tinh gặp núi thì đã thuộc vào cách “Thượng Sơn, Hạ Thuỷ” rồi. Cho nên khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh cần phải “đắc cách” , còn khí suy, tử thì cần phải “thất cách”. Có như thế thì mới bảo đảm phúc lộc lâu dài và tránh được mọi tai hoạ.
Còn vấn đề dùng Ngũ hành sinh-khắc để luận ảnh hưởng của các sao, cũng như sự phối hợp giữa chúng mà tạo thành những số “hợp thập”, số Tiên thiên hay Hậu thiên, Phản ngâm, Phục ngâm… chỉ là phụ và sau khi đã biết được tình trạng “thất, đắc” của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi.
Thế nào là vượng và thế nào là suy ?
Vượng là khi được đắc cách (dĩ nhiên phải là sao vượng, sinh hoặc tiến khí trong vận đó) như sơn vượng thì có núi cao. Nhà cao, cây cao….Hoặc hướng vượng thì có thủy, trống thoáng hoặc có đường đi.
Suy là khi bị thất cách. Như sao sơn vượng, sinh hoặc tiến khí mà lại gặp thủy. Hay sao hướng vượng, sinh hoặc tiến khí lại gặp sơn. Sao sơn là tử khí mà lại gặp núi hoặc sao hướng là tử khí mà lại gặp thủy.
Lấy thí dụ như nhà trong vận 8, nhưng có Hướng tinh số 2 đắc thuỷ của hồ tắm lớn. Đây là trường hợp tử khí đắc cách, nên trong nhà này vừa bị hao tài, vừa bị bệnh tật liên miên, lại còn xuất hiện quả phụ. Cho nên đàn ông trong nhà đó dễ bị vắn số. Đó là chưa kể nếu nơi đó lại có sơn tinh 3, tạo thành thế “ĐẤU NGƯU SÁT”, nên gia đình sẽ bị mắc khẩu thiệt, quan tụng liên miên. Hoặc nếu nơi đó có sơn tinh hay vận tinh 7, kết hợp với hướng tinh 2 tạo thành cặp 2-7 Hoả tiên thiên thì nhà này dễ bị xung đột hoặc trong nhà có người mắc bệnh đau tim. Vào những năm có niên tinh 9, 7, 2 chiếu tới khu vực này thì bệnh tim càng nặng, có thể chết người. Nếu khu vực này mà lại nằm tại phía ĐÔNG hoặc ĐÔNG NAM thì vào những năm có niên tinh 4, 3 chiếu tới thì còn gặp hoả hoạn mà sản nghiệp tiêu tan nữa. Cho nên nếu khí suy tử mà đắc cách thì ngoài vấn đề phá tài, tổn đinh thì còn bị những tai hoạ, bệnh tật khác nữa, chứ không phải chỉ là làm ăn lụn bại (trường hợp Hướng tinh “Thượng Sơn”) hoặc nhân số giảm thiểu (trường hợp Sơn tinh “Hạ thuỷ”) như các trường hợp vượng tinh thất cách, tức là mức độ tai hoạ còn nguy hiểm và trầm trọng hơn.
Vấn đề khảo sát các sao Vận-Sơn-Hướng (nhất là Sơn và Hướng) thì trước hết cần phải xét đến thời vận, xem chúng là sinh, vượng hay suy, tử. Sau đó mới xét tới hình thế Loan đầu xem chúng có đắc cách hay không ?
Như Sơn tinh vượng cần gặp núi hay nhà cao, Hướng tinh vượng cần có thuỷ hoặc cửa ra vào… Nếu chúng được như vậy thì dù ngũ hành có bị xung khắc cũng vẫn không có tai hoạ gì cả. Chỉ khi chúng đều là khí suy, tử, hoặc không đắc cách thì mới xét đến ngũ hành sinh, khắc để đoán biết hung hoạ mà thôi. Lấy thí dụ :cung KHẢM có các sao 7-8-3 (theo thứ tự Sơn-Vận-Hướng). Nếu là trong vận 7, sơn tinh 7 là vượng khí, nên nếu khu vực này có nhà cao thì chủ vượng nhân đinh, lại hoá sát của Hướng tinh số 3, chứ không có vấn đề khắc chế gì cả. Nhưng qua vận 8, sơn tinh 7 biến thành suy khí, khắc chế Hướng tinh 3, nên nhà này dễ bị trộm cướp hay tai hoạ hình thương, hay có bệnh về thần kinh… Chỉ có khi xét tới niên, nguyệt, nhật thời tinh thì mới dùng đến nguyên lý ngũ hành sinh, khắc làm chủ yếu. Còn giữa vận-sơn-hướng khi xét đến sự sinh, khắc thì chủ yếu là giữa Hướng tinh và Sơn tinh, còn vận tinh chỉ có thể phụ hoạ thêm vào cái sinh hoặc khắc giữa 2 sao đó mà thôi.
1. Nhất Bạch
Nhất Bạch là sao Tham Lang, hiệu Văn Xương, ngũ hanh thuộc thủy, màu trắng; mùa thu tiến, mùa đông vượng, mùa xuân tiết, mùa hạ tử . Kẻ sỹ gặp nó ắt được lộc của nó, người thường gặp nó nhất định tiền bạc sẽ vào nhà, đây là đệ nhất cát thần . Bị khắc sát thì như Trang Tử gõ chậu mà chôn vợ . Nhất Bạch lại là quan tinh, nếu nó đương vượng, hình thế Loan Đầu bên ngoài lại có thủy phóng quang thì khoa cử đổ đại, danh lừng bốn bể, sinh con trai thông minh trí tuệ . Nó mà suy tử thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi nổi lênh đênh, màng nhiều bệnh tật về huyết, thận hư, hoặc thành kẻ nghiện ngập, trộm cướp.
