Mơ thấy mẹ –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Tận dụng triệt để phòng bếp như thế nào?
Đốỉ với nhiều gia đình, phòng bếp không đơn thuần chỉ là nơi nấu nướng và cất giữ đồ ăn thức uống mà còn kiêm luôn chức năng của một phòng ăn.
Một phòng bếp được coi là hoàn hảo không nhất thiết phải sử dụng những viên gách lát đắt tiền sặc sỡ hay những chiếc tủ chứa đồ với lối thiết kế tinh xảo. Nếu bạn muốn sở hữu một phòng bếp sạch đẹp và ngăn nắp thì trước khi lựa chọn vật liệu trang trí bạn hãy tự lên cho mình một kế hoạch trang trí chi tiết. Khi thiết kế phòng bếp, chi tiết đáng quan tâm trước hết là khu vực nấu nướng, tiếp đó là tường và nền nhà. Sử dụng các vật liệu bền và dễ lau chùi, cọ rửa. Khu vực chứa và cất giữ đồ ăn không cần thiết kế quá rộng. Toàn bộ cục phòng bếp phải thật hấp dẫn, thu hút được nhiều người ra vào. Với một bản thiết kế phù hợp, chúng ta hoàn toàn có thể biến những căn phòng quá rộng hay quá chật thành những căn phòng bếp lí tưởng nhất. Nói cách khác chỉ cần chịu khó lưu tâm nghiên cứu, bạn có thể tận dụng mọi khoảng trống không gian một cách triệt để nhất.
Thông thường, khu vực nấu ăn trong phòng bếp luôn có bệ bếp và bồn nước. Khi thiết kế phải đặt bếp nấu, bồn nước và bệ bếp liền kề nhau, chú ý không để chừa một khoảng trống hay vật chắn nào giữa chúng. Không nhất thiết phải sắp xếp chúng dọc theo các bức tường, nếu có thể tận dụng phần góc tưòng để tạo thành một kết cấu bồn nước, bếp và bệ bếp hình chữ L là hay nhất. Trong những gian bếp chật, thậm chí có thể xếp chúng dọc theo ba mặt tường liên tiếp nhau, tạo thành một hình chữ U, sao cho các hoạt động thao tác giữa bồn nước và bệ bếp không gặp trở ngại cũng như không cản trở lẫn nhau. Bồn nước, bệ bếp và tủ lạnh là những thiết bị cơ bản nhất trong phòng bếp, khoảng cách giữa chúng phải được thiết kế phù hợp, không gần quá cũng không nên xa quá, nếu không sẽ gây khó khăn cho các hoạt động diễn ra trong phòng.
Một chi tiết hay bị xem nhẹ trong phòng bếp, đó là độ cao của chiếc bệ bếp. Độ cao của bệ bếp phải tương ứng với chiều cao cũng như tư thế thoải mái nhất của ngưòi làm bếp. Ngoài ra, khi xác định độ cao của bệ bếp, cũng cần chú ý đến độ cao của các đồ dùng trong nhà bếp. Với những đồ dùng đã có sẵn chân hoặc giá đỡ, có thể điều chỉnh thêm cho tương ứng vối bệ bếp.
Khi đã xác định được chiều cao của bệ bếp và cách sắp đặt bồn nưóc cũng như bếp nấu, bước tiếp theo là cân nhắc xem làm thế nào để tận dụng tốt nhất các khoảng không gian thừa. Nếu phòng bếp của bạn hơi chật, bạn có thể treo một cái giá đựng bát đĩa trên bức tường gần nhất với bệ bếp. Ngoài ra còn có thể thiết kế chiếc bàn nhỏ, xung quanh bày thêm vài chiếc ghế tròn, như vậy là cả nhà bạn đã có một chỗ khá lí tưởng đê ngồi ăn cơm.
Màu sắc có thể làm thay đối bộ mặt chung của cả phòng bếp, vì thế cần phối hợp các màu sắc thật nhịp nhàng, phun các màu sơn thật đều đặn. Ở các nơi nấu nướng và cất giữ thức ăn nên bày những chạn bát, bàn ăn hoặc những chiếc tủ tự chế làm vật trang trí.
Cách thiết kế phòng bếp
Nên tận dụng triệt để khoảng không gian có thể để sắp xếp những vật dụng cần thiết trong bếp. Với các phòng bếp hẹp, có thể bài trí theo hình chữ nhất; còn đối với các phòng bếp rộng, có thể bày men theo các bức tường.
Một phòng bếp hiện đại nên sử dụng những đồ dùng được thiết kế theo kiểu tổ hợp hoặc kiểu gấp gọn, cũng có thể tận dụng các vật liệu thừa để tự chế những chiếc giá treo đựng đồ. Nếu làm một tấm màng lọc khí trên nóc bếp hoặc một chiếc quạt thông gió trên cửa sổ có tác dụng làm sạch không khí trong phòng.
Khi thiết kế phòng bếp, cần chú ý các điểm sau:
Chọn kĩ vật liệu
Các vật liệu để trang trí phòng bếp phải được lựa chọn kĩ lưỡng, chọn loại không dễ bị ố bẩn và hư hại, dễ làm sạch, chịu được nước và chống nhiệt. Chẳng hạn như sàn nhà bằng nhựa đã qua kiểm định chống lửa, gạch men… tất cả đều là những vật liệu lí tưởng, bạn có thể chọn lựa tùy theo nhu cầu và khả năng của mình.
Lựa chọn kiểu dáng phù hợp
Có nhiều kiểu dáng phong phú và đa dạng trong thiết kế khu vực bếp bạn có thể căn cứ theo sở thích cá nhân cũng như kích cỡ và vị trí của căn phòng để lựa chọn kiểu dáng riêng cho phòng bếp của mình. Có bốn kiểu dáng thường gặp: Kiểu chữ L, kiểu chữ U, kiểu hòn đảo, và kiểu chữ nhất. Cụ thể, phòng chữ L sắp xếp như sau: phân bố hợp lí tủ lanh, bồn nước và đồ nấu bếp theo kết cấu hình tam giác, tạo không gian thoải mái đủ cho hai người cùng vào bếp một lúc. Kiểu chữ L rất thích hợp áp dụng cho các căn phòng chỉ rộng khoảng 4 m2. Trong khi đó, một phòng bếp theo kiểu chữ U tức là một phòng bếp với các vật dụng được sắp xếp nối tiếp nhau dọc theo ba mặt tường liên tiếp, quầy tủ bày trong phòng bếp kiểu này tương đối đầy đủ, rất thích hợp với các căn phòng rộng. Phòng bếp hình hòn đảo: ngoài đồ nấu bếp, còn có thêm một chiếc bàn hoặc quầy lớn để làm chỗ thao tác nấu nướng, trông giốg như một hòn đảo nhỏ nằm tách rời độc lập so với bốn bức tường xung quanh, thích hợp nhất khi có nhiều người cùng nấu bếp một lúc. Phòng bếp hình chữ nhất: xét về mặt không gian mà nói thì phòng bếp theo kiểu hình chữ nhất khá chiếm diện tích và không kinh tế. Kiểu dáng này đến nay đã bị coi là lỗi thời, rất ít người lựa chọn.
Lựa chọn màu sắc phù hợp
Khi trang trí phòng bếp, cố gắng lựa chọn các màu sắc tương đồng hoặc tương tự nhau. Chẳng hạn nếu trần nhà sơn màu trắng thì các bức tường cũng phải ốp gạch men màu trắng, còn sàn nhà thì lát gạch đá hoa chổng trơn màu trắng xám, trong đó màu trắng chiếm tỉ lệ nhiều hơn. Không dùng các vật liệu lát nền có các hình vẽ lập thể (hình vẽ không gian, hình vẽ nổi) hoặc có độ sáng tối tương phản quá mạnh, nếu không sẽ gây cảm giác nền nhà mấp mô, không bằng phẳng.
Lên kế hoạch chi tiết
Nên căn cứ theo diện tích bếp và đặc tính các đồ nấu bếp cũng như các dụng cụ ăn uống để thiết kế. Thông thường, nên đặt bồn nước ở một góc bếp, các đồ nấu đặt ở chỗ kín gió, bệ bếp đặt ở giữa bồn nước và đồ nấu bếp. Chọn các loại chạn bát đa năng hoặc loại chạn treo với các tính năng như chiếm ít diện tích, chứa được nhiều đồ… sẽ làm cho căn phòng bếp của bạn gọn gàng hơn, ngăn nắp và tiện nghi hơn. Nếu bàn ăn nhà bạn đặt cạnh cửa sổ, hãy treo lên đó một chiếc rèm cuốn, khi dùng bữa, chỉ cần buông rèm xuống bạn sẽ có một không gian ăn uổng yên tĩnh và ngon miệng.
Lát nền nhà và ốp tường bằng gạch men
Gạch men to bản có bề mặt dễ làm sạch và không dễ sinh ra các vi khuẩn gây bệnh, vì thế có tác dụng bảo vệ sức khỏe con người.
Giữ cho không khí trong phòng bếp luôn trong lành
Trong quá trình nấu ăn thường sinh ra nhiều khí thải hay muội dầu, cách tốt nhất để loại trừ các khí độc hại này là lắp đặt một chiếc máy hút mùi, như vậy không khí trong phòng bếp sẽ trở nên sạch sẽ và trong lành dễ chịu hơn.
Sử dụng các loại tủ, chạn kiểu Âu
Với tính năng chứa được rất nhiều đồ, tủ chạn kiểu Âu sẽ giúp cho căn phòng bếp gọn gàng ngăn nắp hơn.
Cách lựa chọn beef mặt bệ bếp
Khi lựa chọn bề mặt bệ bếp cần căn cứ theo nhu cầu thực tế:
+ Bệ bếp bằng thép không gỉ: Mặt bàn bằng thép không gỉ khá đẹp mắt, nhưng khả năng chịu mài mòn không cao, dễ bị mốc hoặc mọc rêu, không dễ cọ rửa khi các vết dầu mỡ bám trên bề mặt, giá cả lại khá đắt.
+ Bệ bếp bằng gỗ: Bên ngoài nhất thiết phải phủ một lớp sơn chống lửa. Ưu điểm của loại này là giá cả phải chăng, chịu được mài mòn, không bị mốc hoặc mọc rêu, dễ cọ rửa các vết dầu mỡ.
+ Bệ bếp bằng đá: Bệ bếp bằng đá đẹp, bền, chống thấm, không dẫn điện. Nhược điểm của nó là khi va chạm vởi các vật cứng dễ để lại vết xước, ngoài ra, khả năng xử lí với các vết dầu mỡ không tốt so vói bệ bếp bằng gỗ.
Cách kiểm định chất lượng lắp đặt bệ bếp
+ Trước hết cần phác thảo sẵn một bản thiết kế, sau đó mới tiến hành thi công chứ không nên chỉ thi công dựa trên kinh nghiệm và cảm giác chủ qua.
+ Bề mặt bệ bếp phải rộng từ 500 mm trở lên, cao khoảng 800 mm (tính cả độ dày của vật liệu ốp bề mặt). Bệ bếp ga không cao quá 700 mm (tính cả độ dày vật liệu ốp bề mặt) và phải rộng từ 500 mm trở lên. Gầm bệ bếp cách mặt đất từ 100 mm trở lên.
+ Với các bệ bếp và cánh cửa làm bằng đồ mộc tinh xảo hay cánh cửa và khung cửa của một chiếc bệ bếp có kết cấu hỗn hợp, có thể ghép bằng mộng hoặc dùng keo dán để dính chặt chúng với nhau.
Cách kiểm định chất lượng lắp đặt hệ thống các đường ống dẫn:
+ Lắp đặt đúng thứ tự.
+ Lắp van đóng mở cho bình nước nóng và bình ga.
+ Các thiết bị như bình nước nóng, bình ga phải được lắp đặt đảm bảo độ an toàn, ổn định, thao tác thuận tiện và vận hành bình thường.
Cách lắp đặt máy hút muội dầu
+ Độ cao vừa phải. Thông thường là từ 0,6 đến 1 m. Nêu cao quá thì hiệu suất hút bị giảm, nếu thấp quá sẽ ảnh hưởng đến chất lượng món ăn.
+ Ống thoát khí không nên có nhiều chỗ uốn lượn, đồng thời cũng không nên dài hoặc ngắn quá.
+ Chú ý an toàn, vỏ ngoài của máy phải tiếp đất. Ngoài ra, có thể lắp một công tắc phía bên ngoài bếp để đề phòng trường hợp trong phòng bị rò rỉ ga, nếu mở máy hút mùi bằng công tắc này sỗ tránh không gây cháy nổ.
Nhắc đến người tuổi Tị, người ta hay nghĩ đến những con người rất thông minh nhưng có chút thâm trầm và bí ẩn. Vậy nếu có sự ảnh hưởng của nhóm máu, liệu tính cách người tuổi Tị có gì thay đổi không? Hãy cùng tìm hiểu về tính cách và vận mệnh của người tuổi Tị nhóm máu B nhé.
Bạn có phải là người có chỉ số IQ thuộc nhóm cao nhất? Bạn có phải là người luôn nhanh trí, toan tính khi xử lý mọi tình huống? Cùng khám phá xem bạn có thuộc top con giáp có thông minh, trí tuệ hơn người không nhé?
Tuổi Tỵ: Đặc điểm lớn nhất của người tuổi Tỵ là có trí tuệ, hơn nữa trí tuệ đó được họ ngụy trang rất khéo. Điều này khiến nhiều người thoạt nhìn thấy họ rất thành thật nhưng thật ra họ đều có những ‘thông minh’ ngầm của mình. Đây chính là con giáp thông minh đứng đầu trong 12 con giáp.
Người tuổi Tỵ là con giáp thông minh đứng đầu trong 12 con giáp
Với chỉ số IQ hơn người, họ luôn sử dụng trí thông minh của mình trong mọi việc và giải quyết công việc giỏi giang hơn người.
Tuổi Thân: Vốn là người thông minh, lanh lợi, giỏi giang, bạn không dễ chấp nhận thiệt thòi. Bạn sẽ cố gắng hết sức để bảo vệ lợi ích của mình. Những người tuổi Thân với tính tình cởi mở, nhanh nhẹn, nếu như nói là thông minh thì cũng không có gì là quá.
Người tuổi Thân thông minh, lanh lợi
Trừ phi họ chủ động tự nguyện còn không người khác khó có thể chiếm được những gì thuộc về bạn.
Tuổi Ngọ: Với vẻ ngoài luôn phấn chấn, có chút bất kham nhưng tuổi Ngọ có bộ óc vô cùng thông minh và nhạy bén. Những vấn đề phức tạp khó hiểu, người tuổi Ngọ đều hiểu rõ ngọn ngành và giải quyết một cách ổn thỏa.
Người tuổi Ngọ có bộ óc nhạy bén
Nếu bạn có người thân hay bạn bè thân thiết tuổi Ngọ thì đừng lo những khó khăn hay sầu muộn không thể giải quyết được.
Tuổi Sửu: Bình thường tuổi Sửu là người hiền lành, thật thà, giản dị với vẻ bề ngoài có phần chân chất, chậm chạp. Những người tuổi Sửu rất thông minh nhanh nhẹn, ví dụ nói đến vạch kế hoạch cho bản thân, họ rất biết cách vạch ra con đường đi lý tưởng cho mình với đầu óc thông minh và tư duy nhạy bén, vì vậy đừng để ngoại hình của họ lừa gạt.
