Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Mỗi một con giáp sẽ đại diện cho một tính cách khác nhau. Vậy trong 12 con giáp, những con giáp nào được đánh giá sẽ trở thành những người chồng lý tưởng? Các chị em chúng ta cùng tìm hiểu nào!
Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 1: Tuổi Dần.

Những người tuổi Dần đa số sống một cuộc sống đầy đam mê, cuốn hút. Nhờ có lòng quả cảm và sự hào phóng, họ luôn nhận được rất nhiều sự tôn trọng, kính nể.

Với bạn bè, những người tuổi Dần là những người bạn thú vị, chân thành, và dễ nhờ vả.

Với gia đình, họ là những người trụ cột vững chãi và làm vợ chàng trai tuổi Dần sẽ rất hạnh phúc. Mặc dù trong con người họ hơi gia trưởng và luôn thích người khác làm theo ý mình nhưng bù lại họ lại rất biết cách chăm sóc, quan tâm, luôn để ý đến từng chút thay đổi một của những người xung quanh họ. Chỉ thấy vợ không vui hay khó chịu, sức khỏe có vấn đề, người chồng tuổi Dần sẽ là người cùng buồn cùng vui và chăm sóc lo lắng cho bạn, dỗ dành vợ đến khi nào bạn vui vẻ trở lại mới thôi.

Do đó, trong 12 con giáp, các chàng trai tuổi Dần xứng đáng với vị trí Top 1 làm người chồng lý tưởng.

Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Các bạn nữ hãy chú ý tới các chàng trai tuổi Dần nhé!

Top 2: Tuổi Tuất.

Được miêu tả như những nhân viên cần mẫn, những người tuổi Tuất yêu thích sự hoàn hảo đến từng chi tiết trong mọi công việc. Họ còn được coi là những người chân thành và đáng tin cậy nhất trong 12 con giáp.

Nếu bạn có một người chồng tuổi Tuất, bạn sẽ thấy rất tin tưởng vì họ là những người luôn biết lắng nghe những niềm vui và chia sẻ nỗi buồn, hoạn nạn với bạn. Bên cạnh đó, với trí thông minh, nhanh nhẹn của mình, người chồng tuổi Tuất còn đưa ra rất nhiều lời khuyên hữu ích cùng bạn vượt qua khó khăn.

Có một điều quan trọng nữa ở đàn ông tuổi Tuất mà ít ai làm được, đó là đàn ông tuổi Tuất là những người rất giỏi việc nhà. Họ không chỉ muốn chia sẻ tình cảm với bạn mà họ còn muốn chia sẽ, giúp đỡ bạn cả những công việc nhà. Tử vi 2016 đánh giá người tuổi Tuất là người chồng rất có trách nhiệm, luôn biết cách tạo cho vợ và con một mái ấm gia đình êm ả đầy cảm giác an toàn

Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Vì thế nếu lấy được người đàn ông này là niềm hạnh phúc của các chị em đấy

Top 3: Tuổi Mùi

Không giỏi việc nhà như đàn ông tuổi Tuất, tuổi Mùi lại nổi bật là một người đàn ông rất lãng mạn và hài hước. Họ cũng là những người rất tài năng và có óc sáng tạo cao.

Nếu bạn lập gia đình với người tuổi Mùi, bạn sẽ thấy họ luôn biết cách để bạn hiểu được bạn là người rất quan trọng với cuộc sống của họ.

Một khi đã bước vào cánh cửa hôn nhân họ, bạn sẽ được tận hưởng một tình yêu, một biển trời đầy mật ngọt với những điều bất ngờ thú vị. Những món quà ý nghĩa, những bó hoa bất ngờ hay những cử chỉ âu yếm, những lời nói hài hước… vào các ngày lễ, dịp quan trọng.

Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Tất cả làm cho bạn cảm giác như mình là trung tâm của Trái đất. Tử vi hàng ngày dám khẳng định các cô gái, bà vợ khác chắc hẳn sẽ phát ghen với bạn đấy./


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Bí quyết bố trí phong thủy cho ngôi nhà

Theo triết lý Trung Hoa, phong thủy tạo ra sự cân bằng và hài hòa xung quanh những vật thể sống. Mọi người tin rằng phong thủy có thể làm các mối quan hệ trở nên tốt hơn, công việc trở nên thuận lợi hơn, và mang lại sự an khang thịnh vượng cho gia chủ. Sau đây là một số mẹo nhỏ để căn nhà của bạn thành một nơi tốt hơn và góp phần thay đổi cuộc sống.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cổng nhà

Chiếc cổng là ấn tượng đầu tiên khi một người nhìn thấy ngôi nhà của bạn. Vì vậy phải khiến cho các vị khách cảm thấy thân thiện khi bước vào nhà.


Giữ cho cổng nhà luôn sạch đẹp và không có bất kỳ sự cản trở nào.

Nhà bếp

Bạn nên đặt một tấm gương lớn sau bếp, nếu không bạn có thể đặt một bức hình của tấm gương. Điều đó sẽ mang lại sự thịnh vượng mà bạn không ngờ.

Nhà bếp không nên đối diện nhà vệ sinh. Nếu có, thì nên khép kín cửa và đóng nắp toilet lại.

Phòng tắm và nhà vệ sinh

Luôn luôn đóng nắp toilet khi không dùng đến.

Giữ toilet sạch sẽ. Dùng thùng đựng rác để giữ sàn luôn sạch và khô ráo.

Phòng khách

Không bao giờ đặt đồ nội thất (ghế quay lại cửa). Nếu đó là lựa chọn duy nhất thì nên đặt một chiếc gương để bạn có thể nhìn thấy những gì đang diễn ra sau lưng.

Làm cho năng lượng có sự di chuyển trong nhà bằng việc gắn thêm những quả cầu pha lê phía trên trần nhà. Chắc chắn chúng sẽ làm tăng tính thẩm mĩ của gian phòng hơn.

Thay vì để những khoảng “chết” trong phòng, bạn nên đặt một chậu cây cảnh, bức tranh nhiều màu sắc hay cảnh vật bắt mắt hoặc một bể cá. Sẽ rất sống động.

Luôn luôn có đủ ghế trong phòng khách và phòng ăn. Không nên để ghế quay mặt ra cửa. Và điều quan trọng là phải sắp xếp sao cho có đủ không gian để mọi người có thể di chuyển dễ dàng.

Không nên để hoa khô trong nhà. Vì chúng không sống được lâu, thậm chí có thể gây ra tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự thịnh vượng cho nhà bạn. Bạn nên trang trí bằng hoa tươi hoặc hoa lụa sẽ mang lại sự tươi mới hơn cho ngôi nhà.

Đồ đạc

Giữ những cây chổi, giẻ lau sàn và thùng rác khuất tầm nhìn. Điều đó quan trọng cho sự tồn tại của gia đình và giữ những kẻ quấy rối ở bên ngoài, không cho chúng xâm nhập. Giống như là thần chổi giữ nhà giúp bạn vậy.

Suối nước, cây cối, tổ chim dọc theo con đường xuyên qua vườn sẽ mang lại sự cân bằng và xác định mức độ của năng lượng ngôi nhà.

Một chiếc chuông gió gắn ở cửa sẽ làm xao lãng những năng lượng tiêu cực xâm nhập vào nhà.

Cửa và cầu thang

Nếu bạn có kế hoạch làm một ngôi nhà mới phải đảm bảo rằng cửa trước không đối diện cửa sau. Nếu điều đó không thể tránh khỏi, bạn nên có một bức mành giữa hai cửa để năng lượng không vào cửa trước và ra cửa sau.

Tránh đề cầu thang ngay trước cửa chính vì khi bạn mở cửa thì năng lượng theo cầu thang lên thẳng tầng trên. Nếu đã ở tình thế đó, bạn có thể giải quyết bằng chiếc gương phản chiếu hoặc một chiếc chuông hòa âm.

Phòng ngủ

Phòng ngủ của bạn phải là một phòng riêng tư, ở đây sẽ không bị các vị khách và người viếng thăm nhìn thấy.

Không nên có quá nhiều cửa sổ trong phòng ngủ sẽ khiến cho năng lượng bị rối loạn.

Không nên có gương giáp mặt giường, để giải quyết vấn đề này là bạn chỉ cần một mảnh vải phủ gương mỗi tối trước khi đi ngủ.

Không nên có máy tập thể dục trong phòng ngủ.

Tránh có quá nhiều đồ điện tử trong phòng ngủ và không để bất cứ thứ gì dưới giường.

Nếu có một chút âm thanh nhẹ nhàng trong phòng ngủ thì thật tuyệt. Nó sẽ giữ cho bạn sự điềm tĩnh và thư giãn sau khi bạn dành quá nhiều thời gian cho công việc và các cộng sự.


Theo Archinews


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết bố trí phong thủy cho ngôi nhà

Mơ thấy bạn cũ –

Có tin vui sắp xảy đến với bạn đấy, chúc mừng nhá. 1. Mơ gặp bạn cũ Điều này có nghĩa bạn sắp nhận được một bức thư bất ngờ hoặc có thể trong thời gian tới sẽ xảy ra chuyện khiến bạn hết sức vui mừng. 2. Mơ ăn cơm cùng bạn cũ Cảnh báo, sức khỏe của b
Mơ thấy bạn cũ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bạn cũ –

Xua ma đuổi quỷ từ Đông sang Tây

Ma quỷ tồn tại trong đời sống của tất cả các quốc gia từ Đông sang Tây. Mỗi nước có một cách thiết kế nhà đuổi ma tránh quỷ riêng, phản ánh đời sống văn hóa
Xua ma đuổi quỷ từ Đông sang Tây

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

mang bản sắc dân tộc.

Xua ma duoi quy tu Dong sang Tay hinh anh
 
1. Nhật Bản
Ở Nhật Bản, có truyền thuyết kể rằng các linh hồn đều đến từ hướng Đông Bắc hay “kimon” (cửa quỷ). Đó bị coi là một hướng không may mắn trong ngôi nhà vì linh hồn ma quỷ có thể đi vào, ăn cắp tất cả vận may của gia đình bạn và đi ra từ đó.
 
Vì vậy, người Nhật không làm cửa, đặt bếp, nhà vệ sinh, phòng tắm hay thậm chí là bồn rửa ở góc này. Để bảo vệ ngôi nhà, người ta thường đặt tủ quần áo, treo những lá bùa viết bằng chữ Phạn, dựng mô hình Hiji (một tòa thành cổ) hoặc bỏ trống góc Đông Bắc.
 
2. Philippines Trong một số nền văn hóa ở Philippines, tầng hầm và những căn phòng dưới lòng đất được xem là nơi trú ẩn của các linh hồn ma quỷ. Cách duy nhất có thể hóa giải là xây dựng một lối ra trong ngôi nhà thấp hơn so với căn phòng đó. Đây được coi là “lối thoát ma quỷ”.
 
Một đặc điểm nữa là khi xây cầu thang trong nhà, họ thường đếm những bậc thang đó với “oro, plata, mata” (có nghĩa là vàng, bạc, cái chết) cho mỗi bậc.
 
Nếu bậc thang cuối cùng ứng với “oro” – có nghĩa là cuộc sống của bạn sẽ rất tốt; nếu kết thúc bằng “plata”, bạn sẽ có một cuộc sống bình thường. Bậc cuối cùng mà mang tên “mata”, bạn hoặc ai đó trong gia đình có thể sẽ phải đối mặt với cái chết, bởi đó là bậc thang chết chóc. Chính vì vậy, rất ít cầu thang ở đây được xây theo con số lẻ.
 
3. Thái Lan
Trong khi rất nhiều nền văn hóa cố gắng xua đuổi, thậm chí là tìm cách diệt trừ những linh hồn xung quanh họ thì người Thái lại xây dựng “ nhà hồn” cho linh hồn ma quỷ.
 
Người Thái cho rằng, những linh hồn sống ở khắp mọi nơi xung quanh bạn, họ không có chỗ để nương thân nên mới vây quanh bạn và quấy nhiễu. Do đó, người Thái đã nảy ra ý tưởng xây dựng ngôi nhà nhỏ mang tên “nhà hồn” để các linh hồn có thể cư trú ở trong đó. Người Thái tin đây không chỉ là cách để xoa dịu các linh hồn, mà từ đó các linh hồn này sẽ giúp đem lại may mắn cho họ trong cuộc sống.
 
4. Trung Hoa Mái nhà của người Trung Quốc, đặc biệt là trong các thiết kế cung đình hay chùa chiền đều có dạng hình cong. Theo quan niệm của đạo Phật, linh hồn chỉ có thể bay theo đường thẳng, không thích những thứ có hình dáng cong.
 
Nhiều người cho rằng, những linh hồn ma quỷ sẽ bị rơi ra khỏi mái nhà khi gặp phải những đường cong trên mái, hay ngay cả khi chúng bay xuống từ phía trên cũng sẽ bị bật trở lại nếu va phải đường cong này. Do đó, người Trung Quốc tin, mái nhà cong sẽ giúp xua đuổi những hồn ma và khiến linh hồn tà ác tránh xa nơi ở của họ.
 
5. Phương Tây “Haint blue” là tên gọi chung cho toàn bộ các sắc thái của màu xanh. Theo một số quan niệm của phương Tây, những sắc xanh này có tác dụng xua đuổi ma quỷ.
 
Nhiều người tin câu chuyện về “Haint blue” có nguồn gốc từ nền văn hóa của người Gullah ở miền Nam nước Mỹ. Họ cho rằng, ma quỷ không thể đi qua nước, vì vậy nếu sử dụng màu có sắc tố xanh giống như màu nước (haint blue) sẽ đánh lừa ma quỷ là ngôi nhà bao phủ bởi một dòng sông. Do đó, chúng không thể vượt qua để vào nhà được.   Theo giả thuyết này, nhiều người đã sơn một phần hoặc thậm chí toàn bộ ngôi nhà của mình màu xanh của nước để đẩy lùi ma quỷ, giữ cho ngôi nhà tránh khỏi sự phá rối của các hồn ma.  
ST
     
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xua ma đuổi quỷ từ Đông sang Tây

Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

Các lễ hội được tổ chức vào ngày 19 tháng 3 âm lịch gồm có Hội Trấn Đông tổ chức tại 76 Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

1. Hội Trấn Đông -  Đền Bạch Mã

Thời gian: tổ chức từ ngày 19 tới ngày 20 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: 76 Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Thần Long đỗ - vị thần gốc của Hà Nội cổ.

Nội dung: Đền Bạch Mã là một trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long. Mở đầu lễ hội là những nghi thức thông thường như:ca trù, hát văn, ngâm thơ... Ngoài ra còn có trương trình riêng: nói về lịch sữ của đền Bạch Mã.

2. Hội Xã Dương Liễu

Thời gian: tổ chức vào ngày 11 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn tướng quân Lý Phục Man - vị tướng tài có nhiều công lao phò vua, giúp nước dưới thời Lý (người dân phong cho bà là Thành Hoàng Làng).

Nội dung: Từ sáng sớm, người dân trong xã và khu vực lân cận đã háo hức tập trung tại sân Đình chờ xem hội. Đình làng Dương Liễu hôm nay được trang hoàng rực rỡ với rất nhiều cờ, hoa, kiệu, lọng... Từ các cụ cao niên, thanh niên đến các em thiếu nhi tham gia lễ rước đều mặc trang phục lễ cổ, nhằm tái hiện khung cảnh và không khí lễ hội thuở xưa.

Theo sử sách để lại, cách đây 1.500 năm, tại ngôi Quán thờ (nay là Đình làng Dương Liễu), Tướng công Lý Phục Man trên đường đi đánh giặc đã tổ chức “nghiềm quân” tại Quán. Đoàn quân dưới lá cờ do Tướng công chỉ huy sau đó đã đánh thắng giặc ngoại xâm dưới thời nhà Lý. Nhớ công lao to lớn của vị tướng tài, người dân nơi đây phong tướng là Thành Hoàng làng. Từ đó, cứ mỗi dịp đầu xuân, người dân làng Dương Liễu lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của Tướng công Lý Phục Man- vị Thành Hoàng làng và đội quân tinh nhuệ đã có công xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước.

Cứ 5 năm mộ lần người dân Dương Liễu lại tổ chức hội chính. Ngày đầu tiên của hội chính là lễ dâng hương của đại biểu khách thập phương và các cụ phụ lão, nhân dân trong làng. Đoàn nhạc lễ theo suốt chương trình lễ hội, từ rước Văn, rước Nghinh tới rước Hoàng cung. Phần Lễ luôn thu hút nhân dân và khách thập phương đông nhất, vì yếu tố tâm linh của người dân đất Việt cầu mong một năm mới nhiều tài, lộc, sức khỏe, an lành…

Phần hấp dẫn nhất trong lễ hội chính là hoạt cảnh “nghiềm quân” của gần 500 trai làng. Từ sân Đình làng, 500 chàng trai tráng kiện, ăn mặc rực rỡ, đầu quấn khăn đỏ, miệng ngậm còi, tay cầm cờ diễu hành quanh làng, và cuối cùng tập trung “nghiềm quân” ở sân bóng của xã. Đây chính là phần tái hiện lại cảnh luyện quân, bài binh bố trận và tài thao lược chiến đấu của Tướng công Lý Phục Man đang thời giúp nước. 

Trong suốt 3 ngày hội, dân trong làng và các xã lân cận tạm gác việc đồng áng, làm nghề, mặc quần áo mới, rực rỡ với mâm oản quả, hoa tươi đi lễ và xem hội. Sau phần “nghiềm quân” là một chuỗi các hoạt động như hát thờ (vào đêm đầu tiên của lễ hội), hát chèo đò (vào đêm thứ hai của lễ hội), các hoạt động vui chơi như: Cờ tướng, kéo co, chọi gà, bắt dê, bắt vịt, trồng cây chuối…

Đêm hội là một trong những cảnh sắc đẹp và đáng nhớ nhất của hội. Khắp các ngả đường thôn xóm là những đèn lồng đỏ trang trí rực rỡ làm lộng lẫy cho đêm hội...