Nhất gặp Nhất là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi cho tài văn chương hoặc các công việc về văn. Nếu suy thì dễ bị bệnh về máu, nghiện ngập hoặc chìm đắm trong tửu sắc
Nhất gặp Nhị là khắc nhập. Nếu vượng thì mẫu thân dễ mắc bệnh về tỳ vị hoặc đường ruột . Nếu suy thì chồng bị vợ nhục mạ hoặc lấn quyền, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về thận hoặc tiết niệu
Nhất gặp Tam là sinh xuất. Nếu vượng thì con trưởng được danh giá quyền quý, có lợi cho người thuộc mệnh Tam mộc, nhân đinh tài bạch đều phát lớn . Nếu suy thì con cháu dòng trưởng suy bại, bị kiện cáo tù tội hoặc trộm cướp, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về gan,chân, hoặc bị ép phải dời đi nơi khác ở
Nhất gặp Tứ là sinh xuất. Nếu vượng thì xuất người nổi tiếng trong khoa cử, quan vận hanh thông thuận lợi, ra ngoài gặp nhiều điều hay về văn nghiệp, tên tuổi nổi bật . Nếu suy thì cũng đỗ đạt nhưng quý mà không phú, hoặc vì mang tiến tài hoa mà chìm đắm trong chống nữ sắc sinh ra quan hệ nam nữ bất chính . Nếu hình thế loan đầu bên ngoài có vật thuộc hành thổ thì đường văn chương hư bại, không con nối dõi, hoặc con cái chết yểu
Nhất gặp Ngũ là khắc nhập. Nếu vượng thì được cả tài bạch lẫn sang quý (tức có địa vị chức tước). Nếu suy thì nữ nhân trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về đường sinh dục; nặng thì thận suy kiệt, ngộ độc thức ăn, con thứ chết yểu
Nhất gặp Lục là sinh nhập. Nếu vượng thì từ nhỏ đã được hưởng giàu sang, ngoài ra, nếu sơn Kiền mà đắc thủy (có sông nước) thì sự nghiệp văng chương có thể phát đên tám đời . Nếu suy thì thủy kim chủ về lạnh, dễ mắc các chứng bệnh về đầu, xương hoặc bị thương tật vì kim loại
Nhất gặp Thất là sinh nhập. Nếu vượng thì đào hoa, dễ tạo của cải . Nếu suy thì kim thủy đa tình, đam mê tửu sắc, hoặc vì tửu sắc mà bị kiện tụng thị phi, có khi vì tranh chấp mà sinh ra thù hằn gây gỗ đến nổi phải mang thương tật
Nhất gặp Bát là khắc nhập. Nếu vượng thì trẻ con trong nhà có họa chết đuối, xuất hiện người có tài về viết lách . Nếu suy thì vợ mắc chứng vô sinh, có bệnh về tai, thiếu máu, hoặc có con chết non
Nhất gặp Cửu là khắc xuất. Nếu vượng thì thủy hóa đều có đủ, lợi lớn về tiền tài, nhân khẩu cũng thịnh vượng . Nếu suy thì dễ mắc các chứng bệnh về tim, vợ chồng bất hòa, anh em tranh chấp
2. Nhị Hắc
Nhị Hắc là sao Cự Môn, cũng là bệnh phù. Nếu vượng thì giau có, nhà cửa ruộng vườn thên than, nhân khẩu hưng vượng, lại phát quý về binh nghiệp . Khi nó suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểu, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng, trong nhà thường phát sinh bệnh tật liên miên
Nhị gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có về điền sản, gia cảnh hưng vượng, nhân khẩu đông, mẫu thân khỏe mạnh sống lâu. Nếu suy thì vợ khắc chồng, đàn ông mất ở tuổi trung niên, quả phụ làm chủ gia đình, người nhà thường mắc cách chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột hay thận
Nhị gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất nhiều, có quyền thế, lợi về binh nghiệp. Nếu suy thì ham mê nữ sắc, dâm đãng, khí lực suy yếu, mẹ già nhiều bệnh tật, người trong nhà thường xảy ra nhiều chuyện xấu, ra ngoài dễ gặp tiểu nhân ngầm hại
Nhị gặp Tam là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ ngắm quyền, gia tài tích lũy do làm việc bất chính, nhưng con trưởng chẳng ra gì. Nếu suy thì đàn ông vì dâm đãng mà gia đình tan nát, đàn bà dễ mắc các chứng về đường tiêu hóa . Nhị Tam sóng đôi còn gọi là “đâu ngưu sát” nên vợ chồng thường bất hòa, chống đối nhau. Người trong nhà chỉ ham an chơi nên ruộng vường bỏ hoang, con cháu dễ thành trộm vặt
Nhị gặp Tứ là khắc nhập. Nếu vượng thì con dâu nắm quyền, gia đình hưng vượng, nhiều nhân đinh. Nếu suy thì chọ dâu ức hiếp em chồng, nam giới hiếu sắc . Có mẹ già cô khổ, hoặc xuất gia làm ni. Người trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột, đau cách tay. Gia cảnh buồn tẻ vắng lặng, ra ngoài thường gặp những việc tai tiếng quấn vào thân, hoặc mắc bệnh thương hàn
Nhị gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tạo dựng cơ nghiệp dễ dàng, tài vận tốt, hưng thịnh nhất là về địa sản. Nếu suy thì phát sinh đủ thứ bệnh, vợ đau yếu nặng, dễ thành người góa vợ . Đặc biệt người nhà thường mắc các chứng về tỳ vị, đường ruột mãn tính
Nhị gặp Lục là sinh xuất. Nếu vượng thì gia cảnh bình yên, con cái thuận hòa, gia nghiệp hưng thịnh, nhiều khả năng hành nghề y cứu đời, hoặc trở thành người có quyền trong nghiệp võ. Nếu suy thì cha già lắm bệnh, trong nhà có người đi tu, cha con thù oán nhau, chủ khách tranh chấp, thường gặp việc tai tiếng thị phi, người nhà thường mắc bệnh đau dầu hay điên loạn
Nhị gặp Thất là sinh xuất. Nếu vượng thì trở thành cự phú bằng tiền của bất chính hoặc bất ngờ (hoạnh tài), nhiều con cái. Nếu suy thì mẹ và con gái thường nghịch nhau, vợ kế không hiền thục . Ngoài ra dễ có hỏa tai hoặc bị chứng bạch đới cấp tính, kiết lỵ; đàn ông thường hay bị phụ nữ quấy rầy hoặc vì tranh chấp thị phi mà bị đâm chém
Nhị gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất không thấy bờ. Nếu suy thì hay mắc bệnh nhẹ, đàn bà thường bỏ nhà đi tu
Nhị gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì văn chương chử nghĩa bề bề, đất đai tiền của tích tụ lớn. Nếu suy thì việc đen tối ập đến ngay, chủ về chuyện nam nữ ám muội, tiền của ra đi nhanh chóng, vả lại còn xuất hiện người chồng ngu đân . Hóa nóng thổ (đất) khô nên dễ sinh ra chứng bạch đới cấp tính . Khi âm quá nhiều nên nhiều đời có quả phụ . Thổ tổn thương mắt, con cháu ắt có người mù lòa
3. Tam Bích
Tam Bích là sao Lộc Tồn, tính thích đấu đá nên còn gọi là Xi Vưu. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng . Con cái dòng trưởng đại hưng vượng. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khoác vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp
Tam gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì con trưởng được quyền quý, đinh tài đều đại phát, thi cử đổ đạt. Nếu suy thì con cháu ngành trưởng lụn bại, tính khí ngỗ ngáo, có thể dẩn tới họa quan tụng; hoặc vì bấtt hòa với xóm giềng mà phải dọn nhà đi xa. Việc làm phần lớn không thuận lợi, hơn nữa còn dễ bị thương tật ở tai chân.