Người tuổi Sửu mưu lược, tính toán
Nhưng vào những lúc cần thiết tuổi Sửu chính là những người vô cùng thông minh, mưu lược luôn dự tính được kế hoạch và hướng đi trước người khác. Họ chính là nhân tài quân sự đích thực.
Tuổi Tý: Đây chính là những người thông minh trong những người thông minh. Nhưng có điều họ là người hơi mưu mô, tính toán. Những người tuổi Tý rất thông minh, có thể trong chớp mắt đã có thể hiểu được sự việc và giải quyết việc một cách thấu tình đạt lý, lại có thể biết cách đối nhân xử thế.
Người tuổi Tý mưu mô, nhanh trí
Sở trường của họ là phát triển tốt những việc quen thuộc. Nịnh nọt, luồn cúi giỏi cũng là sở trường của họ. Khi làm việc luôn là người tiên phong trước người khác một bước.
Tuyển tập những câu nói hay của Charlie Chaplin. Sir Charles Spencer Chaplin, Jr. KBE (sinh ngày 16 tháng 4 năm 1889, mất ngày 25 tháng 12 năm 1977), thường được biết đến với tên Charlie Chaplin (hay Vua hề Sác lô ở Việt Nam) là một diễn viên, đạo diễn phim hài người Anh.
Chaplin là một trong những diễn viên, đạo diễn nổi tiếng nhất trong thời kỳ đầu của Hollywood và điện ảnh Mỹ. Ông được coi là một trong những nghệ sĩ kịch câm và diễn viên hài xuất sắc nhất mọi thời đại của thể loại phim này và là một trong những diễn viên được biết đến nhiều nhất trên thế giới. Charlie Chaplin còn là một trong những nhân vật sáng tạo và có ảnh hưởng nhất của kỷ nguyên phim câm khi ông tự đóng, đạo diễn, viết kịch bản, sản xuất và soạn nhạc cho phim của mình.
Vai diễn chính và được biết đến nhiều nhất của ông là nhân vật kẻ lang thang (The Tramp) (hay còn có tên Charlot – Anh hề ở Pháp, Ý, và nhiều nước khác trong đó có Việt Nam – Sác lô là phiên âm tiếng Pháp của từ Charlot). “The Tramp” là một anh thanh niên sống lang thang nhưng có tư cách và luôn cư xử như một quý ông, trang phục của anh ta luôn là chiếc áo khoác chật, chiếc quần và đôi giày quá khổ, một chiếc mũ quả dưa, cây gậy chống bằng tre và một bộ ria mép chải chuốt.
Trong rất nhiều vinh dự đã được nhận, Chaplin có một ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood. Năm 1985 hình của ông được in lên tem của Anh và năm 1994 là tem của Mỹ.
Năm 1992 một bộ phim về cuộc đời Chaplin đã được quay với tựa đề Chaplin, bộ phim được đạo diễn bởi đạo diễn từng đoạt giải Oscar Richard Attenborough và có sự tham gia diễn xuất của Robert Downey Jr., Dan Aykroyd, Geraldine Chaplin (con gái của Charlie, trong phim này cô thủ vai bà nội của mình). Downey đã được đề cử giải Oscar cho diễn viên nam chính năm 1993 với vai diễn trong bộ phim này.
Tôi thích đi dưới mưa để không ai thấy tôi đang khóc.
I always like walking in the rain, so no one can see me crying.
Để thật sự cười, anh phải có thể lấy nỗi đau của mình ra và chơi với nó!
To truly laugh, you must be able to take your pain, and play with it!
Giúp bạn bè khi họ cần thật dễ dàng, nhưng dành cho họ thời gian không phải lúc nào cũng thuận lợi.
To help a friend in need is easy, but to give him your time is not always opportune.
Đây là một thế giới tàn nhẫn, và người ta phải tàn nhẫn để đối phó với nó.
This is a ruthless world and one must be ruthless to cope with it.
Bản chất thực sự của một người đàn ông xuất hiện khi anh ta say xỉn.
A man’s true character comes out when he’s drunk.
Một ngày không có tiếng cười là một ngày lãng phí.
A day without laughter is a day wasted.
Chúng ta ai cũng muốn giúp người khác. Con người là thế. Chúng ta muốn sống bên hạnh phúc của nhau chứ không phải sự khổ sở của nhau.
We all want to help one another. Human beings are like that. We want to live by each other’s happiness, not by each other’s misery.
Tuyệt vọng là ma túy. Nó ru ngủ trí óc vào sự dửng dưng.
Despair is a narcotic. It lulls the mind into indifference.
Cuộc đời là bi kịch khi quay gần, nhưng là hài kịch khi quay xa.
Life is a tragedy when seen in close-up, but a comedy in long-shot.
Con người là thiên tài khi đứng một mình. Nhưng đám đông con người thì tạo ra con quái vật không đầu, một thằng ngu lớn lao, tàn bạo đi bất cứ nơi nào bị thúc.
Man as an individual is a genius. But men in the mass form the headless monster, a great, brutish idiot that goes where prodded.
Tôi nghĩ một trong những điều trớ trêu của cuộc đời là gây ra sai lầm vào đúng lúc.
I suppose that’s one of the ironies of life doing the wrong thing at the right moment.
Không có gì là vĩnh viễn trên thế giới độc ác này – thậm chí cả những rắc rối của chúng ta.
Nothing is permanent in this wicked world – not even our troubles.
Anh muốn ý nghĩa làm gì chứ? Cuộc đời là khát khao, không phải một ý nghĩa.
What do you want a meaning for? Life is a desire, not a meaning.
Tôi không có nhiều kiên nhẫn với vật đẹp đẽ cần phải giải thích mới hiểu được. Nếu nó cần thêm diễn giải từ ai khác ngoài người tạo ra nó, thì tôi tự hỏi liệu nó đã làm trọn mục đích của nó chưa?
I do not have much patience with a thing of beauty that must be explained to be understood. If it does need additional interpretation by someone other than the creator, then I question whether it has fulfilled its purpose.
Sự căm thù của con người sẽ trôi qua, và những kẻ độc tài rồi sẽ chết, và sức mạnh chúng cướp của nhân dân sẽ trở về với nhân dân. Và chừng nào con người còn chết đi, tự do sẽ không bao giờ tàn lụi.
The hate of men will pass, and dictators die, and the power they took from the people will return to the people. And so long as men die, liberty will never perish.
Tại sao thi ca lại phải khiến người ta hiểu được?
Why should poetry have to make sense?
Ngôn từ rất rẻ. Thứ to nhất bạn có thể nói là ‘con voi’.
Words are cheap. The biggest thing you can say is ‘elephant’.
Tôi không tin công chúng biết mình muốn gì; đó là kết luận tôi thu được từ sự nghiệp của mình.
I don’t believe that the public knows what it wants; this is the conclusion that I have drawn from my career.
Kẻ độc tài giải phóng chính mình, nhưng lại nô dịch hóa nhân dân.
Dictators free themselves, but they enslave the people.
Điều đáng buồn nhất tôi tưởng tượng ra được là quen với sự xa hoa.
The saddest thing I can imagine is to get used to luxury.
=> Xem bói theo khoa học tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Xem tuổi kết hôn là truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt, với mong muốn hôn nhân viên mãn, tròn đầy ngay từ những bước đầu tiên. Tuy nhiên, từ đây nảy sinh những trường hợp hai người tuổi xung khắc bị cấm cản hay những băn khoăn tuổi đại kị có nên lấy nhau?
Trước xem nhật chủ ý, có nhật chủ không hợp, không sinh( Không làm công), sẽ không nhìn, mà xem nhật chi ý.
1, nhật chi tố công có phương hướng, nhật chi tố đích công cùng bát tự đích xu thế đối kháng, chính là phản cục. Ýtứ này nên minh xác, cũng không phải nhật chi cùng bát tự đích xu thế đối kháng, mà là nhật chi biểu đạt đích ý tứ-- nhật chi theo đuổi gì đó cùng bát tự xu thế đối kháng. Như: Kỷ mão, kỷ tị, tân hợi, giáp ngọ, cái này bát tự nhật chi tố công, ngọ hợi hợp khứ thương quan, nhật chi đích ý tứ cũng là bị ngọ hợp chế, cho nên cái này bát tự vốn là chính cục, không phải phản cục.
2, nhật chủ tố đích công cùng nhật chi tố đích công trái ngược( Nên lấy nhật chủ là việc chính) cũng phản cục. Ngày đó chủ cùng nhật chi đồng thời cũng tố công thời, thì muốn thấy bọn nó biểu đạt đích ý tứ có hay không nhất trí, nhất trí đó là chính cục, không đồng nhất trí chính là phản cục. Lấy nhật chủ chi công vi xem công, không lấy nhật chi vi. Như nhật chủ hợp thời trụ quan tố công, muốn xem quan ngồi xuống đích chi đi làm gì rồi( Nhật chủ hợp đến ở đâu, sẽ chứng kiến ở đâu. Thời quan vi thống lĩnh, lãnh địa chi đích), ngồi chi có hay không tố công, như tố công, cái này công cũng là nhật chủ chính mình tố đích công. Như quan đích ngồi chi cùng nhật chi tố đích công trái ngược thời, nhân tiện phản cục rồi.
( Chú: Nguyên nhân thời thượng là việc chính vị, tỏ vẻ một người đích ý nghĩ, ngồi quan tinh, làm quan đã khống chế ta đích ý nghĩ ý. Nguyên nhân ta đã bị quan viện khống chế, cố quan tức đại biểu rồi nhật chủ đích mục đích, đối với mỗ một trụ mà nói, can vi thống sư, chi vi binh tốt, đem sư chiến tranh, phải dụng binh tốt, vì vậy thời, phải dụng thời chi, thời chi không thể phá hư.)
3, bát tự trung niên nguyệt cùng nhật thời có xung hợp phản cục, hợp cùng xung vốn là hai loại trái ngược đích tố công phương thức, nhưng giả như, nhật thời vốn là xung cục, năm tháng trái lại hợp cục; hoặc nhật thời vi hợp cục, năm tháng trái lại xung cục, cả bát tự thân mình nhân tiện rối loạn, vốn là phản cục bát tự.
Càn: Tân bính kỷ giáp
Hợi thân sửu tuất
đinh quý quý mậu
tị sửu dậu ngọ
( Mệnh thuật dật nghe thấy) lệ, nhật chủ hợp giáp quan, ngay hôm đó chủ bị giáp tuất một trụ đã khống chế, cần giáp ngồi xuống tuất, nhưng nhật chi sửu mượn kim thủy xu thế hình tuất, phá hủy tuất, vi phản cục. Thời thượng vi môn hộ, tuất vi kiếp tài vi thủ, sửu trung quý thủy vi ám tài, mà sửu vi âm u, vi tiểu thâu, người này thường xuyên ngồi lao( Chú: Sửu cùng thân, dậu đích tổ hợp vi phạm tội, lao ngục đích tổ hợp). Sửu thêm vì tiền khố, một hình, nhân tiện không rồi, phát không được đại tài( Chú: Chính mình chế tài vi được tài, nhưng nơi này nhưng là chính mình bị tài chế rồi, cho nên không được tài).
Nhàn chú: Giáp kỷ hợp, hợp thời thượng đích quan, vi bị trông nom bị khống chế ý; giáp vi đầu, thú vi kỷ tỉ kiếp, vi thể, nhất định phải dụng! Nhưng nguyên cục kim thủy thành xu thế, chế rồi thú, phản rồi
Như: Tân giáp kỷ x không vi phản cục
Hợi thú sửu x hợp nguyệt, niên thượng đích quan vi quản lý cùng khống chế người khác.
Thêm như:
Càn giáp mậu quý kỷ
Thìn thìn mão mùi
mậu quý hợp, vi quản lý khống chế người khác, quý trông nom mậu, ta trông nom hắn; mão mặc thìn, biểu đạt ý tứ giống nhau. Mão vi thực thần vi tài nguyên thần, sinh tài chỗ, vi ngân hàng. Người này ngân hàng hành trường.
Tượng: Kỷ giáp tân bính
Nhật thú nhật thân hợp thời thượng đích quan, thời thượng đích kiếp tài nhất định phải dụng!
Biển cả cười: Tân nhật bính giờ Thân, đinh nhật nhâm dần thời, kỷ nhật giáp giờ Tuất chỉ có này [ba người/cái] nhất định phải dụng thời chi
Biển cả cười: Tuất vi thể, đại biểu thủ, cần cái này thể, sửu xu thế đại phản hình phá hủy thể. Nếu như hợp quan ngồi xuống không phải thể, có thể không cần
Á tử: Là bởi vì vi thương quan hại quan đích nguyên thần. Động tài tướng hình vốn là vi pháp đích thủ đoạn. Sửu trung ám tài vốn là thông qua tướng hình tài được tới, bính tân khí minh đầu ám, giáp kỷ hợp quan đến chế hắn.
Càn: Ất canh tân bính
Tị thìn mão thân
Bính tân hợp, dụng ngồi xuống thân kiếp tài, thân không thể chế quan bị cục trung tị hỏa quan chế rồi, phản cục rồi, nên phạm lao ngục tai ương. Đệ tử thời, nguyên nhân trộm vài quyển sách mà ngồi lao một năm, kỳ thật này không tính là chuyện gì, nhưng vượt qua nghiêm đánh, thật sự là mệnh bất hảo. Hắn không quan, vốn là một giáo sư. Nguyên nhân nguyên cục kim thủy có xu thế, cố chỉ có ngắn ngủi đích ngồi lao. Nhâm thìn thời đích chỗ cấp, bính tử vận thăng quan. Phụ thân cũng sớm tử
Hợp thời thượng quan, đầu óc bị người khác đã khống chế. Chỉ có kỷ nhật chủ giáp giờ Tuất, tân nhật chủ bính giờ Thân, phải dụng thời chi, thời chi không thể phá hư. Bởi vì này [hai người/cái] thời chi vốn là kiếp vốn là thể, thể vốn là không thể phá hư đích, nếu như thời chi chỉ dùng để có thể phá hư.
Như thế nhật chủ hợp năm, nguyệt thượng đích quan, thì ý tứ không giống với rồi.
Nhàn chú: Thân cần, nhưng tài sinh rồi tị hỏa, thêm tị thân hợp, phá hủy thân; bính dần năm ngồi lao một năm; phụ sớm tử!
Càn: Ất canh tân nhâm
Tị thìn mão thìn
tị tiết cùng thìn, thương quan chế quan, bính tử vận lên chức chính chỗ cấp, nhưng phụ cũng sớm tử!
Càn: Giáp mậu quý kỷ
Thìn thìn mão mùi
Này tạo nhật chi đích ý tứ vốn là thực thần mão cùng mùi củng vượng, hại chế thìn quan, nguyên nhân chỉ dùng để tài chi nguyên thần chế đích quan, cố vốn là cùng tiền có liên quan đích quan; nhưng nhật chủ nhưng lại hợp nguyệt lệnh đích quan tinh, có phải hay không phản cục rồi đây? Không phải phản cục, bởi vì hợp năm tháng vốn là quan tỏ vẻ chính mình quản lý người khác ý tứ, mậu quý hợp vốn là quyền quản lý( Chú: Mậu ngồi xuống thìn làm quan, biểu chính mình muốn xen vào lý, khống chế thìn quan, có thể không tới lúc quan, muốn xem này quan có hay không tố công chế khác đồ vật hoặc bị khác đồ vật viện chế rồi) thực tế người này vốn là một ngân hàng mỗ chi hành đích hành trường. Quan không lớn, nhưng quyền rất lớn, vốn là xí nghiệp chi quan.