Lễ hội kết thúc sau lễ rước Hoàn cung và văn nghệ, để rồi hứa hẹn những mùa lễ hội đáng nhớ khác.

Lễ hội truyền thống xã Dương Liễu là hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, tưởng nhớ và tôn vinh truyền thống anh hùng dựng nước và giữ nước của cha ông ta.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

Không được làm quan nếu khuôn mặt có đặc điểm này.

Bộ vị Tư không trên khuôn mặt bao gồm 10 bộ vị bộ phận, Trong đó, bộ vị bộ phận Ngạch giác mà khuyết hãm thì cả đời không được làm quan.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bộ vị Tư không trên khuôn mặt xét lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Tư không, Ngạch giác, Thượng khanh, Thiếu phủ, Giao hữu, Đạo trung, Giao ngạch, Mi trọng, Sơn lâm, Thánh hiền. Trong đó, bộ vị bộ phận Ngạch giác mà khuyết hãm thì cả đời không được làm quan.

xem-tuong-tu-khong

Ngạch giác, chủ chức vị công khanh.

Nếu bộ vị này khuyết hãm thì cả đời không được làm quan, xương nhô lên thì chức vị tới công khanh. Cũng còn gọi là “Ngạch trung”, sắc hồng, sắc vàng thì đại cát; sắc đen thì mệnh không bảo đảm; sắc ác thì có tai nạn; sắc hồng thì dễ bị người khác khắc hại.

Thượng khanh, chủ quản việc của quê nhà.

Xương thịt nhô lên thường xuất hiện sắc nhẵn bóng thì có thể làm quan lớn hầu cận bên cạnh hoàng đế, sắc ác thì phải rời xa quê hương.

Thiếu phủ.

Màu sắc không tốt thì dù làm quan cũng sẽ bị mất chức, có sắc vàng thì là quý nhân, có chút danh khí.

Giao hữu, chủ bạn bè.

Xương nhô lên và có màu hồng, màu vàng thì những người mà mình kết giao sẽ giúp đỡ mình hết sức; nếu có khiếm khuyết thì ít bạn bè; màu sắc không tốt thì sẽ phát sinh tranh chấp, cãi vã với bạn; màu xanh thì sẽ ngoại tình, sắc hồng thì người tình sẽ rời bỏ mình, sắc trắng thì vợ ngoại tình.

Đạo trung, hay còn gọi là “hoành thượng”, chủ việc xuất hành

Đầu xương nhô lên thì dễ phải bôn ba bên ngoài, nếu vị trí này mà bằng phẳng thì cả đời không ra ngoài, có khiếm khuyết và sắc như gan ngựa thì có thể sẽ phải bỏ mạng bên đường.

Giao ngạch, chủ phúc lộc.

Xương thịt nhô lên, sắc tốt thì sẽ được hưởng phúc, có đức hạnh; có nốt ruồi đen thì cát lợi, màu sắc không tốt và có khiếm khuyết thì cả đời không có phúc đức.

Mi trọng, là vị trí của gan.

Xương thịt nhô lên thì phú quý hữu dũng; có khiếm khuyết, sắc không tốt là mệnh bần tiện, nhát gan.

Sơn lâm, chủ vị trí tích lũy.

Sơn lâm mà rộng dày thì có nhiều tích lũy, lại có quyền thế mạnh; Sơn lâm nông đầy thì không có quyền thế.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Không được làm quan nếu khuôn mặt có đặc điểm này.

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy hot-boy

Mơ thấy anh chàng đẹp trai nhưng lại không nhìn rõ mặt và hình dáng, đây là điềm báo bạn sẽ được hạnh phúc bên người yêu trong tương lai.
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy hot-boy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Con gái mơ gặp anh chàng đẹp trai, phong độ ngời ngời, đây là tín hiệu cho thấy bạn sắp có người theo đuổi. Ngoài ra, giấc mơ này còn thể hiện sự mong muốn cháy bỏng của bạn về một tình yêu chân thành và sâu đậm.

2. Trong giấc mơ, bạn biết được đối phương là một hot boy điển trai nhưng lại không nhìn rõ khuôn mặt và dáng người anh ta ra sao. Chúc mừng bạn nhé, đây là điềm báo bạn sẽ được hạnh phúc bên người yêu trong tương lai.

Giấc mơ này còn cho thấy bạn đang lo lắng và tỏ ra trách móc đối phương vì đã không dành nhiều thời gian bên mình. Bạn mong muốn người ấy có thể bên bạn mọi lúc mọi nơi để bạn có cảm giác được yêu thương, chăm sóc và không phải nhớ nhung quá nhiều.

hot-4672-1398064646.jpg

3. Nếu trong mơ bạn thấy mình và một anh chàng đẹp trai nảy sinh mâu thuẫn, thậm chí là to tiếng cãi vã. Điều này tiết lộ tâm trạng đầy áp lực và thiếu tự tin để bày tỏ tình cảm với đối phương. Bạn lo rằng người ấy sẽ không thích mình hoặc đã có ý chung nhân nào đó.

4. Nếu nữ giới chưa có người yêu mơ thấy mình gặp hot boy hay bạch mã hoàng tử mà mình thần tượng bấy lâu, rất có khả năng bạn sẽ có người yêu trong thời gian ngắn nữa thôi. Tuy nhiên, tình yêu này có kéo dài hay không lại phụ thuộc khá nhiều vào đối phương. Hai bạn cần phải cùng nhìn về một hướng, biết chia sẻ và suy nghĩ cho nhau thì mới có thể kéo dài mối tình này.

Mr.Bull

boat-1397841611-1397841699-362-6510-5704

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy tàu thuyền

Mơ thấy tàu thuyền bị đốt cháy, điều này có nghĩa là hàng loạt “cây si” đang muốn kết thân và chờ đợi tình cảm của bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ: Mơ thấy hot-boy

Gia Kỵ Triệt Tuần phản vi Đại cát

Cũng Nhật Nguyệt Sửu Mùi nhưng có Tuần hoặc Triệt án ngữ thì cảnh hỗn độn bị phá hủy, khiến Nhật Nguyệt cùng có cơ hội phát huy tiềm năng to lớn của mình, là một kỳ cách tốt đẹp. Địa Không cư ở đây cũng tương tự.
Gia Kỵ Triệt Tuần phản vi Đại cát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sửu Mùi là đắc địa của Hóa Kỵ, lại gặp không vong thì chỉ còn sót lại tính cẩn trọng, rất cần thiết để hai đế tinh có thể cộng tác với nhau. Thế nên Âm Dương Sửu Mùi gặp không vong đã tốt, thêm Hóa Kỵ trở thành hoàn mỹ.

Là một kỳ cách rất đáng ghi nhớ vì Nhật Nguyệt lẽ thường rất hiềm Hóa Kỵ và không vong.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gia Kỵ Triệt Tuần phản vi Đại cát

Sự ra đời của thuyết ngũ hành –

Theo các quan điểm nghiên cứu và những luận cứ mà nhiều nhà khoa học Trung Quốc, nhiều nhà sử học và dân tộc học của đất nước mà nó ra đời vẫn chưa thống nhất về mặt thời gian ra đời của thuyết Ngũ Hành. Một điều chắc chắn mà tất cả họ đều nhất trí.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo các quan điểm nghiên cứu và những luận cứ mà nhiều nhà khoa học Trung Quốc, nhiều nhà sử học và dân tộc học của đất nước mà nó ra đời vẫn chưa thống nhất về mặt thời gian ra đời của thuyết Ngũ Hành.

Một điều chắc chắn mà tất cả họ đều nhất trí. Đó là thuyết Ngũ Hành có sau thuyết Âm Dương. Thuyết Âm Dương ra đời thời nhà Hạ chưa đủ lý giải hiện tượng. Dịch ra đời từ thời Chu có đề cập đến Âm Dương Ngũ Hành vậy thì nó – thuyết Ngũ Hành có thời khai sinh giữa khoảng hai triều Hạ – Chu. Trong quãng thời gian này nằm vào thời Ân Thương 1800T đến 1240T (trước công lịch) của Trung Hoa.

Vấn đề là trong giới học giả Trung Quốc vẫn tồn tại 3 ý kiến trái ngược nhau.

ngu-hanh

Một vài ý kiến

Một số cho rằng thuyết Ngũ Hành ra đời gần như đồng thời với thuyết Âm Dương chỉ sau một chút ít về mặt thời gian.

Ý kiến của giới khoa học

Giới sử học lại cho rằng thuyết Ngũ Hành là do Mạnh Tử sáng lập ra. Mạnh Tử là người đầu tiên sáng lập ra Ngũ Hành. Mạnh Tử nói năm trăm năm tất có Vương Giả Hưng (từ Nghiêu Thuấn đến Vu Khang là hơn năm trăm năm)…” sách “Trung Quốc thông sử giản biên của Phạm Văn Lan” (Trung Quốc). Nhưng chính ông lại phủ nhận “… Mạnh Tử không tin Ngũ Hành bác bỏ thuật chiêm bốc dùng ngũ sắc thanh long để định cát hung. Điều đó đủ thấy thời Đông Chu thuyết Ngũ Hành đã thông dụng rồi, đến Trâu Diễn nó càng được thịnh hành…” sách đã dẫn. Luận cứ rằng Mạnh Tử sinh thời Chiến Quốc – Đông Chu liệt quốc. Mà thời này thuyết Ngũ Hành đã được ứng dụng lâu rồi. Cùng với can – chi, nó được phổ biến trong nhiều môn thuật số chiêm bốc.

Nhận xét về các ý kiến

Vậy thì những ý kiến cho rằng thuyết Ngũ Hành ra đời vào thời kỳ nhà Hán do Đổng Trọng Thư đề xướng lại càng không có lý. Vì Hán ra đời sau cả Tần Thủy Hoàng (năm 246T – 210T). Nhà Tần (Thủy Hoàng) lại ra đời cuối Đông Chu.

Trong khi giới triết học và kho cổ học lại khẳng định Ngũ Hành có trong bộ sách “Thượng Thư” thời chiến quốc (TQ] đã nói: “… Ngũ Hành: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ: Thủy thuận dưới nước, hỏa nóng bốc trên, mộc cong, thẳng, kim sắc cắt đứt, thổ là trồng trọt” theo sách “ảnh hưởng của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành với khoa học truyền thống Trung Quốc”.

Như vậy đủ thấy nguồn gốc ra đời của thuyết là của Trung Quốc cổ đại. Còn thời gian ra đời của nó thì chưa xác định được. Đến các học giả Trung Quốc còn tranh biện chưa ngã ngũ. Song việc ứng dụng quy tắc này mặc nhiên tồn tại


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự ra đời của thuyết ngũ hành –

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tượng kỳ lân trừ tà, tăng phúc lộc cho gia đình

Kỳ lân cũng là một trong “tứ linh”. Theo truyền thuyết, kỳ lân thường phù trợ cho người hiếu thuận, lương thiện, bởi thế mà được coi là loài thú nhân từ.
Tượng kỳ lân trừ tà, tăng phúc lộc cho gia đình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa của kỳ lân

Kỳ lân cũng là một trong “tứ linh”. Theo truyền thuyết, kỳ lân thường phù trợ cho người  hiếu thuận, lương thiện, bởi thế mà được coi là loài thú nhân từ. Cũng giống như rồng, kỳ lân là một loài vật truyền thuyết, với phần đầu giống rồng, có hai sừng, thân hình giống hươu, phủ đầy vảy, lông đuôi dài, cuộn sóng, thần thái cực kỳ sinh động.

Hiện trên thị trường có rất nhiều loại kỳ lân với chủng loại phong phú, phong cách tạo hình đa dạng, được chế tạo từ nhiều nguyên liệu như đồng, sứ, ngọc, đá… và cũng mang những chức năng phong thuỷ khác nhau.

Tượng kỳ lân

Tác dụng của kỳ lân

- Tránh tà, ngăn cản sát khí: Nếu cửa chính bị hành lang trực xung, phạm phải “xuyên tâm sát” hay “thương sát”, có thể dùng một đôi kỳ lân để hóa giải. Trong trường hợp hành lang khá ngắn, sát khí không quá mạnh, chỉ cần sử dụng một kỳ lân đơn. Nhưng nếu hành lang dài mà thẳng, tức sát khí mãnh liệt có thể dùng ba kỳ lân để hóa giải.

- Hóa giải Tam Sát: Phương vị của Tam Sát là khác nhau thùy theo năm hạn. Để hóa giải Tam Sát cần sử dụng ba kỳ lân (tốt nhất là kỳ lân đã được khai quang) đặt ở phương vị Tam Sát, đầu kỳ lân đặt quay về hướng Tam Sát.

- Cải vận, giảm nhẹ tai ương cho gia đình: Kỳ lân là loài vật đặc trưng cho cát tường, nếu đặt kỳ lân trong nhà sẽ có tác dụng trấn trạch trừ tà, tăng phúc lộc cho gia đình, không chỉ giúp gia chủ sự nghiệp hanh thông mà còn xoay chuyển tài vận. Ngoài ra, kỳ lân còn giúp được gia chủ tránh được khí độc gây vận xấu. Kỳ lân dùng trong mục đích cải vận tốt nhất cần được khai quang thì mới phát huy công lực một cách trọn vẹn.

- Hóa giải bất lợi của Bạch Hổ: Đặt một đôi kỳ lân tại vị trí Bạch Hổ trong nhà ở, có thể hóa giải được tính hung của phương Bạch Hổ, bảo vệ người nhà bình yên. Đặc biệt, khi phương Bạch Hổ bị ống khói hoặc vật sắc nhọn xung phải  thì kỳ lân đã qua khai quang có thể hóa giải rất hiệu nghiệm.

Ngoài ra, kỳ lân còn có khả năng hóa giải tà khí của các hung tinh trong vận hạn.

Kỳ lân tượng trưng cho sự tốt lành, có thể đặt ở bất kỳ phương nào trong nhà. Kỳ lân đã qua khai quang có khả năng trấn trạch, trừ tà, tăng gia phúc lộc. Kỳ lân lại được tạo hình tinh xảo, có tính thẩm mỹ cao, sẽ là món quà rất ý nghĩa để mừng nhà mới.

(Theo Bát trạch minh kính)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tượng kỳ lân trừ tà, tăng phúc lộc cho gia đình

Đoán tiểu hạn phải linh động

Bài viết về việc giải đoán tiểu hạn phải linh động. Đây là một kinh nghiệm rất hữu ích.
Đoán tiểu hạn phải linh động

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những trường hợp: THIÊN HÌNH, THIÊN MÃ VÀ ĐÀO HỒNG NHẬP HẠN

Như các bạn đã biết việc giải đoán tiểu hạn có thể nói là rắc rối, phức tạp nhất. Tôi chỉ xin khép lại giới hạn từ "linh động" trong chủ đề này mà thôi, thực ra việc đoán Tử-vi thì rất mênh mông vô cùng. Vì vậy hôm nay tôi thiết nghĩ không phải là vô ích khi trở lại vấn đề nêu trên. Qua một số cách giải đoán về tiểu hạn về Tử-Vi, tôi có một nhận xét chung là họ đều câu nệ ý nghĩa nguyên thủy của các sao nhập hạn quá mức đến nỗi mắc phải những sai lầm nặng nề trong việc giải đoán vận hạn.

Ví dụ như khi thấy Thiên Hình nhập hạn thì vội cho là sẽ bị thương tích, mổ cắt, giải phẩu..... ; thấy Thiên Mã (nhất là thêm Lưu Thiên Mã) là chắc bẩm sẽ có sự thay đổi, thuyên chuyển công tác...; thấy Đào Hồng thì liền nghĩ tới vấn đề tình ái, ngoại tình hoặc sinh con v.v.... Tôi rất đồng ý là ta cần phải học thuộc đặc tính của các sao, nhưng khi giải đoán, nhất là về tiểu hạn, ta cần phải uyển chuyển và linh động chứ không thể áp dụng một cách máy móc được.

Như khi thấy trời mây đen u ám, sấm chớp ầm ầm, ta đừng vội quả quyết (!?) là sẽ mưa lớn vì thực ra có khi chẳng hề có một giọt mưa nào, do gió thay đổi chiều chẳng hạn... Vậy đặc tính của các sao có thể ví với hiện tượng về thời tiết nghĩa là diễn tiến hoặc kết quả dễ bị thay đổi, và nhiều trường hợp đặc tính của các sao bị biến đổi đến mức ta không còn liên tưởng nổi tới ý nghĩa riêng của chúng nữa.

Bây giờ, để quý bạn đọc dễ hiểu tôi thấy không có cách gì khác hơn là nêu ra dưới đây nhiều trường hợp ứng dụng, chứ không thể nào đưa ra một số nguyên tắc hoặc phương phương-thức để giải đoán, vì phạm vi đề tài này rất mông lung, rộng lớn mà chỉ có nhiều năm kinh nghiệm và thực tập mới có thể thành thạo được.

1- THIÊN HÌNH NHẬP HẠN

Có một độc giả tâm sự với tôi rằng ông rât sợ Thiên Hình nhập hạn vì cứ năm nào gặp nó là mang thương tích liền (như tông xe, xe đụng mình hay bị máy cắt, hàn.... trong cơ khí làm tổn thương các bộ phận trên thân thể người, hay trong chiến tranh phải giẫm phải bom, mìn v.v....), đến nỗi bây giờ trên người ông đầy chiến thương (!), và ông khen lấy khen để khoa Tử-vi thật là vi diệu và ứng nghiệm. Tuy nhiên ông có nêu ra một thắc mắc là không hiểu tại sao anh của ông ta gặp hạn Thiên Hình chẳng bao giờ bị một vết trầy da mà lại còn hạnh thông mới kỳ lạ chứ! Ông này có gửi cả hai lá số cho tôi để nhờ giải đáp.