Tam gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì được giàu có về nhà cửa ruộng vườn, con trưởng tài đinh đại phát. Nếu suy thì dễ có sát khí chống đối nhau. Gia đạo bất hòa, vợ chồng không êm ấm. Thường vì tranh chấp với cấp trên mà gặp điều tai tiếng . Dễ mắc chứng đau dạ dày, khó tiêu hóa, hoặc vì đánh nhau mà chân bị thương tật; nói chung là gia đình gặp nhiều vất vả, trở ngại mà vẫn thất bại tan vở
Tam gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì thanh danh hiển hách, hưng gia lập nghiệp, tiền của tương đối khá giả. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cướp hoặc bị trộm cướp, dễ bị thương tật ở chân tay, hoặc vì đánh nhau với người mà bị tù tội.
Tam gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì Tam và Tứ là chính phối, sinh nhiều quý tử, sự nghiệp và tài vận phát triển hanh thông. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cắp hoặc ăn xin, thường mắc chứng dị ứng hoặc bị thương ở tay chân, đau gan, đau mật. Nếu gặp Thái Tuế e rằng kiếp nạn vì tình hoặc bị rắn cắn
Tam gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì tiền tài khá giả và quyền quý, có thể làm quan to. Nếu suy thì dễ bị các chứng độc như bọ cạp, rắn, rết cắn; tâm tư uất kết dễ mắc bệnh gan, hoặc thương tật ở chân.
Tam gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan trường lao đao vất vả nhưng sự nghiệp ắt thành, trở thành người phụ tá đắc lực cho cấp trên. Nếu suy thì bị quan tụng hoặc tai họa binh đao, dễ bị thương tật ở chân tay do kim loại gây nên; đôi khi mắc bệnh gan, gia đạo thường xảy ra tranh chấp.
Tam gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì nguồn tiền của tăng tiến, có chức quyền ca/ văn lẫn võ. Nếu suy thì nó là “Xuyên Tâm Sát”, thường mắc các chứng bệnh ở tay chân, gan mật; hoặc bị quan tụng thị phi. Nếu phương Đoài bị khắc phá thì gan bị thương tổn hoặc mắc chứng thổ huyết. Trong nhà có kẻ đam mê tửu sắc, bị trộm cướp trèo tường khoét vách phá hoại danh tiết con gái trong gia đình, chốn phòng the không hòa thuận, các tai họa thường là con trưởng chịu
Tam gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì xuất hiện văn tài bậc nhất, lại phát cả tài lẩn đinh. Nếu suy thì con thứ gặp nhiều tai họa, dễ bị thương gân cốt hoặc bị chó cắn. Anh em trong nhà bất hòa hoặc vì tranh giành gia sản mà gây ra kiện tụng
Tam gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì phát như sấm dậy, con cháu thông minh, văng tài hiếm thấy, hưởng giàu sang được nhiều năm. Nếu suy thì tai tiếng thị phi chồng chất liên tiếp, thường mắc các chứng đau mắt, đau dầu; ngoài ra con dễ gặp hỏa hoạn.
4. Tứ Lục
Tứ Lục là sao Văn Khúc . Nếu vượng thì tai văn chương lừng danh, khoa cử đổ đạt, con gái dung mạo đoan trang và lấy được con nhà quyền quý . Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn; đàng ông đam mê tửu sắc, gia sản phá bại phải lang thang phiêu bạt
Tứ gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì một đời danh giá, đại lợi về văn tài, học hành thì cử đổ đạt. Con cái thông minh, thành tích thường đứng đầu, nghề nghiệp vừa ý, tài vận thuận lợi. Nếu suy thì dễ mắc bệnh trúng phong, hoặc vì dâm đãng tửu sắc mà hư bại, gây ra tiếng xấu bên ngoài . Hoặc vợ vô sinh, có con thì cũng chết yểu.
Tứ gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì tương đối giàu sang, vợ nắm quyền trong nhà, con cái đông. Nếu suy thì vợ ngỗ nghịch khắc mẹ chồng và ức hiếp em chồng. Không khí gia đình nặng nề, không vui; người nhà thường hoảng loạn, dễ mắc chứng đau dạ dày; bị chó dại cắn . Mẹ chồng nàng dâu, chị dâu em chồng thường hay xích mích, mẹ già gặp tai ương. Sự nghiệp suy bại, gia phong càng lúc càng xấu đi, hoặc có người xuất gia làm ni.
Tứ gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì âm dương phối hợp đúng phép, gia đạo êm ấm, con cái thuận hòa, sự nghiệp thuận lợi, tương đối giàu sang. Nếu suy thì vợ chồng hay cải vả xích mích, người nhà thường có ý làm tăng ni, xuất hiện kẻ sống lang thang chẳng ra gì. Thường mang bệnh dị ứng hoặc có tật ở tay chân
Tứ gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì hai sao Văn Khúc cùng đến, con cháu thành tích nổi bật, có tinh mừng về thi cử. Đại lợi về tài văn chương, làm quan văn khá nổi tiếng. Nếu suy thì phiêu bạn khắp nơi, hoặc trở thành tăng ni. Đàn ông xa nhà bôn ba, sống nơi chân trời gốc bể. Người nhà dễ bị bệnh phong; quả phụ làm chủ gia đình
Tứ gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì có tài văn chương, giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì ham ăn ham uống, ruộng vườn bỏ hoang, cảnh nhà ảm đạm, buồn tẻ; nữ chủ nhân thường hay đau ốm, có ý hướng xuất gia, khó sinh và khó nuôi con cái, gia đạo lụn bại.