Càn: Mậu nhâm Đinh Đinh
Thìn tuất sửu mùi
Đây là Chu nguyên Chương đích mệnh tạo, nhật chủ hợp nguyệt lệnh quan, vốn là quản lý khống chế đích ý tứ( Chú: Nhật chủ khống chế được tuất khứ xung thìn hình sửu). Tuất chế khứ thìn, vốn là chế khứ quan khố.( Chú: Sửu mùi xung, sửu tuất hình vốn là chế tài khố, tài quan đều bị ta chế rồi, chế rồi sẽ tới lúc, cố vốn là hoàng đế mệnh.) vốn là chính cục, không phải phản cục.
Nhàn chú: Đinh nhâm hợp, vi quản lý khống chế người khác, đinh khống chế nhâm, hỏa cùng táo thổ xu thế đại, khứ ẩm ướt thổ khố, chính cục.
Khôn: Bính mậu Đinh Đinh
Tử tuất sửu mùi
( Mệnh thuật dật nghe thấy) lệ, này tạo hỏa thổ có điểm táo khí, ý tại khứ kim thủy, đây là nhật chủ đích ý tứ; sửu mùi xung cũng là xung khứ sửu trung kim thủy, tuất thổ khắc tử thủy, nhưng tử sửu hợp, nhật chi đích hợp gì đó phản cục rồi( Cục phải đi tử thủy, nhật chi hợp lại theo đuổi tử thủy, cố phản cục rồi).( Chú: Tử sửu hợp lại, biểu nhật chi theo đuổi chính là tử thủy, không nghĩ làm cho chế ý, mà nguyên cục cùng nhật can là muốn chế tử thủy cùng tân kim, cho nên này tạo sợ nhất tử sửu hợp, cố phản rồi, nguyên nhân phản tại phu thê cung, cố hôn nhân bất hảo.) tử thủy đại biểu trượng phu( Chú: Tử vi phu tinh, cùng phu cung tướng hợp, làm phu xem), hợp đến phu cung, bị mùi xung bị tuất hình, chủ trượng phu sớm tử, vốn là tai nạn xe tử đích, mà sửu thổ thêm vi con gái tinh, nguyên cục phạm tam hình, con gái cũng bất hảo, [ba người/cái] con mình đều là tàn tật, nhị nữ đích hôn nhân cũng bất hảo.
Nhàn chú: Hỏa thổ thành xu thế khứ kim thủy, nhưng nhật chi sửu thổ hợp tử thủy, mục đích phản rồi; tử thủy làm quan sát, vi phu, phu sớm tử, hài tàn, nghèo, không có tiền!
Càn: Nhâm canh tân kỷ
Tử tuất sửu mùi
Cùng thượng lệ dường như, này lệ thì vi chính cục, nguyên nhân kim thủy thành xu thế, là muốn chế hỏa( Chú: Tuất, mùi trung đích hỏa) đích ý tứ. Hỏa làm quan sát, nhưng chế không được, quan sát chế bất hảo làm tài xem, vốn là phát tài đích mệnh.
Sửu hình tuất vi giả bộ hoàng, sửu chế mùi tất nhiên sản. Thực tế này tạo trước làm cho giả bộ hoàng sau khi làm cho địa sản. Bây giờ tẩu dần vận chế không được, ất mão vận phi thường tốt. Sửu vận canh thìn năm bốn rồi phụ thân sau lúc nhân tiện phi thường tốt, chết trước phụ đi sau tài. Ất mão vận hợp bán nguyệt trụ rồi. Nguyệt trụ không có tác dụng rồi cho nên ất mão vận khẳng định phát tài.
Nhàn chú: Này tạo kim thủy thành xu thế, ý tại khứ táo thổ hỏa; tử sửu hợp thuận theo đại thế vi chính cục, canh thìn năm xung khứ nguyệt chi thú, khứ quan, nơi này quan sát vi phụ, phụ tử! Quan sát chế vô cùng làm tài xem, phụ sau khi, lập tức có người cấp ngoài công trình, không làm đều không được! Ngàn vạn lần phú ông. Dần vận bất hảo, ất mão vận cùng nguyệt trụ thiên địa hợp, kim thủy toàn tâm toàn ý chế mùi thổ rồi, khẳng định phát tài! Bính thú năm tài chính chu chuyển không linh, hỏi thải khoản chuyện.
Càn: Quý bính mậu bính
Mùi thìn tuất thìn
Này tạo hỏa thổ thành xu thế khứ thủy, vốn tuất thổ muốn đi lưỡng thìn trung thủy, mà thìn vi tài khố, nhưng thìn thổ vượng bỉnh nguyệt lệnh mà vượng, đem tuất chế rồi, thành phản cục, người này cả đời nghèo mệnh, mậu quý hợp tài, có cơm ăn( Người này không có công việc), hợp tài ở chỗ này ý nghĩa không lớn, muốn dồn tài, nhưng bị tài phản chế.
Năm chủ phương xa, cố phương xa có người cho hắn điểm tiền. Cả đời nghèo mệnh.
Nhàn chú: Nơi này mậu thú đồng thể, bởi vì bính= mậu, nơi này thấy bính, như vậy mậu thú= bính thú rồi; thú nhất định phải dụng, nhưng thìn lực lượng cường, phản lại kẹp chế thú rồi! Phản cục, cũng may kẹp chế bất tử, không có tánh mạng chi ưu! Tỷ tỷ chu tế hắn, không tới chết đói!
Càn: Nhâm mậu tân mậu
Dần thân tị tuất
Đại vận: Kỷ dậu canh tuất tân hợi nhâm tử
Mới vu:1971 1981 1991 2001
Càn: Đinh mậu tân đinh
Mùi thân mùi tị
Đại vận: Đinh mùi bính ngọ ất tị giáp thìn
Mới vu:1976 1986 1996 2006
Lưỡng lệ cũng vi phản cục, tiền một tạo vi điện công, nhâm thân năm bị điện đánh chết, sau khi một tạo canh thìn năm chết vào tai nạn xe. Địa chi tị thân hợp phải đi kim, nhưng mậu thân một trụ, mậu sinh thân làm một thể, chỉ dùng để kim, vi nguyên cục phản cục.( Chú: Tân cùng thân nguyên nhân mậu mà ngay cả ở tại cùng nhau, thành ngay cả thể kim, cố không thể phá hư, phá hư thì thương thọ.)
Nguyên cục khứ kim thủy, nhật chủ đích ý tứ vốn là chịu mậu thổ sinh, thổ sinh kim, như mậu thân ngay cả làm một thể, nhân tiện vi phản cục.
Nhàn chú: Nguyên cục hồng chữ vi ngay cả thể, không thể bị phá hư, nhưng lưỡng tạo đều là hỏa táo thổ hoặc mộc hỏa thành xu thế, khứ chế kim! Phá hủy, phản rồi!
Lý tông nhân: Tân mão, bính thân, tân mùi, quý tị, nguyên nhân tân kim nhật chủ không bị sinh, nhật chủ hợp quan chế thân, nguyên cục cùng vốn là chế thân, không phải phản cục. Hồng chữ không ngay cả thể, có thể chế! Chính cục!
Càn: Tân bính tân quý
Mão thân mùi tị
Bính tân hợp, ngồi xuống thân vốn là kiếp, thêm đại biểu quân đội( Thân có quân đội chi tượng), tại nguyệt lệnh, biểu rất lớn, quân đội đích đại tập hợp.( Chú: Cũng chính là nhật chủ yếu quản lý khống chế tập đoàn quân đội ý.) tị thân hợp, vi chế rồi kiếp tài ý.( Chú: Chủ vị đích quan làm công, vốn là quản lý quân đội đích đại quan. Quý tị
Càn: Giáp quý tân kỷ
Ngọ dậu mão hợi
Cũng là ngay cả thể, kỷ mão vận đích đã vận bính tuất năm mặc dậu, tai nạn xe đã chết. Đinh sửu vận tốt nhất. Giáp ngọ mang tượng, ngọ= kỷ.
Tân dậu nguyệt tân nhật cũng là ngay cả thể.
Nhàn chú: Hồng chữ cũng ngay cả thể, bính thú năm lưu niên phản cục, thú mặc lộc,5.1 trước sau tai nạn xe mà chết! Nguyên cục kim thủy thành xu thế khứ mộc hỏa, giáp ngọ làm quan mang tài mạo, tài chính cục phó cục trưởng, đinh sửu vận tốt lắm!
Càn: Canh canh canh mậu
Tử thìn thìn dần
kim thủy ngay cả thể rồi, tử thủy cần. Mùi vận hại ngã tử sẽ không tốt lắm.
Nhàn chú: Hồng chữ ngay cả thể, thương quan cần; tử thủy không thể bị phá hư, mùi vận mặc tử, trúng độc cùng bệnh nặng vài lần!
QUÝ MÃO: KIM BẠC KIM
Trong Tử vi thì Quý Mão là con thỏ nơi ruộng mạ (quan điểm ỏ nước ta là con mèo), thường có lòng thương giúp người, cá tính nhanh nhẹn, ưa sạch sẽ, thích tiêu dao tự tại, quan tâm người trên ngưòi dưới, thích cuộc sống thanh nhàn.
Kim bạc Kim mạ vàng mâm chén, tăng sáng cho cung thất, làm bóng Kim khác.
Quý Mão là Kim khí tán, nếu như gặp Hỏa chủ về tán khí, gặp Thủy, Thổ chủ vể cát lợi. Kim bạc Kim là Kim hư bạc, có đức nhân nghĩa, cương nhu hài hòa. Hai mùa thu, đông cương kiện không hung, cho dù có hung cũng ẩn tàng điềm cát. Hai mùa xuân, hạ chủ về ngoài cát trong hung, trong cát ẩn chứa hung.
Nhập quý cách là ngưòi có chí khí, có danh tiết, anh minh, có thành tựu; mang sát là người hung bạo, khó có được cách cục bình yên.
Kim này rất nhỏ, không có Mộc không có chỗ để nương tựa, không có Thủy không đắc lực. Mộc lấy Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc làm thượng cách. Có Mộc này không nên gặp Hỏa, gặp Hỏa chủ về yểu thọ.
Gặp Hỏa, nếu như là Bính Thân, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa; Giáp Tuất, Ât Hợi Sơn đầu Hỏa phải có thanh Thủy mới tốt.
Nhật trụ, thồi trụ ưa gặp Giáp Thân, Ât Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy; Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy, nạp âm của nguyệt trụ gặp Mộc mới luận là cát lợi.
Nếu như gặp Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy, Giáp Dần, Ât Mão Đại khê Thủy chủ về cả đòi phiêu dạt. Gặp Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy chủ về người có những việc làm không theo luân thưòng đạo lý, làm bại hoại thanh danh gia đình.
Riêng gặp Đại hải Thủy, tránh được điềm hung cũng gặp họa tàn tật.
Kim ưa Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim; Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim.
Canh Thìn, Tân Tỵ Bạch lạp Kim; Giáp Tý, Ất Sửu Hải trung Kim; Giáp Ngọ, Ât Mùi Sa trung Kim, không có ích. Duy nạp âm có Hỏa còn được, nếu không cả đời khó tránh điềm hung.
Thổ gặp Mậu Dần, Kỷ Mão Thành đầu Thổ, chủ ăn nhờ ở đậu; duy ưa Kỷ Mão Thành đầu Thổ, là Ngọc thô đông thăng cách.
Gặp Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ còn có thể an thân. Nếu nạp âm có Mộc lại có Giáp Thìn, Ât Tỵ Phúc đăng Hỏa, chiếu sáng rực rố, cả đời quyền quý.
Quý lộc tại Tý, Tý Mão phạm hình, chủ về bần cùng, nên cần cù, tiết kiệm.
Quý Dương nhẫn tại Sửu, các Địa chi của trụ khác không nên có Sửụ, phạm chủ về mệnh yểu vong.
Mão mã tại Tỵ, các Địa chi của trụ khác gặp Tỵ, chủ về kết cục phá bại. Các Địa chi của trụ khác gặp Thân, Dần, mã bị hình, không thể kinh doanh.
Mão, Hợi Không vong ở Thìn, Tỵ, các Địa chi của trụ khác không nên gặp Thìn, Tỵ.
Các Địa chi của trụ khác thấy Tỵ e sẽ làm ra việc không có danh dự. Không thấy Tỵ mà thấy Sửu, Ngọ, Mùi cũng nên cẩn thận. Nên giữ mình trong sạch, chố cầu xa xỉ, vọng tưởng mà làm điều phạm pháp.
Quý quý tại Tỵ, các Địa chi của trụ khác thấy Tỵ, chủ cát lợi, phú quý.
Gặp năm Mão, năm Dậu, trong nhà không yên ổn. Bản thân không bị thương hại thì người nhà muôn sự cũng khó được như ý.
Tử vi Quý Mão bạn đời không nên lấy người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh.
Kim này mỏng như tơ, cho nên phải có Kim khác đến trợ giúp mới là người cương nghị quả cảm. Mộc nhiều chủ về cơ thể yếu ốt, tinh thần mệt mỏi, chí khí không vững vàng.
Cho nên, các trụ khác ưa Kiếm phong Kim, Thoa xuyến Kim, chủ trước nghèo sau giàu, xuất thân nghèo khó nhưng sau làm quan lớn.
Nhật trụ gặp Mùi, khắc bạn đời. Thời trụ gặp Mùi, nên hiến thân cho tôn giáo.
Đây là phần 2 trong loạt bài Thuật phong thủy xưa và nay, nêu tiếp những vấn đề về vị trí, hướng và không gian của nhà ở trong quan điểm của thuyết Phong thủy.
Nhà tránh ở ngã ba đường cái mà có lối xộc thẳng đâm vào mặt tiền. Nhà không làm nơi ngõ cụt, thường những nơi này hay có luồng gió quẩn, đưa bụi bẩn vào nhà. Không chọn vị trí nhà gần đền chùa, miếu mạo... Phong thủy có thể giải thích theo quan điểm của mình những điều cần tránh vừa nêu.
Chẳng hạn nhà làm nơi cửa núi, cửa thung lũng thì gió độc vào nhà, gia đình li tán. Nhà làm trên nền giếng cũ thì gia chủ ốm đau. Nhà làm trong ngõ cụt gia chủ đơn côi. Nhà làm gần đền miếu gia chủ tâmthần bất định. Hàng ngày con người cần lao động để tồn tại mà luôn luôn tiếp xúc với không khí thần thánh, sao mà ổn định tâm lí được. Nhà làm mà phía sau có núi cao chủ nhà cuồng chữ...
Kích thước của ngôi nhà, của các bộ phận nhà cửa theo phong thủy cũng có quy tắc khá chặt chẽ. Để đo chiều dài, người xưa sử dụng "bộ" thay cho "thước" (xích). Chín thước là hai bộ. Mỗi thước xấp xỉ 40cm ngày nay. Số lượng 'bộ" định cho từng bộ phận nhà hoặc toàn nhà cũng có phép tắc. Một "bộ" gọi là kiến, hai "bộ" là mãn, bốn "bộ" là bình, năm "bộ" là định, sáu "bộ" là chấp, bảy "bộ" là phá, tám "bộ" là nguy, chín "bộ" là thành, mười "bộ" là thu, mười một "bộ" là khai, mười hai "bộ" là bế. Đến "bộ" thứ mười ba thì lặp lại chu kỳ trên.