Điểm ông thắc mắc kể ra chẳng có khó hiểu, vì ông không chịu phối hợp với Mệnh, Thân và một vài yếu tố khác. Ông ta bị thương lu bù là phải vì Mệnh của ông có Thất Sát hội Kình Dương cư Ngọ mà Đại Hạn lại có Hỏa Linh, Không Kiếp cho nên Tiểu hạn mà có Thiên Hình (dù là bàng chiếu) thì khó tránh được tai nạn. Còn anh ông ta là một nhà Điêu khắc sư (do ông cho biết) cho nên gặp hạn gặp Thiên Hình lại tốt vì Thiên Hình ứng vào: búa, đục, dao, kéo.... tức là đồ nghề chuyên môn để tạo nên những pho tượng hoành tráng, tuyệt mỹ, nhất là hạn lại thêm Xương Khúc, Hỷ Thần và xa lánh được những hung sát tinh (ở Đại Hạn cũng như ở Tiểu hạn), như thế làm sao chẳng hạnh thông.

Nếu anh của ông không gặp hạn có Thiên Hình, đương nhiên là yếu đi vì đã là điêu khắc sư mà lại thiếu đồ nghề, dụng cụ thì làm sao thực hiện các tác phẩm của mình. Cũng như trường hợp các nhà Luật (như: Thẩm phán, Bào chữa, Luật Sư.... ) nếu gặp hạn có Thiên Hình thường thêm uy quyền vì Thiên Hình chủ về cứu xét, thanh tra, kiểm tra... miễn là không gặp nhiều hung sát tinh làm thay đổi sự ứng dụng của Thiên Hình.

Nhưng, những người nào có mạng hay bị tù tội (như có Liêm-Tham ở Tỵ- Hợi hội hung sát tinh) mà gặp hạn có Thiên Hình, thì rất đáng ngại, vì Hình lúc đó chủ về cây bút để viết thành bản án, nhất là khi có thêm Xương-Khúc tượng trưng cho văn kiện, giấy tờ.

Những trường hợp trên đây tương đối dễ tìm hiểu, nhưng có trường hợp rất khó giải đoán, như hạn gặp đủ cả Hỏa Linh, Hình, Không Kiếp, Kình Đà, Phục... ai mà chẳng e ngại tai ương xảy ra. Thế mà có khi lại tốt đẹp nếu các sao này nhập hạn ở cung Điền-Trạch mà đương số là một điền chủ vì các sao này ứng vào các nông cụ, tá điền, máy cày... khiến cho ruộng đất trở nên phì nhiêu, mùa màng tốt đẹp, nhưng nếu chẳng may các sao trên nhập hạn cung Giải Ách thì đương số bất luận là ai cũng dễ chết phi mạng.

Riêng tôi năm nay có Đại hạn-Tiểu Hạn trùng phùng có Thiên Phủ hội Thiên Hình, Tứ linh, Xương Khúc, Diêu Y, Tứớng Ấn, Quan Phúc.. tại cung Thê. Mạng đồng hành với Chính tinh là Thiên Phủ, Thiên Hình và không có Lục sát tinh hội chiếu, nên ứng vào một khía cạnh hơi đặc biệt, xin kể cho các bạn biết là tham gia và gửi bài vào các diễn đàn học thuật, phải chăng Thiên Hình ngày nay ứng vào máy vi tính, Internet, các phương tiện truyền thông tin...

2- THIÊN MÃ NHẬP HẠN

Về sao Thiên Mã cũng vậy, đa số các bạn cứ nghĩ rằng là cứ có sao này nhập hạn mà lại gặp thêm cả Thiên Mã lưu niên thì 100 % là có sự thay đổi nhà cửa, công danh... Tin tưởng như thế cũng không phải là hồ đồ vì thực ra có rất nhiều trường hợp ứng nghiệm, nhưng muốn cho chính xác hơn ta vẫn phải phối hợp với nhiều yếu tố khác. Nếu không phối hợp thì vô hình trung ta đã giải đoán theo kiểu "serie", không khác gì chỉ căn cứ vào năm sinh như các cẩm nang hàng chợ Tử-vi hàng năm bày bán trên thị trường.

Thực tế, ví dụ chẳng hạn như năm nay là năm Ất Mão, Lưu Thiên Mã ở cung Tỵ gây ảnh hưởng thay đổi cho rất nhiều tuổi, như tuổi Dần, Hợi (Nam), Sửu (Nữ) v.v... là những tuổi Tiểu Hạn năm Mão ở cung Tỵ, đó là chưa kể đến nhiều tuổi khác cũng gặp Lưu Thiên Mã chiếu. Nếu Tiểu hạn ở cung Hợi, Dậu, Sửu, Thân. Nhưng trên thực tế chắc chắn là ta không thể thấy các tuổi đó đều gặp sự thay đổi, ngay cả các tuổi Tiểu Hạn đi đến cung Tỵ. Đặt vấn đề như thế không có nghĩa là tôi phủ nhận ý nghĩa nguyên thủy của sao Thiên Mã, cố định cũng như lưu niên, nhưng tôi muốn nói rằng, ý nghĩa đó luôn luôn bị biến đổi dưới nhiều hình thức hoặc có trạng thái khiến cho ta nhầm lẫn, mặc dầu sau khi sự việc xảy ra ta vẫn thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã phần nào. Ở đây tôi không bàn đến cách giải đoán bình thường của sao Thiên Mã (nhất là lưu Thiên Mã) như các sách Tử-vi đã nêu ra. Tôi chỉ muốn đề cập tới một số trường hợp mà " hiện tượng" Thiên Mã đã chuyển biến hoàn toàn:

- Tôi có được xem một lá số Tiểu hạn đi tới cung Thiên Di gặp đủ các sao Thiên Mã cố định lẫn lưu niên và còn thêm cả Thiên Đồng. Như thế ai chẳng chắc đoán là đương số di chuyển không xa thì gần, nhưng suốt cả năm không thấy đương số đi đâu cả mà cũng chẳng hề có chuyện thay đổi việc làm, chức vụ hoặc nhà cửa... Sau khi thấy không ứng nghiệm, tôi liền nghiên cứu lại lá số đó và vẫn không hiểu nổi tại sao?. Mặc dầu cũng cố tìm ra được một yếu tố là Mạng của đương số thuộc loại " ru rú xó nhà " (có Thiên Phủ hội Long-Phượng, Thai-Tọa đồng cung) mà Đại hạn không có môi trường gì thuận lợi cho việc di chuyển, nhưng riêng về Tiểu Hạn tôi vẫn ấm ức không biết Thiên Mã đã ứng vào khía cạnh nào. Về sau tình cờ đương số cho to tôi biết là người anh ruột của đương số ở ngoại quốc học mới về sau khi tốt nghiệp bậc Đại Học bên Tây. Lúc đó tôi mới vỡ lẽ ra và thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã vẫn ứng nghiệm, nhưng đã thay đổi hiện tượng quá nhiều...

Thường thường Tiểu hạn đến cung Tài-Bạch gặp Lộc-Mã lưu niên ai mà chẳng nghĩ tới chuyện di chuyển vì kinh doanh, buôn bán hoặc ít ra công danh cũng thay đổi không nhiều thì ít, nhưng trên thực tế tôi đã gặp nhiều lá số với Tiểu hạn như vậy mà chẳng hề có việc di chuyển hay thay đổi gì. Trường hợp này tuy khác thường nhưng không khó giải đoán lắm, vì tôi đã gặp khá nhiều lá số có "lộ" ra chiều hướng đó. Quý bạn chỉ cần cân nhắc xem đương số có thuộc loại người xoay xở, bôn ba, bon chen để làm giàu hay không? (khía cạnh này chắc các bạn cũng tím ra được) rồi coi tiếp Đại hạn có khuynh hướng buôn bán hay không? Nếu đều không cả, thì gặp Tiểu hạn như trên chẳng thể có di chuyển hoặc thay đổi gì về sự nghiệp. Và khi đó thường thường Thiên Mã ứng về Tài Lộc bất ngờ, như ở trên trời rớt xuống, nghĩa là có thể trúng số lớn hoặc được ai cho một món tiền đáng kể nhất là khi có thêm Song-Hỷ và Không Kiếp đắc địa tại Tỵ hoặc Hợi, hoặc được Đại Hạn có Khôi Việt, Quang Quý, Quan Phúc chủ về môi trường thuận lợi cho tiền bạc vào bất ngờ một cách mau chóng và lợi lạc. Trường hợp trên Thiên Mã không khác gì " Sứ giả " tài lộc đem tiền lại cho mình và như thế ý nghĩa sao đó vẫn còn tồn tại.

Sau hết tôi xin nêu ra trường hợp Tiểu hạn đi đến cung Quan Lộc có đủ cả hai sao Thiên Mã cố định và lưu niên rồi lại còn có cả Thiên Không và Thiên Đồng hợp chiếu, nghĩa là gồm đủ các yếu tố thay đổi cho công danh, chức vụ (vì Tiểu hạn ở cung Quan Lộc)

Thế mà vẫn có một vài "ca" chẳng hề thay đổi mới nhức đầu chứ! Đó là trường hợp lá số có cung Quan Lộc quá bền vững, lâu dài (như có Long Phượng hội Khoa, Quyền, Lộc, Thai Tọa v.v...) đồng thời Mạng không đồng hành với các sao có đặc tính thay đổi tọa thủ tại cung (tức là Thiên Mã trong trường hợp này) và cung Mệnh không có yếu tố hay bị thay đổi hoặc thích thay đổi khiến cho Thiên Mã phải chuyển hướng ứng nghiệm, nghĩa là làm cho những người đồng nghiệp của mình (trên cũng như dưới) phải bị thay đổi, sa thải hoặc thuyên chuyển (ngày nay gọi là sáo trộn nhân sự tại cơ quan), vì thực ra các sao ở cung Quan Lộc đâu có phải chỉ ứng vào cá nhân mình mà còn chi phối cả những người cùng làm xung quanh mình. Do đó, gặp trường hợp trên nếu quý bạn cứ quyết đoán là đương số thay đổi công dạnh, chức vụ, sự nghiệp... thì có phải là " hố " nặng nề không?.

3- ĐÀO, HỒNG NHẬP HẠN

Sau hai sao Thiên Hình và Thiên Mã, tôi cần bàn thêm về các sao Đào Hồng nhập hạn thường là một đề tài sôi nổi và gay cấn cho nhữing người mới nghiên cứu Tử-vi, Nam cũng như Nữ. Thực tế, khi thấy Đào Hồng nhập hạn, người thì cho rằng ứng vào thai nghén, sinh đẻ, người thì nghi ngờ sẽ có chuyện tình ái, vương lụy... kẻ thì mừng là sẽ gặp tin vui, may mắn bất ngờ v.v... Đúng ra những điều trên bình thường vẫn xảy ra nhưng khi gặp những trường hợp phức tạp, ý nghĩa này sẽ không còn ứng nghiệm nữa.

Ví dụ như có người hạn gặp Đào Hồng chẳng những không được may mắn mà còn bị lường gạt, mưu hại do các sao Hóa Kỵ, Phục Binh, Không Kiếp, Tả Hữu gây ra, nhất là khi tiểu hạn đi đến cung Nô Bộc, Thiên Di, Quan Lộc hoặc Tài Bạch.

Còn về chuyện vương lụy, tình ái... cũng vậy. Nhiều khi Đào Hồng hội đủ cả Song Hỷ, Thai, Mộc Dục, Hoa Cái nhập hạn mà suốt năm chẳng thấy có gì liên hệ đến phương diện tình cảm, chứ chưa nói tới tình ái. Đó là trường hợp cung Mệnh của đương số đứng đắn, đàng hoàng, chí thú làm ăn mà Tiểu Hạn đi đến cung Điền Trạch, vì khi đó các sao " lả lướt " mất môi trường hoạt động và chuyển sang ý nghĩa tô điểm, sửa sang nhà cửa cho sáng sủa, đẹp đẽ hơn hoặc thay đổi những đồ cũ và sắm bàn ghế, giừơng tủ, đồ đạc, xe mới....

Viết bài hôm nay, tôi không dám có chủ đích chỉ dẫn quý bạn giải đoán cho thật chính xác Tiểu Hạn vì khía cạnh này rất mênh mông và khó khăn mà chính tôi nhiều khi cũng điên đầu không sao tìm ra được những điểm sai lầm hoặc không ứng nghiệm. Tôi nêu ra những trường hợp kể trên chỉ cốt giúp quý bạn có một ý niệm tổng quát về ý nghĩa linh động của các sao Tử-Vi ; nhất là về Tiểu Hạn để tránh được phần nào thất vọng khi gặp những lá số rắc rối, phức tạp hoặc mơ hồ, dễ khiến chúng ta lầm lẫn./.

KHOA HỌC HUYỀN BÍ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tiểu hạn phải linh động

Sao Thiên Đồng

Phương Vị: Nam Đẩu Tinh Tính: Dương Hành: Thủy Loại: Phúc Tinh Đặc Tính: Phúc thọ Tên gọi tắt thường gặp: Đồng
Sao Thiên Đồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 5 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.