Tứ gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan binh không dám đụng đến, được mọi người đối đãi tử tế, gia đạo êm ấm, tài lộc có đủ. Nếu suy thì cha chồng ngược đãi con dâu, dễ khiến con dâu phải bỏ nhà ra đi. Người trong nhà thường tranh chấp nhau; dễ mắc bệnh gan, mật và thương tật ở tay. Tứ Lục sóng đôi là tượng “Dịch Mã”, nên người nhà dễ phảI tha hương, rày đây mai đó; nặng thì có thể bị đày.
Tứ gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền hành, táo bạo hơn người nhưng tích lũy được nhiều tiên của. Nếu suy thì nam nữ đa dâm, con cháu học hành chẳng ra gì; dễ bị bệnh thổ huyết mà chết yểu. Ra ngoài thị gặp nhiều thị phi; mẹ chồng nàng dâu bất hòa . Dễ phạm kiếp sát đào hoa
Tứ gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì vợ hiền dạy con thảo, của cải chất thành núi. Nếu suy thì người nhà có người ở trong rừng núi sâu làm ẩn sĩ, hoặc vào chùa làm sư. Con cháu nhiều bệnh tật, học hành không giỏi giang; dễ mắc bệnh viêm mũi, bệnh phong hoặc bị rắn hay chó cắn.
Tứ gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì hợp với kim Tiên Thiên, được tài lẫn quý, xuất hiện kẻ sĩ văn chương nổi tiếng. Nếu suy thì thường bị đau mắt hoặc bị hỏa tai. Đàn ông dễ rơi vào cảnh ngộ vi gian dâm mà gia sản lụn bại
5. Ngũ Hoàng
Ngũ Hoàng là sao Liêm Trinh, là đại sát tinh Mậu Kỷ . Nếu vượng thì tài đinh đại phát . Nếu suy thì bất kể nó được sinh hay bị khắc đều rất xấu . Vì vậy nó nên tịnh mà không nên động . Nếu gặp lúc sao Thái Tuế tới thì tính hung càng phát ra mạnh, tức tổi đinh hao tài lớn, nhẹ thì ốm đau, nặng thì hao vài người . Cuộc này nên tránh không nên phạm
Ngũ gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, nhưng con giữa không phát. Nếu suy thì con giửa lại chịu tai ương hoặc đau ốm nặng, đặc biệt là bệnh về đường tiết niệu, bệnh phụ khoa. Ngoài ra còn thường bị các bệnh về tai, hắc lào. Người nhà bệnh hoạn luôn.
Ngũ gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì thì tài đinh đại phát, người mẹ nắm quyền trong nhà. Nếu suy thì phát đủ thứ bệnh, nhất là cha mẹ. Chủ yếu là bệnh về dạ dày và đường ruột . Gặp lúc sao Thái Tuế tới thì cha bệnh nặng, mẹ dễ thành quả phụ.
Ngũ gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, con trưởng được thừa hưởng phúc lộc. Nếu suy thì thường mắc các chứng bệnh về gan, tụy, mụn nhọt, ghẻ lở ở chân tay hoặc chổ kín. Con trai phản nghịch, trong nhà có người bị thương tật ở chân, gia đạo không yên ấm.
Ngũ gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì có tài vănt hơ và giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì con trai lêu lỏng ăn chơi, ruộng vườn bỏ hoang; phụ nhân có nhọ độc ở vú, phái nam thường bị sởi. Nhà cửa ảm đạm buồn tẻ, con dâu có ý xuất gia làm ni, gia phong suy bại.
Ngũ gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì đinh tài đều vượng, gia nghiệp phồn thịnh. Nếu suy thì khó thoát hung sát hoành hành, dễ bị chứng bạch đới cấp tính. Nhẹ thì bị nhọt độc, nặng thì hao người.
Ngũ gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì tiền tài tương đối khá giả, con cái hiếu thuận, nhưng chủ nhân không hưởng được. Nếu suy thì chủ nhân mang bệnh, nhẹ thì đau đầu, đau xương, nặng thì thập tử nhất sinh, ra ngoài dễ bị thương tổn. Hoạn lộ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có thể bị tổn thất.
Ngũ gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có sung túc, gia nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì tranh chấp thị phi, chuyện rắc rối xảy ra thường xuyên, hoặc vì tửu sắc mà phá hết gia sản, có khi gây nên tai họa dẫn tới tù tội. Thiếu nữ trong nhà thường đau ốm . Có người bệnh răng, miệng, họng, hoặc bị thương bởi búa rìu.
Ngũ gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn mênh mông, con cái tốt lành gặp nhiều thuận lợi. Nếu suy thì con trai nhỏ thường đau yếu, trung niên đau mỏi gân cốt. Khí vận của gia đạo suy giảm.
Ngũ gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì con cái thông minh, tài vận tốt. Nếu suy thì sinh con ngu đần, người nhà mắc chứng đau mắt, đau đầu hay trong lòng buồn phiền. Gặp lúc Thái Tuế tới dễ mắc chứng bạch đới cấp tính.
6. Lục Bạch
Lục Bạch là sao Vũ Khúc, là cát tinh. Nếu vượng thì quyền uy chấn động bốn phương, làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giàu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì sống cô độc hoặc chết trong binh đau; Người nhà thường góa vợ, có nhiều quả phụ.
Lục gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, tiền của dồi dào, con cái học hành đỗ đạt. Nếu suy thì quan lộc tuy không giảm nhưng người nhà thường mắc chứng đau đầu, hoặc gặp tai nạn sông nước.
Lục gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì phát lớn, giàu có nhiều vàng bạc ngọc quý, cuộc sống bình yên, xuất hiện người hành nghề y cứu đời. Nếu suy thì tham lam vô độ, bủn xỉn, hoặc xuất gia đi tu, vợ chồng bất hòa chia cách. Người nhà thường mắc các chứng về đầu, xương, dạ dày, đường ruột.
Lục gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều hanh thông, quyền uy hơn người. Nếu suy thì dễ gặp nạn binh đao, bị thương, cha con bất hòa, có tang tóc.
Lục gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có, thành công trên thương trường, nhất là lãnh vực buôn báng đường xa, hoặc được làm quan võ. Nếu suy thì khắc vợ hoặc bị khổ sai, có khi người vợ không chịu đựng nổi, phải bỏ mà đi. Người nhà thường đau tay, đau đầu hoặc bị tê liệt.