Kiến là kích thước cơ bản, trừ là bỏ bớt, mãn là đầy đủ, bình là vừa phải, định là không có thay đổi, chấp là nên nắm lấy, phá là tan vỡ, nguy là không ổn định, thành là đạt được điều hay, thu là nhận lấy, khai là mở mới, bế là dừng là tắc. Theo như thế mà chọn lấy điều mong muốn khi định kích thước nhà và các bộ phận nhà. Kích thước lại được luận đoán theo lành dữ rất khiên cưỡng. Chẳng hạn như kiến là nguyên cát (gốc của điều lành), trừ là sáng sủa, mãn là thiên hình, bình là quyền thiệt (uốn lưỡi), định là kim quỹ (thước vàng), chấp là thiên đức, phá là xung sát, nguy là ngọc đường, thành là tam hợp, thu là tặc kiếp (cướp giật), khai là sinh khí, bế là tai họa.
Nên chọn kích thước theo kiến, mãn, bình, thu. Kích thước chấp nhận được là trừ, nguy, định, chấp. Thành, khai dùng tốt. Hết sức tránh các kích thước trong bộ bế, phá. Chiều rộng nhà không chọn mãn, bình, thu, bế. Chiều dài nhà lấy theo trừ, định, chấp, khai. Số "bộ" của nhà hợp với quy tắc trừ, định, chấp, nguy, khai, kiến thì ở trong nhà ấy sớm sinh quý tử. Nhà có số "bộ" hợp với quy tắc trừ, định, nguy, khai, chấp, kiến thì người trong nhà mau thăng quan tiến chức.
Thuật phong thủy hết sức coi trọng sự mở cửa của nhà. Cửa, cổng, đón đưa môn khí mà như lí khí luận thì môn khí cùng với địa khí là hai tiêu chí quan trọng nhất của ngôi nhà. Cửa có thể tiếp nhiên khí nếu hướng lên trên, hướng xuống dưới thì tiếp địa khí, đón lành, tránh dữ. Để quyết định cửa của ngôi nhà, cần cân nhắc phương vị của cửa, xem cửa nên mở ra không gian nào. Chiều cao, bề rộng của cửa, vật đối diện với cửa đều hết sức quan trọng.
Cửa nhìn ra không gian thoáng đãng, để có thể khi ngước lên ngắm trăng nhìn mây, coi ngang tầm mắt thì ngắm cây, nhìn hoa, đẹp biết mấy. Sự cần thiết trong nhà cũng có những quy tắc theo phong thủy. Nơi đặt bài vị thờ cúng tránh đối diện với phương Thái Tuế. Đặt bài vị vào các năm Tí, Sửu, Dần, Hợi kiêng quay mặt hướng Bắc. Đặt bài vị vào các năm Mão, Thìn phải kiêng quay mặt về hướng Đông, Các năm Ngọ, Mùi, kiêng quay mặt hướng Nam. Các năm Thân, Dậu, Tuất kiêng quay mặt hướng Tây. Như thế, theo phong thủy, mỗi năm phải đặt lại bài vị một lần. Xưa nay, nhiều nhà chỉ đặt hướng bài vị một lần đâu đó phải họ làm ăn sa sút.
Còn tổ chức không gian trong kiến trúc mặt bằng cần theo những quy định cũng khá chặt chẽ như cần đảm bảo các quy tắc đối xứng, ngay ngắn, rộng hẹp. Cây cối trong kiến trúc sân vườn của khuôn viên nhà ở cũng cần cẩn thận. Trồng cây dâu trước nhà là điều kiêng kị vì điều đó đồng nghĩa với tang môn thần. Đó chẳng qua vì tiếng Tàu, tang là dâu, đồng âm với tang là nhà có đám nên kiêng mà thôi. Sau nhà lại không nên trồng cây hòe mà phải trồng ở nơi đón khách. Đó là vì muốn trình ra cái chí tam công nguyện ước.
Truyện xưa kể Vương Dụ thời Tống trồng ba cây hòe ở sân trước và nói: "Hậu thế của ta sẽ có người làm đến tam công (tư mã, tư đồ, tư không) thật là thỏa chí của ta". Sau đó nhà này có người làm đến chức tam công thật.
Phong thủy bắt đầu phát sinh từ Tiên Tần bên Tầu, dai dẳng kéo dài, đến bây giờ còn nhiều người bị ảnh hưởng.Thuật phong thủy, trên thì xem thiên văn, dưới xét địa lý. Lí thuyết cơ bản từ học thuyết thái cực, âm dương, ngũ hành, tinh tượng cực kì bí hiểm. Thày phong thủy thêu dệt chuyện li kỳ, gán ghép nhiều sự kiện lịch sử, thổi phồng sự trùng hợp ngẫu nhiên tô cho phong thủy màu sắc kì ảo, làm cho dân chúng cảm thấy thần bí.
Hãy hỏi có vua chúa nào xây cung, đặt mộ mà không mời thày phong thủy tham mưu chính cho mình. Nhưng có đời vua chúa nào tồn tại vĩnh hằng ?! Khi thuận thời, nhà xây cho thuê khen được thày đặt đất, coi hướng làm nhà. Khi ế ẩm khách thuê như mấy năm gần đây, gia chủ ai nỡ trách tại thày phong thủy. Thiết kế kiến trúc giải quyết tốt công năng, kết cấu bền vững, đường dáng hài hòa, gia chủ phấn khởi làm nên ăn ra. Đó là cái phong thủy tốt nhất cho người sắp làm nhà vậy !
Để tiến xa hơn, người cư sĩ phát tâm tu tập về lòng tin, giữ giới, bố thí, yết kiến các Tỷ-kheo, nghe pháp, thọ trì những pháp đã nghe, suy nghĩ đến nghĩa lý các pháp đã thọ trì, và quan trọng nhất là thực hành các pháp đã nghe hiểu ấy
1. – Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha. Rồi Thích tử Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là người nam cư sĩ?
– Này Mahànàma, khi nào quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho đến như vậy, này Mahànàma, là người nam cư sĩ thuần thành
– Này Mahànàma, khi nào người nam cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, cho đến như vậy, là người nam cư sĩ thuần thành
– Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ thành tựu lòng tin cho mình, không có khích lệ người khác thành tựu lòng tin; thành tựu giữ giới cho mình, không có khích lệ người khác thành tựu giữ giới, thành tựu bố thí cho mình, không khích lệ người khác thành tựu bố thí;
Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ thuần thành vì tự lợi, không phải vì lợi tha.
– Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ tự mình thành tựu lòng tin và khích lệ người khác thành tựu lòng tin; khi nào tự mình giữ giới và khích lệ người khác giữ giới; khi nào tự mình bố thí và khích lệ người khác bố thí; khi nào tự mình muốn đi đến yết kiến các Tỷ-kheo và khích lệ người khác đi đến yết kiến các Tỷ-kheo; khi nào tự mình muốn nghe diệu pháp và khích lệ người khác nghe diệu pháp; khi nào tự mình thọ trì những pháp đã được nghe và khích lệ người khác thọ trì những pháp đã được nghe; khi nào tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì và khích lệ người khác suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp, khích lệ người khác sau khi biết nghĩa biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ thuần thành vì tự lợi và lợi tha.
(Kinh Tăng Chi Bộ III, chương 8, phẩm Gia chủ)
Thông thường, người Phật tử sau khi quy y Tam bảo, thọ trì năm giới cấm được chư Tăng khuyến khích tu học, tụng niệm, làm việc thiện và tham gia các Phật sự nói chung. Những pháp tu ấy được xem như phận sự căn bản của người Phật tử. Tuy vậy, đi sâu vào chi tiết, cụ thể về phận sự của người cư sĩ, Đức Thế Tôn đã khái quát thành bốn pháp tu: 1-Quy y Tam bảo, 2-Thọ trì năm giới, 3-Tự lợi, 4-Lợi tha.
Khi một người đối trước Tam bảo, tự mình ba lần nói lời phát nguyện trọn đời quy y Phật – quy y Pháp – quy y Tăng, sẽ chính thức trở thành Phật tử. Điều cần lưu ý ở đây là tự mình phát nguyện quy y trực tiếp với Tam bảo (không vắng mặt), không bị ai ép buộc, phải đủ nhận thức để tự giác phát nguyện (không quá nhỏ dại) thì pháp quy y mới thành tựu.
Sau khi quy y, dù không bắt buộc thọ hết cùng lúc cả năm giới cấm, nhưng Thế Tôn luôn khuyến khích các cư sĩ phát tâm thọ trì đầy đủ. Bởi năm giới là chuẩn mực đạo đức căn bản mà người cư sĩ phải thành tựu, trước để xây dựng hạnh phúc và an lạc trong đời sống thế tục hiện tại, sau làm nền tảng để thăng hoa tâm linh và thành tựu các quả vị.
Để tiến xa hơn, người cư sĩ phát tâm tu tập về lòng tin, giữ giới, bố thí, yết kiến các Tỷ-kheo, nghe pháp, thọ trì những pháp đã nghe, suy nghĩ đến nghĩa lý các pháp đã thọ trì, và quan trọng nhất là thực hành các pháp đã nghe hiểu ấy trong đời sống hàng ngày. Đây gọi là tự lợi.
Tuy vậy, tự lợi và lợi tha phải song hành mới viên mãn hạnh nguyện của người cư sĩ. Do đó, vừa tu tập vừa khích lệ những người khác tu tập như mình (hoằng pháp) là pháp tu quan trọng mà hàng cư sĩ luôn phấn đấu để thành tựu.
Trong bối cảnh các thế lực ngoại đạo đang nỗ lực cải đạo, các tà sư tà giáo (điển hình như Thanh Hải, Duy Tuệ…) núp bóng Phật giáo để phá hoại Chánh pháp ngày càng gia tăng, thiết nghĩ người cư sĩ thuần thành Phật tử chân chính cần phát huy tu tập theo lời Thế Tôn đã dạy để tự hoàn thiện mình và góp phần xiển dương Chánh pháp.
Có câu “cứu vật vật trả ơn”, điều này quả thật đúng, rất nhiều người đã từng gặp trường hợp như thế. Câu chuyện về chú voọc cứu mạng cả thôn làng tại vùng núi sâu Kim Phật khiến người ta phải cảm động.
Vương Chí Thành sống ở dưới chân núi Bắc Cơ, khi đang hái thuốc trong rừng thì bắt gặp một chú voọc đầu đen má trắng khoảng trên 2 tuổi đang bị thương ở tay trái. Anh Vương ôm chú chú voọc này về nhà, rửa vết thương cho nó, đắp thảo dược, giữ lại trong nhà mà chữa trị.
Một tuần sau, vết thương của chú voọc đã khá lên nhiều, nhưng có vẻ con vật không muốn rời đi, hàng ngày vẫn đi quanh quẩn ở nhà của Vương, thậm chí còn giúp đỡ công việc nhà. Lúc có lợn rừng, khỉ vàng, nhím đến ăn trộm hoa màu, chú voọc liền xông ra hù dọa xua đuổi bọn chúng. Cứ như vậy, sau khi sống ở nhà Vương Chí Thành hơn một tháng, một buổi sáng nọ chú voọc đã lặng lẽ rời khỏi nhà anh.
Một ngày, vào lúc 3 giờ sáng cuối tháng 9, thôn làng nơi Vương Chí Thành đang ở vẫn còn chìm sâu trong giấc ngủ.
Đột nhiên một tràng tiếng gõ cửa dữ dội cùng với tiếng la hét thảm thiết, khiến Vương bừng tỉnh. Vương chạy ra cửa xem thử, thì ra là chú voọc đã quay về!
Vương đang định tiến lên ôm nó, chú voọc bỗng tỏ thái độ khác thường, giãy giụa khỏi tay anh, lo lắng kêu to. Thấy Vương Chí Thành không hiểu ý mình, chú voọc đưa ngón tay chỉ về phía dãy núi đằng sau. Vương quay đầu lại nhìn, thì phát hiện dãy núi lớn đang sạt lở, những tảng đá lớn trên núi đang không ngừng lăn xuống.
Chú voọc duỗi thẳng tay ra, gắng sức kéo Vương, ngụ ý là bảo anh hãy chạy cho mau. Vương Chí Thành cuối cùng đã hiểu rõ tính nguy hiểm, anh vội chạy về phòng đánh thức vợ, tay bế con thơ, chạy ra khỏi nhà. Tiếp đó, lại đến từng nhà từng nhà một mà hô lớn lên.
Toàn thôn có năm hộ gia đình với tổng cộng hơn hai mươi người vừa chạy ra khỏi nhà, thì những tảng đá to lớn liền lăn xuống, phá hủy hết toàn bộ thôn làng. Rất nhiều người trong làng đã khóc: Nguy hiểm quá, nếu như không phải chú voọc đến cứu, thì cả thôn đã cầm chắc cái chết.
Thôn dân đã được cứu sống, tìm kiếm “ân nhân” cứu mạng mình. Họ chỉ thấy chú vọoc đầu đen má trắng đứng trên tàng cây nhìn mọi người, miệng phát ra tiếng kêu mừng rỡ “Ô…. ô….”. Dường như, chú muốn chúc phúc cho những người đã thoát khỏi Tử thần, cũng là chúc phúc cho tất cả các loài vật vì từ nay con người sẽ yêu thương động vật hơn.
Chỉ khuyên con người thế gian khôi phục lòng lương thiện, từ bỏ nghiệp sát. Hãy phóng sinh, bởi vì phóng sinh động vật vốn cũng là phóng sinh con người, cứu mạng người khác chẳng khác nào cứu mạng của mình, phóng sinh, lợi ích vô cùng, công đức không thể nào tưởng tượng nổi.
Tên là mệnh, là vận mệnh của mỗi con người, tên gọi luôn gắn liền với mỗi người trong suốt cuộc đời. Việc đặt tên cho con thực sự rất quan trọng để Con có được thời vận tốt. Trong thời đại công nghệ thông tin, Bạn có thể dễ dàng chọn cho con yêu một cái tên đẹp, hay và ý nghĩa. Nhưng quan trọng, hãy xem tên có phù hợp với con bạn không nhé. Khoa học cổ dịch đã cho thấy, nếu tên gọi đúng ngũ hành mệnh, hợp với giờ sinh của bé, sẽ mang lại cho bé nhiều may mắn, sức khỏe, thuận lợi trong cuộc sống sau này.
Nếu sinh con Gái, Bạn có thể tham khảo một số tên hay và ý nghĩa:
Tên "Yến" mang ý nghĩa của loài chim quý vừa đẹp, vừa hót hay: Hoàng Yến, Ngọc Yến, Minh Yến, Hồng Yến, Cẩm Yến, Nhã Yến, Hải Yến, Kim Yến.
Tên "Trà" mang ý nghĩa của loài cây xanh tươi, hoa thơm và quý: Thanh Trà, Ngọc Trà, Bích Trà, Sơn Trà, Thu Trà, Diệp Trà, Xuân Trà
Tên "Trang" mang ý nghĩa là đồ trang điểm, đồ trang sức; hay là sự nghiêm chỉnh, đoan trang: Đoan Trang, Thùy Trang, Thu Trang, Ngọc Trang, Quỳnh Trang, Diễm Trang, Hạnh Trang, Thảo Trang, Thùy Trang, Thiên Trang, Thục Trang, Kiều Trang, Linh Trang, Vân Trang, Hạnh Trang, Bảo Trang, Ngân Trang, Yến Trang.