Vị Trí Ở Các Cung

  • Miếu địa ở các cung Dần, Thân.
  • Vượng địa ở các cung Tý.
  • Đắc địa ở các cung Mão, Tỵ, Hợi.
  • Hãm Địa ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Ngọ, Dậu.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Thiên Đồng đắc địa thì thân hình nở nang, hơi thấp, chân tay ngắn, da trắng, mặt vuông vắn và đầy đặn. Còn Thiên Đồng hãm địa thì mập và đen.
Tính Tình
Sao Thiên Đồng ở cung miếu địa và vượng địa: thông minh, ôn hòa, đức hạnh, từ thiện, không có tánh quả quyết, hay thay đổi ý kiến, công việc, hoặc hay gặp cảnh bị bỏ dở nửa chừng, được hưởng sự phong lưu, khá giả, sống lâu. Người nữ thì đảm đang, ăn ở có đức, có niềm tin về thần linh, tôn giáo, làm lợi cho chồng con.
Sao Thiên Đồng cung đắc địa: thích phiêu lưu, nay đây mai đó, hay thay đổi chỗ ở, công việc lưu động, phong lưu, có niềm tin về thần linh, tôn giáo, làm phước, hay thay đổi chí hướng, không có lập trường dứt khoát, xử lý nặng về tình cảm, ân tình nghĩa lụy hơn là dùng lý trí, nguyên tắc, số ly hương, khó cầm giữ tiền của vững chắc.
Sao Thiên Đồng cung hãm địa: hay thay đổi thất thường, hay gặp sự trắc trở, dễ gặp thị phi, hiểu lầm, không cẩn trọng về ngôn ngữ, làm gì cũng phải nương vào người khác mới làm được, không có định kiến, phiêu bạt, ly hương. Riêng sao Thiên Đồng ở Ngọ là người có óc kinh doanh, thích mua bán.
Tài Lộc Phúc Thọ
  • Thiên Đồng đắc địa thì chỉ sự giàu sang.
  • Thiên Đồng hãm địa thì phải lo lắng về tiền bạc, tài sản khi có, khi tán, có lúc phải túng thiếu vất vả.
  • Thiên Đồng ở Ngọ thì chỉ năng khiếu kinh doanh. Nhưng về mặt phúc thọ, vì Thiên Đồng là phúc tinh nên dù hãm địa cũng thọ.
Những Bộ Sao Tốt
  • Thiên Đồng, Kình ở Ngọ: Có uy vũ lớn, được giao phó trấn ngự ở biên cương.
  • Thiên Đồng, Thiên Lương ở Dần, Thân: Làm nên, danh giá. Ngoài ra có khiếu về y khoa, dược khoa, sư phạm rất sắc bén.
  • Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương cách: Phúc thọ, làm công chức.
  • Thiên Đồng, Thiếu Âm đồng cung ở Tý: Phúc hậu và thọ; đẹp đẽ.
Những Bộ Sao Xấu
  • Thiên Đồng, Không, Kiếp, Hỏa Linh: U mê, nghèo khổ, sống qua ngày, ăn mày.
  • Thiên Đồng, Thái Âm ở Tý, Hổ, Khốc, Riêu: Đàn bà đẹp nhưng bạc phận, khóc chồng.
  • Thiên Đồng, Hóa Kỵ ở Tuất: Rất xấu trừ phi tuổi Đinh thì phú quý.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Phụ Mẫu
  • Sao Thiên Đồng tại Mão, Tỵ, Hợi: Cha mẹ khá giả.
  • Sao Thiên Đồng tại Dậu: cha mẹ bình thường, mẹ thường hay đau yếu (vì có Thái Âm hãm xung chiếu).
  • Sao Thiên Đồng tại Thìn, Tuất: cha mẹ và con cái xung khắc.
  • Thiên Lương tại Dần, Thân: cha mẹ giàu sang và thọ (ở Dần tốt hơn ở Thân).
  • Thái Âm tại Tý: Cha mẹ giàu sng và thọ.
  • Thái Âm tại Ngọ: cha mẹ vất vả, sớm xa cách nhau.
  • Cự Môn ở Sửu, Mùi: sớm xa cách hai thân. Trong nhà thiếu hòa khí.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Phúc Đức
  • Thiên Đồng ở Mão, Tỵ, Hợi: Được hưởng phúc, sống lâu, họ hàng đi xa làm ăn.
  • Thiên Đồng ở Dậu, Thìn, Tuất: Phúc đức không được tốt. Cuộc đời lúc vui lúc buồn, ra ngoài hay vướng vào chuyện thị phi, đàm tiếu, cãi cọ lôi thôi. Họ hàng ly tán, thường có sự tranh chấp lẫn nhau.
  • Thái Âm đồng cung tại Tý: Được hưởng phúc, sống lâu. Nên lập nghiệp xa quê hương, bản quán. Trong họ có nhiều người quý hiển, giàu sang.
  • Thái Âm đồng cung tại Ngọ: Phúc đức không được tốt, phải ly hương, họ hàng ly tán, phiêu bạt.
  • Thiên Lương đồng cung: Suốt đời thanh nhàn, được hưởng phúc, sống lâu. Trong họ có nhiều người quý hiển, giàu sang.
  • Cự Môn đồng cung: Phúc đức không được tốt, thường phải ly hương, bôn ba, thời trẻ tuổi thì nghèo khó, vất vả, dễ xa cách người thân, cô độc, tình cảm lận đận, cần phải có nhiều sao tốt mới đỡ xấu ở hậu vận về già.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Điền Trạch
  • Thiên Đồng ở Mão, Nguyệt đồng cung tại Tý: Giàu có lớn. Tay trắng lập nghiệp, càng ngày càng thịnh vượng.
  • Thiên Đồng ở Dậu, Nguyệt đồng cung tại Ngọ: Thành bại thất thường, nhưng về già cũng có chốn nương thân.
  • Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: Có nhà đất nhưng rất ít, hay phải thay đổi mua vào bán ra luôn luôn.
  • Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: Tạo dựng nhà đất khó khăn, dù có tạo dựng được cũng phải gặp rủi ro, hoàn cảnh thời cuộc làm cho mất mát. Dễ gặp cảnh tranh chấp về điền sản.
  • Thiên Lương đồng cung: Tạo dựng nhà đất trước ít sau nhiều.
  • Cự Môn đồng cung: Về già mới có nhà đất.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Quan Lộc
  • Thiên Đồng ở Mão: có công danh, nhưng phải nay đây mai đó.
  • Thiên Đồng ở Dậu: công danh muộn màng, Chức vị nhỏ, hay thay đổi. Nên chuyên về kỹ nghệ hay buôn bán.
  • Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: có công danh lúc có lúc không, hay di chuyển, lưu động, chóng chán, hay thay đổi.
  • Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: có công danh, nhưng phải nay đây mai đó, có tài ăn nói lý luận. Công danh trước nhỏ sau lớn.
  • Thái Âm đồng cung tại Tý: công danh hiển hách, có tài can gián người trên.
  • Thái Âm đồng cung tại Ngọ: hạp ngành nghề công kỹ nghệ hoặc kinh doanh.
  • Thiên Lương đồng cung: có công danh tốt đẹp. Rất nổi tiếng nếu chuyên về y khoa hay sư phạm.
  • Cự Môn đồng cung: thường gặp sự chật vật trong công danh, phải cần có cấp trên nâng đỡ mới tốt, hay bị lôi thôi kiện tụng, thị phi, bị dòm ngó.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Thiên Di
  • Thiên Đồng ở Mão: Ra ngoài mới tốt, không nên ở lâu một chỗ. Hay gặp quý nhân phù trợ.
  • Thiên Đồng ở Dậu: Thường hay đi xa, xa nhà. Ra ngoài vất vả, thường hay gặp chuyện phiền lòng. Sau này chết ở xứ người.
  • Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: Đi xa, nay đây mai đó, dù có nhà cũng không ở nhà, hay thay đổi nơi ăn chốn ở.
  • Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: Ra ngoài nên cẩn trọng, làm gì cũng nên có sự suy tính kỹ lưỡng, dễ gặp chuyện thị phi, tranh cãi.
  • Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Tý, Thiên Lương đồng cung: Luôn gặp quý nhân phù trợ. Được nhiều người kính trọng, nếu đi buôn, làm kinh doanh cũng phát tài.
  • Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Ngọ: Ra ngoài rất bất lợi, hay gặp sự cạnh tranh và ghen ghét.
  • Thiên Đồng, Cự Môn đồng cung: Ra ngoài hay được vào nơi chốn sang trọng quyền quý, hoặc gặp người có chức quyền, lời nói của mình được tin phục, sau này chết ở xa nhà, dễ ly hương. Nhưng cũng nên cẩn thận về ngôn ngữ, lời nói, không nên nói sai sự thật, hoặc đùa giỡn quá đáng dễ bị hiểu lầm, và làm việc gì cũng phải lo nghĩ luôn luôn.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Tật Ách
Sao Thiên Đồng chỉ toàn thể bộ máy tiêu hóa, không đích danh chỉ bộ phận nào rõ rệt trong bộ máy này. Tùy theo đắc hay hãm địa, bộ máy này sẽ bị ảnh hưởng tốt hay xấu. Ngoài ra, đi với sát tinh, bộ máy tiêu hóa bị tổn thương.
  • Thiên Đồng, Thiên Khốc, Thiên Hư hay nhị Hao: Hay đau bụng, có khuynh hướng tiêu chảy, sình bụng, khó tiêu, trúng thực.
  • Thiên Đồng, Kỵ: Hay đau bụng, có khuynh hướng tiêu chảy, sình bụng, khó tiêu dễ bị trúng thực, trúng độc.
  • Thiên Đồng, Không Kiếp, Hình: Lở bao tử, có thể mổ xẻ ở bộ máy tiêu hóa, cắt ruột, vá ruột. Ngoài ra, Thiên Đồng thường thiên về nghĩa thích ăn uống rượu chè, trà dư tửu lậu, do đó bộ máy tiêu hóa bị liên lụy.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Tài Bạch
  • Thiên Đồng tại Mão hay Thái Âm đồng cung tại Tý: Tay trắng làm giàu, càng về già càng nhiều của.
  • Thiên Đồng tại Dậu: Tiền bạc tụ tán thất thường.
  • Thiên Đồng tại Tỵ, Hợi: Phải lang thang nay đây mai đó, làm nghề lưu động mới có tiền, nhưng cũng dễ bị hao tán.
  • Thiên Đồng tại Thìn, Tuất: Tiền vào tay này lại ra tay khác, hay túng thiếu.
  • Thái Âm đồng cung tại Ngọ: kiếm tiền khó khăn, chậm chạp, vất vả, thường phải bôn ba, nay đây, mai đó mới có tiền, làm đủ mọi nghề. Ở tuổi trung niên tiền bạc mới yên ổn.
  • Cự Môn đồng cung: Tiền bạc vào ra thất thường, dễ gặp cảnh túng thiếu, dễ có sự tranh chấp tiền bạc, hoặc thưa kiện. Phải xa xứ làm ăn mới tốt.
  • Thiên Lương đồng cung: Khá giả. Rất thích hợp với ngành nghề kinh doanh, mua bán.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Tử Tức
  • Rất tốt nếu Thiên Đồng ở Mão: đông con, đồng cung với Lương, Nguyệt ở Tý: đông con, con quý hiển.
  • Kém tốt nếu ở Dậu: ít con, thay đổi chỗ ở luôn mới có nhiều con, ở Tỵ, Hợi: hai con, nếu có nhiều con thì mất một số, con cái ly tán, chơi bời.
  • Xấu nếu Thiên Đồng ở Thìn Tuất, hiếm con và nhất là đồng cung với Cự Môn thì ít con, con khó nuôi, bất hòa, ly tán, có thể có con riêng.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Phu Thê
  • Thiên Đồng ở Mão: nên muộn đường hôn nhân mới tốt, hoặc việc hôn sự hay gặp trắc trở, xa cách ở buổi ban đầu, về sau thì hạnh phúc lâu dài. Nam nên là con trưởng, đoạt trưởng, nữ là con thứ.
  • Thiên Đồng ở Dậu: hay có sự bất hòa trong gia đình, hoặc thường phải xa cách nhau.
  • Thiên Đồng ở Tỵ: dễ có duyên nợ, cũng dễ xa nhau, hoặc hay có chuyện buồn phiền, hoặc vì làm ăn mà thường xa cách, duyên nợ ở xa.
  • Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: khắc khẩu, nếu không thì hạnh phúc không trọn vẹn, lâu dài.
  • Thiên Đồng, Thiên Lương đồng cung: Sớm lập gia đình. Hai người thường có họ hàng với nhau, hoặc người cùng xứ, hoặc có quen biết trước với anh chị em, người thân trong nhà mà thành duyên nợ. Vợ chồng đẹp đôi và giàu sang.
  • Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Tý: Sớm lập gia đình. Hai người thường quen biết nhau trước, hoặc hai họ đã có quen nhau. Vợ chồng khá giả, đẹp đôi.
  • Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Ngọ: Phải muộn lập gia đình mới tốt.
  • Thiên Đồng, Cự Môn đồng cung tại Tý: Duyên nợ dễ chia ly, hoặc phải xa cách một thời gian mới đoàn tụ. Hoặc lập gia đình gặp sự trắc trở rồi mới thành.
Thiên Đồng Khi Vào Các Hạn
Nếu sáng sủa thì hưng thịnh về tài, danh, may mắn. Nếu xấu xa thì hậu hạn xấu (hao của, bị kiện, tụng, bị đổi chỗ...).
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Đồng

Mơ thấy đánh cược: Nhận thức của bạn có thể thay đổi –

Mơ thấy đánh cược cùng người khác, cho thấy nhận thức của bạn có thể được thay đổi. Mơ thấy người khác đánh cược, nhắc nhở bạn nên lưu ý đến đối thủ cạnh tranh. Mơ thấy mình thắng cược là một giấc mơ có ý nghĩa ngược lại, dự báo bạn có thể bị thua c
Mơ thấy đánh cược: Nhận thức của bạn có thể thay đổi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy đánh cược: Nhận thức của bạn có thể thay đổi –

Đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được

Nếu để đồng hồ vị trí phù hợp sẽ giúp gia đình thêm hạnh phúc, êm ấm và dư dả. Để không đúng sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh và sức khỏe của cả gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hầu hết mỗi gia đình đều treo đồng hồ với mục đích biết chính xác thời gian hoặc đơn giản chỉ là cho đẹp. Tuy nhiên đa phần chúng ta đều không biết rằng bản thân đồng hồ cũng có tác động không nhỏ đến tổng thể phong thủy của cả gia đình. Nếu để vị trí phù hợp sẽ giúp gia đình thêm hạnh phúc, êm ấm và dư dả. Để không đúng sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh và sức khỏe của cả gia đình.

Không nên treo đồng hồ trong phòng ngủ hay phòng làm việc. Về cơ bản treo đồng hồ ở hai nơi này đều không có bất cứ tác dụng phong thủy tích cực nào. Nếu không biết treo nhầm hướng còn có thể gây họa cho cả nhà. Chẳng hạn như ở phòng ngủ thì không treo ở đầu giường hay cuối giường sẽ gây ra những suy nghĩ tiêu cực. Còn phòng làm việc thì không nên treo đồng hồ ở phía bàn làm việc vì sẽ tạo cảm giác bức bối, dễ gây stress.

đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được - ảnh 1.

(Ảnh: Internet)

Theo phong thủy hiện đại, tiếng kim đồng hồ chạy và tiếng kêu báo giờ có tác dụng tốt làm tăng sự phấn khởi và trong lành cho cả gia đình. Tiếng kêu đều đặn, có quy tắc sẽ giúp cuộc sống gia đình thêm gắn bó và vui tươi hơn. Chính vì vậy để đồng hồ trong phòng khách là thích hợp nhất. Tuy nhiên nên lưu ý, không nên để đồng hồ ở hướng đối diện với cửa phòng khách, sẽ khiến khách đến nhà gặp vận xui, ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã giao của gia chủ.

Mỗi gia đình cũng chỉ nên treo một đồng hồ trong phòng khách mà thôi. Nếu nhiều quá sẽ gây nhiễu loạn các khí trong nhà, từ xấu sẽ thành tốt. Đồng thời cũng không nên để các vật trang trí ở xung quanh đồng hồ nếu không sẽ làm thay đổi vận khí tốt của cả gia đình.

đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được - ảnh 2.

(Ảnh: Internet)

Những điều cần lưu ý khi treo đồng hồ trong phòng khách

Nên:

1. Treo đồng hồ ở hướng Chu Tước (phía Nam) là hướng tốt cho gia chủ. Vì đây là hướng của Hỏa nên chọn đồng hồ có màu đỏ, tím, cam hoặc hồng có hình dạng bát giác là cực kỳ tốt và giúp gia chủ thêm may mắn.

đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được - ảnh 3.

(Ảnh: Internet)

2. Đồng hồ ở hướng Thanh Long (phía Đông) đại diện cho sự may mắn. Màu sắc thích hợp nhất là màu xanh và đồng hồ hình vuông vì đây là hướng Mộc.

3. Hoặc chúng ta có thể để đồng hồ ở hướng Tây Bắc với màu sắc chủ đạo là trắng hoặc vàng, hình dáng nên là tròn để tăng thêm sự may mắn cho gia đình.

4. Hoặc nếu không rõ phương hướng gia đình bạn có thể treo đồng hồ ở tường trái để tạo vận may cho mọi người trong gia đình.

Không nên:

1. Không nên để đồng hồ ở hướng Huyền Vũ (hướng Bắc) vì Huyền Vũ chỉ thích tĩnh không thích động. Tiếng đồng hồ kêu hay kim đồng hồ chạy sẽ làm xáo trộn Huyền Vũ, lâu ngày sẽ ảnh hưởng xấu đến cả gia đình.

2. Không nên treo đồng hồ hướng Bạch Hổ (hướng Tây). Trong phong thủy, hướng Bạch Hổ là hướng cực xấu, để đồng hồ ở nơi này sẽ làm xáo trộn gia đình, gia đình lục đục, mọi người dễ gặp chuyện bất trắc.

đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được - ảnh 4.

(Ảnh: Internet)

3. Không nên treo đồng hồ ngay phía trên ghế sô pha. Nếu không những ai hay ngồi ở vị trí này sẽ xuất hiện các dấu hiệu thần kinh tiêu cực. Nhẹ thì căng thẳng hay stress, nặng sẽ dẫn thành trầm cảm và ảo tưởng.

4. Không nên treo đồng hồ đối diện với cửa như cửa nhà hay cửa sổ sẽ làm xáo trộn các khí tốt khi vào nhà. Tuy nhiên nếu hướng cửa sổ không tốt, có sát khí thì treo đồng hồ đối diện lại có tác dụng hóa giải và ngăn chặn những khí xấu này.

Chọn hướng đồng hồ theo tuổi của từng người

Tuổi Tí: Nên treo đồng hồ ở hướng Đông Bắc

Tuổi Sửu: Đồng hồ nên để ở ngay chính giữa bức tường hướng Bắc của phòng riêng.

Tuổi Dần: Trong phòng riêng nên treo ở bức tường hướng Bắc.

Tuổi Mẹo: Hướng Tây Bắc là thích hợp nhất

Tuổi Thìn: Nên treo đồng hồ ngay chính giữa bức tường hướng Tây của phòng riêng.

Tuổi Tỵ: Tuổi Tỵ chỉ cần có đồng hồ treo trong phòng là được, không cần phải chọn hướng.

Tuổi Ngọ: Đồng hồ nên treo ở góc Tây Nam của bức tường hướng Tây hoặc góc Tây Nam của tường hướng Nam là được.

Tuổi Mùi: Nên treo đồng hồ ngay chính giữa bức tường hướng Nam của phòng ngủ riêng.

Tuổi Thân: Để đồng hồ ở góc Đông Nam của bức tường hướng Nam.

Tuổi Dậu: Đồng hồ nên treo ở góc Đông Nam của tường hướng Đông.

Tuổi Tuất: Treo ngay chính giữa bức tường hướng Đông.

Tuổi Hợi: Đồng hồ nên treo ở góc Đông Bắc của tường Đông.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được

Đừng dại mà đùa giỡn tình cảm của 4 chòm sao nữ ghê gớm

Vỏ quýt dày có móng tay nhọn, anh có lòng thì tôi có dạ, những chòm sao nữ ghê gớm dưới đây tuyệt đối sẽ không tha cho ai dám lấy tình cảm của họ ra đùa.
Đừng dại mà đùa giỡn tình cảm của 4 chòm sao nữ ghê gớm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ái tình là thần thánh, biết nắm giữ ái tình mới đạt được hạnh phúc. Nhưng có nhiều người đàn ông không hiểu đạo lý này, chẳng những không thật lòng thật dạ yêu mà còn cố tình lừa gạt người khác. Vỏ quýt dày có móng tay nhọn, anh có lòng thì tôi có dạ, những chòm sao nữ ghê gớm dưới đây tuyệt đối sẽ không tha cho ai dám lấy tình cảm của họ ra làm trò đùa đâu.

Dung dai ma dua gion tinh cam cua 4 chom sao nu ghe gom hinh anh
 

Hạng 1: Hổ Cáp

  Cái tên Hổ Cáp chắc chắn là nổi bật nhất trong danh sách nhưng chòm sao nữ ghê gớm rồi nhỉ. Tình cảm có thể thay đổi nhưng thái độ nhất định phải chân thành, yêu hay không yêu cũng phải thể hiện sự tôn trọng đối phương. Nếu thề thốt hết lời, trừ phi đàn ông đã quyết tâm sống trọn đời trọn kiếp với cô nàng này, bằng không khuyên các anh đừng có dại gì mà chọc vào tổ kiến lửa.   Trong 12 chòm sao thì đây là sao nữ có tâm lý trả thù mạnh mẽ nhất. Buông bỏ ư? Vị tha ư? Đừng có hòng nhé. Hổ Cáp với tình yêu rất chung thủy, kì vọng cũng rất cao, đàn ông dối lừa chính là chà đạp lên sự tôn nghiêm của họ, không thể bỏ qua được. Bày mưu tính kế, tận lực đưa ra những kế hoạch để hắn phải sống khổ sống sở. Bao nhiêu nhiệt tình dành cho yêu đương trước kia giờ đổi sang dành cho trả thù hết.  