Lục gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều tốt, nhưng có tiểu nhân ngầm hại. Nếu suy thì tiểu nhân chống đối, làm hao tổn tinh thần hoặc mất chức. Chủ nhân nhiều bệnh tật, thường là bệnh đau đầu, tinh thần bất ổn có thể làm điều sai quấy.
Lục gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, quyền chức cao. Nếu suy thì gặp nhiều rắc rối, khó thoát thân, có khi phải ngầm di chuyển chỗ ở; hoặc bị hung đồ truy đuổi mà phải trốn chạy, của cải tổn thất, dễ bị tai nạn trên đường.
Lục gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì làm văn quan hay võ chức đều có quyền lớn trong tay, tài lộc thuận lợi. Nếu suy thì dễ bị thương vì đao kiếm, hoặc vì tranh chấp mà bị tổn thương. Nhà có thể bị trộm cướp, hoặc vì xích mích mà gặp rắc rối . Già trẻ đều không yên, thường mắc bệnh đau đầu, đau miệng, đau họng.
Lục gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì có văn chức, võ quyền, công danh và bổng lộc đều có, con cháu được thừa hưởng gia nghiệp hưng thịnh. Nếu suy thì tuy quan lộc không giảm nhưng người nhà phần nhiều mắc bệnh đau đầu, đau xương.
Lục gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu thiên môn nên đinh tài đều vượng, chủ nhân quyền cao chức trọng lại sống thọ. Người nhà xuất hiện võ tướng tài ba. Nếu suy thì hỏa đốt thiên môn, người nhà sinh con bất hiếu. Con cháu dòng trưởng sa sút, gặp hỏa khắc kim thì dễ bị bệnh thổ huyết . Hỏa thiêu dốt thiên môn nên trong nhà dễ sinh nghịch tử; hỏa thịnh thì dễ gặp tai ương.
7. Thất Xích
Thất Xích là sao Phá Quân, còn gọi là tặc tinh. Nếu vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng . Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận, bị giam cầm . Gia đạo không yên, có thể vì hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mể tửu sắc.
Thất là hung tinh vì vậy nên tịnh mà không nên động . Động thì điều xấu càng nhiều, nhất là nhà ở đầu phố hay ngã ba thì nguy hại càng lớn. Nếu sao Thất Xích tương ứng với hình thế Loan Đầu thì sẻ các biểu hiện như:
a. Bên ngoài có sa hình dạng hồ lô thì trong nhà có người hành nghề y
b. Bên ngoài có sa hình dạng con dao thì có con làm nghề đồ tể
c. Bên ngoài có sa hình dạng cái kềm thì trong nhà có người làm thợ thủ công
d. Bên ngoài có sa hình dạng cờ trống thì trong nhà dễ có người phản nghịch
e. Bên ngoài có sa thủy hình dạng thập thò hoặc phình ra bên hông thì trong nhà dễ có kẻ làm trộm cướp
f. Bên ngoài có sa xung chiếu thẳng tới gặp Nhất Lục bay đến thì trong nhà dễ có người thổ huyết nặng
Thất gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì võ chức thăng tiến, con cái đào hoa. Nếu suy thì thủy kim đều lạnh nên con cháu ham mê tửu sắc, tiêu phá tiền của hoặc vong ơn bội nghĩa. Gặp lúc Thái Tuế bay tới thì có điều nọ tiếng kia, hoặc bị cướp, bị bệnh ở bụng dưới, thổ huyết, thương tật, hay bị tù đày mà phá sản.
Thất gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì tài sản ruộng vườn thêm nhiều, thăng quan tiến chức, phụ nhân sang quý . Nếu gặp được số Nhị Thất bát quái Tiên Thiên thì trong nhà luôn có đèn chiếu sáng, hưng vượng nhộn nhịp. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn, phụ nữ trong nhà bất hòa, người nhà dễ bị ngộ độc thức ăn, có bệnh về răng miệng hay kiết lị.
Thất gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì làm văn thần võ tướng, quyền cao chức trọng, trong nhà xuất hiện người có tài văn thao võ lược, bốn phương kính phục, con cháu giỏi giang hơn người. Nếu suy thì đối xử thô bạo với mọi người, con cái hống hách lộng hành. Gia đạo bị xuyên tâm sát dễ gặp binh đao, trộm cướp . Trong nhà cãi cọ, kiện cáo lẫn nhau; gia đình bất hòa, con cái ly tán . Người nhà dễ mắc bệnh thổ huyết, bị thương tật hoặc quan tai.
Thất gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì phụ nhân sang cả quyền thế, quan lộc đều có, đồng thời gặp vận đào hoa. Nếu suy thì phụ nữ làm chủ nhân, gặp kiếp đào hoa nên nam nữ ham dâm, trong nhà bất hòa, mẹ chồng nàng dâu không hòa thuận. Dễ bị bệnh thổ huyết hoặc chết yếu.
Thất gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn của cải đại phát. Nếu suy thì có bệnh ở miệng, ung nhọt. Thường tranh chấp nên dễ bị kiện tụng hoặc gặp rắc rối vì đào hoa.
Thất gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì văn võ toàn tài, quan lộc đều có. Nếu suy thì có tranh chấp ở chốn quan trường, gia đạo bất hòa, dễ bị thương tật vì đao kiếm hoặc tai nạn xe cộ. Dễ bị bệnh tật ở miệng, đau đầu, viêm nhọt.
Thất gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì của cải và quyền bính đều được quý nhân phù trợ nhưng kiếm tiền bất nghĩa. Nếu suy thì dễ gặp trộm cướp hoặc hỏa hoạn; thường hay bị tranh chấp. Trai gái vì ham mê tửu sắc nên dễ bị quan tai.
Thất gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì thăng quan tiến chức liên tiếp, tài vận hanh thông, trở nên giàu có, gia đình hòa thuận, con cháu khỏe mạnh và phát triển thuận lợi. Nếu suy thì tiền tài tổn thất, ra đi nhanh chóng. Dễ bị tật ở miệng hoặc con nhỏ lắm bệnh tật.