Tên "Thủy" mang ý nghĩa của sự sâu lắng, mạnh mẽ như làn nước: Ngọc Thủy, Bích Thủy, Lệ Thủy, Xuân Thủy, Mai Thủy, Hương Thủy, Khánh Thủy.
Tên "Thư" mang ý nghĩa của sự thông minh, tài giỏi: Anh Thư, Uyên Thư, Minh Thư, Ngọc Thư, Quỳnh Thư, Diễm Thư, Bích Thư, Bảo Thư.
Tên "Thu" mang ý nghĩa của mùa Thu: Mai Thu, Bích Thu, Hoài Thu, Cẩm Thu, Ngọc Thu, Quyế Thu, Kiều Thu, Hồng Thu, Hương Thu, Hạnh Thu, Bảo Thu, Phương Thu, Diệp Thu, Lệ Thu.
Tên "Thảo" mang ý nghĩa của loài cỏ nhỏ nhắn, nhưng mạnh mẽ, tràn đầy sức sống: Bích Thảo, Thanh Thảo, Phương Thảo, Diễm Thảo, Thu Thảo, Dạ Thảo, Ngọc Thảo, Nguyên Thảo, Hương Thảo, Anh Thảo, Như Thảo, Kim Thảo, Thạch Thảo, Xuân Thảo.
Tên "Tâm" với ý nghĩa tấm lòng nhân ái: Băng Tâm, Minh Tâm, Thanh Tâm, Hồng Tâm, Mỹ Tâm, Đan Tâm, Khánh Tâm, Phương Tâm.
Tên "Quỳnh" là loài hoa quỳnh hay một thứ ngọc đẹp: Diễm Quỳnh, Ngọc Quỳnh, Ngân Quỳnh, Hạnh Quỳnh, Mai Quỳnh, Phương Quỳnh, Thanh Quỳnh, Cẩm Quỳnh.
Tên "Quyên" mang ý nghĩa có dung mạo xinh đẹp: Thục Quyên, Lệ Quyên, Ngọc Quyên, Bích Quyên, Bảo Quyên, Thảo Quyên, Tố Quyên, Tú Quyên.
Tên "Nhung" mang ý nghĩa mượt mà, êm ái như nhung: Hồng Nhung, Thảo Nhung, Quỳnh Nhung, Tuyết Nhung, Phi Nhung, Kim Nhung, Phương Nhung, Bích Nhung.
Tên "Nhiên" mang ý nghĩa sự ung dung, tự tại: An Nhiên, Hân Nhiên, Khả Nhiên, Hạ Nhiên, Thùy Nhiên, Quỳnh Nhiên, Thảo Nhiên.
Tên "Vy" có ý nghĩa nhỏ nhắn, hay là loài hoa hồng leo đẹp, tràn đầy sức sống: Tường Vy, Lan Vy, Ngọc Vy, Mai Vy, Thảo Vy, Khánh Vy, Hạ Vy, Hải Vy, Diễm Vy, Bảo Vy, Diệu Vy, Diệp Vy, Trúc Vy, Thúy Vy.
Tên "Nhi" biết giữ lễ nghĩa, đoan trang: Thục Nhi, Hân Nhi, Đông Nhi, Ngọc Nhi, Quỳnh Nhi, Diễm Nhi, Vân Nhi, Thảo Nhi.
Tên "Ngọc" bảo vật quý hiếm: Bảo Ngọc, Than Ngọc, Bích Ngọc, Khánh Ngọc, Minh Ngọc, Như Ngọc, Lan Ngọc, Vân Ngọc.
Tên "Ngân" là thanh âm vui vẻ, vang vọng: Thanh Ngân, Khánh Ngân, Bích Ngân, Diễm Ngân, Khả Ngân, Trúc Ngân, Quỳnh Ngân, Hạnh Ngân.
Tên "Nga" mang ý nghĩa xinh đẹp: Phương Nga, Bảo Nga, Thanh Nga, Bích Nga, Diệu Nga, Quỳnh Nga, Thúy Nga, Tố Nga.
Tên "Minh" mang ý nghĩa sáng sủa, tươi tắn: Thu Minh, Ngọc Minh, Nguyệt Minh, Tuệ Minh, Khả Minh, Thảo Minh, Thùy Minh, Thúy Minh.
Tên "My" loài chim hót hay, đánh yêu: Hạnh My, Hà My, Thảo My, Diễm My, Khánh My, Ngọc My, Trà My, Giáng My.
Tên "Vân" mang ý nghĩa đám mây trời: Thùy Vân, Trúc Vân, Mỹ Vân, Tuyết Vân, Thanh Vân, Khánh Vân, Ngọc Vân, Thảo Vân, Thụy Vân, Bích Vân, Cẩm Vân, Diệu Vân, Bảo Vân, Hải Vân, Diệp Vân.
► Xem lịch âm và giờ hoàng đạo chuẩn xác tại Lichngaytot.com |
Đàn ông có tính trăng hoa, lấy vợ rồi vẫn không quên ngắm nhìn những cô gái đẹp. Các chị em đều biết thế nên phòng trước ngó sau,
Số biểu lý cô độc quả phụ, gồm các số: 21, 23, 26, 28, 29, 33, 39.
Số biểu lý hiếm con cái, gồm các số: 10, 34.
Số biểu lý biểu thị sự giàu sang, hạnh phúc, vinh quang, danh tiếng, gồm: 3, 5, 8, 11, 13, 16, 21, 23, 25, 29, 31, 33, 35, 37, 39, 41, 45, 48, 52, 57, 63, 65, 67, 68, 81.
Số biểu lý chỉ phụ nữ hiền dịu, giúp chồng, dạy con tốt, đức hạnh, mềm dẻo, khéo, gồm: 3, 5, 6, 11, 13, 15, 16, 24, 31, 32, 35
Số biểu lý thể hiện khả năng thủ lĩnh, tài điều hành, nhân đức, gồm: 3, 13, 16, 21, 24, 31, 33, 39, 41.
Số biểu lý biểu thị sự giàu có, gồm: 15, 16, 24, 32, 33, 41, 52.
Số biểu lý biểu thị được hưởng thừa kế, gồm: 3, 5, 6, 11, 13, 15, 16, 21, 24, 32, 35.
Số biểu lý biểu thị tuy gặp khó khăn trở ngại nhiều, song vẫn thành công, gồm: 6, 8, 17, 18, 27, 29, 30, 36, 38, 49,
51, 55, 58, 61, 71, 73, 75
Số biểu lý biểu thị gặp nhiều tai họa, trôi nổi, thăng trầm, thất bại, nhiều cảnh trái ngang, bệnh tật, tù tội, rủi ro, gồm: 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 27, 28, 34, 36, 42, 44, 46, 49, 50, 54, 56, 58, 59, 60, 62, 64, 66, 69, 70, 71, 72, 73, 74, 5, 76, 77, 78, 79, 80.
Số biểu lý biểu thị phá tán sản nghiệp của ông cha, gồm: 2, 4, 9, 10, 12, 14. 19, 20, 26, 30.
Số biểu lý biểu thị nhà cửa, gia đình suy bại, họ hàng lạnh nhạt, anh em bất hòa, con cái bất hiếu, ly tan, hao tổn, nhiều nghịch cảnh, tai họa, thăng trầm, trôi nổi, gồm: 2, 4, 8, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 30, 38, 40, 50, 80.
Số biểu lý biểu thị gặp tai nạn, bệnh tật hiểm nghèo, gồm: 9, 10, 14, 19, 20, 22, 28, 30, 34, 44, 50, 54, 56, 58, 59,
59, 70.
Số biểu lý biểu thị nhà cửa suy, họ hàng lạnh nhạt, ít anh em, gồm: 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 38.
Số biểu lý biểu thị hôn nhân muộn màng, gồm: 9, 10, 12, 17, 22, 28, 34, 35, 38, 40.
Số biểu lý biểu thị sự phá sản, gồm: 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 26, 30.
Số biểu lý biểu thị gặp khó khăn, gian khổ, vất vả, gồm: 3, 4, 6, 8, 9, 10, 12, 14, 17, 18, 19, 20, 23.
Số biểu lý biểu thị tính độc lập, tự lực, mạnh mẽ, gồm: 1, 13, 31, 37, 48, 52, 57, 67, 71, 81 (1).
Số biểu lý biểu thị tuổi trẻ (trước 30 tuổi) khá, may mắn, gồm: 1, 3, 5, 6, 11, 13, 15, 16, 23, 24, 25, 31, 32, 33, 45, 52, 61, 63, 68, 81 (1).
Số biểu lý biểu thị hậu vận (sau 30 tuổi trở đi) khá, may mắn, thành đạt, yên bình, phúc hậu, gồm: 7, 8, 17, 29, 37, 41, 47, 48, 57, 67, 68.
Số biểu lý biểu thị tính tình ôn hòa, gồm: 5, 6, 11, 15, 16, 31, 32, 35, 54.
Số biểu lý biểu thị hiền lành (riêng cho nữ giới), gồm: 5, 6, 15, 16, 35.
Số biểu lý biểu thị giàu tình cảm, gồm: 7, 17, 18, 27, 35, 37, 47.
Số biểu lý biểu thị nhiều hơn một vợ (đa thê), gồm: 5, 6, 15, 16, 32, 39, 41.
Số biểu lý biểu thị có sắc đẹp, gồm: 4, 13, 14, 15, 19, 21, 24, 28, 31, 32, 33, 37, 41, 42.
Số biểu lý biểu thị đông con cái, gồm: 11, 13, 39, 41; hiếm muộn con: 10, 34.
Số biểu lý biểu thị tính ưa vận động thể lực, gồm: 3, 5, 6, 7, 8, 15, 16, 24, 32, 35, 38, 41, 45, 47, 58, 68.
Số biểu lý biểu thị không tốt cho nữ giới (nam tính), gồm: 21, 23, 27, 29, 33, 39.
Số biểu lý biểu thị đào hoa, may mắn, gồm các số: 4, 12, 14, 16, 24, 28, 37, 45.
Số biểu lý tài năng nghệ thuật gồm các số: 13, 14, 26, 29, 33, 36.
Số biểu lý đam mê gồm các số: 17, 23, 24, 27, 33, 37, 43, 52.
Số biểu lý cô đơn gồm các số: 4, 10, 12, 14, 22, 28, 34.
1. Bị truy đuổi | 2. Bị đau răng |
3. Bạn đang bay | 4. Bạn bị ngã |
Mộc Trà (theo Candy)
nước và ngoài nước. Cho nên việc đặt tên facebook hay cũng trở nên rất quan trọng. Cũng giống như việc đặt tên cho con, rất quan trọng. Bởi lẽ tên nick facebook hay của bạn sẽ là điểm nhấn, gây ấn tượng cho tất cả bạn bè trên mạng. Hiện nay facebook không đơn thuần chỉ giao lưu kết bạn, học hỏi. Ngoài ra còn là nơi để buôn bán trao đổi. Vì vậy đặt tên facebook là một trong những việc đầu tiên mình phải làm khi tạo một tài khoản trên mạng xã hội.Có rất nhiều những cái tên hay trên facebook đã được đánh giá và chọn lọc. Hãy cùng tham khảo bài viết những tên facebook hay ý nghĩa, ngắn gọn nhất của chúng tôi để chọn cho mình 1 cái tên nick facebook hay và ý nghĩa nhé.
Nội dung
Buồn thì sao
Bong Bóng Xà Phòng
Buồn cũng phải cố
Giả vờ thôi nhé
Con lật đật
Mưa bong bóng
Gai xương rồng
Mắt lạnh
Bibi Buồn
Nước mắt buồn
“Giang hồ du khách”,
“Đoạn kiếm khách”,
“Độc bá thiên hạ”, nhằm nêu bật cá tính, lại có những cái tên rất thú vị như
“Không tâm nguyệt lượng” (mặt trăng rỗng)
“Vũ thiên tinh thìn” (sao ngày mưa)
“Thấu minh phong” (gió trong suốt)
“Phong trung chi chúc” (cây nến trong gió)
“Thuần tình sơn thủy” (Núi non tình yêu thuần khiết) hay
“Tôi yêu bầu trời”
“Hoa nở xem hoa tàn”
Tên Ruby: Chỉ những người phụ nữ giỏi giang đầy tự tin.
Tên Vincent: thường chỉ những quan chức cấp cao.
Tên Larry: chỉ người da đen kịt.
Tên Jennifer: thường chỉ kẻ miệng mồm xấu xa.
Tên Jack : xem ra đều rất thật thà.
Tên Dick: chỉ người buồn tẻ và rất háo sắc.
Tên Irene: thường chỉ người đẹp.
Tên Claire: chỉ người phụ nữ ngọt ngào.
Tên Robert : chỉ người hói(thường phải đề phòng)
Tên Kenny: thường chỉ kẻ nghich ngợm.
Tên Scotl: Ngây thơ, lãng mạn.
Tên Catherine: thường chỉ người to béo.
Tên Anita: thường chỉ người mắt nhỏ mũi nhỏ.
Tên Terry: chỉ người hơi tự cao.
Tên Ivy: thường chỉ kẻ hay đánh người.
Tên Rita: luôn cho mình là đúng
Tên Jackson: thường chỉ kẻ luôn cho mình là đúng.
Tên Eric: Chỉ người quá tự tin.
Tên Simon: chỉ người hơi kiêu ngạo
Tên James: chỉ kẻ hơi tự cao.
Tên Sam: chỉ chàng trai vui tính.
Tên Hank: chỉ những người ôn hòa, đa nghi.
Tên Sarah: chỉ kẻ ngốc nghếch
Tên Kevin: chỉ kẻ ngang ngược
Tên Angel: chỉ người nữ bé nhỏ có chút hấp dẫn
Tên Golden: chỉ người thích uống rượu.
Tên Jimmy: chỉ người thấp béo.
Tên Docata: thường chỉ người tự yêu mình.
Tên Tom: chỉ người quê mùa.
Tên Jason: chỉ có chút tà khí
Tên Paul: chỉ kẻ đồng tính luyến ái, hoặc giàu có
Tên Gary: chỉ người thiếu năng lực trí tuệ
Tên Michael: Thường chỉ kẻ tự phụ, có chút ngốc nghếch
Tên Jessica: thường chỉ người thông minh biết ăn nói
Tên Vivian: thường chỉ kẻ hay làm địu(Nam)
Tên Vivien: thường chỉ kẻ hay làm địu(Nữ)
Aki : mùa thu
Akira: thông minh
Aman (Inđô): an toàn và bảo mật
Amida: vị Phật của ánh sáng tinh khiết
Aran (Thai): cánh rừng
Botan: cây mẫu đơn, hoa của tháng 6
Chiko: như mũi tên
Chin (HQ): người vĩ đại
Dian/Dyan (Inđô): ngọn nến
Dosu : tàn khốc
Ebisu: thần may mắn
Garuda (Inđô): người đưa tin của Trời
Gi (HQ): người dũng cảm
Goro: vị trí thứ năm, con trai thứ năm
Haro: con của lợn rừng
Hasu: hoa sen
Hatake : nông điền
Ho (HQ): tốt bụng
Hotei: thần hội hè
Higo: cây dương liễu
Hyuga : Nhật hướng
Isora: vị thần của bãi biển và miền duyên hải
Jiro: vị trí thứ nhì, đứa con trai thứ nhì
Kakashi : 1 loại bù nhìn bện = rơm ở các ruộng lúa
Kalong: con dơi
Kama (Thái): hoàng kim
Kané/Kahnay/Kin: hoàng kim
Kazuo: thanh bình
Kongo: kim cương
Kenji: vị trí thứ nhì, đứa con trai thứ nhì
Kuma: con gấu
Kumo: con nhện
Kosho: vị thần của màu đỏ
Kaiten : hồi thiên
Kamé: kim qui
Kami: thiên đàng, thuộc về thiên đàng
Kano: vị thần của nước
Kanji: thiếc (kim loại)
Ken: làn nước trong vắt
Kiba : răng , nanh
KIDO : nhóc quỷ
Kisame : cá mập
Kiyoshi: người trầm tính
Kinnara (Thái): một nhân vật trong chiêm tinh, hình dáng nửa người nửa chim.