Hạng 2: Ma Kết

  Chân tình khuyên những anh chàng hoàng đạo thích trêu hoa ghẹo nguyệt, nhưng gã đàn ông họ Sở nên tránh xa cô nàng Ma Kết ra, họ không phải đối tượng dễ chọc vào đâu, một khi chọc vào thì cái giá phải trả vô cùng đắt. Kết Kết có năng lực ẩn nhẫn mạnh, rất nhiều chuyện đều giấu trong lòng không nói ra việc, một khi biết được người mình yêu là gã sở khanh thì họ cũng bình tĩnh kì lạ, lặng lẽ đối diện với sự thặt chẳng mấy vui vẻ ấy một cách dửng dưng, không chút kích động.   Từ từ đã, bạn tưởng thế là xong ư? Lầm to rồi, nàng ấy đang tính kế trong lòng với phương châm “quân tử trả thù 10 năm chưa muộn”. Một khi lòng ấm ức bộc phát, cái tôi quyết liệt lên tiếng thì Ma Kết sẵn sàng san bằng tất cả, để cho kẻ phụ tình nếm được mùi vị của trả thù thực sự là như thế nào.
Dung dai ma dua gion tinh cam cua 4 chom sao nu ghe gom hinh anh
 

Hạng 3: Bạch Dương

 

Một trong những chòm sao nữ ghê gớm bậc nhất vòng tròn hoàng đạo điểm danh Bạch Dương. Họ không thâm trầm như Hổ Cáp, không lạnh lùng như Ma Kết mà ngược lại rất kích động, làm việc liều lĩnh, bất chấp tất cả. Vì thế, đừng ngạc nhiên khi thấy kẻ phút trước vừa lộ ra tin lừa dối, phút sau đã quỳ gục dưới chân Dương Dương xin tha thứ.   Bạch Dương là nữ nhưng tính cách mạnh mẽ, khí chất hảo hán chẳng kém gì đàn ông, nếu dám đổi trắng thay đen, che mắt họ trong việc tình cảm thì nhất định không thể yên ổn. Cừu trắng không phải người không biết lý lẽ, hết yêu thì chia tay nhưng nói dối là trọng tội, lợi dụng thì phải trả giá, sao có thể để mình bị một tên đàn ông bắt nạt đến thê thảm như vậy được.  

Hạng 4: Song Tử

  Không lãnh đạm, không đáng sợ, không hổ báo nhưng Song Tử vẫn được coi là chòm sao nữ ghê gớm phải dè chừng. Chính khuôn mặt tươi cười niềm nở của họ đã đánh lừa tất cả nhưng sau đó, Tử nhi là người có thù tất báo, mà đã báo thì đối phương đừng mong nhẹ nhàng dễ dàng. Nhất là đàn ông phụ tình, dối trá là loại mà họ cực ghét, không bao giờ dung thứ, luôn tung ra những ngón đòn độc nhất, ác nhất, không ai ngờ tới nhất.   Sự trả thù của Song Tử đa chiều rất ngọt ngào, nhiều khi đàn ông còn cảm thấy họ dễ lừa, bị phụ bạc như vậy nhưng vẫn ngây thơ và chạy theo. Tỉnh lại đi, trong tay họ giấu sẵn dao găm, có cơ hội là đâm ngay vào tim kẻ đã lừa họ đấy. Mà đâu phải chỉ đâm một nhát, sẽ là đâm cho tới khi đối phương cảm thấy sống không bằng chết, lết xin tha thứ và chính lúc ấy, Song Tử sẽ hiên ngang, ngẩng cao đâu đạp chân mà rời đi, như một người chiến thắng vẻ vang nhất.
Muốn được cưng chiều, hãy yêu 4 chòm sao nữ lãng mạn nhất vòng tròn hoàng đạo 12 chòm sao nữ mù quáng trong tình yêu đến mức nào? Bóc mẽ tính xấu của 12 chòm sao nữ khiến các ông chồng điên đầu
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đừng dại mà đùa giỡn tình cảm của 4 chòm sao nữ ghê gớm

Khám phá bí mật ẩn giấu tướng vân tay (phần 1)

Xem tướng vân tay, từ hình dạng khác nhau của tướng vân này có thể đoán biết tính cách và vận mệnh không giống nhau ở mỗi người.
Khám phá bí mật ẩn giấu tướng vân tay (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Nhân tướng học, tướng vân tay được chia thành hai loại: vân hình xoáy ốc và vân hình nước chảy. Từ hình dạng khác nhau của hai loại vân này có thể đoán biết tính cách và vận mệnh không giống nhau ở mỗi người.

Kham pha bi mat an giau sau moi duong van tay (phan 1) hinh anh
Hai loại vân tay: hình xoáy ốc và hình nước chảy


1. Năm ngón tay đều dạng vân hình xoáy ốc

 
Theo quan điểm nhân tướng cổ, người có bàn tay trong đó 5 ngón liên tiếp đều có dạng vân hình xoáy ốc thường quá tự tin, khí phách mạnh mẽ, có tính độc lập cao. Do vận khí cả đời người này có sự biến hóa lớn nên bình thường phải chú ý tu dưỡng và kiềm chế bản thân.
 
2. Năm ngón tay đều dạng vân hình nước chảy
 
Đây là tướng tay chỉ người ngay thẳng, linh hoạt, khéo léo nhưng lại yếu về mặt giao tiếp. Người có tướng tay này không thích hợp làm trong các ngành có tính cộng đồng.
 
3. Ngón tay cái và ngón út có vân hình xoáy ốc
 
Người có dạng vân tay này thích hợp với những ngành có tính chất hùng biện, dùng lời nói để thuyết phục người khác. Tuy nhiên, nếu muốn thành công từ sớm, người này phải có tầm nhìn xa rộng hơn, tránh quan tâm quá nhiều đến lợi ích trước mắt.

4. Ngón tay cái và ngón áp út có vân hình xoáy ốc
 
Người này có cuộc sống vất vả từ khi còn nhỏ, nhưng nếu cố gắng vươn lên thì đến trung và hậu vận nhất định sẽ có địa vị và tài vận trong xã hội.
 
5. Ngón tay cái và ngón giữa có vân hình xoáy ốc
 
Người có kiểu vân tay này thường hay lo lắng thái quá về mọi việc trong cuộc sống. Nếu biết kiểm soát tốt cảm xúc, suy nghĩ lạc quan và nỗ lực làm việc ắt sẽ có quý nhân phù trợ, sự nghiệp cũng từ đó mà hiển vinh.

6. Ngón tay cái có vân hình nước chảy

Chủ nhân của tướng vân tay này là người tài khí rạng ngời, đầu óc sáng suốt. Chỉ cần người này không nản chí, nhất định sẽ thành công. Ngoài ra, người này có tính tình nóng nảy nhưng lại vô cùng hào phóng, được nhiều người yêu mến.
 
7. Ngón út có vân hình nước chảy

Chủ nhân của kiểu vân tay này có tính cách hài hòa, được sự giúp đỡ của bạn bè và sự đề bạt của cấp trên nên dễ đạt được thành công trong sự nghiệp. Tuy nhiên, người này mắc khuyết điểm hay hoài nghi, không dễ tin tưởng vào người khác.

8. Ngón áp út và ngón út có vân hình nước chảy

Người này tính tình nóng nảy, ý chí bạc nhược, dễ bị nhầm đường lạc lối. Tuy nhiên, nếu biết sửa chữa sai lầm, cuối cùng cũng nhận được kết quả tốt đẹp.
 
9. Ngón cái có vân hình xoáy ốc
 
Đây là người có sức sống vượt trội nhưng thành đạt khá muộn. Vận thế người này khi còn nhỏ không tốt, nhưng về trung và hậu vận thì khởi sắc, hưởng phúc cuối đời.
 
10. Ngón trỏ có vân hình xoáy ốc
 
Người có vân ngón trỏ hình xoáy ốc biết cách giao lưu với mọi người, nhưng làm việc gì cũng thích dựa vào may rủi. Do đó, công việc thường đứt gánh giữa đường, cuối cùng lại tay trắng.
 
11. Ngón giữa có vân hình xoáy ốc

Tuy đây là người có lí tưởng cao, hoài bão lớn nhưng do tính tự cao tự đại và hay mơ ước hão huyền nên dễ biến thành kẻ phóng túng, xa rời thực tế. Nếu có cách suy nghĩ thực tế hơn, thành công sẽ đến với người này.
 
12. Ngón áp út có vân hình xoáy ốc
 
Ngay từ thuở thiếu niên, người này đã thể hiện ý chí hơn người nên gặp thuận lợi trong sự nghiệp. Mặt khác, người này còn có khả năng lãnh đạo, nếu kiên trì tới cùng thì thành công sẽ đến.
 
13. Ngón út có vân hình xoáy ốc
 
Đường vân tay này cho thấy đây là người có thành công nhất định trong sự nghiệp và đạt được thành tựu lớn trong đời. Tuy nhiên, nhược điểm của người này là nóng vội, thiếu sự kiên trì.

14. Ngón cái và ngón trỏ có vân hình xoáy ốc

Điều này thể hiện chủ nhân của nó là người có tính cách khá rộng rãi, nhân duyên tốt, giỏi giao tiếp. Nhưng chính vì lòng dạ quá tốt, dễ bị lợi dụng hoặc liên lụy đến chuyện thị phi.

15. Ngón cái và ngón út có vân hình xoáy ốc
 
Người có dạng vân kiểu này thường biết nhìn xa trông rộng, thường chín chắn trước tuổi. Họ dễ thành công trong sự nghiệp và hưởng cuộc sống yên ổn khi về già.

Theo Tìm hiểu tính cách con người qua bàn tay  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá bí mật ẩn giấu tướng vân tay (phần 1)

Mặt tiền ngôi nhà theo âm dương và ngoại cảnh –

Xây nhà ống là phổ biến ở các đô thị, nơi mà “tấc đất tấc vàng”, với đặc điểm là hẹp chiều ngang nên để có một căn nhà có tổng diện tích rộng thì chủ căn nhà phải tận dụng không gian trên cao. Việc bố trí hình khối, màu sắc, bài trí đồ đạc cần được c
Mặt tiền ngôi nhà theo âm dương và ngoại cảnh –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ân nhắc để có sự hài hòa về âm dương và ngoại cảnh, hợp lí với những đặc điểm của phong thủy nhà ở.

Việc xây nhà ống để các tầng xếp chồng lên nhau là không thể khác vì đó là đặc điểm của nhà ống. Điều này không hẳn là sai hay xấu nhưng không đạt được dẫn dắt trên – dưới về hình thể và trường khí. Theo quy luật của phong thủy, càng đi lên cao, tính dương càng tăng, tính âm càng giảm (ánh nắng và gió nhiều hơn) nên cần bổ sung âm dương cho hài hòa.

mat tien theo am duong phong thuy Mặt tiền ngôi nhà theo âm dương và ngoại cảnh

phuong phap xay mat tien hop phong thuy Mặt tiền ngôi nhà theo âm dương và ngoại cảnh

mat tien phong thuy nha o Mặt tiền ngôi nhà theo âm dương và ngoại cảnh

nhung nguye tac phong thuy doi voi mat tien Mặt tiền ngôi nhà theo âm dương và ngoại cảnh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mặt tiền ngôi nhà theo âm dương và ngoại cảnh –

Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Thìn

Nếu tên gọi của người tuổi Thìn có chứa chữ Tuất, Khuyển, Mão thì chủ nhân của nó sẽ gặp nhiều khó khăn vì Thìn xung với Tuất, Mão. Vì vậy, tên của người tuổi
Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu tên gọi của người tuổi Thìn có chứa chữ Tuất, Khuyển, Mão thì chủ nhân của nó sẽ gặp nhiều khó khăn vì Thìn xung với Tuất, Mão. Vì vậy, tên của người tuổi Thìn nên tránh những chữ như: Thành, Quốc, Mậu, Hiến, Tưởng, Tuất, Hoạch, Uy, Mão, Liễu…

Vì Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là tứ hành xung, làm thành “thiên la địa võng” nên những tên chứa bộ dương như: Dương, Tường, Thiện, Nghĩa, Dưỡng, Khương… cũng không hợp với người tuổi Thìn.

Núi là nơi hổ ở, quẻ Cấn cũng có nghĩa là núi; rồng và hổ luôn bị đặt ở thế “long hổ đấu”. Do đó, những chữ thuộc bộ Sơn, Cấn, Dần… nên tránh khi đặt tên cho người tuổi Thìn. Những chữ đó gồm: Sơn, Phát, Cam, Đại, Cương, Ngạn, Động, Phong, Đảo, Tuấn, Luân, Côn, Lĩnh, Nhạc, Lương, Dần, Diễn, Loan, Lam, Ngà, Đồng, Dân, Lang, Hổ, Hiệu…

Rồng là linh vật thanh tao, không ăn thịt

 

Những chữ thuộc bộ Khẩu dễ gây liên tưởng đến sự vây hãm. Do vậy, tên người tuổi Thìn cũng cần tránh bộ này. Đó là những tên như: Khả, Triệu, Sử, Hữu, Danh, Hợp, Hậu, Chu, Trình, Đường, Viên, Thương, Thúc, Hỉ, Gia, Hướng, Hòa…

Tránh dùng những chữ thuộc các bộ Xước, Cung, Xuyên, Ấp, Tỵ, Tiểu, Thiếu vì chúng gợi liên tưởng đến rắn hoặc những vật nhỏ bé. Như vậy rồng sẽ nhỏ bé đi, bị giáng xuống thành rắn.

Theo đó, khi chọn tên cho người tuổi Thìn, những tên bạn cần tránh như: Nguyên, Sung, Quang, Tiên, Khắc, Đệ, Cường, Trang, Cung, Hoằng, Cảng, Tuyển, Châu, Huấn, Tuần, Thông, Liên, Tạo, Tiến, Đạt, Đạo, Vận, Viễn, Bang, Lang, Đô, Hương, Quảng, Trịnh, Đặng, Tiểu, Thượng, Tựu, Thiếu…

Những chữ thuộc bộ Miên cũng không nên dùng cho người tuổi Thìn bởi rồng không thích ở trong nhà. Những chữ đó gồm: Gia, Tự, Thủ, Tông, Định, Nghi, Cung, Dung, Phú, Ninh, Bảo, Khoan…

Rồng không thích bị lạc vào chốn thảo nguyên, đồng ruộng hay đồng cỏ, bởi ở đó rồng không phát huy được uy lực. Vì vậy, những tên thuộc bộ Thảo, bộ Điền như: Thảo, Ngải, Phương, Hoa, Đài, Phạm, Anh, Trà, Thái, Diệp, Lan, Phan, Điền, Thân, Do, Giới, Lưu, Đương, Hoàng, Huệ… cũng cần tránh.

Rồng là linh vật thanh tao, không ăn thịt. Do đó, cần tránh những  chữ thuộc bộ Tâm, Nhục như: Ân, Tình, Khánh, Hoài, Ứng…

(Theo Bách khoa thư 12 con giáp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Thìn

Con giáp nào càng lớn càng xinh đẹp mê hoặc lòng người

Sắc đẹp là sức mạnh của người phụ nữ. Trong 12 con giáp, cô nàng nào may mắn càng lớn càng xinh đẹp mĩ miều? Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá nhé.
Con giáp nào càng lớn càng xinh đẹp mê hoặc lòng người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sắc đẹp là sức mạnh của người phụ nữ. Cô gái nào cũng mong mình xinh đẹp, nhưng nhan sắc là món quà không phải ai cũng nhận được. Trong 12 con giáp, cô nàng nào may mắn càng lớn càng xinh đẹp mĩ miều? Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá nhé.   Nhan sắc đối với một người con gái quan trọng như mạng sống của chính cô gái đó. Câu nói này có phần cực đoan nhưng nó khá đúng với nhiều người, khi ngày nay con người ta càng ngày càng coi trọng ngoại hình hơn. Nhiều cô gái tự ti, mặc cảm vì nhan sắc không bằng người, rồi lại vì sắc đẹp mà quên đi sức khỏe bản thân để làm đẹp bằng nhiều cách như phẫu thuật thẩm mỹ, tập luyện điên cuồng hay sử dụng các loại thuốc hỗ trợ…   Song thật đáng ghen tị khi có những cô nàng may mắn được trời phú cho nhan sắc hơn người. Có thể khi còn bé nét đẹp ấy không lồ lộ ra trước mắt nhưng càng lớn họ lại càng trở nên xinh đẹp đến ngỡ ngàng. Thậm chí có người lúc nhỏ như vịt con xấu xí, lớn lên bỗng lột xác biến thành thiên nga lộng lẫy. Hãy cùng xem tử vi trời định những nàng giáp may mắn càng lớn càng xinh đó là ai nhé.


So troi da dinh, nang giap nay cang lon cang xinh dep mi mieu hinh anh
 
 

Cô nàng tuổi Sửu

  Những cô gái cầm tinh con Trâu khi thơ bé có phần tinh nghịch như những bé trai, lại ngây thơ, thậm chí có phần ngô nghê về giới tính của mình. Cô nàng này hiếm khi biết tự mình làm đẹp, trong khi bạn bè xúng xính váy áo thì cô nàng này vẫn mải mê với những trò chơi con trẻ.   Đứng giữa đám đông, cô nàng tuổi Sửu trở nên lặng lẽ, dường như không muốn thu hút ánh nhìn của người khác. Họ thích yên tĩnh, không ưa sự xô bồ. Vẻ đẹp của họ như đóa quỳnh hương, lặng lẽ tỏa sáng rực rỡ, ngan ngát hương thơm giữa đêm khuya thanh vắng.   Lâu ngày không gặp lại cô bé ngày nào, có lẽ anh hàng xóm sẽ phải ngạc nhiên bởi không biết tự khi nào, bên nhà mình lại có một cô bé xinh đẹp e ấp nhường kia. Lớn lên trở thành thiếu nữ, nàng giáp này tự nhiên ý thức được về bản thân mình, biết ăn mặc trang điểm sao cho nhẹ nhàng mà vẫn quyến rũ. Nhan sắc cũng theo thời gian càng ngày càng trở nên rực rỡ hơn người, chỉ đứng yên một chỗ cũng như bức tranh rung động lòng người.