Thất gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu sảnh đường, gia đạo hưng vượng. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn. Phương vị Thất Cửu nếu có Nhất Bạch bay đến thì dể gặp hỏa tai. Nếu phương vị Thất Cửu là ở hướng mà động thì gặp hỏa hoạn . Thất Cửu ở phương vị sơn gặp Nhị Hắc thì hung sát càn nặng, dù không động cũng gây nên hỏa hoạn . Nếu Loan Đầu bên ngoài có nhiều màu đỏ thì khó tránh khỏi hỏa tai.
8. Bát Bạch
Bát Bạch là sao Tả Phụ, là cát tinh. Nếu vượng thì trung hiếu, phú quý dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc tổ tiên. Nếu suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch.
Bát gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì đại lợi về văn chương học hành, văn chức thăng tiến, đặc biệt thuận lợi về kinh doanh địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh thiếu máu, bệnh về tai; anh em trong nhà bất hòa, bạn bè phản bội, hoặc phụ nữ không sinh đẻ, trẻ con chết đuối.
Bát gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có nhờ địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh đau dạ dày, đường ruột, hoặc bị chó cắn. Nếu Loan Đầu bên ngoài có dải núi chạy đi thì có thể xa rời quê hương đất tổ, xuất gia làm tăng ni hoặc chết ở đất khách quê người.
Bát gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì địa sản (nhà cửa, ruộng vườn) dồi dào, quyền lực tăng tiến lên đột ngột, nhờ đước số của Tiên Tiên bát quái nên việc hợp tác rất tốt. Nếu suy thì của cải thất thoát, chức quyền giảm sút. Trong nhà có người bị thương nhẹ ở tay chân hoặc có bệnh gan, dạ dày.
Bát gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền, giàu có về ruộng vườn và nhà cửa. Nếu suy thì có tổn thương nhỏ, vợ lấn quyền chồng, gia đạo bất hòa. Ra ngoài dễ gặp tai nạn xe thuyền, hoặc làm ẩn sĩ ở chốn núi rừng.
Bát gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài lộc phát đạt, vận thế hanh thôn. Nếu suy thì hao tài tổn sức, dễ bị bệnh nhẹ, vận thế trở ngại. Dễ mắc bệnh đau bao tử, đường ruột, hoặc ngộ độc thức ăn.
Bát gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì dễ trở thành quan văn, nhiều quyền thế, phú quý và phúc đức tăng cao. Nếu suy thì thì vẫn giàu sang nhưng cha con bất hòa, dễ mắc bệnh đau đầu, nhức xương.
Bát gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì văn chức võ quyền đều có, tài lộc sung túc, vợ chồng hòa thuận, con cái an khang. Nếu suy thì tài sản dễ tiêu tán, vợ chồng mâu thuẩn bất hòa, con cháu tổn thất.
Bát gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi về văng chương, học hành; phát về ruộng vườn, nhà cửa; giàu sang phú quý đều có, sự nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì sự nghiệp suy tàn, của cải thất tán. Thường mắc bệnh nhức xương đau vai.
Bát gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì tin vui đến dồn dập; giàu có không ai sánh kịp, có địa vị trong triều đình. Nếu suy thì mắt mũi lắm tật bệnh, bụng nhiệt, đại tiện ra máu, hoặc bị hỏa hoạn.
9. Cửu Tử
Cửu Tử là sao Hữu Bật . Nếu vượng thì văn chương lừng lẫy, vinh hiển đột ngột, con cháu dòng giữa được hưởng phú quý . Nếu suy thì bị hỏa tai, hoặc tai họa ở chốn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Trong một ngôi chùa cũ nát, tiểu hòa thượng chán nản thất vọng nói với lão hòa thượng: “Trong cái chùa nhỏ bé này chỉ có hai hòa thượng chúng ta, lúc con đi xuống núi hóa duyên, mọi người đều là nói những lời ác với chúng ta, còn thường xuyên gọi con là hòa thượng hoang. Họ cho chúng ta tiền hương khói càng ngày càng ít đến thê thảm”. Tiểu hòa thượng nói tiếp: “Hôm nay con đi khất thực, trời lạnh như vậy mà không có một ai mở cửa cho con, đến cơm bố thí cũng được ít. Chùa Bồ Đề chúng ta muốn thành một ngôi chùa ngàn gian, tiếng chuông vang xa không ngớt như Sư Phụ nói,con e là không thể”.
Lão hòa thượng khoác lên mình chiếc áo cà sa không nói lời nào, chỉ nhắm mắt lại lẳng lặng nghe, tiểu hòa thượng cứ nói và cằn nhằn liên miên… Cuối cùng lão hòa thượng mở mắt to hỏi: “Bây giờ bên ngoài gió bấc thổi mạnh, lại có băng tuyết ngập trời, con có thấy lạnh không?” Tiểu hòa thượng toàn thân run rẩy nói: “Con lạnh, hai chân con đều tê cóng cả rồi!” Lão hòa thượng nói: “Vậy chi bằng chúng ta đi ngủ sớm đi”.
Lão hòa thượng và tiểu hòa thượng tắt đèn chui vào trong chăn ngủ. Một giờ sau, lão hòa thượng hỏi: “Bây giờ con có thấy ấm không?” Tiểu hòa thượng trả lời: “Đương nhiên là con thấy ấm rồi, giống như ngủ dưới ánh mặt trời vậy!” Lão hòa thượng nói: “Khi nãy, chăn bông để ở trên giường là lạnh, thế nhưng khi có người nằm vào lại trở nên ấm áp.
Con thử nói xem, là chăn bông sưởi ấm cho người hay là người sưởi ấm cho chăn bông đây?” Tiểu hòa thượng nghe xong liền nở một nụ cười nói: “Sư phụ, người thật là hồ đồ đó, chăn bông làm sao có thể sưởi ấm cho người được, phải là do con người làm chăn bông ấm lên mới đúng chứ!” Lão hòa thượng hỏi: “Chăn bông đã không cho chúng ta sự ấm áp lại còn cần chúng ta đi sưởi ấm nó, như thế thì chúng ta còn đắp chăn bông làm gì?” Tiểu hòa thượng nghĩ nghĩ một lát rồi nói: “Mặc dù chăn bông không sưởi ấm cho chúng ta, nhưng chăn bông dày lại có thể giữ hơi ấm cho chúng ta, khiến cho chúng ta ngủ được thoải mái”.