Itachi : con chồn (1 con vật bí hiểm chuyên mang lại điều xui xẻo )
Maito : cực kì mạnh mẽ
Manzo: vị trí thứ ba, đứa con trai thứ ba
Maru : hình tròn , từ này thường dùng đệm ở phìa cuối cho tên con trai.
Michi : đường phố
Michio: mạnh mẽ
Mochi: trăng rằm
Naga (Malay/Thai): con rồng/rắn trong thần thoại
Neji : xoay tròn
Niran (Thái): vĩnh cửu
Orochi : rắn khổng lồ
Raiden: thần sấm chớp
Rinjin: thần biển
Ringo: quả táo
Ruri: ngọc bích
Santoso (Inđô): thanh bình, an lành
Sam (HQ): thành tựu
San (HQ): ngọn núi
Sasuke: trợ tá
Seido: đồng thau (kim loại)
Shika: hươu
Shima: người dân đảo
Shiro: vị trí thứ tư
Tadashi: người hầu cận trung thành
Taijutsu : thái cực
Taka: con diều hâu
Tani: đến từ thung lũng
Taro: cháu đích tôn
Tatsu: con rồng
Ten: bầu trời
Tengu : thiên cẩu ( con vật nổi tiếng vì long trung thành )
Tomi: màu đỏ
Toshiro: thông minh
Toru: biển
Uchiha : quạt giấy
Uyeda: đến từ cánh đồng lúa
Uzumaki : vòng xoáy
Virode (Thái): ánh sáng
Washi: chim ưng
Yong (HQ): người dũng cảm
Yuri: (theo ý nghĩa Úc) lắng nghe
Zinan/Xinan: thứ hai, đứa con trai thứ nhì
Zen: một giáo phái của Phật giáo Tên nữ:
Aiko: dễ thương, đứa bé đáng yêu
Akako: màu đỏ
Aki: mùa thu
Akiko: ánh sáng
Akina: hoa mùa xuân
Amaya: mưa đêm
Aniko/Aneko: người chị lớn
Azami: hoa của cây thistle, một loại cây cỏ có gai
Ayame: giống như hoa irit, hoa của cung Gemini
Bato: tên của vị nữ thần đầu ngựa trong thần thoại Nhật
Cho: com bướm
Cho (HQ): xinh đẹp
Gen: nguồn gốc
Gin: vàng bạc
Gwatan: nữ thần Mặt Trăng
Ino : heo rừng
Hama: đứa con của bờ biển
Hasuko: đứa con của hoa sen
Hanako: đứa con của hoa
Haru: mùa xuân
Haruko: mùa xuân
Haruno: cảnh xuân
Hatsu: đứa con đầu lòng
Hidé: xuất sắc, thành công
Hiroko: hào phóng
Hoshi: ngôi sao
Ichiko: thầy bói
Iku: bổ dưỡng
Inari: vị nữ thần lúa
Ishi: hòn đá
Izanami: người có lòng hiếu khách
Jin: người hiền lành lịch sự
Kagami: chiếc gương
Kami: nữ thần
Kameko/Kame: con rùa
Kané: đồng thau (kim loại)
Kazu: đầu tiên
Kazuko: đứa con đầu lòng
Keiko: đáng yêu
Kimiko/Kimi: tuyệt trần
Kiyoko: trong sáng, giống như gương
Koko/Tazu: con cò
Kuri: hạt dẻ
Kyon (HQ): trong sáng
Kurenai : đỏ thẫm
Kyubi : hồ ly chín đuôi
Lawan (Thái): đẹp
Mariko: vòng tuần hoàn, vĩ đạo
Manyura (Inđô): con công
Machiko: người may mắn
Maeko: thành thật và vui tươi
Mayoree (Thái): đẹp
Masa: chân thành, thẳng thắn
Meiko: chồi nụ
Mika: trăng mới
Mineko: con của núi
Misao: trung thành, chung thủy
Momo: trái đào tiên
Moriko: con của rừng
Miya: ngôi đền
Mochi: trăng rằm
Murasaki: hoa oải hương (lavender)
Nami/Namiko: sóng biển
Nara: cây sồi
Nareda: người đưa tin của Trời
No : hoang vu
Nori/Noriko: học thuyết
Nyoko: viên ngọc quí hoặc kho tàng
Ohara: cánh đồng
Phailin (Thái): đá sapphire
Ran: hoa súng
Ruri: ngọc bích
Ryo: con rồng
Sayo/Saio: sinh ra vào ban đêm
Shika: con hươu
Shina: trung thành và đoan chính
Shizu: yên bình và an lành
Suki: đáng yêu
Sumi: tinh chất
Sumalee (Thái): đóa hoa đẹp
Sugi: cây tuyết tùng
Suzuko: sinh ra trong mùa thu
Shino : lá trúc
Takara: kho báu
Taki: thác nước
Tamiko: con của mọi người
Tama: ngọc, châu báu
Tani: đến từ thung lũng
Tatsu: con rồng
Toku: đạo đức, đoan chính
Tomi: giàu có
Tora: con hổ
Umeko: con của mùa mận chín
Umi : biển
Yasu: thanh bình
Yoko: tốt, đẹp
Yon (HQ): hoa sen
Yuri/Yuriko: hoa huệ tây
Yori: đáng tin cậy
Yuuki : hoàng hôn
Thịt thủ lợn
Đang tắm mất nước
Chỉ yêu một lần trong đời
Chỉ yêu người lạ
Đợi anh khô nước mắt 9 củ cà rốt
Thiên sứ già Em bị ế
Tham ăn tục uống
cầy con lon ton
Lò Thị Mẹt
Thượng đế chết rồi
Hoa quả sơn
Ngụy Khánh kinh
Tiêu thập nhất lang…
Tìm bạn trên mạng
Bán máu trên mạng
Hương bay kiếm múa
Cà phê trong suốt
Sói không ăn thịt
Đườngđời Đưađẩy Đi ĐủĐường
Chúngmàykhóc Chắcgìđãkhổ Taotuycười Nhưnglệđổvàotim
Tên đẹp thật
Họ Và Tên
Linh lạnh lùng lầm lỳ lắm lúc lỳ lợm
Ngân Ngây Ngô
Củ Chuối Vô Tình
Đơ như nitơ
Kẹo cực đắng
ChảBiếtTênNàoChoĐẹp
gétnhữngthằngthíchđặtênnickdàidằngdặc
Đọclàmgìcógmàđọc
NgâyThơ Trongsáng dễtinngười
Thủy Thoi Thóp
Nhinh Nhô Nhí
7 love ( thất tình)
Teo Hẳn Mông Bên Phải
Cai Hẳn Thôi Không Đẻ
Lòng Non Ngon Hơn Lòng Già
Lần Thị Lượt
Đang Bóc Lan
Vừa Chặt que
Đang Chấm Diêm
Cô Bốc xô
Phạm Chị Chắt
Lê Ổng Viên
Văn Cô Thêm
Lò Văn Tôn
Cú Có Đeo
Lừa Song Phắn
Tòng Văn Tánh
Lửa Không Cháy
Lượn Cho Nhanh
Lòng Không Thối
Tôn Không Rỉ
Alexandra – “người trấn giữ”, “người bảo vệ”
Edith – “sự thịnh vượng trong chiến tranh”
Hilda – “chiến trường”
Louisa – “chiến binh nổi tiếng”
Matilda – “sự kiên cường trên chiến trường”
Bridget – “sức mạnh, người nắm quyền lực”
Andrea – “mạnh mẽ, kiên cường”
Valerie – “sự mạnh mẽ, khỏe mạnh”
Adelaide – “người phụ nữ có xuất thân cao quý”
Alice – “người phụ nữ cao quý”
Bertha – “thông thái, nổi tiếng”
Clara – “sáng dạ, rõ ràng, trong trắng, tinh khiết”
Freya – “tiểu thư” (tên của nữ thần Freya trong thần thoại Bắc Âu)
Gloria – “vinh quang”
Martha – “quý cô, tiểu thư”
Phoebe – “sáng dạ, tỏa sáng, thanh khiết”
Regina – “nữ hoàng”
Sarah – “công chúa, tiểu thư”
Sophie – “sự thông thái”
Amanda – “được yêu thương, xứng đáng với tình yêu”
Beatrix – “hạnh phúc, được ban phước”
Hele – “mặt trời, người tỏa sáng”
Hilary – “vui vẻ”
Irene – “hòa bình”
Gwen – “được ban phước”
Serena – “tĩnh lặng, thanh bình”
Victoria – “chiến thắng”
Vivian – “hoạt bát”
Ariel – Chúa
Dorothy – “món quà của Chúa”
Elizabeth – “lời thề của Chúa / Chúa đã thề”
Emmanuel – “Chúa luôn ở bên ta”
Jesse – “món quà của Yah”
Azure – “bầu trời xanh”
Esther – “ngôi sao” (có thể có gốc từ tên nữ thần Ishtar)
Iris – “hoa iris”, “cầu vồng”
Jasmine – “hoa nhài”
Layla – “màn đêm”
Roxana – “ánh sáng”, “bình minh”
Stella – “vì sao, tinh tú”
Sterling – “ngôi sao nhỏ”
Daisy – “hoa cúc dại”
Flora – “hoa, bông hoa, đóa hoa”
Lily – “hoa huệ tây”
Rosa – “đóa hồng”;
Rosabella – “đóa hồng xinh đẹp”;
Selena – “mặt trăng, nguyệt”
Violet – “hoa violet”
Diamond – “kim cương” (nghĩa gốc là “vô địch”, “không thể thuần hóa được”)
Jade – “đá ngọc bích”,
Kiera – “cô gái tóc đen”
Gemma – “ngọc quý”;
Melanie – “đen”
Margaret – “ngọc trai”;
Pearl – “ngọc trai”;
Ruby – “đỏ”, “ngọc ruby”
Scarlet – “đỏ tươi”
Sienna – “đỏ”
Abigail – “niềm vui của cha”
Aria – “bài ca, giai điệu”
Emma – “toàn thể”, “vũ trụ”
Erza – “giúp đỡ”
Fay – “tiên, nàng tiên”
Laura – “vòng nguyệt quế” (biểu tượng của chiến thằng)
Zoey – “sự sống, cuộc sống”
Alfred – Alfred – “lời khuyên thông thái”
Hugh – Hugh – “trái tim, khối óc”
Oscar – Oscar – “người bạn hòa nhã”
Ruth – Ruth – “người bạn, người đồng hành”
Solomon – Solomon – “hòa bình”,
Wilfred – Wilfred – “ý chí, mong muốn”
Blake – Blake – “đen” hoặc “trắng”
Peter – Peter – “đá”
Rufus – Rufus – “tóc đỏ”
Douglas – “dòng sông / suối đen”;
Dylan – “biển cả”,
Neil – “mây”, “nhà vô địch”, “đầy nhiệt huyết”
Samson – “đứa con của mặt trời”
Alan – Alan – “sự hòa hợp”
Asher – Asher – “người được ban phước”
Benedict – Benedict – “được ban phước”
Darius – Darius – “người sở hữu sự giàu có”
David – David – “người yêu dấu”
Felix – Felix – “hạnh phúc, may mắn”
Edgar – Edgar – “giàu có, thịnh vượng”
Edric – Edric – “người trị vì gia sản” (fortune ruler)
Edward – Edward – “người giám hộ của cải” (guardian of riches)
Kenneth – Kenneth – “đẹp trai và mãnh liệt” (fair and fierce)
Paul – Paul – “bé nhỏ”, “nhúng nhường”
Victor – Victor – “chiến thắng”
Albert – Albert – “cao quý, sáng dạ”
Donald – Donald – “người trị vì thế giới”
Frederick – Frederick – “người trị vì hòa bình”
Eric – Eric – “vị vua muôn đời”
Henry – Henry – “người cai trị đất nước”
Harry – Harry – “người cai trị đất nước”
Maximus – Maximus – “tuyệt vời nhất, vĩ đại nhất”
Raymond – Raymond – “người bảo vệ luôn đưa ra những lời khuyên đúng đắn”
Robert – Robert – “người nổi danh sáng dạ” (bright famous one)
Roy – Roy – “vua” (gốc từ “roi” trong tiếng Pháp)
Stephen – Stephen – “vương miện”
Titus – Titus – “danh giá”
Andrew/Andrew/ – “hùng dũng, mạnh mẽ”
Alexander – “người trấn giữ”, “người bảo vệ”
Arnold/Arnold/ – “người trị vì chim đại bàng” (eagle ruler)
Brian/Brian/ – “sức mạnh, quyền lực”
Chad/Chad/ – “chiến trường, chiến binh”
Drake/Drake/ – “rồng”
Harold/Harold/ – “quân đội, tướng quân, người cai trị”
Harvey/Harvey/ – “chiến binh xuất chúng” (battle worthy)
Leon/Leo/ – “chú sư tử”
Leonard/Leonard/ – “chú sư tử dũng mãnh”
Louis/Louis/ – “chiến binh trứ danh” (tên Pháp dựa trên một từ gốc Đức cổ)
Marcus – dựa trên tên của thần chiến tranh Mars
Richard/Richard/ – “sự dũng mãnh”
Ryder/Rider/ – “chiến binh cưỡi ngựa, người truyền tin”
Charles/Charles/ – “quân đội, chiến binh”
Vincent/Vincent/ – “chinh phục”
Walter/Walter/ – “người chỉ huy quân đội”
William/William/ – “mong muốn bảo vệ” (ghép 2 chữ “wil – mong muốn” và “helm – bảo vệ”)
Dân ta có câu: ''Nhất Sĩ nhì Nông, hết gạo chạy rông, nhất Nông, nhì Sĩ''. Điều đó chứng tỏ Nông nghiệp là lãnh vực quan yếu trong xã hội VN. Từ xưa tới nay, 70, 80% dân sô` người Việt sống về nghề nông, lam lũ! Nhà nông quanh năm vất vả với ruộng đồng, nương khoai! Do đó, Tết chính là dịp được nghỉ ngơi, thư thả.
Để đón Tết, người VN chuẩn bị rất công phu, chu đáo. Ở thành thị, có thể là xa hoa, đài các, nhưng ở thôn quê, đặc biệt là ngày xưa thì êm ả, ấm cúng. Người ta lo lắng, bồn chồn, nhiều gia đình dành dụm cả năm, sau khi đã thanh thỏa nợ nần, cũng mong sao còn một chút...lo Tết. Lỡi Tết ...chính là mối ưu tư lớn nhất của nhiều gia đình (nghèo khó) ở thôn quê. Vay nợ, chịu ơn người ta suốt năm, nay ...Tết là dịp, phải...đền ơn, đáp nghĩa thế nào?
Những gia đình giầu có thì ngay từ đầu tháng chap đã chẻ lạt, gom củi nấu bánh chưng, gói giò. Người ta bắt đầu mua đủ thứ...Gạo nếp, lá dong, thịt heo, hành tỏi. Bắt đầu o bế những chậu Cúc, chậu Trà, Quất, Hải đường, Mai vàng hay Bích đào (chỉ có hoa đỏ, không có quả).v.v. Sao cho kịp nở đúng vào ngày Tết. Một số người còn nặn sẵn 3 ông 'Đầu rau', béo mập, oai phong. để thay thế những ông bị bể đầu, vỡ mặt! Hàng phe, hàng giáp thì định ngày hội họp, chia cỗ, chia phần theo lệ làng: Đinh, Tráng, Lão Bà, Lão Ông. Những gia đình không khá giả lắm thì chung nhau 'đụng lợn' để có tí thịt, làm nhân bánh chưng hay gói giò, làm ...cỗ Tết. Nơi đình làng, ông Thủ Từ đã bắt đầu lau chùi đồ thờ, mua sắm vàng, mã cùng cờ xí, trống, chiêng, chuẩn bị cho Lễ hội có toàn dân tham dự. Nhiều làng xóm còn có tục thi chọi trâu, đấu vật, đánh cờ (người) hay trò chơi muá rối (hình nỗm cử động bằng dây do người điều khiển) trên mặt hồ, mặt ao, cũng hào hứng lắm.
Tết VN còn có nhiều tục lệ đáng ghi:
- Tiễn Ông Táo... Ông Táo phải về Trời để báo cáo Thiên Tào, Ngọc Đế, tất cả những gì đã xảy ra ở Trần gian trong năm qua, ông về Trời vào ngày 23 tháng chap. Ông là người cai quản 'Bếp' trong mỗi gia đình. Lễ tiễn ông là mâm quả cùng với con cá chép (còn sống, thả trong chậu nước, hoặc bằng giấy) làm phương tiện cho ông bay về Trời cho lẹ, cho oai.
- Chơ Tết... .. Ta có câu ...Vui như...chợ Tết. Ngày Tết càng gần thì 'Chợ Tết' càng tưng bừng, náo nhiệt. Những 'Phiên chợ' của tháng cuối năm như nhộn nhịp hơn nhiều, có nơi chỉ tổ chức duy nhất một lần trong tháng. (Miền Trung châu Bắc Việt có 'Phiên Chợ Huyện' là nổi tiếng của Tỉnh Thái Bình, họp vào ngày 29 Tết). Một số người mua thường chờ đến chợ phiên mới mua sắm đủ thứ, họ biết chắc...cái gì cũng sẽ có và...thế nào cũng rẻ hơn, vì... ai cũng mong bán cho hết, tránh bị ám ảnh bởi......''ì ẩm'' cuối năm! Xui lắm!! Ai ghiền bói toán, xem tranh hay có cái thú coi các cụ Đồ bán chữ.v.v.v. Cứ đến 'Chợ Phiên' là có tất cả.
- Cây Nêu... Chiều ngày 30 tháng chap là thời gian chót cho những nhà muốn dựng 'Nêu'. Đó là một cây tre, chặt từ gốc, cố giữ nguyên ngọn, trên đầu ngọn tre, treo một cái mũ (nhỏ), một xấp giấy vàng, vài cái khánh bằng đất nung, lủng lẳng trên không, gío thổi, khánh đụng vào nhau, kêu leng keng, ai nghe, biết ngay là nhà có chủ. Những nhà không dựng nêu, họ thường buộc lá cây (dừa, dứa) ngoài ngõ, có nhà rắc vôi bột, hình cái cung, ngay trườc sân, ai đến, nhìn thấy hình cung, đừng vô nếu không quen biết, cả ma qủi cũng chẳng dám vô. Nhớ một điều: Phải hạ Nêu trong ngày mồng 7 Tết, không..thì xui tàn mạng!
- Giao thừa... Dựng Nêu xong thì chuẩn bị đón Giao thừa.(Thời điểm trao cái cũ, nhận cái mới). Đêm này còn được gọi là 'Đêm Trừ tịch' (Trừ là thải, là bỏ, tịch là đêm tối). Lễ giao thừa được tổ chức khá long trọng tại tư gia, Đình làng hay Miếu, Am, Đền, Chùa. Giờ phút giao thừa rất là ồn áo, náo nhiệt, chuông trống inh ỏi, pháo nổ vang trời. Nơi Đền, Chùa thì khói nhang nghi ngút, trai thanh, nữ tú, lui tới tấp nập. Các Giáo đường thì chuông trống vang dội, với Lễ nửa đêm, tràn ngập Tín hữu, cất cao những lời ca trầm bổng, nguyện cầu cho Thế giới bình an, Nhân loại Hạnh Phúc..
--Xuất hành... Lễ giao thừa xong, nhiều người rủ nhau đến Chùa, Miếu để xin xâm, hái lộc. Xuất hành là chuyện rất quan trọng, nên người ta phải chọn...Hướng và Giờ xuất hành cho cẩn thận. Giờ...lúc ra đi phải hợp với giờ, với sao của người xuất hành, không được...kỵ, không được khắc. Nếu chẳng may...kỵ, khắc, đã không hên, còn...xui!
--Xông nhà... Xuất hành quan trọng thế nào thì xông nhà cũng quan trọng không kém. Những gia đình đông con, thường chọn đứa con nào...hiền lành, khôn ngoan, tốt...Viá nhất (...Vía là gì? Vía là cái Linh của mỗi người, Nam giới có 7 Linh, Nữ giới có tới 9 Linh lận - Nhiều người hay nói...Sợ hết viá...), để nó là người xông nhà trước nhất. Nếu không ưng ý đứa con nào thì nhờ bạn bè hay người hàng xóm cũng được, để họ mang sự may mắn đến cho gia đình.
--Kiêng cữ... Tết là dịp phải kiêng kỹ nhất. Thận trọng từng lời nói, cử chỉ. Tránh cau có, gắt gỏng hay la lối, giận hờn. Tránh nói con...khỉ (nhất là năm nay lại là năm...Khỉ), con hùm, con beo! Đừng đánh vỡ bát chén, đặc biệt nhà nào có người hút thuốc lào thì chớ làm đổ nước điếu...Xui vô cùng! Tránh mặc áo trắng, sợ có tang và điều sau đây, có lẽ nhiều người dễ mắc phải...Đó là phải kiêng hốt rác. Cố kiêng quét nhà trong ba ngày Tết, lỡ mà có nhiều rác thì dồn tạm vào một xó nào đó, chờ hết động thổ (3 ngày), hãy hốt đổ đi, không thì...xui cả năm đấy!
Tết Nguyên Đán là Tết trọng nhất trong năm, Đây là dịp người ta tụ họp lại cùng nhau sau một năm dài lưu lạc. ''Dù ai buôn bán đâu đâu, nhớ 3 ngày tết, rủ nhau mà về''. Tết cũng là dịp ăn uống thả dàn, vui chơi thỏa thích, đánh cờ, đánh bạc, cá ngựa, lôtô, xổ số lấy hên, ai cũng muốn thử tài, thử vận. Nhất là trẻ con, xin qúi vị đừng quên ...lì xì cho chúng, ít cũng được, miễn là có, không thì chúng.. tủi lắm!!!
Những đường vân trên khuông mặt, Quý Tiện đều có và vận mệnh nhiều ngang trái. Hãy xem luận kỹ hơn về tính chất, vị trí và ảnh của các đường vân trên khuôn mặt đến vận mệnh mỗi người. Nếu có vân Pháp lệnh đi vào khóe miệng là điềm báo hung họa.
Phần giữa 2 lông mày có vân hình chữ “tỉnh” nằm ngang sẽ là mệnh phú quý, tương lai có thể làm trung thần trong triều đình.
Vị trí Ngưu giác có đường vân chủ làm quan to trong triều đình. Vị trí giữa 2 lông mày và hai bên trán có đường vân thì khó được phú quý, người này nếu gặp minh quân sẽ thành quan cao. Trên trán có đường vân ngang dọc là người có chí lớn, là quý nhân, có thể được phong thành tướng quân thống soái hàng vạn binh mã.
Vị trí Ngưu giác có đường vân nhỏ thẳng đến chỗ lông mày thường là người phát tài khá muộn, khi còn nhỏ tuy phiêu bạt nhưng đến già có thể hưởng vinh hoa phú quý.
Đường vân trên trán cắt nhau thường là người làm việc hay do dự, cả đời nghèo khổ, là người tuy lương thiện nhưng ít được coi trọng. Bất kể là nam nữ chỉ cần có đường vân Pháp lệnh đi vào khóe miệng chủ có thể vì nghèo đói bần cùng mà khó giữ được tính mạng.
Trên trán có đường vân hình chữ “đại” chủ tai họa ẩn tàng. Các đường vân ở trán rõ nét thì cả đời cao quý, được mọi người hâm mộ. Nếu nữ có hình tướng này thì có thể thành phi tử, nam có hình tướng này thì được phong làm quan lớn. Bên miệng có 2 đường vân dọc là mệnh bần tiện, hiện tại có nhà cửa, ruộng vườn nhưng tương lai sẽ nghèo khổ.
Trên trán có đường vân ngang hình chữ “xuyên” sẽ trường thọ, hai bên trán có đường vân thẳng sẽ phá tài. Dưới quai hàm có đường vân ngang là tướng đoản mệnh, trên cổ có đường vân gọi là hạng thao chủ về trường thọ. Dưới quai hàm không có các đường vân cắt nhau thì cát lợi.
Chỗ nổi cục ở cổ có đường vân là hình tướng đoản mệnh. Trên mặt có đường vân thì trường thọ; mũi nhọn lại có nhiều đường vân trên Chuẩn đầu thì nội tâm hiểm độc. Dưới mắt có đường vân lệch sẽ bị hình phạt, ở cạnh miệng có đường vân rối loạn thì sẽ vì nghèo đói bần cùng mà dẫn đến mất mạng.
Nếu phần giữa xương trán và vị trí phía trên lông mày có đường vân thì gia đình giàu có, nếu phần giữa 2 mắt có đường vân thì thường là người không phải bôn ba lao lực. Chỗ đường lõm xuống dưới mũi và cánh mũi trái có đường vân ngang thì có thể sẽ bị ôn dịch và hỏa hoạn, ở mắt có đường vân xéo sẽ gặp cực hình. Vị trí ngạch giác có có đường vân hình chữ “sơn” sẽ thành quan triều đình. Vị trí cằm nếu có đường vân dọc ngang giao nhau thì gia tài sẽ phá tán. Phần giữa 2 mắt có vân ngắt đoạn nhỏ sẽ nhiều tai nạn.
Phần giữa 2 lông mày có đường vân sợi sẽ không có quan chức. Chuẩn đầu có đường vân sẽ phá hại tổ trạch, khiến con cái bần hàn. Trong bàn tay có đường vân ngang thì không thông minh, phần lõm dưới mũi có các đường vân rối loạn là điềm báo con cháu sẽ gặp nạn.
Long giác và Thiên đình (giữa trán) có đường vân thì sẽ thành quan lớn của châu quận. Người có đường vân quá quai hàm sẽ trường thọ, gần miệng có đường vân ngang dọc thì sẽ sống cảnh nghèo đói, bần cùng. Trên lưỡi có đường vân dọc ngang sẽ phú quý.
Bàn tay có màu đỏ ấm chủ có phúc khí. Vị trí khóe mắt có đường vân rối loạn chủ về người phong lưu đa tình, đường vân đuôi cá khá dài thì khi già sẽ khá phong lưu. 2 mắt có đường vân chữ “tỉnh” là tướng đoản mệnh. Vị trí giữa 2 lông mày có vân huyền châm sẽ khắc vợ. Bộ vị Kim quỹ và Giáp quỹ có đường vân xâm nhập vào chỗ xương gò má sẽ khó có chức quan. Bột đới có đường vân hình dao sẽ có họa sát thân. Bộ vị Dịch mã có đường vân là điềm báo không cát lợi, miệng có nếp nhăn chủ cô độc cả đời.
Ai ai hẳn cũng biết mèo thích ngủ. Chính bản thân mèo cũng biết nhược điểm ấy. Vì thế nó mới bàn trước với chuột.
-Cô chuột này, cô biết đấy, tôi là tôi thích ngủ - Mèo lịch sự bắt đầu.
-Sáng mai, khi nào đến lúc phải lên đường lên thiên cung, cô làm ơn đánh thức tôi dậy.
Chuột đấm tay thùm thụp ngực mà hứa hẹn :
-Em nhất định đánh thức chị rồi ! Chị cứ việc ngủ. không phải bận tâm gì hết !-Cám ơn cô !- Mèo nói, vuốt ria và, không còn băn khoăn gì nữa, ngủ thiếp ngay đi.
Sáng hôm sau, chuột thức dậy lúc tinh mơ mờ đất. Nó cũng chẳng thèm nghĩ tới chuyện đánh thức mèo. Ăn uống xong, một mình nó lên đường đi luôn tới thiên cung. Còn bây giờ ta lại kể về Rồng, vốn sống vùng biển. Rồng cũng nhận được trát triệu lên thiên cung. "Ai cũng không biết, chứ ta thì nhất định được chọn !"
Rồng tâm niệm như thế. Mà cũng phải thôi, bộ dạng của nó thật là hùng dũng, giáp trụ trên người nó cứ lấp la lấp lánh, dưới mũi nó, bộ ria đâm ra tua tủa. Chỉ một điều duy nhất nó thiếu : đó là cái đầu nhẵn thin thín của nó chẳng có cái gì mọc cả.
"Chà! Giá mà ta kiếm được cặp sừng thì khi đó không có con nào có thể so sánh được với ta !" nghĩ bụng vậy, rồng liền tìm xem có thể mượn ai bộ sừng trong độ một tuần lễ. Vừa mới nhô đầu lên khỏi mặt nước, rồng liền nhìn thấy ngay trên bờ là một chú gà trống. Ưỡn ngực lên, chú gà nhà ta bệ vệ đi đi lại lại. Vào thuở ấy gà trống có cặp sừng rõ to. Rồng mừng rỡ bơi ngay vào bờ và lên tiếng nói với gà trống : Bác gà này bác gà, bác làm ơn cho tôi mựơn cặp sừng mai tôi mang nó lên thiên cung. Ái chà chà ! Người anh em rồng ơi ! Gà đáp - Thứ lỗi cho tôi nhé, mai tôi cũng lên thiên cung. Bác gà trống ạ ! Cặp sừng to chẳng hợp với bác tí nào, đầu bác quá là bé, tốt hơn là bác cho tôi mượn. Bác ngẫm nghĩ xem ! Thật là hợp với tôi. Vừa lúc đó tình cờ chú rết ở trong kho bò ra. Mà cái họ nhà chú là chúa thích dính mũi vào chuyện người khác. Nghe thấy rồng nói thế, rết ta liền phụ họa ngay: Bác gà trống ạ! Bác gà trống ạ ! Bác cho ông anh em mượn cặp sừng đi, một lần thôi cũng đựơc. Mà nếu bác sợ gì, thì em xin sẵn sàng bảo đảm. Thế nào bác ? Bác cho ông anh em mượn chứ ?
Gà trống bằng lòng. Bởi vì đã có rết bảo đảm kia mà. Vả lại không có cặp sừng nó cũng bảnh chọe chán. Ngày hôm sau, tất cả muôn loài muông thú đều lục tục kéo tới thiên cung. Muôn loài tụ tập đông không kể xiết. Ngọc hoàng ra ngự triều và phán bảo: Từ nay tên các năm sẽ được gọi theo tên các loài muông thú. Còn năm nào gọi tên con vật nào thì các thần tự lựa chọn lấy. Và thế là muôn loài lựa chọn: trâu, ngựa, cừu. chó, lợn, thỏ, hổ, rồng, rắn, khỉ, gà trống và chuột. Tại sao bấy giờ loài thú chọn những con vật ấy ? Không ai biết ! Tại sao là gà trống chứ không phải vịt bầu ? Hổ chứ không phải là sư tử ? Như vậy là : chúng lựa chọn được 12 con.