Bạn đã biết Tuổi Sửu hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân chưa?
 

Cô nàng tuổi Thìn
 

Vẫn biết những người sinh năm Rồng được ông trời ưu ái, cô nàng này cũng không phải ngoại lệ. Ở trường học, nàng giáp này là học trò cưng của thầy cô, luôn đứng trong Top đầu của lớp. Nhưng ông trời cũng biết trêu đùa, để cô nàng mải mê học hành nên chẳng mấy khi để ý đến ngoại hình.   Dù dáng vẻ bên ngoài không tồi, nhưng có lẽ những kiến thức trong sách vở khiến cô nàng quên hết mọi thứ trên đời nên khi còn bé thường không mấy nổi bật về nhan sắc. Đợi đến khi cô nàng tuổi Thìn biết được sức mạnh của sắc đẹp, lại khám phá ra nhan sắc mình cũng không đến nỗi nào thì đó chính là lúc mà cô nàng tỏa sáng.


So troi da dinh, nang giap nay cang lon cang xinh dep mi mieu hinh anh
 
  Khí chất hơn người, đầu óc thông minh, lại thêm vẻ ngoài sáng sủa xinh đẹp khiến cho cô gái này trở nên quá xuất sắc, tạo cho người khác cảm giác không phải người mình có thể với tới được. Những anh chàng quen biết từ bé chỉ biết ngậm ngùi đứng từ xa ngắm nhìn cô bạn mọt sách ngày nào giờ càng lớn càng xinh.  

Cô nàng tuổi Thân

  Nàng giáp này tính tình vui vẻ hoạt bát, hay nói hay cười, đó cũng là điểm nổi bật gây ấn tượng với người đối diện của cô nàng. Tuy nhiên, tính cách có phần hơi phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết khiến đôi khi cô nàng bị đánh giá là bất lịch sự hoặc không được lễ phép.   Như chú chim nhỏ ríu rít mỗi ngày, người ta không mấy khi để ý đến nhan sắc của cô nàng này ngày thơ bé, mà quả thực là thường thì lúc đó vẻ bề ngoài của cô nàng chỉ là sáng sủa, lanh lợi mà thôi. Song tới khi trở thành thiếu nữ thì khí chất mỹ nhân mới bộc lộ rõ ràng.   Cô nhóc nhí nhảnh hôm nào nay bỗng bước ra như một đại mỹ nhân. Nét vui vẻ lạc quan còn đó nhưng đã biết tiết chế đúng mực, thoải mái thể hiện tính cách mà vẫn đúng mực nhã nhặn. Cô nàng tạo cho người đối diện cảm giác mình được tôn trọng, bạn bè xung quanh ngày càng nhiều không chỉ vì nàng càng lớn càng xinh đẹp mà là nhờ có nhân duyên tốt nữa.

Đọc thêm để biết Phong thủy tăng vận may tình cảm cho người tuổi Thân bạn nhé.

 

So troi da dinh, nang giap nay cang lon cang xinh dep mi mieu hinh anh
 

Cô nàng tuổi Tuất

  Cô nàng này khi còn bé như cục thịt nhỏ tròn xoe, đáng yêu vô cùng. Nét tròn trịa đó đi theo cô nàng suốt thời thơ ấu, mãi tới khi dậy thì trở thành thiếu nữ mới dần mảnh mai, vẻ đẹp cũng theo đó mà bắt đầu thể hiện ra ngoài.   Nếu bạn chỉ gặp nàng giáp này ngày nhỏ thì có lẽ bây giờ sẽ chẳng thể nhận ra thiếu nữ duyên dáng thướt tha trước mặt là cô nhóc bụ bẫm, kháu khỉnh ngày nào. Khuôn mặt xinh đẹp nghiêng nước nghiêng thành, lại thêm dáng người mảnh mai thanh thoát, cô nàng tuổi Tuất như mỹ nữ trong tranh, khiến bao chàng trai ôm mộng tương tư.    
An An

Vén màn bí mật những cô nàng “vịt hóa thiên nga” trong 12 con giáp 4 con giáp có tướng vượng phu ích mẫu 5 cô gái “đen bạc” nhưng vô cùng “đỏ tình”

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào càng lớn càng xinh đẹp mê hoặc lòng người

Chùa Sóc Thiên Vương - Hà Nội

Chùa Sóc Thiên Vương thường được gọi là chùa Non Nước, tọa lạc tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội, ở độ cao 110m so với chân núi.
Chùa Sóc Thiên Vương - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Sóc Thiên Vương thường được gọi là chùa Non Nước, tọa lạc tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội, ở độ cao 110m so với chân núi. Chùa nằm chính giữa dãy núi hình vòng cung, tựa như người ngồi trên chiếc ngai, hướng nhìn xuống vùng hồ nước trong xanh và những xóm làng trù phú. Chùa đã được xác lập kỷ lục: Ngôi chùa có số cột gỗ lim trong chính điện nhiều nhất. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Chùa nằm trong khu di tích đền Sóc. Tục truyền, sau khi dẹp giặc Ân, trên đường về núi Sóc, Thánh Gióng đã dừng chân tại đây và xuống tắm ở hồ Tây. Khi lên đường, Thánh Gióng để quên cái roi sắt bị gãy trong chiến trận. Nhân đó, người dân lập đền thờ.

Ngôi chùa được lập từ lâu. Tài liệu của chùa cho biết, theo sách Thiền Uyển Tập Anh và sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, vị Thiền sư trụ trì chùa là Ngô Chân Lưu (933 – 1011) thuộc Thiền phái Vô Ngôn Thông đời thứ 4. Năm 971, Ngài được vua Đinh Tiên Hoàng phong hiệu Khuông Việt Đại Sư. Đến cuối đời Lý, chùa có hai vị cao tăng trụ trì là Thiền sư Trường Nguyên (1110 – 1165) và Thiền sư Nguyện Học (? – 1181) thuộc Thiền phái Vô Ngôn Thông đời thứ 10.

Chùa nay đã bị hư hỏng. Năm 2000, Đại đức Thích Thanh Quyết đã tổ chức xây dựng lại ngôi chùa và cho đúc pho tượng đức Phật Thích Ca bằng đồng lớn nhất nước ta lúc bấy giờ.

Bảo tượng được nghệ nhân Vũ Duy Thuấn thực hiện tại thị trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Tượng được thực hiện trong vòng 18 tháng với trọng lượng 20 tấn đồng đỏ đúc liền khối, đài sen cũng bằng đồng đúc liền khối với trọng lượng 10 tấn. Tượng có chiều cao 5,3m; đài sen cao 1,35m; bệ đá cao 1,75m. Nếu tính cả bệ đá thì Đại tượng có chiều cao 8,4m.

Chùa được xây dựng lại trên sườn núi Non, phía Nam núi Nhà Bia. Tòa chánh điện có diện tích 260m2, cao 14m. Đại đức Thích Thanh Quyết cho biết 30 tấn đồng đúc tượng được mua từ nước Singapore, 600m3 gỗ lim mua ở nước Lào, 30m3 đá xanh mua ở Thanh Hóa, dùng kiến thiết ngôi chùa di tích là đất địa linh và là chốn Tổ đình xa xưa (trích thông tin từ Tạp chí Thế giới Phụ nữ số 37, ngày 14 – 10 – 2002).

Chùa Sóc Thiên Vương
Tượng phật thích ca bằng đồng lớn nhất thời bấy giờ

Đặc biệt, trong chính điện các cây cột chính đều bằng gỗ lim, có đến 80 cột lim có chiều dài khoảng 13m, với đường kính mỗi cây khoảng 35cm. Số gỗ lim này tương đương với 600m3 gỗ. Đây là ngôi chùa có số cột gỗ lim trong chính điện nhiều nhất.

Chùa Sóc Thiên Vương và khu di tích Đền Gióng là địa điểm du lịch, lễ phật nổi tiếng trong cả nước. Năm 2004 cũng tại nơi địa linh khí tú này, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã long trọng cử hành đại lễ khởi công xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam, trung tâm đào tạo tăng tài cho đất nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Sóc Thiên Vương - Hà Nội

Hóa giải phản quang sát –

Vào thời cổ đại, phản quang phần nhiều là do ao đầm, sông ngòi bên ngoài vật kiến trúc tạo thành thuộc về phản quang tự nhiên, có lúc không có cách nào tránh được. Khi ánh nắng lay động chiếu vào phòng thì hình thành “phản quang sát”. Nếu là phản qua

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vào thời cổ đại, phản quang phần nhiều là do ao đầm, sông ngòi bên ngoài vật kiến trúc tạo thành thuộc về phản quang tự nhiên, có lúc không có cách nào tránh được. Khi ánh nắng lay động chiếu vào phòng thì hình thành “phản quang sát”.
Nếu là phản quang của sông ngòi chiếu vào phòng tức sản sinh ra ảnh sóng lay động không ổn định. Trên trần nhà trong phòng sẽ hình thành bóng nắng lay động, sẽ kích thích đến tinh thần con người khiến tinh thần căng thẳng. Thời gian dài con người sẽ sinh ra ảo giác khủng hoảng, đó là điềm báo trước của tai nạn.

Theo quan điểm khoa học hiện đại ngày nay, tần số từ trường sóng quang và tầng số từ trường bình thường cơ thể con người khác nhau rất lớn; đặc biệt là khi có sóng quang mãnh liệt kích thích mắt, từ trường sinh ra của nó sẽ phá hoại từ trường bình thường của cơ thể con người, tức sẽ giống như một bình phong chắn hết sinh khí của tự nhiên ngoài cửa nhà, trên cơ bản phá hoại sự ngưng tụ & đường vào của sinh khí.

1005

Phản quang trong đô thị hiện đại có một phần lớn là do con người tạo ra thuộc về ô nhiễm quang. Đặc biệt có rất nhiều tòa nhà có kiến trúc tường bằng kính, ánh sáng phản chiếu của nó chiếu vào nhà ở đối diện, từ đó hình thành quang khúc xạ đối với các tòa nhà kiến trúc bên cạnh. Còn một số ô nhiễm ánh sáng là tầng trệt của tòa nhà dùng các loại đèn màu để làm bảng hiệu, công suất của bóng đèn làm bảng hiệu quá lớn, quá mạnh sẽ hình thành “phản quang sát”.

Nhìn trực quan, một số phản quang tường thủy tinh và đèn quảng cáo bảng hiệu đều rất mãnh liệt, nó không chỉ kích thích mắt khiến con người cảm thấy khó chịu dẫn đến tinh thần con người nôn nóng, dần dần sinh ra tâm lý tinh thần trốn chạy.

Dựa vào nghiên cứu khoa học hiện đại, có sóng quang có hại sẽ làm tổn thương đến tế bào não, tạo nên những bệnh phụ khoa ở phụ nữ như kinh nguyệt không đều. Vì thế, chọn nhà ở cần phải tránh sự xâm hại của các quang tuyến có hại.

Nếu nhà ở có phản quang mãnh liệt chiếu vào phòng, cách chữa là: dùng rèm cửa dày & có màu tối. Bản thân màu tối cũng có thể hút một phần ánh sáng phản xạ, khiến ánh sáng phản xạ chiếu vào phòng ít đi. Cũng có thể dùng kính mờ làm giảm ánh sáng phản quang chiếu vào phòng. Nhưng cách tốt nhất là đặt chậu cây cảnh ở cửa sổ làm một bình phong tự nhiên che chắn ánh sáng phản xạ, lại có thể làm đẹp môi trường nhà ở, có thể nói là một công đôi việc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải phản quang sát –

Chùa Phi Long - Thái Nguyên

Khu di tích đình và Chùa Phi Long nằm tại, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Chùa Phi Long gồm 5 gian kiến trúc kiểu cổ theo chuôi vồ hình chữ Đinh.
Chùa Phi Long - Thái Nguyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khu di tích Đình và Chùa Phi Long nằm tại xã Tân Đức, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Đình và chùa cùng nằm trong một khuôn viên theo kiến trúc Đình trước Chùa sau, mang phong cách kiến trúc nghệ thuật cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn. Hàng năm Chùa Phi Long diễn ra lễ hội vào các ngày mùng 7-8 tháng giêng, ngày 12 tháng 9 âm lịch…

Chùa nằm phía sau Đình, gồm 5 gian kiến trúc kiểu cổ theo chuôi vồ hình chữ Đinh. Mái chùa lợp ngói vẩy rồng, “đao cong mái lượn”… Hiện trong chùa có 19 pho tượng quý, các pho tượng được xây bệ thấp dần về phía trước: Bụt ốc đến Thích Ca, Quan Âm Thị Kính, tượng nghìn tay nghìn mắt, ông Thiện, ông Ác toát lên vẻ uy nghi. Đặc biệt còn đôi ba cây cổ thụ toả bóng mát. Chùa còn lưu giữ các hiện vật quý: sắc phong, hương án, câu đối, tranh tượng cổ… góp phần làm sáng tỏ nghệ thuật điêu khắc, lịch sử làng xã Việt Nam.

Đình Phi Long được xây dựng theo kiến trúc theo kiểu chữ Đinh (J). Toà đại đình gồm 5 gian, 2 trái và 2 gian hậu cung. Đình có chiều dài 15m, chiều rộng 10m. Trên 4 góc mái đình, đao cong vút, trên nóc là “Lưỡng long chầu nguyệt” điểm xuyến hoa lá vờn áng mây.

Đình được kết cấu bởi 32 cột gỗ lim chắc khoẻ, dưới mỗi chân cột, có tảng kê bằng đá xanh. Đình nhìn về hướng Tây nam, mái lợp ngói vẩy rồng, uy nghi, rực rỡ. Toàn bộ hệ thống cột, xà bằng gỗ lim, kết cấu mỗi vì 4 cột làm cho lòng nhà rộng. Bộ vì kèo Đình Phi Long, làm theo kiểu “chồng rường giá chiêng”. Đầu dư, kẻ, các thân xà, rường, đầu các rường nách, nghé, bẩy… chạm trổ tinh xảo, sinh động

Thượng cung Đình nằm ở gian giữa, thờ Thành hoàng làng Dương Tự Minh. Phía trước, là đôi Quy cõng Hạc đứng chầu, hai hàng bát biểu cùng tàn, lọng, cờ, quạt… treo câu đối: “Thiên lộ lý triều bình Bắc Tống”“Địa truyền thành tích trấn Nam Bang”, và hai bức tranh khắc gỗ cổ sống động vẽ các quan văn, quan võ, mỗi người mỗi vẻ rất uy nghi…

Hậu cung đình, là hai vệ sỹ đứng hầu gác, tầng trên thờ Thần hoàng, có long ngai, bài vị, sắc phong, bình hương, đèn nến… bài vị ghi “Cao sơn quý minh thượng đẳng thần” – ngợi ca vị thần anh minh – Thánh Đuổm Dương Tự Minh.

Vừa qua, nhân dân trong vùng đã tụ hội mùa xuân tại Đình – Chùa Phi Long làm lễ đón bằng xếp hạng di tích lịch sử văn hoá, tôn vinh một di sản văn hoá quý của dân tộc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Phi Long - Thái Nguyên

Những nốt ruồi ảnh hưởng tài vận trên cơ thể

Nốt ruồi tại mỗi vị trí khác nhau trên cơ thể lại mang tới những điềm báo may mắn hay xui rủi về tài lộc. Nếu sở hữu những kiểu nốt ruồi dưới đây, bạn nên
Những nốt ruồi ảnh hưởng tài vận trên cơ thể

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nốt ruồi tại mỗi vị trí khác nhau trên cơ thể lại mang tới những điềm báo may mắn hay xui rủi về tài lộc. Nếu sở hữu những kiểu nốt ruồi dưới đây, bạn nên chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đón nhận những thay đổi bất ngờ về tiền bạc.
 