Trong bóng tối, lão hòa thượng hiểu ý cười cười: “Chúng ta là hòa thượng tụng kinh rung chuông, chẳng phải là giống người nằm dưới chăn bông? Còn những chúng sinh kia chẳng phải họ là một cái chăn bông dày đó sao? Chỉ cần chúng ta một lòng hướng thiện, thì chiếc chăn bông lạnh như băng kia cuối cùng cũng sẽ được chúng ta sưởi ấm.
Lúc đó “cái chăn bông” dày kia cũng sẽ biết giữ ấm cho chúng ta. Chúng ta ngủ trong “cái chăn bông” như vậy, chẳng phải rất ấm áp sao? Ngôi chùa ngàn gian, tiếng chuông chùa ngân vang không ngớt, còn có thể là trong mơ được sao?” Tiểu hòa thượng nghe xong liền bừng tỉnh mà hiểu ra hết. Bắt đầu từ ngày hôm sau, tiểu hòa thượng đều dậy rất sớm đi xuống núi hóa duyên.
Tiểu hòa thượng cũng vẫn gặp phải những lời ác như trước đây. Thế nhưng tiểu hòa thượng trước sau gì đều giữ vững thái độ nho nhã và lễ độ đối xử với mọi người. Mười năm sau… Chùa Bồ Đề đã trở thành ngôi chùa có diện tích hơn mười km, có rất nhiều hòa thượng, khách hành hương tới không ngớt.
Tiểu hòa thượng cũng đã trở thành vị sư trụ trì. Kỳ thực trên thế giới này, chúng ta đều là đang nằm trong chăn bông, người khác chính là chăn bông của chúng ta. Khi chúng ta dụng tâm đi sưởi ấm chăn bông thì chăn bông cũng sẽ giữ ấm cho chúng ta. Ngủ…đắp… cả một đời, vậy mà hôm nay mới biết… Hóa ra mối quan hệ giữa người và chăn bông là như vậy, thật là có đạo lý phải không?
Chùa Quán Sứ là một ngôi chùa ở số 73 phố Quán Sứ, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Trước đây, địa phận này thuộc thôn An Tập, phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương.
Chùa Quán Sứ là một trong rất ít ngôi chùa ở phía Bắc mà tên chùa cũng được viết bằng chữ Quốc Ngữ. Ngôi chùa hiện nay được trụ trì bởi Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu.
Lịch Sử: Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ XV. Theo bài văn của Tiến sĩ Lê Duy Trung khắc trên tấm bia dựng năm 1855, vào đầu đời Gia Long (1802-1819) chùa gần đồn Hậu Quân. Đến năm 1822, chùa được sửa sang để làm chỗ lễ bái cho quân nhân ở đồn này. Khi quân ở đồn này rút đi, chùa được trả lại cho dân làng. Nhà sư Thanh Phương trụ trì ở chùa lúc đó mới làm thêm các hành lang, tô tượng, đúc chuông. Tiền đường của chùa thờ Phật, còn hậu đường thờ vị quốc sư Minh Không thời Nhà Lý.
Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được chọn làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt.
Kiến Trúc: Tam quan chùa có 3 tầng mái, chính giữa là lầu chuông, qua tam quan là một sân rộng lát gạch, bước lên 11 bậc thềm là tới chánh điện. Điện Phật được trang trí trang nghiêm, các pho tượng khá lớn và được sơn son thấp vàng lộng lay, Trong cùng thờ ba vị Tam Thế Phật, kế tiếp thờ Phật A-di-đa, hai bên thờ Quan Thế Âm và Đại Thế Chí, Bậc dưới, ở giữa thờ Phật Thích Ca, hai bên là A – Nam – Đà và Ca – diép, bậc dưới cùng thờ tượng Quan Âm và Địa Tạng. Gian bên Phải thờ Lý Quốc Sư ( tức Thiền sư Minh Không) với 2 thị giả. Gian bên trái thờ tượng Đức Ông và tượng Châu Sương, Quan Bình. Phía trong là Thư viện, giảng đường, nhà khách và tăng phòng.
Điều độc đáo ở chùa Quán Sứ là tại Gian Quan âm đang trưng bày pho tượng hoà thượng Thích Thanh Tứ, nguyên Phó chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, với kích cỡ như người thật. Tượng được đưa về chùa dịp lễ Tiểu tường – một năm ngày hoà thượng viên tịch. Nhiều người đi lễ chùa ngạc nhiên vì không biết đây là người thật hay tượng.
Tượng được làm bằng sáp nhưng nhìn trông như người thật với từng đường nét trên khuôn mặt như đôi lông mày, nét mũi, miệng, nếp nhăn hai bên khóe mép, nếp nhăn cuối má, những đường gân hay nếp nhăn trên cổ… đều trông như của người sống. Bàn tay trái bức tượng đang lần tràng hạt, nét gân nổi xanh, bàn chân được tạo ngón với những đường nét rất chân thật.
Chùa Quán Sứ là nơi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của Phật Giáo Việt Nam, trong đó có sự thống nhất tổ chức Phật giáo trong nước và sự hòa nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo Thế giới. Chính nơi đây, ngày 13.5.1951( mồng 8 tháng 4 năm Tân Mão) lần đầu tiên lá cờ Phật giáo thế giới do Thượng tọa Tố Liên mang về từ Colombo đã xuất hiện trên bầu trời Hà Nội. Hiện nay chùa Quán Sứ là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Phân viện Nghiên cứu Phật học.
Chùa Quán Sứ là nơi linh thiêng, đông đảo người dân, Phật tử thường về đây mỗi dịp đầu xuân năm mới. Với những nét kiến trúc độc đáo nơi đây là điểm lễ phật tham quan không thể bỏ qua khi tới Hà Nội.
Tình yêu dường như là thứ khiến con người ta thật khó khăn mới tìm thấy được. Mọi người khi bước vào mối tình cuồng nhiệt đều mong muốn có thể giữ được nó suốt cả cuộc đời. Hẹn thể cố nhiên là lãng mạn, nhưng lẽ nào tình yêu sẽ không bao giờ thay đổi? Hãy để các tướng thuật giải đáp câu hỏi này cho bạn.
Cho thấy sức sống và tinh lực đều rất dồi dào, có thể lực sung mãn, nhu cầu về quan hệ tình dục hầu như khá cao. Nếu gò Kim tinh có tính đàn hồi cho thấy người này có tài ăn nói, rất lanh lợi, thiên về dùng những lời ngon ngọt đề chinh phục đối phương. Trong sinh hoạt tình dục họ cũng khiến cho đốì phương hài lòng.
Ngón cái thẳng có lực cho thấy người này làm việc có chủ kiến, hơn nữa lại còn rất tự tin, rất coi trọng chuyện tình cảm, khả năng thể hiện cũng rất tốt, chủ động thể hiện tình yêu với đối phương, luôn quan tâm tới đối phương. Về phương diện quan hệ tình dục, do thế lực cũng tốt, thông thường làm cho đối phương cảm thấy hạnh phúc.
Đường Sinh mệnh rõ nét biểu thị là người có nhiều chủ kiến, đầu óc tỉnh táo, có khả năng thích nghi với môi trường, về mặt tình cảm, có thể hiểu được người bạn đời, cộng thêm niềm đam mê, sức khỏe tốt, trong đời sống tình dục cũng tích cực phối hợp, tình cảm của hai người đều ổn định.
Hình bán nguyệt ở móng tay hiện rõ cho biết cơ năng trong cơ thể bình thường, khí huyết vận động rất tốt, nhu cầu sinh hoạt tình dục cũng khá cao. ĐốI với phụ nữ, nếu ở ngón út có hình bán nguyệt cho thấy khả năng tình dục rất mạnh mẽ, thậm chí họ còn rất hứng thú với quan hệ tình dục.
Đường Công danh cong queo là chỉ đường Công danh cong như hình sóng nước, hoặc hình dạng giống như bị đứt đoạn liên tiếp, cho thấy sự nghiệp không được lý tưởng cho lắm, dễ bị người khác hãm hại, hơn nữa người này còn có thế bị tổn thất rất lớn. Thông thường do xử lý công việc không thỏa đáng, hoặc thiếu sự độ lượng và lòng khoan dung mà dẫn tới. Ngoài ra họ còn thích chiếm hữu những thứ rẻ tiền, chịu đựng người khác coi thường, thậm chí còn vướng vào rất nhiều phiền toái.
Gốc ngón trỏ có nhiều đường tạp không rõ chỉ ở trên đốt thứ ba của ngón trỏ xuất hiện rất nhiều đường tạp, cho thấy trong gia đình thiếu không khí yên bình, anh chị em trong nhà hầu như luôn có sự tranh giành, đố kỵ lẫn nhau. Quan hệ với mọi người bên ngoài cũng rất kém, thường xuyên vì quan niệm không hợp mà dẫn tới xung đột với mọi người, thường vô ý đắc tội với người khác mà khiến cho đối phương thù hận.
Đường Vận mệnh phá ngang là chỉ trên đường Vận mệnh bị đường ngang xuyên qua, cho biết sự nghiệp vừa khởi bước, mọi thứ đều tiến hành thuận lợi, nhưng điều đó lại khiến mọi người xung quanh sinh lòng đố kỵ. Họ tìm cách phá ngang khiến cho sự nghiệp của bạn bị trắc trở, đôi khi bạn còn rơi vào tranh chấp, kiện cáo, phải tiêu tốn tiền bạc mới tránh được tai họa.
Độ dài ngón út quá ngắn là chỉ đỉnh ngón út chưa đạt tới đốt thứ hai của ngón vô danh, cho biết quan hệ xã hội của người này rất kém, thiếu sự giúp đỡ của quý nhân, cộng thêm bản thân lại ngay thẳng, vô hình trung dễ gây thù chuốc oán, bị người khác bài xích và làm khó dễ, khiến cho sự nghiệp tiến triển chậm.
Đường quý nhân cắt ngang là chỉ mặt trong đường Sinh mệnh có xuất hiện đường quý nhân, mà còn bị cắt ngang, cho biết họ vốn dĩ được rất nhiều người giúp đỡ nhưng lại thường gây ra rắc rối, thậm chí còn khiến đốì phương tổn hại về mặt tiền bạc, về quan hệ xã hội thường nhẹ dạ cả tin mà chịu ảnh hưởng không tốt.
Rất nhiều người đều muốn biết nhân duyên đẹp của mình khi nào sẽ tới, thực sự điều này có thê thấy được từ thông tin bạn cầm tinh con vật nào, hơn nữa nó còn có thể cho biết chính xác khi nào bản thân bạn sẽ có vận đào hoa. Có vận đào hoa tới tự nhiên thời kỳ kết hôn sẽ không còn xa nữa, tiếp đó lại tiếp tục căn cứ vào đường Hôn nhân trên bàn tay tiến hành phân tích chi tiết cũng có thể đoán biết được ở giai đoạn nào vận đào hoa thực sự là nhân duyên của mình. Năm đào hoa ứng với con vật cầm tinh cụ thể như sau:
- Chuột: Năm 2005, 2008, 2014.
- Trâu: Năm 2002, 2004, 2010.
- Hổ: Năm 2003, 2011, 2014.
- Mèo: Năm 2002, 2008, 2014.
- Rồng: Năm 2005, 2007, 2022.
- Rắn: Năm 2002, 2006, 2021.
- Ngựa: Năm 2005, 2011, 2017.
- Dê: Năm 2004, 2008, 2010.
- Khỉ: Năm 2003, 2005, 2009.
- Gà: Năm 2002, 2008, 2014.
- Chó: Năm 2007, 2011, 2022.
- Lợn: Năm 2006, 2008, 2021.
Dùng những con số này suy đoán, số năm ở trên lại cộng thêm 12 năm nữa thì chính là năm đào hoa.
Chú ý: Mặc dù thông qua phương pháp trên cũng có thê đoán được năm đào hoa, nhưng điểu này không có nghĩa là nhất định sẽ xuất hiện người trong mộng, bởi vì năm đào hoa chỉ cho biết xuất hiện người mà bạn yêu thương, không phải người này chắc chắn sẽ là người bạn đời.
Người có bàn tay đẹp nắm giữ hạnh phúc tới già. Bàn tay có tình yêu mỹ mãn là: Cuối đường Tình cảm đi thẳng xuống chân ngón trỏ, hoặc phần giữa chân ngón trỏ và ngón giữa . Người này giàu tình cảm, có quan niệm đúng đắn về tình bạn và tình yêu, hiểu và tôn trọng lẫn nhau với họ là bảo đảm cho tình yêu vững bền. Cuốĩ đường chia thành ba nhánh là biểu tượng của hạnh phúc mỹ mãn. Người có kiểu tay này tình thâm nghĩa nặng, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn. Trong xã hội ngày nay, người như vậy luôn được mọi người kính trọng.