Lựa chọn thì đã lựa chọn rồi đấy, nhưng xếp đặt thứ tự ra sao ? Ðến đây thì nổ ra cuộc tranh cãi, giành giật ngôi thứ. Lớn nhất trong các khanh là trâu, để cho nó đứng đầu tiên. Ngọc hoàng phán.
Muôn thú thậm chí hổ cũng thuận theo ngay. Nhưng đến đây thì chuột nhắt lại giơ tay và lên tiếng : Thế không lẽ tôi không to hơn trâu ư ? Vậy thì sao, khi nhìn thấy tôi, mọi người đều thốt lên: "Ái chà chà ! Con chuột to chưa !" ? Nhưng không ai lại thốt lên bao giờ: "Ái chà chà ! con trâu mới to làm sao !", hoá ra là, người ta cho tôi lớn hơn cả trâu ! Ngọc hoàng ngạc nhiên : Nhưng nhà ngươi nói đúng chứ ? Ta không lấy gì làm tin cho lắm ! Lúc này thì khỉ và ngựa cùng đồng thanh lên tiếng rằng, chẳng qua là chuột nói dóc, nhưng chuột làm như không có chuyện gì, lập tức trả lời : Các vị không tin ư ? Thì xin cứ thử xem xem! Gà trống, cừu, thỏ và chó đồng tình. Thôi được, thử xem sao ! - Cả Ngọc hoàng cũng bằng lòng.
Muôn loài thú kéo nhau đến chỗ con ngừơi.
Và ta thử tưởng tượng sự thể diễn ra thế nào ? Mọi chuyện xảy ra đúng như lời chuột nói.
Khi trâu đi đến chỗ mọi người, mọi người đều chỉ khen : "Con trâu đẹp, béo làm sao !" còn chuột ranh mãnh thì lúc đó leo tót lên lưng trâu, nhón đứng lên hai chân sau. Mọi người nhìn thấy nó bèn reo lên :
Ái chà chà con chuột to chữa !
Chính tai Ngọc hoàng nghe thấy điều đó, ngài cau mày và đành phán :
Thôi được ! Một khi con người đã cho rằng, chuột to hơn trâu, thì trâu phải nhường chỗ đứng đầu cho nó, còn bản thân thì phải đứng thứ hai.
Tất cả đều đồng tình như thế, và bắt đầu từ đấy tính năm bắt đầu từ chuột, rồi đến trâu: tý, sửu....
Chuột trở về nhà hớn hở vui sướng, vì hóa ra nó lại đứng đầu các loài thú. Nó kiêu hãnh vênh vang ta đây. Còn mèo ta lúc ấy vừa thức dậy, đang mắt nhắm mắt mở, nhìn thấy chuột bèn hỏi :
Sao cô im lặng thế, cô chuột ? Không phải là hôm nay chúng ta được lên thiên cung ư ?
Chẳng lẽ chị vẫn mơ ngủ đấy ư ? Còn em thì em đã ở thiên cung trở về đây rồi. Muôn loài đã chọn ra 12 con thú để theo đó mà tính năm, trong số đó em đứng đầu bảng ấy !
Mèo ngạc nhiên mở to mắt và hỏi :
Thế tại sao cô không đánh thức tôi dậy ?
Em quên ! - Chuột trả lời thản nhiên như không.
Mèo tức giận, chổng ngược ria lên, cất tiếng quát nạt :- Ðồ giẻ rách ! Vậy mà ta lại tin cậy mi, ngủ thiếp đi, không lo lắng gì! Không phải mi đã hứa đánh thức ta ư ? Ta biết : mi muốn hại ta ! Thôi được, ta phải tính sổ với mi !
Chuột không thừa nhận lỗi của mình mà nói :
Chị làm ầm ĩ uổng công ! Tôi không đánh thức chị - có nghĩa là tôi không muốn đánh thức nữa, đó là việc của tôi. Tôi đâu phải con ở của nhà chị !
Mèo nỗi giận đùng đùng, nó thở dốc ra, nghiến răng nghiến lợi, vồ lấy chuột và cắn nát cổ. Chuột chỉ kịp kêu chí chí, rồi duỗi thẳng cẳng.
Thế là mèo và chuột từ đó trở thành hai kẻ tử thù.
Còn bây giờ ta lại nói đến gà trống. Gà trống trở về buồn thỉu buồn thiu, nó nghĩ bụng : "Ngọc hoàng xếp rồng trước mình chắc hẳn vì trên đầu hắn có cặp sừng của mình". Thế là gà trống quyết định đòi bằng được rồng trả lại cặp sừng. Nó bèn đi đến vùng biển, trên mặt nước rồng đang thích thú tung tăng vui đùa. Bấy giờ gà trống bèn nhã nhặn lên tiếng :
Người anh em rồng ! Anh làm ơn trả lại cho tôi cặp sừng !
A ! ra là bác gà trống đấy ư ? Mà bác cần gì cặp sừng kia chứ ? Nói thực sự ra thì, không mang cặp sừng trông bác còn đẹp hơn ấy. Còn với tôi cặp sừng mang vào thật hợp!
Hợp hay không hợp, không phải là chuyện của tôi - gà trống buồn rầu trả lời - Một khi anh mượn thì hãy trả đi. Rồng không nói năng gì. Nghĩ ngợi một lát, sau đó nó bỗng trịnh trọng kính chào gà trống và nói :
Xin bác đừng cố chấp thế, bác gà ơi ! Muộn rồi, đã đến lúc ta đi nghĩ. Còn chuyện này lần khác chúng ta sẽ bàn nhau thêm.
Gà trống chưa kịp há miệng nói nữa lời, thì rồng đã lặn biến mất. Ðến đây thì gà trống nỗi đoá lên, nó vỗ cánh và hét tướng :
Anh rồng. rồng. rồng ! Trả cặp sừng cho tôi đây.Anh rồng. rồng. rồng ! Trả cặp sừng cho tôi đây !
Nhưng trong lúc đó, rồng đã ngủ kỷ tận dưới đáy biển, chẳng còn nghe thấy gì hết.
Gà trống la hét rất lâu, khản cả tiếng, người mệt lữ. Chẳng còn cách nào khác. Gà đã quyết định đi tìm rết. Bởi vì rết đứng ra bảo đảm cho rồng kia mà.
Gà tìm ngay đến rết trong đống đá, nói lại đầu đuôi cho rết nghe, rồi bảo :
Bà rết, bà đứng ra bảo đảm cho rồng, vậy thì không thể để sự việc như thế này được.
Rết ngửng đầu lên, im lặng và mãi sau mới liếng thoắng :
Anh rồng sẽ trả lại cho bác cặp sừng thôi. Còn nếu không trả : thì đành như vậy ! Tự bác xét lấy mà xem ! Tôi làm sao tìm được bác ấy tận dưới đáy biển kia chứ !
Giận quá gà trống đỏ mặt lên quát :
Thế thì bà là người bảo lãnh quái gì ! Không việc gì phải xộc vào chuyện của người khác. Tôi gặp chuyện bất hạnh, mà bác cứ như không ấy thôi !
Này ông gà trống, ông đừng có bực tôi làm gì cho uổng - Rết bắt đầu chống chế - Tự ông trao cho rồng cặp sừng. Còn tôi chẳng qua nói bảo đảm cho anh ấy thế thôi. Ai mà biết được anh rồng lại không đáng tin cậy như thế ? Nếu biết trước thì tôi chẳng khi nào lại đi bảo đảm cho anh ta.
Bây giờ biết làm sao ?- Nén giận gà trống hỏi.
Thì tôi đã nói rồi. Phải thừa nhận là ông anh không may, nếu như rồng dứt khóat không trả lại ông cặp sừng. Tự ông có lỗi. Trước khi trao, đáng ra phải suy nghĩ kỹ đã.
Theo bà thì tôi, chính tôi có lỗi ư ? - Gà trống trố mắt ra và ưỡn ngực và tiến tới áp đảo rết.
Chính ông có lỗi, chính ông có lỗi, đáng ra ông phải suy nghĩ kỹ đã. - Sống dỡ chết dỡ, rết khẳng định lại.
Gà trống càng đỏ mặt tía tai hơn, nó vươn dài cổ, mổ cho rết một cái vào đầu, rồi lắc lư mấy cái, gà nuốt sống rết vào diều.
Từ đó, ngày ngày gà tìm họ nhà rết trong sân mà mổ. Còn sáng sáng, hửng trời ra là gà trống gáy toáng : "Cúc cù cúc cù ! Anh rồng trả cặp sừng cho tôi".
Lược trích từ sách "12 con giáp"
Xem màu sắc theo Ngũ hành trong phong thủy
Việc lựa chọn màu sắc phù hợp với sở thích, tính cách của bản thân cũng chính là màu sắc phù hợp với nguyên lý Ngũ Hành tương sinh, tương khắc. Đã có từ rất lâu đời và không thể tách rời với con người phương Đông chúng ta đó là Ngũ Hành trong phong thuỷ.
Màu sắc trong phong thuỷ chủ yếu hướng đến việc cân bằng năng lượng Âm và Dương để đạt đến sự hài hoà lý tưởng. Âm là sắc tối yên tĩnh hấp thu màu và Dương là sắc sáng chuyển động phản ánh màu. Do vậy, màu sắc được vận dụng để tăng cường những yếu tố thuận lợi và hạn chế những điều bất lợi từ môi trường tác động vào ngôi nhà.
Theo nguyên lý Ngũ Hành, môi trường gồm 5 yếu tố và mỗi yếu tố đều có những màu sắc đặc trưng. Màu sắc trong ngũ hành của thuật phong thuỷ được áp dụng trong kiến trúc ngày nay.
Tính Tương Sinh Của Ngũ Hành
Tính Tương Khắc Của Ngũ Hành
Tương sinh, tương khắc hài hoà, hợp lý sẽ mang lại sự cân bằng trong phong thuỷ cũng như trong cảm nhận thông thường của chúng ta theo thuật phong thuỷ. Việc lựa chọn màu theo sở thích hay chọn màu theo nguyên lý ngũ hành trong phong thuỷ là hai phương pháp khác nhau nhưng cùng chung một kết quả. Nắm được các quy luật trên kết hợp cùng kiến trúc sư, bạn sẽ có được đúng màu sắc hợp với ngũ hành của mình.
Cây tróc bạc còn gọi là trầu bà trắng, tên khoa học là Syngonium podophyllum, xuất xứ từ Trung và Nam Mỹ, hiện rất phổ biến ở Việt Nam.
Tróc bạc là loại cây thân cỏ, bụi nhỏ, leo bám vào các cây thân gỗ hoặc giá đỡ, có nhiều rễ khí sinh. Lá to bản, đầu nhọn, gốc tim sâu, màu lục bóng và nổi bật các gân màu trắng, cuống dài, gốc có bẹ ôm thân. Cây chịu bóng bán phần hoặc hoàn toàn, thích hợp làm cây trồng nội thất.
Cây tróc bạc |
(Tổng hợp)
No1: Tuổi Tỵ
Với mong muốn tìm được ý chung nhân đích thực như trong những câu chuyện cổ tích lãng mạn, người tuổi Tỵ sẵn sàng hy sinh thể diện để níu giữ trái tim nửa kia. Vì quá si tình, đặt quá nhiều niềm tin vào đối phương, nên khi tình yêu bị rạn nứt, người tuổi Tỵ không thể tin vào sự thật phũ phàng.
Họ tự nhủ với bản thân rằng mọi chuyện sẽ trở về như cũ. Tuy nhiên mọi nỗ lực níu giữ tình cảm đối phương đều vô nghĩa, khi chính họ cũng mơ hồ về tình cảm của mình. Nếu không suy nghĩ lạc quan hơn về chuyện tình yêu đã vụt qua, con giáp này khó có thể tập trung vào công việc, học tập trong quãng thời gian dài.
No2: Tuổi Sửu
Với người tuổi Sửu, việc bị người yêu bỏ là nỗi hổ thẹn không thể chấp nhận được. Đặc biệt, nếu là nữ, "sự cố" ấy trong tình yêu còn tồi tệ hơn gấp trăm nghìn lần. Kết quả là họ sẽ bất chấp tất cả để níu kéo tình yêu, cho dù lòng đã nguội lạnh. Sau này, khi hai người có quay lại với nhau, chuyện “chóng tàn” sẽ lại sớm xảy ra.
Mặt khác, con giáp này cảm thấy mình bị tổn thương quá nghiêm trọng khi đã dành hết tình cảm chân thành cho người ấy, mà bị cự tuyệt. Thậm chí, họ còn thoáng qua ý nghĩ việc quay lại sẽ là cơ hội tốt để "đáp trả". Hãy cho đi những gì xuất phát từ trái tim, và bạn sẽ nhận được trái ngọt. Người tuổi Sửu nên làm như vậy để giảm bớt tính hiếu thắng của mình.
No3: Tuổi Mùi
Hôn nhân, tình yêu không phải là 100% kết quả của tình cảm. Người tuổi Mùi đôi khi còn vướng bận một số toan tính cho cuộc tình của mình. Do đó, việc bị "đá" chẳng khác nào cú đòn đốn gục bao công sức vun đắp hạnh phúc bấy lâu.
Từ luồng suy nghĩ ấy, con giáp này sẽ không ngừng nghỉ để níu giữ tình yêu. Có thể trải qua thử thách chia xa đó, người tuổi Mùi sẽ hiểu ai mới là một nửa đích thực và họ không thể sống nếu thiếu người đó.
Mr.Bull (theo DXYZ)
Giao thừa là gì? Theo từ điển Hán Việt của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này, có lễ trừ tịch.
+ Lễ trừ tịch
Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm mới. Vào lúc này, dân chúng Việt nam theo cổ lệ có làm lễ trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.
+ Cúng ai trong lễ giao thừa
Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới. Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì.
Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
+ Sửa lễ giao thừa
Người ta cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong xóm cũng như tại các tư gia. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm chiếc mũ của Ðại Vương hành khiển.
Ðến giờ phút trừ tịch, chuông trống vang lên, người chủ ra khấu lễ, rồi mọi người kế đó lễ theo, thành tâm cầu xin vị tân vương hành khiển phù hộ độ trì cho một năm nhiều may mắn. Các chùa chiền cũng cúng giao thừa nhưng lễ vật là đồ chay. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì giản tiện hơn, thường đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà.
+ Tại sao cúng Giao thừa ngoài trời
Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật...Trái lại, gặp phải ông lười biếng, kém cỏi, tham lam thì hạ giới chịu mọi thứ khổ.
Các cụ hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được) thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà Trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới.
Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà..
+ Lễ cúng Thổ Công
Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
+ Mấy tục lệ trong đêm trừ tịch
- Sau khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà cho đến nay, từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện.
- Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình và nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.
- Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
- Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là "lấy lộc" của Trời đất Thần Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.
- Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm và bình hương bàn thờ nhà mình.Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm.
- Xông nhà: Thường người ta kén một người "dễ vía" trong gia đình ra đi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và ngưòi này sẽ tự "xông nhà" cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người này đem lại sự may mắn dễ dãi.