1. Nốt ruồi trên sống mũi   Trong nhân tướng học, mũi là cung Tài Bạch, chủ về tài lộc, tiền bạc. Sống mũi là vị trí có mối liên quan tới tài vận. Sống mũi có tướng nốt ruồi hung (nốt ruồi màu nâu, vàng, sắc khí không tốt) thì tài vận đi xuống.   Nếu thấy nốt ruồi này xuất hiện, bạn nên hành sự cẩn trọng, nhiều khi tưởng chừng thành công đã nằm trong tay rồi nhưng thực ra nó lại ở khá xa. Đây chính là một trong những nốt ruồi ảnh hưởng đến tài vận trên cơ thể.
Nhung not ruoi anh huong tai van tren co the hinh anh
 
2. Nốt ruồi ở vai, bả vai   Vai, bả vai tượng trưng cho sự gánh vác, tinh thần trách nhiệm. Vị trí này có nốt ruồi, chứng tỏ chủ nhân thuộc tuýp có tinh thần trách nhiệm cao, thường gánh vác trọng trách của cả gia đình, tập thể.    Cuộc sống của người này cũng khá vất vả, trải qua không ít thăng trầm, sóng gió mới gặt hái được thành quả. Tài vận tăng dần theo độ tuổi, nhất là vào trung vận (ngoài 30 tuổi).   3. Nốt ruồi Kim quỹ   Nốt ruồi ở Kim quỹ hay còn gọi là Tài khố, là vị trí cạnh bầu ngực và hõm nách. Đây được coi là nốt ruồi cát, mang lại vận may về tài lộc.  
Nhung not ruoi anh huong tai van tren co the hinh anh 2
 
Trước đây, ở các tiệm cầm đồ hoặc trong các gia đình quyền quý, người ta thường hay cất giữ tiền vào chiếc túi vải nhét vào nách cho kín đáo và đỡ bị trộm cắp. Ngày nay, người ta ví rằng, có nốt ruồi ở nách, cũng chẳng khác nào bạn đang kẹp một chiếc ví dầy cứng trong người.    Người nào có nốt ruồi ở vị trí này đa phần sinh trưởng trong gia đình giàu có, khi trưởng thành được sống sung sướng, không mấy khi phải lo lắng đến chuyện tiền nong.    4. Nốt ruồi ở khuỷu tay   Tại khuỷu tay có nốt ruồi, nếu là nốt ruồi cát (đỏ son, đen đậm và bóng) thì tài lộc vượng, cuộc sống giàu sang phú quý, cơ hội kiếm tiền nhiều, danh vọng, sự nghiệp đều hanh thông, thoáng đạt.   5. Nốt ruồi ở rốn   Nếu ở phía dưới rốn (khoảng cách 2-3 đốt ngón tay) có nốt ruồi, chứng tỏ chủ nhân có cuộc sống sung túc, cả đời không lo gánh nặng cơm áo gạo tiền. Vì vùng bụng dưới này tượng trưng cho việc ăn uống no đủ, kinh tế dư dả.    Nếu nốt ruồi mọc ở trong rốn, hứa hẹn mang tới nhiều may mắn về tài lộc. Cuộc sống của chủ nhân không phú thì quý, thỏa mãn về vật chất.   Việt Hoàng
Giải mã vận trình qua nốt ruồi ở bàn chân
Ai cũng có nốt ruồi, và cũng không ít người có nốt ruồi ở bàn chân. Có thể là do sắc tố da ảnh hưởng tới sự xuất hiện của nốt ruồi nhưng cũng có thể là dấu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nốt ruồi ảnh hưởng tài vận trên cơ thể

Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ, Phong thủy phòng ngủ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ, tu vi Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ, tu vi Phong thủy phòng ngủ
Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ

Trong phong thủy phòng ngủ nếu biết cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy sẽ mang lại một để có cơ thể khoẻ mạnh. 1. Sắp xếp giường ngủ hợp phong thủy là không nên bố trí giường gần cửa ra vào bởi nó có ảnh hưởng không nhỏ đến luồng khí trong căn phòng. Tuy nhiên vị trí của giường nên nhìn thấy cửa phòng bởi nó sẽ mang đến cho bạn cảm giác an toàn trong khi ngủ.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 1 Nên bố trí giường xa vị trí cửa ra vào.   2. Khi chọn giường ngủ nên chọn loại giường vững chãi và cân bằng. Điều này giúp bảo toàn và cung cấp các luồng khí tích cực cho bạn khi ngủ, do vậy chủ nhân sẽ những giấc ngủ ngon hơn. 3. Nên đặt giường ngủ ở vị trí giữa phòng ngủ bởi điều này tượng trưng cho sự hài hòa trong các mối quan hệ và thúc đẩy dòng chảy năng lượng tích cực trong không gian riêng của bạn.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 2
Vị trí giường được bố trí hài hòa.
  4. Đầu giường kê dựa vào tường sẽ mang đến sự thoải mái, cân bằng khi ngủ. Nên tránh đặt giường cách xa tường hoặc ngay dưới cửa sổ, bởi trong phong thủy, đầu giường kê gần cửa sổ sẽ khiến khí lực của bạn dễ thoát ra ngoài và khó ngủ sâu.   5. Không nên kê giường ở dưới quạt trần, đèn chùm trang trí hay xà nhà. Theo phong thủy, chúng tạo ra áp lực và gây ảnh hưởng xấu cho giấc ngủ. Nếu không có lựa chọn nào khác, hãy xem xét việc sơn lại các thanh xà thành màu sáng, hoặc làm nhẹ áp lực bằng cách treo các ống sáo tre ở góc phòng.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 3
Giường ngủ không nên bố trí dưới xà nhà.
  6. Phòng ốc bừa bộn, lộn xộn không tốt cho giấc ngủ bởi nó chặn dòng chảy của khí lưu thông trong phòng, bởi vậy bạn nên tập cho mình thói quen sắp xếp phòng ngủ thật gọn gàng, đặc biệt là phần đầu giường.   7. Cho dù bạn là người độc thân hoặc đã lập gia đình thì những đồ vật trong phòng ngủ cũng vẫn nên có đôi có cặp, ví dụ như hai chiếc gối, hai kệ đầu giường, thậm chí cả hai đèn đọc sách. Trong phong thủy, điều này rất quan trọng để thể hiện tính cân bằng và sự hòa hợp nhất định.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 4 Đồ dùng trong phòng ngủ nên có đôi, có cặp. 8. Vào ban ngày, hãy mở cửa sổ phòng ngủ hoặc sử dụng máy lọc không khí để giữ cho không khí trong lành và đầy đủ oxy. Tuy nhiên, vào ban đêm, bạn nên đóng cửa sổ để giữ cho các khí tốt trong phòng.   9. Không nên bày các thiết bị điện tử trong phòng ngủ bởi chúng sẽ khiến bạn phân tâm và khó có thể ngủ ngon. Nếu có, tốt nhất nên sử dụng rèm che lại trước khi đi ngủ.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 5
Không nên bố trí đồ điện tử trong phòng ngủ.
  10. Nếu trong phòng ngủ có góc làm việc hãy dựng một tấm bình phong để ngăn cách khu vực ngủ và làm việc nhằm mục đích để cho đầu óc bạn được thư giãn thoải mái mỗi khi đi ngủ.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 6 Vách ngăn gỗ thanh lịch giúp bạn có phòng ngủ kết hợp phòng làm việc hợp phong thủy   11. Nếu phòng ngủ của bạn có nhà vệ sinh bên trong, hãy đóng cửa phòng tắm, nhà vệ sinh để sự uế tạp ở khu vực này không làm ảnh hưởng đến không khí của giấc ngủ.
  12. Khi ngủ, bạn nên đóng hết cửa tủ quần áo, kéo rèm cũng như đóng cửa phòng ngủ. Theo phong thủy, để cửa mở khi ngủ sẽ khiến các luồng khí thoát ra ngoài và ảnh hưởng đến năng lượng của bạn.   12 gợi ý để bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy 7
Ngay cả khi dùng rèm che tủ áo, bạn cũng nên kéo chúng khi ngủ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bố trí phòng ngủ, giường ngủ hợp phong thủy để có cơ thể khoẻ - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử...

Mậu Tuất mệnh gì –

Người sinh 1958, Mậu Tuất, có Ngũ hành năm sinh là Bình Địa Mộc, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung CÀN, hành KIM, hướng Tây Bắc, quái số 6, sao Lục Bạch, Tây tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Tây, Đông bắc, Tây Nam, Tây Bắc). Đeo đá màu Vàng
Mậu Tuất mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mậu Tuất mệnh gì –

Thuật quan sát người P1

1.Bát quái tướng mặt Theo quan sát thựctế,tướng mặt của một người chia làm 8 khu vực.Đó là bát quái tướng mặt. Sách "Tướng gia bí quyết"nói: "Ngũ hình không trung chính thì cuộc đời nghèo khổ.Bát quái đầy đặnthì tài lộc đầy đủ".
Thuật quan sát người P1

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sách "Thuần dương tướng pháp" nói: "Tam đình bát quái đòi hỏi sự tương xứng".Cái gọi là bát quái tức là tám bộ vị trên gương mặt. Bộ vị thứ nhất là tai phải.Tai phải thuộc phương đông.Phương đông Giáp,Ất,Dần,Mão đều thuộc mộc,cho nên tai phải gọi là "mộc tinh",cũng gọi là "cung Chấn". Bộ vị thứ hai là góc trán bên phải.Góc phải trán thuộc phương đông nam,trong bát quái gọi là"quẻ tốn".Do đó nói chung các nhà tướng học đều gọi là "ngôi tốn". Bộ vị thứ ba là chính giữa trán.Chính giữa trán thuộc phương nam.Phương nam  Bính,Đinh,Tỵ,Ngọ đều thuộc hỏa,cho nên giữa trán gọi là "hỏa tinh",cũng gọi là "cung Ly". Bộ vị thứ tư là góc trán bên trái.Góc trán bên trái thuộc phương tây nam,trong bat quái gọi là "cung Khôn".Do đó các nhà tướng học đều gọi là "ngôi Khôn". Bộ vị thứ năm là tai trái.Tai trái thuộc phương tây.Phương tây  Canh,tân,Thân,Dậu đều thuộc kim,cho nên tai trái gọi là "kim tinh",cũng gọi là "cung Đoài". Bộ vị thứ sáu là má trái.Má trái thuộc phương tây bắc,trong bát quái gọi là "cung Càn".Do đó các nhà tướng học gọi là " ngôi Càn". Bộ vị thứ bảy là cằm.Cằm thuộc phương bắc.Phương bắc Nhâm,Quí,Hợi,Tý đều thuộc thủy,cho nên miệng và cằm đều gọi là "thủy tinh",cũng gọi là "cung Khảm". Bộ vị thứ tám là má phải.Má phải thuộc phương đông bắc,trong bát quái gọi là "quẻ Cấn".Do đó các nhà tướng học đều gọi là "ngôi Cấn". Tám bộ vị này yêu cầu phải cao,đứng,đầy đặn,dầy dặn,có thịt.Kỵ nhất là lép,phẳng,lồi lõm và mỏng. Nhà tướng học Ngụy Càn Sơ đời Thanh trong quyển 24 của bộ sách "Tướng học vấn đáp" có một đoạn vấn đáp về bát quái tướng mặt.Có thể tóm tắt như sau:

Hỏi: Vì sao người ta lại chia tướng mặt thành bát quái? Đáp: Đó là để thuận tiện quan sát,các nhà tướng học đã chia mặt thành các bộ vị.Ví dụ: Hai tai là để xem vận khí thời niên thiếu.Con trai,tai trái quản từ 1 đến 7 tuổi.Tai phải quản từ 8 đến 14 tuổi.Con gái thì ngược lại,tai phải quản từ 1 đến 7 tuổi,tai trái quản từ 8 đến 14 tuổi. Chia tướng mặt thành tám khu vực cũng giống như hai tai là để quan sát cho thuận tiện mà thôi.Đã đành chia tướng mặt thành tám khu vực thì phải đặt tên cho nó để mọi người có chuẩn tắc chung.Vì là tám khu vực cho nên dùng tên của tám quẻ thuần trong Kinh dịch để đặt tên cho nó.Điều đó không có nghĩa là trên mặt quả thực có tám quẻ.

Hỏi: Vì sao tai phải gọi là cung Chấn,còn trán gọi là cung Ly,tai trái gọi là cung Đoài...Đó có phải là thiên nhiên sắp xếp rồi không? Đáp: Các ngôi quẻ trên tướng mặt theo tôi không có một sự sắp xếp thiên nhiên nào cả.Đó là một số bậc tiền bối trong giới tướng học căn cứ kinh nghiệm người xưa và bản thân mình đặt ra mà thôi.Chúng ta biết rằng từ rất xa xưa,các bậc tiền bối của giới tướng học đã chia mặt thành bốn phương vị: đông,tây,nam,bắc.Cũng từ rất xa xưa người ta đã chia tướng mặt thành ngũ tinh: kim,mộc,thủy,hỏa,thổ.Hai cách chia này đều lấy tai phải làm phương đông.Phương đống Giáp,Ất,Dần,Mão đều thuộc mộc cho nên gọi là mộc tinh.Vì ngôi quẻ của các quẻ dịch lấy Chấn thuộc phương đông,cho nên các bậc tiền bối của giới tướng học lấy tai phải phối với quẻ Chấn. Cũng theo đạo lý đó,trán là phương nam.Phương nam Bính,Đinh,Tỵ,Ngọ đều thuộc hỏa,cho nên gọi là hỏa tinh.Vì ngôi quẻ của quẻ dịch lấy Ly ở phương nam cho nên các nhà tướng học lấy trán phối với quẻ Ly...

2. Các phương pháp quan sát tướng mạo a. Phương pháp kiểm chứng Đây là phương pháp phổ biến của người xưa quen dùng.Do điều kiện tri thức và khoa học thời bấy giờ phát triển còn hạn chế,nên cổ nhân chủ yếu dựa vào sự quan sát tỉ mỉ bằng đôi mắt trên hình thể của nhiều người,từ đó rút ra một số qui luật nhất định về tướng mạo.Những qui luật đó sẽ được kiểm chứng trong thực tế cuộc sống rồi đúc kết thành những kinh ngiệm.Đồng thời,qua việc kiểm chứng sẽ loại bỏ dần dần những kết luận không chính xác. Ví dụ như sách xưa kết luận "Nhân trung sâu và dài là người trường thọ" và giải thich như sau: Nhân trung cũng giống như mạch máu trong người,mạch máu lưu thông dễ dàng thì cơ thể mới khỏe mạnh,Nhân trung sâu và dài thì máu dễ lưu thông,còn như Nhân trung ngắn và nông cũng giống như mạch máu bị tắc nghẽn,máu huyết khó lưu thông khiến cơ thể vì thế mà bệnh tật thì khó mà sống thọ cho được. Hiển nhiên là cách quan sát tướng mạo dựa theo những kinh nghiệm đúc kết từ phương pháp quan sát và kiểm chứng của người xưa không phải lúc nào cũng hoàn toàn thuyết phục.Nhưng cho đến bây giờ,cũng không thể phủ nhận một số kiểm chứng là rất chính xác.

b. Phương pháp phân tích Người xưa phân tích cung mệnh,vận khí từng năm tháng của con người cùng với việc quan sát tỉ mỉ hình dáng cơ thể cũng như tính cách riêng từng người để đoán trước tương lai vận số.
c. Phương pháp biện chứng
Đây là phương pháp hay,linh hoạt và khá khoa học trong thuật xem tướng truyền thống của Trung Quốc bằng cách phân tích các mặt đối lập giữa cái tĩnh và cái động,giữa cái bất biến và cái thường biến thể hiện qua tướng mạo và tâm tánh mà suy đoán ra tính cách vận số của con người.Cách phân tích này loại bỏ quan niệm "Tướng mạo là do trời sinh và vận số cũng theo đó mà không thể thay đổi". - Phương pháp biện chứng chỉ ra rằng: Bề ngoài con người thể hiện cho cái tĩnh nhưng tinh thần khí sắc cũng như tâm hồn thái độ lại luôn ở trạng thái động.Nói một cách khác,hình thể bên ngoài do tướng mạo trời sinh là cái bất biến nhưng chỉ là thứ yếu,còn cái tâm trong sáng mới là chủ yếu để quyết định tính cách và vận số tốt xấu trong cuộc sống riêng của từng người.Chính vì vậy mà sách "Tâm tính biên" có câu: "Tâm là cái gốc của bề ngoài,vén tâm ra sẽ thấy thiện ác.Tâm của mỗi người thể hiện qua việc làm,nhìn vào việc làm mà biết được họa phúc của người đó".
d. Phương pháp điểm diện
Đây cũng là phương pháp  thường áp dụng trong cách nghiên cứu tướng mạo truyền thống của Trung Quốc.Điểm có nghiã là bộ phận,là đặc trưng riêng.Còn Diện tức là những nét chung tổng quát. Phương pháp điểm diện bắt đầu từ việc quan sát hình thể tổng quát tướng mạo của một người,để đưa ra nhận xét ban đầu ứng với qui luật đã rút ra từ  đa số người.Rồi kết hợp đi sâu vào phân tích đặc trưng của riêng cá nhân đó để đưa ra kết luận cuối cùng nhằm suy đoán vận số và tính cách của người cần quan sát.
e. Phương pháp hình thức
Là phương pháp nghiên cứu có từ thời nhà Đường - Trung Quốc.Các tiêu chuẩn trong phương pháp này được tiến hành theo các bước tuần tự như sau:

  • Quan sát ngoại hình để biết con người đó thuộc dạng tướng người nào,tướng mạo là thông thường hay có dị thường hay không?
  • Quan sát kết cấu xương cốt thể hiện qua dáng người xem có phù hợp với nguyên lý âm dương hay không?
  • Quan sát Tứ độc - Lục phủ - Tam đình - Ngũ nhạc.
  • Quan sát thanh âm,cách nói chuyện,tướng đi,dáng ngồi.
  • Quan sát tinh thần.
f. Phương pháp nghiên cứu theo tinh thần - khí phách Được phổ biến và áp dụng từ thời nhà Thanh - Trung Quốc,bao gồm quan sát tướng mạo dựa theo các đặc điểm sau:
  • Quan sát mắt mũi
  • Quan sát thanh âm,cách nói chuyện
  • Quan sát tinh thần khí sắc
  • Quan sát cử chỉ động tác
  • Quan sát đôi tay
  • Quan sát đôi chân
g. Phương pháp nghiên cứu theo thời gian 1. Nghiên cứu theo độ tuổi
  • Từ 1 đến 7 tuổi: Quan sát Thiên thương và tai trái
  • Từ 8 đến 14 tuổi: Quan sát Địa khố và tai phải 
  • Năm 15 tuổi: Quan sát đỉnh trán và đỉnh đầu
  • Năm 16 tuổi: Quan sát tai phải và Thiêng trung
  • Năm 17 tuổi: Quan sát cặp mắt và Nhật giác
  • Năm 18 tuổi: Quan sát tai và Nguyệt giác
  • Năm 19 tuổi: Quan sát chân mày và Thiên đình
  • Từ năm 20 đến 21 tuổi: Quan sát sống mũi,Thiên tướng,tả hữu Phụ giác
  • Năm 22 tuổi: Quan sát tai trái và Tư không
  • Năm 23,24 tuổi: Quan sát thần sắc của cặp mắt
  • Năm 25 tuổi: Quan sát Sơn căn và chân mày
  • Năm 26,27 tuổi: Quan sát tai và mắt
  • Năm 28 tuổi: Quan sát Thiên thương và Ấn đường
  • Năm 29,30 tuổi: Quan sát mũi miệng với tả hữu Sơn lâm
  • Năm 31,32 tuổi: Quan sát tai,mắt,Lăng vân,Tử khỉ
  • Năm 33,34 tuổi: Quan sát Pháp lệnh,lông mày,Phồn hà,Thái hà,trán.
2. Nghiên cứu theo chu kỳ 9 năm Dựa vào 9 bộ phận trên cơ thể đoán biết vận hạn của tuổi tác theo chu kỳ 9 năm.
  • Chân mày: Cho biết vận hạn ứng với năm 1,10,19,28,37,46,55 tuổi
  • Mũi: Cho biết vận hạn ứng với năm 2,11,20,29,38,47,56 tuổi
  • Miệng: Cho biết vận hạn ứng với năm 3,12,21,30,39,48,57 tuổi
  • Tai trái: Cho biết vận hạn ứng với năm 4,13,22,31,40,49,58 tuổi
  • Mắt trái: Cho biết vận hạn ứng với năm 5,14,23,32,41,50,59 tuổi
  • Trán: Cho biết vận hạn ứng với năm 6,15,24,33,42,51,60 tuổi
  • Chân mày phải: Cho biết vận hạn ứng với năm 7,16,25,34,43,52,61 tuổi
  • Mắt phải: Cho biết vận hạn ứng với năm 8,17,26,35,44,53,62 tuổi
  • Tai phải: Cho biết vận hạn ứng với năm 9,18,27,36,45,54,63 tuổi
3. Nghiên cứu theo chu kỳ 20 năm -  Phương pháp dựa vào quan sát Tam đình:
  • 20 năm đầu cuộc đời thể hiện qua trán
  • 20 năm tiếp theo thể hiện qua mũi
  • Cằm cho biết hậu vận của người đó từ năm 41 tuổi trở đi 
-  Phương pháp dựa vào quan sát tai và mũi (Nếu người được xem tướng là nữ thì thứ tự của 2 tai đổi lại)
  • Tai trái cho biết 20 năm đầu
  • Mũi cho biết 20 năm tiếp theo
  • Tai phải cho biết 20 năm kế tiếp.
3. 39 tướng mạo tiêu biểu
theo cách xem tướng của người xưa
Ngày xưa,cổ nhân đã suy đoán tính cách và vận số dựa trên sự quan sát nghiên cứu tướng mạo con người rồi đặt tên theo 39 loại chim thú và gọi là "Muông thú tượng hình" để mọi người dễ nhận ra đặc thù của từng tướng mạo. 1. Tướng Rồng: Đây là tướng tốt nhất theo quan niệm của người xưa,thể hiện qua thân hình cao lớn,tướng đi vững chắc thanh thoát,sắc mặt hồng hào,ánh mắt uy nghiêm mà thuần hậu,giọng nói lớn mà ôn hòa,lông mày dài và rậm,giải quyết công việc rất dứt khoát và hợp đạo lý.Người có tướng này là chân mạng Đế vương hoặc là người nắm giữ chức quyền cao trọng. 2. Tướng Phượng: Thân hình dong dỏng cao.Khuôn mặt "Mắt phượng mày ngài" với đôi mắt thon dài,chân mày nhỏ đẹp,thần sắc uy nghi mạnh mẽ,giọng nói trong trẻo rõ ràng.Đây là tướng quý,gắn liền với sự nghiệp thành đạt vinh hiển. 3. Tướng chim Ưng: Thân hình cao to,chân bước vững vàng,tiếng nói vang khỏe,lông mày rậm,ánh mắt rất sáng và sắc bén.Đây là tướng người phù hợp với binh nghiệp nhưng tính cách có phần hung dữ và tàn bạo,hậu vận không được tốt. 4. Tướng Kỳ Lân: Thân hình vừa phải.Ngực rộng rắn chắc hơi ưỡn ra phía trước,trán cao mắt sáng,chân mày đen rậm.Nếu có thêm giọng nói to rõ mà ôn hòa kết hợp với tướng đi vững chắc thì đây có thể làm nên sự nghiệp công danh,vinh hiển tột bực. 5. Tướng Cọp: Thân hình cao to,vai rộng nở ngang,lưng to,chân tay mạnh mẽ.Mắt lớn,miệng rộng,môi dày,tiếng nói ầm vang như trống,ánh mắt đầy uy lực.Người có tướng này tuy sức khỏe dồi dào nhưng trí não lại phát triển không  cân bằng,không thông minh lanh lợi,chỉ phù hợp với đường binh nghiệp hữu dũng vô mưu. 6. Tướng Beo: Khuôn mặt dài nhưng mũi ngắn.Răng nhỏ và khít,đặc biệt là Chuẩn đầu nhô cao.Người tướng Beo tuy không có sức khỏe và uy lực như Cọp và Sư Tử  nhưng lại có phần khéo lèo và uyển chuyển hơn.Đặc biệt thành công trong giao tiếp xã hội,đôi khi có phần thủ đoạn tinh ranh và mưu mẹo.Gia đình thường không êm ấm hạnh phúc vì rất độc đoán lấn át vợ con. 7. TướngSư Tử: Hình dáng bề ngoài cũng có nét tương tự như tướng Cọp,nhưng trán đặc biệt cao và gồ lên biểu hiện cho người cơ trí thông minh,văn võ song toàn. 8. Tướng Voi: Rất dễ nhận thấy ở thân hình to lớn nhưng nặng nề chậm chạp,dáng ngồi nghiêm chỉnh vững chắc như  hòn núi nhỏ,mũi thấp,môi dày.Tuy không thông minh lanh lợi nhưng cá tính hiền hậu,suy nghĩ chín chắn,làm việc siêng năng nên cuộc sống no đủ,hậu vận giàu sang. 9. Tướng Tê Giác: Thân hình to lớn,trán cao rộng,lông mày đen rậm,đầu tròn,mắt nhỏ hơi lồi,hai tai nhỏ nhưng dày.Đây là tướng người sức khỏe tốt,ít bệnh tật,sống thọ,cuộc sống an khang sung túc. 10. Tướng Gấu: Thân hình to lớn,râu tóc rậm rạp,tay chân to lớn,mũi to,hơi thở gấp gáp nặng nề.Người có tướng này đa phần tính tình nóng nảy hung bạo,có thể đạt được danh lợi nhưng không được sự yêu mến của mọi người xung quanh. 11. Tướng Khỉ: Thân hình nhỏ nhắn hoặc vừa phải,trán nhô cao về phía trước,lưỡng quyền nổi cao,hai mắt tròn đen.Đây là tướng người đặc biệt lanh lợi,làm việc tính toán rất giỏi nên thường giàu sang phú quý nhưng có phần hơi háo sắc. 12. Tướng Vượn: Bề ngoài cũng giống như tướng Khỉ nhưng tay chân dài hơn.Đây cũng là tướng người đặc biệt lanh lợi,giỏi tính toán làm ăn nhưng không ẩn chứa gian xảo hay mưu mô.Cũng có tâm háo sắc nhưng kín đáo và biết kiềm chế hơn tướng Khỉ. 13. Tướng Đười ươi: Biểu hiện rõ ở thân hình cao to nhưng chúi về phía trước,mắt tròn lông mày rậm,miệng rộng môi vểnh,lưỡng quyền cao nhọn,lông tóc thô cứng.Đây là tướng người nóng nảy nhưng thẳng thắn tâm tính tốt. 14. Tướng Trâu: Thân hình to lớn,đầu và cổ to,nói năng đi đứng chậm chạp,sức khỏe tốt,cần cù chăm chỉ mà được giàu sang phú quý. 15. Tướng Chó: Biểu  hiện qua hình dáng chân dài tay ngắn,đầu lớn mặt thon,tai nhọn.Tính tình trung thành nhưng thẳng thắn,có phần hơi nóng nảy.Thích ăn uống,sức khỏe tốt. 16. Tướng Chó Sói: Tướng người có trán rộng mắt to,lưỡng quyền cao đầy,lỗ tai nhọn nhưng dày,miệng to răng khít nhưng khi cười để lộ hai răng nanh có vẻ to hơn người bình thường,lông mày đều đặn cân xứng.Đây là tướng người thông minh sắc sảo có thể giành được địa vị cao nhưng tâm tánh có phần tàn nhẫn nên làm mọi người sợ nhiều hơn là kính phục. 17. Tướng Chồn: Thân hình vừa phải,sắc da hồng hào,tướng đi nhanh nhẹn.Người tướng này có năng khiếu về nghệ thuật,chuộng kiểu cách lễ nghi,nhưng tâm cơ gian xảo,háo sắc,có tính lười biếng và thiếu tinh thần trách nhiệm. 18. Tướng Thỏ: Đầu nhỏ trán thấp,tai to tròn dài,mũi nhỏ hồng hào,chân ngắn hơn thân người.Người có tướng này là người khôn ngoan lanh lợi nhưng trung hậu và khoan dung,thường làm nên sự nghiệp cao sang,nếu không cũng được mọi người yêu mến và nhàn nhã suốt đời. 19. Tướng Hoẵng: Khuôn mặt dài và hẹp,mũi nhỏ và nhọn,mắt tuy lớn nhưng bị lồng mày rậm che khuất một phần,tai dài vểnh ra hai phía.Người tướng này rất nhút nhát,ngại giao tiếp,lòng luôn nghi kỵ và lo sợ điều bất ổn nên không làm nên nghiệp lớn mà chỉ có cuộc sống bình thường. 20. Tướng Lừa: Mặt dài tai dài,dáng đi chậm chạp.Người có tướng này không có sự nghiệp lớn,chỉ nhờ vào tính cần cù chịu khó mà cuộc sống no đủ qua ngày. 21. Tướng Ngựa: Biểu hiện rõ ở khuôn mặt rất dài và hẹp dần ở phía dưới.Miệng rộng răng to lưng dài.Người có tướng này có tính nhẫn nại cần cù,khoan dung độ lượng,hậu vận tốt. 22. Tướng Nai: Khuôn mặt hơi dài và hẹp dần về phía dưới.Ánh mắt hiền lành có phần lơ đãng,miệng nhỏ,tướng đi nhanh nhẹn.Người có tướng này tâm tánh hiền hậu có phần nhút nhát,không thích tranh giành bon chen nhưng lại được hưởng phước an nhàn no đủ. 23. Tướng Dê: Đầu vuông,trán dài nhưng thấp,thân hình có vẻ hơi chúi về phía trước.Tướng người Dê có tâm tánh hiền lành trung thực,nếu là phụ nữ thì có tánh tình hời hợt,xu hướng thiên về tình cảm và nhục dục. 24. Tướng Mèo: Thân hình thon nhỏ,lưng dài bụng nhỏ,mắt tròn to sáng,tai nhỏ mỏng nhọn.Người có tướng Mèo tâm tánh hiền lành,đôi lúc lại rất thông minh và khéo léo,chú trọng bề ngoài và yêu thích sạch sẽ. 25. Tướng Chuột: Biểu hiện qua thân hình nhỏ nhắn,mắt nhỏ hay liếc ngang liếc dọc,răng nhọn,miệng chu ra phía trước.Người có tướng này thì đầu óc lanh lợi xoay chuyển đối phó nhanh với mọi tình huống nhưng chỉ thông minh khôn ngoan trong việc nhỏ nhặt.Người tướng Chuột chú trọng vật chất,không nghĩ đến lợi ích lâu dài về sau nên chỉ thành công trước mắt,hơn nữa vì tâm tánh có phần dối trá nên không được cấp trên trọng dụng cất nhắc nên không có sự nghiệp lâu dài vững chắc về sau. 26. Tướng Heo: Thân hình to lớn phục phịch,cổ nọng nhiều ngấn mỡ,chân ngắn tay ngắn.Người tướng này thường ham mê vật chất,thích ăn uống,nói chuyện ồn ào,trí óc thấp kém.Tuy có phúc lộc no đủ nhàn nhã nhưng không có công danh sự nghiệp to lớn vì giao tiếp xã hội kém và có phần thô lỗ. 27. Tướng Gà: Thân hình nhỏ,mắt miệng và khuôn mặt nhỏ.Đây là người biết giữ chữ tín,có chí cầu tiến nên hậu vận rất tốt. 28. Tướng Vịt: Thân hình mập mạp,chân và bước chân ngắn nên đi đứng có phần chậm chạp.Người tướng này thường trí óc ít thông minh và lanh lợi,cuộc sống chỉ vừa đủ chứ không giàu sang vinh hiển. 29. Tướng Ngỗng: Mắt nhỏ,ánh mắt không sắc sảo.Miệng nhỏ,mũi ngắn,cổ cao,bước đi chậm có phần đủng đỉnh.Người có tướng này tuy không đạt thành tựu lớn nhưng vẫn có cuộc sống an nhàn no đủ. 30. Tướng Hạc: Thân hình thanh mảnh.Khuôn mặt dài,cổ cao.Người tướng này có tánh tình trầm tĩnh,ghét ồn ào bon chen,thích sự thanh cao,đặc biệt yêu thích và có thiên phú về văn chương nghệ thuật. 31. Tướng Công: Thân hình cao,khuôn mặt nhỏ,tính tình trầm tĩnh và bảo thủ,thích danh vọng và rất chú trọng bề ngoài. 32. Tướng Chim Yến: Thân hình nhỏ nhắn,mắt tròn,ánh mắt sáng.Người tướng này có nhiều tài năng nhưng vận số thăng trầm nhiều,thành đạt muộn. 33. Tướng Chim Sẻ: Thân hình nhỏ bé,mắt tròn,ánh mắt sắc sảo và thường liếc nhìn xung quanh.Người tướng này thường vất vả,không có sự nghiệp. 34. Tướng Chim Thước: Thân hình vừa phải,khuôn mặt và đôi mắt nhỏ,dáng đi nhanh nhẹn.Đây là người có tính tình vui vẻ,làm việc siêng năng,sức khỏe tốt.Tuy không thể đạt tới mức giàu sang vinh hiển nhưng cuộc sống được nhiều người yêu mến,an nhàn no đủ suốt đời. 35. Tướng Uyên Ương: Thân hình vừa phải,mắt tròn đẹp,khuôn mặt dễ nhìn,giọng nói trong trẻo ngọt ngào.Nếu là nữ thì thích hợp làm những công việc nghệ thuật như diễn viên hay nghệ sĩ múa.Người có tướng này đạt được chút công danh trong xã hội nhưng sự nghiệp lại không lâu bền và thiên về nhục dục. 36. Tướng Cò: Thân hình cao ốm,mũi dài và nhỏ.Tuy có năng khiếu đặc biệt về nghệ thuật nhưng tánh tình thích cô độc trầm lặng,ghét ồn ào,thờ ơ lạnh nhạt trong giao tiếp xã hội và không có chí cầu tiến nên không đạt được công danh sự nghiệp trong cuộc sống. 37. Tướng Rắn: Thân hình cao gầy,tướng đi uyển chuyển có cảm giác như đang uốn lượn,đầu dài mặt ngắn,miệng môi đều mỏng,mũi dài lưỡi dài và hay liếm môi,lông mày răng mắt đều nhỏ,ánh mắt thao láo và lạnh lẽo.Đây là tướng người nhỏ nhen thù dai,có nhiều mưu mô xảo trá,khi tranh chấp quyền lợi thì có những thủ đoạn độc ác tàn nhẫn nhưng trong giao tiếp làm ăn lại rất khéo léo và đạt nhiều danh vọng. 38. Tướng Rùa: Thân hình thấp nhỏ,đầu thon nhỏ,chân tay ngằn,cổ ngắn,mắt tròn và sáng.Lưng gồ lên và hơi cong.Đây là tướng người phú quý và trường thọ. 39. Tướng Cá: Thân hình thon nhỏ,cặp mắt tròn nhỏ và hơi lồi,lông mày thưa,cổ ngắn môi dày.Khi ngủ đôi mắt vẫn mở hé mà không khép kín được.Người có tướng này thì đa nghi,tâm tánh nhút nhát,đôi khi sống ảo tưởng và hậu vận không tốt. 4. 7 tướng mạo đặc biệt
đại phú đại quý trong thuật xem tướng
1. Tướng Ngũ Trường: Là tướng mạo của người có Đầu - Mặt -Tay - Chân và Thân người đều dài. 2. Tướng Ngũ Đoản: Là tướng mạo của người có Đầu - Mặt - Tay - Chân và Thân người đều ngắn. 3. Tướng Ngũ Lộ: Là tướng mạo bao gồm Mắt lồi - Mũi hếch - Tai vểnh - Miệng vẩu và Hầu lộ. 4. Tướng Ngũ Hợp: Bao gồm:
  • Thiên Địa Tương Hợp: Là xương cốt ngay ngắn không khuyết tật.
  • Thiên Quan Tương Hợp: Là sự hài hòa của dáng người kết hợp với giọng nói và ánh mắt.
  • Thiên Tâm Tương Hợp: Là thần sắc thanh khiết,tâm trí linh hoạt minh mẫn nhanh nhẹn.
  • Thiên Cơ Tương Hợp: Là người có kiến thức sâu rộng,quyết đoán nhưng độ lượng.
  • Thiên Luân Tương Hợp: Là người khiêm nhường,biết giữ uy tín và nhân nghĩa.
5. Tướng Ngũ Tú: Bao gồm:
  • Cốt tú: Là hàm răng chắc khỏe,đều đặn.
  • Nhục tú: Là sắc mặt hồng hào tươi tắn.
  • Huyết tú: Là lông mày thanh nhã.
  • Khí tú: Là tiếng nói trong trẻo âm vang.
  • Chất tú: Là ánh mắt sáng,tia mắt long lanh,thần khí êm dịu.
6. Tướng Lục Đại: Tướng Lục Đại bao gồm Đầu - Mặt -Tai - Mũi - Miệng và Bụng dưới đều to lớn. 7. Tướng Lục Tiểu: Tướng Lục Tiểu bao gồm Đầu - Mặt - Tai - Mũi - Miệng và Bụng dưới đều nhỏ. 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thuật quan sát người P1

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd