Bản dịch tử vi đẩu số toàn thư của Quách Ngọc Bội rất hoàn chỉnh. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo
QNB lược dịch cuốn TVĐSTT (La Hồng Tiên biên soạn), sẽ đi thẳng vào dịch phần nội dung cuốn sách (bắt đầu từ phần 1 – Thái Vi Phú) mà bỏ qua lời giới thiệu của La Hồng Tiên.
Trong cuốn này, có nhiều cách cục và các câu phú đã được bàn luận và chú giải nhiều rồi (đặc biệt phần Thái Vi Phú và Cốt Tủy Phú) nên QNB không dịch và chú giải chi tiết chúng, chỉ những câu có từ ngữ khó hiểu, đa nghĩa thì mới được chú rõ theo cách hiểu của bản thân, độc giả tham khảo và bình luận thêm sau vậy.
————
1. Thái Vi Phú
Đẩu số vô cùng huyền ảo thâm thúy, lý lẽ và ý nghĩa khó mà lường hết được. Tuy rằng có đặt ra các vấn đáp trong mỗi chương, nhưng do ngôn ngữ có giới hạn nên không thể nói hết thành lời được. Ngay như phân dã (địa phận) của các sao, tính chất sở thuộc của chúng, thọ yểu hiền ngu, phú quý bần tiện, đều không thể luận cứng nhắc theo 1 kiểu được đâu.
Sao phân bố trên 12 cung của nó, số định ba mươi sáu vị, nhập miếu là hay mà thất độ (lạc hãm) thì hỏng. Đại để lấy Phúc đức làm gốc của Thân Mệnh, thêm căn nguyên là sự biến đổi cùng-thông của sự thiên bẩm.
Sao có thể cùng chỗ, nhưng số có sự phân định (khác biệt), nên hiểu sinh khắc của chúng là trọng yếu, tất sẽ tỏ tường sự phân biệt miếu đắc hay thất hãm ở cung viên.
Xem triền xá (nơi cư ngụ của sao trên vòng xoay) của Tử Vi, tượng chủ mỗi một ngày, thống suất chư tinh liệt tú mà tạo thành tinh viên, thổ tinh tạo ra thành quách cung viên có thể di động, kim tinh chuyên ti tài khó rất sợ không vong.
Đế tinh động thì liệt tú ắt sẽ xáo động gấp rút, Tham thủ Không thì tài nguyên chẳng thể tụ được.
Chức vụ của các ti (có sự phân biệt), không thể can dự (chồng chéo) vào được.
Tự răn mình (tạm) ko xét xét đến Cơ, (tạm) quên đi Biến, để biết số của tạo hóa vậy.
Quy ước rằng:
Lộc phùng xung phá, cát xứ tàng hung.
(Lộc gặp Sát Phá xung chiếu thì như ở chỗ cát mà có tàng ẩn cái hung).
Mã ngộ Không Vong, chung thân bôn tẩu.
(Mã gặp Không Vong thì suốt đời bôn ba vất vả).
Sinh phùng bại địa, phát dã hư hoa.
(Mệnh cư chỗ bại địa là như hoa sớm nở chiều tàn).
Tuyệt xứ phùng sinh, sinh hoa bất bại.
(Mệnh ở chỗ tuyệt địa nhưng được tương sinh thì không thể suy tàn sớm được).
Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.
(Sao đã lâm vào nơi miếu vượng, lại xét xem then chốt của sinh khắc)
Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.
(Mệnh đóng vào cường cung, cần quan sát kỹ cái lý chế hóa)
Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối, Lộc Mã tối hỉ giao trì.
(Nhật Nguyệt rất ghét lạc hãm, Lộc Mã rất mừng giao kết với nhau)
Thảng cư Không Vong, đắc thất tối vi yếu khẩn.
(Giả sử cư Không Vong thì đắc hãm lại rất quan trọng).
Nhược phùng bại địa, phù trì đại hữu kì công.
(nếu gặp bại địa thì các yếu tố trợ giúp sẽ có vai trò vô cùng quan trọng).
Tử Vi Thiên Phủ toàn ỷ Phụ Bật chi công,
(Tử Phủ muốn thành công phải hoàn toàn nhờ vào trợ giúp của phù tá tinh Tả Phụ, Hữu Bật)
Thất Sát Phá Quân chuyên ỷ Dương Linh chi ngược.
(Sát Phá thường nương theo Kình (đà) Linh (hỏa) mà làm điều mãnh liệt, hung tàn).
Chư tinh cát, phùng hung dã cát.
(Các sao tốt lành mà gặp hung thì mất tốt lành)
Chư tinh hung, phùng hung dã hung.
(Các sao hung mà gặp Hung thì mất tính hung??? QNB chú: dịch nguyên văn, chứ theo tôi thì câu này có sự thất bản, viết nhầm chữ Cát với Hung, vì lý vài sao Hung mà gặp nhiều Cát tinh hóa giải thì mới mất đi tính hung của chúng được).
Phụ Bật giáp Đế vi thượng phẩm,
Đào Hoa phạm chủ vi chí dâm.
Quân thần khánh hội, tài thiện kinh bang (= tài giỏi kinh bang tế thế).
Khôi Việt đồng hành, vị cư thai phụ (= vị trí quan tước cỡ Tam Công).
Lộc Văn củng mệnh, quý nhi thả hiền (= vừa sang quý vừa hiền đức).
Nhật Nguyệt giáp tài, bất quyền tắc phú (= chẳng quyền cao thì cũng giàu to).
Mã đầu đới kiếm, trấn vệ biên cương (= trấn giữ, bản vệ biên cương).
Hình Tù giáp Ấn, hình trượng duy ti (= chủ quản ti hành pháp, xử phạt đòn roi).
Thiện Ấm triều cương, nhân từ chi trường (=người nhân từ).
Quý nhập quý hương, phùng chi phú quý (= được hưởng phú quý).
Tài cư tài vị, ngộ giả phú xa (= giàu có xa hoa).
Thái Dương cư Ngọ, vị chi Nhật lệ trung thiên, hữu chuyên quyền chi quý, địch quốc chi phú.
(= Mặt trời sáng giữa bầu trời, người quyền quý cực cao, giàu có nhất nhì trong 1 nước).
Thái Âm cư Tý, hào viết Thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián chi tài.
(= Nước trong soi bóng cành quế, giữ chức vụ quan trọng, có tài can gián vua).
Tử Vi Phụ Bật đồng cung, nhất hô bách nặc, cư thượng phẩm.
(= hô 1 tiếng có trăm người dạ ran, cư quan cao thượng phẩm).
Văn Hao cư Dần Mão, vị chi chúng thủy triều đông.
(= Khúc Xương + Phá ở Dần Mão được coi là nước đổ ra bể đông, nghèo).
Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu hợp,
(đối với cả 2 sao Nhật Nguyệt thì chiếu hợp giáp đẹp hơn khi chúng đồng cung tọa thủ).
Ấm Phúc tụ bất phạ hung nguy.
(Lương Đồng gặp thêm các cát tinh thì không sợ hung nguy).
Tham cư Hợi Tý, danh vi “phiếm thủy đào hoa”.
(Tham Lang – tức chánh Đào Hoa tinh – hãm ở các cung hành thủy gọi là “Đào hoa lênh đênh trên sóng nước”).
Hình ngộ Tham Lang, hiệu viết “phong lưu thái trượng”.
(Hình gặp Tham thì gọi theo biệt hiệu là “khoe mẽ phong lưu” – cách này dễ ăn đòn)
Thất Sát Liêm trinh đồng vị, lộ thượng mai thi (= dễ chôn thây ở trên đường).
Phá Quân ám diệu đồng hương, thủy trung tác trủng.
(Phá Kị đồng cung – có thêm Xương Khúc – thì dễ chết chìm, táng mạng dưới nước)
Lộc cư Nô Bộc túng hữu quan dã bôn trì,
(Tuy làm quan nhưng vẫn vất vả hoặc làm công việc có tính chất chạy đôn đáo ngược xuôi),
Đế ngộ hung đồ tuy hoạch cát nhi vô đạo.
(Tử Vi gặp Kiếp Không, sát tinh, thì tuy vẫn có phần thành công nhưng là kẻ vô đạo)
Đế tọa kim xa, tắc viết kim dư phù giá,
(Tử Vi cư Ngọ có Tả Hữu chầu + cát tinh là cách vua ngồi xe vàng, thần phù tá xa giá)
Phúc an văn diệu, vị chi ngọc tụ thiên hương.
(Phúc cung an Khôi Việt Xương Khúc là coi như ngọc sáng, truyền đời nắm quyền cao).
Thái Dương hội Văn Xương vu Quan Lộc, hoàng điện triều ban, phú quý toàn mỹ.
(Nhật + Văn Xương ở Quan Lộc cung thì làm quan to trong triều, vừa phú vừa quý).
Thái Âm hội Văn Khúc vu Thê cung, thiềm cung chiết quế, văn chương toàn thịnh.
(Thái Âm + Văn Khúc ở cung Thê thì lấy con gái nhà danh gia, có tài văn chương, thi cử đỗ đạt).
Lộc Tồn thủ vu Điền Tài, đôi kim tích ngọc (= giàu có vô cùng).
Tài Ấm tạo vu Thiên Di, cự thương cao cổ (= đi buôn phát tài lớn).
Hao cư Lộc vị, duyên đồ khất thực.
(Phá Quân hoặc Đại Tiểu Hao -hãm- cùng vị trí với Lộc là số ăn mày).
Tham hội vượng cung, chung thân thử thiết.
(Tham cư Tý Ngọ Mão Dậu, lại trúng chỗ vượng của tam hợp tuổi là số trộm cắp).
Sát cư Tuyệt địa, thiên niên yểu tự Nhan Hồi.
(Sát Tuyệt đồng cung, ngàn năm bạc mệnh, yểu như Nhan Hồi)
Tham tọa Sinh hương, thọ khảo vĩnh như Bành Tổ.
(Tham Tràng Sinh đồng cung thọ như Bành Tổ).
Kỵ ám đồng cư Thân Mệnh Tật Ách, trầm khốn uông doanh,
(Cự Kị cùng cư Mệnh Thân Tật thì mê muội, nghèo khổ, yếu ớt càng nhiều),
Hung tinh hội vu Phụ Mẫu Thiên Di, hình thương phá tổ.
(Hung tinh hội vào Phụ Mẫu, Thiên Di thì hình khắc, dễ bị phạt, bị thương, phá tán tổ nghiệp).
Hình Sát đồng Liêm Trinh vu Quan Lộc, gia nữu nan đào,
(Hình Sát và Liêm Trinh hội ở Quan Lộc thì gông xiềng bắt bớ là khó tránh)
Quan Phù gia Hình Sát vu Thiên Di, ly hương tảo phối.
(Quan Phù và Hình Sát ở Thiên Di thì đi xa kết duyên chồng/vợ).
Thiện Phúc cư Không vị, Thiên Trúc sinh nhai.
(Thiên Cơ Thiên Đồng đóng vào chỗ Không Vong thì dễ đi tu)
Phụ Bật đơn thủ Mệnh cung, ly tông thứ xuất.
(Phụ or Bật độc thủ ở mệnh là rời bỏ quê quán tổ tông, nếu là chi thứ trong Họ mà ko phải dòng trưởng thì thậm chí còn có thể đổi họ).
Thất Sát lâm vu Thân Mệnh gia ác sát, tất định tử vong.
(Thất Sát + hung sát tinh nơi Thân Mệnh là số chết yểu).
Linh Dương hợp vu Mệnh cung ngộ Bạch Hổ, tu đương hình lục.
(Linh (hỏa) Kình (đà) hội hợp ở Mệnh gặp Bạch Hổ là phải chịu lăng nhục, hình phạt, tra tấn).
Quan Phủ phát vu cát diệu,
(Quan Phủ mà thấy các Cát tinh thì hay)
Lưu Sát phạ phùng Phá Quân.
(Lưu niên sát tinh e ngại gặp Phá Quân vì dễ tai họa ập đến.
QNB chú: có người cho rằng “Lưu Sát” = Lưu Hà + Kiếp Sát thì mới đúng, ngẫm cũng có hợp cái lý về tai họa, nhưng theo mạch văn và lối dùng từ trong toàn bộ cuốn sách này thì “lưu sát” là ám chỉ những sát tinh theo lưu niên hạn như Kình, Đà).
Dương Đà bằng Thái Tuế dĩ dẫn hành, Bệnh Phù Quan Phù giai tác họa.
(Kình Đà nhờ vào Thái Tuế mà dẫn động lưu hành, Bệnh Phù và Quan Phù đều là tác nhân gây họa).
Tấu Thư Bác Sĩ dữ lưu Lộc, tận tác cát tường.
(Tấu Thư Bác Sĩ cùng Lưu Lộc Tồn đều tạo ra sự hết sức tốt lành).
Lực Sĩ Tướng Quân đồng Thanh Long, hiển kỳ quyền thế.
(Lực Sĩ, Tướng Quân và Thanh Long là hiển lộ về sự quyền lực, quyền thế).
Đồng tử hạn như thủy thượng phao ẩu,
Lão nhân hạn tự phong trung nhiên chúc,
Ngộ sát vô chế nãi lưu niên tối kị.
(Hạn của trẻ nít như là bọt bèo trên mặt nước
Hạn người già tựa đốm lửa giữa gió lộng
Lưu niên hạn gặp phải sát tinh mà không có cát tinh chế giải thì dễ mất mạng).
Nhân sinh vinh nhục hạn nguyên tất hữu hưu cữu,
Xử thế cô bần số trung phùng hồ bác tạp,
Học chí thử thành huyền vi hĩ.
(Hạn vinh nhục của đời người, nguyên trong lúc tốt cũng có 1 vài khi xấu và ngược lại,
Vị thế cô bần của người ta trong xã hội cũng bởi số mệnh toàn tạp mà không thành cách,
Học giả nắm được bấy nhiêu cũng gọi là nắm được lẽ huyền vi rồi).
2. Hình tính phú:
Nguyên phu tử vi đế tọa, sinh vi hậu trọng chi dung.
Thiên phủ tôn tinh, dã tác thuần hòa chi thể.
(Tử Vi nam mệnh thủ trung
Uy nghi phúc hậu hình dung an nhàn
Thiên Phủ tôn quý tinh bàn
Hành vi hòa nhã khoan khoan nhịp chèo)
Kim Ô phì mãn, Ngọc Thố thanh kỳ
(Thái Dương hơi mập tiếp theo
Thái Âm thanh tú trăng treo đêm rằm
Thiên Cơ vi bất trường bất đoản chi tư, tình hoài hảo thiện.
(Thiên Cơ bẩm tính thiện căn
Dáng hình dong dỏng nét văn nhân tài)
Vũ Khúc nãi chí yếu chí khẩn chi thao, tâm tính quả quyết.
(Vũ Khúc nhanh nhẹn chẳng sai
Tâm tính quả quyết, có tài lược thao)
Thiên Đồng phì mãn, mục tú thanh kỳ.
(Thiên Đồng phì mãn không cao
Mắt thời rất đẹp trông vào trong veo)
Liêm Trinh mi khoan khẩu khoát diện hoành, vi nhân tính bạo hảo phẫn hảo tranh.
(Liêm Trinh tính tựa cọp beo
Mày rộng miệng lớn thích theo công bình)
Tham Lang vi thiện ác chi tinh, nhập miếu tất ứng trường tủng, xuất viên tất định ngoan hiêu
(Tham Lang thiện ác chi tinh
Nhập miếu cao lớn thân hình nở nang
Nếu mà lạc hãm gian ngoan
Ngạo mạn phóng túng tham lam ai bằng).
Cự Môn nãi thị phi chi diệu, tại miếu đôn hậu ôn lương.
(Cự Môn là chúa thị phi
Nhập miếu đôn hậu cùng vì thiện lương).
Thiên Tướng tinh thần, Thiên Lương ổn trọng, tâm sự ngọc khiết băng thanh.
(Tinh thần ổn trọng Tướng, Lương
Băng thanh ngọc khiết tâm thường thanh cao)
Thất Sát như Tử Lộ bạo hổ phùng hà,
Hỏa Linh tự Dự Nhượng thôn thán trang ách.
Bạo hổ phùng hà hề mục thái hung ngoan,
Thôn thán trang ách hề ám lang thanh trầm.
(Thất Sát uy mãnh làm sao
Hổ dữ thét gào khi gặp khúc sông
Lấy tướng Tử Lộ mà trông
Mắt to, thần dữ chứ không hiền hòa
Hỏa Linh như quỷ dạ xoa
Dự Nhượng rạch mặt thù nhà chẳng quên
Thâm trầm tựa sói trong đêm
Nóng mà chẳng vội chí bền sức dai).
Tuấn nhã Văn Xương mi thanh mục tú,
Lỗi lạc Văn Khúc khẩu thiệt tiện nịnh,
Tại miếu định sinh dị chí,
Thất hãm tất hữu ban ngân.
(Văn Xương tuấn nhã mi thanh
Thông minh mắt sáng lại lanh lợi nhiều
Văn Khúc khéo nói khéo chiều
Quang minh nhưng dễ mang điều thị phi
Nhập miếu dị chí có khi
Lạc hãm có sẹo, da thì lổ loang).
Tả Phụ Hữu Bật ôn lương quy mô, đoan trang cao sĩ.
(Tả Hữu lương thiện đường hoàng
Tựa nguời chí sĩ nghiêm trang dáng hình).
Thiên Khôi Thiên Việt cụ túc, trọng hợp Tam Thai thập toàn mô phạm.
(Khôi Việt phong thái uy nghi
Gặp Tam Thai ấy, tức thì phép khuôn).
Kình Dương Đà La, hình xú mạo thô, hữu kiểu trá thể thái.
(Kình Đà hình xấu nét thô
Thế nhưng thường giả bộ làm mẽ cơ)
Phá Quân bất nhân, bối trọng mi khoan, hành tọa yêu tà gian trá hảo hành kinh hiểm.
(Phá Quân bạo bẽo ơ hờ
Mày rộng lưng dày, ngồi đứng giảo gian)
Tính mạo như xuân hòa ái, nãi thị Lộc Tồn chi tình đức.
(Lộc Tồn hòa ái nhẹ nhàng
Hình tươi dung đẹp xuân tràn khắp thân)
Tình hoài tự hỏa phong xung, thử thành Phá Hao chi uy quyền.
(Ham chơi tính cấp thập phần
Song Hao hội với Phá Quân uy quyền).
Tinh luận miếu vượng tối phạ không vong,
Sát lạc không vong cánh vô uy lực.
(Luận các sao, đã miếu vượng thì rất sợ gặp phải Không Vong,
Sát tinh mà gặp Không Vong thì cũng hoàn toàn chẳng có uy lực).
Quyền Lộc nãi cửu khiếu chi kỳ,
Hao tích tán bình sinh chi phúc.
(Chính Quyền Lộc khiến cho cửu khiếu -mắt, mũi, miệng, tai…- có nét đặc biệt,
Song Hao khiến cho bị tán mất cái phúc cái may vốn có).
Lộc phùng Lương Ấm bão tư tài ích dữ tha nhân,
Hao ngộ Tham Lang tuy dâm tình ư tỉnh để.
(Thiên Lương gặp Lộc là người ôm tài sản của mình đem đi làm từ thiện
Tham Lang (hãm) gặp Song Hao là kẻ có tính tình dâm đãng sâu xa).
Tham tinh nhập vu Mã viên dị thiện dị ác,
Ác diệu phù đồng Thiện diệu bẩm tính bất thường.
(Tham Lang đóng ở đất tứ Mã thì tính dễ thiện cũng dễ biến thành ác,
Ác sát tinh đồng cung với thiện tinh thì tính khí cũng thất thường).
Tài cư Không Vong ba tam lãm tứ,
Văn Khúc vượng cung văn nhất tri thập.
Ám hợp Liêm Trinh vi tham lạm chi tào lại.
(Tài tinh, tài cung ở chỗ Không Vong thì muốn 3 phải làm phải đọc 4, ý nói vất vả kém thông minh,
Văn Xương Văn Khúc ở chỗ vượng thì học 1 biết 10, ý nói thông minh.
Ám tinh mà hội hợp Liêm Trinh thì là lũ viên chức, quan lại tham nhũng).
Thân Mệnh ti số thực gian đạo chi kỹ nhi, trư đồ chi lưu.
Thiện Lộc định thị kỳ cao chi nghệ tế xảo, linh lợi chi nhân.
(Thân Mệnh mà gặp cách làm nghề gian đạo, phường đồ tể,
Có thêm Thiện tinh Lộc tinh thì đoán định là kẻ lanh lợi, tinh thông, cao tay, giỏi nghề).
Nam cư Sinh Vượng tối yếu đắc địa,
Nữ cư Tử Tuyệt chuyên khán Phúc Đức.
(Nam nhân mệnh ở chỗ Sinh Vượng thì phải xem có đắc địa không,
Nữ nhân mệnh ở chỗ Tử Tuyệt thì phải xem trọng cung Phúc Đức).
Mệnh tối hiềm lập vu bại địa,
Tài nguyên khước phạ phùng Không Vong.
(Mệnh rất kị an ở chỗ bại địa,
Tài tinh tài cung thì ghét gặp phải Không Vong).
Cơ Hình Sát Ấm Cô tinh luận tự tục chi cung, gia ác tinh Kị Hao bất vi kỳ đặc.
(Cơ Hình Sát Lương Cô Quả hội hợp khi luận cung Tử Tức, có thêm ác sát tinh với Kị Hao nữa thì chả có gì đáng kể. QNB chú: có lẽ ý muốn nói là tuyệt tự, ko có con cái).
Đà Hao Tù chi tinh thủ Phụ Mẫu chi triền, quyết nhiên phá tổ hình thương.
(Đà La + Hao + Liêm Trinh thủ cung Phụ Mẫu thì quyết đoán là khắc cha mẹ, phá tổ nghiệp, bị hình thương)
Kiêm chi đồng cách nghi tương, căn cơ yếu sát.
(Cộng thêm với xem cách cục và hạn của trẻ con sao cho thích hợp và chặt chẽ).
Tử Vi phì mãn, Thiên Phủ tinh thần.
Lộc Tồn lộc chủ dã ứng hậu trọng.
(Tử Vi béo tốt, Thiên Phủ lanh lợi.
Với cả Lộc Tồn cùng là phúc hậu cẩn thận, giàu có)
Nhật Nguyệt Khúc Tướng Đồng Lương Cơ Xương giai vi mỹ tuấn chi tư,
Nãi thị thanh kỳ chi cách, thượng trường hạ đoản mục tú mi thanh.
(Nhật, Nguyệt, Vũ Khúc, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Văn Xương đều có dung nhan đẹp đẽ, tuấn nhã, là cách “thanh kỳ”, thượng trường hạ đoản, mày thanh mắt sáng – QNB chú: khi chúng đắc miếu thì đều được liệt vào các tướng tốt, thanh nhã cao quý theo Nhân Tướng học).
Tham Lang đồng Vũ Khúc hình tiểu thanh cao nhi lượng đại,
Thiên Đồng như Đà Kị phì mãn nhi mục mục tiểu.
(Tham Lang với Vũ Khúc thì dáng hình nhỏ, thanh cao, bao dung,
Thiên Đồng cũng như Đà La, Hóa Kị thì phì mãn và mắt bé).
Kình Dương thân thể tao thương,
Nhược ngộ Hỏa Linh Cự ám tất sinh dị chí.
Hựu trị Hao Sát định chủ hình xú mạo thô.
(Kình Dương thì thân thể dễ có thương tích, nếu gặp cả Hỏa Linh Cự Kị thì tất sẽ có chí hướng quái lạ.
Lại gặp thêm Hao Sát tinh nữa thì nhất định dáng hình xấu xí, diện mạo thô kệch).
Nhược cư Tử Tuyệt chi hạn,
Đồng tử nhũ bộ đồ lao kỳ lực,
Lão giả diệc nhiên thọ chung.
(Nếu ở hạn của Tử, Tuyệt
Thì trẻ nít dễ phải bú ngoài, rất khó nhọc,
Và thọ mạng của người già cũng đáng lo như vậy).
Đó là cương lĩnh bên trong của Số,
Là then chốt tinh vi quan trọng.
Phải nghiền ngẫm chi thấu đáo,
Mà tham thấu cái lẽ huyền diệu.
3. Tinh Viên luận
Tử Vi là Đế tinh, lấy Phụ Bật làm trợ lý (tá nhị) phù tá, làm chủ đứng đầu chư tinh, đó chính là mạch nguồn của vận động trong Số. Là linh hồn của vạn vật, quản cả Nam Bắc đẩu tinh mà thành Số.
Đại để thì khi Thủy được khai thông thì âm dương Ký Tế, thủy mà thịnh thì dương bị tổn thương, hỏa mà thịnh thì âm bị diệt, hai đối tượng ấy quyết không thể thiếu hay thiên lệch hẳn đi được. Cho nên biết để đạt được cân bằng thì mới là tốt đẹp.
Dần là cung của Mộc, là thời điểm tam dương giao Thái, chỗ của thảo mộc bắt đầu manh nha. Cho tới Mão vị, thì Mộc của chúng rất vượng vậy. Tham Lang, Thiên Cơ được đắc miếu ở đây là vì thế, Thiên Tướng thuộc Thủy đến Dần lại vượng tướng, Cự Môn thuộc Thủy đến Dần được sơ thông, Mộc được Thổ vun trồng, lại được thêm Thủy tới để tưới tắm, tam phương mà được thêm Phá Quân thủy Văn Khúc thủy tương hội là đẹp tuyệt, nếu mà có thêm Lộc Tồn là tuyệt mỹ hoàn hảo.
Cự Môn thủy tới Sửu, Thiên Lương thổ tới Mùi, Đà La kim tới tứ mộ cung, nếu như chúng được gặp Kình Dương kim, bởi Thổ là mộ khố của Kim, thời Kim được hanh thông, lại thêm Thiên Phủ thổ Thiên Đồng thủy mà tương sinh cho nhau, đó là kim sấn thổ phì, thuận cái đức của chúng (thuận kỳ đức) mà Sinh, Thành.
Ngọ là chỗ của Hỏa, Tị là chỗ Tuyệt địa của Thủy và Thổ, thêm Hỏa của cung Ngọ nóng quá mà khiến dư khí truyền sang Tỵ, thì Thủy đảo luồng vận hành, Hỏa khí nghịch thì nó mãnh liệt, nhất định sẽ quy về Tị. Ngọ thuộc Hỏa đức, có thể sinh cho chỗ Tuyệt của Thổ, đó là lý do mà Liêm Trinh hỏa cư ở chỗ này. Đến chỗ Ngọ hỏa, vượng chiếu ly minh mà thấu đáo thông suốt trong ngoài (biểu lý), mà Văn Khúc thủy nhập miếu. Nếu hội Tử, Phủ thời Khôi tinh củng đẩu, thêm Thiên Cơ mộc, Tham Lang mộc, vậy là biến cảnh, càng thêm đặc biệt.
Thân Dậu là khí của Tây phương thái bạch, Vũ Khúc cư Thân là hảo sinh, Kình Dương tại Dậu thì thường dụng tính sát, thêm Cự Môn, Lộc Tồn, Đà La là thêm tính cấp – gấp gáp nóng vội, nếu được vận hành nghịch gặp thiện hóa để cảm hóa cái ác đi thì thực là tuyệt vời.
Hợi thuộc Thủy là đất của Văn Khúc, Phá Quân, là kẻ sĩ kẻ học trò văn minh thanh cao, là nguồn gốc liêm khiết của muôn vàn chi phái, như mạch đất của sông lớn chẳng bao giờ vơi cạn. Cư chốn Hợi vị tướng nhập thiên hà, đúng là vi diệu. Phá Quân thủy ở Tý là chỗ vượng của Thủy, nên như sóng to của biển lớn cuồn cuộn lên, thích hợp với việc trông coi ở ngoài xa mà không phù hợp với việc để kề cận bên mình, chỗ của Phá Quân đúng là ở đó, nếu cư tứ mộ là khắc, thổ choán hết chỗ của thủy nên nước tràn lan khắp chốn, nhất định cần được Vũ Khúc kim làm cho nguyên khí của nó không bị tuyệt mới là vi diệu.
Ngoài ra, chư tinh còn theo Thân Mệnh đưa đẩy, không thực nghiệm thì không thể đến với được cái huyền cái vi của chúng.
4. Đẩu số chuẩn thằng phú (Bài phú mực thước của môn Đẩu Số)
Mệnh cư Sinh Vượng định phú quý, các hữu sở nghi.
Thân tọa Không Vong luận vinh khô, chuyên cầu kỳ yếu.
(Mệnh ở chỗ Sinh Vượng định là phú quý, đương nhiên phù hợp.
Thân tọa chỗ Không Vong luận là thăng trầm, đúng vậy luôn).
Tử Vi đế tọa tại Nam cực bất năng thi công,
Thiên Phủ lệnh tinh tại Nam địa chuyên năng vi phúc.
(Các sao phải ở đúng vị trí của nó, mới là đắc miếu, thế mới tốt, chứ ở sai chỗ là thất hãm thì dẫu có là đế tinh thì chả làm được cái trò trống gì.
QNB chú: Câu này là sử dụng phép ẩn dụ, không thể hiểu theo nghĩa đen được).
Thiên Cơ Thất Sát đồng cung dã thiện tam phân,
Thái Âm Hỏa Linh đồng vị phản thành thập ác.
(Các thiện tinh đồng cung với ác sát hung tinh thì mất đi tính thiện. Cũng như các sao có tính nhu mì mà gặp các sát hung tinh thì cũng trở nên ác độc.
QNB chú: Câu này là sử dụng phép ẩn dụ, không thể hiểu theo nghĩa đen được).
Tham Lang vi thiện tú nhập miếu bất hung,
Cự Môn vi ác diệu đắc viên vưu mỹ.
(Tham Lang vốn là hung tinh chủ thiện ác, khi nhập miếu chắc chắn lương thiện,
Cự Môn vốn là ám tinh chủ ám muội thị phi, khi đắc miếu cũng nhất định tốt đẹp).
Chư hung tại khẩn yếu chi hương tối nghi chế khắc,
Nhược tại Thân Mệnh chi vị khước thụ cô đơn.
(Các hung sát tinh ở vào cung quan trọng thì rất cần được khắc chế,
Nếu ở ngay chỗ Thân Mệnh thì lại cô đơn, tịch mịch).
Nhược kiến sát tinh đáo hạn tối hung,
Phúc Ấm lâm chi thứ ki khả giải.
(Nếu thấy sát tinh tới trong hạn thì rất hung hiểm,
Nhưng có Phúc Ấm Cát tinh lâm vào thì có thể giải được).
Đại để tại nhân chi cơ biến, cánh gia tác ý chi thôi tường.
(Đại để là ở cái cơ biến ứng xử của con người, thêm vào dự tính ý nghĩa để mà tỏ tường).
Biện sinh khắc chế hóa dĩ định cùng thông,
Khán hảo ác chính thiên dĩ ngôn họa phúc.
(Biện luận về sinh khắc chế hóa mà xác định cái lẽ cùng biến tắc thông,
Xem tốt xấu ngay thẳng chính trực để mà nói về họa phúc).
Quan tinh cư vu Phúc địa cận quý vinh tài,
Phúc tinh cư vu Quan cung khước thành vô dụng.
(Các sao chủ quan lộc quyền chức mà ở cung Phúc thì gần người quyền quý mà giàu có,
Thế nhưng các sao chủ phúc mà ở vào cung Quan thì lại chả có tác dụng khỉ gì cả).
Thân mệnh đắc tinh vi yếu, hạn độ ngộ cát vi vinh.
(Thân mệnh có sao đắc cách là quan trọng, đến hạn gặp cát tinh là được vinh hiển).
Nhược ngôn Tử Tức hữu vô, chuyên tại Kình Dương Hao Sát.
Phùng chi tắc hại thê thiếp diệc nhiên.
(Nếu nói về con cái là có hay không, chủ yếu tại vì Kình Dương, Hao, Sát tinh ở cung Tử Tức. Gặp chúng ở cung Thê thì cũng coi như là hại vợ khắc thiếp mà thôi).
Tướng mạo phùng hung tất đới phá tướng,
Tật ách phùng Kị định hữu uông doanh.
(Tướng mạo -tức phụ mẫu cung- gặp hung sát tinh thì kiểu gì cũng có phá tướng,
Tật Ách cung mà gặp Hóa Kị thì nhất định có bệnh hoặc tật như chân khuềnh, lưng gù).
Tu ngôn định số dĩ cầu huyền,
Canh tại đồng niên chi tương hợp,
Tổng vi cương lĩnh dung tác chuẩn thằng.
(Những lời định số để hòng biết cái huyền bí,
Thêm việc tương hợp theo năm nữa,
Tất cả là cương lĩnh để dụng như mực thước).
5. Đẩu số phát vi luận:
Sự khai mở về cách luận của Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh.
Xem thấy Đẩu Số với môn Ngũ Tinh có điểm không giống nhau,
từ đây ta thấy về tinh thần cơ bản nó khác nhiều với các thuật khác.
Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý,
Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp;
Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát,
cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh.
Cát tinh nhập mệnh viên (miếu đắc) thì sẽ được cát lợi,
hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung.
Mệnh gặp Tử Vi thì vừa thọ vừa vinh hoa;
Thân gặp sát tinh thì không những bần mà còn tiện.
Tả Hữu hội cùng Tử Phủ thì tôn quý đến cực phẩm,
Khoa Quyền hãm ở chỗ hung thì công danh lận đận.
Hành hạn nếu gặp nơi nhược địa thì chưa hẳn đã gặp tai họa,
lập mệnh ở chỗ cường cung, nhất định sẽ bớt tham lam, ương bướng, ngu dốt.
Vận hạn chớ có gặp Kình Đà Thất Sát, gặp thì tất sẽ bị hình thương,
Lưu niên chớ có gặp Thiên Khốc Tang Môn, gặp thì phải đề phòng vật chất trong nhà bị phá tán.
Nam Đẩu chủ hạn tất sẽ sinh con trai,
Bắc Đẩu lâm hạn thì sẽ sinh con gái.
Khoa tinh cư hãm địa, thì vất vả chăm chỉ đèn sách sớm khuya,
Xương Khúc ở chỗ nhược thì ẩn mình lãnh đạm nơi rừng núi.
Tử Vi gặp Phá Quân thì suốt ngày bày kế hiểm mưu gian,
Hồng Loan gặp (lầm) phải Tham Lang thì hành vi dâm dật.
Mệnh với Thân mà tương khắc thì tâm loạn nên chẳng được nhàn,
Tam cung mà huyền ảo thì tất sẽ tà dâm cùng ham rượu.
Sát tinh lâm vào tam vị, chắc chắc bất hòa với vợ con,
Cự Môn đến nhị cung, thì anh em vô tình vô nghĩa.
Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già;
Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường.
Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ,
Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường (đời) phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ.
Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,
ác tinh ứng vào Mệnh cung thì nô bộc có sự tương trợ.
Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý,
Điền Trạch gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được.
Phúc Đức gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang vô định,
Tướng Mạo mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được.
Học giả đời sau theo đây mà suy cho rõ, đảm bảo không sai.
6. Tu bổ hiệu đính về đẩu số
Chư tinh cát đa phùng hung dã cát,
Chư tinh ác đa phùng cát dã hung.
(Nhiều cát tinh mà gặp ác tinh thì mất đi tính tốt đẹp,
Nhiều hung ác tinh mà gặp cát tinh thì mất đi tính hung).
Tinh canh triền độ,
số phân định cục.
(Sao thay đổi tính chất theo vị trí cung nó qua trên quỹ đạo của nó,
Số thì được phân định tùy theo cục).
Trọng tại khán tinh đắc viên thụ chế,
phương khả luận nhân họa phúc cùng thông.
(Quan trọng là xem sao miếu đắc, gặp chế hóa thế nào,
mới có thể luận về cái cùng hay thông về họa phúc của người ta được).
Đại khái dĩ thân mệnh vi họa phúc chi bính,
dĩ căn nguyên vi cùng thông chi cơ.
(Đại khái thì Thân Mệnh là chuôi cán của họa phúc,
mà căn nguyên là then chốt của cái sự cùng – thông).
Tử Vi tại mệnh Phụ Bật đồng viên, kỳ quý tất hĩ,
Tài Ấn giáp Mệnh Nhật Nguyệt giáp Tài, kỳ phú hà nghi.
(Tử Vi đồng cung với Phụ Bật ở mệnh thì tất nhiên sang quý đặc biệt,
“Tài Ấn giáp Mệnh”, “Nhật Nguyệt giáp tài” thì giàu có là chẳng phải nghi ngờ nữa).
Ấm Phúc lâm bất phạ hung xung,
Nhật Nguyệt hội bất như hợp chiếu.
(Ấm tinh Phúc tinh tọa thủ thì không sợ hung tinh xung chiếu,
Nhật Nguyệt đồng cung thì không đẹp như là chúng hợp chiếu).
Tham lang cư Tý nãi vi phiếm thủy đào hoa,
Thiên Hình tao Tham tất chủ phong lưu hình trượng.
(Tham Lang cư Tý gọi là “Phiếm thủy đào hoa” – chủ lãng đãng đa tình,
Thiên Hình gặp Tham thì chủ vì phong lưu mà mang họa đòn roi).
Tử Vi tọa mệnh khố tắc viết kim dư phủng trất liễn,
Lâm Quan an văn diệu hiệu vi cẩm nhạ thiên hương.
(Tử Vi ở chỗ Mộ khố của Mệnh thì viết là kề bên xe vàng của vua,
Lâm Quan mà an các Văn tinh thì gọi là áo gấm có hương trời).
Thái Âm hợp Văn Khúc vu Thê cung hàn lâm thanh dị,
Thái Dương hội Xăn Xương vu Quan lộc kim điện truyền lô.
(Thái Âm + Văn Khúc ở Thê cung = làm quan thanh cao chốn hàn lâm viện,
Thái Dương + Văn Xương ở Quan cung = được vua truyền gọi lên điện vàng).
Lộc hợp thủ Điền Tài vi lạn cốc đôi kim,
Tài Ấm cư Thiên Di vi cao thương hào khách,
(Lộc mà thủ hoặc chiếu cung Điền Tài là tiền cả đống, thóc cả kho,
Tài Ấm mà cư Thiên Di là kẻ thương gia giàu có hào phóng).
Hao cư bại địa duyên đồ cái cầu,
Tham hội vượng cung chung thân thử thiết.
(Hao cư bại địa là số ăn mày,
Tham hội vượng cung là là số trộm cắp).
Sát cư tuyệt địa sinh thành tam thập nhị chi Nhan Hồi,
Nhật tại vượng cung khả học bát bách niên chi Bành Tổ.
(Sát cư tuyệt địa là số yểu như Nhan Hồi,
Nhật ở vượng cung có thể thọ như Bành Tổ).
Cự ám đồng viên vu Thân Mệnh Tật Ách doanh sấu kỳ khu,
Hung tinh giao hội vu Tướng Mạo Thiên Di thương hình kỳ diện.
(Cự với Diêu Đà Kị mà cùng ở Thân Mệnh hay Tật Ách cung thì thân hình gầy và xấu,
Hung tinh hội chiếu ở Tướng Mạo (phụ mẫu cung) Thiên Di cung thì trên người và mặt có thương tật).
Đạo Hao hội Liêm Trinh vu Quan Lộc gia nữu tù đồ,
Quan Phù hội Hình Sát vu Thiên Di ly hương viễn phối.
(Đại Hao hội với Liêm Trinh ở Quan Lộc là dễ bị gông xiềng tù tội,
Quan Phù hội Hình Sát tinh ở Thiên Di là lấy chồng/vợ ở phương xa).
Thất Sát lâm vu hãm địa lưu niên tất kiến tử vong,
Hao Sát kị phùng Phá Quân Hỏa Linh hiềm phùng Thái Tuế.
(Thất Sát ở chỗ hãm địa, hạn lưu niên mà gặp thì dễ toi mạng,
Hao Sát tinh kị gặp Phá Quân, Hỏa Linh thì chớ có gặp Thái Tuế – gặp thì dễ có tai họa).
Tấu Thư Bác Sĩ tịnh Lưu Lộc dĩ tận hồ cát tường,
Lực Sĩ Tướng Quân dữ Thanh Long dĩ hiển kỳ uy phúc.
(Tấu Thư Bác Sĩ cũng như Lưu Lộc Tồn đều chủ mọi sự tốt đẹp – khi gặp trong hạn,
Lực Sĩ Tướng Quân cùng với Thanh Long là chủ về vinh hiển uy danh, rạng rỡ tổ tông).
Đồng tử hạn nhược thủy thượng phù phao,
Lão nhân hạn suy phong trung nhiên chúc.
Ngộ sát tất kinh, lưu niên tối khẩn.
(Hạn của trẻ con như bọt bèo trên nước,
Hạn của người già như đuốc giữa cuồng phong.
Gặp sát tinh thì đáng sợ, lưu niên hạn càng khẩn trương hơn nữa).
Nhân sinh phát đạt hạn nguyên tối phạ phù trầm,
Nhất thế truân chuyên mệnh hạn phùng hồ bác tạp.
Luận nhi chí thửu doãn hĩ huyền vi.
(Hạn phát đạt của người ta vốn rất sợ thăng trầm, phập phù,
Cả đời mà truân chuyên là bởi Mệnh, Hạn cả có thuần cách gì cả, toàn lẫn lộn cát hung.
Luận được vậy coi như là phù hợp với lẽ huyền vi).
7. Tăng bổ Thái Vi phú (Bổ xung thêm cho bài Thái Vi phú)
Di tiên sinh viết:
1- Đẩu số chi liệt chúng tinh,
do đại dịch chi phân bát quái,
bát quái phi thoán hệ bất minh,
ngũ tinh phi giảng minh hà thố,
thị dĩ quan đấu sổ giả, tái tam thẩm động tĩnh chi cơ,
2- Đệ nhất biện tân chủ chi phân,
động tĩnh tuần hoàn bất dĩ,
chủ tân canh điệp vô câu,
chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu,
tân bất năng đối, hà túc thủ tai!
3- Quý bỉ dương đà, duy thị lộc tồn chi hảo ác, tiếu ngô nhật nguyệt dã.
4- Tư không kiếp chi hưng vong, sát hữu sát nhi vô hình, tuy sát hữu cứu;
hình hữu hình nhi dị đan, chung thân bất khắc.
5- Hỏa tinh vượng cung vi phú luận,
dương đà đắc lệnh khởi hung thần?
6- Lưỡng lân gia vũ thượng khả xanh trì,
đồng thất dữ mưu tối nan phòng bị.
7- Cân hỏa phần thiên mã,
trọng dương trục lộc tồn.
8- Kiếp không thân thích vô thường,
quyền lộc hành tàng mỹ định.
9- Quân tử tai khôi việt,
tiểu nhân dã dương linh.
10- Hung bất giai hung, cát vô thuần cát.
11- Chủ cường tân nhược, khả bảo vô ngu.
12- Chủ nhược tân cường, hung nguy lập kiến.
13- Chủ tân đắc thất lưỡng tương nghi,
hạn vận mệnh thân đương hỗ kiến.
14- Thân mệnh tối hiềm dương đà thất sát, ngộ chi vị miễn vi hung.
15- Nhị hạn thậm kỵ tham phá cự trinh, phùng chi định nhiên tác họa.
16- Mệnh ngộ khôi xương đương đắc quý, hạn phùng tử phủ định tài đa.
17- Phàm quan nữ nhân chi mệnh, tiên quan phu tử nhị cung,
nhược trị sát tinh, định tam giá nhi tâm bất túc,
hoặc phùng dương đà, tu đề khốc nhi lệ bất càn.
18- Nhược quan nam mệnh, thủy dĩ phúc tài vi chủ,
tái thẩm thiên di như hà, nhị hạn tương nhân, cát hung đồng đoạn.
19- Hạn phùng cát diệu, bình sinh vận dụng hòa hài;
mệnh tác hung hương, nhất thị cầu mưu trở ngữ.
20- Liêm lộc lâm mệnh, nữ đức thuần âm trinh khiết chi đức;
đồng lương thủ mệnh, nam đắc thuần dương trung chính chi tâm.
21- Quân tử mệnh trung diệc hữu dương đà tứ sát,
tiểu nhân mệnh trung khởi vô khoa lộc quyền tinh,
yếu khán đắc viên thất viên,
chuyên luận nhập miếu thất hãm.
22- Nhược luận tiểu nhi, tường thôi đồng hạn,
tiểu nhi mệnh sinh hung hương, tam ngũ tuế tất nhiên yểu chiết,
cánh hữu hạn phùng ác sát, ngũ thất tuế tất chí yểu vong.
23- Văn xương văn khúc thiên khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân.
24- Đa học thiểu thành, chỉ vi kình dương phùng kiếp sát.
25- Vi nhân hảo tụng, cái nhân thái tuế ngộ quan phù.
26- Mệnh chi lý vi, thục sát tinh thần chi biến hóa;
số chi lý viễn, tế tường cách cục chi hưng suy.
27- Bắc cực gia hung sát, vi đạo vi tăng;
mệnh ngộ hung tinh, vi nô vi bộc.
28- Như vũ phá liêm tham, cố thâm mưu nhi quý hiển,
gia dương đà không kiếp, phản tiểu chí dĩ cô hàn.
29- Hạn phụ vượng tinh, tuy nhược nhi bất nhược;
mệnh lâm cát địa, tuy hung nhi bất hung.
30- Đoạn kiều tiệt lộ, đại tiểu nan hành;
mão dậu nhị không, thông minh phát phúc.
31- Mệnh thân ngộ tử phủ, điệp tích kim ngân;
nhị chủ phùng kiếp không, y thực bất túc, mưu nhi bất toại.
32- Mệnh hạn ngộ nhập kình dương, đông tác tây thành.
33- Hạn thân tao phùng phủ tướng khoa quyền lộc củng, định vi phàn quế chi cao nhân.
34- Không kiếp dương linh, quyết tác cửu lưu thuật sĩ.
35- Tình hoài thư sướng, xương khúc mệnh thân;
quỷ trá hư phù, dương đà hãm địa.
36- Thiên ki thiên lương kình dương hội, tảo kiến hình khắc vãn kiến cô.
37- Tham lang vũ khúc liêm trinh phùng, thiểu thụ bần nhi hậu thụ phúc.
Thử giai đẩu số chi áo quyết, học giả thục chi.
Dịch nghĩa:
Luận về huyền vi
Hi Di tiên sinh viết:
1- Đẩu Số bày ra chúng tinh,
Do đại Dịch phân chia thành Bát Quái,
Bát Quái mà thiếu Thoán từ (lời luận đoán) thì cũng chẳng rõ nghĩa,
Ngũ Tinh mà không được giảng giải kỹ thì dùng làm sao được,
Môn xem Đẩu Số này đây, luôn xét đến động tĩnh của cơ trời.
2- Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét,
Động-Tĩnh, tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!
3- Tự thẹn thay Kình Đà, chỉ trông coi tốt xấu của Lộc Tồn, mà (lại dám) cười Nhật Nguyệt ta vậy.
4- Ngẫm về hưng vong của Không Kiếp, sát thì có sát (nhưng) mà không Hình (khắc) cứng nhắc, tuy sát mà lại có thể cứu chữa;
Hình thì có Hình nhưng đơn giản dễ thay đổi, (về lâu dài) cả đời sẽ không khắc.
5- Hỏa tinh ở vượng cung thì luận là phú,
Kình Đà (ở chỗ) đắc lệnh há có còn là hung thần nữa sao?
6- Kẻ hung bạo ở ngay sát vách đôi bên nhà mình thì cũng còn có thể miễn cưỡng chống đỡ lại,
chứ người cùng nhà mà có mưu hiểm đen tối thì thực là khó phòng bị.
7- Cân đo sức nóng (hỏa phần), nghị lực của Thiên Mã,
coi trọng trục (của) Kình Dương Lộc Tồn.
8- Kiếp Không thì (coi) thân thích (là) vô thường,
Quyền Lộc thì định là tác phong cử chỉ tươi đẹp.
9- Quân tử (xét ở) tại nơi Khôi Việt,
tiểu nhân thì (xét ở) Dương Linh (Kình Đà, Linh Hỏa, viết tắt???).
10- Hung thì không có cái gì hoàn toàn hung, Cát thì cũng chẳng có cái gì thuần là cát.
11- Chủ cường Khách nhược, thì có thể đảm bảo là chẳng có gì phải lo ngại.
12- Chủ nhược Khách cường, thì thấy ngay được là hung hiểm nguy hiểm.
13- (Phải xem) Chủ-Khách, chỗ hay chỗ dở, đôi đàng tương ứng đối đãi lẫn nhau,
vận hạn Mệnh-Thân cũng đối đãi tương hỗ lẫn nhau.
14- Thân-Mệnh rất sợ gặp Dương Đà Thất Sát, gặp thì khó tránh được hung hiểm.
15- Nhị hạn tối kị Tham Lang Phá Quân Cự Môn Liêm Trinh, gặp thì nhất định sẽ tác họa.
16- Mệnh gặp Khôi Xương được nhận (quan) Quý, Hạn phùng Tử Phủ xác định đó là lúc đa tài (đến lúc gặp thời để mà được thi thố với đời).
17- Phàm xem mệnh Nữ nhân, trước tiên xem ở hai cung Phu & Tử,
nếu gặp sát tinh, định là nhiều lần xuất giá mà lòng không yên,
hoặc phùng Dương Đà thì đó là khóc con cạn nước mắt.
18- Khi xem Nam mệnh, khởi đầu lấy Phúc & Tài làm chủ,
sau đó xét Thiên Di xem thế nào, nhị hạn (có) nguyên nhân hỗ trợ ra sao, (từ đó mới) cùng đoán ra cát hung như thế nào.
19- Hạn phùng cát diệu thì lúc bình sinh được mọi sự hoạt động hài hòa;
Mệnh lạc đến chỗ hung thì đúng là một thân mưu cầu mà toàn gặp gập ghềnh trở ngại.
20- Liêm Lộc lâm Nữ mệnh thuần âm thì đức hạnh trinh trắng, thanh khiết;
Đồng Lương thủ Nam mệnh thuần dương thì một lòng trung thành, chính trực.
21- Người quân tử thì ở trong cung Mệnh cũng có Dương Đà tứ sát,
Kẻ tiểu nhân thì ai dám bảo là không có Khoa Quyền Lộc ở trong cung mệnh nào,
(Cho nên) trọng yếu phải xem cung viên tốt xấu thế nào,
chuyên sâu luận vào các sao nhập miếu hay lạc hãm.
22- Nếu luận số tiểu nhi, phải suy xét thật tường tận về hạn của trẻ con,
Tiểu nhi mà Mệnh ở chỗ hung, thì dăm ba năm tất nhiên sẽ yểu chiết,
Lại thêm hạn phùng ác sát thì dăm bảy năm nhất định yểu vong.
23- (Có các sao) Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi, chẳng đọc thi thư gì cũng là kẻ có tài.
24- Đa học mà thiểu thành, chỉ vì Kình Dương phùng Kiếp Sát.
25- Làm người giỏi lý lẽ, giỏi tranh cãi, khéo nói, đó là do Thái Tuế ngộ Quan Phù.
26- Cái Lý tinh vi của Mệnh, phải bám sát lấy sự biến hóa của các sao;
Cái Lý sâu xa của Số, phải xem cho tường tận sự hưng suy của cách cục.
27- Sao Tử Vi mà bị gia thêm hung sát tinh thì dễ theo đường tăng đạo;
Mệnh (kém) mà gặp phải hung tinh thì dễ thành thân phận kẻ hầu người hạ.
28- Như Vũ Phá Liêm Tham, có mưu sâu mà quý hiển,
Thêm (vào đó) Dương Đà Không Kiếp thì phản chuyển thành chí nhỏ mà cô đơn, nghèo hèn.
29- Hạn mà hai bên có vượng tinh thì dù hạn có nhược (kém) cũng được cứu giải,
Mệnh lâm vào nơi cát lợi thì dẫu gặp hung cũng chẳng có gì nguy hiểm.
30- Đại tiểu (hạn) khó khăn, gian khổ, khó đi,… là bởi vì “đoạn kiều tiệt lộ” (đây là 1 thành ngữ “đoạn kiều tiệt lộ” có nghĩa đen là “cầu bị chặt gãy, đường bị chặn”, nhưng có thể nghĩa bóng muốn ám chỉ việc hành hạn mà gặp phải Tiệt/Triệt lộ thì đó là coi như bị chặn phá, bị ngáng trở, bị gặp khó khăn,…);
Ở cung Mão Dậu mà gặp nhị Không thì lại là thông minh, phát phúc.
31- Mệnh Thân mà gặp Tử Phủ thì giàu có dồi dào vàng bạc (điệp tích kim ngân);
Nhị chủ (thường chỉ về Mệnh chủ & Thân chủ, nhưng trong trường hợp này thì nên hiểu Nhị Chủ = Tử & Phủ) phùng Kiếp Không thì mưu sự bất toại ý, thiếu ăn thiếu mặc (y thực bất túc).
32- Mệnh hạn mà gặp phải Kình Dương thì làm giả ăn thật, đánh ở đông mà được ở tây (“đông tác tây thành” đây cũng là 1 thành ngữ. Bạn đọc lưu ý chỗ này nên hiểu liền mạch với Mệnh Thân Tử Phủ ở trên thì mới đúng).
33- Hạn Thân mà phùng Phủ Tướng có Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì định là người đó sẽ đỗ cao, thăng quan lớn, phát tài lộc,… được vin cành nguyệt quế.
34- (Nếu mà gặp) Không Kiếp Dương Linh, thì quyết đoán là đi theo giới cửu lưu thuật sĩ.
35- Tâm tình dào dạt, thư thả sung sướng, ấy là do Xương Khúc ở Mệnh Thân;
Quỷ quyệt xảo trá, hão huyền chẳng thực, đó là bởi Dương Đà hãm địa.
36- Thiên Cơ Thiên Lương Kình Dương cùng hội, thì lúc nhỏ thời hình khắc (với người thân) về già thời cô độc.
37- Như gặp Tham Lang Vũ Khúc Liêm Trinh, lúc nhỏ thời nghèo khó nhưng về già được hưởng phúc.
Đây đều là những bí quyết sâu xa của môn Đẩu Số, học giả nên nắm vững.
8. Chư tinh vấn đáp luận
Hỏi về Tử Vi chủ định như thế nào?
Đáp viết: Tử Vi thuộc Thổ, là đế tinh tôn quý tọa giữa trời, chủ chưởng quản then chốt của tạo hóa, thống trị nhân sinh. Dựa vào ngũ hành nuôi nấng vạn vật, là tạo định nên Số của Mệnh con người.
Sao an theo triền độ các cung các sở ti, theo niên số từng nơi từng năm mà chưởng quản tước lộc. Ở khắp các cung đều giáng phúc và thường tiêu giải cái ác. Xem ở Tam Thai thì Tử Vi thủ mệnh đúng là Trung Thai, trước nó 1 vị là Thượng Thai, sau nó 1 vị là Hạ Thai (QNB chú: chỗ này sách muốn đề cập tới việc xem trên Thiên Văn thì trông vào chòm sao Tam Thai của Thái Vi Viên, chòm này ở trên và chếch về phía Bắc so với chỗ của Ngũ Đế Tòa).
(hình ảnh minh họa QNB trích từ trang nhantu.net, còn trong sách TVDSTT không có).
Khán tại những chỗ mà nó miếu vượng, thấy thủ chiếu cát hung như thế nào để mà định hay dở. Như miếu vượng hóa cát thì cực kỳ tuyệt vời, hãm địa mà hóa hung thì vô cùng hung, hạn tốt lành chưa chắc đã hay nhưng hạn hung hiểm thì chắc chắn là hung hiểm. Thân Mệnh của người ta nếu được gặp Lộc Tồn đồng cung, Nhật Nguyệt tam hợp chiếu thì quý tới mức không lời nào tả xiết. Không có Phụ Bật đồng hành thì là cô quân, tuy coi là mỹ ngọc nhưng chưa đầy đủ cái hay. Nếu mà thêm chư sát tinh đồng cung hoặc chư hung tinh thủ chiếu thì coi như ở vào cái thế người quân tử lánh nơi thôn dã còn kẻ tiểu nhân đắc thời tại vị, bình sinh thường làm chuyện ác mà lại còn gian trá giả vờ lương thiện. Nếu cùng với Tù tinh đồng cư mà lại không có Tả Hữu tướng tá thì định là tư lại (tiểu lại, chức quan nhỏ). QNB chú: Tử Vi thì chẳng thể cùng (tù tinh) Liêm Trinh đồng cung, và cũng chẳng thể có được tam hợp chiếu của Nhật Nguyệt, nhưng ở trên đang dẫn dắt bằng “Thân và Mệnh” thì có thể hiểu được kiểu như Tử Vi tọa Mệnh đồng thời Thân cư Quan có Liêm Trinh…
Nếu như (Tử Vi) lạc vào các cung Tật Ách, Huynh Đệ, Nô Bộc, Tướng Mạo (Phụ Mẫu), bốn nhược cung, thì chủ nhân vất vả, làm việc khó thành, tuy đắc trợ cũng không coi là phúc. Cần xem thêm cho tường tận về cung độ tương thích, mà luận về ứng cứu của tinh triền.
Nếu cư Quan lộc, Thân, Mệnh, tam cung rất cần thiết có Tả Hữu tọa thủ. Thiên Tướng Lộc Mã giao trì, không lạc vào chỗ Không Vong, lại thêm là Mệnh tọa sinh hương, thì có thể luận là quý. Nếu như cùng Khôi Việt Tam Thai hội với các cát tinh thì tất sẽ làm quan cao tột bực. Đế hội Văn Xương củng chiếu, khi đến hạn tốt đẹp phù trì thời được tuyển chọn làm văn quan. Đế có thể hàng phục được Thất Sát thành quyền mà sử dụng, có thêm cát tinh đồng vị thì Đế và Tướng tất sẽ có khí lực, chư cát hội chiếu thì làm chức quan võ.
Tài Bạch, Điền Trạch có Tả Hữu thủ vệ, có Vũ Khúc Thái Âm đồng độ, không gặp ác tinh, tất sẽ giàu có hoặc làm quan giữ của cải. Thêm Lộc Tồn đồng cung Vũ Khúc trong Thân Mệnh thì càng đặc biệt kỳ diệu.
(Tử Vi) Tại Tử Tức cung mà đắc thì xem tỏ tường thêm có các cát tinh phù tá, chủ sinh quý tử. Nếu độc thủ ở tử tức mà vô tướng tá thì con cái ít ỏi, cô đơn.
(Tử Vi) Tại Thê cung hội các cát tinh, được quý và vợ chồng hòa thuận tới già, tất nhiên là không có sát phá tinh.
Thiên Di tuy là cường cung, (Tử Vi) cũng cần thiết có tướng tá phù trì, có cát tinh chiếu Mệnh thì tất sẽ được người người yêu quý.
(Tử Vi) Tại Phúc Đức cung đối với nam coi như hãm địa, đối với nữ lại coi là miếu nhạc, phùng cát thì tươi đẹp, phùng hung thì nguy hiểm.
Hi Di tiên sinh viết: Tử Vi đế tọa, tại chư cung thường giáng phúc tiêu tai, giải tính ác của chư tinh. Có thể chế được Hỏa Linh thành thiện, thường hàng phục được Thất Sát thành quyền. Nếu đắc Phủ Tướng, Tả Hữu, Xương Khúc và các cát tinh tụ tập thì chắc chắn sẽ quý hiển quan chức. Bằng không thì nhất định giàu sang vô cùng. Nếu mà có tứ sát xung phá cũng vẫn còn được coi là trung cục.
Nếu gặp Phá Quân chỗ Thìn Tuất Sửu Mùi cung, chủ luận là làm thần bất trung, làm con bất hiếu.
Nữ mệnh mà có Tử Vi thì đoán là quý phụ (làm phu nhân sang quý), nếu có sát tinh xung phá thì cũng vẫn bình thường, không bao giờ là hạng hạ tiện được.
Ca viết:
Tử Vi nguyên thuộc Thổ
Quan Lộc cung chủ tinh
Hữu tướng vi hữu dụng
Vô tướng vi cô quân
Chư cung thường ban phúc
Phùng hung phúc tự thân
Cùng Xương phát khoa giáp
Với Khúc hưởng hoàng ân
Có dấu hiệu tăng đạo
Hay phạm chủ đào hoa
Cát tinh mà củng chiếu
Lại hóa ra công bình
Nữ nhân hội Đế tọa
Gặp cát sự, quý nhân
Nếu gặp đào hoa hội
Phiêu đãng lạc phong trần
Kình Dương Hỏa Linh tụ
Phường trộm cắp tiểu nhân
Tam phương có cát củng
Thì bình là quý nhân
Nếu chẳng có Phụ Bật
Chư ác lại tương xâm
Đế vi vô đạo chủ
Khảo cứu kỹ mọi phần
Nhị hạn mà gặp Đế
Hỉ khí tự nhiên tân.
Ngọc Thiền tiên sinh viết:
Tử vi là trung thiên tinh chủ, là điểm then chốt của chúng tinh, là tạo hóa vậy. Đại khái là chủ tể của nhân mệnh, chưởng quản ngũ hành nuôi vạn vật, quản các ti các sở. Lấy Tả Phụ Hữu Bật mà làm tướng, lấy Thiên Tướng Xương Khúc làm tòng sự, lấy Khôi Việt làm truyền lệnh, lấy Nhật Nguyệt làm phân định tổ chức ti sở, lấy Lộc Mã làm chưởng ti tước lộc, lấy Thiên Phủ làm chủ ngân khố kho tàng, Thân Mệnh mà gặp, không cát mới là lạ. Nếu như gặp Tứ Stas (Kình Đà Linh Hỏa), Kiếp Không xung phá thì định là tăng đạo. Tử Vi mà tại mệnh thì là người nhân hậu ổn trọng, sắc mặt hồng tía, đoán là chuyên làm việc cát lợi.
Hỏi về Thiên Cơ chủ định thế nào?
Đáp viết: Thiên Cơ thuộc Mộc, là Nam đẩu đệ tam tinh, là thiện tinh có sở trường là tính toán mưu lược. Hóa khí là Thiện, lại hợp với những công việc trù liệu, có thể giải được sự thuận nghịch của chư tinh. Định số ở nhân mệnh, gặp chư cát tinh tụ hội tất vạn sự đều đẹp đẽ hiền hòa. Chuyên cần ở việc lễ Phật, kính trọng đối với lục thân (cha mẹ, vợ chồng, anh em…), dễ thuận ở ẩn lại cũng dễ thích hợp với tăng đạo. Chẳng bao giờ có tâm ác ngược bất nhân, mà lại có cơ trí ứng biến lanh lẹ, có trí nhớ tuyệt vời. Có kiến giải sâu sắc, sát thực, khi vào việc thì thẳng thắn chính trực. Nữ mệnh gặp nó là phúc, gặp cát tinh thì càng thêm cát lợi, nhưng gặp hung thì cũng thêm hung. Thiên Cơ mà thủ cung an Thân, gặp thêm Thiên Lương thì tất sẽ là người có tài nghệ cao cường, tay nghề tinh xảo đệ nhất. Học giả cần phải xem kỹ cho tường tận.
Hi Di tiên sinh viết: Thiên Cơ là sao tăng cường tuổi thọ, khi thủ ở Thân Mệnh là chủ nhân dị thường. Cùng Thiên Lương, Tả Hữu, Xương Khúc giao hội, theo văn thì thanh hiển, theo võ thì là bực trung lương.
Nếu cư hãm địa, tứ sát xung phá thì là hạ cục, hợp với cảnh thanh nhàn của cuộc sống tăng đạo.
Phàm nhập vào nhị hạn (nếu sáng sủa) thì gia cảnh sự nghiệp càng thêm hưng thịnh (QNB chú: nếu Cơ mờ ám gặp sát hung thì đương nhiên sẽ thay nghề đổi nghiệp, phá tán… nói chung là có sự biến đổi khi hạn gặp Thiên Cơ).
Nữ nhân có cát tinh củng chiếu thì chủ vượng phu ích tử. Có Quyền Lộc tất sẽ là bực phu nhân sang quý. Nếu lạc vào cách cụ có Kình Đà Hỏa Kị xung phá thì chủ hạ tiệntật, hình khắc.
Ca viết:
Thiên cơ Huynh đệ chủ
Nam đẩu chính diệu tinh
Tác sự thì thao lược
Bẩm tính rất thông minh
Tạo nên thượng cách tốt
Có thể sánh anh hùng
Hội cát chủ hưởng phúc,
Nhập cách cư hàn lâm
Cùng Cự Môn một chỗ
Võ chức áp biên đình
Gặp Quyền Sát cũng vậy
Chính trực lập công danh
Với Thiên Lương đồng độ
Hợp theo đạo với tăng
Nữ mệnh mà gặp vậy
Tính khéo dễ dâm bôn
Thiên Đồng cùng Xương Khúc
Hội chiếu chủ vinh hoa
Thìn Tuất Tý Ngọ địa
Nhập miếu có công danh
Nếu tại Dần Mão vị
Gặp Tứ Sát, Phá Quân
Kình Đà đến Linh Hỏa
Cùng hung sát hội vào
Tai họa thật đáng kinh
Vũ Ám Liêm Phá hội
Đôi mắt thiếu quang minh
Nhị hạn mà gặp nó
Tất có sự đổi thay.
Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Thiên Cơ nam đẩu thiện tinh, do đó hóa khí viết là Thiện. Trợ tá cho Đế lệnh mà hành sự, điều chỉnh được trật tự nghịch ngạo của các hung tinh. Định Số ở trong mệnh con người, nếu gặp cát thì tất là phú quý, nếu gặp sát tinh xung cũng sẽ tốt lành. Hiếu nghĩa với lục thân, chuyên cần lễ phật, chẳng hề bất nhân bất nghĩa, có chí linh hoạt biến thông. Nữ mệnh mà gặp, đa số chủ phúc thọ. Tại nơi miếu vượng là có uy lực, còn ở hãm địa thì vô lực.
Hỏi Thái Dương chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thái Dương tinh thuộc Hỏa, cũng là Nhật tinh vậy. Là biểu nghi của tạo hóa, tại Số chủ nhân có quý khí, có năng lực cả văn lẫn võ. Cùng chư cát tụ hội tất sẽ ban điều tốt lành cát tường, ở cùng chỗ với sao hắc ám thì tất sẽ lao tâm phí sức.
Nếu tùy xướng trong Thân Mệnh, cư nơi miếu nhạc là cực kỳ rực rỡ ở trong số, là cơ cấu then chốt của Quan lộc.
Sau nữa là hóa khí thành Quý, thành Lộc, vô cùng thích hợp ở Quan Lộc cung.
Với nam nhân thì coi như sao chủ về cha, với nữ nhân thì coi là chủ về chồng.
Mệnh gặp chư cát tinh thủ chiếu, được thêm Thái Âm cùng chiếu, thì chức cao và giàu có đều được toàn vẹn tốt đẹp.
Nếu cư Thân gặp cát tinh tụ hội, cũng có thể làm môn khách ở chỗ quý nhân, nếu không cũng là kẻ phụ tá cho bậc công hầu khanh tướng.
Phu Thê cũng là cường cung, người nam có chư cát tụ hội thì nhờ vợ mà được sang quý, quyền chức. nếu mà hãm địa lại gia thêm sát tinh thì hại vợ chứ chả tốt lành gì.
Tử Tức cung được Bát Tọa đồng cung, chư cát miếu vượng tụ hội, thì chủ sinh được quý tử, quyền bính không hề nhỏ chút nào.
Nếu ở Tài Bạch cung mà vượng địa, gặp cát tương trợ thì chẳng sợ Cự Môn đến gặp, vẫn được phú quý lâu dài. Nếu như cư vượng tướng mà không có Không Kiếp thì một đời chủ giàu có lắm.
Cư Điền Trạch cung được hưởng ấm trạch của cha ông, tổ tông. Nếu Tả Hữu và chư cát tinh tốt đẹp, đại tiểu nhị hạn đến đó thì tất sẽ có việc mừng hưng thịnh gia môn bất ngờ. Nếu hạn lại chẳng phù trì, không thể lấy tam hợp nghị luận được, e rằng có sai sót.
Nữ mệnh mà gặp nó, hạn vượng cũng vẫn có thể cộng hưởng (QNB chú: có lẽ muốn nói rằng vợ đến hạn có Thái Dương sáng + cát tinh, thì chồng cũng vẫn được hưởng lây).
Cùng với Linh, Hình tụ tập ở hạn, thì trước mắt có ưu phiền, hoặc là sinh khắc phụ mẫu. Hình Sát tụ hạn thì kẻ làm quan có ưu phiền về sự nghiệp, kẻ thứ dân lại dễ bị thị phi quan tụng quấy nhiễu. Cùng với Kình Đà tụ thì sẽ có tật bệnh, cùng Hỏa Linh hội hợp nữa thì đau khổ chẳng ít đâu. Theo đó mà suy ra họa phúc hiển hiện trước mắt. Thiên Di cung mà gặp các cách xấu kể trên là khó mà giữ được tổ nghiệp, xuất tổ ly gia, lìa cành đổi lá (ý nói dễ tán gia bại sản phải lưu lạc khỏi quê hương, bản quán). Hạn tới đó thì chắc chắn có sự di động. Nữ mệnh mà gặp thì cũng coi như chẳng có gì tốt đẹp, nếu may được Phúc Đức cung có tướng tá cát tinh thì lại là chiêu nạp được chồng tốt (QNB chú: phụ nữ xuất giá cũng coi như là di chuyển, xa tổ tông về làm con nhà người ta. Chứ ngày xưa thì phụ nữ chỉ có ở trong nhà, gặp hạn di chuyển mà ko phải là việc theo chồng thì sự di chuyển kia thường là những sự chẳng hay ho gì đối với gia cảnh).
Phụ Mẫu cung có Thái Dương tọa thủ thì nam coi đó là tượng của cha, nếu sáng đẹp thì là cát lành còn thất huy mờ ám thì là khắc cha.
Hi Di tiên sinh viết:
Sao Thái Dương trải qua vòng chu thiên mà chuyển mãi không ngừng. Mừng được Phụ Bật làm trợ lực cho biểu tượng, thích Lộc Tồn trợ phúc. Ghét gặp tụi Cự Môn với ám tinh. Khoái gặp Thái Âm miếu vượng. Ở khắp các cung gặp cát sẽ cát, gặp hắc ám thì tất sẽ lao lực. Thủ vào Thân Mệnh thì là người trung trực, ngay thẳng, không ưa đua chen thị phi. Nếu cư miếu vượng, lại hóa Lộc hóa Quyền, thì luận là rất Quý. Nếu đắc Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt tam hợp củng chiếu ở 2 cung Tài Quan thì phú quý cực phẩm. Thêm tứ sát thì cũng vẫn được no cơm ấm áo, hoặc là theo tăng đạo mà nhàn hạ. Nữ nhân miếu vượng thì chủ vượng phu ích tử, có thêm Quyền Lộc là dễ được phong tặng (tước vị phu nhân), thêm sát tinh thì lại chủ bình thường.
Ca viết:
Thái Dương nguyên thuộc Hỏa
Chính chủ quan lộc tinh
Nếu cư vào Thân Mệnh
Bẩm tính rất thông minh
Nhân từ và rộng lượng
Phúc thọ hưởng trường sinh
Nếu cùng Thái Âm hội
Chợt phát quý vô cùng
Sáng tỏ chiếu Thân mệnh
Ung dung nhập điện vàng
Cự Môn không xâm phạm
Lên điện hưởng ơn vua
Thiên viên gặp ám độ
Bần tiện khó nói hết
Nam nhân thì khắc cha
Nữ mệnh chồng chẳng vẹn
Gặp Kình Đà Linh Hỏa
Thì mắt tật đui mù
Nhị hạn mà gặp vậy
Tất bán sạch của nhà.
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Thái Dương thuộc ti quyền quý chủ về văn, nếu gặp Thiên Hình thì chủ về võ. Tại Dần Mão là mới mọc, tại Thìn Tị là lên tới điện. Tại Ngọ là Nhật lệ trung thiên (Mặt trời rực rỡ giữa bầu trời), chủ đại phú quý. Tại Mùi Thân là xế bóng, vào việc thì chủ chăm chỉ lúc đầu, lười biếng về sau. Tại Dậu là lặn xuống đàng Tây, quý mà chẳng hiển lộ được, đẹp mà lại hư ảo. Tại Tuất Hợi là mất sạch ánh sáng, nếu gặp thêm Cự Ám thì một đời lao lực nghèo nàn. Thêm vào đó là chủ nhân mắt kém hoặc có thương tật, với người khó hòa hợp, dễ chiêu thị phi. Nữ mệnh mà gặp thì coi là phu tinh chẳng được đẹp, gặp Hao là dễ kết hôn mà chẳng có làm lễ cưới gì cả. Nếu cùng Lộc Tồn đồng cung thì tuy là chủ tài bạch nhưng mà vẫn vất vả cực nhọc. Nếu cùng Tả Hữu đồng cung thì luận là quý. Nhưng lại có Hỏa Linh thì trước tiên không tránh được việc khắc cha. Với Thái Dương thì người nam thì lấy nó làm biểu tượng cho cha, người nữ lấy làm biểu tượng cho chồng.
Hỏi Vũ Khúc chủ định như thế nào?
Đáp viết: Vũ Khúc là sao thứ sáu thuộc Bắc đẩu, ngũ hành thuộc Kim, là chủ của cung Tài Bạch. Cùng Thiên Phủ đồng cung là thêm thọ, biểu thị và thi hành Quyền ở khắp mười hai cung. Chủ ở người có tính cứng rắn, quả quyết, có mừng có giận, có phúc có tai ương. Nếu hãm tù hội ở cung Chấn thì tất sẽ thành phá, chủ là kẻ cao sĩ ẩn mình. Cùng Lộc Mã giao trì thì phát tài nơi viễn xứ. Nếu cùng Tham Lang đồng cung thì là người ích kỷ, keo kiệt. Cùng với Phá Quân ở cung Tài (QNB chú: nguyên văn là “tài hương”, nay chú thêm là “ở Tài cung hoặc Vũ Phá đồng cung với sao chủ tiền tài như Lộc Tồn, Hóa Lộc,…”) thì tiền đến tay rồi lại trắng tay. Chư hung tinh hội tụ thì tất sẽ tác họa, chư cát tinh tụ tập thì thành cát tường tốt đẹp.
Hi Di tiên sinh viết: Vũ Khúc thuộc Kim, tại trời thuộc ti Thọ, vào số chủ ti Tài Bạch. Sợ gặp sao khắc chế nhập hãm (QNB chú: sao khắc chế của Vũ Khúc chính là Phá Quân), mừng được cùng với Lộc Tồn làm việc. Cùng với Thái Âm là tương hỗ về Quyền, làm trợ lý cho các sao Thiên Phủ, Thiên Tướng, lấy Tài Bạch và Điền Trạch để làm chỗ của ti sở chuyên trách.
Với ác Sát Hao Tù hội ở cung Chấn thì tất sẽ gặp họa cây đè, sét đánh, điện giật.
Cùng Phá Quân Tham Lang ở cung Khảm thì tất sẽ chủ đâm đầu xuống nước mà táng mạng (QNB chú: chỗ này đề cập đến Vũ Phá ở Hợi là hữu lý, chứ Vũ với Tham thì không thể cùng ở cung Khảm được, trừ phi Mệnh-Vũ Thân-Tham hoặc muốn nói người mệnh Vũ Khúc mà hạn lại gặp Tham Lang ở cung Khảm. Độc giả lưu ý).
Hội Lộc Mã thì phát tài ở phương xa.
Cùng với Tham Lang hội thì tất chủ thiếu niên bất lợi. Đó gọi là “Vũ Khúc thủ mệnh phúc phi khinh, Tham Lang bất phát thiếu niên nhân” (Vũ Khúc thủ mệnh thì phúc không hề nhỏ, Tham Lang thì không phát lúc còn niên thiếu).
Ở nơi miếu nhạc cùng với Đào Hoa tinh đồng cung thì chỉ biết lợi mình mà ko cần biết người khác có tổn thất hay không (QNB chú: Độc giả lưu ý, trong cuốn này không có sao Đào Hoa như ở Tử Vi Việt đâu ạ, mà Đào Hoa ở đây là ám chỉ Tham Lang, cái việc Vũ Tham thủ mệnh ích kỷ tổn nhân này cũng tương tự như bên trên có nói là “người ích kỷ, keo kiệt”).
Với Thất Sát Hỏa Tinh đồng cung thì do tiền tài mà bị gặp nạn, bị cướp.
Gặp Kình Đà tất sẽ cô đơn hình khắc, gặp Phá Quân thì khó mà quý hiển được. Nếu cùng với Phá Quân đồng cung, lại thêm là lúc lâm vào trong nhị hạn ở đó thì nhất định là chủ thị phi, bị phiền toái.
Vũ Khúc thủ mệnh, chủ nhân cương cường, quả cảm, quyết đoán. Người tuổi Giáp Kỷ được hưởng phúc dày, xuất tướng nhập tướng. Thêm đắc Tham Hỏa xung chiếu thì ấy là Quý cách. Lợi cho Tây Bắc sinh nhân, còn với người sinh Đông Nam thì bình thường, không thủ giữ tổ nghiệp. Nếu tứ sát xung phá thì tất sẽ hoặc là cô đơn hoặc là nghèo túng, phá tướng phá tuổi thọ.
Nữ nhân Vũ Khúc có nhiều cát tinh thủ chiếu tất là bực phu nhân sang quý, nếu thêm sát tinh xung phá thì cô đơn, hình khắc.
Ca viết:
(QNB chú: trong bản TVDSTT này, có lẽ do bị thất lạc mất phần ca quyết nên không có. Năm xưa cụ Vũ Tài Lục cũng phải dùng bài phú Nôm của ta để trám vào. Nay QNB xin bổ xung bài này – lấy từ cuốn “Đạo giáo Thiên Văn Lịch Toán học – Tử vi đẩu số nhất bản thông” NXB Đại học Thiểm Tây – để cho được đầy đủ. Độc giả tham khảo).
Vũ Khúc ti Tài Thọ
Tối hỉ Tài Bạch cung
Bình hãm sân tai ách
Kị ngộ Sát Kiếp Không
Phá Quân nãi kỳ chế
Liêm Trinh hỏa tắc xung
Dương Đà đồng độ họa
Giáp Kỷ diệc bất vinh
Thủ mệnh tam vô sát
Y lộc thực phong long
Dữ cát cộng trị thê
Nhân phụ thành phú ông
Dịch nghĩa:
Vũ Khúc chủ quản ti tài thọ
Mừng nhất là đến giữ Tài Bạch cung
Nếu vào đất hãm thì sinh tai ách
Rất kị các sát tinh cùng Kiếp Không
Nếu gặp Phá Quân thì bị khắc chế
Gặp người Liêm Hỏa thì bị xung đột
Đồng cung với Kình Đà thì gặp họa
Dù người Giáp Kỷ cũng chẳng vinh hoa
Thủ mệnh tam phương mà vô sát
Tiền đồ quan lộc thực thênh thang
Cung thê mà thủ cùng cát diệu
Nhờ vợ được giàu cỡ phú ông.
Hỏi Thiên Đồng chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thiên Đồng thuộc Thủy, là Nam đẩu đệ tứ tinh, là chủ quản của cung Phúc Đức. Lại nói: hóa khí là Phúc và rất mừng gặp các cát tinh, trợ phúc thêm tốt lành, là người liêm khiết, diện mạo và bẩm tính thanh kỳ. Ở nơi then chốt mà không bị kích động quá mức thì không sợ gặp Thất Sát xâm phạm, không e ngại các sát tinh cùng vây chiếu.
Nếu hạn mà gặp, lại có mệnh đắc địa, thì dù là ở khắp 12 cung thì nó vẫn ban phúc tốt đẹp, nếu không có phá cách thì nhất định là cát tường.
Hi di tiên sinh viết: sao Thiên Đồng thuộc Nam đẩu, là sao giúp ích cho việc tính toán bảo vệ sinh mệnh, hóa Lộc là Thiện, gặp cát tinh là tốt lành, giá trị đối với Thân Mệnh vậy. Chủ là người khiêm tốn, bẩm tính thì ôn hòa. Nhất định hiền từ và ngay thẳng, hòa nhã và tinh thông việc viết lách văn vẻ, có chí hướng ngoài dự tính, không kích động dữ dội. Không kị Thất Sát xâm phạm, chẳng kiêng dè các hung tinh đồng cung, ở trong 12 cung luận là phúc.
Gặp Tả Hữu Xương Lương thì quý hiển, lợi cho người tuổi Nhâm Ất Bính ở Tị Hợi là đắc địa. Không hợp với người tuổi Canh mà Mệnh cư ở Dậu, suốt đời không tuân theo.
Hội Tứ Sát ở Tị Hợi là hãm, dễ tàn tật cô đơn hình khắc. Nữ mệnh mà gặp có sát tinh xung phá thì hình phu khắc tử. Lương Nguyệt xung phá thì dễ tác hợp làm tì thiếp người ta, dễ hợp theo tăng đạo mà hưởng phúc.
(QNB chú: Sách không có phần viết của Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh và phần ca quyết, có lẽ bị thất lạc. QNB đã cố gắng tìm kiếm nhưng chưa có kết quả. Độc giả nào biết được, xin vui lòng bổ xung giúp, xin cảm tạ!).
Phần phú NÔM nói về Thiên Đồng)
Thiên đồng đầu lớn lưng dầy,
Hình thời phì mãn, tượng rày phương viên,
Ôn lương và lại hòa hiền,
Khoa, Quyền, Tấu hợp có quyền có uy.
Đồng đóng Mệnh tính hay canh cải,
Là sao thọ khảo phúc dầy đáng ghi,
Hỏa, Linh, Không, Kiếp xá chi
Gập Đồng bần khổ cùng thì u mê.
Thiên Lương, Nguyệt đức chiếu về
Ắt là mộ Phật hướng về tăng ni.
Đồng nơi Tuất, Ngọ yên vì
Hãm cung, nhưng tuổi Đinh thì hiển vinh,
Nếu có Hóa Kỵ thêm xinh,
Ấy là ứng hợp giúp thành giầu sang.
Đồng, Lương cùng hội Dần, Thân,
Vừa giầu, vừa thọ giữ phần yên vui.
Đồng, Lương, Linh, Kỵ, Quyền, Khôi,
Lại gia song Lộc hoạnh tài phú thương.
Đồng, Lương, Cự đóng ba phương,
Tam hóa, Tả, Hữu là người tài năng.
Đồng, Nguyệt cùng ở Ngọ cung,
Sát tinh hội, hợp kỷ công ấy nghề.
Nếu mà gặp được Kình dương,
Mà tuổi Bính, Mậu biên thùy tướng công.
Đồng, Nguyệt Tý gái hoa dung,
Gập Tang, Diêu, Khốc khóc chồng lắm phen.
Hỏi Liêm Trinh chủ định như thế nào?
Đáp viết: Liêm Trinh thuộc Hỏa, là Bắc đẩu đệ ngũ tinh. Tại đẩu thuộc ti phẩm cấp thứ bậc, tại Số thuộc ti quyền lệnh. Nếu không ở nơi miếu vượng mà gặp thêm Quan Phù thì vốn được viết là “hóa tù vi sát” (biến tù ra sát). Cư vào chỗ đó thì không thể giải được họa của nó, (hạn) gặp phải thì cũng chẳng thể lường được. Chủ người có tâm tính dữ tợn hung hãn, ngông cuồng, chẳng quen theo lễ nghĩa gì cả.
Gặp Đế tọa chấp chưởng uy quyền, ngộ Lộc Tồn thì chủ phú quý, ngộ Văn Xương thì hảo lễ nhạc, ngộ sát diệu lại hiển về võ chức.
Tại Quan Lộc cung có uy quyền còn tại Thân Mệnh thì là thứ đào hoa tinh.
Nếu cư vượng cung thì sẽ cờ bạc mê sắc dục mà dẫn đến tranh tụng kiện cáo (QNB chú: “vượng cung” ở đây ta nên hiểu giống như trong trường hợp câu “Tham hội vượng cung là số trộm cắp”, trong đó: vượng cung là Mệnh an ở chỗ Đế Vượng thuộc Vòng Tràng Sinh ẩn của các tam hợp tuổi. Đó là các cung Tý Ngọ Mão Dậu, lần lượt tương ứng với các tam hợp Thân-Tý-Thìn, Dần-Ngọ-Tuất, Hợi-Mão-Mùi, Tị-Dậu-Sửu) .
Hạn gặp Cự Môn ở nơi hãm địa tất sẽ dính vào thị phi mà kéo nhau ra kiện cáo. Gặp Tài tinh và Hao tinh hội hợp thì phá tán tổ nghiệp. Gặp Hình Kị thì tất sẽ không tránh được tai nạn đẫm máu. Ngộ Bạch Hổ thì khó thoát đòn roi, gặp Vũ Khúc nơi hãm hoặc đã bị quản chế thì e rằng dễ bị “mộc áp xà thương” (cây đè, rắn cắn, bị ngầm ám hại). Cùng với Hỏa tinh nơi hãm không thì sẽ chủ “đầu hà tự ải” (đâm đầu xuống nước mà táng mạng). Đi với Phá Quân với Nhật Nguyệt thì chẳng tránh được bị tật ở mắt.
Hạn mà gặp như thế thì tai họa là khó có thể bài trừ, hóa giải được.
Chỉ hợp với vị trí của cung Quan lộc và Thân Mệnh. Gặp cát thì phúc được tăng cường, phùng hung thì tất sẽ chẳng hiền hòa gì đâu. Nếu ở vào các tha cung thì họa phúc khó lường.
Ca viết:
Liêm Tham Tị Hợi cung,
Ngộ cát phúc tràn tốt tươi
Ứng quá sau ba mươi
Phòng lúc cuối chẳng thiện.
(Phụ họa thêm phần phú Nôm.)
Liêm Trinh hỏa diệu thân trường,
Lộ hầu lộ nhãn mặt mày vàng xanh,
tính thời táo bạo tương tranh,
Khi dữ khi lành lãng đãng phấn hoa.
Mùi cung vinh dự đó mà
Thân cung cự phú, Hợi ra bần hàn.
Liêm đắc địa Khúc, xương cùng
Là người văn võ anh hùng lược thao.
Liêm hãn Tỵ, Hợi xấu sao,
Lại gập hung sát lao đao trọn đời.
Liêm trinh, Quan phủ cùng nơi,
Hãm cung tai hại kiếp người ra chi.
Liêm mà gập được Tử vi,
Ở cung miếu, vượng quyền uy đó mà.
Gập Lộc tồn ấy phú gia.
Liêm, Tham, Sát, Phá phát đà võ công.
Nhưng Liêm vượng địa vẫn phòng
Chơi bời tửu sắc có lần công môn.
Liêm, Hao Tài, Mệnh cùng ngồi,
phá tan tổ nghiệp ra người bần nhân.
Liêm, Hỏa, Không, Kiếp, Phá quân,
Hãm cung thắt cổ, nợ trần hết duyên.
Hình, Diêu, Tham, Kỵ ngộ Liêm,
Ở cung Tỵ, Hợi là điềm mạng vong.
Liêm Trinh ở Mão, Dậu cung,
Sát tinh cùng hội công danh khó màng.
Liêm cùng Văn khúc khá toan,
đồng cung xuôi ngược mọi đàng khảm kha.
Trọng do uy mãnh ấy là,
Liêm trinh nhập miếu, hợp cùng Tướng quân.
Liêm, Kiếp, Kình dương khá phân,
Ở cung Mão, Dậu ắt phần ngục lao.
Liêm trinh Bạch hổ lâm vào,
hoặc là Tứ Sát tránh sao xích xiềng.
Liêm Tham đồng độ đảo điên,
Trai thì phiêu lãng, gái duyên dâm tàng.
Hỏi Thiên Phủ chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thiên Phủ thuộc Thổ, là Nam đẩu đệ nhất tinh, chủ về Lệnh. Là chúa tể của Tài Bạch, tại đẩu là sao thuộc ti Phúc, Quyền, hội cát tinh tốt đẹp là căn bản của sự Phú Quý, luận định là phát đạt về văn chương.
Hi Di tiên sinh viết: Thiên Phủ thuộc nam đẩu, là sao của duyên thọ và tiêu giải tai ách, lại viết là thuộc ti Mệnh. Là thượng tướng trấn quốc chi tinh. Tại đẩu thuộc ti Quyền, tại số thì là thần của việc chấp chưởng Tài Bạch, Điền Trạch và Y Lộc.
Là trợ lý cho Đế tinh, thường chế được Kình Đà tòng thuận, thường hóa được Hỏa Linh làm phúc. Chủ nhân tướng mạo thanh kỳ, bẩm tính ôn lương, đoan trang, tao nhã. Cùng với Xương Khúc hội thì tất sẽ đăng quang trúng tuyển. Gặp Lộc Tồn Vũ Khúc thì gia tài giàu có khổng lồ.
Bí kíp nói rằng: Thiên Phủ là kho tài lộc (lộc khố), Mệnh gặp nó thế nào thì giàu có đúng như vậy. Không ưa tứ sát xung phá, (vì nếu thế thì) tuy chẳng được quan quý, nhưng cũng chủ phú, được đầy đủ điền sản tài lộc.
Đóng vào cung Điền Trạch và Tài Bạch thì coi là miếu nhạc, còn đóng vào cung Tướng Mạo, tức Phụ mẫu cung, thì coi như hãm nhược (QNB chú: “miếu nhạc” và “hãm nhược” chỗ này là phép ẩn dụ, ý muốn nói là đa dụng/thiểu dụng hoặc hay/dở… như trong đoạn của Tử Vi đã từ dùng phép ẩn dụ này, không nên hiểu như thông thường “miếu nhạc = sáng sủa”, “hãm nhược = thất huy, ko có ánh sáng, mờ ám”). Đóng vào cung Huynh Đệ là bình thường. Mệnh mà gặp lại có được tướng tá nữa thì chủ phu thê tử tức không bị khuyết đâu.
Nếu gặp Không Vong thì đích thị là bị cô lập, không thể cứ đoán cứng nhắc cùng dạng như quy ước (bên trên) đâu nhé. Đại khái (lại đại khái nữa rồi, khổ quá cơ ) là có nhiều sao như Vũ Khúc, Lộc Tồn, Văn Xương Văn Khúc, thì chủ được cát lợi.
Lại viết: Sao này đóng ở cung nào cũng chủ tốt lành, nữ mệnh mà đắc thì thanh tao, chính chuyên, khéo léo, vượng phu ích tử. Kể cả có bị xung phá thì cũng luận là lương thiện, hoặc có dấu hiệu hợp với tăng đạo.
Ca viết:
Thiên Phủ là Lộc khố
Nhập mệnh cả đời giàu
Cỡ nứt bồ đổ vách
Của cải đếm không xuể
Nữ mệnh tọa khuê các
Nam nhân hưởng lộc trời
Nó chính là cát tinh
Khắp nơi không khuyết thiếu.
Hỏi Thái Âm chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thái Âm thuộc Thủy, là chủ của Điền Trạch, hóa khí là Phú, cùng với Nhật là phối ngẫu. Là nghi biểu của trời, có dụng theo thượng huyền và hạ huyền, khi tới chỗ sáng vàng lúc ở chỗ tối đen phân ra thành thế hay dở trong số định miếu nhạc. Chủ người thông minh tuấn tú, bẩm tính đoan trang, thanh nhã, dịu dàng, vẹn toàn cát lợi.
Thượng huyền là then chốt trọng yếu, Hạ huyền thì luận là giảm uy thế. Sở trị bất dĩ sở kiến vô phương (QNB chú: tạm thời chưa biết dịch ý này như thế nào, xin để nguyên văn 所值不以所見無妨), nếu cùng tọa ở chỗ Thái Dương, còn như Nhật đến Mão Nguyệt đến Dậu thì đều là chỗ vượng, là căn bản của phú quý vậy.
Mệnh tọa ở cung mà (Thái Âm) có ánh bạc quang huy rạng rỡ, thêm chư cát tinh đều hội tụ thì luận là được hưởng phúc.
Nếu như (Thái Âm) hãm địa thì tất sẽ bị mai một yếu kém về (công) danh.
Nếu ở Thượng Huyền, Hạ Huyền nhưng mà không gặp Cự Môn thì là tốt đẹp (QNB chú: Thái Âm làm thế nào mà gặp Cự Môn được??? có lẽ sách muốn nói đến trường hợp Mệnh có Thái Âm và Thân cư Phúc có Cự Môn, hoặc là lại dùng phép ẩn dụ để lấy Cự Môn mà ám chỉ tới Tam Ám là Riêu Đà Kị chăng. Độc giả lưu ý vậy!).
Nếu (Thái Âm) ở cung mà Thân cư, thì có mẹ nuôi, dì ghẻ, hoặc là bỏ nhà ly tổ.
Thân Mệnh (có Thái Âm) nếu thấy ác sát hội chiếu xung chiếu thì luận là bị thương hoặc tàn tật. Trừ phi theo tăng đạo thì lại phản chuyển thành được tốt lành. Lại như nếu cùng Văn Khúc đồng cư Thân Mệnh (có sát tinh xung chiếu như trên) thì nhất định sẽ là giới cửu lưu thuật sĩ.
(Thái Âm) Với nam chủ về người mẹ, lại cũng chủ về người vợ.
Hi Di tiên sinh viết: Thái Âm hóa Lộc với Nhật là phối ngẫu, lấy chỗ Mão Thìn Tị Ngọ Mùi làm hãm địa, theo nơi Dậu Tuất Hợi Tý Sửu mà đắc miếu.
Dậu vi tây sơn chi môn, vi đông tiềm chi sở (QNB chú: Câu này hơi khó cắt nghĩa, nhất là ở chữ “đông tiềm” nên xin để nguyên văn 酉為西山之門, 為東潛之所. Theo thiển ý của riêng QNB thì có lẽ sách muốn nói: Ở Dậu là cửa của các rặng núi đằng tây, khi nguyệt mọc đằng tây thì cũng tựa như lúc nhật mọc đằng đông, tới chỗ cung ấy vẫn bị coi là tiềm ẩn chưa lên ngôi lên điện. Cái tượng này cũng khá giống khi nói về Đông Cung Thái Tử, người kế vị ngôi vua nhưng chưa lên ngôi nên coi là tiềm long, là đông tiềm vậy. Mong độc giả cùng luận bàn cho rõ nghĩa hơn). Nó ngại Cự Môn mà đến trong triền độ, sợ Kình Đà đồng cung, (sợ) gặp Liêm tù xâm phạm, cũng như với Thất Sát tương xung, như thế thì e rằng cung viên không được đắc ý, nhất định luận là có thương tích, tàn tật.
Thái Âm thuộc Thủy, cũng là mẫu tinh, đồng thời là thê tú.
Nếu tại Thân Mệnh mà miếu nhạc, có cát tinh tụ tập thì chủ phú quý.
Tại Tật Ách cung mà ngộ Đà La là mắt có tật, gặp Hỏa Linh là tai nạn, thấy Tham Sát thì cũng tổn hại cho mắt.
Tại Phụ Mẫu cung, nếu như hãm địa thất huy mà lại gặp lưu niên Bạch Hổ Thái Tuế thì chủ về mẹ có tai họa.
Nó tuy là sao mang tính thuần hòa, nhưng mà lúc hãm địa (thất huy, mất ánh sáng) lại gặp khắc chế thì tất sẽ chẳng tốt lành gì. Nếu gặp Bạch Hổ, Tang Môn, Điếu Khách, thì ngay cả người vợ cũng cần phải cẩn thận (kẻo vợ lại gặp tai họa).
Thái Âm, Thủy, Bắc tinh ấy hướng,
Ở miếu cung tính vốn thanh tân.
Bính, Đinh cư Tý giầu sang,
Có lòng từ thiện, lại làng kinh luân.
Nguyệt miếu vượng trùng phùng Xương, Khúc,
Việt, Khôi, Khoa, Quyền Lộc, Đào, Hồng,
hội cùng Tả, hữu song song,
Giàu sang hồ dễ ai hòng dám tranh.
Hoặc là Nguyệt mệnh cung độc thủ,
Sinh vào đêm đúng buổi trung tuần,
Cũng là đẹp đẽ muôn phần,
Giảm đi nếu gập Triệt, Tuần án ngăn.
Ấy là số ly tông lập nghiệp,
Nhưng mắt đau hay liệt tuần hoàn.
Nguyệt gia gập Kỵ đồng sàn,
Không gia Sát, Bại ( tứ Sát, lục Bại ) giầu sang trọn đời.
Nguyệt miếu vượng là người to lớn,
Nếu hãm cung hơi ốm và cao,
Tính ưa ngâm vịnh tiêu dao,
Danh tài nếu có nhờ vào văn tinh.
Nguyệt hãm gập Triệt không thành quý,
Chỉ sợ Hình, Diêu, Tị (con rắn) tật nguyền.
Nữ lưu Nguyệt vượng như trên,
Là người nhan sắc đảm đang lợi chồng.
Nếu gập Triệt không làm lẽ (hay muộn)
Nếu gập Lương hãm địa đa dâm.
Mão cung đến Tị (con rắn) chớ nhầm,
Nguyệt Lường hội họp chịu phần khảm kha.
Hạn gập Nguyệt, Đà, Kình đáng ngán,
Ấy nhân ly, tài tán phải phòng.
Thái âm hội với Long trì,
Tuy xấu nhưng cũng được phần ấm thân.
Cung Thê hội Thái âm, Văn khúc,
Vợ cao sang tột bực nữ lưu.
Hỏi Tham Lang chủ định như thế nào?
Đáp viết: Tham Lang là sao thứ nhất thuộc Bắc Đẩu, là thần của cung Tật Ách. Ngũ hành thuộc Thủy, hóa khí là Đào Hoa, là tiêu chuẩn, chính là thần chủ của họa phúc. Nhận thiện ác mà phân định kẻ dối lừa người gian trá, thụ học các thuật của thần tiên. Lại giỏi ngâm thơ vịnh nguyệt, phiêu đãng phong lưu, biến khéo thành vụng.
Nhập cung miếu nhạc thì có thể là tốt lành nhưng cũng có thể là họa. Hội Phá Quân thì mê hoa luyến tửu mà táng mạng, cùng với Lộc Tồn thì có thể cát. Gặp hao nhân thì hư hoa, ngộ Liêm Trinh thì không thanh khiết, thấy Thất Sát hoặc kết phối (với người Thất Sát) thì bị hình khắc, bị hình phạt. Ngộ Kình Đà thì chủ có bệnh trĩ, phùng Hình Kị thì có sẹo hoặc lang ben, loang lổ trên da, nhị hạn mà gặp (như thế) thì họa không hề nhẹ chút nào.
Với Thất Sát cùng thủ ở Thân và Mệnh thì nam có thân thể của phường trộm cắp, nữ có thái độ của lũ vụng trộm (QNB chú: cái này có lẽ muốn nhấn mạnh về cái thần thái lén lút mà thôi). Chư cát có áp chế thì cũng không thể tạo thành phúc hậu được, còn bày hung sát mà tụ thêm vào thì càng tàng ẩn cái gian của nó. Vào việc thì khéo ẩn tàng biến trá, hư hoa chẳng thực gì cả. Với người kết giao thì về sâu bao nhiêu về sau cũng giả dối bạc bẽo bấy nhiêu.
Bởi thế mà nói: Thất Sát thủ Thân chung thị yểu, Tham Lang nhập miếu tất vi xướng (Thất Sát đóng ở cung an Thân thì chết non, Tham Lang nhập miếu tất sẽ là con hát, kỹ nữ. QNB chú: dịch nguyên văn chữ “nhập miếu”, những tôi cho rằng chữ “miếu” này là không đúng, phải là chữ “Mệnh”. Đã đề cập nhiều lần ở tuvilyso về câu này rồi).
Nếu cùng với Phá Quân cư ở Thân & Mệnh, lại thêm là ở chỗ vượng của tam hợp, thì nam giỏi uống rượu với cờ bạc du đãng, nữ thời cưới xin chẳng có mối mai gì sất, tâm tính trộm cắp dâm bôn, chẳng có phép tắc gì cả, bỏ nhà theo trai. Như thế chỉ mừng gặp Không Vong vì khiến cho biến ngược lại thành ra đoan chính.
Nếu cùng Vũ Khúc đồng độ thì xiểm nịnh gian tham, thường có tâm địa ích kỷ, cùng là chẳng có lòng cứu tế đối với người khác.
Với Liêm Trinh cùng, nhất định sẽ gặp hình phạt ở chốn công đường, nơi cửa quan. Tứ sát mà cùng thì nhất định là đồ tể. Kình Đà giao hội, tất sẽ làm quỷ phong lưu. Xương Khúc đồng độ, tất sẽ đa hư thiểu thực.
Với Thất Sát cùng triền thứ thì nam nữ đều tà dâm hư hoa. Cùng Cự Môn giao chiến thì thường chỉ có khẩu thiệt thị phi.
Nếu phạm vào chỗ Đế tọa mà không có chế hóa thì là người vô ích. Đắc Phụ Bật Xương Khúc giáp thì coi như là chế được nên chẳng luận như vừa rồi.
(Tham Lang) Hãm địa phùng sinh thì lại thành ra điềm lành, dẫu nhà có phá tán đi chăng nữa thì cũng sẽ một thời gian phát tài là gây dựng lại được.
Chỉ duy hội với Hỏa Linh thì thường phú quý, đẹp ở Tài Bạch với Vũ Khúc Thái Âm cùng, nếu mà cuối cùng không tự hưng thịnh được thì tất là do bởi dâm dật. Tại Huynh Đệ, Tử Tức thì đều coi như là hãm địa. Tại Điền Trạch thì phá đãng tổ nghiệp, trước giàu sau nghèo. Vào Nô Bộc cung mà lại là miếu vượng thì tất sẽ vì nô bộc trong nhà mà phá tán. Ở Phu Thê Cung Tử Tức cung đều là không được đẹp, vào Tật Ách cung có Kình, Đà, Ám, Sát tinh giao hội thì mang bệnh tật bởi vì tửu sắc. Cung Thiên Di mà nếu như ở đất Hỏa (có Tham Lang), gặp Phá Quân với Ám, Sát tinh, lúc đến hạn gặp thêm các lưu niên tuế sát trùng điệp, thì tất sẽ chủ bị binh lửa chiến tranh, đạo tặc xâm phạm. Nói tóm lại là, dẫu nam hay nữ mà chẳng gặp được nó ở chỗ đắc địa thì sẽ không bao giờ được thấy cái tốt của nó.
Hi Di tiên sinh viết: Tham Lang là Bắc Đẩu giải ách chi thần, là sao của sự cao minh, khí của nó thuộc Mộc mà thể của nó thuộc Thủy, lại hóa khí là Đào Hoa. Là thần chủ của họa phúc, tại số tất chủ lạc thú của sự phóng đãng. Ngộ cát thì chủ phú quý, gặp hung thì chủ hư ảo phù phiếm. Chủ nhân lùn bé, tính cương mãnh, mưu sâu tính xa, theo sóng mà phiêu lãng, yêu ghét khó lường. Cư chỗ miếu vượng gặp Hỏa Linh thì theo võ chức se phát quyền quý, người sinh năm Mậu Kỷ hợp cục. Gặp Thiên Tướng thêm thọ, hội Liêm Vũ thì khéo tay nghề, đắc Lộc Tồn thì lại thích nghi với tăng đạo. Sát Phá tương xung, phiêu bồng qua ngày đoạn tháng. Nữ nhân hình khắc, không thanh khiết, gặp Thái Âm thì chủ dâm dật.
Hỏi Cự Môn chủ định như thế nào?
Đáp viết: Cự Môn thuộc hành Thủy, Kim. Là sao thứ hai thuộc Bắc Đẩu, là sao thuần âm, hóa khí là Ám. Tại Thân Mệnh thì một đời chiêu chuốc khẩu thiệt thị phi; tại Huynh Đệ thì cốt nhục tham gia thương nghiệp; tại Phu Thê chủ nên cảnh giác kẻo sinh ly tử biệt, (nếu không cảnh giác mà) buông lỏng thì phu thê có chống đối, sẽ không tránh được sự ô danh thất tiết; tại Tử Tức thì chiêu chuốc tổn hại cho con cái, tuy có mà như không; tại Tài Bạch có tâm ý cạnh tranh; tại Tật Ách gặp Hình Kị thì có tai nạn cho mắt, sát tinh lâm vào là chủ tàn tật; tại Thiên Di thì chiêu chuốc thị phi việc rắc rối; tại Nô Bộc thì bị kẻ dưới thường xuyên oán trách, tại Quan Lộc chủ chiêu chuốc hình trượng đòn roi; tại Điền Trạch thì phá đãng tổ nghiệp; tại Phúc Đức thì họa của nó hơi nhẹ; tại Phụ Mẫu thì bị từ mặt (cắt đứt tình nghĩa cha mẹ con cái).
Hi Di tiên sinh viết: Cự Môn tại trời thuộc ti phẩm vạn vật. Tại số thì chấp chưởng thị phi, chủ về ám muội, nghi thị đa phi (ngờ vực cái đúng mà lại có nhiều cái sai), lường gạt trời đất, tiến thoái lưỡng nan. Tính của nó thì hướng mặt về đúng mà quay lưng với cái sai, với lục thân thì không hòa hợp, kết giao với người thì lúc đầu thiện về cuối lại bạc ác. Ở khắp 12 cung nếu như mà không lâm vào chỗ miếu nhạc thì bôn ba cực khổ, đến đâu thì họa ở đó. Thậm chí là ở Dần Thân Tị Hợi thì tuy phú quý nhưng không bền. Hội Thái Dương thì cát hung tương bán, gặp Thất Sát thì chủ bị sát thương. Tham Hao đồng hành thì thừa dịp tốt kết hôn với môn đồ. Ngộ Tử Vi thì tất sẽ chế cái tính cương cường của nó. Phùng Lộc Tồn thì giải được cái tai ách của nó, còn gặp Kình Đà thì nam tăng đạo nữ ca kỹ.
Đối cung mà gặp Hỏa Linh, Bạch Hổ, không có Đế tinh áp chế, nhất quyết là lấy vợ/chồng ở xa. Tam hợp gặp sát vây chiếu, thì tất sẽ bị rắc rối với tai ách lửa điện, nó chính là của cái số cô độc, là thần của sự bóc lột người khác. Trừ khi là tăng đạo hay cửu lưu thuật sĩ, nếu không thì khó mà tránh được tính kiêu ngạo, hao tổn tinh thần, hạn mà gặp hung diệu thì tai nạn không nhẹ.
Hỏi Thiên Tướng chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thiên Tướng thuộc Thủy, là sao thứ năm thuộc Nam đẩu. Là sao của Tước hàm, là Phúc Thiện, hóa khí là Ấn, đích thị là quan lộc văn tinh, phù tá cho Đế tinh. Nếu Thân Mệnh mà gặp thì ngôn ngữ thành thực, việc làm chẳng dối lừa. Thấy người gặp khó thì lương tâm động lòng trắc ẩn, thấy kẻ bạc ác thì tỏ cái chí khí bất bình. Quan Lộc mà đắc thì sẽ hiển vinh, hợp với Đế ở 1 chỗ thì tất sẽ tranh quyền. Phù tá cho ánh sáng của Nhật Nguyệt, đồng thời hỏa giải cái ác của Liêm Trinh. Thân Mệnh đắc thì vinh dự; Tử Tức đắc thì con cái thành đạt, ở khắp 12 cung đều là phúc tốt đẹp cát tường, không tùy xuôi theo ác, mà có thể biến chí và hoán cải cái ác cũng như kẻ bất nhân. Hạn mà gặp thì giàu có khó lường lắm. Thiên Tướng mà lâm vào chỗ sinh vượng, tuy không gặp Đế tinh, nếu đắc Tả Hữu thì tất chấp chưởng chức quyền uy phong lắm. Nếu cư vào chỗ nhàn nhược, cũng tạo tác điều cát lợi, nhị hạn mà gặp thì chủ phú quý.
Hi Di tiên sinh viết: Thiên Tướng nam đẩu đẩu tinh, thuộc ti Tước hàm, hóa khí là Ấn. Chủ nhân được được hậu hĩnh đầy đủ cơm áo, nếu hội Tả Hữu Xương Khúc thì tước vị tầm cỡ Công Khanh. Hãm địa gặp Tham Liêm Vũ Phá Kình Đà Sát tụ tập vây chiếu thì nhờ vào nghề khéo léo mà yên thân. Hỏa Linh xung phá thì tàn tật. Vào nữ mệnh chủ đoan trang, thông minh, chí khí có khi vượt quá cả đấng trượng phu. Tam phương cát tinh củng chiếu thì luận là được phong tặng, nếu Xương Khúc xung phá thì là thiếp, đi theo đường tăng đạo thì chủ thanh cao.
Ca viết:
Thiên Tướng nguyên thuộc Thủy
Hóa Ấn chủ quan lộc
Thân Mệnh nhị cung phùng
Định là nhiều tài phúc
Hình thể có phì mãn
Ngôn ngữ không hách dịch
Làm quan chủ thăng tiến
Ở nhà chủ phú ông
Nhị hạn mà gặp nó
Trăm sự được sung túc.
Hỏi Thiên Lương chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thiên Lương thuộc Thổ, là sao thứ hai của Nam đẩu. Thuộc ti Thọ, hóa khí là Ấm là Phúc Thọ, là chủ của Phụ Mẫu cung, có thể hỏa giải tàn nhẫn thành hòa nhã tốt lành. Ở nhân mệnh thì tính tình ngay thẳng lỗi lạc, ở Tướng Mạo thì nhân hậu ổn trọng, khiêm nhường, chính trực vô tư. Vào việc thì quả quyết, che chở tạo phúc cho bản thân cũng như con cháu họ hàng. Gặp Xương Khúc ở Tài cung, gặp Thái Dương ở tam hợp Phúc Đức thì được thanh danh vẹn toàn mọi bề. Vinh hiển ở chức vị như vương thất, được gia phong hiến tặng. Nếu gặp Hao tinh, lại thêm Tham Cự đồng độ thì loạn lễ nghĩa loạn cửa nhà. Cư chỗ Nô Bộc, Tật Ách, Tướng Mạo thì luận là về tác phong có những động tác thừa thãi. Thấy Liêm Trinh Hình Kị thì không phải lo lắng về tai ách, hình khắc, kích động; gặp Hỏa Linh Hính Ám cũng chẳng sợ sự phiền nhiễu của chinh chiến. Thái Tuế hòa làm Phúc, Bạch Hổ lâm mà không ngại tai ương. Luận về tính chất của Thiên Lương, xác quyết là cái lý cùng thông vậy. Mệnh cung hoặc đối cung có Thiên Lương thì chủ sống lâu, là sao vô cùng cát lành vậy.
Hi Di tiên sinh viết: Thiên Lương là sao thuộc Nam đẩu ti Thọ, hóa khí là Ấm là Thọ. Phụ tá cho quyền hành của Đế, là chủ của Phụ Mẫu, chủ người thanh tú ôn hòa, có hình dáng và thần thái ổn trọng, tính tình ngay thẳng, thiện nghệ đối với binh pháp. Đắc Xương Khúc Tả Hữu gia hội, tước vị cỡ Tam Công. Tại Phụ Mẫu cung thì nhân hậu, ổn trọng, uy nghiêm, hội với Thái Dương nơi Phúc Đức thì được quý đến cực phẩm. Người sinh năm Mậu Kỷ là hợp cục, nếu Tứ Sát xung phá thì như mầm non chẳng vươn lên được, gặp Thiên Cơ và Hao tinh thì dễ theo tăng đạo hưởng thanh nhàn. Với Tham Cự đồng độ thì thành ra suy bại về luân lý, loạn về phong tục. Tại Nô Bộc Tật Ách thì tác phong dư thừa. Gặp Liêm Trinh Hình Kị thì không lo về hình khắc xung đột. Hỏa Linh Ám mà gặp thì cũng chẳng cần e ngại chiến chinh quấy nhiễu. Thái Tuế xung cũng là phúc, Bạch Hổ hội cũng vô tai vô nạn. Tấu Thư hội thì có điềm vinh hiển ở bên ngoài, Thanh Long mà động thì tất sẽ có văn thư báo tin vui, hỉ sự. Đại Tiểu Hao mà giao hội thì việc công cán không thành công, Bệnh Phù Quan Phù tương xâm thì không luận là tai họa. Nữ nhân có cát tinh nhập miếu thì vượng phu ích tử, Xương Khúc Tả Hữu phù trì thì được phong tặng, Kình Đà Hỏa Kị xung phá thì tất sẽ chiêu thị phi không trong sạch, hợp với tăng đạo.
Ca viết:
Thiên Lương nguyên thuộc Thổ
Nam đẩu tối cát tinh
Hóa Ấm, Danh, Diên Thọ
Sao chủ Phụ Mẫu cung
Ở Điền Trạch, Huynh Đệ
Đắc thì phúc tự sinh
Hình thần tự ổn trọng
Tâm tính thật hòa bình
Cuộc đời không tai nạn
Văn chương có thanh danh
Với lục thân hòa ái
Làm quan ở triều đình
Cự Môn nếu tương hội
Lao khổ trải đắng cay
Nếu gặp Thiên Cơ chiếu
Vào rừng núi đi tu
Cơ Lương nơi Thìn Tuất
Luận phúc thọ vô cùng.
Hỏi Thất Sát chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thất Sát là sao thứ sáu thuộc Nam Đẩu, ngũ hành thuộc Hỏa, Kim. Là thượng tướng trong các sao, là cô thần của trong thành bại. Tại đẩu thì thuộc ti quyền bính của các sao, chủ về phong hiến. Uy phong của nó được lấy làm anh linh của kim, tính khí của nó dường như rất lạnh lùng. Chủ vào số hợp với tăng đạo, chủ vào thân định là trải qua gian khổ. Tại Mệnh cung mà nếu hạn không phù trì cho thì chết yểu, tại Quan Lộc đắc địa thì hóa họa thành tốt lành. Tại Tử Tức thì con cái cô đơn; cư Phu Thê thì chia loan rẽ thúy, phòng không lạnh lẽo nửa chừng. Hội Hình Tù ở Điền Trạch Phụ Mẫu thì hình khắc tổn thương cha mẹ, khó mà lưu giữ được sản nghiệp. Gặp Hình Kị Sát ở Thiên Di, Tật Ách, thì chung thân tàn tật, khiến cho cả đời cô độc, cũng ứng với tuổi thọ không được lâu dài. Cùng với Tù tinh ở Thân Mệnh thì chân gãy tay thương, lại chủ bệnh lao, phổi bị tổn thương. Hội Tù Hao tinh ở Thiên Di là bỏ mạng ở trên đường. Nếu lâm vào cung chính âm thì tác họa nặng nề. Lưu niên sát diệu chớ có gặp, bản Thân có sát tinh mà Thìn Tuất cũng thêm sát nữa, bản Thân có Thất Sát phùng ác tinh ở nơi trọng yếu, Mệnh lại gặp sát diệu ở tam phương, lưu sát lại thêm sát, nhị hạn mà gặp như thế thì chỉ có chết trận mà thôi. Hội hợp với Thái Dương Cự Môn ở chỗ Đế Vượng thì cát lành, ở chỗ Không Vong mà phạm phải Hình sát thì gặp họa rắc rối không ít. Đại tiểu nhị hạn hội hợp và Thân Mệnh thì kể cả có Đế tinh chế hóa vẫn thành không công. Tam hợp với đối xung có Lộc Tồn thì cũng vô lực. Có cái thế anh hùng mà bị kiềm chế thì cũng tan tành giấc mộng Nam Kha. Nó mà nhập hạn thì phải coi cẩn thận, tỉ mỉ chỗ trọng yếu bởi vì nó là ác diệu ở trong số chứ chẳng phải thiện tinh gì đâu.
Hi Di tiên sinh viết: Thất Sát tại đẩu là thượng tướng, gặp Tử Vi thì hóa Quyền giáng Phúc, ngộ Hỏa Linh thì uy sát của nó càng dai dẳng. Gặp hung diệu ở Sinh hương thì xác định là đồ tể, hội Xương Khúc chỗ yếu địa thì tính tình tham lam ngu dốt lại còn ngông nghênh (QNB chú: nguyên văn là chữ “ngoan hiêu – 頑囂”, với “ngoan” = tham lam, ngu ngốc, ương bướng,… và “hiêu” = ngạo mạn, làm ồn ào,… giới trẻ ngày nay có 1 thành ngữ xì-tin rất hợp cho 2 từ này là “đã ngu còn tỏ ra nguy hiểm”). Bí Kinh nói, “Thất Sát cư hãm địa, trầm ngâm phúc bất sinh” chính là vì thế. Thân Mệnh nhị cung mà gặp thì định là phải trải qua cay đắng khổ sở, nhị hạn mà gặp thì gặp tai ương phá bại. Gặp được Đế & Lộc thì có thể giải được, gặp thêm lưu niên sát tinh thì sẽ gặp phải hung hiểm. Thủ nơi Thân Mệnh thì vào việc không dứt khoát, mừng giận thất thường. Tả Hữu Xương Khúc nhập miếu củng chiếu thì chấp chưởng quyền sinh quyền sát, phú quý xuất chúng. Nếu mà Tứ Sát Kị tinh xung phá thì lại là người bình thường có tay nghề khéo léo mà thôi, còn như hãm địa nữa thì thành ra bị tàn tật. Vào nữ mệnh lại ở nơi vượng địa thì chí khí còn hơn cả đấng trượng phu, có của cải quyền lực khiến cho người khác khâm phục. Nếu có Tứ Sát xung phá thì hình khắc, không trong sạch, hợp với tăng đạo, mà thêm sát tinh vây chiếu thì phiêu đãng phong trần, có đi tu thì cũng hoàn tục.
Ca viết:
Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ cung
Bốn bể chắp tay phục anh hùng
Khôi Việt Tả Hữu Văn Xương hội
Quyền-lộc-danh cao thực vạn chung
Sát cư hãm địa khó nói hết
Hung họa như ôm hổ ngủ cùng
Nếu mà sát mạnh không gặp chế
Ác nạn yểu vong hết vẫy vùng.
Hỏi Phá Quân chủ định như thế nào?
Đáp viết: Phá Quân thuộc Thủy, là sao thứ bảy của Bắc Đẩu, là thần quản các ti Phu Thê, Tử Tức, Nô Bộc. Ở Tý Ngọ là nhập miếu, tại trời là sát khí, tại số là hao tinh, vì thế mà hóa khí là Hao. Chủ nhân hung bạo giảo trá, tính gian giảo, khó hòa hợp với người khác, hơi chút là có thể làm tổn thương tới người ta liền. Khó mà thành kẻ lương thiện, hay trợ giúp cho kẻ ác. Ngược đãi và coi lục thân như kẻ thù, đối xử với cốt nhục vô tình vô nghĩa, duy chỉ có những người tuổi Quý tuổi Giáp thì hợp cách chủ hưởng phú quý. Hãm địa mà thêm sát tinh xung phá thì khéo tay nghề nhưng dễ tàn tật, khó giữ được tổ nghiệp, hợp theo tăng đạo. Nữ nhân mà bị xung phá như thế thì dâm đãng vô sỉ. Sao này mà ở cùng với Tử Vi thì khiến cho (Tử Vi) mất đi uy quyền; gặp Thiên Phủ thì trở thành gian trá; hội Tử Tham thì trộm cắp đạo tặc. Cùng Liêm Trinh Hỏa Linh đồng dộ thì nhất quyết sẽ khởi tụng thị phi kiện cáo; cùng Cự Môn đồng độ tắc khẩu thiệt tranh đấu; cùng Hình Kị đồng độ thì cả đời tàn tật. Cùng Vũ Khúc nhập vào Tài cung thì làm đằng Đông cũng hỏng mà làm đằng Tây cũng bại; với Văn tinh thủ Mệnh thì một đời là kẻ sĩ nghèo túng. Gặp chư hung kết bè đảng thì phá bại, ngộ nơi hãm địa thì họa của chúng không hề nhỏ. Duy chỉ có Thiên Lương có thể chế được cái ác của nó, Thiên Lộc có thể giải được cái cuồng của nó. Nếu gặp lưu niên sát tinh giao hội thì sản nghiệp gia đình bị phá hỏng, mất hết. Cùng Văn Khúc nhập vào Thủy vực thì tàn tật, chủ ly hương. Ngộ Văn Xương ở Chấn cung, gặp cát tinh thì có thể được Quý. Nếu mà nữ mệnh gặp phải là kết hôn mà chẳng có mối mai gì sất, phiêu đãng lưu lạc, chôn vùi tiết hạnh. Phàm kẻ có Thân Mệnh cư Tý Ngọ, có Tham Sát củng chiếu thì uy danh chấn động biên thùy. Hoặc cùng Vũ Khúc cư Tị cung có Tham Lang củng cũng được ở nơi đài các. Nhưng cần xem ác tinh như thế nào! Người tuổi Giáp Quý thì nhập cách nhưng mà đến lúc già cũng chẳng toàn mĩ vậy. Tại Thân Mệnh hãm địa thì quên tổ bỏ tông; tại Huynh Đệ thì cốt nhục tham gia thương nghiệp (QNB chú: nguyên văn chữ “Tham thương – 參商” thì chữ “thương” này có nghĩa là buôn bán, thương mại, thương lượng… nhưng tôi cho rằng chữ này có sự sao chép viết sai, nhẽ ra viết chữ “thương – 傷 / 戧”= thương đau, thương tích, xung đột,… thì hợp hơn. Điểm này, độc giả xem thêm ở phần vấn đáp của Cự Môn lại thấy nói “ở huynh đệ cung thì anh em tham gia thương nghiệp”. Bởi suy từ tính lý của Cự Môn thị phi, ám muội, cộng thêm câu phú “Cự Môn đến nhị cung, thì anh em vô tình vô nghĩa” – Chuẩn Thằng phú -, cũng như tính lý của Phá Quân là đối xử bạc bẽo với lục thân, thì biết khi chúng đóng vào cung Huynh đệ sẽ gây ra bất hòa, anh em thương tàn, làm tổn thương nhau. Xin độc giả lưu ý vậy);
tại Phu Thê thì bất chính, chủ nhân nhân trắc trở, tới lui khó toàn; tại Tử Tức là trước thời tổn thất sau thời được thành đạt; tại Tài Bạch như nước sôi dội vào tuyết (ý nói tan hết cả); tại Tật Ách gây ra lưng gù chân khuềnh; tại Thiên Di chủ bôn ba vô lực; tại Nô Bộc thì bị kẻ dưới chê bai báng bổ oán trách rồi bỏ đi; tại Quan Lộc thì chủ thanh bần; tại Điền Trạch mà hãm thì phá đãng cơ nghiệp tổ tông; tại Phúc Đức thì lắm tai nhiều nạn; tại Phụ mẫu thì có hình khắc, có phá tướng.
Hỏi Văn Xương chủ định như thế nào?
Đáp viết: Văn Xương chủ khoa giáp, thủ Thân Mệnh chủ nhân u nhàn nho nhã, khôi ngô thanh tú, thông hiểu và uyên bác về văn chương ký sự, có tài cơ biến lạ thường, một lần thi cử là thành danh liền mà khoác lên mình tấm lụa đào, áo tím (ý nói quan phục cao cấp), được phúc thọ song toàn. Bị tứ sát xung phá vây hãm thì cũng không đến nỗi là kẻ hạ tiện.
Nữ nhân mà gặp, thêm cát tinh tinh đắc địa thì y lộc được sung túc. Tứ sát mà xung phá thì hạ tiện hoặc làm tì thiếp, thích nghi với tăng đạo.
Văn Xương gia thêm Quyền Lộc là dấu hiệu của người bậc thày nhân hậu, ổn trọng.
Ca viết:
Văn Xương chủ khoa giáp
Thìn Tị là vượng địa
Lợi Ngọ, ghét Mão Dậu
Mệnh Hỏa sinh bất lợi
Mi mắt định phân minh
Tướng mạo rất đẹp đẽ
Hỉ người mang mệnh Kim
Phú quý song toàn mỹ
Trước khó sau thành dễ
Gần cuối có thanh danh
Thái Dương Phúc Ấm tụ
Loa truyền đệ nhất danh.
Hỏi Văn Khúc chủ định như thế nào?
Đáp viết: Văn Khúc thuộc Thủy, là sao thứ tư của Bắc Đẩu, chủ khoa giáp và guồng văn học. Tượng của nó thuộc Thủy, cùng Văn Xương hiệp đồng thì số tốt đẹp vô cùng, khi lâm vào Thân Mệnh thì khiến cho thành công khoa bảng. Đào hoa ngao du, vào kẻ làm quan thì không có gì nghi ngại cả. Ở Quan Lộc cung thì gần gũi vua mà chấp chính. Đơn thủ ở Thân Mệnh lại gặp hung tinh thì cũng chẳng có công danh gì mà chỉ làm kẻ biện thuyết mà thôi. Cùng với Liêm Trinh ở 1 chỗ thì tất sẽ làm công sai, quan lại. Thân mà cùng với Thái Âm đồng hành định là cửu lưu thuật sĩ. Ghét gặp Phá Quân sợ lầm vào đất thủy thì dễ sinh ra tai nạn; không ưa gặp Tham Lang vì khiến cho chính sự bị điên đảo. Gặp Thất Sát Hình Kị Tù và chư ác diệu thì không trách được làm kẻ gian trá. Gặp Cự Môn cùng triền độ thì chôn vùi hòa khí. Nữ mệnh không hợp gặp nó vì thủy tính tơ liễu đào hoa. Kị nhập vào thổ cung vì hạn lâm vào đó sẽ vất vả. Nếu mà Lộc Tồn, Hóa Lộc tới trong triền độ thì luận là không thể nào gặp hung được.
Hi Di tiên sinh viết: Văn Khúc thủ Thân Mệnh, cư Tị Dậu Sửu cung là quan cư hầu bá. Vũ Tham tam hợp hoặc đồng viên là tướng tướng chi cách, gặp Văn Xương cũng dĩ nhiên là giống thế. Nếu mà hãm cung Ngọ Tuất, có Cự Môn Kình Đà xung phá thì táng mệnh yểu chiết, vốn đại kinh hiểm. Nếu ở Hợi Mão Mùi là vượng địa, cùng Thiên Lương Thiên Tướng hội họp thì chủ thông minh bác học, sát xung phá thì hợp với tăng đạo. Nếu nữ Mệnh gặp thì thanh tú, thông minh, chủ quý, nhưng nếu hãm địa có sát xung phá thì chủ vừa dâm vừa tiện.
Hỏi lưu niên Xương Khúc chủ định thế nào?
Đáp viết: mệnh phùng lưu niên Xương Khúc, là khoa danh khoa giáp. Đại tiểu nhị hạn mà gặp, thêm tam hợp củng chiếu Thái Dương, lại vừa có lưu niên Lộc; tiểu hạn có Thái Tuế và Khôi Việt, Tả Hữu, Thai Tọa, Nhật Nguyệt, Khoa Quyền Lộc Mã tam phương củng chiếu thì nhất định là đỗ đạt cực cao mà chẳng cần nghi ngại gì. Cũng đúng ngần ấy sao là đại cát ở tam phương thì làm thủ khoa trong năm ấy. Hai sao này ở Tị Dậu là đắc địa, không phú thì sẽ quý, nhưng mà lại thường là không được dài lâu.
Ca viết:
(QNB chú: trong bài ca quyết có một số chỗ khó hiểu nên tôi để nguyên văn phiên âm. Sau này sẽ bàn luận. Độc giả lưu ý).
Nam bắc Xương Khúc tinh
Số trung thôi đệ nhất
Thân Mệnh tối vi giai
Chư cát khủng phi cát
Đắc nhân cư mệnh thượng
Đào hoa lãng tam cấp
Nhập sĩ canh vô hư
Thung dung yếu Phụ Bật
Chích khủng ác sát lâm
Hỏa Linh Dương Đà kích
Nhược hoàn phùng hãm địa,
Miêu nhi bất tú thực
Bất thị công lại bối
Cửu lưu công số thuật
Vô phá tể chức quyền
Nữ nhân đa dâm dật
Nhạc cư Hợi Tý cung
Không Vong quan vô ích.
Hỏi Tả Phụ chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Tả Phụ là sao phụ tá như “cánh tay trái” của Đế tinh, thủ Thân Mệnh ở khắp các cung đều giáng phúc. Chủ nhân hình tướng diện mạo đôn hậu, khẳng khái phong lưu. Nếu tam phương đắc Tử Phủ Lộc Quyền tam hợp xung chiếu thì chủ văn võ đại quý. Hỏa Kị xung phá thì tuy phú quý nhưng không được lâu bền. Theo tăng đạo thì thanh nhàn, cho nên ổn trọng, hiền đức, hiểu biết rộng, ở chỗ vượng địa thì được phong tặng. Hỏa Kị mà xung phá thì đoán là trung cục.
Hỏi Hữu Bật chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Hữu Bật là sao phụ tá như “cánh tay mặt” của Đế tinh, thủ Thân Mệnh thì tinh thông về văn vẻ, hội họa. Có Tử Phủ và các cát tinh đồng viên thì Tài Quan song mỹ, văn võ song toàn. Kình Đà Hỏa Kị xung phá thì đoán là hạ cục. Vào nữ nhân có tính hiền lương, nếu có Tứ Sát xung phá thì cũng không đến nỗi hạ tiện, theo tăng đạo được thanh nhàn.
Ca viết:
Tả Phụ nguyên thuộc Thổ
Hữu Bật gốc Thủy tinh
Vắng Chủ thành vô dụng
Tam hợp cần thấy Vua
Nếu cùng chỗ Tử Vi
Tước lộc không kể xiết
Nếu ở tại Phu Thê
Chủ hai lần kết phối
Nếu cùng sao Liêm Trinh
Cạo đầu vì ác tiện
Phụ Bật là thượng tướng
Phụ tá Tử Vi tinh
Mừng kề bên Nhật Nguyệt
Văn nhân vượt vũ môn
Rảo bước nhàn thăng tiến
Vô tước là vô danh
Bởi Thê cung gặp chúng
Quyết định hai đời vợ
Nếu cùng Hình Tù đóng
Hình thương làm đạo tặc.
Hỏi Thiên Khôi Thiên Việt chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Khôi Việt là sao của ti Khoa bảng, nhập Mệnh tọa quý hướng quý, hoặc đắc Tả Hữu cùng cát tinh hội tụ thì chẳng quý cũng giàu sang, huống hồ hai sao lại còn vừa là thần của thượng giới chủ về hòa hợp, trong trường hợp Khôi lâm Mệnh còn Việt thủ Thân hoặc luân phiên tương thủ. Nếu được thêm Tử Phủ, Nhật Nguyệt, Xương Khúc, Tả Hữu, Quyền Lộc tương ngộ, tuổi trẻ chắc chắn gặp được vợ đẹp. Lúc gặp phải đại nạn thì tất sẽ có quý nhân phù trợ thành tựu, kẻ tiểu nhân không được thế đâu nhé, nhưng đều là không phải gặp hung hiểm. Hạn gặp được thì chủ nữ thêm hỉ tín, sinh con trai thì tuấn nhã, nhập học công danh có thành tựu. Sinh con gái thì tất sẽ có dung mạo đoan trang, xuất chúng siêu quần; nếu sau bốn mươi mà gặp mộ khố thì lại không đoán giống thế được. Theo tăng đạo thì hưởng phúc, cùng với người hòa hợp, không hề hạ tiện. Nữ nhân mà có thêm nhiều cát tinh hội tụ thì tất sẽ là vợ của bực tể tướng, thượng phụ, luận là mệnh phụ phu nhân. Nếu gia thêm ác sát thì cũng được phú quý, nhưng mà không miễn được tâm tình có sự dâm dật.
Ca viết:
Thiên Ất quý nhân chúng tinh khâm (phục)
Mệnh gặp kim đới phúc cao thâm
Danh dự bay cao người ái mộ
Cổ kim uyên bác cứ như thần
Khôi Việt nhị tinh hạn thịnh cường
Người người gặp chúng đắc tiền, lương (thực)
Kẻ quan mà thấy thì phát phúc
Năm ấy nhất định gặp quân vương.
Hỏi Lộc Tồn chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Lộc Tồn là sao thứ ba của Bắc đẩu, là sao của “chân nhân” (QNB chú: là danh xưng cao quý của người chân thực hay vị tu hành đắc đạo), chủ người được quan quý tước lộc, chấp chưởng thọ mạng của con người. Gặp Đế tinh phù tá mà thi hành quyền, với Nhật Nguyệt mà có nó thì được tăng thêm quang huy. Thiên Phủ Vũ Khúc có nó thì thêm chức, Thiên Lương Thiên Đồng gặp thì thêm nhiều tốt lành. Tại khắp các cung thì chỉ có ở Thân Mệnh, Điền Trạch, Tài Bạch là trọng yếu, chủ về giàu có. Cư vào Thiên Di thì đẹp, với Đế tinh thủ Quan Lộc cung thì hợp cho phẩm hàm tước vị của con cháu. Nếu mà độc thủ ở Mệnh không có cát hóa thì chỉ làm kẻ nô tài trông coi kho quỹ cho người ta mà thôi. Lộc Tồn mà gặp cát tinh thì mới phô diễn được cái uy quyền cũng như tác dụng của nó, nếu mà gặp ác bại tinh thì bị thui chột khả năng. Vô cùng sợ lạc hãm chỗ Không Vong vì không thể tác phúc, lại thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì nhờ vào khéo tay nghề mà yên thân. Tước lộc (của Lộc Tồn) phải đang đắc thế thì mới được hưởng, thủ vào Thân Mệnh thì chủ nhân uy tín, chính trực, nhân hậu từ tâm, hiểu biết rộng lớn. Nữ nhân mà đắc thì thanh cao, hiền thục, khéo léo, tài năng, có chí khí như người quân tử. Tử Phủ Liêm cùng hội hợp, có thêm Lộc Tồn là thượng cục. Đại để thì sao này ở khắp các cung đều có thể giáng phúc mà tiêu giải tai nạn.
Ca viết:
Lộc Tồn bắc đẩu tinh
Trong số là thượng cục
Thủ ở nơi Thân mệnh
quý cũng cực giàu
Nó dẫn động cát tinh
Cũng có thể thăng chức
Văn nhân có thanh danh
Võ nhân lộc hậu hĩnh
Thứ dân phát hoạnh tài
Tăng đạo cũng chủ phúc
Quan lại mà gặp được
Bỗng nhiên hưởng thiên lộc.
Lại viết:
Giáp Lộc củng quý hợp Hóa Lộc (đây là giáp và hợp với vị trí của Hóa Lộc)
Lầu vàng lại gặp vàng đầy kho
Không chỉ một phương như chư hầu
Lộc ăn vạn chung chính bởi nó.
Lộc Tồn đối hướng thủ Thiên Di
Tam hợp gặp lợi lộc hèn gì
Có được người người đều kính phục
Tự nhiên tay trắng khởi cơ đồ.
Hỏi Thiên Mã chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Khắp các cung đều có chế hóa, như Thân Mệnh lâm vào vị trí của nó là dịch mã (có sự chuyển động, di chuyển). Mừng được Lộc Tồn, Tử Phủ, Xương Khúc thủ chiếu vì được cát lành. Như đại tiểu hạn mà lâm vào, lại gặp thêm Lộc Tồn, Tử Phủ, Lưu Xương thì tất sẽ có lợi lộc.
Nếu như cùng Lộc Tồn đồng cung gọi là “Lộc Mã giao trì”, lại viết “chiết tiên Mã” (折鞭馬 – ngựa chạy nhanh dường như lúc quất gãy cả roi);
cùng Tử Phủ đồng cung gọi là “phù dư Mã” (扶轝馬 – ngựa kéo xe vàng của vua);
cùng Hình Sát đồng cung gọi là “Phụ thi Mã” (負尸馬 – ngựa chở xác chết);
cùng Hỏa Tinh đồng cung gọi là “chiến Mã” (ngựa chiến);
cùng Nhật, Nguyệt đồng cung gọi là “thư hùng Mã” (雌雄馬 – ngựa sống mái);
gặp Không Vong gọi là “tử Mã” “vong Mã” (ngựa chết toi);
ở chỗ Tuyệt Tử gọi là “tử Mã”;
gặp Đà La gọi là “chiết túc Mã” (折足馬 – ngựa què chân).
Phạm vào những cách như trên đây, thì đều chủ tai nạn bệnh tật, lưu niên mà gặp phải thì cứ theo như thế mà đoán (QNB chú: tuy nói là “những cách trên đây”, nhưng có lẽ nên trừ ra cách “Lộc Mã giao trì” và cách “Phù dư Mã” vì gặp 2 cách ấy mà nói là chủ tai nạn thì khó mà dám đoán theo như vậy. Độc giả lưu ý!).
Hỏi Hóa Lộc chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Lộc là thần của phúc đức. Thủ ở vị trí của Thân Mệnh Quan Lộc mà gặp được Khoa Quyền là tất sẽ làm tới chức quan đại thần. Tiểu hạn mà gặp thì chủ tăng tiến tài lộc, là điềm mừng về việc đỗ đạt, gia nhập vào quan trường. Đại hạn mười năm (mà gặp) thì đoán được cát lợi vui vẻ mà không cần nghi hoặc, nếu ác diệu lâm vào hợp cùng với Kình Đà Hỏa Kị xung chiếu thì cũng không gây tổn hại.
Nữ nhân mà có Hóa Lộc, được cát tinh củng chiếu thì làm mệnh phụ phu nhân, nhị hạn mà gặp thì trong uy phong mà ngoài thì nghiêm cẩn, nếu có sát tinh tấu hợp thì lại thành ra bình thường.
Hỏi Hóa Quyền chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Quyền tinh là thần chấp chưởng việc phán quyết sinh sát. Thủ nơi Thân Mệnh mà gặp Khoa Lộc thì xuất tướng nhập tướng (oai phong lẫm liệt). Nếu Quyền gặp Khoa thì tất đoán định là văn chương quán thế, ai ai cũng khâm phục ngưỡng mộ. Tiểu hạn mà tương phù thì không có gì là không tốt. Đại hạn mười năm tất nhiên cũng được toại chí. Nếu như gặp Kình Đà Hao Sứ Kiếp Không thì nghe lời sàm tấu, theo lời gièm pha mà tự chuốc lấy buồn phiền, gặp phải quan tai khẩu thiệt, bị châm biếm chỉ trích.
Nữ nhân mà có Hóa Quyền thì trong ngoài đều được thỏa chí cân xứng, có thể làm mệnh phụ phu nhân.
Tăng đạo gặp thì có tín hiệu chấp chưởng cả môn phái.
Hỏi Hóa Khoa chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Khoa tinh là thí sinh ứng tuyển ở thượng giới, là sao chủ chấp chưởng văn thơ họa. Thủ ở nơi Thân Mệnh mà gặp Quyền Lộc thì quan quý tới mức làm tể tướng trọng thần. Nếu như gặp ác diệu thì cũng vẫn được là văn chương tú sĩ, có thể làm thày giảng dạy cho những người tài.
Nữ Mệnh có thêm cát tinh củng chiếu thì chủ được phong tặng. Dẫu có tứ sát xung phá thì cũng vẫn được phú quý. Cùng với các văn tinh khoa tinh khác củng chiếu xung, thì cũng luận tương tự như thế.
Hỏi Hóa Kị chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Kị là thần quản nhiều thứ. Thủ ở nơi Thân Mệnh thì một đời không được thuận lợi, tiểu hạn mà gặp thì một năm ấy không được no đủ, đại hạn mười năm mà gặp thì hối hận tiếc nuối. Nhị hạn có Thái Tuế giao lâm thì quyết đoán là long đong vất vả. Văn nhân mà gặp thì không bền, võ nhân mà gặp thì dễ có quan tai khẩu thiệt khó phòng. Dẫu có là kẻ thương nhân, người làm kỹ nghệ thì cùng đều chẳng được lợi gì.
Nếu hội Tử Phủ, Xương, Khúc, Ttả Hữu, Khoa Quyền Lộc, với Kị đồng cung lại vừa có cả tứ sát cùng chiếu thì phát tài như cũng chẳng tốt đẹp, công danh thì lại khó thành tựu. Nếu như chỉ đơn thuần Kị gặp tứ sát, hao, sứ, kiếp không thì chủ bôn ba lưu lạc, có đới tật. Tăng đạo mà gặp thì cũng dễ hoàn tục. Xử sự thì chỉ muốn được nhận mà không muốn chia sẻ.
Hỏi Kình Dương chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Kình Dương thuộc Bắc đẩu. Thủ ở Thân Mệnh thì tính tình thô lỗ, hành vi nóng nảy, cô đơn, coi người thân như là kẻ sơ, phản ơn thành oán. Nhập miếu thì tính cương trực, quả quyết, cơ mưu và dũng mãnh, chủ về quyền quý. Người sinh phương Bắc là phúc, người tuổi Tứ Mộ thì không kị. (Kình Dương) cư ở Mão Dậu thì tác họa, dấy lên tai ương, cực kỳ hình khắc. Người tuổi Giáp và người tuổi Canh tất sẽ có hung họa. Dẫu phú quý cũng không bền và cũng chẳng được trọn vẹn/trọn đời lương thiện. Nếu mà lại là người thuộc giới cửu lưu hay công nghệ thì chăm chỉ và tinh tế. Thêm Hỏa Kị Kiếp Không xung phá thì tàn tật, ly tổ, hình khắc với lục thân.
Nữ nhân có Kình Dương nhập miếu mà gặp cát tinh thì là thượng cục, gặp nhiều Sát Hao xung phá thì chủ hình khắc là hạ cục.
Hỏi Đà La chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Đà La thuộc Bắc đẩu. Thủ ở Thân Mệnh thì tâm tưởng và hành vi đều bất chính, thường xuyên khóc thầm, tính tình cương mãnh, vào việc thì tiến thoái bất nhất. Chợt thành chợt phá, phiêu đãng bất định. (Đà La) Cùng với Tham Lang đồng độ thì vì tửu sắc mà mang phải bệnh tật (QNB chú: nguyên văn “成癆-thành lao”, chữ “lao” này có nghĩa là “bệnh lao”), cùng với Hỏa Linh cùng một chỗ thì bị ghẻ lở, bị bệnh ôn dịch. Cư vào cung Tật Ách là có ám tật triền miên. Những người tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi được phúc, tại nơi miếu địa thì luận là được cả tiền tài lẫn quan vị, đối với văn nhân thì không được lâu bền nhưng với võ nhân thì một bước lên mây. Nếu mà cư ở chỗ hãm địa thêm sát tinh thì hình khắc và chiêu chuốc hung họa, mang thêm họ khác thì được thọ lâu hơn (QNB chú: nguyên văn là “二姓延生 – nhị tính diên sinh”, nghĩa là có 2 họ, là làm con nuôi nhà khác thì sinh mệnh được kéo dài), nữ nhân gặp phải thì hình khắc hạ tiện.
Kình Đà nhị tinh tổng luận
Ngọc Thiềm tiên sinh viết: Kình Dương, Đà là hai sao thuộc Hỏa – Kim, là phù tinh của Bắc Đẩu, tại đẩu thuộc ti Tấu, tại số thì chủ hung ách. Kình Dương hóa khí là Hình, còn Đà La hóa khí là Kị. E ngại phải lâm vào ba cung là Huynh Đệ, Điền Trạch và Phụ Mẫu. Kị tam hợp lâm vào Thân Mệnh, hội hợp Xương Khúc Tả Hữu thì có nốt ruồi chỗ kín và cả chỗ có thể thấy được. Thấy Nhật Nguyệt thì nữ khắc chồng, nam khắc vợ, là hung thần của các cung. Kị đồng cung với Nhật Nguyệt vì chủ tổn thương người thân thích và bị tổn hại cho mắt; gặp Hình tinh thì đào hoa phong lưu mà rước lấy họa; kị Tham Lang kè bên bởi vì do tửu sắc trăng hoa mà phải mất mạng; Hình vớii ám tinh mà đồng hành thi chiêu chuốc ám tật với hỏng mắt; ghét cùng với sát ám tinh đồng độ vì dễ chiêu chuốc lấy sự lăng nhục cũng như sinh ra có ám tật; cùng Hỏa Linh hội là hung ác, chỉ thích hợp với tăng đạo; Quyền Hình hội hợp sát tinh thì không tránh được quan tai khẩu thiệt; Tham Hao lưu niên mà gặp thì trên mặt có sẹo. Nhị hạn gặp phải chúng thì tai hại thi thoảng lại xuất hiện.
Ca viết:
Hình với Ám đồng hành,
Ám tật khắc lục thân
Hỏa Linh gặp hung hiểm
Chỉ hợp đạo với tăng
Quyền Hình Tù hội sát
Tật bệnh tai ách xâm
Lưu niên gặp Tham Hao
Trên mặt thời lắm sẹo
Hạn hành mà gặp chúng
Họa máu me chợt sinh
Kình Đà sát yểu thọ
Người gặp là quét sạch
Quân tử phòng kinh hoàng
Tiểu nhân bị tra tấn
Gặp Hao đoán ăn mày
Dễ thành người cõi âm
Nhị hạn nếu xâm phạm
Thi thoảng họa lại sinh.
Hỏi Hỏa Tinh chủ định như thế nào?
Đáp viết: Hỏa tinh là Nam đẩu phù tinh vậy.
Hi Di tiên sinh ca viết:
Gặp Hỏa Tinh đại sát tướng
Nam đẩu hiệu sát thần
Nếu chủ Thân Mệnh vị
Các cung chẳng thể lâm
Tính khí cũng trầm độc
Cương cường xuất chúng nhân
Lông tóc nhiều loại lạ
Răng môi có tổn thương
Thêm Kình Đà cùng hội
Thơ ấu tất tai truân
Rời nhà người ngoài dưỡng
Mang hai họ thì thọ
Người Đông Nam thì lợi
Bất lợi Tây Bắc nhân
Nếu cùng Tham Lang hội
Miếu vượng quý vô ngần
Phong hầu cư thượng tướng
Nổi danh khắp biên đình
Tam phương vô sát phá
Trung niên được hưng thịnh
Tăng đạo nhiều phiêu lãng
Chẳng thủ quy giới luật
Vượng, nữ nhân thanh khiết
Hãm, tất chủ tà dâm
Hình phu và khắc tử
Hạ tiện cực khổ thân.
Hỏi Linh Tinh chủ định như thế nào?
Đáp viết: Linh Tinh là Nam đẩu trợ tinh vậy.
Hi Di tiên sinh ca viết:
Đại sát Linh Tinh tướng
Nam đẩu là tòng thần
Gặp ở nơi Thân Mệnh
Tính cách cũng trầm ngâm
Hình mạo cũng quái lạ
Uy thế có thanh danh
Nếu cùng Tham lang hội
Trỏ về hướng biên đình
Miếu địa tài quan quý
Hãm địa chủ cô bần
Kình Đà mà tấu hợp
Hình dáng thô xấu ghê
Cô đơn lại ly tổ
Tàn hại đới tật nhân
Tăng đạo nhiều phiêu lãng
Đoán hoàn tục chớ nghi
Nữ nhân vô cát diệu
Hình khắc mất lục thân
Chung thân chẳng trinh khiết
Vừa yểu vừa nghèo khốn
Sao này đại sát tướng
Ác của nó khó ngăn
Một đời có hung họa
Muốn giàu rất khó khăn
Thất sát chủ trận vong
Phá Quân gia cảnh bại
Liêm Trinh Kình Hình hội
Kiếp Không chủ đao binh
Hoặc hội Tham Lang tú
Quan lộc cũng chẳng yên
Nếu mà cư miếu vượng
Phú quý khó nói hết.
Kình Đà Linh Hỏa – tổng luận 4 sao
Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Hỏa Linh, Đà La kim
Kình Dương, Hình Kị ấy
Là sao chủ tảo phạt
Lại là đoản thọ sát
Khiến quân tử mất quyền
Tiểu nhân phạm hình pháp
Cô độc khắc lục thân
Họa tai không ngưng nghỉ
Hại chân, lưng, môi, răng
Trục trặc lắm lao lực
Phá tướng lại lao tâm
Ăn mày nơi mương rãnh
Cùng Vũ Khúc Tham Lang
Một đời chiêu hung ác
Tật ách mà gặp phải
Cả đời chẳng được khỏe
Chỉ hợp theo tăng đạo
An vui hưởng thóc vàng.
Hỏi Thiên Không Địa Kiếp chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh viết: Hai sao ấy thủ Thân Mệnh thì gặp cát sẽ tốt lành mà gặp hung sẽ hung hiểm (QNB chú: dịch nguyên văn “二星守身命, 遇吉則吉, 遇凶則凶. – Nhị tinh thủ Thân Mệnh, ngộ cát tắc cát, ngộ hung tắc hung”. Độc giả lưu ý vậy). Nếu như Tứ Sát xung chiếu thì nhẹ là kẻ hạ tiện, nặng thì là mệnh số của bọn súc sinh. vào số tăng đạo cũng bất chính, vào nữ mệnh thì làm tì thiếp, hình khắc cô độc. Đại để thì hai sao này đừng nên gặp thì hơn, nhất định chủ phá tài, nhị hạn mà gặp thì tất sẽ hung họa.
Ca viết:
Kiếp Không hại lắm khiến người buồn
Anh hùng gặp chúng cũng sợ luôn
Chỉ hợp theo tăng và tu đạo
Vàng ngọc chất chồng cũng bỏ luôn.
Hỏi Thiên Thương, Thiên Sứ chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Thiên Thương là thần của hư hao ở trên trời, Thiên Sứ là thần sứ giả của nhà trời. Thái tuế nhị hạn mà gặp thì chớ hỏi tại sao lại vào địa phủ (toi mạng). Chỉ cần nhiều cát tinh tụ hợp thì còn phúc vì họa của chúng cũng nhẹ thôi, nếu như mà không có cát tinh lại gặp phải Cự Môn, Kình Đà, Linh Hỏa, Hóa Kị, Thiên Cơ, thì năm đó tất sẽ chủ bị khẩu thiệt quan tai, tang vong, phá bại.
Hạn tới đại hao hiệu Thiên Thương
Khổng Tử thôn Trần, hết sạch lương
Thiên Sứ hạn lâm người thêm ghét
Thạch Sùng giàu thế vẫn cùng đường.
Hỏi Thiên Hình chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Thiên Hình thủ Mệnh Thân thì không là tăng đạo thì nhất định sẽ cô đơn hình khắc, không nghèo thì cũng yểu tử. Phụ Mẫu Huynh Đệ đều không được toàn vẹn, nhị hạn mà gặp thì chủ xuất gia, dính vào pháp luật, lao ngục, mất tiền. Khi nhập miếu thì lại tốt lành.
Ca viết:
Thiên Hình chưa chắc phải hung tinh
Nhập miếu gọi là Thiên Hỉ Thần
Xương Khúc cát tinh cùng tấu hợp
Định là hiến kế tới triều đình
Hình cư Dần vị và Dậu Tuất
Lâm vào cung Mão cũng quang minh
Gặp được văn tinh thành đại nghiệp
Trấn thủ biên cương trăm vạn binh
Thứ ba, không con bởi Thiên Hình
Là tăng là đạo thân cô linh
Thiên Khốc nhị tinh mà cùng đến
Cả đời khó thoát tật thân mình.
Hỏi Thiên Diêu chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Thiên Diêu thủ Thân Mệnh thì tâm tính âm độc, đa nghi lo sợ, nhan sắc đẹp, phong lưu lắm tì thiếp, chủ dâm dật. Nhập miếu vượng thì chủ phú quý lại có lắm người hầu hạ, cư ở Hợi có học thức. Hội ác tinh thì phá gia bại sản, vì sắc dục mà phạm vào hình pháp. Lục hợp trùng phùng thì thiếu niên yểu chiết. Nếu lâm hạn có Thiên Diêu thì vẫy người gọi vào thành hôn mà chẳng có mai mối gì cả (QNB chú: ý nói dâm tính mà chẳng tuân theo gia phép lễ nghĩa gì cả). Nếu có Tử Vi và cát tinh thêm vào nữa thì cương nhu tương hợp nên chủ “phong tao” (thường quấy nhiễu, phóng túng hoặc bị bệnh phong hàn quấy nhiễu), thêm Hồng Loan thì càng dâm, thêm Kình Hình thì chủ yểu vong.
Ca viết:
Thiên Diêu ở Tuất Mão Dậu cung
Thêm nhập song ngư một sao mong
(QNB chú: nguyên văn 更入雙魚一併求 – cánh nhập song ngư nhất tinh cầu. Không rõ chữ “song ngư” ở đây muốn ám chỉ cái gì? Độc giả lưu ý vậy).
Phúc hậu sinh thành mê tửu sắc
Vô tai vô họa trải Xuân Thu
Thiên Diêu ở với bại tinh cùng
Hiệu viết người ta tính kiêu căng
Bình sinh cay đắng một đời vậy
Chẳng được an vui với gió trăng
Người ta đôi lúc gặp Thiên Diêu
Luyến sắc tham hoa tính hung liều
Nếu mà sao ấy sinh vượng địa
Dù đăng cực phẩm cũng phong tao.
Hỏi Thiên Khốc, Thiên Hư chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Khốc Hư là ác diệu, lâm vào Thân Mệnh là rất bất thường, lâm vào trong cung Phụ Mẫu thì phá đãng bán cả vườn tược cửa nhà. Nếu ở Thân Mệnh hãm thì khổ cùng cực, cô độc, lại bị hình thương. Lục thân đều không được đầy đủ, lúc nào cũng phiền não. Mưu sự chẳng thành tựu, tâm sự luôn dồn nén, gấp gáp. Ở Sửu Mão Thân cung thì tốt lành, gặp Lộc thì được hiển danh.
Nhị hạn mà gặp Khốc Hư là đau buồn khóc đứt ruột.
QNB chú: Kết thúc mục “Chư tinh vấn đáp” trong TVĐS Toàn Thư, không rõ là do thất lạc mà bản này không có các sao khác nữa hay là chỉ vấn đáp các sao quan trọng để phán đoán được đại cục lá số chăng???? QNB có tham khảo qua bản dịch của cụ Vũ Tài Lục năm xưa thì cũng thấy chỉ có ngần ấy sao mà thôi, các sao khác là do cụ Vũ tham khảo và biên thêm vào.
Tiếp theo là quay lại với Phú, có chú giải, bài “Cốt Tủy Phú – chú giải” và “Tăng bổ Thái Vi Phú – chú giải”. Xem cách bố cục của cuốn sách thì cũng mường tượng ra được cảnh (đây chỉ là suy đoán của cá nhân QNB) khi biên soạn cuốn TVDSTT này thì ông La Hồng Tiên cũng chưa hẳn là thông thuộc hết các cách cục trong các câu phú của Thái Vi Phú nên sau khi vấn đáp chư tinh xong mới thêm vào phần chú giải cho các câu phú của bài ấy.
9. Đẩu Số cốt tủy phú, chú giải
Thái Cực tinh diệu là chủ của chư tinh liệt tú, vận hạn ở nơi thiên môn cũng chính là căn nguyên của việc phù Thân trợ Mệnh (trong số mệnh của con người), ở tại trời thì chuyển vần vô thường nhưng ở người thì Mệnh có cách cụ rõ ràng.
Trước tiên phải minh định được cách cục, thứ đến mới xem xét tới các sao. Dẫu cho cùng năm cùng tháng cùng ngày cùng giờ sinh, thì vẫn có sự khác nhau về bần tiện phú quý thọ yểu.
Có thể tại ác hạn mà lại tích lũy được bạc vàng trăm vạn. Có thể tại nơi vượng cung mà vẫn gặp phải khốn khổ năm này qua năm khác. Họa phúc không thể theo một đường lối duy nhất mà đoán, cát hung cũng không thể cứ theo một định lệ mà đoán được đâu.
Yếu tri nhất thế chi vinh khô,
định khán ngũ hành chi cung vị.
Lập mệnh khả tri quý tiện,
an thân tiện hiểu căn cơ.
(Nên biết rằng tươi tốt hay khô héo của một đời được định bởi việc xem ngũ hành cung vị. Chỗ lập Mệnh có thể thấy được sang quý hay tiện-hèn kém, nơi an Thân có thể hiểu được căn cơ của bản thân đương số.
Một đời vinh nhục bại thành
Cần xem tường tận ngũ hành của cung
Lập Mệnh quý tiện định chung
An Thân biết có vẫy vùng được chăng).
Người phú quý thì vinh vậy, kẻ bần tiện thì nhục vậy, xem trong số mệnh của con người mà biết vậy. Chủ tinh cát, phụ tá tinh cát, vận hạn cũng cát thì tất sẽ được một đời an nhiên tự tại. Vận hạn hung mà lưu niên gặp phải Sát Kiếp thì nhất định là gặp tai họa, hối hận… mà nói. Ngũ hành tức là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy vậy. Như Dần-Thân-Tị-Hợi thì là tứ Sinh, Tý-Ngọ-Mão-Dậu là tứ Bại, Thìn-Tuất-Sửu-Mùi thì là tứ Mộ, nếu tứ Sinh mà Lâm Quan Đế Vượng thì là phú quý, gặp Suy Bại Tử Mộ Tuyệt thì là bần tiện, Mộ khố Thai Dưỡng thì là trung dung bình thường. Lập Mệnh tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì giàu còn ở cung có ngũ hành Tử Tuyệt thì nghèo, an Thân tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì quý còn ở cung có ngũ hành Tử Tuyệt thì tiện, tới đây thì cũng cứ theo như lý luận ở trên mà nói (tức là, cứ phỏng theo đó mà suy ra, diễn tiếp ra…).
*
Đệ nhất tiên khán phúc đức, tái tam tế khảo thiên di,
phân đối cung chi thể dụng, định tam hợp chi nguyên lưu.
Mệnh vô chính diệu, yểu chiết cô bần.
Cát hữu hung tinh, mỹ ngọc hà điểm.
Kí đắc căn nguyên kiên cố, tu tri hợp cục tương sinh,
kiên cố tắc phú quý duyên thọ, tương sinh tắc tài quan chiêu trứ.
(Thứ nhất khán Phúc Đức, rồi khảo cứu kỹ Thiên Di, phân ra Thể Dụng của đối cung, xác định căn nguyên lưu chuyển của tam hợp. Mệnh vô chính diệu, chẳng nghèo khổ hoặc cô đơn thì chết yểu. Cát tinh mà có kèm hung tinh thì coi như là ngọc đẹp mà có tì vết. Phàm đã được căn nguyên vững chắc, cần hợp Cục tương sinh, vững chắc thì phú quý diên thọ, tương sinh thì tài quan hiển nhiên rõ ràng).
*
Mệnh hảo Thân hảo Hạn hảo đáo lão vinh xương,
Mệnh suy Thân suy Hạn suy chung thân khất cái.
(Mệnh tốt, Thân tốt, Hạn tốt thì tới già vẫn được vinh quang hưng thịnh
Mệnh suy, Thân suy, Hạn suy thì cả đời chỉ có đi ăn mày).
Giả dụ như, Thân Mệnh tọa ở nơi Trường Sinh Đế Vượng, bản cung lại đắc cát tinh miếu vượng, cùng với việc gặp đại tiểu hạn tương sinh tốt lành, gặp cát tinh nữa thì cả đời chẳng có mưu cầu gì là không được toại ý cả.
Giả như, Thân Mệnh cư ở chỗ Tử Tuyệt, bản cung không thấy cát hóa, hội thêm Kình Đà, giáp Linh Hỏa Không Kiếp các loại ác diệu, mà vận hạn lại không có cát tinh tiếp ứng, thì nhất định đó là số chủ bần tiện vậy.
Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri,
Giáp Quyền giáp Khoa thế sở nghi.
(cách “giáp Quý, giáp Lộc” này trên đời ít người gặp được,
Cách “giáp Quyền, giáp Khoa” thì ở đời cũng hiếm như thế.)
Giả như, người sinh năm Bính Đinh Nhâm Quý, an Mệnh tại Thìn Tuất, là giáp với Khôi Việt, lại có thêm cả cách giáp cung an Thân an Mệnh gặp Tử Vi Thiên Phủ Nhật Nguyệt Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc thì là giáp Quý, tất sẽ được phú quý vậy. Như người tuổi Giáp, với Thân Mệnh ở Sửu Mão và Dần có Lộc ở trong đó, gọi là “sinh thành chi Lộc”, rất là thượng cách. Ngoài ra giả sử như Giáp Dần, Ất Mão, Canh Thân, Tân Dậu 4 vị đó đều cùng cách ấy.
Như người sinh năm Giáp mà Mệnh an tại Tý có Liêm Trinh hóa Lộc cư Hợi, Phá Quân hóa Quyền cư Sửu, chính là Quyền Lộc giáp Mệnh, định là chủ phú quý, ngoài ra cũng cứ phỏng theo đó mà tính.
*
Giáp Nhật giáp Nguyệt thùy năng ngộ,
Giáp Xương giáp Khúc chủ quý hề.
(cách “giáp Nhật giáp Nguyệt” thì người ta thường gặp,
cách “giáp Xương giáp Khúc” là chủ về quý).
Giả như Thái Dương, Thái Âm tại Mệnh Thân mà 2 cung trước sau giáp Mệnh, không gặp phải Không Kiếp Kình Linh, tất sẽ quý vậy.
Như Xương Khúc giáp Mệnh thì cũng quý như vậy.
*
Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện,
Giáp Dương giáp Đà vi khất cái.
(cách “giáp Không giáp Kiếp” là chủ nghèo hèn,
cách “giáp Kình giáp Đà” là số ăn mày).
Giả như Mệnh có Hóa Kị gặp Thiên Không, Địa Kiếp, Kình Đà các sát tinh giáp Thân Mệnh này, cùng Liêm Phá Vũ các sao gặp chúng thì định là chủ cô đơn, nghèo hèn, nếu chẳng nghèo thì yểu, phê là hạ cách.
Lại như Mệnh có Hóa Kị, đồng thời Kình Đà Hỏa Linh đến giáp 2 bên, cũng phê là hạ cách, có thể Lộc tại chỗ Sinh Vượng thì tuy là giáp Kình Đà nhưng không coi là hạ cách.
Lại hoặc như Kình Đà Không Kiếp không cùng tới giáp 2 bên, mà ở tam phương gặp được Quyền Lộc thì cũng không luận là giáp bại được, thế nhưng vận hạn mà gặp sát tinh thì có tai họa liền.
*
Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phú chi nhân,
Thiên Lương Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách.
(Liêm Trinh Thất Sát khi gặp phản cách là trở thành người giàu có
Thiên Lương Thái Âm mà phản cách thì lại thành ra khách phiêu bồng).
Liêm Trinh thuộc Hỏa, Thất Sát thuộc Kim, là Hỏa chế Kim thành quyền, như Liêm Trinh cư Mùi Sát cư Ngọ, Thân Mệnh gặp được là kỳ cách, phản chuyển thành giàu có, hoặc nếu hãm địa Hóa Kị thì là hạ cách.
(QNB chú: phần sách chú giải cho câu này rõ là sai toét, làm gì có chuyện trong cùng lá số mà “Liêm cư Mùi, Sát cư Ngọ, Thân Mệnh gặp được” ở chỗ 2 cung cạnh nhau cho được!!! Theo thiển ý của tôi thì để được gọi là “phản vi kỳ cách” thì Liêm Sát đồng cung tuổi gặp được cát hóa, xa lánh sát hung tinh, ví dụ tuổi Giáp có Liêm hóa Lộc thủ Mệnh còn Phá hóa Quyền đóng ở cung Quan là hợp cách. Hoặc là một số trường hợp khác,… Độc giả lưu ý vậy).
Thái Âm mà cư Mão Thìn Tị Ngọ đều là hãm địa, như tại Hợi Tị nhị cung gặp Thiên Lương tọa ở Thân Mệnh thì định là chủ cô đơn nghèo túng, bằng không sẽ phải tha hương phiêu đãng, là kẻ đam mê tửu sắc mà thôi, lại nói Thiên Lương tuy không hãm nhưng cũng không thể khiến cho thành người đôn hậu được.
(QNB chú: phần sách chú giải cho câu này cũng nhập nhằng luôn!!! Theo thiển ý của tôi thì nên hiểu rằng Mệnh có Thái Âm hãm, Thân cư Quan có Thiên Lương hãm hoặc ngược lại Mệnh có Thiên Lương hãm, Thân cư Tài có Thái Âm hãm là được. Độc giả lưu ý vậy).
*
Tiền bần hậu phú tu hoàn mệnh trị Vũ Tham,
Tiên phú hậu bần chích vi vận phùng Kiếp Sát.
(Trước nghèo sau giàu bù lại là bởi Mệnh gặp Vũ Tham
Trước giàu sau nghèo chỉ vì vận hạn gặp Kiếp Sát).
Giả như, Mệnh lập tại Sửu Mùi có Vũ Tham đồng cung, cái Kim của Vũ Khúc thường khắc chế Mộc của Tham lang thì Mộc gặp chế hóa thành hữu dụng, vốn trước thì tuy nghèo mà sau này mới giàu, lại vừa được tam phương có Xương Khúc Tả Hữu các cát tinh củng chiếu thì chủ quý, hạn gặp Khoa Quyền Lộc tất sẽ quý hiển đấy mà.
Như Thân Mệnh cung có một, hai chính tinh, phía ngoài cũng gặp cát tinh, hạn trung niên đi vào Tuyệt địa, đồng thời gặp Kiếp Không Hao Sát các hung tinh, thì sao thủ Thân Mệnh vô lực, đó là nguyên do mà sau này nghèo vậy.
*
Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ Tài Quan chi vị,
Sinh lai bần tiện Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương.
(Ra đời được vinh hoa đó là bởi có Quyền Lộc đóng ở các cung Tài Bạch, Quan Lộc,
Cuộc đời nghèo hèn ấy là do Kiếp Không lâm vào các cung Tài Bạch và Phúc Đức).
Quyền Lộc thủ ở Tài Bạch và Phúc Đức nhập miếu có nhiều cát tinh thì định là chủ vinh hoa, Thân Mệnh gặp được cũng đương nhiên như vậy.
Kiếp Không tại hai cung Tài Bạch Phúc Đức thì chủ nhân nghèo hèn, Thân Mệnh mà gặp thì cũng đươn nhiên như vậy.
(QNB chú: không hiểu sao sách chú giải cho câu này lại vơ quàng việc Thân Mệnh mà gặp trong các trường hợp trên. Theo tôi thì cứ như sách TVĐS Tân Biên của cụ Thái Thứ Lang mà nói “Quyền đóng vào cung Quan, Lộc đóng vào cung Tài” ấy là đắc vị, là được việc thì dĩ nhiên là vào đời sẽ được hưởng vinh hoa. Hay như “Không đóng vào cung Tài, Kiếp lâm vào cung Phúc” ấy chính là phá cách, là hạ cục, như thế thì có thể phê số là nghèo hèn chứ có gì đâu).
Văn Khúc Vũ Khúc vi nhân đa học đa năng,
Tả Phụ Hữu Bật bản tính khắc khoan khắc hậu.
(Văn Khúc Vũ Khúc là người học nhiều và có nhiều năng lực,
Tả Phụ Hữu Bật thì bản tính khoan thai, nhân hậu).
Giả như, Thìn Tuất Tị Hợi Mão Dậu mà an Mệnh gặp Văn Vũ Khúc hai sao thì đúng là vậy, có Xương Khúc tọa Mệnh ở Mùi mà thấy Kình Đà các sát tinh thì lại dễ bị tai ương, bởi thế phép xem số cần trọng yếu sự linh hoạt.
Như Tả Hữu nhị tinh mà tọa Mệnh, không cần câu nệ nhiều sao hay ít sao cũng đều chủ người có tính tình khoan hậu.
*
Thiên Phủ Thiên Tướng nãi y lộc chi thần,
Vi sĩ vi quan định chủ hanh thông chi triệu.
(Thiên Phủ và Thiên Tướng là thần của tước lộc,
Là kẻ sĩ là kẻ quan đều định chủ điềm được hanh thông).
Giả như, an Mệnh tại Sửu, ở Tị Dậu cung có Phủ Tướng tới chầu, hoặc ở Mùi cung an Mệnh mà ở Hợi Mão có Phủ Tướng tới chầu cũng vậy, người tuổi Giáp mà không có sát tinh thì cứ y như thế mà đoán, nếu như thêm sát thì không phải vậy.
*
Miêu nhi bất tú khoa danh hãm ư hung hương,
Phát bất chủ tài lộc chủ triền ư nhược địa.
(Mầm non nhú lên mà chẳng phát triển được, là vì Khoa bị hãm ở nơi hung hiểm,
Phát mà lại không chủ tiền tài, ấy là do Lộc đi vào triền độ của chỗ nhược địa).
Giả như Khoa lâm vào trong chỗ có Không Kiếp Kình Đà thì vậy, lại hoặc là Thái Dương ở Tuất, hay Thái Âm ở Mão thì kể cả có cát hóa Khoa Quyền Lộc thì cũng không là đẹp được.
Giả như, Hóa Lộc hãm nơi Không Kiếp thì vậy, lại hoặc là ở Tý Ngọ Thân Dậu cung tuy Hóa Quyền Lộc thì cũng vô dụng, chủ cô đơn nghèo túng. (QNB chú: dịch nguyên văn, không biết sách có mất chữ gì không mà câu này không thấy nói sao gì hóa Quyền hóa Lộc. Độc giả lưu ý vậy).
*
Thất Sát triều Đẩu tước lộc vinh xương,
Tử Phủ đồng cung chung thân phúc hậu.
(Thất Sát chầu Đẩu thì quan tước lợi lộc được tốt tươi hưng thịnh,
Tử Phủ đồng cung thì cả đời được hưởng phúc dày).
Giả như, an mệnh tại Dần Thân Tý Ngọ có Thất Sát thì gọi là như vậy (tức, “Thất Sát triều đẩu”), cũng cần Tả Hữu Khôi Việt Xương Khúc tọa chiếu củng hợp thì mới theo y như thế mà đoán, có thể gặp hạn tốt đẹp thì cực hay, nếu như thêm sát tinh thì không đoán thế được.
Giả như, hai cung Dần Thân an Mệnh gặp Tử Phủ đồng cung, tam phương có Tả Hữu Khôi Việt củng chiếu thì tất sẽ chủ phú quý, cả đời được hưởng phúc dày, người tuổi Giáp hóa cát thì cực kỳ đẹp luôn.
*
Tử Vi cư Ngọ vô sát tấu vị chí tam công,
Thiên Phủ lâm Tuất hữu tinh phù yêu kim y tử.
(Tử Vi cư Ngọ mà không có sát tinh tụ tập vây chiếu thì tước vị cỡ Tam Công,
Thiên Phủ lâm vào cung Tuất có các sao phù trợ thì mang đai vàng áo tía – ý nói quan phục cao cấp)
Giả như, người sinh năm Giáp Đinh Kỷ mà mệnh an tại Ngọ được như vậy (Tử Vi vô sát tấu) là nhập cách, chủ đại quý, ngoài ra thì cũng giàu đủ hoặc là tiểu quý.
Giả như, người sinh năm Giáp Kỷ mà an Mệnh ở cung Tuất được như thế (Phủ có sao phù trợ) thì cứ y vậy mà đoán, thêm sát tinh thì không đoán thế nữa, trọng yếu là có Khôi Việt Tả Hữu Lộc Quyền thì chủ đại phú đại quý, nếu như không có các cát tinh ấy thì cũng bình thường thôi.
*
Khoa Quyền Lộc củng danh dự chiêu chương,
Vũ Khúc miếu viên uy danh hách dịch.
(Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì rõ ràng có tên tuổi và vinh dự,
Vũ Khúc nhập miếu thì uy danh cũng lẫy lừng, long trọng).
Chúng là Tam Hóa cát tinh, nếu như Thân Mệnh tọa thủ một Hóa, Tài Bạch và Quan Lộc có 2 hóa đến hợp chiếu, đích thị là tam hợp thủ chiếu, được gọi là “Khoa Quyền Lộc củng” vậy, thêm cát tinh nữa thì tước vị cỡ Tam Công.
Giả như, an mệnh ở hai cung Thìn Tuất gặp được Vũ Khúc nhập miếu thì là thượng cách, ở Sửu Mùi an Mệnh thì chỉ là thứ cách, cần phải thấy Tả Hữu Xương Khúc và các cát tinh thì cứ y như thế mà đoán.
Khoa minh Lộc ám vị liệt tam thai,
Nhật Nguyệt đồng lâm quan cư hầu bá.
(có cách “Khoa minh Lộc ám” thì tước vị cỡ Tam Thai – Tam Thái, Tam Công,
có cách “Nhật Nguyệt đồng lâm” thì làm quan được phong Hầu, phong Bá).
Giả như, người sinh năm Giáp mà an Mệnh tại Hợi, gặp Hóa Khoa thủ mệnh, lại có Thiên Lộc cư ở cung Dần, thì Hợi với Dần là nhị hợp, cho nên viết là “Khoa minh Lộc ám”.
Giả như, Mệnh an tại cung Sửu, trong khi ở Mùi lại có Nhật Nguyệt đồng cung xung chiếu, hoặc Mệnh an tại Mùi còn ở Sửu lại có Nhật Nguyệt đồng cung thì là cách ấy vậy (Nhật Nguyệt đồng lâm), phép bí truyền nói “Nhật Nguyệt đồng lâm luận đối cung”, người tuổi Bính tuổi Tân gặp được hưởng phúc hưng thịnh.
*
Cự Cơ đồng cung công khanh chi vị,
Tham Linh tịnh thủ tướng tướng chi danh.
(Cự Cơ đồng cung thì có tước vị cỡ Công hầu khanh tướng
Tham Linh tịnh thủ thì được nổi danh là tướng tài).
Giả như, người sinh năm Tân Ất mà Mệnh an tại Mão cung, có Cự Cơ thủ mệnh lại gặp Tả Hữu Xương Khúc thì là thượng cách, như người tuổi Bính thì là thứ cách, người tuổi Đinh thì cũng chủ bình thường, ngoài ra cung phận mà không ở đó (Mão) thì không luận như vậy.
Như an Mệnh tại các cung Thìn Tuất Sửu Mùi Tý mà gặp Tham Linh, thì là nhập miếu nên cứ theo y như vậy mà đoán, nếu như gia cát tinh thì duy chỉ có tọa thủ ở hai cung Tý Thìn thì rất đẹp, người tuổi Mậu Kỷ là hợp cách.
*
Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương,
Thiên Lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ.
(Có Khôi Việt thì là người có tài văn chương cái thế,
Có Lộc Mã thì cũng đỗ đạt thủ khoa khiến người ta nể phục).
Giả như, Thân Mệnh tọa chỗ Thiên Khôi và đối cung lại có Thiên Việt, hoặc ngược lại Thân Mệnh tọa Thiên Việt còn đối cung có Thiên Khôi, đó chính là “tọa Quý hướng Quý”, hội thêm cát tinh, hóa tinh, thì quý là tất nhiên vậy.
Giả như, an Mệnh tại các cung Dần Thân Tị Hợi gặp Thiên Lộc, Thiên Mã tọa thủ. Mệnh cung có thêm tam hợp cát tinh thủ chiếu thì cứ y như thế mà đoán. Nếu có thêm sát tinh thì không đoán như vậy.
*
Tả Phụ Văn Xương hội cát tinh tôn cư bát tọa,
Tham Lang Hỏa Tinh cư miếu vượng danh chấn chư bang.
(Tả Phụ Văn Xương hội với các cát tinh thì chỗ ngồi tôn quý, quan cao cấp
Tham Lang Hỏa Tinh cùng cư nơi miếu vượng thì uy danh chấn động các nước láng giềng).
Giả như, hai sao ấy (Tả Phụ Văn Xương) mà tọa thủ ở nơi Thân Mệnh, thêm ở tam phương có cát tinh củng chiếu thì cứ y theo đó mà đoán. Nếu thêm sát tinh, Không Kiếp, thì không hợp với cách ấy.
Giả như, an Mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, gặp được chúng (Tham Hỏa) ở đó là thượng cách, tam phương có cát tinh củng chiếu thì rất đẹp. Nếu như ở Mão an Mệnh thì là thứ cách. Nếu như có Kình Đà Không Kiếp thì không phải cách đó.
*
Cự Nhật đồng cung quan phong tam đại,
Tử Phủ triều viên thực lộc vạn chung.
(Cự Nhật đồng cung thì ba đời được gia phong quan chức
Tử Phủ chầu mệnh viên thì được hưởng lộc ăn tới hàng vạn chung – bổng lộc hậu hĩnh).
Dần cung an Mệnh mà có Cự Nhật, không thấy Kiếp Không và Tứ Sát thì là thượng cách, ở cung Thân (khỉ) là thứ cách. Ở Tị Hợi thì không phải là đẹp, như Tị cung có Nhật thủ Mệnh viên, ở Hợi có Cự thì còn coi là thượng cách, như Tị mà có Cự thủ Mệnh và Hợi có Nhật thì đúng là không đẹp, hạ cách.
Cung Thân (khỉ) có Nhật thủ mệnh, ở Dần có Cự đến chầu cũng là thượng cách. Dần có Nhật thủ Mệnh, ở Thân (khỉ) có Cự đến chầu thì là người bình thường (QNB chú: vế này sách chú giải thật là hoang đường !!! Nếu trong 1 lá số thì không bao giờ có các trường hợp Mệnh có Nhật ở Dần, mà Di có Cự ở cung an Thân, và ngược lại được. Theo thiển ý của tôi thì nên hiểu trường hợp này là Mệnh vô chính diệu ở cung Thân (khỉ) và cung Dần an Thân cư Di có Cự Nhật chầu Mệnh, người tuổi Đinh Tân có Khoa Quyền Lộc củng mới có thể coi là thượng cách. Số của ông Vương Hàn – tự là Tử Vũ có cách này. Độc giả lưu ý vậy!).
Như Dần cung mà an Mệnh, ở Ngọ Tuất cung có Tử Phủ đến chầu, hoặc cung Thân (khỉ) mà an Mệnh có Tử Phủ ở Tý Thìn đến chầu, thì là tượng của “nhân quân phỏng thần” (người vua tới thăm hỏi bề tôi), là kỳ cách vậy. Gặp thêm lưu Lộc trong hạn thì tất nhiên sẽ được tước vị tận công hầu khanh tướng. Nếu như Thất Sát tại Mệnh ở Dần Thân cũng coi là thượng cách. Nếu như có Hóa Kị gia thêm hung sát tinh thì luận là bình thường.
*
Khoa Quyền đối củng dược tam cấp ư vũ môn,
Nhật Nguyệt tịnh minh tá cửu trùng ư nghiêu điện.
(Có Khoa Quyền 1 đối cung và 1 tam hợp củng chiếu thì như cá chép vượt vũ môn hóa rồng,
Có Nhật Nguyệt cùng sáng rực rỡ thì được phò tá cho bậc quân vương nơi cung điện).
Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc, tam phương đối củng chính là cách ấy, có thể (trường hợp) Mệnh có 1 trong Khoa/Quyền/Lộc và tam phương cũng có 1 trong Khoa/Quyền/Lộc chiếu, không gặp sát tinh thì cũng hiển nhiên như vậy.
Cung Mệnh an tại Sửu có Nhật ở Tị và Nguyệt ở Dậu tới chầu là tịnh minh (sáng rực rỡ), người sinh năm Tân Ất là hợp cách, nếu như sinh năm Bính thì chủ quý, tuổi Đinh thì chủ phú, nếu thêm Tứ Sát Kiếp Không Kị thì lại bình thường.
phủ Tướng đồng lai hội mệnh cung toàn gia thực lộc,
Tam hợp minh châu sinh vượng địa ổn bộ thiềm cung.
(Phủ Tướng mà cùng đến hội tụ ở Mệnh cung thì cả nhà có của ăn của để, có lộc,
Tam hợp mà có (Nguyệt) sáng như ngọc ở nơi vượng địa thì ung dung dạo bước cung trăng).
Tam hợp (có Phủ Tướng) chiếu đến gặp thêm bản cung nhiều cát tinh, Thân Mệnh không ở chỗ bại địa thì đó là cách “Phủ Tướng triều viên”, tất sẽ phú quý vậy. Phép bí truyền nói “Phủ Tướng miếu viên cách cực kỳ tốt, ra làm kẻ sĩ làm quan đều đại cát, hưng thịnh”.
Như tại Mùi cung an Mệnh, có Nhật ở Mão, có Nguyệt ở Hợi tới chầu, là cách “Minh châu xuất hải”, nhất định là chủ tiền tài quan lộc đều song toàn tốt đẹp. Như Thìn cung có Nhật thủ Mệnh, Tuất cung có Nguyệt đối chiếu, hoặc Nguyệt thủ Mệnh ở Tuất và Thìn cung có Nhật đối chiếu, thì cũng chủ cực quý.
*
Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại,
Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân.
(Thất Sát Phá Quân thích hợp / cần phải đi ra bên ngoài,
Cơ Nguyệt Đồng Lương thì hợp làm quan lại).
Hai sao đó (Thất Sát, Phá Quân) hội Thân Mệnh ở chỗ hãm địa, chủ các kiểu tay nghề/tài nghệ tinh thông khéo léo, xuất ngoại thì khá vậy, luận cho Sát ở Dần Thân và (Phá) Quân ở Tị Hợi.
Bốn sao này (Cơ Nguyệt Đồng Lương) tất Thân Mệnh tam hợp (với Văn) Khúc thì có thể có công danh thành tựu trong nghiệp nghiên bút. Thêm Sát tinh Kị tinh là hạ cách. Phép bí truyền nói “Dần Thân hội Đồng Lương Cơ Nguyệt, tất định làm kẻ quan lại”, nếu mà không đủ 4 sao mà chỉ có 3 thôi thì khó thành công.
*
Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa đoán định công hầu khí,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc sửu cung trung định thị phương bá công.
(Tử Phủ Nhật Nguyệt mà ở chỗ vượng địa thì đoán định là được tước vị Công, Hầu,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc ở trong cung Sửu thì định là có làm quan tước Bá, Công).
Tử Vi cư Ngọ và Thiên Phủ ở Tuất cung, Nhật ở Mão Thìn với Nguyệt ở Dậu Tuất Hợi cung, lại hóa Lộc Khoa Quyền tọa nơi Thân Mệnh thì chính là như vậy. Có thêm Sát tinh Kiếp Không Kị thì không phải thế, như vậy là ngọc đẹp mà lại có tì vết.
Sửu Mùi cung mà an Mệnh, có Nhật Nguyệt hóa Khoa Lộc tọa thủ thì là như vậy, nếu như không có cát hóa thì Nhật Nguyệt đồng cung là không đẹp vậy, phép bí truyền nói:
“Nhật Nguyệt Sửu Mùi mệnh trung phùng
Tam phương vô cát phúc nan sinh
Nhược hoàn cát hóa phương vi mỹ
Phương diện uy quyền phúc lộc tăng”
(Nhật Nguyệt Sửu Mùi, mệnh ở trong
Tam phương thiếu cát, phúc khó phong
Nếu mà cát hóa thành ra đẹp
Được cả uy quyền, phúc lộc tăng).
*
Thiên Lương Thiên Mã hãm phiêu đãng vô nghi,
Liêm Trinh Sát bất gia thanh danh viễn bá.
(Thiên Lương Thiên Mã cùng chỗ lạc hãm, thì đoán là số phiêu đãng mà khỏi cần nghi ngờ,
Liêm Trinh không bị thêm sát tinh thì thanh danh được gia phong, lừng lẫy).
Tị Hợi cung mà an Mệnh, gặp Thiên Lương hãm, lại cùng Thiên Mã đồng cung, lại có thể bị vây hãm bởi Hỏa La Không Kiếp (Hỏa Tinh, Đà La, Không Kiếp) thì cứ y như thế mà đoán.
“Sát” là Tứ Sát vậy, như Mão cung mà an Mệnh, có Liêm Trinh không gặp Tứ Sát thì chủ quý, cũng cần phải có tam hợp cát tinh củng chiếu thì được thanh danh vang dội, nếu có thêm sát tinh thì bình thường. Hoặc tại hai cung Mùi Thân mà tọa Mệnh không gặp sát tinh cũng tốt lành.
*
Nhật chiếu lôi môn phú quý vinh hoa,
Nguyệt lãng thiên môn tiến tước phong hầu.
(Có cách “Nhật chiếu lôi môn” thì được phú quý vinh hoa,
Có cách “Nguyệt lãng thiên môn” thì được tăng tước vị, được phong Hầu).
Cung Mệnh an tại Mão (cung Chấn – sấm) có Thái Dương tọa thủ thì gọi là “Nhật xuất/chiếu lôi môn”, được thêm ở tam phương có Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thủ chiếu thì phú quý không hề nhỏ, người tuổi Giáp Ất Tân là hợp cách, (dẫu) có thêm Hình Kị Tứ Sát thì cũng chủ no ấm.
Cung Mệnh an tại Hợi (cung Càn – trời) có Thái Âm tọa thủ thì gọi là “Nguyệt lãng thiên môn”, được thêm tam phương có cát tinh củng chiếu thì chủ đại phú đại quý (không có cát thì cũng chủ có chút công danh nhưng làm tạp chức), người tuổi Bính Đinh thì chủ quý, người tuổi Nhâm Quý thì chủ phú.
*
Dần phùng Phủ Tướng vị đăng nhất phẩm chi vinh,
Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát tọa chi quý.
(Ở cung Dần gặp Phủ Tướng chầu về là được thăng tiến vẻ vang tới hàm nhất phẩm,
Ở Mộ cung mà có Tả Hữu thì chỗ ngồi làm quan cao cấp, tôn quý).
Dần cung an Mệnh, có Phủ ở Ngọ và Tướng ở Tuất đến chầu, người tuổi Giáp gặp được thì đúng là như vậy (thăng tiến quan lộ). Nếu như thêm Sát tinh thì không phải thế. Nếu như ở cung Dậu an Mệnh, có Phủ ở Sửu và Tướng ở Tị tới chầu thì cũng quý.
An mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, có Tả Hữu tọa thủ thì vậy, hoặc Thiên Di Quan Lộc Tài Bạch mà gặp (Tả Hữu tứ Mộ) thì cũng chủ cả đời được phúc thọ.
(QNB chú: câu này có lẽ là Tả Hữu phù trì cho cách cục nào đó rất đẹp của chính tinh, nếu không chỉ có Tả Hữu mà nói như vậy thì thật quá lời. Độc giả lưu ý vậy).
Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển,
Khúc ngộ Lương tinh vị chí thai cương.
(Thiên Lương ở Ngọ là vị trí của người làm quan vô tư thanh liêm vẻ vang,
Văn Khúc gặp Thiên Lương chỗ miếu vượng thì tước vị cỡ Tam Thai, Tam Công).
Cung Mệnh an tại Ngọ có Thiên Lương tọa thủ thì đúng là vậy, người tuổi Đinh là thượng cách, người tuổi Kỷ là thứ cách, người tuổi Quý chủ giàu có cũng là thứ cách.
Cung Ngọ an Mệnh có Văn Khúc Thiên Lương đồng cung tọa thủ là thượng cách, ở Dần cung thì là thứ cách, hoặc Lương tại Ngọ và Khúc tại Tý xung củng cũng làm quan tới cỡ nhị phẩm tam phẩm.
*
Khoa Lộc tuần phùng Chu Bột hân nhiên nhập tướng,
Văn tinh ám củng Cổ Nghị doãn hĩ đăng khoa.
(Hạn gặp Khoa Lộc thì Chu Bột vui mừng được Lưu Bang phong làm tướng quân,
Có Văn tinh ám củng mà Cổ Nghị được đỗ đại khoa, thời Hán Văn Đế).
Mệnh cung có cát tinh tọa thủ, tam phương Hóa cát xung củng, hoặc là trước cung Mệnh 3 vị (tức là Phúc Đức cung) gặp Khoa Quyền Lộc (lúc gặp) là tốt đẹp chủ phú quý.
Như Mệnh cung có cát tinh, Thiên Di Quan Lộc Tài Bạch có Xương Khúc Hóa Khoa triều củng thì cũng được như vậy (đỗ đại khoa).
*
Kình Dương Hỏa Tinh uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành uy trấn biên di.
(Kình Dương và Hỏa Tinh đồng cung đắc địa thì uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành thì oai phong trấn áp được các nơi ngoài biên cương).
Thìn Tuất Sửu Mùi tứ Mộ cung mà an Mệnh, gặp Kình Dương Hỏa Tinh nhập miếu thì chủ văn võ song toàn, binh quyền vạn dặm.
Cũng như Vũ Tham vượng địa ở Mộ cung gặp Hỏa Tinh thì cũng đoán giống như thế.
*
Lý Quảng bất phong Kình Dương phùng ư Lực Sĩ,
Nhan Hồi yểu chiết Văn Xương hãm ư Thiên Thương.
(Lý Quảng không được Hán Văn Đế phong tước vì Kình Dương gặp Lực Sĩ,
Thày Nhan Hồi bị chết yểu là do Văn Xương hãm ở chỗ Thiên Thương).
Nhị tinh (Kình, Lực) thủ mệnh mà có nhiều cát tinh thì cũng là số bình thường, nếu thêm sát tinh thì cực kỳ hung hiểm, nữ mệnh lại không luận cách này.
Như người tuổi Sửu mà Mệnh an cung Dần, lại có Văn Xương hãm ở chỗ Thiên Thương, tới hạn lưu niên lại gặp Thất Sát Kình Đà các sát tinh thì đoán là chết yểu.
*
Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu ngộ tướng quân,
Tử Vũ tài năng Cự tú Đồng Lương xung thả hợp.
(Tử Lộ, tức Trọng Do, oai phong dũng mãnh là do Liêm Trinh miếu gặp Tướng Quân,
Vương Hàn, tức Tử Vũ, có tài năng ấy bởi Cự Môn xung mà Đồng Lương hợp chiếu).
Mệnh lập tại cung Thân (khỉ) có Liêm Trinh và Tướng Quân tọa thì là vậy, ngoài ra các trường hợp khác cũng phỏng theo đó mà xét.
Mệnh lập tại cung Thân (khỉ) có Cự ở Dần xung củng, có Đồng ở Tý và Lương ở Thìn tam hợp chiếu, lại có Khoa Quyền Lộc Tả Hữu xung củng hợp thì chính là cách ấy.
*
Dần Thân tối hỉ Đồng Lương hội,
Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn.
(Ở chỗ Dần Thân thì rất mừng có được Đồng Lương tụ hội,
Nơi Thìn Tuất thì lại ngại có Cự Môn hãm lâm vào).
Tại cung Dần an Mệnh, gặp Đồng Lương hóa cát, người sinh năm Giáp Canh cùng năm Thân thì được phú quý. Lại như ở cung Thân (khỉ) an Mệnh, gặp Đồng Lương hóa cát, thì người sinh năm Giáp Canh cùng năm Dần được hưởng phú quý.
An Mệnh ở chỗ hai cung Thìn Tuất, gặp Cự Môn hãm, chủ nhân làm việc đảo điên, thêm sát tinh thì toàn nói lời sai quấy, không thể tránh được hình khắc, thương tật, đòn roi. Nếu gặp thêm ác hạn thì hung hiểm vô cùng.
*
Lộc đảo Mã đảo kị Thái Tuế chi hợp Kiếp Không,
Vận suy hạn suy hỉ Tử Vi chi giải hung ách.
(Có cách “Lộc đảo”, “Mã đảo” thì rất kị gặp năm hạn có Kiếp Không hợp chiếu,
Vận suy hạn suy thì rất mừng được Tử Vi để mà giải hung ách).
Như Lộc Mã lâm vào chỗ Bại Tuyệt Không Vong (thì gọi là cách “Lộc đảo Mã đảo”), mà đến lưu niên thái tuế hội hợp Kiếp Không thì luận là chủ lắm tai nhiều nạn, hối hận, phá tán tài sản.
Như đại tiểu hạn không gặp được cát diệu, mà Thân Mệnh lại có Tử Vi thủ chiếu thì tuy hạn hung nhưng chủ vẫn bình ổn, cái này gọi là Thân Mệnh có Chúa tinh đó mà.
*
Cô bần đa hữu thọ,
Phú quý tức yểu vong.
(Cô đơn, nghèo thì được thọ,
Phú, quý thì chết non).
Nếu như sao chủ mệnh nhược kém, cùng Tài Quan Tử Tức hãm địa, cũng cần phải giảm tài lộc để hưởng diên thọ vậy.
Lại như Thái Tuế tọa chỗ sao mệnh chủ cũng đều nhược kém, có thể Tài Quan có nhiều hóa cát, có thể đi đến hạn cát lành thì chủ định hoạnh phát nhưng không bền, được mười hay hai mươi năm khi qua vận thì yểu vong vậy.
Điếu Khách Tang Môn Lục Châu hữu đọa lâu chi ách,
Quan Phù Thái Tuế Công Dã hữu luy tiết chi ưu.
(Hạn có Điếu Khách Tang Môn nên nàng Lục Châu vướng ách nhảy lầu,
Vận gặp Quan Phù Thái Tuế nên chàng Công Dã phiền với gông xiềng).
Đại tiểu hạn gặp tiền Tang Môn hậu Điếu Khách, cùng tới năm hạn Thái Tuế gặp hung tinh thì tất sẽ bị kinh sợ nguy hiểm như vậy, đó là dùng thần sát lưu niên để luận.
Thân Mệnh có Quan Phù Thái Tuế tọa thủ, cùng nhị hạn lại gặp Quan Phù với các sát tinh, cho nên mới hung như thế (vào tù). Công Dã Tràng là hiền nhân đệ tử của Khổng Tử vậy, Khổng Tử viết “Công Trung Tràng tuy ở trong gông xiềng nhưng cũng chẳng có tội gì cả, có thể gả con gái của mình cho nó”.
*
Hạn chí Thiên la Địa võng Khuất Nguyên nịch thủy nhi thân vong,
Vận ngộ Địa Kiếp Thiên Không Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ.
(Hạn tới chỗ Thiên La Địa Vong nên Khuất Nguyên ôm phiến đá nhảy sông Mịch La mà chết,
Vận gặp Địa Kiếp Thiên Không nên Nguyễn Tịch nát rượu lâm vào cảnh cực khổ bần cùng).
Nhị hạn đi tới hai cung Thìn Tuất gặp phải Vũ Tham, có thêm Thái Tuế Tang Môn Điếu Khách Bạch Hổ cùng Kiếp Sát Không Vong Tứ Sát, hoặc có thể một lần gặp xung chiếu trong kỳ hạn thì cực hung, cho nên mới vậy (nhảy sông tự tử).
Nhị hạn ở trong 12 cung nhưng gặp 2 sao Không Kiếp, tuy nhiều cát cũng thành ra tiền đến rồi tiền lại đi, nếu như gặp lưu niên sát tinh, hung tinh thì nhất định là nghèo khốn.
*
Văn Xương Văn Khúc hội Liêm Trinh táng mệnh yểu niên,
Mệnh Không hạn Không vô cát tấu công danh thặng đặng.
(Xương Khúc hội Liêm Trinh hãm thì dễ chết non,
Mệnh và hạn đều gặp Không Vong, lại không có cát tinh tụ tập thì công danh lận đận).
An Mệnh tại hai cung Tị Hợi gặp Liêm Trinh hội Xương Khúc thì xảy ra cơ sự như vậy (chết yểu), người tuổi Tân tối kị. Nếu như gặp được hai sao tài ấn là Vũ Khúc và Thiên Tướng thì lại phản chuyển thành đắc quyền mà chủ quý.
Như Mệnh và hạn đều gặp Không Vong, có thêm sát tinh thì công danh tất sẽ không có thành tựu. Hoặc có chính tinh cát hóa gặp Không Kiếp nơi Mệnh và hạn cũng chủ chuyên cần đèn sách mà chẳng được thành đạt.
*
Sinh phùng Thiên Không do như bán thiên chiết sí,
Mệnh trung ngộ Kiếp kháp như lãng lý hành thuyền.
(Mệnh có Thiên Không -tức Địa Không của ta, thì giống như lưng trời gãy cánh,
Địa Kiếp thủ Mệnh thì đúng là như thuyền lênh đênh trên sóng nước).
Mệnh cung gặp Thiên Không tọa thủ thì luận là bình thường, càng sợ lúc trung niên lại gặp nó, nếu mà bỗng vụt phát tài thì tất sẽ chủ hung vong. Như mệnh an tại Hợi cho người sinh giờ Tý và mệnh an tại Tị cho người sinh giờ Ngọ, đều chính là bị như vậy.
Mệnh cung gặp Địa Kiếp tọa thủ thì luận là bình thường, cũng không giữ được tiền tài, nếu có thêm Sát Kị thì rất hung hiểm.
*
Hạng Vũ anh hùng hạn chí Thiên Không nhi táng quốc,
Thạch Sùng hào phú hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia.
(Hạng Vũ anh hùng là thế mà hạn đến Thiên Không cũng mất nước,
Thạch Sùng giàu vậy mà hạn tới Địa Kiếp cũng tan nhà).
Đại tiểu hạn mà đều gặp Thiên Không (tức Địa Không) thì sẽ vậy.
Đại tiểu hạn lâm vào chỗ của Địa Kiếp hãm hay giáp với nó, gặp thêm lưu niên các sát tinh thì tất sẽ hung như thế.
*
Lã hậu chuyên quyền lưỡng trùng Thiên Lộc Thiên Mã,
Dương phi hảo sắc tam hợp Văn Khúc Văn Xương.
(Bà Lã Hậu chuyên quyền là do cách lưỡng trùng Lộc Mã,
Dương quý phi đẹp mà dâm là bởi tam hợp có Văn Khúc Văn Xương).
Lộc Tồn gặp Hóa Lộc cùng với Thiên Mã đồng cung thì là vậy (cách “lưỡng trùng Lộc Mã” được phú quý tột bực). QNB chú: ở trên dùng chữ “chuyên quyền” là muốn dùng phép ẩn dụ để nói đến vị thế được phú quý tột bực mà thôi, chớ nên hiểu là cách “lưỡng trùng Lộc Mã” = chuyên quyền.
Mệnh cung cùng với Tài Quan và Thiên Di cung có Xương Khúc hợp chiếu, lại gặp thêm Thái Âm Thiên Cơ thì vừa đẹp vừa dâm.
*
Thiên Lương ngộ Mã nữ mệnh tiện nhi thả dâm,
Xương Khúc giáp Trì nam mệnh quý nhi thả hiển.
(Thiên Lương với Mã cùng hãm vào nữ mệnh thì vừa dâm vừa tiện,
Xương Khúc giáp Đan Trì, Quế Trì thì nam Mệnh vừa quý lại vừa vinh hiển).
Giả như tại 4 cung Dần Thân Tị Hợi an Mệnh gặp Thiên Mã tọa thủ, mà tam phương gặp Thiên Lương hợp chiếu thì vậy (vào nữ mệnh thì vừa dâm vừa tiện).
Thái Dương là Đan Trì, Thái Âm là Quế Trì, như Thái Dương Thái Âm tại Sửu Mùi cung an Mệnh mà có Tả Hữu Xương Khúc giáp ở 2 cung trước sau thì vậy (vào nam mệnh vừa quý vừa vinh hiển).
*
Cực cư Mão Dậu đa vi thoát tục chi tăng,
Trinh cư Mão Dậu định thị công tư lại bối.
(Tử Vi cư Mão Dậu thì thường dễ thoát tục mà đi tu,
Liêm Trinh cư Mão Dậu thì định là phường quan lại cấp thấp).
Tử Vi là Bắc Cực (QNB chú: có trường hợp còn coi Tử Vi là Thái Cực), nếu như tọa thủ ở cung mệnh mà thêm sát tinh thì chủ tăng đạo, nếu không có sát tinh mà lại có thêm Tả Hữu Khôi Việt thì chủ quý.
Tại Mão Dậu cung mà an Mệnh có Liêm Trinh tọa thủ, thêm sát tinh thì tất sẽ làm tư lại, bộc dịch (quan lại cấp rất thấp, chân sai vặt) ở chốn công môn.
*
Tả Phủ đồng cung tôn cư vạn thừa,
Liêm Trinh Thất Sát lưu đãng thiên nhai.
(Tả Phụ và Thiên Phủ đồng cung thì vị trí (ngồi trong triều) rất cao,
Liêm Trinh Thất Sát thủ mệnh thì phiêu đãng chân trời góc biển).
Tại Thìn Tuất mà an Mệnh, gặp 2 sao ấy (Tả Phụ, Thiên Phủ), thêm tam phương có cát hóa củng chiếu xung chiếu thì tất sẽ ở chỗ quý cực phẩm.
Mệnh an tại Tị Hợi mà gặp 2 sao ấy (Liêm Trinh, Thất Sát), thêm sát tinh, Hóa KỊ, Không Kiếp, thì số lang bạt nơi chân trời, chẳng giữ nghiệp nhàm, phải gian khổ làm quân nhân hoặc buôn bán ở bên ngoài.
*
Đặng Thông ngạ tử vận phùng Đại Hao chi hương,
Phu Tử tuyệt lương hạn đáo Thiên Thương chi nội.
(Đặng Thông chết đói là do vận gặp chỗ của Đại Hao,
Khổng Tử bị hết sạch lương thảo là vì hạn vào trong chỗ của Thiên Thương).
Mệnh mà an tại Tý cung, nhị hạn đi tới hoặc giáp với chỗ đó (chỗ của Thiên Thương), có Đại Hao và gặp thêm các ác diệu thì đói kém, hao phá, chết đói.
*
Linh Xương La Vũ hạn chí đầu hà,
Cự Hỏa Kình Dương chung thân ải tử.
(hạn gặp Linh Xương La Vũ thì dễ gieo mình xuống sông,
Cách Cự Hỏa Kình Dương thì cả đời dễ thắt cổ tự vẫn).
Các sao ấy giao hội tại hai cung Thìn Tuất, người tuổi Tân Nhâm Tị mà nhị hạn đi tới đó thì định là gặp thủy nạn. Nếu thêm các ác sát tinh thì tất sẽ chết ở ngoài đường. Nếu như 4 sao ấy tại Thìn Tuất tọa mệnh thì cũng thế.
Ba sao này tọa thủ ở Thân Mệnh, đại tiểu nhị hạn mà gặp, lại có thêm ác sát thì cứ y vậy mà đoán (dễ tự tử).
*
Mệnh lí phùng Không bất phiêu lưu chủ tật khổ,
Mã đầu đới kiếm phi yểu chiết tắc hình thương.
(Chỗ cung Mệnh mà gặp Không thì nếu chẳng phiêu đãng lưu lạc sẽ bị bệnh tật khốn khổ,
Có cách “Mã đầu đới kiếm” thì không chết non cũng sẽ bị hình phạt, hình khắc, thương tật).
Như Mệnh cung không có chính tinh, lại có Thiên Không (tức Địa Không của ta) đơn thủ, thêm tam hợp có sát tinh, Hóa Kị, thì cứ y như thế mà đoán, có thêm cát tinh thì cũng đỡ hơn.
Kình Dương cư ngọ thủ Mệnh (gọi là “Mã đầu đới kiếm”), ở Mão thì là thứ cách, ở Dậu cũng là thứ cách, đó chính là chỗ mà Kình Dương lạc vào hãm địa, ở Dần Thân Tị Hợi đối với Đà La thì cũng giống vậy, nếu như ở Thìn Tuất Sửu Mùi thì không e ngại.
*
Tý Ngọ Phá Quân gia quan tiến lộc,
Xương Tham cư mệnh phấn cốt toái thi.
(Ở chỗ Tý Ngọ có Phá Quân thì được tăng tiến về tài lộc, quan chức,
Tham Lang Văn Xương đồng cung lạc hãm thì dễ bị tai nạn tan xương nát thịt).
Mệnh mà an ở hai cung Tý Ngọ, có Phá Quân tọa thủ (QNB chú: cách này gọi là “Anh tinh nhập miếu”), thêm cát tinh thì tất nhiên được vị trí tước hàm cỡ bực Tam Công.
Như an Mệnh ở hai cung Tị Hợi, gặp Tham Xương tọa thủ, thêm sát tinh với Hóa Kị thì yểu vong, hoặc ở Quan Lộc cung mà gặp như vậy thì cũng dễ có tai nạn giống thế.
*
Triều Đẩu ngưỡng Đẩu tước lộc vinh xương,
Văn Quế Văn Hoa cửu trùng quý hiển.
(Chầu và ngưỡng về chỗ của Tử Phủ thì thường được hưng thịnh vinh hoa về tước lộc,
Có Xương Khúc miếu đắc thì được quý hiển tột bực).
Thất Sát thủ mệnh ở vượng cung thì là vậy, như ở Tý Ngọ Dần Thân là triều Đẩu, ở tam phương chiếu về là ngưỡng Đẩu, nhập cách thì chủ được phú quý, nếu ở Thiên Di hoặc Quan Lộc thì không luận như thế.
Văn Xương là Văn Quế, Văn Khúc là Văn Hoa, như an Mệnh tại Sửu Mùi mà gặp Xương Khúc, gặp thêm hóa tinh cát tinh củng chiếu hoặc giáp cung thì chính là được hiển quý vậy. Nếu mà không có cát tinh, hóa tinh thì cũng vô dụng.
*
Đan Trì, Quế Trì tảo toại thanh vân chi chí,
Hợp Lộc củng Lộc định vi cự phách chi thần.
(Gặp Nhật Nguyệt miếu vượng thì được toại lòng thỏa chí tang bồng,
Được Lộc hợp và củng thì nhất định là người tôi thần có tài năng cự phách).
Đan Trì là Nhật ở Mão Thìn Tị, Quế Trì là Nguyệt nhập vào chỗ Dậu Tuất Hợi, sáu cung ấy mà Thân Mệnh gặp được thì được xứng ý toại lòng, cũng cần phải có Xương Khúc Khôi Việt.
Lộc Tồn với Hóa Lộc tại Tài cung và Qun cung, hợp chiếu vào Mệnh, hoặc Mệnh tọa Lộc mà Thiên Di có Lộc củng chiếu cũng chủ phú quý. Phép bí truyền nói “hợp Lộc củng Lộc đôi kim tích ngọc, tước vị cao thiên y tử bào” (có cách “hợp Lộc củng Lộc” thì giàu có vô cùng, tước vị cao tột bực).
*
Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa,
Phụ Bật ngộ Tài Quan y phi trứ tử.
(Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc thì ra đời được vinh hoa phú quý,
Ở Tài Quan mà có Tả Hữu thì được mặc áo tía, áo lụa đào – ám chỉ quan phục cao cấp).
Như ở cung Mệnh có Âm Dương, ở Tài Quan có Xương Khúc hội tới. Hoặc ở cung Mệnh có Xương Khúc, còn Tài Quan thì lại có Nhật Nguyệt hội về. Gặp thêm Khôi Việt cùng các cát tinh thì tất sẽ phú quý.
Như ở Mệnh Thân có chính tinh hóa cát (Khoa Quyền Lộc), gặp Tả Hữu đến chầu từ tam phương thì được quan tước cao.
*
Cự Lương tương hội Liêm Trinh tinh, hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh.
(Cự Lương hội với Liêm Trinh lại có song Lộc hợp chiếu thì một đời được vinh hiển).
Bốn sao Cự Lương Liêm Tham ở Thân Mệnh mà tam hợp gặp được các cát tinh miếu địa, lại vừa có thêm Lộc Tồn Hóa Lộc ở Phu Thê cung, hoặc có Lộc tới hợp chiếu thì cũng chủ phú quý.
*
Vũ Khúc nhàn cung đa thủ nghệ,
Tham Lang hãm địa tác đồ nhân.
(Vũ Khúc ở nhàn cung thì đa phần là làm nghề thủ công,
Tham Lang ở chỗ hãm địa thì làm anh đồ tể chuyên giết mổ gia súc).
Vũ Khúc ở Tị Hợi cung (là hãm địa) mà thủ Mệnh có thêm sát tinh tụ họp thì chỉ làm nghề thủ công mà yên thân.
Tham Lang ở Tị Hợi cung (là hãm địa) mà thủ Mệnh, có thêm sát tinh tụ họp thì làm anh đồ tể chuyên giết mổ lợn bò trâu ngựa. Có thể Liêm Tham ở Tị Hợi mà thêm sát tinh, Hóa Kị thì cũng dễ chết yểu.
*
Thiên Lộc triều viên thân vinh quý hiển,
Khôi tinh lâm mệnh vị liệt tam thai.
(Lộc Tồn mà chầu cung Mệnh thì tấm thân được vinh quang quý hiển,
Khôi Việt đóng vào Mệnh vị thì cũng được tước vị cỡ ngôi Tam Công).
Như người sinh năm Giáp mà an Mệnh tại cung Dần, Lộc Tồn đến Dần thủ mệnh năm Giáp cũng khiến cho thành “Lộc triều viên” cách, lại như tuổi Canh an Mệnh tại Thân, tuổi Ất an Mệnh tại Mão, tuổi Tân an Mệnh tại Dậu, bốn vị trí Lộc thủ Mệnh cung đó thì đoán y như vậy. Thêm sát tinh, Hóa Kị thì bình thường. Ngoài ra, người sinh các năm Bính Mậu Đinh Kỷ Nhâm Quý tại 4 cung Tị Hợi Tý Ngọ không được coi là “Lộc triều viên” vậy.
(QNB chú: Nguyên chữ “triều” này vốn được hiểu là triều kiến, chầu, ngoảnh mặt về, hướng về,… chữ “viên” được dùng chỉ Mệnh Viên. Ở đây lại nói về Lộc Tồn thủ mệnh, thì cũng kể là lạ vậy. Xin độc giả lưu ý).
Như an Mệnh tại cung Ngọ có Tử Vi tọa thủ, gặp Văn Xương Khôi Việt đồng cung thì người tuổi Nhâm là kỳ cách.
(QNB chú: dịch nguyên văn “如午宮安命紫微坐守, 遇文昌魁鉞同宮壬生人奇格. – Như Ngọ cung an mệnh Tử Vi tọa thủ, ngộ Văn Xương Khôi Việt đồng cung Nhâm sinh nhân kỳ cách.” Không hiểu tại sao ở Ngọ lại có thể gặp được Khôi Việt cho tuổi Nhâm mà thành kỳ cách đây??? Xin độc giả lưu ý).
*
Vũ Khúc cư Càn Tuất Hợi thượng, tối phạ Thái Âm phùng Tham Lang.
(Vũ Khúc ở Càn cung Tuất Hợi, rất sợ Thái Âm gặp Tham Lang).
Vũ Khúc tại Tuất Hợi thủ Mệnh, tam phương thấy Thái Âm Tham Lang Hóa Kị thêm các sát tinh thì không đẹp vậy, đoán định chủ thiếu niên bất lợi. (QNB chú: Vũ Khúc với Thái Âm nhị hợp chứ đâu có thể gặp ở tam phương mà nói vậy. Và Âm với Tham kẻ trước người sau. Độc giả lưu ý vậy). Hoặc như có Tham Hỏa xung thì chủ quý, người tuổi Giáp Kỷ là hợp cách.
*
Hóa Lộc hoàn vi hảo, hưu hướng Mộ trung tàng.
(Hóa Lộc chiếu về mệnh là hay, đừng* nằm ở trong Mộ cung).
Như Vũ Khúc Thái Âm Tham Lang hóa Lộc thủ chiếu Mệnh cung, thêm các cát diệu cũng chủ phú quý, nhưng ở Thìn Tuất Sửu Mùi cung thì dù Hóa cát cũng vô dụng. Thìn Tuất Sửu Mùi là thần của tứ Mộ.
(QNB chú: Tôi từng biết có người giải nghĩa câu này là “Hóa Lộc mừng ở cung Tài cư Tuất chiếu về Mệnh ở Dần có Tử Phủ thì tuyệt đẹp, Hóa Lộc ở Mộ khố lại là Tài Bạch cung thì đúng vào kho tiền, có thể quản lý tài chính rất tốt”. Cũng có vẻ hợp lý.
Nay ta xét, chữ “休-hưu” này đa nghĩa, khi là động từ và tính từ thì có nghĩa là “vui”, “mừng”, “tốt đẹp”, “tốt lành”,… khi là phó từ thì có nghĩa là “đừng”, “chớ” để bổ nghĩa cho động từ đi ngay sau nó.
Trong vế sau của câu, thì ta thấy chữ “向-hướng” là động từ, cho nên chữ “hưu” sẽ đóng vai trò phó từ và sẽ mang nghĩa là “đừng”, “chớ”.
Bởi vậy, hiểu theo cách giải của sách này là “Hóa Lộc chớ có đóng vào Mộ cung kẻo vô dụng” thì còn đúng với cấu trúc câu hơn.
Xin độc giả lưu ý, bàn luận thêm vậy).
*
Tý Ngọ Cự Môn thạch trung ẩn ngọc,
Minh Lộc ám Lộc cẩm thượng thiêm hoa.
(Cự Môn ở Tý Ngọ là như ngọc ẩn ở trong đá,
Minh Lộc ám Lộc là như áo gấm được thêm hoa).
An Mệnh ở hai cung Tý Ngọ mà gặp Cự Môn tọa thủ, thêm đắc ở Dần Tuất (chiếu Ngọ) Thân Thìn (chiếu Tý) có Khoa Quyền hợp chiếu thì tất sẽ phú quý. Bí văn nói “Cự Môn Tý Ngọ Khoa Quyền chiếu, quan tư khanh hiển chí tam công” (Cự Môn ở Tý Ngọ có Khoa Quyền chiếu thì đường quan lộ được hanh thông hiển hách, lên tới tước tam công).
*
Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân, phú nhi bất quý hữu hư danh.
(Tử Vi ở Thìn Tuất gặp Phá Quân, giàu mà chẳng quý chỉ có hư danh).
An Mệnh tại nhị cung Thìn Tuất, gặp Tử Vi Phá Quân thực là hãm địa, tất nhiên chẳng quý, dù có phát tài nhưng cũng ko thực sự là mệnh được hưởng thụ.
*
Xương Khúc Phá Quân phùng hình khắc đa lao lục,
Tham Vũ Mộ trung cư tam thập tài phát phúc.
(Xương Khúc với Phá Quân gặp nhau, thì có sự hình khắc, cuộc đời nhiều lận đận,
Tham Vũ cư ở trong cung tứ Mộ, sau ba mươi tuổi thì phát tài phát phúc).
Như ở Mão Dậu Thìn Tuất có Phá Quân thủ Mệnh, dẫu có được Xương Khúc cũng không toàn cát, thêm sát tinh, Hóa Kị thì càng không được đủ quý vậy.
Như ở Thìn Tuất Sửu Mùi mà có Vũ Tham thủ Mệnh, định rằng chủ bất lợi lúc thiếu niên, thêm sát tinh Hóa Kị thì yểu thọ, sau ba mươi tuổi thì phát tài phát phúc. Bí văn nói “Tham Vũ bất phát thiếu niên nhân, vận quá tam thập phương diên thọ”.
*
Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối, Đinh nhân hóa cát chủ đại quý.
Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân nhân hóa cát Lộc tranh vanh.
(Thiên Đồng ở Tuất là hãm địa thất huy, người tuổi Đinh thì hóa Quyền nên gọi là hóa cát, chủ đại quý.
Cự Môn ở Thìn Tuất là hãm địa, người tuổi Tân thì hóa Lộc, là hóa cát, được tài lộc cao chót vót).
Thiên Đồng ở cung Tuất vốn là chỗ hãm, nhưng người tuổi Đinh thì (ở bản cung Đồng hóa Quyền) ở Ngọ có Lộc Tồn, ở Dần có Cơ Âm hóa Lộc hóa Khoa, ở Thìn có Cự Môn hóa Kị (đắc Mộ cung), cùng xung và củng chiếu thì định là chủ đại quý, Thiên Tướng cũng như vậy (QNB chú: không nói rõ trường hợp Thiên Tướng thì tuổi nào), nếu thêm sát tinh thì dễ theo tăng đạo, định là hạ cục.
Cự Môn tọa Mệnh tại Thìn Tuất cung vốn là hãm địa, nhưng người tuổi Tân thì Cự Môn hóa Lộc, lại được ám hợp Lộc Tồn ở Dậu (khi Mệnh ở Thìn), được Lộc Tồn ở Dậu giáp Mệnh (khi Mệnh ở Tuất), tất sẽ chủ phú quý, nếu thêm sát tinh thì không phải như vậy.
*
Cơ Lương Dậu thượng hóa cát giả, túng ngộ tài quan dã bất vinh.
(“Cơ Lương” ở trên cung Dậu dù có gặp được hóa cát ở Tài Quan thì cũng không vinh hiển).
QNB chú: Câu phú này chắc là có sự nhầm lẫn trong lúc sao chép, vì ở Dậu thì chỉ có thể có Thái Dương và Thiên Lương đồng cung và cùng hãm mà thôi, không thể là Cơ Lương được.
*
Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối nãi vi thất huy,
Mệnh Thân định yếu tinh cầu khủng sai phân số.
(Nhật Nguyệt rất ngại quay lưng vào nhau vì như thế là mất ánh sáng, lạc hãm,
Phân định chỗ trọng yếu Mệnh Thân thì yêu cầu phải tinh tế, vì sợ có sai số).
Thái Dương tại Thân Dậu Tuất Hợi Tý, Thái Âm tại Dần Mão Thìn Tị Ngọ, thì là Nhật Nguyệt không có ánh sáng, có quý gì đâu, nhưng mà có Nhật Nguyệt phản bối mà lại giàu có sang quý thì lại phải coi lại xem bản cung và tam hợp có cát hóa củng chiếu, không có sát tinh thì mới vậy, bởi thế Ngọc Thiềm tiên sinh thường viết “nghị luận trong Số rất tinh vi, phép đoán ở lòng người phải linh hoạt biến hóa”.
Gặp chỗ an cung Mệnh Thân thì trước tiên biện luận về giờ sinh, giờ đúng thì không thể không ứng, Thân Mệnh đã an định rồi thì sau đó xem bản cung Sinh Vượng Tử Tuyệt thế nào, rồi sau mới theo sao mà phán đoán.
*
Âm chất diên niên tăng bách phúc, chí vu hãm địa bất tao thương.
(Số đã ngầm định là hưởng thọ tăng phú thì dẫu đến chỗ hãm địa cũng không bị tổn thương).
Câu đó nói về Thân Mệnh nhị tinh (QNB chú: có lẽ chữ “nhị tinh” là để làm rõ rằng muốn đề cập tới Sao chủ Mệnh và Sao chủ Thân, chứ không phải là cung Mệnh & cung Thân), nếu như nhược kém mà vẫn được phúc thọ cát khánh, đó là do ngầm định ấy là người có đức vậy. Thân Mệnh tuy nhược, cùng với hành hạn cũng nhược lại phản chuyển được phúc, đó tất là do tâm tốt lương thiện nên thắng được ngầm định (QNB chú: ý muốn nói đến “đức năng thắng số”).
*
Mệnh thực vận kiên cảo điền đắc vũ
Mệnh suy hạn nhược nộn thảo thao sương,
(Mệnh có thực lực, vận lại vững chắc thì như ruộng lúa được mưa tưới tắm,
Mệnh mà suy, hạn lại nhược kém thì giống như cỏ non gặp phải sương dầm).
Nếu như Mệnh tọa hãm địa, lại có bốn bề cát tinh củng chiếu cũng luận là phúc. Còn như Mệnh tọa hãm địa, vận gặp ác sát thì tất sẽ chủ tai họa hối hận.
Nếu Mệnh mà có thực lực (sinh vượng) mà vận lại kiên cố (sinh vượng, có cát củng chiếu) thì phúc của nó khỏi cần nói vậy.
*
Luận Mệnh tất suy tinh thiện ác,
Cự Phá Kình Dương tính tất cương.
(Luận mệnh tất phải suy sao thiện sao ác,
Cự Môn Phá Quân Kình Dương mà thủ mệnh thì tính tình tất sẽ cương cường, cứng rắn).
Như 3 sao ấy mà thủ mệnh lại cư vào hãm địa, chẳng những tính cương cường như vậy mà còn định là chủ lời lẽ thị phi, thêm sát tinh thì sẽ bị hình thương, phá bại.
*
Phủ Tướng Đồng Lương tính tất hảo,
Hỏa Kiếp Không Tham tính bất thường.
(Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương thì tính tình rất tốt,
Hỏa Tinh, Địa Kiếp, Địa Không, Tham Lang thì tính khí thất thường).
Phủ Tướng Đồng Lương đều là sao thuộc Nam đẩu thuần dương trung chính, Thân Mệnh mà gặp thì tất sẽ có được tính trung thực hòa nhã, nếu như Tham Lang gặp được thì phú quý, nhưng có Không Kiếp lâm vào thì đoán là tính khí thất thường. (QNB chú: phần sách chú giải cho vế sau của câu phú hơi mơ hồ. Độc giả lưu ý).
*
Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú xảo,
Âm Dương Tả Hữu tối từ tường.
(Xương Khúc Lộc Cơ đều thanh tú và khéo kéo,
Nhật Nguyệt Tả Hữu thì đều nhân từ, ân cần).
Xương Khúc Lộc Cơ mà không gặp thêm sát tinh, chủ nhân lỗi lạch anh hoa thông minh tuấn tú, cũng được hưởng phú quý.
Như Âm Dương Tả Hữu thủ mệnh mà không gặp thêm sát tinh thì chủ nhân tướng mạo thanh kỳ đôn hậu, độ lượng bao dung, luận là phú quý.
*
Vũ Phá Trinh Tham xung hợp khúc toàn cố quý,
Dương Đà Thất Sát tương tạp hỗ kiến tắc thương.
(Vũ Khúc Phá Quân Liêm Trinh Tham Lang xung hợp khiến được phú quý trọn vẹn lâu dài,
Kình Dương Đà La Thất Sát gặp tạp hỗ sát hung tinh thì tất sẽ bị thương tật).
Thâm Mệnh mà trong tam hợp gặp Vũ Phá Trinh Tham thủ chiếu, được thêm cát hóa thì tất sẽ phú quý vậy, cần gặp Tử Vi để thường hàng Thất Sát thành quyền, thường bảo ban được bọn Kình Đà hướng thiện, do đó Tử Vi cùng cư Mệnh là vốn đẹp đẽ, tại xung hợp cũng có thể được, nhưng Thất Sát Kình Dương Linh Tinh vẫn không phải cát diệu, cho nên đến già thì không được thiện, cuối cùng vẫn không được là mệnhc ủa toàn cát.
*
Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân ác
Thất Sát Kình Dương Đà La hung.
(Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân là tác tính ác cho người có nó,
Thất Sát Kình Dương Đà La thì tính tình cũng hung ác).
Thân Mệnh tam hợp hoặc thủ chiếu mà thấy có sáu sao này, lại đồngh thời có Hóa Kị mà lại không thấy cát hóa thì định là chủ phá bại, tà dâm hoặc tàn tật thương tích, chủ hình khắc. Như nhập miếu có hóa cát thì cũng cứ cùng giống như trên mà đoán.
*
Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác họa
Kiếp Không Thương Sứ họa trùng trùng.
Đại tiểu nhị hạn mà gặp các sao ấy thì định là trong nhà có tai họa, hối tiếc đa đoan, như Thân Mệnh gặp được mà thêm cát tinh thì vô hại với Hỏa Linh, nhưng với Không Kiếp thì không vô hại.
*
Cự Môn Kị tinh giai bất cát,
Vận Thân Mệnh hạn kị tương phùng.
Canh kiêm Thái Tuế Quan Phù chí,
Quan phi khẩu thiệt quyết bất không.
Điếu Khách Tang Môn hựu tương ngộ,
Quản giáo tai bệnh lưỡng tương công.
(Cự Môn và hóa Kị thì đều chẳng đẹp chút nào,
Thân Mệnh và vận hạn rất e ngại gặp phải.
Nếu thêm Thái Tuế Quan Phù đến,
Quan tai khẩu thiệt nhất định không thể không có
Lại gặp cả Điếu Khách với Tang môn
Đảm bảo là vừa bị tai họa vừa bị bệnh tật).
Cự Kị tinh là thần quản nhiều sự, ở khắp 12 cung mà Thân Mệnh hay nhị hạn gặp phải thì chủ không được tốt lành, huống hồ Cự Môn vốn chẳng phải cát tinh gì, nếu vào chỗ hãm địa mà còn hóa Kị nữa thì sao mà xem là tốt được.
Thái Tuế và Quan Phù vốn là thần của việc dấy lên kiện tụng, thêm Cự Môn là sao của thị phi, lại đồng thời kiêm hóa ra Kị lâm vào thì chắc chắn việc quan tụng kiện cáo là không tránh được.
Điếu Khách và Tang Môn vốn chủ về hình phạt tang chế, nhưng không gặp Thất Sát Thiên Hình Kình Dương thì có thể miễn được, (nếu gặp chúng) thì tai họa tật bệnh tất sẽ xảy ra vậy, huống chi Hóa Kị lại rất hay sinh ra bệnh tật tai ách nữa.
*
Thất Sát lâm Thân chung thị yểu,
Tham Lang nhập Mệnh tất vi xướng.
(Thất Sát hãm ở cung an Thân thì chết non,
Tham Lang hãm ở cung Mệnh thì làm ca kỹ).
Thất Sát thủ ở Thân Mệnh mà hãm địa, thêm hung tinh thì cứ y như thế mà đoán.
Nếu như Tham Lang hãm thủ Mệnh, hoặc tại tam hợp chiếu Tham Lang hãm, dù không có thêm sát tinh, thì cũng chủ nam nữ đều dâm dật. Nếu như có thêm sát tinh thì nam chủ phiêu đãng còn nữ chủ dâm loạn. Bí văn nói:
“Tham Lang tam hợp tương chiếu lâm
Dã học Hàn Thọ khứ thâu hương”
(Tham lang hãm ở tam hợp chiếu đến
Thì bắt chước Hàn Thọ mà đi làm trộm cắp đĩ điếm).
*
Tâm hảo mệnh vi diệc chủ thọ,
Tâm độc mệnh cố diệc yểu vong.
(Tâm tốt thì mệnh nhỏ bé cũng được sống thọ,
Tâm ác độc thì mệnh vững chắc cũng chết non).
Hai câu này, câu trước là thuyết giảng về âm đức, câu sau thì biện về xem phản chuyển ra ti tiện. Như Khổng Minh hỏa thiêu đội quân giáp mây mà cũng bị tổn thọ chính là vậy.
Kim nhân mệnh hữu thiên kim quý
Vận khứ chi thì khởi cửu tràng
Số nội bao tàng đa thiểu lý
Học giả tu đương tử tế tường.
(Người nay mệnh quý ngàn vàng vậy
Vận vụt trôi qua há mãi sao
Trong số ít nhiều tàng lý lẽ
Học giả xem kỹ để tỏ tường).
10. Nữ Mệnh cốt tủy phú – chú giải.
Phủ Tướng chi tinh nữ mệnh triền,
tất đương tử quý dữ phu hiền.
(Trong triền độ của cung mệnh người nữ mà có Phủ, Tướng,
Thì tất sẽ có chồng là hiền nhân và có con là quý tử).
Tại cung Ngọ mà an Mệnh có Thiên Phủ, Thiên Tướng tọa thủ, người tuổi Giáp là hợp cách. Ở cung Tý an Mệnh thì người tuổi Kỷ là hợp cách. Ở cung Thân an Mệnh thì người tuổi Canh là hợp cách, tất sẽ được hưởng thụ vinh hoa, được phong tặng vẻ vang vậy.
*
Liêm Trinh thanh bạch năng tương thủ.
Cánh hữu Thiên Đồng diệc lý nhiên.
(Liêm Trinh đắc miếu vào nữ mệnh là năng giữ được sự trong sạch, thuần khiết.
Thêm cả sao Thiên Đồng cũng có cùng cái lý giống như vậy).
Liêm Trinh tại Mùi cung an Mệnh thì người tuổi Giáp là hợp cách. Tại cung Thân (khỉ) an Mệnh thì người tuổi Quý là hợp cách. Tại cung Dần an Mệnh thì người tuổi Kỷ là hợp cách, đều là thượng cục.
Thiên Đồng tại Dần cung an Mệnh, người tuổi Giáp là hợp cách. Tại cung Mão an Mệnh, người tuổi Ất là hợp cách. Tại cung Tuất an Mệnh, người tuổi Đinh là hợp cách. Tại cung Tị an Mệnh thì người tuổi Bính Tân là hợp cách. Tại cung Hợi an Mệnh thì người tuổi Bính Nhâm là hợp cách, đều chủ phú quý.
*
Đoan chính Tử Vi Thái Dương tinh,
Tảo ngộ hiền phu tính khả bằng.
(Người nữ có Tử Vi, Thái Dương thủ mệnh là đoan chính,
Sớm gặp được chồng là hiền nhân để nương tựa).
Tại ba cung Tý, Tị, Hợi mà an Mệnh, không có thêm sát tinh thì chủ phú quý.
(QNB chú: câu này sách chủ giải hơi mơ hồ. Độc giả lưu ý).
*
Thái Dương Dần đáo Ngọ, ngộ cát chung thị phúc.
(Từ cung Dần thuận tới cung Ngọ, mà Thái Dương gặp cát tinh thì cả đời hưởng phúc).
Ngọ cung an Mệnh có Thái Dương tọa thủ thì định là chủ phú quý, hãm địa bình thường.
(QNB chú: câu này sách chủ giải mơ hồ. Độc giả lưu ý).
*
Tả Phụ Thiên Khôi vi phúc thọ,
Hữu Bật Thiên Tướng phúc lai lâm.
(Tả Phụ gặp Thiên Khôi là phúc thọ tăng,
Hữu Bật đi với Thiên Tướng là phúc sẽ tới).
Bốn sao này ở các cung đắc địa, nếu như Thân Mệnh mà gặp chúng tọa thủ, thì định là chủ được hưởng phúc thọ vẻ vang, hưng thịnh.
*
Lộc Tồn hậu trọng đa y thực,
Phủ Tướng triều viên mệnh tất vinh.
(Lộc Tồn phúc hậu và thận trọng có được giàu có,
Phủ Tướng chầu mệnh thì tất sẽ được hưng thịnh vẻ vang).
Lộc Tồn thủ Mệnh ở các cung hễ thấy Tử Phủ Vũ Khúc tam hợp thủ chiếu thì không giàu thì cũng sẽ sang quý. Duy trường hợp Lộc ở Dần mà Mệnh ở Thân (khỉ) hay Lộc ở Thân (khỉ) mà Mệnh ở Dần, là “Lộc triều viên” cách, người tuổi Giáp Canh là thượng cục, người tuổi Tân Ất là thứ chi. Những người tuổi Bính Mậu Đinh Kỷ Nhâm Quý mà an Mệnh tại Tị Hợi Tý Ngọ thì không được đẹp.
*
Tử Phủ Tị Hợi tương hỗ phụ,
Tả Hữu phù trì phúc tất sinh.
(Tử Phủ ở Tị Hợi có sự giúp đỡ qua lại cho nhau,
Được thêm Tả Hữu phù trì cho nữa thì phúc sẽ phát sinh).
Ở Tị Hợi cung mà an Mệnh, gặp Tử Phủ Tả Hữu thủ, chiếu, xung, giáp, mà lại đồng thời có thêm hóa tinh cát tinh nhiều thì tất sẽ được phú quý vậy.
*
Cự Môn Thiên Cơ vi phá đãng,
Thiên Lương Nguyệt diệu nữ mệnh bần.
(Nữ Mệnh mà có Cự Môn, Thiên Cơ thì sẽ phá đãng,
Có Thiên Lương, Thái Âm thì sẽ nghèo).
Tại Dần Mão Thân mà an Mệnh gặp Cự Cơ, tuy là vượng địa, nhưng chung cuộc phúc không được trọn vẹn tốt đẹp, hoặc phú quý thì không tránh được tư tình, nếu như Cự với Cơ mà ở chỗ hãm địa thì là hạng phá đãng hạ tiện.
Tại Tị Hợi cung mà an Mệnh có Thiên Lương tọa thủ, tại Dần Thìn cung an Mệnh có Thái âm tọa thủ, đúng là về đứng đắn và y lộc thì khó mà toại nguyện được, nếu như các chỗ hãm địa khác thì là hạ tiện.
*
Kình Dương Hỏa Tinh vi hạ tiện.
Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn.
(Nữ Mệnh có Kình, Hỏa thì là hạ tiện,
Có Xương Khúc thì phúc không được toàn vẹn).
Nữ mệnh mà có Kình, Hỏa thủ Mệnh ở vượng cung thì cũng có thể (như vậy), nhưng hình khắc là không thể tránh được. Nếu như cư ở chỗ hãm địa lại có thêm sát tinh thì nếu không như thế thì chắc là chết yểu.
Văn Xương Văn Khúc hợp với Nam mà không hợp với Nữ.
*
Vũ Khúc chi tinh vi quả tú,
Phá Quân nhất diệu tính nan minh.
(Vũ Khúc vào nữ mệnh thì dễ cô quả,
Phá Quân là một sao mà tính chất rất khó minh tường).
Vũ Khúc hợp với Nam mà không hợp với Nữ, nếu như gặp “Thái Âm đắc lệnh” ở tam phương có cát tinh củng chiếu thì có thể là nữ tướng (QNB chú: chỗ này theo tôi nên hiểu cụm “Thái âm đắc lệnh” kia là được mùa, được tháng sinh lúc trăng đang đẹp, trên lá số thì Thái Âm cũng miếu vượng). Nếu như hãm địa mà gặp Xương Khúc và thêm sát tinh thì cô quả.
Phá Quân là sao cô độc dâm dật không phù hợp với nữ Mệnh, thêm tứ sát thì tất vì gian tình mà mưu hại chồng, vì ghen tuông mà hại con, chẳng những là bọn nô tỳ mà còn có thể là ca kỹ vậy.
*
Tham Lang nội ngoan đa dâm dật,
Thất Sát trầm ngâm phúc bất vinh.
(Tham Lang làm vợ hung ác lại còn đa dâm,
Thất Sát thì do dự, ơ hờ mà không được sinh phúc).
Tham Lang có tên là Đào Hoa, là sao háo sắc, không dung tha cho bọn tỳ thiếp, tâm có tật ghen tuông, vì gian tình mà hại chồng hại con, thậm chí vô cùng dâm dật.
Thất Sát là tướng tinh, nếu cư miếu vượng thì chủ là nữ tướng. Bí văn nói:
“Cơ Nguyệt Dần Thân nữ mệnh phùng
Ác sát gia chi dâm xảo dung
Tiện hữu cát hóa chung bất mỹ
Thiên phòng thị phụng chủ nhân ông”
(Nữ mệnh Cơ Âm ở Dần Thân
Gặp thêm ác sát đẹp mà dâm
Dẫu cho cát hóa chẳng vẹn đẹp
Làm thiếp hầu hạ lão chủ nhân)
(QNB chú: câu này sách chú giải mơ hồ. Thậm chí có sự lắp ghép sai phần chú giải, lấy bài bí văn của Cơ Âm mà nói về Thất Sát. Độc giả lưu ý vậy).
*
Thập can hóa Lộc tối vinh xương
Nữ mệnh phùng chi đại cát xương
Cánh đắc Lộc Tồn tương tấu hợp
Vượng phu ích tử thụ ân quang.
(Mười can hóa Lộc rất vinh xương
Nữ mệnh gặp là đại cát tường
Thêm gặp Lộc Tồn xung thủ hợp
Vượng phu ích tử vua phong thưởng).
Như Mệnh tọa Hóa Lộc, lại được Lộc Tồn xung hợp, hoặc hạn gặp Lộc Tồn đồng cung, là chủ quý, phong hiển mệnh phụ phu nhân, cũng chủ đại phú, vượng phu ích tử.
*
Hỏa Linh Dương Đà cập Cự Môn
Thiên Không Địa Kiếp hựu tương lâm
Tham Lang Thất Sát Liêm Trinh tú
Vũ Khúc gia lâm khắc hại xâm.
(Kình Đà Linh Hỏa Cự Môn tinh
Địa Kiếp Thiên Không cũng rập rình
Thất Sát Tham Lang Liêm cũng thế
Cùng là Vũ Khúc chủ khắc hình).
Đại để các sao ấy thì nữ mệnh không hợp gặp nó, như chỉ gặp một hai sao thì cũng dễ chủ dâm tiện, nếu thấy cả lũ thì chủ hạ tiện bần yểu chi mệnh vậy.
*
Tam phương tứ chính hiềm phùng phá
Cánh tại phu cung họa hoạn thâm
Nhược thị bản cung vô chính diệu
Tất chủ sinh ly khắc hại chân.
(Tam phương tứ chính ngại gặp phá
Đóng ở phu cung họa hoạn nhiều
Nếu mà bản cung vô chính diệu
Tất chủ sinh ly khắc hại rõ).
Các sao ấy (ở đoạn thơ bên trên) đến xung phá, duy Thất Sát ở tam phương tứ chính Thân Mệnh hoặc Phu cung đều không nên gặp, gặp thì cứ theo đó mà đoán.
Các câu phú ấy đều là phép khán mệnh, điều nào cũng có ứng nghiệm, cần phải tinh tế mà nghiền ngẫm, nhớ cho kỹ, thì phú quý bần tiện vinh hoa thọ yểu có thể nắm rõ trong lòng vậy.
11. Tăng bổ Thái Vi phú – chú giải.
QNB chú: Tạm thời gác lại việc dịch phần sách chú giải cho các câu phú bổ sung của Thái Vi phú. Vì qua các phần chú giải cho bài phú Cốt Tủy thì ta thấy không có nhiều điểm đặc biệt mà còn có nhiều điểm sai. Sau này QNB sẽ quay lại dịch phần này để độc giả tham khảo.
12. Luận cách “Đối diện triều đẩu”
Ở chỗ Tý Ngọ cung mà gặp Lộc Tồn thì là vậy.
Thơ viết:
Lộc hữu đối diện tại Thiên Di,
Tý Ngọ phùng chi lợi lộc nghi,
Đức hợp cát nhưỡng nhân kính trọng,
Song toàn phú quý phúc hi kỳ.
(Có Lộc đối diện ở Thiên Di
Gặp nơi Tý Ngọ giàu ai bì
Đất lành đức hợp người yêu mến
Phú quý song toàn ngạc nhiên nhỉ).
13. Luận cách “Khoa Quyền Lộc chủ”
Thơ viết:
Lộc Quyền Chu Bột mệnh trung phùng,
Nhập tướng vương triều tán thánh công,
Nghênh hợp quyền tinh kiêm cát diệu,
Nguy nguy phú quý liệt tam công.
(Chu Bột mệnh cung gặp Lộc Quyền
Thưởng công phong tướng ở triều liền
Nghênh hợp quyền tinh cùng cát diệu
Phú quý ngút ngàn tước tam công).
14. Luận cách “Tả Hữu triều viên”
Thơ viết:
Thiên tinh tả hữu tối cao minh,
Nhược tại tam phương lộc vị hưng,
Vũ chức cao đăng ứng hiển tá,
Văn nhân danh dự liệt công khanh.
(Tả Hữu sao trời rất giỏi giang
Nếu chỗ tam phương Lộc chiếu sang
Võ chức thăng cao gần vua vậy
Văn nhân quan tước được vinh quang).
15. Luận cách “kiêm tài văn võ”
Văn Khúc Vũ Khúc tại mệnh thì là vậy.
Thơ viết:
Cách danh văn vũ thiểu nhân tri,
Ngộ thử tu giáo bách sự thông,
Cánh trị mệnh cung vô sát phá,
Thao thao vinh hiển thị anh hùng.
(Hiếm người được cách kiêm văn võ
Gặp thời uyên bác vạn sự thông
Mệnh cung chẳng bị hung sát phá
Triền miên vinh hiển đấng anh hùng).
16. Luận cách “Văn tinh triều mệnh”
Thơ viết:
Văn xương văn khúc tối vinh hoa,
Trị thử tu sinh phú quý gia,
Cánh đắc tam phương tường diệu củng,
Khước như cẩm thượng hựu thiêm hoa.
(Văn Xương Văn Khúc cực vinh hoa,
Gặp chúng là sinh phú quý nha,
Tam phương lại được cát diệu chiếu
Ấy là áo gấm được thêm hoa).
17. Luận cách “Thạch trung ẩn ngọc”
Mệnh an tại Tý Ngọ cung gặp Cự Môn thì là vậy.
Thơ viết:
Cự Môn Tý Ngọ nhị cung phùng,
Thân Mệnh phùng chi tất quý vinh,
Cánh đắc tam phương khoa lộc chiếu,
Thạch trung ẩn ngọc thị phong long.
(Ở nơi Tý Ngọ Cự Môn tinh
Thân Mệnh gặp thì sẽ hiển vinh
Thêm được tam phương Khoa Lộc chiếu
Thạch trung ẩn ngọc phú quý sinh).
18. Luận cách Tham Lang gặp Hỏa tinh, gọi là “Hỏa quý cách”
Tam hợp chiếu vào Thân Mệnh gặp chúng thì là vậy.
Thơ viết:
Hỏa ngộ Tham Lang chiếu mệnh cung,
Phong hầu thực lộc thị anh hùng,
Tam phương thảng nhược vô hung sát,
Đáo lão ứng tri phúc thọ long.
(Hỏa gặp Tham Lang chiếu mệnh cung
Phong Hầu hưởng lộc thực anh hùng
Tam phương nếu chẳng gặp hung sát
Tới già ứng biết phúc thọ hưng).
19. Luận người có số buôn bán hay không
Như người mà mệnh có Cự Nhật Tử Phủ thủ chiếu thì là người an phận, có nhân đức, có tâm tính cương trực liêm khiết, làm việc vô tư, không làm điều tà quái, không muốn đòi hỏi quá đáng, làm kẻ sĩ kẻ quan đều chủ liêm khiết.
Như gặp Tham cùng Sát Kị thì tâm có nhiều toan tính, khéo biến trá, lòng tham vô đáy, là bọn thường luồn cúi hoặc “đi đêm”, chạy chọt, để cầu danh lợi.
Thơ viết:
Tham Nguyệt đồng Sát hội Cơ Lương,
Nhân tài kế lợi tác kinh thương,
Tu tri mộ dạ vô miên thụy,
Triều hải doanh doanh tự tẩu mang.
(Tham Nguyệt cùng Sát hội Cơ Lương,
Vì tiền mưu tính chuyện kinh thương
Nên biết tối đêm không chợp mắt
Ngược xuôi vội tựa sóng trùng dương).
20. Luận người có số làm nghệ thuật hay không.
Mệnh an tại Dần Thân Tị Hợi hoặc Thìn Tuất Sửu Mùi mà gặp Vũ Khúc, Tham Lang, tại mệnh hóa Kị, thêm sát tinh thì tất sẽ là người làm nghệ thuật hoặc tinh thông tay nghề, hoặc có tay nghề khéo léo và tinh tế.
Thơ viết:
Nhàn cung Tham Lang hà sinh nghiệp,
Bất thị đồ nhân tu đả thiết,
Chư bàn xảo nghệ canh năng tinh,
Tính hảo du điền tịnh bộ liệp.
(Tham hãm sinh nhai bởi nghề gì
Chẳng là đồ tể, thợ rèn thì
Kỹ nghệ đã chuyên lại tinh xảo
Thích đi săn bắn giỏi rong chơi).
Lại viết:
Phá Vũ Mùi cung đa xảo nghệ,
Tị Hợi an mệnh chính tương nghi,
Phá Quân Liêm Trinh cư Mão Dậu,
Tế xảo chi nhân định nghệ kỳ.
(Mùi cung Phá, Vũ nhiều nghề khéo
Mệnh an Tị, Hợi cũng hợp luôn
Phá Liêm Mão Dậu thì cũng vậy
Định là nghề ấy khéo tinh vi)
Lại viết:
Thiên Cơ Thiên Tướng mệnh thân trung,
Đế lệnh tài tinh nhập mộ trung,
Thiên Phủ nhược cư thiên động vị,
Bình sinh định thị tác kỳ công.
(Thiên Cơ ,Thiên Tướng thủ mệnh thân
Tử Vi, Vũ Khúc ở mộ phần
Thiên Phủ nếu cư nơi “thiên động”
Bình sinh đoán định làm kỹ công).
QNB chú: hai chữ 遷動-“thiên động” này nghĩa là chuyển động, di chuyển, biến đổi,… nên có lẽ muốn ám chỉ về vị trí mà Thiên Phủ đồng cung với Thiên Mã. Độc giả lưu ý bàn luận thêm vậy!
21. Luận số xuất gia, tăng đạo.
Tử Vi cư Mão Dậu gặp Kiếp Không này, hoặc thấy Mệnh vô chính diệu đồng thời có Kình Hỏa Không Kiếp Kị này, lại khán thêm ba cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Tức mà có sát tinh thì có thể đoán vậy.
Đến người sinh năm Dần tháng Thân ngày Tị giờ Hợi mà tam phương tứ chính có Hóa Kị, sát tinh tấu hợp thì nam tăng đạo, nữ ni cô.
Thơ viết:
Cực cư Mão Dậu ngộ Kiếp Không,
Thập nhân chi mệnh cửu nhân tăng,
Đạo Thích nham tuyền giai hữu phận,
Thanh nhàn u tĩnh độ bình sinh.
(Tử Vi Mão Dậu gặp Kiếp Không
Mười người thì chín thoát trần hồng
Núi rừng tu Đạo hay theo Thích
U nhàn thanh tịnh với giai không).
Lại viết:
Mệnh tọa Không hương định xuất gia,
Văn tinh tương hội thực kham khoa,
Nhược hoàn Văn Khúc lâm thân mệnh,
Thụ ấm thanh nhàn phúc khả gia.
(Không Vong tọa mệnh định xuất gia,
Văn tinh tương hội thật không ngoa
Nếu mà Văn Khúc vào Thân Mệnh
Nhàn hưởng phúc lành của ông cha).
Lại viết:
Thiên Cơ Thất Sát Phá Lương đồng,
Vũ khách tăng lưu mệnh sở phùng,
Cánh nhược Thái Dương kiêm Đế tọa,
Linh đinh cô khắc mệnh phương chung.
(Thiên Cơ, Thất Sát, Phá, cùng Lương
Mệnh gặp theo tăng, đạo sĩ phường
Thêm cả Thái Dương Tử Vi nữa
Cô khắc lênh đênh ở bốn phương).
22. Luận số mệnh người cô khắc với lục thân
Như khắc Phu Thê, khắc Tử Tức, khắc Phụ Mẫu trong nhà thì nếu không là tăng đạo thì làm kẻ bần tiện. Đầu tiên khán Phụ Mẫu cung tại nơi miếu vượng địa có không các cát hung tinh thế nào, nếu như tại hãm địa mà thêm sát tinh, Hóa Kị, thì tất sẽ chủ hình khắc. Thứ hai là khán Phu Thê cung, thứ ba xem Tử Tức cung miếu hãm ra sao, có hay không các cát hung tinh thế nào, nếu như tại hãm địa mà có thêm Hóa Kị, sát tinh thì tất sẽ có thể luận đoán là cô khắc góa bụa.
23. Luận thọ yểu, dâm đãng
Thơ viết:
Tham Lang nhập miếu tối cao cường,
Nam cực tinh đồng thọ mệnh trường,
Bắc đẩu đế tinh vô ác sát,
Miên miên lão điệt diễn trinh tường.
(Tham Lang nhập miếu rất cao cường,
Cũng như Thiên Phủ thọ mạng trường
Tử Vi nếu chẳng gần ác sát
Triền miên thượng thọ thật cát tường).
Thơ viết:
Thân Mệnh lưỡng cung câu hữu sát,
Tham hoa luyến tửu họa do thâm,
Bình sinh nhị hạn lai phù hội,
Đắc ý chi trung khước hựu trầm.
(Thân Mệnh đôi cung đều có sát
Mê hoa luyến tửu họa thật nhiều
Lúc thường nhị hạn mà phù trợ
Đắc ý xong rồi lại đắm chìm).
Thơ viết:
Thất Sát lâm Thân chung thị yểu,
Tham Lang nhập Mệnh định vi xướng,
Tiền kỳ tam hợp tương lâm chiếu,
Dã học Hàn quân khứ thiết hương.
(Thất Sát thủ Thân dễ chết non
Tham Lang nhập Mệnh kỹ nữ con
Tam hợp sát tinh cùng vây chiếu
Theo Thọ tư thông trộm phấn son).
QNB chú: ở trong câu thứ hai nguyên văn ghi “Tham Lang nhập MIẾU-廟” đã được tôi sửa lại thành chữ Mệnh vì bên trên đã từng có đề cập về sự nhầm lẫn do sao chép này rồi .
Hàn Quân, ý nói về Hàn Thọ, vốn là thư lại trong phủ của Giả Sung (đại thần đầu Tấn triều, hậu Tam Quốc). Do Hàn Thọ đẹp trai nên đã khiến Giả Ngọ (là con gái của Giả Sung) phải lòng và tư thông lén lút với nhau. Nguyên Giả Sung được Tấn Vũ Đế ban cho 1 loại phấn hương rất đặc biệt, Giả Ngọ đem trộm lấy mà mang cho Hàn Thọ. Sau này lộ chuyện, Giả Sung buộc phải gả con gái cho Hàn Thọ.
Chuyện ấy ngày nay có thể coi là chuyện cỏn con, nhưng dưới lễ giáo hà khắc của bọn hủ nho phong kiến cũng là chuyện tày đình. Đến nỗi lưu truyền tiếng xấu, đem làm thí dụ ngàn đời ám chỉ phường trộm cắp, lén lút, dâm dật, tư tình… chỉ có nhà thơ Lý Thương Ẩn (đời Đường) coi đó là chuyện tương tư nam nữ bình thường trong tác phẩm của mình.
24. Luận định số người tàn tật.
Đầu tiên khán sao ở cung Mệnh có lạc hãm hay không, xem thêm các sát hung tinh như Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không Hóa Kị, rồi lại khán Tật Ách cung có sao miếu hãm thế nào, phần cát hung thì có thể đoán được vậy.
Thơ viết:
Mệnh trung Dương Đà Sát thủ Thân,
Hỏa Linh tọa chiếu họa phi khinh,
Bình sinh nhược bất thường niên ngọa,
Dã tác đà yêu khúc bối nhân.
(Kình Đà trong Mệnh, Sát nơi Thân
Hỏa Linh thủ chiếu họa vô ngần
Bình sinh nếu chẳng nằm một chỗ
Thì cũng gù lưng dị tật nhân).
25. Luận định người phá tướng.
Thơ viết:
Tướng mạo chi trung phùng sát diệu,
Cánh gia tam hợp hựu phùng Hình,
Tật ách Kình Dương phùng Hao Sứ,
Chiết thương chi thể bất hòa bình.
(Sát diệu đóng vào Phụ Mẫu cung
Lại thêm tam hợp Thiên Hình phùng
Tật Ách Kình Dương cùng Hao Sứ
Thân thể tổn thương có phá tướng).
26. Luận định người thông minh
Thơ viết:
Văn Khúc Thiên Tướng Phá Quân tinh,
Kế sách thiên đa tính canh linh,
Cánh nhược tam phương Xương Khúc hội,
Nhất sinh xảo nghệ hữu thanh danh.
(Văn Khúc Thiên Tướng Phá Quân tinh,
Nhiều mưu lắm kế lại oai linh
Nếu mà tam phương Xương Khúc hội
Nghệ giỏi một đời đời có thanh danh).
27. Luận người giàu có sung túc
Thơ viết:
Thái Âm nhập miếu hữu quang huy,
Tài nhập tài hương phân ngoại kỳ,
Phá hao hung tinh giai bất phạm,
Đôi kim tích ngọc phú hào nhi.
(Thái Âm nhập miếu có quang huy
Tài nhập Tài cung thật diệu kỳ
Hao Phá hung tinh không xâm phạm
Vàng ngọc chất chồng thực giàu nhỉ).
28. Luận định người bần tiện
Thơ viết:
Mệnh trung cát diệu bất lai lâm,
Hỏa kỵ dương đà tứ chính xâm,
Vũ khúc liêm trinh cự phá hội,
Nhất sinh bạo nộ hựu thân bần.
(Cát tinh chẳng đến thủ Mệnh cung
Đà Kị Hỏa Kình lại chiếu xung
Vũ Khúc Liêm Trinh Cự Phá hội
Cả đời cau có lại bần cùng).
29. Luận người làm đạo tặc
Thơ viết:
Mệnh phùng Phá Hao dữ Tham Liêm,
Thất Sát tam phương chiếu cập Thân,
Vũ khúc canh cư thiên động vị,
Nhất sinh diện bối thứ ngân tân.
(Phá Hao thủ Mệnh với Tham Liêm
Thất Sát tam phương chiếu Thân miền
Vũ Khúc lại cư nơi biến động
Một đời đâm chém sẹo liên miên).
30. Luận định người nhất thân bác tạp
Thơ viết:
Cát diệu tương phù hung diệu lâm,
Bách ban xảo nghệ bất hanh thông,
Nhược phùng Thân Mệnh ngộ ác diệu,
Chích tố đồ ngưu tể mã nhân.
(Cát diệu hung tinh cùng chiếu đến
Trăm nghề dù khéo chẳng hanh thông
Nếu mà Thân Mệnh thêm ác sát
Chỉ làm đồ tể cả đời thôi).
31. Luận định mười loại Phú Quý Bần Tiện.
*
Phúc Thọ luận:
Như người Nam mà có Thiên Đồng Thiên Lương tọa Mệnh cung miếu vượng thì chủ phúc thọ được song toàn, còn như kẻ Bắc mà có Tử Vi Vũ Khúc Phá Quân Tham Lang tọa mệnh vượng cung thì chủ phúc thọ.
*
Thông minh luận:
Như Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Tướng, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Phá Quân, Tam Thai, Bát Tọa, Tả Phụ, Hữu Bật, mà tam hợp củng chiếu thì chủ người cực kỳ thông minh.
*
Uy dũng luận:
Như Vũ Khúc, Văn Xương, Kình Dương, Thất Sát tọa ở Mệnh cung đắc Quyền Lộc tam phương, lại đắc Tử Vi, Thiên Phủ, Tả Hữu củng chiếu thì chủ nhân uy dũng.
*
Văn chức luận:
Như Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, tọa Mệnh vượng cung lại đắc tam phương tứ chính Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì chủ là quan văn.
*
Võ chức luận:
Như Vũ Khúc, Thất Sát tọa Mệnh miếu vượng cung, lại đắc Tam Thai, Bát Tọa, thêm Hóa Quyền Lộc cùng Khôi Việt củng chiếu thì chủ làm quan võ.
*
Hình danh luận:
Như Kình, Đà, Linh, Hỏa, Vũ Khúc, Phá Quân đới sát tinh có cả cát tinh tấu hợp nơi tam phương tứ chính, không bị hãm hoặc hung thì chủ làm quan coi việc hình pháp (hình danh).
*
Phú quý luận:
Như Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Tướng, Lộc, Quyền, Khoa, Nhật, Nguyệt, Xương, Khúc, Tả, Hữu Khôi, Việt thủ chiếu xung củng thì được chủ đại phú quý.
*
Bần tiện luận:
Như Kình, Đà, Liêm Trinh, Thất Sát, Vũ Khúc, Phá Quân, Thiên Không Địa Kiếp, Hóa Kị ở tam phương tứ chính thủ chiếu xung, cùng chư tinh hung phạm vào hãm địa thì chủ bần tiện.
*
Bệnh tật yểu tử luận:
Như Tham Lang, Liêm Trinh, Kình Dương, Đà La, Thiên Không (Địa Không), Địa Kiếp, Hỏa, Linh, Hóa Kị ở tam phương tứ chính thủ chiếu thì chủ tật ách, chết non. Có thể ở Tật Ách, Tướng Mạo (Phụ mẫu) cung thì cũng thế.
*
Tăng đạo luận:
Như Cơ, Lương, Thất Sát, Phá Quân, Thiên Không Địa Kiếp, phạm vào chỗ của Tử Vi, lại hoặc có Hao Sát tinh nữa thì chủ là tăng đạo.
32. Ca quyết về các sao đắc địa hợp cách ở 12 cung.
* Tý cung an Mệnh:
Tý cung Tham Lang Sát Âm tinh
Cơ Lương Tướng củng phúc hưng long
Canh Tân Ất Quý sinh nhân mỹ
Nhất sinh phú quý túc phong vinh.
(Tý cung Tham, Sát, Thái Âm tinh,
Cơ, Lương, Tướng, chiếu phúc hưng thịnh
Người sinh Ất Quý Canh Tân đẹp
Một đời phú quý đủ hiển vinh).
* Sửu cung an Mệnh
Sửu cung lập mệnh Nhật Nguyệt triều,
Bính Tuất sinh nhân phúc lộc nhiêu,
Chính tọa bình thường trung cục luận,
Đối chiếu phú quý họa giai tiêu.
(Sửu cung an Mệnh, Nhật Nguyệt triều
Người sinh Bính, Tuất, phúc lộc nhiều
Bản cung một cặp, bình trung cục
Đối cung chiếu đến lại mỹ miều).
* Dần cung an Mệnh
Dần cung Cự Nhật túc phong long,
Thất Sát Thiên Lương bách sự thông,
Thân Tị Canh nhân giai vi cát,
Nam tử vi quan nữ thụ phong.
(Dần cung Cự Nhật, phúc lắm thay
Thất Sát, Thiên Lương, vạn sự hay
Tuổi Canh, Thân, Tị, thì được cát
Nữ hưởng thụ phong, nam quan này).
* Mão cung an Mệnh
Mão cung Cơ Cự Vũ Khúc phùng,
Tân Ất sinh nhân phúc khí long,
Nam tử vi đương mi lẫm lộc,
Nữ nhân hưởng phúc thụ bao phong.
(Mão cung Cơ Cự, Vũ Khúc phùng
Người sinh Tân Ất phúc trùng trùng
Nam nhân thì được kho đụn lộc
Nữ hưởng thụ phong, ngợi khen cùng).
* Thìn cung an Mệnh
Thìn Mùi Cơ Lương tọa mệnh cung,
Thiên Phủ Tuất địa tối doanh phong,
Yêu kim y tử chân vinh hiển,
Phú hoa quý huy nghi đáo chung.
(Thìn Mùi Cơ Lương tọa Mệnh cung
Thiên Phủ Tuất địa phúc tột cùng
Đai vàng áo tía thời vinh hiển
Vẻ vang phú quý tới lâm chung).
* Tị cung an Mệnh
Tị Mùi Thiên Cơ, Thiên Tướng lâm,
Tử Phủ triều viên phúc canh thâm,
Mậu Tân Nhâm Bính giai vi quý,
Nhất sinh thuận toại thiểu tai xâm.
(Thiên Tướng Thiên Cơ, đến Tị Mùi
Tử Phủ triều viên, thật mừng vui
Mậu, Tân, Nhâm, Bính là được quý
Cả đời toại ý, họa cũng lui).
* Ngọ cung an Mệnh
Ngọ cung Tử, Phủ, Thái Dương, Đồng,
Cơ Lương Phá Sát hỉ tương phùng,
Giáp Đinh Kỷ Quý sinh nhân phúc,
Nhất thế phong quang lẫm lộc phong.
(Nhật, Đồng, Tử, Phủ, ở Ngọ cung
Cơ, Lương, Phá, Sát cũng muốn phùng
Người sinh Kỷ Quý Đinh Giáp phúc
Một đời hưởng thụ lộc tột cùng).
* Mùi cung an Mệnh
Mùi cung Tử Vũ Liêm Trinh Đồng,
Nhật Nguyệt Cự môn hỉ tương phùng,
Nữ nhân trị thử toàn phúc thọ,
Nam tử phùng chi vị tam công.
(Tử, Vũ, Đồng, Liêm, ở Mùi cung
Nhật Nguyệt Cự Môn hỉ chiếu xung
Nữ nhân được thế toàn phúc thọ
Nam tử gặp thời tước Tam Công).
* Thân cung an Mệnh
Thân cung Tử đế Trinh Lương Đồng,
Vũ Khúc Cự môn hỉ tương phùng,
Giáp Canh Quý nhân như đắc hỉ,
Nhất sinh phú quý sính anh hùng.
(Đồng, Lương, Liêm, Tử, ở Thân cung
Vũ Khúc, Cự Môn, cũng hỉ phùng
Tuổi Canh Giáp Quý là đắc chí
Một đời phú quý tỏ anh hùng).
* Dậu cung an Mệnh
Dậu cung tối hỉ Thái Âm phùng,
Cự Nhật hựu phùng đương diện xung,
Tân Ất sinh nhân vi quý cách,
Nhất sinh phúc lộc vĩnh hanh thông.
(Mừng gặp Thái Âm ở Dậu cung
Cự, Nhật thì cần ở đối xung
Tân, Ất tuổi kia là quý cách
Một đời phúc lộc mãi hanh thông)
* Tuất cung an Mệnh
Tuất cung Tử Vi đối xung Thìn,
Phú nhi bất quý hữu hư danh,
Canh gia cát diệu đa quyền lộc,
Chích lợi khai trương mậu dịch nhân.
(Tuất cung Tử Vi đối xung Thìn
Phú mà chẳng quý có hư danh
Được thêm cát diệu nhiều quyền lộc
Chỉ lợi khai trương, bán buôn ngành).
* Hợi cung an Mệnh
Hợi cung tối hỉ Thái Âm phùng,
Nhược nhân trị thử phúc lộc long,
Nam nữ phùng chi giai xưng ý,
Phú quý vinh hoa trực đáo chung.
(Hợi cung mừng gặp Thái Âm tinh
Ai mà mà được phúc hiển vinh
Nam nữ đều cùng vui toại ý
Phú quý vinh hoa trọn đời mình).
33. Ca quyết về các sao lạc hãm phá cách ở 12 cung.
* Tý Sửu cung an Mệnh
Tý Ngọ Thiên Cơ Sửu Cự Linh,
Thử tinh lạc hãm quả vi chân,
Túng nhiên hóa cát canh vi mỹ,
Nhâm tha phú quý bất thanh ninh.
(Tý Ngọ Thiên Cơ, Sửu Cự Linh
Quả là hãm địa của chúng tinh
Đúng như hóa cát đổi thành đẹp
Dẫu phú quý nhưng khó an bình).
* Dần cung an Mệnh
Dần thượng Cơ Xương Khúc Nguyệt phùng,
Tuy nhiên cát củng bất phong long,
Nam vi bạn bộc nữ xướng tỳ,
Nhược phi yểu chiết tức bần cùng.
(Dần cung Cơ Nguyệt gặp Khúc Xương
Dẫu cho cát chiếu chẳng thịnh vượng
Nam làm chúng bộc nữ tỳ xướng
Chẳng nghèo, yểu tử, cũng tầm thường).
* Mão Thìn cung an Mệnh
Mão thượng Thái Âm Kình Dương phùng,
Thần cung Cự tú Tử Vi Đồng,
Túng nhiên hóa cát phi toàn mỹ,
Nhược phi gia sát đáo đầu hung.
(Trên Mão Thái Âm gặp Kình Dương
Thìn Đồng, Cự, Tử cũng tương đương
Đúng là hóa cát chẳng toàn mỹ
Bằng không, thêm sát, hung hiểm vương)
* Tị cung an Mệnh
Tị cung Vũ Nguyệt Thiên Lương Cự,
Tham túc Liêm Trinh cộng đáo xà,
Tam phương cát diệu giai bất quý,
Hạ tiện bần cùng độ tuế hoa.
(Vũ, Nguyệt, Thiên Lương, Cự, Tị cung
Tham Liêm cùng đến chỗ ấy cùng
Tam phương cát chiếu chẳng thành quý
Hạ tiện nghèo nàn tới lâm chung).
* Ngọ cung an Mệnh
Ngọ cung Tham Cự Nguyệt Xương tùng,
Dương Nhận tam hợp tối hiềm phùng,
Tuy nhiên hóa cát cư sĩ lộ,
Hoành phá hoành thành đáo lão cùng.
(Tham, Cự, Nguyệt Xương, ở Ngọ cung
Kình Dương tam hợp rất sợ phùng
Tuy nhiên hóa cát, quan lộ hiển
Chợt thành chợt bại, già bần cùng).
* Mùi cung an Mệnh
Mùi cung Cự tú Thái Dương hiềm,
Túng thiểu tai nguy hữu khắc thương,
Lao lục bôn ba quan sự chí,
Tùy duyên hạ tiện độ thì quang.
(Mùi cung Cự, Nhật đều ngại đến
Kẻo mà nguy hiểm bị khắc, thương
Bôn ba, khó nhọc, vương quan tụng
Hoặc bỏ đi tu, hoặc tiện nhân).
* Thân Dậu cung an Mệnh
Thân cung Cơ Cự vi phá cách,
Nam nhân lãng đãng nữ nhân bần,
Nhị cung nhược nhiên đào hoa kiến,
Nam nữ phùng chi tổng bất vinh.
(Cơ, Cự phá cách ở cung Thân
Người nam lãng đãng, kẻ nữ bần
Dậu Thân mà thấy Tham Lang đến
Dẫu nam hay nữ chẳng hiển vinh).
* Tuất cung an Mệnh
Tuất thượng Tử Phá nhược tương phùng,
Thiên Đồng Thái Dương giai chủ hung,
Nhược hoàn cô hàn canh yểu chiết,
Tùy duyên cần khổ miễn bần cùng.
(Tuất cung Tử, Phá nếu tương phùng
Nhật, Đồng nhị tú cũng chủ hung
Nếu chẳng cô đơn dễ yểu chiết
Chăm chỉ thì không phải bần cùng).
* Hợi cung an Mệnh
Hợi cung Tham Hỏa Thiên Lương Đồng,
Phiêu đãng lãng tử tẩu tây đông,
Nhược hoàn phú quý dã niên xúc,
Bất nhiên lệ bộc dữ bần cùng.
(Đồng Lương Tham Hỏa ở Hợi cung
Lãng đãng phiêu du khắp mọi vùng
Nếu mà phú quý thì yểu tử
Chẳng làm nô bộc cũng bần cùng).
34. Luận về các sao đắc địa được phú quý ở 12 cung
Tý cung đắc địa Thái Âm tinh,
Sát Phá Xương Tham Văn Khúc minh,
Sửu Mùi Tử Phá triều Nhật Nguyệt,
Mùi Trinh Lương Sửu phúc phi khinh,
(Tý cung đắc địa Thái Âm tinh
Sát, Phá, Tham, Xương, Khúc thanh minh
Sửu Mùi Tử Phá, chầu Nhật Nguyệt
Mùi Liêm, Lương Sửu phúc hiển vinh)
Dần cung tối hỉ phùng Dương Cự,
Thất Sát Thiên Đồng Lương văn thanh,
Mão thượng Cự Cơ vi quý cách,
Vũ khúc thủ mão phúc phong doanh,
(Cự Nhật rất mừng ở Dần cung
Thất Sát, Đồng, Lương, cũng thích phùng
Ở Mão Cự Cơ là quý cách
Vũ Khúc cư Mão phúc tột cùng)
Thìn Tuất Cơ Lương phi tiểu bổ,
Tuất cung Thiên Phủ luy thiên kim,
Tị Hợi Thiên Cơ Thiên Tướng quý,
Ngọ cung Tử Phủ Lương câu vinh,
(Cơ Lương Thìn Tuất chẳng kém hay
Tuất cung Thiên Phủ rất giàu này
Tị Hợi Thiên Cơ, Thiên Tướng quý
Ngọ cung Tử, Phủ, Lương đều hay)
Thân cung Trinh Cự Âm Sát mỹ,
Dậu Tuất Hợi thượng Thái âm đình,
Mão Thìn Tị Ngọ Dương chính chiếu,
Tử Phủ Cự tú Tị Hợi hưng,
(Thân cung Liêm, Cự, Nguyệt, Thất Sát
Dậu Tuất Hợi cung, Nguyệt thêm hay
Mão Thìn Tị Ngọ, Thái Dương tốt
Tử Phủ Cự Môn, Tị Hợi hưng).
Hợi cung Thiên Phủ Thiên Lương cát,
Tý cung Cơ tú diệc trung bình,
Thất Sát Tý Ngọ phùng Tả Hữu,
Văn Khúc gia chi cách tối thanh,
Liêm tọa trung cung phùng Phụ Bật
Cánh kiêm hóa cát họa vưu hưng.
(Hợi cung Thiên Phủ, Thiên Lương cát
Thiên Cơ cung Tý, lại trung bình
Tý Ngọ Thất Sát, gặp Tả Hữu
Văn Khúc thêm vào cách rất thanh
Liêm Trinh cư Hợi gặp Phụ Bật
Dù thêm hóa cát, họa rất nặng).
Vũ Khúc Tị Hợi phùng,
Lục Giáp suất biên đình,
Tham Lang cư mão dậu,
Ngộ Hỏa tác công khanh,
(Vũ Khúc Tị Hợi phương
Tuổi Giáp quản biên cương
Tham Lang cư Mão Dậu
Gặp Hỏa phát khanh tướng)
Thiên Cơ tọa Mão quý,
Dần Nguyệt lục Đinh vinh,
Cự Mão phùng Tả Hữu,
Lục Ất lập biên đình,
(Thiên Cơ cư Mão quý
Nguyệt Dần tuổi Đinh hay
Cự Mão gặp Tả Hữu
Tuổi Ất trấn biên thùy).
Cự tọa Dần Thân vị,
Thiên hỉ Giáp Canh sinh,
Nhị cung phùng Thất sát,
Tả Hữu hội xương tinh,
(Cự ở Dần Thân cung
Giáp Canh mừng tương phùng
Thất Sát hai nơi ấy
Gặp Tả Hữu Xương thịnh)
Thìn Tuất ngộ tam tú,
Tất chủ vị công khanh.
(Thìn Tuất, ba sao ấy
Tất chủ tước công khanh)
QNB chú: Có nhiều vị trí đắc miếu của sao theo sách này là khác hẳn với những gì chúng ta vẫn dùng xưa nay, thậm chí cùng 1 sao ở 1 chỗ lại có những câu còn nói ngược với câu đã từng nói trước đây trong chính cuốn này.
35. Luận các sao thất hãm bần tiện ở 12 cung
Sửu Mùi Cự Cơ vi trị phúc,
Thất hãm thử nguyệt phúc tu khinh,
Mão Dậu bất hỉ phùng Dương Nhận,
Thìn Tuất Tử Phá triều la võng,
(Sửu Mùi Cơ Cự là gặp phúc
Ở đó Nguyệt hãm phúc nhẹ tênh
Mão Dậu chẳng vui gặp Kình vậy
Thìn Tuất, Tử, Phá chầu La Võng).
Thìn hưu Tuất tù Tham Trinh hãm,
Ngọ cung Âm Cự bất kham xưng,
Thân cung hợp Vũ vi hạ cách,
Dậu phùng Cơ Cự Nhật vô tinh,
(Thìn hưu, Tuất Tù, Liêm, Tham hãm
Ngọ cung Nguyệt, Cự, chẳng xứng đáng
Thân cung hợp Vũ là hạ cách
Dậu phùng Cơ Cự, Nhật vô minh)
Mão Thìn Tị Ngọ phùng Âm tú,
Tuất Hợi phùng Dương diệc bất dung,
Tham Sát Tị Hợi cư hãm địa,
Phá Quân Mão Dậu bất vi thanh,
(Mão Thìn Tị Ngọ, gặp Thái Âm
Tuất Hợi gặp Nhật cũng chẳng cần
Tham, Sát Tị Hợi, cư hãm địa
Phá Quân Mão Dậu, không sáng đâu).
Gia Sát ngộ Kiếp vi gian đạo,
Thử thị hình tà bất tất luận,
Tham Lang hóa lộc cư tứ mộ,
Túng nhiên ngộ cát diệc trung bình,
(Thêm Sát gặp Kiếp là gian đạo
Như vậy tà gian khỏi cần luận
Tham Lang hóa Lộc cư tứ Mộ
Đúng là gặp cát cũng trung bình)
Mệnh triền nhược địa hưu phùng Kị,
Không Kiếp Kình Dương gia Hỏa Linh,
Nhược phi yểu chiết chủ hạ tiện,
Lục súc chi mệnh bất khả bình,
(Mệnh vào nhược địa đừng gặp Kị
Không Kiếp, Kình Dương với Hỏa Linh
Nếu không chết yểu thì hạ tiện
Số của súc sinh chẳng muốn bình)
Vượng địa phát phúc chung viễn đại,
Hãm địa tranh vanh đáo để khuynh,
Nhị luận bất quá ngũ bách tự,
Phú quý bần tiện biệt đắc minh.
(Vượng địa, phát phúc sau càng lớn
Hãm địa, cao ngất rồi cũng nghiêng
Hai phần luận ấy năm trăm chữ
Phú quý bần tiện, chia mà biết).
36. Phân định các Cục
(QNB chú: Có nhiều cách trong các cục sau đây được sách chú giải rất mơ hồ. Độc giả lưu ý, bàn luận thêm vậy).
* Định Phú Cục:
– Tài Ấm giáp Ấn
Thiên Tướng thủ Mệnh, Vũ Khúc Thiên Lương đến giáp cung thì là vậy. Điền Trạch cung cũng thế.
– Nhật Nguyệt giáp Tài
Vũ Khúc thủ Mệnh, Nhật Nguyệt đến giáp cung thì là vậy. Tài Bạch cung cũng thế.
– Tài Lộc giáp Mã
Mã thủ Mệnh, Vũ Khúc và Lộc cùng đến giáp thì là vậy. Ở nơi sinh vượng càng tuyệt diệu.
– Ấm Ấn củng Thân
Thân lâm vào Điền Trạch cung, Lương Tướng xung củng thì là vậy, đừng tọa ở Không Vong.
– Nhật Nguyệt chiếu bích
(Nhật Nguyệt cùng chiếu vào bức vách)
Nhật Nguyệt lâm vào Điền Trạch cung thì là vậy, hỉ cư ở Mộ cung.
– Kim xán quang huy
(Kim quang của mặt trời xán lạn)
Thái Dương đơn thủ, Mệnh tại Ngọ cung thì là vậy.
* Định Quý Cục
– Nhật Nguyệt giáp mệnh
Bản cung không tọa chỗ Không Vong, gặp cách ấy có cát tinh thì là vậy (được Quý).
– Nhật xuất Phù Tang
(Nhật xuất hiện ở đúng nơi vốn của nó – đó là nước Nhật Bản, xứ Phù Tang, cũng giống như Japan, đều là do người Tàu với người Tây nghe phát âm tên nước Nhật rồi phiên âm ra như thế – xét về địa lý thì nước Nhật được mệnh danh là “nước mặt trời mọc”, ngoài ra người ta còn phịa ra câu chuyện ở đó có cây Dâu (Tang) ngàn năm tuổi mọc nổi (Phù) trên biển,…)
Nhật tại Mão thủ mệnh thì là vậy, thủ ở Quan Lộc cung cũng thế.
– Nguyệt lạc Hợi cung
(Nguyệt cư trú nơi cung Hợi)
Nguyệt tại Hợi cung thủ Mệnh thì là vậy, lại có tên “Nguyệt lãng thiên môn” (Trăng sáng ở cửa Trời).
– Nguyệt sinh thương hải
(Trăng trên biển xanh)
Nguyệt tại Tý cung thủ Điền Trạch cung thì là vậy.
– Phụ Bật củng chủ
(Phụ Bật củng chiếu chủ tinh)
Tử Vi thủ Mệnh có hai sao ấy củng chiếu thì là vậy, giáp cung cũng thế.
– Quân thần khánh hội
(Vua tôi cùng vui mừng tụ hội)
Tử Vi Tả Hữu cùng thủ Mệnh thì là vậy, hội thêm Vũ Tướng Âm thì đẹp thêm.
– Tài Ấn giáp Lộc
Lộc thủ Mệnh, Lương Tướng đến giáp thì là vậy, nhập Tài cung cũng thế.
– Lộc Mã bội Ấn
(Lộc Mã tô điểm cho Ấn)
Mã phía trước có Lộc Ấn đồng cung thì là vậy.
– Tọa Quý hướng Quý
(Ngồi ở chỗ quý nhân mà nhìn về hướng quý nhân)
Khôi Việt tại Mệnh cùng tọa củng thì là vậy.
– Thất Sát triều đẩu
(Thất Sát chầu về chỗ của Tử Vi)
Xem chú giải ở trước
– Nhật Nguyệt tịnh minh
(Nhật Nguyệt cùng sáng rạng rỡ)
Xem chú giải ở trước
– Minh châu xuất hải
(Ngọc sáng xuất hiện trên biển)
Xem chú giải ở trước
– Nhật Nguyệt đồng lâm
(Nhật Nguyệt cùng lâm vào một chỗ)
Xem chú giải ở trước
– Hình Tù giáp Ấn
Thiên Hình Liêm Trinh cùng lâm thân mệnh là chủ người uy dũng
– Khoa Quyền Lộc củng
(Được cả Khoa, Quyền, Lộc củng chiếu)
Xem chú giải ở trước
– Tham Hỏa tương phùng
(Tham Lang gặp Hỏa Tinh)
Hai sao này cùng cư miếu vượng thì là vậy.
– Vũ Khúc thủ viên
(Vũ Khúc thủ Mệnh)
Vũ Khúc thủ mệnh Mão cung thì là vậy, ngoài ra không phải.
– Phủ Tướng triều viên
(Phủ Tướng chầu về Mệnh)
Xem chú giải ở trước
– Tử Phủ triều viên
(Tử Phủ chầu về Mệnh)
Xem chú giải ở trước
– Văn tinh ám củng
(Văn tinh ám hợp, củng chiếu)
Xem chú giải ở trước
– Quyền Lộc sinh phùng
(Được gặp Quyền, Lộc tương trợ cho)
Hai sao này thủ Mệnh miếu vượng thì là vậy, hãm thì không phải.
– Dương Nhận nhập miếu
(Kình Dương nhập miếu)
Thìn Tuất Sửu Mùi thủ Mệnh nhập miếu gặp cát tinh thì là vậy.
– Cự Cơ cư Mão
(Cự Môn, Thiên Cơ ở Mão)
Xem chú giải ở trước
– Minh Lộc ám Lộc
(Một Lộc chính chiếu hoặc thủ, còn Lộc kia ám hợp hoặc giáp)
Xem chú giải ở trước
– Kim dư phù giá
(Phù trợ bên xa giá xe vàng của vua)
Tử Vi thủ Mệnh, trước sau có Nhật Nguyệt đến giáp thì là vậy.
* Định bần tiện cục
– Sinh bất phùng thời
(Sinh ra không gặp thời)
Mệnh tọa nơi Không Vong gặp Liêm Trinh thì là vậy.
– Lộc phùng lưỡng sát
(Lộc tinh gặp cặp sát tinh)
Lộc tọa nơi Không Vong, lại gặp Không Kiếp sát tinh thì là vậy.
– Mã lạc Không Vong
(Thiên Mã bị Không Vong án ngữ)
Mã mà lạc Không Vong thì dẫu Lộc có xung hội thì cũng vô dụng, chủ bôn ba.
– Nhật Nguyệt tàng huy
(Nhật Nguyệt không có ánh sáng)
Nhật Nguyệt phản bối lại gặp Cự ám tinh thì vậy.
– Tài dữ Tù cừu
(Tài tinh với Tù tinh là thù địch)
Vũ Khúc và Liêm Trinh cùng thủ Thân Mệnh thì là vậy.
– Nhất sinh cô bần
(Một đời cô đơn ngèo khó)
Rằng Phá Quân thủ Mệnh lại hãm địa thì là vậy.
– Quân tử tại dã
(Người quân tử phải ở chốn thôn dã, quê mùa)
Rằng tứ sát thủ Thân Mệnh mà lại lâm vào hãm địa thì là vậy.
– Lưỡng trùng hoa cái
(Cả đôi bị hại)
Rằng Lộc Tồn, Hóa Lộc tọa mệnh nhưng gặp Không, Kiếp thì là vậy.
* Định tạp cục
– Phong vân tế hội
(Gió mây gặp gỡ, vận hội hanh thông)
Thân Mệnh tuy nhược nhưng nhị hạn gặp được Lộc Mã thì là vậy.
– Cẩm thượng thiêm hoa
(Áo gấm được thêu thêm hoa)
Rằng hạn có các ác phá tinh mà vào nơi cát địa thì là vậy.
– Y cẩm hoàn hương
(Áo gấm về quê hương)
Thiếu niên không toại ý, sau 40 tuổi thì hạn đi vào Mộ cung thì là vậy.
– Bộ số vô y
(Bước nhảy của từng Số trong hạn không nương theo nhau)
Hạn trước và hạn sau liên miên chẳng phân biệt thì là vậy.
– Thủy thượng giá tinh
(Ánh sao trên nước)
Một năm tốt rồi một năm lại không tốt thì là vậy.
– Cát hung tương bán
(Lành dữ mỗi thứ một nửa)
Mệnh có chủ tinh, hạn trước thì phát, hạn sau chẳng phát thì là vậy.
– Khô mộc phùng xuân
(Cây khô gặp được mùa xuân)
Rằng Mệnh suy nhưng gặp hạn tốt thì là vậy.
QNB chú: Hết quyển nhất bộ Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư. Sau đây chúng ta sẽ đến với quyển nhị của bộ này với nội dung về các phần an sao, lập số, luận 12 cung (Mệnh Tài Quan Phúc Điền,…) và một số bài luận về cường nhược, cát hung, sinh khắc chế hóa,…
Ử VI ĐẨU SỐ TOÀN THƯ – quyển nhị
1. Quy tắc an Thân Mệnh
Đại khái Mệnh người ta theo Dần cung khởi Tháng Giêng, thuận số tới chính Tháng Sinh thì dừng, lại từ Tháng Sinh của người ta mà: khởi Giờ Tý nghịch đến chính Giờ Sinh rồi an Mệnh, thuận tới Giờ Sinh mà an Thân.
Giả như, sinh Tháng Giêng vào giờ Tý thì an Thân Mệnh tại Dần cung, vào giờ Sửu thì nghịch tới Sửu an Mệnh và thuận tới Mão an Thân, vào giờ Dần thì nghịch tới Tý an Mệnh thuận tới Thìn an Thân. Ngoài ra thì cứ phỏng theo đó mà làm. Lại nếu như người sinh vào tháng Giêng nhuận, thì phải từ Tháng Hai mà khởi an Thân Mệnh, phàm cứ xuất hiện tháng nhuận thì phải y theo quy tắc ấy.
[QNB chú: độc giả lưu ý, có lẽ khi La Hồng Tiên biên soạn cuốn TVDSTT này, năm Canh Tuất đời Gia Tĩnh triều Minh, thì chưa có sự điều chỉnh về quy ước cho tháng nhuận là “không được nhuận vào các tháng Một (11) , Chạp (12), Giêng (1)“, cho nên ở trên mới đề cập tới chi tiết “tháng Giêng nhuận” như vậy. Quy ước ấy, có lẽ xuất hiện theo bộ lịch Thời Hiến, khoảng năm 1644-1674 thuộc 2 đời Thuận Trị và Khang Hi triều Thanh].
Nạp âm Giáp Tý ca phải đọc thuộc. Như người sinh năm Giáp mà an Mệnh tại Dần, lại theo phép khởi tháng Bính Dần cho năm Giáp Kỷ, thì Bính Dần Đinh Mão là Lô Trung Hỏa, để theo Hỏa Cục với ngày sinh mà khởi an sao Tử Vi. Như người sinh ngày mồng 1 tháng Giêng thì là Hỏa lục Cục ở cung Dậu khởi ngày mồng 1 thì theo Dậu mà khởi an sao Tử Vi, số không sai khác.
2. Quy tắc an 12 cung
Nam nữ đều theo nghịch chuyển chứ đừng có thuận hành. Một là Mệnh cung, hai Huynh đệ, ba Thê Thiếp, bốn Tử Tức, năm Tài Bạch, sáu Tật Ách, bảy Thiên Di, tám Nô Bộc, chín Quan Lộc, mười Điền Trạch, mười một Phúc Đức, mười hai Phụ Mẫu.
3. Quy ước khởi ngũ hành Dần thủ (phép ngũ hổ độn)
Giáp Kỷ chi tuế khởi Bính Dần,
Ất Canh chi tuế khởi Mậu Dần,
Bính Tân chi tuế khởi Canh Dần,
Đinh Nhâm chi tuế khởi Nhâm Dần,
Mậu Quý chi tuế khởi Giáp Dần.
QNB chú: như quý độc giả đã biết, phép này chính là để tính Thiên Can cho tháng Giêng (Dần) và từ đó tính được ra Thiên Can của các tháng trong năm tương ứng, cũng như tính được Ngũ Hành Nạp Âm cung an Mệnh, tức là ngũ hành của Cục.
4. Lục thập hoa giáp nạp âm ca
Giáp Tý Ất Sửu, Hải Trung Kim,
Bính Dần Đinh Mão, Lô Trung Hỏa,
Mậu Thìn Kỷ Tị, Đại Lâm Mộc,
Canh Ngọ Tân Mùi, Lộ Bàng Thổ,
Nhâm Thân Quý Dậu, Kiếm Phong Kim,
Giáp Tuất Ất Hợi, Sơn Đầu Hỏa,
Bính Tý Đinh Sửu, Giản Hạ Thủy,
Mậu Dần Kỷ Mão, Thành Đầu Thổ,
Canh Thìn Tân Tị, Bạch Lạp Kim,
Nhâm Ngọ Quý Mùi, Dương Liễu Mộc,
Giáp Thân Ất Dậu, Tuyền Trung Thủy,
Bính Tuất Đinh Hợi, Ốc Thượng Thổ,
Mậu Tý Kỷ Sửu, Phích Lịch Hỏa,
Canh Dần Tân Mão, Tùng Bách Mộc,
Nhâm Thìn Quý Tị, Trường Lưu Thủy,
Giáp Ngọ Ất Mùi, Sa Trung Kim,
Bính Thân Đinh Dậu, Sơn Hạ Hỏa,
Mậu Tuất Kỷ Hợi, Bình Địa Mộc,
Canh Tý Tân Sửu, Bích Thượng Thổ,
Nhâm Dần Quý Mão, Kim Bạc Kim,
Giáp Thìn Ất Tị, Phúc Đăng Hỏa,
Bính Ngọ Đinh Mùi, Thiên Hà Thủy,
Mậu Thân Kỷ Dậu, Đại Dịch Thổ,
Canh Tuất Tân Hợi, Thoa Xuyến Kim,
Nhâm Tý Quý Sửu, Tang Đố Mộc,
Giáp Dần Ất Mão, Đại Khê Thủy,
Bính Thìn Đinh Tị, Sa Trung Thổ,
Mậu Ngọ Kỷ Mùi, Thiên Thượng Hỏa,
Canh Thân Tân Dậu, Thạch Lựu Mộc,
Nhâm Tuất Quý Hợi, Đại Hải Thủy.
5. Ca quyết an các sao Nam Bắc đẩu
Tử Vi Thiên Cơ nghịch hành bàng,
Cách nhất Dương Vũ Thiên Đồng đương,
Hựu cách nhị vị Liêm Trinh địa,
Không tam phục kiến Tử Vi lang,
Thiên Phủ Thái Âm dữ Tham Lang,
Cự Môn Thiên Tướng cập Thiên Lương,
Thất Sát không tam phá quân vị,
Bát tinh thuận số tế thôi tường.
(Tử Vi, Thiên Cơ nghịch kề an
Cách một Nhật, Vũ, Thiên Đồng bàn
Lại cách hai cung Liêm Trinh viết
Trống ba gặp lại Tử Vi lang
Thiên Phủ Thái Âm với Tham Lang
Cự Môn Thiên Tướng, Thiên Lương an
Thất Sát, cách ba Phá Quân viết
Tám sao thuận chuyển khắp tinh bàn).
6. Ca quyết an sao Văn Xương Văn Khúc
Xét theo giờ sinh.
Tý thời Tuất thượng khởi Văn Xương,
Nghịch đáo sinh thời thị quý hương,
Văn Khúc số tòng Thìn thượng khởi,
Thuận đáo sinh thời thị bản hương.
Sao Văn Xương theo trên cung Tuất mà khởi giờ Tý, (sinh giờ Tý) thì an ngay tại cung Tuất, nếu (sinh giờ) Sửu thì đi nghịch tới Dậu cung mà an.
Sao Văn Khúc theo trên cung Thìn mà khởi giờ Tý, (sinh giờ Tý) thì an ngay tại cung Thìn, nếu (sinh giờ) Sửu thì đi thuận tới Tị cung mà an.
Ngoài ra cứ phỏng theo như vậy.
7. Ca quyết an Tả Phụ Hữu Bật
Xét theo tháng sinh.
Tả Phụ chính nguyệt khởi ư Thìn,
Thuận phùng sinh nguyệt thị quý phương,
Hữu Bật chính nguyệt cung tầm Tuất,
Nghịch chí chính nguyệt tiện điều đình.
Tả Phụ từ trên cung Thìn khởi tháng Giêng mà đi thuận (cho đến tháng sinh), như sinh tháng Giêng thì an ngay tại cung Thìn, sinh tháng Hai thì an tại cung Tị.
Hữu Bật theo từ trên cung Tuất khởi tháng Giêng mà đi nghịch (cho tới tháng sinh), như sinh tháng Giêng thì an ngay tại cung Tuất, sinh tháng Hai thì an tại cung Dậu.
Ngoài ra cứ phỏng theo đó.
8. Ca quyết an Thiên Khôi, Thiên Việt
Xét Thiên Can năm sinh.
Giáp Mậu Canh, Ngưu Dương,
Ất Kỷ, Thử Hầu hương,
Lục Tân phùng Hổ Mã,
Nhâm Quý, Thố Xà tàng,
Bính Đinh, Trư “cẩu” vị,
Thử thị quý nhân phương.
(QNB chú: nguyên văn câu thứ 5 bài quyết trên 丙丁豬狗位, trong đó chữ “Cẩu”-狗 là chó, con chó, thì tôi cho rằng có thể có sự sao chép sai một chữ này. Phải là chữ “Kê” -鷄 là gà, con gà mới đúng. Xin độc giả lưu ý vậy.
Giáp Mậu Canh: Sửu Mùi,
Ất Kỷ, chỗ Tý Thân
Sáu Tân nơi Hổ Mã
Nhâm Quý, Mão Tị an
Bính Đinh, Hợi Dậu vị
Đích thị chỗ quý nhân).
Hai sao này chủ khoa giáp, Thân Mệnh nếu gặp được thì là khách được đề danh bảng vàng.
9. Ca quyết an sao Thiên Mã
Xét Địa Chi năm sinh.
Dần Ngọ Tuất nhân Mã cư Thân,
Thân Tý Thìn nhân Mã cư Dần,
Tị Dậu Sửu nhân Mã cư Hợi,
Hợi Mão Mùi nhân Mã cư Tị.
Như an Mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, gặp cung Phu Thê tại Dần Thân Tị Hợi có Thiên Mã, nếu được đồng vị hoặc tam phương cát chiếu, tất chủ nam là quan nữ được phong tặng, tất nhiên Lộc Mã giao trì cũng cát lợi.
10. Ca quyết an sao Lộc Tồn
Xét Thiên Can năm sinh.
Giáp sinh Lộc Tồn tại Dần cung,
Ất sinh tại Mão, Bính Mậu Tị,
Đinh Kỷ Lộc Tồn đình Ngọ phương,
Canh Lộc cư Thân, Tân Lộc Dậu,
Nhâm Lộc tại Hợi, Quý Lộc Tý.
11. Ca quyết an hai sao Kình Dương, Đà La
Lộc tiền Kình Dương, hậu Đà La,
Giáp hạn phùng hung họa hoạn đa,
Tuế hạn phùng chi câu bất lợi,
Nhân sinh ngộ thử mạc tha đà.
(Trước Lộc, Kình Dương, sau Đà La
Hạn giáp gặp hung, họa nạn đa
Tuế hạn gặp thì cũng bất lợi
Đời người gặp phải dễ sảy sa).
12. Ca quyết an hai sao Hỏa Tinh, Linh Tinh
Dần Ngọ Tuất nhân Sửu Mão phương,
Thân Tý Thìn nhân Dần Tuất dương,
Tị Dậu Sửu nhân Mão Tuất vị,
Hợi Mão Mùi nhân Dậu Tuất phòng.
(QNB chú: bài quyết trên mới nói đến cung để khởi Hỏa Linh theo Địa Chi năm sinh, không thấy đề cập tới giờ sinh và thuận nghịch của Âm Dương nam nữ như ta vẫn thường biết. Xin độc giả lưu ý vậy).
13. Ca quyết an bốn sao biến hóa Lộc Quyền Khoa Kị
Xét Thiên Can năm sinh.
Giáp, Liêm Phá Vũ Dương vi bạn,
Ất, Cơ Lương Tử Nguyệt giao xâm,
Bính, Đồng Cơ Xương Liêm Trinh vị,
Đinh, Nguyệt Đồng Cơ Cự môn tầm,
Mậu, Tham Nguyệt Bật Cơ vi chủ,
Kỷ, Vũ Tham Lương Khúc tối bình,
Canh, Nhật Vũ Âm Đồng vi thủ,
Tân, Cự Dương Khúc Xương chí lâm,
Nhâm, Lương Tử Phủ Vũ tú thị,
Quý, Phá Cự Âm Tham lang đình.
14. Ca quyết an Thiên Không Địa Kiếp
Xét giờ sinh.
Hợi thượng khởi Tý thuận an Kiếp,
Nghịch hướng tiện thị Thiên Không hương.
Như người sinh giờ Tý thì Kiếp Không đều ở Hợi cung. Nếu sinh giờ Sửu thì Kiếp thuận tại Tý cung, Không lại nghịch đến Tuất cung. Nếu người sinh giờ Ngọ thì Kiếp Không đều tại Tị cung mà an. Ngoài ra thì phỏng theo đó.
15. Ca quyết an Thiên Thương Thiên Sứ
Mệnh tiền lục vị thị Thiên Thương,
Mệnh hậu lục vị Thiên Sứ đương.
(Trước mệnh sáu cung an Thiên Thương
Sau mệnh sáu cung Thiên Sứ phương).
Thiên Thương an tại Nô Bộc cung, Thiên Sứ an tại Tật Ách cung. Thân cùng Tuế hạn giáp tại chỗ giữa của Thương Sứ mà lại thêm ác tinh thì rất hung hiểm.
16. Ca quyết an thập nhị cung Thái Tuế sát lộc
Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long tục,
Tiểu Hao, Tướng Quân cập Tấu Thư,
Phỉ Liêm, Hỉ Thần, Bệnh Phù lục,
Thiên Hao, Phục Binh chí Cung Phủ,
Cát hung tòng thử phân họa phúc.
Yếu tri bất luận Nam Nữ mệnh
Tầm Lộc Tồn tinh khởi (…)
Dương Nam Âm Nữ thuận thôi luân,
Âm Nam Dương Nữ nghịch lưu hành.
Bác Sĩ thông minh Lực Sĩ quyền,
Thanh Long hỉ khí Tiểu Hao tiền,
Tướng Quân uy vũ Tấu Thư phúc,
Phỉ Liêm chủ hồ Hỉ Thần diên,
Bệnh Phù đới tật, Háo thối tổ,
Phục Binh Cung Phủ khẩu thiệt triền,
Sinh niên tọa thủ thập nhị sát,
Phương cảm đoạn nhân họa phúc nguyên.
[QNB chú: chữ 蜚 có thể phiên âm là Phi (bay, không có thật) hoặc Phỉ (con sâu, con bọ xít, con gián). Còn chữ Thiên Hao là chỉ sao Đại Hao, và chữ Cung Phủ là chỉ sao Quan Phủ như ta vẫn biết.
Khổ thơ thứ hai bị thiếu mất 2 chữ (tôi đoán là 2 chữ “Bác Sĩ”, nhưng dù sao thì nó cũng) gây ra sự khó hiểu giữa câu thứ nhất và các câu thứ ba, tư, vì câu thứ nhất nói “Nên biết không cần luận Nam Nữ mệnh” nhưng mà câu thứ ba thứ tư lại nói rất rõ về chiều thuận nghịch đối với Âm Dương Nam Nữ.
Xin độc giả lưu ý vậy.
Hai khổ sau là nói sơ qua về tính chất các sao của vòng này:
Bác Sĩ thì thông minh (ngày xưa người sĩ tử, học giả có học thức rộng thì gọi là Bác Sĩ, Bác Học, …), Lực Sĩ thì chủ quyền lực và sức mạnh, Thanh Long thì chủ khí vui mừng, Tiểu Hao chủ về hao tốn tiền của, Tướng Quân chủ oai võ, Tấu Thư chủ phúc, Phỉ/Phi Liêm thì chủ cung tên và tính chất cong queo, Hỉ Thần thì chủ duyên và sự kéo dài về thời gian, Bệnh Phù thì chủ bệnh tật, Đại Hao là chủ làm suy kém tổ nghiệp, Phục Binh và Cung Phủ đều chủ quan tụng khẩu thiệt triền miên].
17. Quyết an Thiên Hình, Thiên Diêu
Từ trên cung Dậu mà khởi Tháng Giêng, thuận chiều tới Tháng Sinh mà an sao Thiên Hình.
Từ trên cung Sửu mà khởi Tháng Giêng, nghịch chiều tới Tháng Sinh mà an sao Thiên Diêu.
18. Quyết an hai sao Tam Thai, Bát Tọa
Từ chỗ của Tả Phụ mà gọi là ngày mồng 1 tại cung ấy, thuận chuyển cho tới ngày sinh thì an Tam Thai.
Từ chỗ của Hữu Bật mà gọi là ngày mồng 1 tại cung ấy, nghịch chuyển cho tới ngày sinh thì an Bát Tọa.
19. Quyết an Thiên Khốc, Thiên Hư
Xét Địa Chi năm sinh.
Thiên Khốc Thiên Hư khởi Ngọ cung.
Ngọ cung khởi Tý lưỡng phân tung.
Khốc nghịch Tị hề hư thuận Vị.
Số đáo sinh niên tiện cư trung.
(Thiên Khốc Thiên Hư khởi Ngọ cung
Hô tên là Tý xuất phát chung
Khốc nghịch sang Tị, Hư Mùi thuận
Đếm đến năm sinh, an trong cung).
20. Quyết an Long Trì, Phượng Các
Xét Địa Chi năm sinh.
Long Trì từ cung Thìn gọi là năm Tý khởi thuận.
Phượng Các từ cung Tuất gọi là năm Tý khởi nghịch.
(Đếm đến Địa Chi năm sinh thì an sao).
21. Quyết an Thai Phụ
Từ cung Ngọ khởi Tý mà thuận đến giờ sinh rồi an Thai Phụ.
22. Quyết an Phong Cáo
Từ cung Dần khởi Tý mà thuận đến giờ sinh rồi an Phong Cáo.
23. Quyết an vòng Trường Sinh
Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Nam mệnh thuận số, nữ mệnh nghịch số.
Hỏa cục thì tại Dần khởi Trường Sinh. Mộc cục tại Hợi khởi Trường Sinh. Thủy cục tại Thân khởi Trường Sinh. Kim cục tại Tị khởi Trường Sinh. Thổ cục tại Thân khởi Trường Sinh.
(QNB chú: Độc giả lưu ý. Trong sách này chỉ dùng Nam hoặc Nữ để xác định chiều cho vòng Trường Sinh mà không phân chia theo Âm Dương Nam Nữ như đa số ở ta thường biết).
24. Quyết an Hồng Loan, Thiên Hỉ
Mão thượng khởi Tý nghịch số chi,
Số đáo đương sinh thái tuế chi,
Tọa thủ thử cung Hồng Loan vị,
Đối cung Thiên Hỉ bất sai di,
Niên thiếu hôn nhân hỉ sự kỳ,
Lão nhân tất chủ tang kỳ thê,
Tam thập niên tiền vi cát diệu,
Ngũ thập niên hậu bất tương nghi.
(Mão cung hô Tý nghịch khởi đi
Đếm đến năm sinh tên địa chi
Cung ấy chính là Hồng Loan vị
Đối cung Thiên Hỉ chẳng sai gì
Thiếu niên gặp nó, điềm hôn, hỉ
Phụ lão e chồng vợ mất đi
Ba mươi năm trước là cát diệu
Sau quá năm mươi chẳng tốt chi).
25. Quyết an bốn phi tinh Tang Môn, Bạch Hổ, Điếu Khách, Quan Phủ
Tuế quân tiền nhị thị Tang Môn,
Hậu nhị cung trung Điếu Khách tồn,
Đối chiếu Tang Môn an Bạch Hổ,
Điếu Khách đối chiếu an Quan Phủ.
Trước chỗ của Lưu niên Thái Tuế hai cung là Tang Môn, sau hai cung là Điếu Khách, đối chiếu với Tang Môn là Bạch Hổ, đối chiếu với Điếu Khách là Quan Phủ.
(QNB chú: Quan Phủ ở sách này thì tương ứng với Quan Phù mà ta thường được biết. Theo tôi, việc định danh cho nó là Quan Phù thì hợp lý hơn vì căn cứ vào câu phú Thái Vi ta thấy nói rất rõ “Thái Tuế Quan Phù Công Dã hữu luy tiết chi ưu”).
26. Quyết an Đẩu Quân
Tức là sao Nguyệt Tướng vậy.
Từ cung Lưu niên Thái Tuế mà khởi Tháng Giêng, nghịch đến Tháng Sinh, (đến cung nào) lại từ cung đó khởi Giờ Tý mà thuận đến Giờ Sinh, rồi an Đẩu Quân.
Thái Tuế cung trung tiện khởi chính,
Nghịch tầm sinh nguyệt tức lưu đình,
Hựu tòng sinh nguyệt cung luân Tý,
Thuận chí sinh thời trấn Đẩu tinh.
(Thái Tuế lưu niên, khởi tháng Giêng
Nghịch tìm cho tới tháng sinh liền
Đến nơi hô Tý rồi thuận chuyển
Cho tới giờ sinh, Đẩu Quân miền).
27. Quyết an Thiên Đức, Nguyệt Đức, Giải Thần
Sao Thiên Đức từ trên cung Dậu mà khởi Tý, thuận số tới Lưu niên Thái Tuế (QNB chú: cũng chính là Địa Chi năm sinh) mà an vậy.
Sao Nguyệt Đức từ trên cung “Tý” mà khởi Tý, thuận số tới Lưu niên Thái Tuế mà an vậy
(QNB chú: tức là tới Địa chi năm sinh. Và nguyên văn: 月德星從子上起子 – Nguyệt Đức tinh tòng Tý thượng khởi Tý. Điều này có thể là nhầm lẫn hoặc có cách an sao Nguyệt Đức khác với cách ta thường biết là “từ cung Tị mà hô là Tý, đếm đến Chi năm sinh thì an Nguyệt Đức).
Giải Thần từ trên cung Tuất khởi Tý, nghịch số tới Chi năm sinh mà an vậy.
28. Quyết an Phi Thiên Tam Sát
Tức là Tấu Thư, Tướng Quân, Trực Phù
Các năm Dần Ngọ Tuất thì phi nhập Hợi Mão Mùi cung.
Các năm Thân Tý Thìn thì phi nhập Tị Dậu Sửu cung.
Các năm Hợi Mão Mùi thì phi nhập Thân Tý Thìn cung.
Các năm Tị Dậu Sửu thì phi nhập Dần Ngọ Tuất cung.
Tấu Thư khẩu thiệt họa lai xâm,
Tướng Quân phi nhập hối tâm kinh,
Trực Phù quan tai chung bất miễn,
Thử thị lưu niên tam sát tinh.
(Tấu Thư khẩu thiệt họa nguy thay
Tướng Quân bay đến hối hận ngay
Trực Phù kiện tụng là khó tránh
Chúng là lưu niên ba sát tinh).
(QNB chú: Độc giả lưu ý. Ba sao này tuy có trùng Tên gọi so với các sao thuộc vòng Bác Sĩ, nhưng ở đây chúng là “phi tinh” an từng năm và được an dựa vào Địa Chi.
Liên quan tương tự, tuy sách này không có nói nhưng tôi biết rằng, có 1 sao cũng có tên là Phi/Phỉ Liêm được an theo Địa Chi chứ không phải an theo Thiên Can như Phi Liêm của vòng Bác Sĩ).
29. Quyết an Tiệt/Triệt Lộ Không Vong
Xét theo Thiên Can năm sinh.
Giáp Kỷ, Thân Dậu cung
Ất Canh, Ngọ Mùi cung
Bính Tân, Thìn Tị cung
Đinh Nhâm, Dần Mão cung
Mậu Quý, Tý Sửu cung.
30. Quyết an Tuần Trung Không Vong
Xét tuần của năm sinh.
Giáp Tý, Tuần Trung Không Vong tại Tuất Hợi,
Giáp Dần, Tuần Trung Không Vong tại Tý Sửu
Giáp Thìn, Tuần Trung Không Vong tại Dần Mão
Giáp Ngọ, Tuần Trung Không Vong tại Thìn Tị
Giáp Thân, Tuần Trung Không Vong tại Ngọ Mùi
Giáp Tuất, Tuần Trung Không Vong tại Thân Dậu.
31. Quyết an Đại Hạn
Dương nam Âm nữ khởi thuận từ cung trước Mệnh 1 cung, chính là Phụ Mẫu cung.
Âm nam Dương nữ khởi nghịch từ cung sau Mệnh 1 cung, chính là Huynh Đệ cung.
32. Quyết an Tiểu Hạn
Bất luận Âm Dương, cứ Nam thì thuận số, nữ thì nghịch số.
Dần Ngọ Tuất nhân khởi Thìn cung,
Thân Tý Thần nhân tự Tuất cung,
Tị Dậu Sửu nhân khởi Mùi cung,
Hợi Mão Mùi nhân khởi Sửu cung.
33. Quyết an hạn của trẻ con (Đồng hạn)
Nhất Mệnh nhị Tài tam Tật Ách,
Tứ Thê ngũ Phúc lục Quan Lộc,
Dư niên nhất phái thuận lưu hành,
Thập ngũ Mệnh cung khán đoan đích.
(Một tuổi xem ở chính Mệnh cung,
Lên Hai xem ở chỗ cung Tài
Lên Ba xem Tật, Bốn Thê vị
Năm ở Phúc cung, Sáu tại Quan
Những năm còn lại, lần lượt thuận
Tới tuổi mười lăm tại Mệnh cung).
[QNB chú: Độc giả lưu ý. Cách toán Đồng Hạn này chỉ giống với các cách ta thường biết ở đoạn từ 1 tuổi tới 6 tuổi, còn lại có sự khác biệt:
– Ta thường toán cho đến năm trẻ lên 12 tuổi, ứng với bắt đầu sang đại vận thứ hai của Nhị Cục, sau đó lại xem theo Đại Tiểu hạn như thông thường. Nhưng trong sách này lại chép cách toán hạn tới 15 tuổi.
– Với các toán cho trẻ mà ta thường biết thì lên 7 tuổi xem ở Nô, 8 tuổi xem Di, 9 tuổi xem Tử, 10 tuổi xem Huynh, 11 tuổi xem Phụ Mẫu, 12 tuổi xem Điền Trạch. Hoặc cách khác là cứ chuyển lần lượt theo vị trí cung “Quan”. Còn trong sách này thì lại toán theo cách từ 7 tuổi trở đi thì cứ toán thuận từng cung (7 Nô, 8 Di, 9 Tật, 10 Tài, 11 Tử, 12 Thê, 13 Bào, 14 Mệnh cho đến 15 tuổi cũng lại xem ở Mệnh cung].
34. An Mệnh Chủ
Tý cung – Tham Lang
Sửu Hợi cung – Cự Môn
Dần Tuất cung – Lộc Tồn
Mão Dậu cung – Văn Khúc
Thìn Thân cung – Liêm Trinh
Tị Mùi cung – Vũ Khúc
Ngọ cung – Phá Quân
Giả như, an Mệnh tại Ngọ cung thì tìm xem Phá Quân đóng tại cung nào tức là Mệnh Chủ ở đó. An Mệnh tại Tý cung thì tìm Tham Lang ở chỗ nào thì là Mệnh chủ ở đó. Bên trái vận hành từ Sửu cho tới Ngọ, bên phải vận hành từ Hợi cho tới Ngọ.
35. An Thân Chủ
Tý Ngọ nhân Hỏa Linh tinh,
Sửu Mùi nhân Thiên Tướng tinh,
Dần Thân nhân Thiên Lương tinh,
Mão Dậu nhân Thiên Đồng tinh,
Thìn Tuất nhân Văn Xương tinh,
Tị Hợi nhân Thiên Cơ tinh.
(QNB chú: Thân Chủ được an theo Địa Chi năm sinh, như người tuổi Tý thì Thân Chủ là Hỏa Tinh, người tuổi Ngọ thì Thân chủ là Linh Tinh – điều này lại ngược với các cách ta biết trong sách “Số Tử Vi Kinh Nghiệm” của cụ Quản Xuân Thịnh. Các tuổi còn lại thì cứ 2 Địa Chi tuổi thì tương ứng với 1 sao Thân Chủ như trong bài quyết – và cũng giống trong sách của cụ Cả Thịnh).
36. Luận an mệnh Kim Tỏa Thiết Xà Quan
Đương tòng Tuất thượng khởi Tý niên,
Thuận số hành niên nguyệt nghịch thôi,
Nhật hựu thuận số thời nghịch chuyển,
Tiểu nhi thọ yểu khả tiên tri.
(Tuất cung hô Tý đếm theo năm,
Thuận tới niên sinh, nghịch tháng trăng,
Đi thuận ngày sinh, giờ nghịch chuyển
Tiên tri trẻ thọ hoặc yểu chăng).
Phép ấy, theo Tuất cung khởi năm Tý mà đi thuận cho đến Địa Chi năm sinh, (đến cung nào lại từ đó mà) khởi tháng Giêng đếm nghịch tới Tháng Sinh, (đến cung nào lại từ đó mà) khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến Ngày Sinh, (đến cung nào lại từ đó mà) khởi giờ Tý đếm nghịch đến Giờ Sinh. Nếu cuối cùng mà rơi vào cung Sửu Mùi thì trẻ có bệnh nhưng có thể cứu được, còn như rơi vào cung Thìn Tuất thì chết yểu.
37. Định nam nữ Trúc La tam hạn
Phương pháp viết, cùng định lệ Cục (số) như Đế Hoàng (QNB chú: có lẽ muốn ám chỉ sao Tử Vi), chỉ là đi nghịch với trên đây hai số mà an bài (QNB chú: có lẽ muốn ám chỉ việc đi ngược chiều đại hạn 2 cung hoặc đếm đến số cung có vị trí ứng với số bằng 2 lần số Cục), nếu tam phương tứ chính mà có Thất Sát Phá Quân đều gọi là “Trúc La tam hạn”. Nếu lại thêm Cự ám hung tinh ở tam phương tứ chính thì nhất định là bị dị nghị, dè bỉu. Nếu mà Đại Tiểu nhị hạn gặp phải thì đoán là hạn có thể chết.
(QNB chú: theo như đa số các tài liệu hiện đại thì họ coi “Trúc La tam hạn” chỉ đơn giản là khi Đại Tiểu nhị hạn cũng như Lưu niên Tuế hạn đi vào cung mà tam phương có Sát Phá Tham mà thôi. Cơ bản thì coi hạn ấy chính là lúc mà mệnh vận có biến chuyển mạnh mẽ, còn theo chiều hướng tốt hay xấu thì tùy thuộc vào sự đắc miếu của Sát Phá Tham cũng như các sát hung tinh đi kèm, sợ nhất là có Hóa Kị đến xung chiếu).
38. Định cường nhược 12 cung
Nam Mệnh: Tài Bạch, Quan Lộc, Phúc Đức, Thiên Di, Điền Trạch là cường cung. Còn Tử Tức, Nô Bộc, Huynh Đệ, Phụ Mẫu là nhược cung.
Nữ Mệnh: Phu Quân, Tử Tức, Tài Bạch, Điền Trạch, Phúc Đức là cường cung, các cung còn lại là nhược cung.
39. Định 12 cung các sao lạc nhàn
Tử Vi tại Tý Thìn Hợi là nhàn cung,
Tham Lang tại Dần Thìn là nhàn cung,
Thiên Tướng tại Thìn Tuất là nhàn cung,
Thất Sát tại Thìn Hợi là nhàn cung,
Thiên Lương tại Tị Dậu là nhàn cung,
Thiên Cơ tại Tị là nhàn cung,
Phá Quân tại Tị Thân là nhàn cung,
Vũ Khúc tại Thân là nhàn cung.
40. Quyết an Lưu Lộc, Lưu Kình, Lưu Đà
Xét lưu niên thái tuế.
Giả như Kỷ Sửu lưu niên thì Lưu Lộc tại Ngọ, Lưu Kình tại Mùi, Lưu Đà tại Tị. Như người tuổi Giáp Tý mà an Mệnh tại Tị, thì tiểu hạn vừa đến cung Hợi, tiểu hạn Kình Dương. (QNB chú: chỗ nãy sách lấy thí dụ chẳng thú zị cái gì cả, thật là khó hiểu. Xin độc giả lưu ý vậy. Nguyên văn viết: 論流年太歲. 假如己丑流年流祿在午, 流羊在未, 流陀在巳, 如甲子生人安命巳, 小限又行在亥, 小限擎羊. Luận lưu niên thái tuế. Giả như Kỷ Sửu lưu niên lưu Lộc tại Ngọ, lưu Dương tại Mùi, lưu Đà tại Tị, như Giáp Tý sinh nhân an mệnh Tị, tiểu hạn hựu hành tại Hợi, tiểu hạn Kình Dương.)
41. Luận các sao sinh khắc chế hóa
Tinh diệu đều hiểu sinh khắc chế hóa là then chốt, thứ đến xem tọa lạc ở cung nào, như Liêm Trinh thuộc Hỏa tại Dần cung là chỗ Mộc thường sinh cho Hỏa của Liêm Trinh. Nếu Vũ Khúc Kim tinh cùng Liêm Trinh đồng độ, thì Vũ Khúc tuy là tiền tài nhưng mà vô dụng vậy, ngoài ra thì cứ phỏng theo đó. (QNB chú: trên cùng lá số thì Vũ Khúc luôn tam hợp với Liêm Trinh nên không thể xảy ra việc Liêm Vũ đồng cung được. Độc giả lưu ý).
Kim nhập Hỏa hương
Hỏa nhập Thủy hương
Thủy nhập Thổ hương
Thổ nhập Mộc hương
Đều là bị khắc chế.
42. Luận các sao phận thuộc Nam Bắc đẩu hóa cát hung, cùng phận thuộc Ngũ Hành
Tử Vi thuộc Thổ, trung thiên tinh, Nam Bắc đẩu, hóa Đế tọa là quan lộc chủ.
Thiên Cơ thuộc Mộc, Nam đẩu, hóa Thiện, là huynh đệ chủ.
Lộc Tồn thuộc Thổ, Bắc đẩu, ti tước quý thọ tinh.
Thái Dương thuộc Hỏa, Nam Bắc đẩu, hóa Quý, là quan lộc chủ.
Thiên Đồng thuộc Thủy Kim, Nam đẩu, hóa Phúc, là phúc đức chủ.
Liêm Trinh thuộc Hỏa, Bắc đẩu, hóa Sát Tù, tại quan lộc là quan lộc chủ, tại Thân Mệnh là thứ đào hoa.
Vũ Khúc thuộc Kim, Bắc đẩu, hóa Tài, là Tài Bạch chủ.
Thiên Phủ thuộc Thổ, Nam đẩu, hóa Lệnh tinh, là Tài bạch và Điền trạch chủ.
Thái Âm thuộc Thủy, Nam Bắc đẩu, hóa Phú, là Tài bạch Điền trạch chủ.
Tham Lang thuộc Thủy Mộc, Bắc đẩu, hóa Đào Hoa Sát, chủ họa phúc.
Cự Môn thuộc Thủy, Bắc đẩu, hóa Ám, chủ thị phi.
Thiên Tướng thuộc Thủy, Nam đẩu, hóa Ấn, là quan lộc chủ.
Thiên Lương thuộc Thổ, nam đẩu, hóa Ấm, chủ thọ.
Thất Sát thuộc Hỏa Kim, Nam đẩu, gặp Đế hóa Quyền tinh.
Phá Quân thuộc Thủy, Bắc đắc đẩu, hóa Hao, ti phu thê, tử tức, nô bộc.
Văn Xương thuộc Kim, nam bắc đẩu, ti khoa giáp là chủ đứng đầu văn khoa.
Văn Khúc thuộc Thủy, Bắc Đẩu, chủ về khoa giáp.
Phụ Bật nhị tinh bắc đẩu, sở trường đảm nhiệm ân lệnh mưa móc (QNB chú: xem lại chỗ chư tinh vấn đáp thì biết Tả Phụ thuộc Thổ, còn Hữu Bật thuộc Thủy).
Các sao kể trên đây, từ Tử Vi tới Phụ Bật là 1 và 18 sao đều là Nam Bắc đẩu chính diệu.
Khôi Việt, Thiên Mã cũng là cát tinh và đều không thuộc chính diệu. (QNB chú: chi tiết “1 & 18 sao” này có thể khiến ta liên tưởng tới tiền thân của môn TVĐS là môn “Thập bát phi tinh” cũng gồm Tử Vi & 18 sao).
Khôi Việt nhị tinh thuộc Hỏa.
Thiên Mã thuộc Hỏa.
Kình Dương thuộc Kim, phù cho Bắc đẩu tinh, hóa Hình.
Đà La thuộc Kim, trợ cho Bắc đẩu tinh, hóa Kị.
Hỏa Tinh thuộc Hỏa, trợ cho Nam đẩu.
Linh Tinh thuộc Hỏa, trợ cho Nam đẩu.
Thiên Không Địa Kiếp thuộc Hỏa.
Thiên Thương Thiên Sứ thuộc Thủy.
Hóa Lộc thuộc Thổ, mừng gặp Lộc Tồn.
Hóa Quyền thuộc Mộc, mừng hội Cự Môn Vũ Khúc.
Hóa Khoa thuộc Thủy, mừng hội khôi việt.
Hóa Kị thuộc Thủy, tức là Kế Đô tinh.
Hồng Loan Thiên Hỉ thuộc Thủy.
Tuế Quân thuộc hỏa.
Bác Sĩ thuộcc Thủy, chủ thông minh.
Lực Sĩ thuộc Hỏa chủ quyền thế.
Thanh Long thuộc Mộc, chủ hỉ khí.
Đại tiểu Hao thuộcc Hỏa, Tiểu Hao tiền tài Đại Hao phá tổ nghiệp.
Tướng Quân thuộc Mộc, chủ uy mãnh khó hòa hợp.
Tấu Thư thuộc Kim, chủ phúc lộc.
Phi Liêm thuộc Hỏa, chủ cô độc.
Hỉ Thần thuộc Hỏa, chủ hỉ khí.
Phục Binh thuộc Hỏa, chủ khẩu thiệt
Bệnh Phù chủ bệnh.
Quan Phủ thuộc Hỏa chủ quan phù (phù tiết, ấn tín của quan).
Tang Môn thuộc Mộc.
Điếu Khách thuộc Hỏa.
Bạch Hổ thuộc Kim.
44. Luận 12 cung (từ Mệnh tới Phụ Mẫu)
44.1 Mệnh cung
* Tử Vi thuộc Thổ, Nam Bắc đẩu, hóa Đế tòa, là chủ của quan lộc. (Người có) Tử Vi thì sắc mặt đỏ tía hoặc trắng xanh, lưng eo phì mãn, là người trung hậu lão luyện, chính trực liêm khiết khiêm cung, oai phong của nó có thể chế được Thất Sát, hàng phục được Hỏa Linh. Nếu cùng Phủ Tướng Tả Hữu Nhật Nguyệt Xương Khúc tam hợp gia hội thì rất khẩn trương, hưởng thực lộc ngàn chung, giàu có vô cùng và đại quý. Cùng Lộc Tồn đồng cung rất đặc biệt. Không nhập miếu lại không có Tả Hữu thì là cô quân (vua đơn độc), cũng dễ thanh nhàn tăng đạo. Nếu cùng Phá Quân đồng cung là tư lại (chức quan nhỏ). Cùng Kình Đà Linh Hảo xung hợp chiếu, có nhiều cát tinh cũng chủ phát tài, người thường kẻ thứ dân cũng vẫn được cát. Vào nữ Mệnh mà hội cát tinh thì thanh tú, vượng phu ích tử.
Tý cung hỉ người sinh năm Đinh Kỷ Canh được quý cách, người sinh năm Nhâm Quý thì không bền.
Ngọ cung nhập miếu hỉ người sinh năm Giáp Đinh Kỷ được tài quan cách, người sinh năm Bính Mậu thì có thành có bại có đới tật.
Mão Dậu cung cùng Tham Lang đồng độ, người sinh năm Ất Tân Giáp Canh được quý mà không bền.
Dần Thân cung vượng địa cùng Thiên Phủ đồng cung, người tuổi Giáp Canh Kỷ được tài quan cách.
Tị Hợi cung vượng địa cùng Thất Sát đồng cung, người tuổi Ất Mậu được tài quan cách.
Sửu Mùi cung nhập miếu cùng Phá Quân đồng cung, người tuổi Ất Kỷ Giáp Canh Đinh Nhâm được tài quan cách.
Tử Vi nhập nam mệnh cát hung quyết:
Tử Vi thiên trung đệ nhất tinh,
Mệnh Thân tương ngộ phúc tài hưng,
Nhược phùng tướng tá cung trung hội,
Phú quý song toàn bá lệnh danh.
Tử Vi thủ mệnh tối vi lương,
Nhị sát phùng chi thọ bất trường,
Dương Đà Hỏa Linh lai tương hội,
Chích hảo không môn lễ phạn vương.
Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân,
Phú nhi bất quý hữu hư danh,
Nhược phùng Tham Lang tại Mão Dậu,
Vi thần thất nghĩa bất tương ứng.
Hỏa Linh Dương Đà lai tương hội,
Thất Sát đồng cung đa bất quý,
Khi nhân cô độc cánh hình thương,
Nhược thị không môn vi cát lợi.
(Đệ nhất giữa trời Tử Vi tinh
Mệnh Thân gặp gỡ tài phúc vinh
Nếu thêm tướng tá trong cung hội
Phú quý song toàn danh hiển vinh.
Tử Vi thủ mệnh rất hiền lương
Gặp Kiếp Không xâm, thọ chẳng trường
Linh Hỏa Kình Đà cùng tới phạm
Chỉ hay theo Đạo với Phật đường.
Thìn Tuất Tử Vi gặp Phá Quân
Phú mà chẳng quý chỉ hư danh
Tham Lang cùng ở nơi Mão Dậu
Tôi thần thất nghĩa thật chẳng xứng.
Kình Đà Linh Hỏa đến tương hội
Thất Sát đồng cung chẳng quý nhiều
Dối người, cô độc, hình thương chịu
Chỉ có cửa Không mới tốt lành).
Tử Vi nhập nữ Mệnh cát hung quyết:
Tử Vi nữ Mệnh thủ Thân cung,
Thiên phủ tôn tinh đồng đáo cung,
Canh đắc cát tinh đồng chủ chiếu,
Kim quan phong tặng phúc thao thao.
Tử Vi nữ Mệnh thủ Phu cung,
Tam phương cát củng tiện vi vinh,
Nhược phùng sát phá lai trùng phá,
Y lộc doanh dư dâm xảo dung.
(Nữ nhân Đế tọa cung an Thân
Thiên Phủ tôn tinh cũng giáng lâm
Thêm được cát tinh cùng thủ chiếu
Phúc dày, phong tặng, quý muôn phần.
Tử Vi nữ Mệnh thủ Phu cung
Tam phương cát chiếu tốt vô cùng
Nếu mà ác sát cùng xung phá
Vẫn thừa y lộc, nhưng dâm dung (nhan).
Tử Vi nhập hạn cát hung quyết:
Tử Vi viên nội cát tinh lâm,
Nhị hạn tương phùng phúc lộc hưng,
Thường nhân đắc ngộ đa tài phú,
Quan viên phùng chi chức vị thăng.
Tử Vi nhập hạn bản vi tường,
Chích khủng tam phương Sát Phá Lang,
Thường thứ phùng chi đa bất lợi,
Quan viên hàng trích hữu kinh thương.
(Tử Vi cùng cát thủ trong cung
Phúc lộc cùng hưng, nhị hạn phùng
Quan chức được thăng thêm phẩm cấp
Dân thường tài lộc hưởng ung dung.
Tử vi nhập hạn vốn cát tường
Chỉ e Tham Sát Phá tam phương
Thứ dân gặp phải nhiều bất lợi
Quan bị giáng chức, có hình thương).
* Thiên Cơ thuộc Mộc, Nam đẩu, hóa Thiện, là sao chủ huynh đệ. Nhập miếu thân dài lại mập mạp, tính nóng nhưng tâm hiền từ, có cơ mưu lắm biến hóa. Cùng Thiên Lương hội hợp thì thiện nghệ việc đàm luận việc binh cơ, người tuổi Ất Bính Đinh gặp Cơ nhập miếu hóa cát lại thêm được Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt Thái Âm tấu hợp tọa ở Tị Dậu Sửu Hợi Mão Mùi cung thì quyền lộc thực là không nhỏ chút nào, văn võ đều tốt đẹp, được quý đến cực phẩm. Thấy thêm Cự Môn Kình Đà Linh Hỏa Hóa Kị thì ở Tị Dậu Sửu Hợi là hạ cục, cô đơn, dẫu tài quan có được quý hiển nhưng cũng chẳng bền, chỉ hợp với buôn bán hoặc làm nghề tinh xảo mà thôi.
Nữ mệnh nhập miếu thì tính cương có quyền bính, quán xuyến gia đình trợ phu ích tử. Cùng với Thiên Lương Thái Âm Cự Môn mà thấy Kình Đà Linh Hỏa Kị xung hợp Tài Bạch thì dâm tiện, làm tỳ thiếp, kỹ xướng, nếu chẳng hại chồng cũng khắc con.
Tý Ngọ cung nhập miếu, người tuổi Đinh Kỷ Quý Giáp Canh Nhâm được tài quan cách.
Mão Dậu cung vượng địa cùng Cự Môn đồng cung, người tuổi Ất Tân Mậu Quý được tài quan cách.
Dần Thân cung đắc địa cùng Thái Âm đồng độ, người tuổi Đinh Kỷ Quý Giáp Canh Nhâm được tài quan cách.
Tị Hợi cung hòa bình, người tuổi Bính Nhâm Mậu là hợp cục nhưng không bền.
Thìn Tuất cung lợi địa cùng Thiên Lương đồng độ, người tuổi Nhâm Canh Đinh được phúc.
Sửu Mùi cung hãm địa, người tuổi Bính Mậu Đinh Nhâm được tài quan cách, Ất Nhâm được Lộc hợp cách.
Thiên Cơ nhập nam mệnh cát hung quyết:
Cơ Nguyệt Thiên Lương hợp Thái Dương,
Thường nhân phú túc trí điền trang,
Quan viên đắc ngộ Khoa Quyền Lộc,
Chức vị cao thiên diện đế vương.
Thiên Cơ hóa Kỵ lạc nhàn cung,
Túng hữu tài quan diệc bất vinh,
Thoái tận gia tài kiêm thọ yểu,
Phiêu bồng tăng đạo trụ sơn trung.
(Cơ cùng Nhật, Nguyệt, Thiên Lương
Ruộng vườn rộng lớn người thường giàu sang
Khoa quyền lộc chiếu kẻ quan
Chức kia tước ấy thuộc hàng tối cao
Cơ hãm lại Hóa Kị vào
Tiền đồ gian khổ, thân nào được vinh
Phá tài, giảm thọ của mình
Phiêu bồng, tăng đạo mới bình an thôi).
Thiên Cơ nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Thiên Cơ nữ mệnh cát tinh phù,
Tác sự thao trì quá trượng phu,
Quyền Lộc cung trung phùng thủ chiếu,
Vinh ưng cáo mệnh quý vô luân.
Thiên Cơ tinh dữ Thái Âm đồng,
Nữ mệnh phùng chi dâm xảo dung,
Y lộc phong nhiêu chung bất mỹ,
Vi xướng vi thiếp chủ dâm phong.
(Cơ nữ mệnh cát tinh củng chiếu
Bực anh thư liệu việc như thần
Lộc quyền thủ chiếu mệnh thân
Vinh hoa phú quý thập phần tốt tươi.
Cơ Nguyệt hãm đồng cung mệnh vị
Đẹp nhưng mà dâm mị dung nhan
Giàu nhưng chẳng được thập toàn
Xướng ca, tỳ thiếp, chủ hàng dâm phong).
Thiên Cơ nhập hạn cát hung quyết:
Nam nữ nhị hạn trị Thiên Cơ,
Khoa Quyền Lộc phùng đại hữu vi,
Xuất nhập kinh doanh đa ngộ quý,
Phát tài phát phúc thiểu nhân tri.
Thiên Cơ chiếu hạn bất an ninh,
Gia sự phân phân ngoại sự đa,
Cánh ngộ Dương Đà tinh Cự ám,
Tu tri thử tuế nhập Nam Kha.
(Nhị hạn tọa thủ Thiên Cơ
Khoa Quyền Lộc chiếu, vô bờ mắn may
Kinh doanh đại phát phen này
Phúc tài hưng vượng đẹp thay mọi bề
Hạn Cơ hãm chiếu xung về
Trong nhà ắt hẳn bộn bề, đổi thay
Kình Đà Cự ám chiếu vây
Nam Kha một giấc mộng nầy vỡ tan).
* Thái Dương thuộc Hỏa, Nam Bắc đẩu hóa Quý, là chủ quan lộc. Thái Dương nhập miếu hình dung diện mạo đường đường, hùng tráng, đầy đặn vuông tròn, người sinh ban đêm hãm người sinh ban ngày miếu vượng, tâm tính từ thiện, sắc diện đỏ tía, rộng lượng hay bố thí giúp đỡ kẻ khác. Nếu hội Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt Thái Âm Lộc Tồn cùng thủ chiếu Quan Lộc thì tài quan đều được hiển hiện, luận là quý cực phẩm, theo văn võ đều hợp cả. Cung an Thân gặp Thái Dương có cát tụ thì làm môn khách trong nhà của quý nhân, nếu không cũng là kẻ theo phò trợ cho bậc công hầu khanh tướng, người tuổi canh mà Mệnh an tọa tại Mão cung thì là nơi đệ nhất miếu, người tuổi Nhâm thì xếp vào thứ cách. Mệnh Thân mà tại Hợi cung, người tuổi Thân là hạ cục, nếu không yểu thọ thì bần cùng, dẫu có phát cũng chẳng bền. Miếu vượng thì được chung thân phú quý, hãm địa thì tuy hóa Quyền hóa Lộc vẫn hung, quan lộc cũng không được hiển vinh, trước chăm chỉ sau thì lười biếng, thành bại khôn lường, nếu ly tổ xuất ngoại thì có thể được cát lợi. Với Kình Đà xung phá lại hãm là hạ cục, hoạch phát cũng hoạnh phá, chẳng được bền, nếu theo buôn bán hoặc nghề tinh xảo thì trước gian khổ lao lực nhưng họa lại nhẹ đi mà sau này được hưởng duyên sinh vậy, thêm hung sát tinh thì có bệnh tật, Hóa Kị thì tật mắt.
Nữ mệnh nhập miếu thì tất sẽ vượng phu ích tử, nếu hãm địa lại thấy Kình Đà Linh Hỏa Kị Kiếp thì bần tiện tần tật, cũng vẫn là phụ nữ trong sạch đoan chính, theo tăng đạo càng thanh khiết.
Tý cung hãm, Ngọ cung vượng, người tuổi Đinh Kỷ được tài quan cách, người tuổi Bính Mậu thì chẳng lành.
Mão cung miếu, Dậu cung hòa bình, người tuổi Ất Tân được tài quan cách, người tuổi Giáp thì khốn đốn.
Dần cung vượng, Thân cung đắc địa cùng Cự Môn đồng độ, người tuổi Giáp Canh được tài quan cách.
Tị cung vượng (các tuổi) được tài quan cách.
Hợi cung hãm (các tuổi) gặp sát tinh thì cô quả, bần cùng.
Thìn cung vượng (các tuổi) được tài quan cách.
Tuất cung hãm địa phản bối (các tuổi) thì cô quả.
Sửu cung hãm, Mùi cung đắc địa cùng Thái Âm đồng độ, thêm cát tinh thì (các tuổi) được tài quan cách.
Thái Dương nhập nam mệnh cát hung quyết:
Mệnh lý phùng Dương phúc thọ nùng,
Cánh kiêm Quyền Lộc lưỡng tương phùng,
Khôi Xương Tả Hữu lai tương tấu,
Phú quý song toàn bỉ Thạch Sùng.
Nhật Nguyệt Sửu Mùi mệnh trung phùng,
Tam phương vô hóa phúc nan phong,
Cánh hữu cát tinh chung bất mỹ,
Nhược phùng sát thấu nhất sinh cùng.
Thất hãm Thái Dương cư phản bối,
Hóa kỵ phùng chi đa kiển muội,
Hựu tao hoạnh sự phá gia tài,
Mệnh cường hóa lộc dã vô ích.
(Mệnh Nhật phúc thọ đượm nồng
Lại thêm Quyền Lộc tương phùng đôi nơi
Lục cát củng tấu tuyệt vời
Vẹn toàn phú quý tựa đời Quý Luân.
Sửu Mùi Nhật Nguyệt đồng lâm
Tam phương vô Hóa phúc phần kém thay
Thêm cát, đẹp chẳng vẹn bày
Nếu phùng sát tấu ăn mày chẳng sai
Hãm cung phản bối mấy ai
Nếu cùng Hóa Kị ngu dai dốt bền
Vụt phá gia tài cũng nên
Dẫu cùng Hóa Lộc chẳng thêm ích gì).
Thái dương nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Thái Dương chính chiếu phụ nhân Thân,
Tư mạo thù thường tính cách trinh,
Cánh đắc cát tinh đồng chủ chiếu,
Kim quan phong tặng tác phu nhân.
Thái Dương an mệnh hữu kỳ năng,
Hãm địa tu phòng ác sát lăng,
Tác sự trầm ngâm đa tiến thoái,
Tân cần độ nhật miễn gia khuynh.
Thái Dương phản chiếu chủ tâm mang,
Y lộc bình thường thọ bất trường,
Khắc quá lương nhân hoàn khắc tử,
Chích nghi ấm hạ tác thiên phòng.
(Thái Dương chiếu, nữ nhân quý hiển
Dung mạo đẹp, tính cách trung trinh
Lại cùng thủ chiếu cát tinh
Phu nhân nhất phẩm thân vinh một đời.
Mệnh Thái Dương, có tài kỳ lạ
Nếu hãm cung, phòng ác sát tinh
Khiến cho lâm sự chùng chình
Nếu mà chăm chỉ, gia đình miễn suy.
Nhật phản bối, người đa tâm sự
Tài lộc vừa, nhưng thọ chẳng đa
Khắc phu khắc tử chắc mà
Nhờ phúc thì phận cũng là thiếp thôi).
Thái Dương nhập hạn cát hung quyết:
Nhị hạn thiên nghi kiến Thái Dương,
Thiêm tài tiến nghiệp phúc phi thường,
Hôn nhân hòa hợp thiêm tự tục,
Sĩ giả cao thiên tọa miếu đường.
Thái Dương thủ hạn hữu đa bàn,
Hãm địa tu phòng ác sát xâm,
Gia Kị phùng hung đa trở trệ,
Hoạnh sự phá tài gia linh đình.
(Nhị hạn mà gặp Thái Dương
Tài tăng nghiệp tiến phi thường phúc lai
Hôn nhân, tình cảm hòa hài
Người quan, kẻ sĩ văn tài đỗ cao.
Hạn kia hãm địa lâm vào
Phải xem ác sát tinh nào củng vây
Lại thêm Hóa Kị cùng bầy
Gia cảnh ly tán, tiền đầy cũng tan).
* Vũ Khúc thuộc Kim, Bắc đẩu, hóa Tài, là chủ tài bạch. Vũ Khúc tính cương quyết quả cảm, tâm thẳng thắn không thâm độc, dáng hình nhỏ, thanh cao mà bao dung đại lượng, có điểm đặc dị về râu tóc. Rất mừng gặp người sinh năm Giáp Kỷ do phúc hậu, nhập miếu cùng Xương Khúc đồng hành thì tất sẽ xuất tướng nhập tướng, vào võ chức là rất vượng, vào văn nhân thì đa học đa tài. Hội Tham Lang gặp Hỏa Tinh lại được hóa cát là thượng cách, người tuổi Bính Đinh Canh Tân Nhâm Quý thì đoán là trung cách. Cùng Phủ Tướng Lương Nguyệt Lộc Mã hội thì chủ phú quý, người sinh Tây Bắc là được phúc, kẻ sinh Đông Nam thì bình thường. Hãm địa thì là người làm nghề kỹ thuật, thủ công tinh xảo, và theo tăng theo đạo, lại gặp Liêm Trinh Phá Quân Kình Kị Không Kiếp xung phá thì phê là hạ cục, phá gia bại tổ.
Nữ mệnh nhập miếu được quyền quý, hãm địa gặp sát tinh thì cô đơn, hình phu khắc tử, đồng thời bất chính.
Tý Ngọ cung vượng địa, cùng Thiên Phủ đồng độ, người tuổi Đinh Kỷ Canh được tài quan cách.
Mão Dậu cung lợi địa, cùng Thất Sát đồng độ, người tuổi Ất Tân được tài quan cách.
Dần Thân cung đắc địa, cùng Thiên Tướng đồng độ, người tuổi Nhâm Mậu được tài quan cách.
Thìn Tuất cung nhập miếu, người tuổi Giáp Ất Kỷ được tài quan cách.
Sửu Mùi cung nhập miếu, cùng Tham Lang đồng độ, người tuổi Mậu Tân được đại quý, tài quan cách.
Vũ Khúc nhập nam mệnh cát hung quyết:
Vũ Khúc thủ mệnh hóa vi quyền,
Cát diệu lai lâm phúc thọ toàn,
Chí khí tranh vanh đa xuất chúng,
Siêu phàm nhập thánh hướng nhân tiền.
Vũ Khúc chi tinh thủ mệnh cung,
Cát tinh thủ chiếu thủy vinh xương,
Nhược gia Hao Sát lai xung phá,
Nhậm thị tài đa tất cánh không.
(Vũ Khúc Mệnh hóa thành quyền
Cát tinh thủ chiếu phúc miên thọ trường
Chí khí xuất chúng cao cường
Đứng đầu quan tướng dẫn đường chúng nhân
Vũ Khúc đóng ở Mệnh phần
Cát tinh thủ chiếu sớm thân thịnh giàu
Nếu gặp hao sát thì đau
Hoàn không tay trắng dù giàu cỡ nao).
Vũ Khúc nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nữ nhân Vũ Khúc mệnh trung phùng,
Thiên Phủ gia chi chí khí hùng,
Tả Hữu Lộc Tồn tương phùng tụ,
Phú quý song toàn mỹ vô cùng.
Tướng tinh nhất tú tối cương cường,
Nữ mệnh phùng chi tính dị thường,
Y lộc thao thao chung hữu phá,
Bất nhiên thọ yểu hoặc hung vong.
(Nữ nhân Mệnh có sao Vũ Khúc
Thiên Phủ cùng chí khí thực cao
Tả Hữu Lộc Mã hội vào
Song toàn phú quý ai nào dám so
Tướng tinh này cương cường tính khí
Thật dị thường khó đoán lắm thay
Sát phùng giàu cũng trắng tay
Tan gia bại sản, hoặc rày yểu vong).
Vũ Khúc nhập hạn cát hung quyết:
Đại tiểu nhị hạn phùng Vũ Khúc,
Nhược hoàn nhập miếu chủ tài hưng,
Cánh gia Văn Xương lâm Tả Hữu,
Phúc lộc song toàn đắc xứng tâm.
Vũ Khúc lâm hạn hóa quyền tinh,
Tối lợi cầu mưu sự hữu thành,
Cánh ngộ cát tinh đồng hội hợp,
Văn nhân danh hiển thứ nhân hưng.
Vũ Khúc chi tinh chủ quan phi,
Công lại phùng chi hình trượng lai,
Thường thứ ngộ chi hoàn phụ trái,
Quan viên trị thử hữu kinh hoài.
(Nhị hạn Vũ Khúc tương phùng
Nếu mà miếu vượng ắt hưng tiền tài
Văn xương tả hữu đáo lai
Thực là đắc ý phúc tài mãn viên
Hạn gặp Vũ Khúc hóa Quyền
Bao nhiêu mưu sự tự nhiên sẽ thành
Nếu thêm cát diệu đồng hành
Người thường, quan lại tài danh tăng liền
Vũ khúc cũng chủ công quyền
Nếu thêm hình sát gặp phiền đòn roi
Người thường bị chủ nợ đòi
Kẻ quan mà gặp dễ toi chức quyền).
* Thiên Đồng thuộc Thủy, Nam đẩu, hóa Phúc, là chủ phúc đức. Thiên Đồng nhập miếu thì người phì mãn trắng trẻo, tâm tính nhân từ ngay thẳng chính trực. Cùng Thiên Lương Tả Hữu gia hội thì người tuổi Bính mà Mệnh an tại Tị Hợi Dậu được tài quan song mỹ, phúc chẳng hề nhỏ, (mệnh) ở Mùi cung thì thứ cách, ở Ngọ cung lạc hãm, người tuổi Đinh thì hợp. Nếu tại Hợi cung thì người tuổi Canh là hạ cục, lại gặp Kình Đà Linh Hỏa Kị xung hợp tất sẽ cô đơn, phá tướng, mắt có tật.
Nữ mệnh hội cát tinh thì làm mệnh phụ phu nhân, vượng phu ích tử, cực kỳ hiền thảo, nếu cư Tị Hợi tuy đẹp nhưng mà dâm.
Tý cung vượng địa, Ngọ cung hãm, người tuổi Đinh Kỷ Quý Tân được tài quan cách.
Mão Dậu cung hòa bình, người tuổi Ất Bính Tân được tài quan cách.
Dần cung lợi địa, Thân cung vượng địa, cùng Thiên Lương đồng độ, người tuổi Ất Giáp được phúc hậu.
Tị Hợi cung nhập miếu, người tuổi Nhâm Bính Mậu được tài quan cách.
Thìn Tuất cung hòa bình, người tuổi Bính Đinh được lợi, người tuổi Canh Quý thì phúc nhưng chẳng bền.
Sửu Mùi cung hãm địa, cùng Cự Môn đồng độ, người tuổi Ất Nhâm Giáp Canh được tài quan cách.
Thiên Đồng nhập nam mệnh cát hung quyết:
Thiên Đồng tọa mệnh tính ôn lương,
Phúc lộc du du thọ cánh trường,
Nhược thị phúc nhân cư miếu vượng,
Định giáo thực lộc dự truyện dương.
Thiên Đồng nhược dữ cát tinh phùng,
Tính cách thông minh bách sự thông,
Nam tử định nhiên thực thiên lộc,
Nữ nhân nhạc thủ tú phòng trung.
Thiên Đồng thủ mệnh lạc nhàn cung,
Hỏa Linh sát tấu cánh vi hung,
Thiên Cơ Lương Nguyệt lai tương hội,
Chích hảo không môn độ tuế chung.
(Thiên Đồng thủ mệnh hiền lương
Tài danh phúc lộc thọ trường lắm thay
Một khi miếu vượng đất này
Nổi danh gia giáo cùng rày mắn may
Cát tinh củng chiếu càng hay
Thông minh uyên bác thẳng ngay tính tình
Nam nhân phúc lộc tày đình
Nữ nhân ích tử đẹp xinh tuyệt vời
Nếu mà lạc hãm phương trời
Hỏa Linh sát tấu một đời hiểm nguy
Thiên Cơ, Lương, Nguyệt hội thì
Nương mình tăng đạo, qua đi tháng ngày).
Thiên Đồng nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Thiên Đồng thủ mệnh phụ nhân thân,
Tính cách thông minh linh lợi nhân,
Xương Khúc cánh lai tương hội xử,
Du du tài lộc tự thiên thân.
Thiên Đồng nhược dữ Thái Âm đồng,
Nữ mệnh phùng chi dâm xảo dung,
Y lộc tuy phong chung bất mỹ,
Thiên phòng thị thiếp dữ nhân thông.
(Thiên Đồng thủ, nữ nhân hiền thục
Tính thông minh, nhanh nhẹn giỏi giang
Khúc Xương cùng hội một đàng
Dồi dào tài lộc, an nhàn tấm thân
Nếu như cùng Thái Âm đồng độ
Nữ mệnh thời dâm xảo dung nhan
Giàu sang nhưng chẳng vẹn toàn
Nếu không tì thiếp thì hàng thứ thê).
Thiên Đồng nhập hạn cát hung quyết:
Nhân sinh nhị hạn trị Thiên Đồng,
Hỉ khí doanh môn vạn sự vinh,
Tài lộc tăng thiêm nghi sáng tạo,
Tòng kim gia đạo đắc phong vinh.
Lưu niên nhị hạn trị Thiên Đồng,
Hãm địa tu phòng ác sát xung,
Tác sự mỹ trung chung bất túc,
Duy phòng quan tai cập gia khuynh.
(Nếu như nhị hạn gặp Thiên Đồng
Hỉ khí đồi dào vạn sự thông
Tài lộc tăng thêm mừng đổi mới
Gia đạo yên bình, việc thành công.
Lưu niên nhị hạn gặp Thiên Đồng
Hãm địa sát tinh lại vây công
Việc làm dang dở, rồi thất bại
Khuynh nhà, kiện tụng, sự chẳng thông).
* Liêm Trinh thuộc Hỏa, Bắc đẩu, thứ đào hoa sát, hóa Tù, là chủ quan lộc. (Người có Liêm Trinh thủ Mệnh) là người có thân thể cường tráng, mắt lộ thần quang, lông mi lông mày trung đại, xương cốt xũng lộ, tính nganh ngạnh nông nổi, dễ cáu giận tranh chấp. Nhập miếu vào võ chức thì quý, gặp Phủ Tướng Tả Hữu có Khoa Quyền Lộc Tồn đồng cung thì phú quý. Gặp Xương Khúc Thất Sát thì lập được võ công. Cùng Kình Dương đồng thì thị phi hàng ngày. Cùng Phá Quân Hỏa Linh thì gian ác. Ở Tị Hợi cung là hãm, lìa tổ ly tông, cô đơn, làm nghề kỹ thuật, làm công hoặc là phường tăng đạo. Người tuổi giáp mà Mệnh tọa tại Dần Thân cung là thượng cách, ngưởi tuổi Đinh Kỷ thì thứ cách. Người tuổi Bính mà Mệnh tọa Tý Ngọ Mão Dậu thì hoạnh phát hoạnh phá mà chẳng được bền. Người tuổi Giáp mà Mệnh tọa tại tứ Mộ cung được tài quan cách. Nếu người tuổi Bính Mậu thì chiêu chuốc sai lầm, có thành có bại. Nếu cùng Xương Khúc Hóa Kị đồng cung tại Tị Hợi cung thì người tuổi Bính có họa, người tuổi giáp cũng chẳng hợp vậy. Người tuổi Mùi Thân mà mệnh cư Mùi Thân cung, hóa Lộc gặp cát thì tất sẽ phú quý. Nếu tại các cung gặp Kình Đà Hỏa Linh Kị xung phá, chủ tàn tật.
Nữ mệnh mà (Liêm Trinh đắc miếu) tam hợp có cát tinh củng chiếu thì chủ được phong tặng, tuy các ác sát xung phá nhưng cũng không là hạ cục. Nếu nhập miếu gặp Hóa Lộc thì cương liệt, khéo léo mưu cơ, thanh tú, vượng phu ích tử. Tăng đạo mà thêm cát tinh củng chiếu là có dấu hiệu của bực thày. Sao này cực thích cùng Thiên Tướng đồng cung vì thường hóa giải được tính ác của nó.
Tý Ngọ cung hòa bình, cùng Thiên Tướng đồng độ, người tuổi Đinh Kỷ Giáp được tài quan cách.
Mão Dậu cung hòa bình, cùng Phá Quân đồng độ, người tuổi Ất Tân Quý được cát tường.
Dần cung hòa bình, người tuổi Canh Kỷ được quý cách.
Thân cung nhập miếu, người tuổi Giáp Canh Mậu được quý cách, người tuổi Bính là thứ cách.
Tị Hợi cung hãm địa, người tuổi Giáp Kỷ Bính Mậu thì phúc chẳng được bền.
Thìn Tuất cung lợi địa, cùng Thiên Phủ đồng độ, thêm cát tinh là được tài quan cách.
Liêm Trinh nhập nam mệnh cát hung quyết:
Liêm Trinh thủ mệnh diệc phi thường,
Phú tính nguy nguy chí khí cường,
Cách cố đỉnh tân quan đại quý,
Vi quan thanh hiển tính danh hương.
Liêm Trinh tọa mệnh lạc nhàn cung,
Tham Phá Dương Hỏa Kị tương phùng,
Túng hữu tài quan dã bất mỹ,
Bình sinh hà dĩ đắc thung dung.
Liêm Trinh lạc hãm nhập nhàn cung,
Cát diệu tương phùng dã hữu hung,
Yêu túc tai tàn nan thoát ách,
Cánh gia ác sát mệnh cai chung.
(Liêm Trinh thủ mệnh thật phi thường
Bẩm tính mạnh mẽ chí quật cường
Canh tân cải cách quan đại quý
Chính trực thanh liêm nức bốn phương
Liêm Trinh tọa mệnh lạc nhàn cung
Tham Phá Kình Hỏa Kị tương phùng
Dẫu có tài quan vẫn không đẹp
Cả đời chẳng được lúc ung dung.
Liêm Trinh lạc hãm nhập nhàn cung
Cát diệu tương phùng vẫn gặp hung
Giảm thọ, bệnh đau, nhiều tai nạn
Thêm vào ác sát mệnh cáo chung).
Liêm Trinh nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nữ nhân Thân Mệnh trị Liêm Trinh,
Nội chính thanh liêm cách cục tân,
Chư cát củng chiếu vô sát phá,
Định giáo phong tặng tại thanh xuân.
Liêm Trinh Tham Phá khúc tương phùng,
Đà Hỏa giao gia cực tiện dung,
Định chủ hình phu tinh khắc tử,
Chích hảo thiên phòng xướng tỳ dung.
(Nữ nhân Thân Mệnh gặp Liêm Trinh
Tề gia đoan chính thực đẹp xinh
Chư cát củng chiếu vô sát phá
Dạy rằng còn trẻ được hiển vinh.
Liêm Trinh Tham Phá Khúc tương phùng
Hỏa Đà thủ chiếu tiện vô cùng
Định rằng khắc tử hình phu chắc
Chỉ làm tì thiếp ca xướng cung).
Liêm Trinh nhập hạn cát hung quyết:
Liêm Trinh nhập hạn vượng cung lâm,
Hỉ phùng cát diệu phúc biền trăn,
Tài vật tự nhiên đa súc tích,
Nhâm nhân đắc ý vị cao thăng.
Đại tiểu nhị hạn Ngộ Liêm Trinh,
Cánh hữu Thiên Hình Kình Kị xâm,
Nùng huyết hình tai nan thoát đào,
Phá Quân Tham Sát phó u minh.
(Liêm Trinh nhập hạn ở vượng cung
Phúc tài kéo đến nếu cát phùng
Của cải tự nhiên cùng đưa tới
Quan nhân đắc ý chức tước thăng
Đại tiểu nhị hạn gặp Liêm Trinh
Nếu bị tương xâm Sát Kị Hình
Nạn tai đẫm máu thời khó thoát
Thêm Phá Tham liền tới U Minh (âm ty cõi).
* Thiên Phủ thuộc Thổ, Nam đẩu, hóa Lệnh, là chủ của Tài Bạch. Là người có khuôn mặt vuông, dung nhan hồng hào, da trắng, tâm tính ôn hòa, thông minh tuấn tú, bác học, cơ biến, thường cứu giải hết thảy tai ách. Mừng gặp Tử Vi Xương Khúc Tả Hữu Lộc Tồn Khôi Việt Quyền Lộc, cư nơi miếu vượng thì tất sẽ ở trong phủ đệ to lớn lộng lẫy. Kình Đà Linh hỏa cùng hội hợp thì sinh ra giỏi lừa dối. Mệnh tọa Dần Ngọ Tuất Hợi Mão Mùi, người tuổi Kỷ là quý cách. Nếu cư Tị Dậu Sửu cung thì người tuổi Ất Bính Mậu Tân được văn võ tài quan cách, như người an mệnh ở Hợi Mão Mùi Thìn Dậu cung thì tuổi Giáp Canh không quý hiển, trước chức lớn sau hạ dần, có đầu mà chẳng có hậu.
Nữ mệnh Thiên Phủ thanh bạch, khéo léo nhanh nhẹn, vượng phu ích tử, gặp Tử Vi Tả Hữu thì luận là làm mệnh phụ phu nhân.
Tý Ngọ cung cùng Vũ Khúc đồng độ, người tuổi Đinh Kỷ Quý là phúc, được tài quan cách.
Mão cung nhập miếu, Dậu cung vượng địa, người tuổi Ất Bính Tân được tài quan cách.
Dần cung nhập miếu, Thân cung đắc địa, cùng Tử Vi đồng độ, người tuổi Đinh Kỷ được tài quan cách.
Tị Hợi cung đắc địa, người tuổi Ất Bính Mậu Tân được tài quan cách.
Thìn Tuất cung nhập miếu cùng Liêm Trinh đồng độ, người tuổi Giáp Canh Nhâm được tài quan cách.
Sửu Mùi cung nhập miếu thêm cát tinh (các tuổi) được tài quan cách.
Thiên phủ nhập nam mệnh cát hung quyết:
Thiên Phủ chi tinh thủ Mệnh cung,
Gia chi Quyền Lộc hỉ tương phùng,
Khôi Xương Tả Hữu lai tương hội,
Phụ phượng phàn long thượng cửu trùng.
Hỏa Linh Dương Đà tam phương hội,
Vi nhân gian trá đa lao lục,
Không Kiếp đồng viên bất vi giai,
Chích nghi không môn hưởng phúc nhân.
(Thiên Phủ tôn tinh thủ mệnh cung
Rất mừng Quyền Lộc đến tương phùng
Khôi Việt, Tả Hữu, Xương Khúc hội
Thềm rồng nhiếp chính giúp Quân trung.
Kình Đà Linh Hỏa tam phương chiếu
Là người gian trá lắm gian lao
Không Kiếp đồng cung thì mất đẹp
Tăng đạo nên theo hưởng phúc nhiều).
Thiên Phủ nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nữ nhân Thiên Phủ Mệnh Thân cung,
Tính cách thông minh hoa dạng dung,
Cánh đắc Tử Vi tam hợp chiếu,
Kim quan hà bội thụ hoàng phong.
Hỏa Linh Dương Đà lai xung hội,
Tính cách dung thường đa kiển muội,
Lục thân tương bối tử nan chiêu,
Chích hảo không môn vi ni kế.
(Nữ nhân Thiên Phủ mệnh thân cung
Thông minh khéo léo, mỹ nhân dung
Cùng hội Tử Vi tam hợp chiếu
Hoàng ân thụ hưởng phúc trùng trùng.
Kình Đà Linh hỏa cùng hội chiếu
Dung mạo tầm thường lại u mê
Lục thân lại khắc, con khó đậu
Chốn ấy Thiền môn tính kế về).
Thiên Phủ nhập hạn cát hung quyết:
Hạn lâm Thiên Phủ năng ti lộc,
Sĩ thứ phùng chi đa phát phúc,
Thiêm tài tiến hỉ vĩnh vô tai,
Thả dã nhuận thân dã nhuận ốc.
Nam đẩu tôn tinh nhập hạn lai,
Sở vi mưu sự xứng tâm hoài,
Nhược hoàn hựu hóa Khoa Quyền Lộc,
Chỉ nhật hân nhiên triển đại tài.
(Hạn lâm Thiên Phủ tài lộc tăng
Kẻ sĩ, thường nhân phúc vinh thăng
Thêm tài, thêm tước vô tai nạn
Thân hiển gia đình cũng an bằng.
Nam đẩu chủ tinh nhập hạn này
Mưu sự thành công xứng ý thay
Nếu cùng Quyền Lộc Khoa tương hội
Sớm được thời cơ hiển đại tài).
* Thái Âm thuộc Thủy, Nam bắc đẩu, hóa Phú chủ quản điền trạch, là sao chủ người mẹ cũng chủ người vợ. Thái Âm cư Mệnh thì khuôn mặt tròn đầy, tâm tính ôn hòa, thanh tú, ngay thẳng chính trực, thông minh bác học vụt chốc lập được công danh, thích văn chương hoa, rượu. Cung an Thân nếu gặp thì có mẹ kế. Hãm địa mà hóa cát Khoa Quyền Lộc thì không luận là hung, xuất ngoại ly tổ tất sẽ cát lợi. Gặp thêm Kình Đà Linh Hỏa thì tửu sắc tà dâm, hạ tiện, chết yểu. Rất mừng gặp người tuổi Nhâm Mậu, tại Hợi Mão Mùi cung mà lập Mệnh là hợp cục, người tuổi Ất Canh Mậu mà cư Hợi là thượng cách, người tuổi Đinh Mậu có hóa Khoa Quyền Lộc được cát lợi.
Nữ Mệnh (có Thái Âm) hội với Thái Dương nhập miếu thì được phong tặng danh hiệu phu nhân, nếu như hãm địa thì hại phu khắc tử, là phường tì thiếp kỹ xướng.
Tý Sửu Dần cung nhập miếu, người tuổi Đinh Mậu được tài quan cách.
Mão Thìn Tị cung hãm địa, người tuổi Nhâm Mậu cô quả chẳng bền.
Ngọ cung hãm địa, Mùi Thân cung lợi địa, người tuổi Đinh Canh Giáp được tài quan cách.
Dậu Tuất Hợi cung nhập miếu, người tuổi Bính Đinh được tài quan cách, thêm nhiều cát tinh là đại quý.
Thái Âm nhập nam mệnh cát hung quyết:
Thái Âm nguyên thị thủy chi tinh,
Thân Mệnh phùng chi phúc tự sinh,
Dậu Tuất Hợi viên vi đắc địa,
Quang huy dương hiển tính danh hanh.
Thái Âm nhập miếu hóa quyền tinh,
Thanh tú thông minh quý vô luân,
Bẩm tính ôn lương cung kiệm nhượng,
Vi quan thanh hiển liệt triều cương.
Dần thượng Cơ Xương Khúc Nguyệt phùng,
Túng nhiên cát củng bất phong long,
Nam vi bộc tùng nữ vi kỹ,
Gia sát xung sát đáo lão cùng.
Thái Âm hãm địa ác tinh trung,
Đà Hỏa tương phùng định khốn cùng,
Thử mệnh chích nghi tăng dữ đạo,
Không môn xuất nhập đắc tòng dung.
(Thái Âmm vốn dĩ là Thủy tinh
Thủ nơi Thân Mệnh, phúc tự sinh
Dậu Tuất Hợi cung là miếu địa
Danh vang, tính hiển thực quang vinh
Thái Âm nhập miếu hóa Quyền tinh
Tướng mạo thanh tú lại thông minh
Bẩm tính hiền hòa, cùng khiêm nhượng
Làm quan cao quý tại triều đình.
Dần cung, Cơ Nguyệt Khúc cùng Xương
Dẫu được cát chiếu chẳng xiển dương
Nam làm nô bộc, nữ làm kỹ
Sát xung thêm sát, già cùng đường.
Thái Âm hãm địa ác tinh phùng
Kình Đà Linh Hỏa tất khốn cùng
Mệnh này chỉ hợp theo tăng đạo
Không môn xuất nhập được ung dung).
Thái Âm nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nguyệt hội Đồng Dương tại mệnh cung,
Tam phương cát củng tất doanh phong,
Bất kiến hung sát lai xung hội,
Phú quý song toàn bảo đáo chung.
Thái Âm hãm tại mệnh hòa thân,
Bất hỉ tam phương ác sát xâm,
Khắc hại phu quân hựu yểu thọ,
Cánh hư huyết khí thiểu tinh thần.
(Nguyệt hội Đồng Dương tại mệnh cung
Tam phương cát củng, đẹp vô cùng
Sát tinh chẳng đến vây, xung, chiếu
Song toàn phú quý, tới lâm chung.
Thái Âm lạc hãm thủ mệnh thân
Tam phương chẳng muốn ác sát xâm
Khắc phu hại tử, thêm yểu thọ
Khí hư, huyết kém, tổn tinh thần).
Thái Âm nhập hạn cát hung quyết:
Thái Âm tinh diệu hạn trung phùng,
Tài lộc phong doanh bách sự thông,
Giá thú nghênh thân thiêm tự tục,
Thường nhân đắc thử vượng môn phong.
Nhị hạn thiên nghi kiến Thái Âm,
Thiêm ốc tiến tài phúc phi khinh,
Hỏa Linh nhược dã lai tương tấu,
Vị miễn quan tai bệnh hoạn lâm.
Hạn chí Thái Âm cư phản bối,
Bất hỉ Dương Đà tam phương hội,
Hỏa Linh nhị hạn tối vi hung,
Nhược bất quan tai đa phá hối.
(Nhập hạn Thái Âm miếu thủ cung
Tăng tài tiến lộc, vạn sự thông
Giá thú hôn nhân, thêm con cháu
Người thường cũng được vượng gia môn
Nhị hạn cung kia gặp Thái Âm
Thêm nhà, thêm lộc, hồng phúc lâm
Chẳng may gặp Hỏa Linh thủ chiếu
Bệnh tật, cùng là kiện tụng xâm
Hạn ấy Thái Âm cư phản bối
Tam phương Kình Đà đến tương hội
Lại thêm Linh Hỏa, hung cùng cực
Dẫu chẳng quan tai, cũng phá tài).
* Tham Lang thuộc Mộc Thủy, Bắc đẩu, hóa đào hoa sát. Tham Lang nhập miếu thì cao lớn to béo, hãm cung thì dáng hình nhỏ thanh cao, đại lượng, tính cách bất thường, tâm tính nhiều mưu mô ganh tị, làm việc cấp tốc mà chẳng nhẫn nại bình tĩnh, khéo quá hóa vụng, mê cờ bạc tửu sắc. Hãm địa lại thêm Kình Đà Hóa Kị tất sẽ cô đơn nghòe khổ, phá tướng tàn tật, da có chàm bớt, loang lổ, có sẹo, nhiều nốt ruồi. Nhập miếu thường theo ở nghề võ nghệ, gặp Hỏa Linh thì hỉ được người tuổi Mậu Kỷ là hợp cục, không hợp người tuổi Quý vì chẳng nhẫn nại, chẳng bền lâu.
Nữ mệnh (có Tham Lang) thì bình thường, nếu cư hãm địa thì hại chồng khắc con, cùng bất chính, đại đa số làm tỳ thiếp kỹ xướng, theo tăng đạo cũng chẳng thanh khiết.
Tý Ngọ cung vượng địa, người tuổi Đinh Kỷ được phúc hậu, người tuổi Bính Mậu Canh Dần Thân là hạ cục.
Mão Dậu cung lợi địa, cùng Tử Vi đồng độ, thấy Hỏa Tinh thì rất quý, người tuổi Ất Tân Kỷ là hợp, được tài quan cách.
Dần Thân cung hòa bình, người tuổi Canh được tài quan cách.
Tị Hợi cung hãm địa, cùng Liêm Trinh đồng cung, người tuổi Bính Mậu Nhâm được phúc nhưng không bền.
Thìn Tuất cung nhập miếu, người Mậu Kỷ được tài quan cách.
Sửu Mùi cung nhập miếu cùng Vũ Khúc đồng độ, thấy Hỏa tinh thì người tuổi Mậu Kỷ là quý cách.
Tham Lang nhập nam mệnh cát hung quyết:
Tứ Mộ cung trung phúc khí nùng,
Đề binh chỉ nhật lập biên công,
Hỏa Tinh củng hội thành vi quý,
Danh chấn chư di định hữu phong.
Tham Lang thủ mệnh Kình Dương phùng,
Đà Sát giao gia tất khốn cùng,
Vũ Phá Liêm Trinh đồng sát Kiếp,
Bách nghệ phòng thân độ tuế chung.
Tứ Mộ Tham Lang miếu vượng cung,
Gia lâm Tả Hữu phú tài ông,
Nhược nhiên tái hóa Khoa Quyền Lộc,
Văn võ tài năng hiển đại công.
(Tham cư tứ mộ hưởng phúc hồng
Cầm binh biên ải sớm lập công
Hỏa Tinh thủ chiếu thêm đại quý
Nổi tiếng chư hầu, chức tam công.
Tham Lang thủ mệnh Kình dương phùng
Đà Sát chiếu vây tất khốn cùng
Vũ Phá Liêm Trinh cùng Sát Kiếp
Nhiều nghề bươn chải đến lâm chung
Tứ mộ Tham Lang miếu vượng cung
Có thêm Tả Hữu thực phú ông
Nếu như lại được Khoa Quyền Lộc
Văn võ tài năng hiển đại công).
Tham Lang nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Tứ Mộ cung trung đa cát lợi,
Cánh phùng Tả Hữu phương vi quý,
Lộc tài phong phú vượng phu quân,
Tính cách cương cường đa chí khí.
Tham Lang hãm địa nữ phi tường,
Y thực tuy phong dã bất lương,
Khắc hại lương nhân tịnh tử tức,
Hựu giáo khâm chẩm thủ cô sương.
(Nữ tứ Mộ cung đa cát lợi
Lại phùng Tả Hữu phú quý thêm
Phu quân tài lộc cũng được vượng
Tính cách cương cường, chí khí cao.
Tham Lang hãm địa nữ xấu xa
No ấm nhưng lòng thực gian tà
Khắc hại chồng con cùng gia đạo
Số thời cô quả chẳng sai ngoa).
Tham Lang nhập hạn cát hung quyết:
Bắc đẩu Tham Lang nhập hạn lai,
Nhược hoàn nhập miếu sự hòa hài,
Khoa Quyền sĩ lộ đa thành tựu,
Tất chủ đương niên phát hoạnh tài.
Tham Lang chủ hạn tứ Mộ lâm,
Cánh hỉ nhân sinh tứ Mộ sinh,
Nhược kiến Hỏa Tinh đa hoạnh phát,
Tự nhiên phú quý quan hương lân.
Hạn chí Tham Lang hãm bất lương,
Chích nghi tiết dục tức tai thương,
Đổ đãng phong lưu khứ tài bảo,
Cát diệu tam phương khả miễn tai.
Nữ hạn Tham Lang sự bất lương,
Nghi hoài lục Giáp miễn tai ương,
Nhược vô cát diệu lai tương hội,
Tu tri nhất mệnh nhập hoàng tuyền.
(Bắc đẩu Tham Lang nhập hạn ai
Nếu như nhập miếu việc hòa hài
Khoa Quyền kẻ sĩ công danh tiến
Tất chủ cả năm chợt phát tài.
Tham Lang chủ hạn tứ Mộ cung
Thật mừng người tuổi tứ Mộ phùng
Nếu gặp Hỏa Linh thì đại phát
Tự nhiên quan quý lộc trùng trùng.
Hạn Tham Lang hãm thực bất lương
Vướng vào ái dục, nạn tai vương
Rượu chè cờ bạc tốn tiền của
Cát chiếu tam phương miễn tai ương.
Nữ hạn Tham Lang hãm bất lương
May ra tuổi Giáp miễn tai ương
Nếu không có cát tinh hội chiếu
Hoàng tuyền thẳng xuống gặp Diêm Vương).
* Cự Môn thuộc Thủy, Bắc đẩu, hóa Ám, chủ thị phi. Nhập miếu thân hình cao lớn, đôn hậu thanh tú, nếu không nhập miếu thì có tướng ngũ đoản hoặc gầy nhỏ, vào việc do dự, đa nghi mà học nhiều nhưng chẳng chuyên sâu, với người khó hòa hợp, lắm thị nhiều phi, bôn ba lao khổ. Mừng được Tả Hữu Lộc Tồn người tuổi Quý tuổi Tân mà Mệnh an Tý Mão là hợp cục. Người tuổi Canh Đinh mà tại Thìn Tuất an Mệnh chẳng được phú quý. Người tuổi Bính Mậu mà an Mệnh tại Tý Ngọ thì cô quả yểu chiết. Người tuổi Giáp cư Mão cung tuy nhập miếu nhưng nếu cùng Kình Dương đồng cung là phá cục thành ra bình thường. Thân Mệnh cư Tý Ngọ cung (có Cự Môn) là “Thạch trung ẩn ngọc” cách, hội thêm Khoa Quyền Lộc thì cả đời phúc hậu, hội Kình Đà Linh Hỏa Hóa Kị thì chẳng yểu tử cũng nam thành tăng đạo nữ làm kỹ xướng.
Nữ mệnh nhập miếu, người tuổi Quý Tân được hưởng phúc, hãm địa thì hại phu khắc tử, người tuổi Đinh gặp phải cực dâm, sao này rơi vào nữ mệnh là có lắm tì vết.
Tý Ngọ cung vượng địa, người tuổi Đinh Kỷ Quý Tân được phúc hậu, người tuổi Bính Mậu chủ khốn đốn.
Mão Dậu cung nhập miếu, cùng với Thiên Cơ đồng cung, người tuổi Ất Tân Kỷ Bính được tài quan cách, người tuổi Đinh Mậu thì có thành có bại.
Dần Thân cung nhập miếu, cùng với Thái Dương đồng độ, người tuổi Canh Quý Tân được tài quan cách.
Tị Hợi cung vượng địa đơn thủ, người tuổi Quý Bính Tân được tài quan cách.
Thìn Tuất cung hòa bình, người tuôit Quý Tân chủ quý, người tuổi Đinh thì khốn đốn.
Sửu Mùi cung hãm địa, người tuổi Quý Tân Bính được tài quan cách.
Cự môn nhập nam mệnh cát hung quyết:
Cự Môn Tý Ngọ nhị cung phùng,
Cục trung đắc ngộ dĩ vi vinh,
Tam hợp hóa cát Khoa Quyền Lộc,
Quan cao cực phẩm y tử bào.
Thử tinh hóa ám bất nghi phùng,
Canh hội sát tinh dũ tứ hung,
Thần xỉ hữu thương kiêm tính mãnh,
Nhược nhiên nhập miếu khả hòa bình.
Cự Môn thủ mệnh ngộ Kình Dương,
Hỏa Linh phùng chi sự bất tường,
Vi nhân tính cấp đa điên đảo,
Bách sự mang mang loạn chủ trương.
(Tý Ngọ nhị cung Cự Môn tinh
Cục này gặp được sẽ hiển vinh
Tam hợp hóa cát Khoa Quyền Lộc
Quan cao cực phẩm chốn triều đình.
Cự Môn hóa ám chẳng nên phùng
Hội thêm tứ sát với bầy hung
Răng môi đau đớn, tính cương mãnh
Nếu như miếu địa lại bình thường.
Cự Môn thủ mệnh hội Kình Dương
Hỏa Linh lâm tới sự khó lường
Làm người nóng tính cùng điên đảo
Trăm sự hoang mang loạn chủ trương.
Cự Môn nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Cự Môn vượng địa đa sinh cát,
Tả Hữu gia lâm thọ cánh trường,
Nữ nhân đắc thử thành vi quý,
Liêm quyển trân châu tọa tú phòng.
Cự Môn mệnh hãm chủ dâm xướng,
Thị nữ thiên phòng miễn tai ương,
Tướng mạo thanh kỳ đa cận sủng,
Bất nhiên thọ yểu hoặc hung vong.
(Cự Môn gặp cát miếu vượng phương
Tả Hữu gia lâm mạng thọ trường
Nữ nhân gặp được thì thành quý
Giàu sang, phúc thọ nhất phu nhân.
Cự môn hãm địa chủ dâm xướng
Tỳ nữ thiếp thì miễn tai ương
Tướng mạo xinh đẹp được sủng ái
Tuy nhiên yểu thọ hoặc hung vong).
Cự Môn nhập hạn cát hung quyết:
Cự Môn chủ hạn hóa Quyền tinh,
Tối hỉ cầu mưu vạn sự thành,
Tuy hữu quan tai tịnh khẩu thiệt,
Phùng hung hóa cát đắc an ninh.
Cự Môn nhập hạn động nhân sầu,
Nhược ngộ Tang Môn sự bất chu,
Sĩ thứ phùng chi đa nhạ tụng,
Cư quan thất chức hữu đinh ưu.
Cự Môn hạn hãm tối quai trương,
Vô sự quan phi nháo nhất trường,
Khốc khấp tang họa chung bất miễn,
Phá tài ẩu khí thụ thê lương.
(Cự Môn chủ hạn hóa Quyền tinh
Cực tốt cầu mưu vạn sự vinh
Tuy có quan tai cùng khẩu thiệt
Phùng hung hóa cát được an bình.
Cự Môn hạn động khiến người buồn
Nếu có Tang Môn sự chẳng suôn
Sĩ tử gặp thì nhiều kiện cáo
Kẻ quan mất chức có đau buồn.
Cự môn hạn hãm lắm trái ngang
Tự nhiên quan tụng dồn dập mang
Khóc lóc tang ma cũng chẳng thoát
Phá tài hao của thật bẽ bàng).
* Thiên Tướng thuộc Thủy, Nam đẩu, hóa Ấn, là chủ quan lộc. Là người tướng mạo dôn hậu ổn trọng, thanh bạch, thích ăn ngon rượu tốt, y lộc được đầy đủ. Cùng Tử Phủ Tả Hữu Xương Khúc Nhật Nguyệt hội hợp thì tài quan song mỹ, tưới vị tới tam công. Cùng Vũ Phá Kình Đà đồng hành thì làm nghề kỹ công, lại thêm Hỏa Linh Cự Cơ thì tất sẽ chịu hình thương sau chẳng được yên ổn. Thiên Tướng thường hóa giải được tính ác của Liêm Trinh.
Nữ mệnh nhập miếu thì tính tình ôn hòa, y lộc được xứng ý toại lòng, vào tăng đạo càng cát lợi.
Tý Ngọ cung nhập miếu cùng Liêm Trinh đồng độ, người tuổi Đinh Kỷ Quý Giáp được tài quan cách.
Mão Dậu cung hãm địa, người tuổi Ất Tân được cát lợi, người tuổi Giáp Canh chủ khốn đốn.
Thìn Tuất cung đắc địa cùng Tử Vi đồng độ (các tuổi) được tài quan cách.
Sửu Mùi cung nhập miếu, thêm cát tinh (các tuổi) được tài quan cách.
Dần Thân cung nhập miếu, cùng Vũ Khúc đồng độ, người tuổi Đinh Giáp Canh được tài quan cách.
Tị Hợi cung đắc địa, người tuổi Bính Mậu Nhâm là phúc.
Thiên Tướng nhập nam mệnh cát hung quyết:
Thiên Tướng tinh thần quý đẳng luân,
Chiếu thủ thân mệnh hỉ vô ngần,
Vi quan tất chủ cư nguyên tể,
Tam hợp tương phùng phúc bất khinh.
Thiên Tướng cát tinh vi mệnh chủ,
Tất định tư nhân đa khắc kỷ,
Tài quan lộc chủ vượng gia tư,
Quyền áp đương thì thùy bất mỹ.
Thiên Tướng chi tinh Vũ Phá đồng,
Dương Đà Hỏa Linh cánh vi hung,
Hoặc tác kỹ thuật kinh thương bối,
Nhược tại không môn hưởng phúc long.
(Thiên Tướng cát tinh quý thập phần
Chiếu thủ Thân Mệnh tốt vô ngần
Làm quan tất chủ ngôi Tể Tướng
Tam hợp tương phùng phúc tuyệt luân.
Thiên Tướng cát tinh là mệnh chủ
Định rằng cần kiệm với thanh tao
Tài quan lộc chủ vượng gia cảnh
Quyền lực uy nghi ai dám sánh.
Thiên Tướng Vũ Khúc cùng Phá Quân
Kình Đà Linh Hỏa gặp tất hung
Chỉ chuyên kỹ thuật, theo buôn bán
Hoặc chốn Không Môn hưởng phúc lành).
Thiên Tướng nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nữ nhân chi mệnh Thiên Tướng tinh,
Tính cách thông minh bách sự ninh,
Y lộc phong doanh tài bạch túc,
Vượng phu quý tử hiển môn đình.
Phá Quân Thất Sát lai tương hội,
Dương Đà Hỏa Linh tối sở kỵ,
Cô hình khắc hại lục thân vô,
Chích khả thiên phòng dữ thị tỳ.
(Nữ nhân mệnh có Thiên Tướng tinh
Liệu muôn việc ổn, tính thông minh
Tài lộc đủ đầy danh tiếng có
Vượng phu ích tử hiển môn đình.
Phá Quân Thất Sát đến tương hội
Kình Đà Linh Hỏa tối kị cùng
Cô đơn hình khắc lục thân ấy
Làm kiếp thị tỳ hoặc tiện thiếp).
Thiên Tướng nhập hạn cát hung quyết:
Thiên Tướng chi tinh cảm chủ tài,
Chiếu lâm nhị hạn tất vô tai,
Động tác mưu vi giai toại ý,
Du du hưởng phúc tự nhiên lai.
Thiên Tướng chi tinh hữu cơ bàn,
Tam phương bất hỉ ác tinh triền,
Dương Đà Không Kiếp trùng tương hội,
Khẩu thiệt quan tai họa diệc liên.
Hạn lâm Thiên Tướng ngộ Kình Dương,
Tác họa hưng ương bất khả đương,
Cánh hữu Hỏa Linh chư sát tấu,
Tu giáo nhất mệnh nhập tuyền hương.
(Thiên Tướng dũng cảm chủ phúc tài
Chiếu lâm nhị hạn chẳng nạn tai
Mưu sự thành công, việc toại ý
Thong dong hưởng phúc tự nhiên lai.
Hạn vào Thiên Tướng ở cơ bàn
Tam phương chẳng muốn ác tinh sang
Kình Đà Không Kiếp mà tương hội
Khẩu thiệt, quan tai, họa hoạn tràn.
Hạn lâm Thiên Tướng ngộ Kình Dương
Tác họa, tai ương khó mà đương
Nếu thêm Linh Hỏa cùng sát hội
Số này dễ xuống gặp Diêm Vương).
* Thiên Lương thuộc Thổ, Nam đẩu, hóa Ấm, chủ Thọ. Là người trọng hậu thanh tú, thông minh, thẳng thắn chính trực, tâm tính vô tư, thường giúp đỡ, bố thí, làm việc thiện, được thọ trường. Cùng với Thiên Cơ đồng hành thì có văn hay chữ tốt trong hội văn học nghệ thuật (của vua chúa), lại giỏi việc bàn luận về binh pháp. Cùng Tả Hữu Xương Khúc hội thì tất sẽ xuất tướng nhập tướng. Nhập miếu thì phú quý, hãm địa mà gặp Hỏa Tinh Kình Dương thì phá cục, tất sẽ hạ tiện cô quả, chết yểu. Gặp Thiên Cơ Hao Sát thì thanh nhàn theo tăng đạo mà thụ giới luật quản chế, người tuổi Nhâm mà Mệnh cung an tại Hợi Mão Mùi thì được phú quý song toàn.
Vào nữ Mệnh thì có chí khí của người nam tử, nhập miếu định là phú quý, hãm địa thêm sát tinh thì hại chồng khắc con, lại còn dâm tiện.
Tý Ngọ cung nhập miếu, người tuổi Đinh Kỷ Quý được phúc hậu, tài cách.
Mão cung nhập miếu, Dậu cung đắc địa, cùng Thái Dương đồng độ, người tuổi Ất Nhâm Tân được tài quan cách.
Thìn Tuất cung nhập miếu, cùng Thiên Cơ đồng độ, người tuổi Đinh Kỷ Nhâm Canh được tài quan cách.
Sửu Mùi cung nhập miếu, người tuổi Nhâm Ất được tài quan cách, người tuổi Mậu đại quý.
Dần cung nhập miếu, Thân cung hãm địa, cùng với Thiên Đồng đồng cung, người tuổi Đinh Kỷ Giáp Canh được tài quan cách.
(QNB chú: thiếu phần tại Tị Hợi cung).
Thiên Lương nhập nam mệnh cát hung quyết:
Thiên Lương chi diệu số trung cường,
Hình thần ổn trọng tính ôn lương,
Tả Hữu Xương Khúc lai hội hợp,
Quản giáo phú quý liệt triều cương.
Thiên Lương tinh tú thọ tinh phùng,
Cơ Nhật Văn Xương Tả Hữu Đồng,
Tý Ngọ Dần Thân vi nhập miếu,
Quan tư thanh hiển chí tam công.
Thiên Lương ngộ hỏa lạc nhàn cung,
Đà sát trùng phùng cánh thị hung,
Cô hình đới tật phá gia tài,
Không môn kỹ nghệ khả doanh công.
(Thiên Lương ấy, sao cường trong số
Ổn hình thần, bẩm tính thiện lương
Hội hợp Tả Hữu Khúc Xương
Dạy quý nhân ở triều cương danh lừng.
Thiên Lương thổ, thọ tinh mà gặp
Cơ, Nhật, Đồng, Tả Hữu Văn Xương
Dần Thân Tý Ngọ miếu phương
Quan cao thanh hiển đường đường Tam Công.
Thiên Lương tinh, nhàn cung gặp Hỏa
Đà sát xung, gặp sẽ thêm hung
Cô đơn, hình, tật, bần cùng
Không môn, công kỹ hoặc tùng kinh doanh).
Thiên Lương nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Thìn Tuất Cơ Lương phi tiểu bổ,
Phá Quân Mão Dậu bất vi lương,
Nữ nhân đắc thử vi cô độc,
Khắc phu hình tử thủ không phòng.
(Thìn Tuất Cơ Lương lợi chẳng ít
Phá Quân Mão Dậu lại không lành
Nữ nhân mà gặp là cô độc
Khắc phu hình tử, sớm phòng không).
Thiên Lương nhập hạn cát hung quyết:
Thiên Lương hóa Ấm cát tinh hòa,
Nhị hạn phùng chi phúc tất đa,
Nhược gia cát diệu phùng miếu địa,
Quý cực nhất phẩm phụ sơn hà.
Hạn chí Thiên Lương tối thị lương,
Do như thu cúc thổ hinh hương,
Gia quan tiến chức nghênh tân lộc,
Thường thứ phùng chi dã túc lương.
Thiên lương thủ hạn thọ duyên trường,
Tác sự cầu mưu cánh cát xương,
Nhược ngộ Hỏa Linh Dương Đà hợp,
Tu phòng nhất ách dữ gia vong.
(Thiên Lương hóa Ấm cát tinh hòa
Nhị hạn gặp thì phúc lộc đa
Nếu thêm cát diệu nơi miếu địa
Quý đến cực phẩm, giúp sơn hà
Hạn gặp Thiên Lương sẽ cát tường
Như mùa Thu Cúc tỏa ngát hương
Người quan tiến chức nghênh tân lộc
Thường dân cũng đầy đủ thực lương.
Thiên Lương thủ hạn thọ duyên trường
Cầu mưu, tác sự được vinh xương
Nếu gặp Hỏa Linh Kình Đà hội
Đề phòng phá sản kẻo ra đường).
* Thất Sát thuộc Hỏa Kim, Nam đẩu tướng tinh, gặp Đế biến thành Quyền, ngoài ra thì khắp chư cung đều mang tính sát. Là người mắt to, tính nóng vội, mừng giận thất thường, vào việc do dự tiến thoái bất nhất. Miếu vượng thì có mưu lược, gặp Tử Vi thì chấp chưởng quyền sinh quyền sát, vào võ chức thì rất lợi. Thêm Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt hội hợp thì tước vị đến cực phẩm. Lạc vào chỗ Không Vong thì vô uy lực. Gặp hung diệu ở nơi sinh địa thì định là làm đồ tể, hội Hình Tù tinh thì khắc hại hình thương. Mệnh cung an tại Dần Hợi Tý Ngọ cung, người tuổi Đinh Kỷ là hợp cục, không mừng khi rơi vào các tuổi Nhâm Quý Ngọ Tuất, còn người tuổi Bính tuổi Mậu thì luận là trung bình. Tại cung Thìn mà an Mệnh, người tuổi Canh được cát lợi, nếu thấy Kình Đà Linh Hỏa xung hội lại hãm địa thì dễ tàn tật, hạ cục, dẫu phú quý thì cũng chẳng bền.
Nữ nhân mà nhập miếu thêm Quyền Lộc thì vượng phu ích tử, hãm địa gặp Kình Hỏa thì tất sẽ khắc hại, hình thương, hạ tiện.
Tý Ngọ cung vượng địa, người tuổi Giáp Đinh Kỷ được tài quan cách.
Mão Dậu cung vượng địa, cùng Vũ Khúc đồng cung, người tuổi Ất Tân được phúc hậu, tài quan cách.
Thìn Tuất cung nhập miếu, thêm cát tinh (các tuổi) được tài quan cách.
Sửu Mùi cung nhập miếu, cùng Liêm Trinh đồng cung, thêm cát tinh (các tuổi) được tài quan cách.
Dần Thân cung nhập miếu, các tuổi Giáp Canh Đinh Kỷ được tài quan cách.
Tị Hợi cung hòa bình cùng Tử Vi đồng cung, các tuổi Bính Mậu Nhâm được tài quan cách.
Thất Sát nhập nam mệnh cát hung quyết:
Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ cung,
Tứ di củng thủ phục anh hùng,
Khôi Việt Tả Hữu Văn Xương hội,
Khoa Lộc danh cao thực vạn chung.
Sát cư hãm địa bất kham ngôn,
Hung họa do như bạn hổ miên,
Nhược thị sát cường vô chế phục,
Thiếu niên ác tử đáo hoàng tuyền.
Thất Sát cư mệnh lạc nhàn cung,
Cự tú Dương Đà cánh chiếu xung,
Nhược bất thương chi tất tổn cốt,
Không môn tăng đạo khả hưng long.
(Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ cung
Biên ải bốn phương phục anh hùng
Khôi Việt Tả Hữu Văn Xương hội
Khoa Lộc danh cao lộc vạn chung.
Khó mà nói hết Sát hãm cung
Làm bạn còn ôm hổ ngủ cùng
Nếu thêm hung sát vô chế phục
Thiếu niên chết thảm lúc lâm chung.
Thất Sát cư mệnh lạc nhàn cung
Cự Môn Đà Nhận đến chiếu xung
Nếu không què cụt thì thương tật
Theo đạo theo tăng giảm được hung).
Thất Sát nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nữ mệnh sầu phùng Thất Sát tinh,
Tác sự quả đoán hựu thông minh,
Khí cao chí đại vô nam nữ,
Bất miễn hình phu lịch khổ tân.
Thất Sát cô tinh Tham tú phùng,
Hỏa Đà tấu hợp phi vi quý,
Nữ nhân đắc thử tính bất lương,
Chích hảo thiên phòng vi sử tỳ.
(Nữ mệnh ưu phiền Thất Sát này
Thông minh quả quyết lại cao tay
Chí khí còn hơn nhiều nam tử
Chẳng tránh khắc phu, trải đắng cay.
Thất Sát cô thần, gặp Tham Lang
Hỏa Đà tấu hợp chẳng quý sang
Nữ nhân mà gặp tính không thiện
Chỉ tổ làm thiếp với a hoàn).
Thất Sát nhập hạn cát hung quyết:
Nhị hạn tuy nhiên phùng Thất Sát,
Thung dung hòa hoãn gia đạo phát,
Đối cung Thiên Phủ chính lai triều,
Sĩ hoạn phùng chi danh hiển đạt.
Thất Sát chi tinh chủ thu tức,
Tác sự gian nan câu hữu thất,
Cánh gia ác diệu tại hạn trung,
Chủ hữu quan tai đa bệnh tật.
(Nhị hạn mặc dù phùng Thất Sát
Thong thả hài hòa gia đạo phát
Đối cung Thiên Phủ chính triều lại
Sĩ tử hoạn lộ danh hiển đạt.
Tỉ ti tấm tức Thất Sát tinh
Vào việc gian nan đều dễ khuynh
Thêm vào ác diệu trong hạn ấy
Chủ tật bệnh mang lại ngục hình).
* Phá Quân thuộc Thủy, Bắc đẩu, hóa Hao, chủ vợ con nô bộc. Thân thể hình hài ngũ đoản, lưng dày mày rộng eo nghiêng, tính tình cương cường ít hòa hợp với người, thích tranh chấp tranh hiếu thắng. Lìa tổ xa tông thì phát phúc, giỏi săn bắn chim muôn, giỏi cờ bạc. Mừng gặp Tử Vi để được có uy quyền, Thiên Lương Thiên Phủ thường chế được tính ác của nó. Cùng Văn Khúc đồng cung thì một đời làm bần sĩ, thêm nhập vào chỗ thủy cung thì tàn tật, tuy giàu nhưng không bền, dễ chết yểu. Người tuổi Giáp Quý mà cung Mệnh an ở Tý Ngọ thì tước vị cỡ đến tam công. Nếu người tuổi Bính Mậu Dần mà Mệnh tọa ở Tý Ngọ thì tàn tật, cô đơn, dẫu phú quý cũng chẳng bền, dễ chết yểu. Người tuổi Bính Mậu mà Mệnh an ở Thìn Tuất Sửu Mùi cùng với Tử Vi đồng cung hoặc xung đối thì phú quý chẳng hề ít chút nào. Gặp Liêm Trinh Kình Đà Hỏa Linh ở chỗ hãm cung thì suốt đời tranh đấu bệnh tật, hợp theo tăng đạo.
Nữ mệnh ở nơi Tý Ngọ thì nhập miếu, nhưng nếu vào chỗ hãm địa mà có thêm sát tinh thì tất sẽ tàn tật, hạ tiện, dâm dục.
Tý Ngọ cung nhập miếu, người sinh các tuổi Đinh Kỷ Quý được phúc hậu, người sinh Bính Mậu thì chủ khốn đốn.
Mão Dậu cung hãm địa cùng Liêm Trinh đồng độ, các tuổi Ất Tân Quý thì được lợi, các tuổi Giáp Canh Bính thì chẳng được bền.
Thìn Tuất cung vượng địa, các tuổi Giáp Quý là phúc.
Sửu Mùi cung vượng địa cùng Tử Vi đồng độ, các tuổi Bính Mậu Ất được tài quan cách.
Dần Thân cung đắc địa, các tuổi Giáp Canh Kỷ được tài quan cách.
Tị Hợi cung cùng Vũ Khúc đồng độ, người tuổi Mậu được phúc hậu.
Phá Quân nhập nam mệnh cát hung quyết:
Phá Quân Thất Sát dữ Tham Lang,
Nhập miếu anh hùng bất khả đương,
Quan võ mệnh phùng vi thượng tướng,
Thứ nhân phú túc trí điền trang.
Phá Quân Tý Ngọ hội Văn Xương,
Tả Hữu song song nhập miếu lang,
Tài bạch phong doanh đa khảng khái,
Lộc quan chiêu trứ tá quân vương.
Phá Quân nhất diệu tối nan đương,
Hóa Lộc Khoa Quyền hỉ dị thường,
Nhược hoàn hãm địa nhưng gia sát,
Phá tổ ly tông xuất viễn hương.
Phá Quân bất hỉ tại Thân cung,
Liêm Trinh Hỏa Dương Đà hội hung,
Bất kiến thương tàn định thọ yểu,
Chích nghi tăng đạo độ bình sinh.
(Phá Quân Thất Sát với Tham Lang
Nhập miếu anh hùng danh tiếng vang
Theo võ thì thăng làm thượng tướng
Người thường giàu có lắm điền trang
Phá Quân Tý Ngọ hội Văn Xương
Tả Hữu một đôi nhập miếu đường
Tài lộc dồi dào, chi rộng rãi
Tước quan hiển hiện tá quân vương
Phá Quân nhất diệu khó đảm đương
Hóa Lộc Khoa Quyền mừng dị thường
Nếu mà hãm địa cùng thêm sát
Phá tổ ly tông tới viễn phương.
Phá Quân chẳng thích cung an Thân
Liêm Hỏa Kình Đà hung thập phần
Nếu chẳng thương tàn thì yểu thọ
Chỉ theo tăng đạo qua ngày dần).
Phá Quân nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Phá Quân Tý Ngọ vi nhập miếu,
Nữ mệnh phùng chi phúc thọ xương,
Tính cách hữu năng thiên xuất chúng,
Vượng phu ích tử tính danh hương.
Phá Quân nữ mệnh bất nghi phùng,
Kình Dương gia hãm tiện vi hung,
Khắc hại lương nhân phi nhất thứ,
Tu giáo bi khốc độ triêu hôn.
(Phá Quân Tý Ngọ là nhập miếu
Nữ mệnh gặp thì phúc thọ nhiều
Tính cách tài năng lại xuất chúng
Vượng phu ích tử danh mỹ miều
Phá Quân nữ mệnh chẳng hợp phùng
Thêm hãm Kình Dương sẽ rất hung
Khắc hại chồng con vài ba bận
Nên biết buồn đau trải sớm hôm).
Phá Quân nhập hạn cát hung quyết:
Phá Quân nhập hạn yếu thôi tường,
Miếu địa phương tri phúc lộc xương,
Cánh ngộ Văn Xương đồng Khôi Việt,
Hạn lâm thử địa cực phong quang.
Phá Quân nhập hạn tế thôi tường,
Miếu địa vô hung thiểu tổn thương,
Sát tấu Phá Quân phòng phá háo,
Cánh phòng thê tử tự thân vong.
Phá Quân chủ hạn đa nùng huyết,
Thất thoát quai trương bất khả thuyết,
Cánh trị nữ nhân chủ hiếu phục,
Huyết quang sản nạn tai ương tiết.
(Phá Quân nhập hạn xét cho tường
Hưng thịnh phúc tài ở miếu phương
Thêm gặp Văn Xương cùng Khôi Việt
Hạn vào nơi ấy cực vinh xương.
Nhập hạn Phá Quân xét kỹ càng
Miếu địa vô hung sẽ vẻ vang
Hễ gặp sát tinh phòng phá tán
Phòng vợ con cùng bản thân vong.
Phá Quân chủ hạn đẫm máu tanh
Mất mát bất thường sự chẳng lành
Nữ nhân gặp phải vận tang phục
Huyết quang sản nạn, thì họa giảm).
* Văn Xương thuộc Kim, Năm bắc đẩu, là sao văn khôi. Là người mi thanh mục tú, khôn khéo đa học đa tài, hội Thái Dương Thiên Lương Lộc Tồn thì tài quan hiển hiện, phú quý nức tiếng, hãm địa thì ban đầu trắc trở sau sẽ dễ dàng, thêm Kình Dương Hỏa Linh thì là người làm nghề kỹ công. Hãm địa mà độc thủ thêm sát thì có tật, cũng được thọ trường, vượng thì có nốt ruồi chỗ kín, hãm thì dễ có bệnh trên da, có sẹo.
Nữ mệnh mà nhập miếu cũng bình thường, có nhiều cát tinh thì được phú quý, hãm địa gặp Kình Hảo Cự Cơ Sát Kị thì tất sẽ hạ tiện, dâm dật, kỹ xướng, nô tỳ.
Dần Ngọ Tuất cung đắc địa, các tuổi Đinh Kỷ Giáp Canh được tài quan cách.
Thân Tý Thìn cung đắc địa, các tuổi Quý Giáp Canh được quý cách.
Tị Dậu Sửu cung nhập miếu, các tuổi Ất Mậu Tân được đại quý.
Hợi Mão Mùi cung lợi địa, các tuổi Ất Mậu được tài quan cách.
Văn Xương nhập nam mệnh cát hung quyết:
Văn Xương tọa mệnh vượng cung lâm,
Chí đại tài cao để vạn kim,
Văn nghệ tinh hoa tâm tráng đại,
Tu giáo bình bộ thượng thanh vân.
Văn Xương thủ mệnh diệc phi thường,
Hạn bất yểu thương phúc thọ trường,
Chích phạ hạn xung phùng Hỏa Kỵ,
Tu giáo yểu chiết đới hình thương.
(Văn Xương tọa mệnh vượng cung này
Chí cả tài cao, thực quý thay
Văn nghệ tinh thông, tâm hùng tráng
Dạy rằng rảo bước rộng đường mây.
Văn Xương thủ mệnh cũng phi thường
Hạn chẳng yểu thương lại thọ trường
Chỉ sợ hạn xung phùng Hỏa, Kị
Dạy rằng yểu chiết đới hình thương).
Văn Xương nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nữ nhân Thân Mệnh trị Văn Xương,
Tú lệ thanh kỳ phúc canh trường,
Tử Phủ đối xung tam hợp chiếu,
Quản giáo phú quý trứ hà thường.
Văn Xương nữ mệnh ngộ Liêm Trinh,
Hãm địa Kình Dương Hỏa Kỵ tinh,
Nhược bất vi xướng chung thọ yểu,
Thiên phòng do đắc chủ nhân khinh.
(Nữ nhân Thân Mệnh gặp Văn Xương
Xinh đẹp thanh kỳ phúc thọ trường
Tử Phủ đối xung tam hợp chiếu
Dạy rằng phú quý thực sung sướng
Văn Xương nữ mệnh hội Liêm Trinh
Hãm địa Kình Dương Hỏa Kị tinh
Nếu không kỹ xướng thì yểu thọ
Tỳ thiếp còn bị chủ nhân khinh).
Văn Xương nhập hạn cát hung quyết:
Văn Xương chi tinh tối vi thanh,
Đấu số chi trung đệ nhị tinh,
Nhược ngộ Thái Tuế dữ nhị hạn,
Sĩ nhân trị thử chiêm khoa danh.
Hạn ngộ Văn Xương bất đắc địa,
Cánh hữu Dương Đà Hỏa Linh Kị,
Quan phi khẩu thiệt phá gia tài,
Vị miễn hình thương đa hối trệ.
(Văn Xương sao ấy cực kỳ thanh
Đẩu số này đây đệ nhất danh
Nếu gặp Thái Tuế cùng nhị hạn
Học trò có nó đỗ đạt nhanh.
Hạn gặp Văn Xương hãm địa cung
Kình Đà Linh Hỏa Hóa Kị phùng
Phá tan gia sản, quan tụng thiệt
Chẳng miễn hình thương, hối hận vương).
Văn Khúc thuộc Thủy, Bắc đẩu, ti khoa giáp. Cùng với Văn Xương gặp cát thì chủ khoa bảng khoa đệ, đơn thủ cư Thân Mệnh lại gặp sác sát tấu hợp thì làm kẻ vô danh và giỏi nịnh. Mừng gặp người tuổi Giáp mà mệnh an tại Tị Dậu Sửu cung, làm quan quý, cư hầu cư bá. Cùng với Tham Lang Hỏa Tinh đồng cung hoặc tam hợp thì là tướng tướng chi mệnh. Cũng Vũ Trinh KÌnh Sát Phá Lang cư hãm địa thì tất táng mệnh chết non. Nếu cùng Đồng Lương Vũ Khúc hội ở vượng cung thì thông minh quả quyết, như Kình Đà xung phá thfi chỉ hợp theo tăng đạo. Vượng thì có nốt ruồi kín, hãm thì dễ có sẹo, bớt, bệnh trên da.
Nữ Mệnh nhập miếu thì thanh tú, hãm địa cùng Cự Hỏa Kị Cơ hội hợp với Tham Phá đồng cung hoặc xung phá thì tất sẽ cô đơn, nghèo khó, hạ tiện, dâm dục.
Dần cung hòa bình, Ngọ Tuất hãm địa, các tuổi Giáp Canh được tài quan cách.
Thân Tý Thìn cung đắc địa, các tuổi Đinh Quý Tân được phúc hậu.
Tị Dậu Sửu cung nhập miếu, người tuổi Tân gặp Tử Vi đồng cung thì đại phú quý cách.
Hợi Mão Mùi cung vượng địa, các tuổi Bính Nhâm mậu được tài quan cách.
Văn Khúc nhập nam mệnh cát hung quyết:
Văn Khúc thủ mệnh tối vi lương,
Tướng mạo đường đường chí khí ngang,
Sĩ thứ phùng chi ứng phúc hậu,
Trượng phu đắc thử thụ kim chương.
Văn Khúc thủ viên phùng Hỏa Kị,
Bất hỉ tam phương ác sát tụ,
Thử nhân tuy xảo khẩu năng ngôn,
Duy tại không môn khả ngộ quý.
(Văn Khúc thủ mệnh rất cát tường
Hiên ngang chí khí vẻ đường đường
Quan dân mà gặp đều phúc hậu
Trượng phu sẽ hưởng thụ ân vương.
Văn Khúc Mệnh viên Hỏa Kị phùng
Chẳng mừng ác sát đến chiếu xung
Kẻo mà khéo nịnh làm không nổi
Theo chốn không môn mới khỏi hung).
Văn Khúc nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nữ nhân mệnh lý phùng Văn Khúc,
Tướng mạo thanh kỳ đa hữu phúc,
Thông minh linh lợi bất tầm thường,
Hữu sát thiên phòng dã dâm dục.
(Nữ nhân mệnh lý phùng Văn Khúc
Tướng mạo thanh kỳ có nhiều phúc
Lanh lợi thông minh thực khác thường
Sát chiếu, tỳ thiếp và dâm dục).
Văn Khúc nhập hạn cát hung quyết:
Nhị hạn tương phùng Văn Khúc tinh,
Sĩ thứ tư niên tu phát phúc,
Cánh thiêm Tả Hữu hội Thiên Đồng,
Tài lộc thao thao vi thượng cục.
Văn Khúc hạn ngộ Liêm Đà Dương,
Hãm địa phi tai nhạ họa ương,
Cánh kiêm mệnh lý tinh thần nhược,
Tu tri thử tuế nhập tuyền hương.
(Nhị hạn tương phùng Văn Khúc tinh
Quan dân năm ấy hưởng phúc ninh
Lại thêm Tả Hữu Thiên Đồng hội
Tài lộc dồi dào thượng cục định.
Hạn Văn Khúc gặp Kình Đà Trinh
Hãm địa tất rước họa hoạn kinh
Nếu Mệnh tinh thần mà suy nhược
Biết rằng năm ấy về U Minh (âm ty cõi).
* Tả Phụ thuộc Thổ, Nam bắc đẩu, thiện tinh, phò trợ cho Đế Lệnh thêm đẹp. Nếu Phủ Tướng Cơ Xương Tham Lang Vũ Khúc hội hợp, lại có thêm cả Hữu Bật đồng cung thì phú quý không hề nhỏ, tài quan song mỹ. Nếu thấy Kình Đà Hỏa Kị thì định là trung cục, ở vượng cung có nốt ruồi kín, thấy tam sát như hãm địa mà thêm Cự Môn Thất Sát Thiên Cơ sẽ thành hạ cục.
Nữ Mệnh hội cùng cát tinh thì vượng phu ích tử. Theo tăng đạo càng được thanh khiết.
Tả Phụ nhập nam mệnh cát hung quyết:
Tả Phụ tôn tinh năng giáng phúc,
Phong lưu đôn hậu thông kim cổ,
Tử Phủ Lộc Quyền Tham Vũ hội,
Văn quan võ chức đa thanh quý.
Dương Đà Hỏa Linh tam phương chiếu,
Túng hữu tài quan phi cát triệu,
Liêm Trinh Phá Cự cánh lai xung,
Nhược bất thương tàn chung thị yểu.
(Tả Phụ tôn tinh thường giáng phúc
Phong lưu đôn hậu uyên bác thực
Tử Phủ Lộc Quyền Tham Vũ hội
Hai ban van võ đều quý cực.
Kình Đà Linh Hỏa tam phương chiếu
Mà ở Tài Quan chẳng cát diệu
Liêm Trinh Cự Phá cùng xung tới
Nếu chẳng thương tàn, thì chết yểu).
Tả Phụ nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nữ mệnh Tả Phụ chủ hiền hào,
Năng cán năng vi hựu khí cao,
Cánh dữ Tử Vi Thiên Phủ hợp,
Kim quan phong tặng quá thao thao.
Hỏa Đà tương hội bất vi lương,
Thất Sát Phá Quân thọ bất trường,
Chích khả thiên phòng phương phú túc,
Thông minh đắc sủng quá thì quang.
(Nữ nhân Tả Phụ bực anh thư
Tài cả chí cao vượt trượng phu
Lại được Tử Vi Thiên Phủ hội
Mũ vàng phong tặng mãi xuân thu.
Hỏa Đà tương hội chẳng tốt lành
Thất Sát Phá Quân thọ giảm nhanh
Chỉ làm phận thiếp nhà giàu có
Thông minh được ái trải ngày xanh).
Tả Phụ nhập hạn cát hung quyết:
Tả Phụ hạn hành phúc khí thâm,
Thường nhân phú túc lũy thiên kim,
Quan viên cánh đắc Khoa Quyền chiếu,
Chức vị cao thiên tá thánh quân
Tả Phụ chi tinh nhập hạn lai,
Bất nghi sát tấu chủ bi ai,
Hỏa Linh Không Kiếp lai tương tấu,
Tài phá nhân vong sự sự ai.
(Hạn vào Tả Phụ phúc khí dày
Người thường giàu có lộc nhiều thay
Quan viên lại được Khoa Quyền chiếu
Thăng chức cạnh vua đúng hạn này.
Tả Phụ hạn kia đã nhập vào
Chẳng ưa Sát tấu chủ buồn sao
Hỏa Linh Không Kiếp cùng tụ tập
Người mất tiền tan lắm lao đao).
* Hữu Bật thuộc Thủy, Nam bắc đẩu, phò trợ cho Đế Lệnh. Nhập miếu thì hình dáng trọng hậu thanh tú, ngay thẳng chính trực, tấm lòng bao dung rộng rãi, thường làm việc cứu tế bố thí, có nhiều cơ mưu. Khắp các cung đều giáng phúc, cư tứ Mộ thì rất đẹp, nếu hội Tử Vi Thiên Phủ Thiên Tướng Xương Khúc thì cả đời phúc hậu, nếu cùng các sát tinh đồng triền thứ (cung độ) lại cả Kình Đà Linh Hỏa Hóa Kị xung hợp thì chủ phúc bạc cũng chẳng đến nỗi hung hiểm, duy có bệnh ngoài da, có sẹo, bớt, có nốt ruồi kín hoặc là có thương tật.
Nữ mệnh hội cùng các cát tinh thì vượng phu ích tử. Tăng đạo cũng thanh khiết.
Hữu Bật nhập nam mệnh cát hung quyết:
Hữu Bật Thiên Cơ thượng tể tinh,
Mệnh phùng trọng hậu tối thông minh,
Nhược vô Hỏa Kỵ Dương Đà hội,
Gia cát tài quan quán thế anh.
Hữu Bật tôn tinh nhập mệnh cung,
Nhược hoàn sát tấu chủ thường dung,
Dương Đà Không Kiếp tam phương tấu,
Tu tri đới tật miễn tai hung.
(Hữu Bật Thiên Cơ thượng tể tinh
Mệnh phùng phúc hậu rất thông minh
Nếu không gặp Hỏa Kình Đà Kị
Thêm cát tài quan cực hiển vinh
Hữu Bật tôn tinh nhập Mệnh cung
Nều mà sát tấu chỉ thường chung
Kình Đà Không Kiếp tam phương chiếu
Nếu tật bệnh rồi miễn họa hung).
Hữu Bật nhập hạn cát hung quyết:
Hữu Bật nhập hạn tối vi vinh,
Nhập tài hưng vượng tất đa năng,
Quan viên thiên trạc tăng đạo hỉ,
Sĩ tử công thư tất hiển danh.
Hữu Bật chủ hạn ngộ hung tinh,
Tảo tận gia tư bách bất thành,
Sĩ tao thương bại nô khi chủ,
Cánh giáo gia phá chủ linh đình.
(Hạn vào Hữu Bật được vinh thăng
Nhập tài hưng vượng lắm tài năng
Quan viên lên chức, tăng đạo phúc
Sĩ tử học hành tất hiển danh.
Hữu Bật chủ hạn gặp hung tinh
Quét sạch gia tài sự điêu linh
Kẻ sĩ bại thương, nô khinh chủ
Dạy rằng nhà phá chủ lênh đênh).
* Lộc Tồn thuộc Thổ, Bắc đẩu, ti tước lộc, quý tinh. Từng trải lão luyện, tâm tính nhân từ, ngay thẳng chính trực, có cơ biến lại đa học đa tài, Mệnh gặp được chủ phú quý, văn nhân có thanh danh, ở khắp các cung đều giáng phúc mà tiêu trừ tai họa. Gặp các sát tinh thì quên tổ nhưng coi trọng phụ mẫu. Hỉ Tử Phủ Tướng Đồng Lương Nhật Nguyệt với Vũ Khúc đồng cung là tuyệt diệu. Nếu đơn thủ ở Mệnh Thân cung thì chỉ làm kẻ trông coi tiền tài cho người khác. Sợ gặp Không Kiếp Hỏa Linh xung chiếu thành ra hạ cục, làm người theo nghề kỹ công khéo léo tinh xảo. Hãm địa thì giảm phúc. Tại Mệnh cung, Quan Lộc, Điền Trạch đều là phúc.
Nữ mệnh gặp nó là thanh bạch tú lệ, có chí khí của người nam nhi.
Lộc Tồn nhập nam mệnh cát hung quyết:
Nhân sinh nhược ngộ Lộc Tồn tinh,
Tính cách cương cường bách sự thành,
Quan viên thiên hề Xương Khúc hội,
Thao thao y lộc hiển môn đình.
Lộc Tồn thủ mệnh mạc phùng xung,
Đà Hỏa giao gia phúc bất toàn,
Thiên Cơ Không Kiếp Kị tương hội,
Không môn tăng đạo đắc thanh nhàn.
(Lộc Tồn cư Mệnh ấy điềm lành
Tính cách kiên cường trăm sự thành
Quan hiển tiền đồ, Xương Khúc hội
Dồi dào y lộc lại vang danh
Lộc Tồn thủ Mệnh sợ phá xung
Hỏa Đà cùng tới tất gặp hung
Thiên Cơ Không Kiếp mà tương hội
Chỉ lánh Không Môn để thung dung).
Lộc Tồn nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nữ mệnh nhược ngộ Lộc Tồn tinh,
Tử Phủ gia lâm bách sự ninh,
Cánh ngộ Đồng Trinh tương tấu hợp,
Tất nhiên chú định thị phu nhân.
Lộc Tồn nhập mệnh hãm cung lai,
Không Kiếp Hỏa Linh tất vi tai,
Nhược vô cát diệu lai tương tấu,
Phu thê phân ly vĩnh bất hài.
(Nữ mệnh nếu gặp Lộc Tồn tinh
Tử Phủ giá lâm bách sự ninh
Thêm gặp Đồng, Trinh cùng tụ hợp
Tất nhiên định số bực phu nhân.
Lộc Tồn nhập Mệnh ở hãm cung
Không Kiếp Hỏa Linh chiếu tất hung
Nếu không có cát cùng tới cứu
Vợ chồng ly biệt tới lâm chung).
Lộc Tồn nhập hạn cát hung quyết:
Lộc Tồn chủ hạn tối vi lương,
Tác sự cầu mưu tận cát tường,
Sĩ lại phùng chi đa chuyển chức,
Thứ nhân ngộ thử túc tiền lương.
Lộc Tồn chủ hạn thọ duyên trường,
Tác sự doanh mưu vạn sự xương,
Cánh hữu Khoa Quyền kiêm Tả Hữu,
Định tri thử hạn phú thương sương.
Lộc Tồn lộc chủ đa phú túc,
Hôn nhân giá thú thiêm tự tục,
Cánh kiêm Khoa Lộc hựu đồng cung,
Tất chủ vinh hoa hưởng hậu phúc.
Lộc Tồn giao trì hạn bộ phùng,
Tối phạ Kiếp Không tương ngộ đồng,
Cánh kiêm Thái Tuế ác tinh xung,
Hạn đảo kỳ niên nhập mộ trung.
(Lộc Tồn chủ hạn cực cát tường
Vào việc cầu mưu đều vinh xương
Quan lại gặp thì được thăng chức
Thứ dân cũng được đủ tiền lương.
Lộc Tồn chủ hạn thọ thêm trường
Bày mưu tác sự đều vinh xương
Lại thêm Tả Hữu Khoa Quyền nữa
Định là hạn ấy đẫy lộc lương.
Lộc Tồn lộc chủ nhiều giàu có
Hôn nhân giá thú, thêm cháu con
Thêm Khoa cùng Lộc đồng cung nữa
Tất được vinh hoa phúc vẹn tròn.
Hạn đến đúng nơi Lộc giao trì
Chỉ e Không Kiếp lại cùng đi
Thái Tuế ác tinh thêm xung chiếu
Lộc đảo hạn này xuống âm ty).
Khôi Việt thuộc Hỏa, tức Thiên Ất quý nhân. Nếu Thân Mệnh mà gặp được, lại thêm chư cát tinh cùng đến ở tam phương tứ chính tất sẽ đăng khoa đỗ đạt ngay từ thuở thiếu niên. Gặp hung tinh Kị tinh thì không phải là văn chương tú sĩ, có thể là đệ tử của danh sư. Hạn mà gặp thì chủ thanh cao, công danh được thành tựu. Đại khái các sao ấy nếu mà Thân Mệnh gặp được thì dẫu chẳng phú quý cũng thông minh và là người đẹp đẽ, có oai phong khiến người khác nể phục, có dáng dấp hình mẫu.
Nữ mệnh mà gặp lại có nhiều cát tinh thì làm vợ, làm dâu nhà Tể Tướng, gặp hung sát tinh thì vẫn được phú quý.
Khôi Việt nhập mệnh hạn cát hung quyết:
Khôi Việt Mệnh Thân hạn ngộ xương,
Thường nhân đắc thử túc tiền lương,
Quan viên ngộ thử cao thiên trạc,
Tất định đương niên diện đế vương.
(Mệnh Thân Khôi Việt gặp cát tường
Thường thứ dân phùng đẫy tiền lương
Quan chức gặp thì thăng tiến chóng
Ngay trong năm ấy gặp Đế vương).
Kình Dương thuộc Hỏa Kim, Bắc đẩu phù tinh, hóa khí là Hình. Nhập miếu thì quyền quý, thân cao lớn nhưng thô, có phá tướng, tính tình cương cường quả cảm quyết đoán, giỏi đấu tranh hùng dũng dữ tợn, có cơ mưu xảo trá, vụt chốc lập công danh, thường đoạt quyền của quân tử. Mừng người sinh Tây Bắc là phúc, hợp mệnh an tại tứ Mộ cung là chỗ nó miếu địa. Cũng mừng người sinh tuổi tứ Mộ. Hội Nhật Nguyệt thì nam khắc vợ còn nữ khắc chồng, hội Xương Khúc tả Hữu thì có nốt ruồi kín, có sẹo, bớt, bệnh trên da. Cư Mão Dậu là hãm cung thì tác họa tác tai ương, dễ thương tàn đới tật, đui què mẻ sứt. Người tuổi Giáp Mậu Dần Thân mà thủ mệnh thì chủ cô đơn, không giữ được tổ nghiệp, mang hai họ hoặc làm con nuôi nhà khác thì được thêm thọ, làm nghề kỹ công mà sinh sống. gặp Liêm Trinh Hỏa Cự Kị hãm địa đồng cung thì tất sẽ có ám tật, hoặc là anh em thương tàn lẫn nhau, chẳng được thiện chung, một đời toàn chiêu chuốc lấy hình phạt họa tai, nếu không tất sẽ là tăng đạo.
Nữ mệnh mà nhập miếu thì quyền quý, hãm địa thì hại chồng khắc con, cô đơn hình khắc, phá tướng, dâm đãng.
Thìn Tuất Sửu Mùi nhập miếu, cũng hợp với người sinh năm Thìn Tuất Sửu Mùi, được tài quan cách.
Tý Ngọ Mão Dậu là hãm địa.
Kình Dương nhập nam mệnh cát hung quyết:
Lộc tiền nhất vị an Kình dương,
Thượng tướng phùng chi phúc lộc gia,
Cánh đắc quý nhân tương thủ chiếu,
Binh quyền vạn lý tráng hoàng gia.
Kình Dương thủ mệnh tính cương cường,
Tứ mộ sinh nhân phúc thọ trường,
Nhược đắc Tử Phủ lai hội hợp,
Tu tri tài cốc phú thương tương.
Kình Dương nhất diệu lạc nhàn cung,
Đà Hỏa xung hề tiện thị hung,
Cánh nhược Thân Mệnh đồng Kiếp Sát,
Định nhiên yểu tuyệt tại đồ trung.
(Cung ngay trước Lộc an Kình Dương
Thượng tướng gặp là phúc thịnh xương
Thêm được Quý nhân tương thủ chiếu
Binh quyền vạn dặm tựa quân vương
Kình Dương thủ Mệnh tính cương cường
Tứ Mộ mà sinh phúc thọ trường
Nếu được Tử Phủ cùng hội hợp
Tiền tài thóc lúa mãn kho lương.
Kình Dương sao ấy lạc nhàn cung
Đà Hỏa tới xung chắc chắn hung
Thân Mệnh lại trên nơi yếu nhược
Định rằng yểu chiết ở trên đường).
Kình Dương nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Bắc đẩu phù tinh nữ mệnh phùng,
Hỏa Cơ Cự Kị tất thường dung,
Tam phương hung sát kiêm lai tấu,
Bất yểu chung tu lãng cổn đào.
(Bắc đẩu dư tinh nữ mệnh phùng
Hỏa Cơ Cự Kị tất thường dung
Tam phương hung sát cùng vây chiếu
Chẳng yểu thì phiêu đãng tới cùng).
Kình Dương nhập hạn cát hung quyết:
Kình Dương thủ hạn tế thôi tường,
Tứ mộ sinh nhân miễn tai ương,
Nhược ngộ Tử Vi Xương Phủ hội,
Tài quan hiển đạt phúc du trường.
Thiên La Địa Võng ngộ Kình Dương,
Nhị hạn trùng hề họa hoạn thương,
Nhược thị mệnh trung chủ tinh nhược,
Định giáo nhất tật mộng hoàng tuyền.
Kình Dương gia sát tối vi hung,
Nhị hạn hưu giáo lạc hãm phùng,
Khắc tử hình thê mại điền trang,
Tỷ lưu biếm phối khứ tòng nhung.
(Kình Dương thủ hạn xét cho tường
Tứ Mộ năm sinh miễn tai ương
Nếu gặp Tử Vi Xương Phủ hội
Tài quan hiển đạt phúc thêm trường.
Thiên La Địa Võng gặp Kình Dương
Nhị hạn mà trùng xung cực tai ương
Nếu sao thủ Mệnh mà yếu nhược
Dạy rằng bệnh nặng thấy Diêm Vương
Kình Dương thêm sát cực kỳ hung
Nhị hạn đừng có lạc hãm cùng
Hình khắc vợ con bán điền sản
Sung quân, lưu lạc chẳng ung dung).
Đà La thuộc Hỏa Kim, Bắc đẩu phù tinh, hóa khí là Kị. Nhập miếu thân thể hùng dũng nhưng hình thô kệch, bẩm tính cương cường, có phá tướng, chí khí cao. Hoạnh phát hoạnh phá, chẳng giữ được tổ nghiệp, là người phiêu bồng, không bao giờ là người dân bản xứ, vào việc chỉ bàn lùi, sao việc hối hận, có đầu mà chẳng có cuối. Hỉ người sinh Tây Bắc là phúc, cùng người tuổi tứ Mộ hay có Mệnh cung ở tứ Mộ, thêm cát tinh thì là phúc. Hội hợp với Nhật Nguyệt thì nam khắc vợ, nữ khắc chồng, thêm Hóa Kị thì mắt có tổn thương, hội Xương Khúc Tả Hữu thì có nốt ruồi kín, có bớt, có sẹo, bệnh trên da. Nếu đơn thủ Mệnh cung vô chính diệu thì cô đơn, lìa tổ quên tông, đi ở rể hoặc mang hai họ thì được thọ, làm công việc kỹ công, tinh xảo. Nếu cư hãm địa gặp Cự Sát thì tất sẽ hại vợ khắc con, quay lưng với lục thân cùng có bệnh tật, thương, tàn tật.
Theo tăng đạo thì được lợi. Nữ mệnh thì trong hung ác mà ngoài cứ như không, lấn lướt chồng khắc con cái, bất hòa với lục thân lại cũng vô liêm sỉ.
Thìn Tuất Sửu Mùi nhập miếu, cũng hợp với người sinh năm Thìn Tuất Sửu Mùi, được cát lợi.
Dần Thân Tị Hợi hãm địa.
Đà La nhập nam mệnh cát hung quyết:
Đà La mệnh nội tọa trung tồn,
Cánh hỉ nhân sinh tứ mộ trung,
Tái đắc Tử Vi Xương Phủ hợp,
Tài lộc phong doanh viễn bá danh.
Đà La tại hãm bất kham văn,
Khẩu thiệt quan phi nhất thế xâm,
Tài tán nhân ly nhân cô độc,
Sở vi sở tác bất như tâm.
(Đà La tọa ở tại Mệnh cung
Thêm mừng người ở tứ Mộ phùng
Lại được Tử Vi Xương Phủ hợp
Tài lộc tràn đầy danh tiếng hưng.
Khó mà nói hết Đà hãm cung
Quan tai, khẩu thiệt, cả đời cùng
Tán tài, cô độc, người ly biệt
Ước nguyện chẳng được như vẫn mong).
Đà La nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Đà La nhất diệu nữ mệnh phùng,
Ngộ cát gia lâm dâm đãng dung,
Hung sát tam phương tương chiếu phá,
Tu phòng tương biệt chủ nhân ông.
(Đà La ác diệu nữ mệnh phùng
Gặp cát gia lâm dâm đãng dung
Hung sát tam phương cùng tới phá
Phải phòng xa cách với phu quân).
Đà La nhập hạn cát hung quyết:
Hạn ngộ Đà La sự diệc đa,
Tất nhiên nhẫn nại yếu khiêm hòa,
Nhược vô cát diệu đồng tương hội,
Tu giáo nhất mộng nhập Nam Kha.
Giáp Thân giáp Mệnh hữu Đà Dương,
Hỏa Linh Không Kiếp hựu lai thương,
Thiên lộc bất phùng sinh vượng địa,
Hình thê khắc tử bất vi lương.
(Hạn gặp Đà La lắm việc ra
Tất nhiên nhẫn nại để khiêm hòa
Nếu vô cát diệu cùng tương hội
Tan tành một giấc mộng Nam Kha.
Kề Thân giáp Mệnh có Kình Đà
Hỏa Linh Không Kiếp tới hại ta
Thiên Lộc chẳng cư sinh vượng địa
Hình thê khắc tử thật xấu xa).
* Hỏa Tinh thuộc Hỏa, Nam đẩu phù tinh. Tính tình kiên cường xuất chúng, môi răng và tứ chi dễ có tổn thương, lông tóc quái dị, hình dáng dung mạo đều đặc biệt. Khắp các cung đều không đẹp, duy chỉ có Tham Lang nhập miếu vượng cung đồng độ là đẹp, một sớm một chiều là lập được chiến công nơi biên ải, là tài quan cách, lời cho người sinh Đông Nam, bất lợi người sinh Tây Bắc, cùng người tuổi Dần Mão Tị Ngọ là họa rất nhẹ. Cùng với Kình Dương đồng cung thì tất sẽ có tai ách cưỡng đoạt tài sản, cô đơn hình khắc, hạ cục. Chỉ hợp chuyển nhà mà gửi cho bên ngoại nuôi dưỡng, hoặc nhận thêm cha mẹ thì tránh được.
Nữ mệnh tâm độc, trong hung ác mà ngoài xảo trá cứ như không, lấn lướt chồng, khắc con cái, không tuân thủ đạo làm vợ, lắm thị phi, dâm dục hạ tiện.
Hợp người tuổi Dần Ngọ Tuất. Còn người tuổi Thân Tý Thìn thì hãm mà tai họa hối hận, khốn đốn. Còn người tuổi Tị Dậu Sửu thì đắc địa được cát, người tuổi Hợi Mão Mùi là lợi ích, được thêm nhiều cát tinh là phát phúc.
Hỏa Tinh nhập hạn cát hung quyết:
Hỏa Tinh đắc địa hạn cung phùng,
Hỉ khí doanh môn bách sự thông,
Sĩ hoạn phùng chi giai phát phúc,
Thường nhân đắc thử tài phong long.
Hỏa Tinh nhất tú tối quai trương,
Vô sự quan tai nháo nhất trường,
Khắc hại lục thân ứng bất miễn,
Phá tài gian khổ miễn tây hoàng.
(Hỏa Tinh đắc địa hạn cung phùng
Hỉ khí đầy nhà trăm sự thông
Kẻ quan gặp được thì phát phúc
Thường dân có nó lộc tài hưng.
Hỏa Tinh sao ấy rất bất thường
Tự nhiên tai vạ loạn công đường
Chẳng tránh được khắc lục thân vậy
Phá sản, gian khổ, thoát bi thương).
* Linh Tinh thuộc Hỏa, Nam đẩu phù tinh. Tính độc, hình thần có phá tướng, can đảm xuất chúng, hợp người sinh năm Dần Ngọ Tuất được quyền quý, cũng lợi người sinh Đông Nam, hạn hành tới đó cũng phúc hậu, người sinh Tây Bắc thì hạn hành tới đó là có thành có bại dẫu có phú quý cũng chẳng bền. Nhập miếu gặp Tham Lang Vũ Khúc thì oai danh trấn động biên thùy, thêm hội Tử Phủ Tả Hữu thì chẳng quý cũng giàu. Nếu cư hãm địa thì chết yểu, có phá tướng sẽ thêm thọ hoặc bái người khác làm phụ mẫu cũng được.
Nữ mệnh tính cương, quay lưng với lục thân, hại phu khắc tử, gặp cát tinh thuộc Thủy thì thường được đầy đủ.
Linh Tinh nhập hạn cát hung quyết:
Hạn chí Linh Tinh sự nhược hà,
Tham Lang tương ngộ phúc hoàn đa,
Cánh gia nhập miếu phùng chư cát,
Phú quý thanh dương xứ xứ ca.
Linh Tinh nhất tú bất khả đương,
Thủ lâm nhị hạn tất điên cuồng,
Nhược vô cát diệu lai tương chiếu,
Vị miễn chiêu tai nhạ họa ương.
(Hạn đến Linh Tinh sự thế nào
Tham Lang hội hợp phúc dồi dào
Lại thêm nhập miếu cùng cát diệu
Phú quý lẫy lừng mọi chốn khen.
Linh Tinh ác diệu chẳng thể đương
Thủ lâm nhị hạn tất điên cuồng
Nếu vô cát diệu tới cứu giải
Chẳng thoát chiêu họa rước tai ương)
—
Hỏa Linh nhị tinh nhập nam mệnh cát hung quyết:
Hỏa Linh nhị diệu cư miếu địa,
Tham Lang Tử Phủ nghi tương hội,
Vi nhân tính cấp hữu uy quyền,
Trấn áp hương bang chung hữu quý.
Hỏa Linh tại mệnh lạc nhàn cung,
Tây Bắc sinh nhân tác sự dung,
Phá tận gia tài chung bất cửu,
Tu giáo đới tật miễn tai hung.
(Linh Hỏa nhị tinh nhập miếu cung
Tham Lang Tử Phủ hỉ tương phùng
Là người tính nóng quyền uy lớn
Nước láng giềng kia phải phục tùng
Hỏa Linh nhập Mệnh tại nhàn cung
Tây Bắc sinh nhân chẳng muốn phùng
Của cải không bền do phá tán
Nếu mà bệnh tật, miễn tai hung).
Hỏa Linh nhị tinh nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Hỏa Linh chi tinh nhập mệnh lai,
Tham Lang tương hội đắc hòa hài,
Tam phương vô sát chư bàn mỹ,
Tọa thủ hương khuê đắc toại hoài.
Hỏa Linh nhị diệu tối nan đương,
Nữ mệnh phùng chi tất hình thương,
Nhược ngộ tam phương gia sát tấu,
Tu phòng mục hạ nhập tuyền hương.
(Linh Hỏa nhị tinh nhập Mệnh ai
Tham Lang tương hội được hòa hài
Tam phương cát củng vô sát chiếu
Lộng lẫy phòng khuê đắc ý hoài.
Hỏa Linh ác diệu khó mà đương
Nữ mệnh hãm cung tất hình thương
Nếu gặp sát tinh cùng tấu hợp
Cần phòng sắp tới gặp Diêm Vương).
Hỏa Linh nhị tinh nhập hạn cát hung quyết:
Hỏa Linh nhị tinh sự nhược hà,
Tham Lang tương hội phúc hoàn đa,
Cánh gia cát diệu đa quyền bính,
Phú quý thanh dương xứ xứ ca.
Hỏa Linh hạn hãm huyết nùng xâm,
Thất thoát tầm thường bất khả tầm,
Khẩu thiệt quan tai ứng bất miễn,
Tu phòng vô vọng họa lai lâm.
(Hỏa Linh nhập hạn sự ra sao
Nếu gặp Tham Lang phúc dồi dào
Thêm được cát tinh quyền bính lớn
Khắp nơi ca tụng phú quý cao.
Hỏa Linh hạn hãm đẫm máu tanh
Sự rất nghiêm trọng lại chẳng lành
Khẩu thiệt, quan tai, không thể miễn
Phải phòng vô vọng họa tới nhanh).
* Địa Kiếp thuộc Hỏa, là thần của giết chóc và cướp bóc (kiếp sát chi thần). Tính ác, tác sự sơ cuồng, động tĩnh tăng ác, không tuân theo chính đạo, là sự việc tà dị quỷ quái, có cát tinh thì họa giảm nhẹ, tam phương tứ chính mà thêm nhiều sát tinh thì luận là yểu thọ.
Nữ mệnh chỉ có thể là thị tỳ, phận thiếp, kỹ xướng ca nhi vậy.
Địa Kiếp nhập mệnh cát hung quyết:
Địa Kiếp tòng lai sinh phát tật,
Mệnh trung tương ngộ đa thu tức,
Nhược ngộ Dương Hỏa tại kỳ trung,
Tân khổ trì gia phòng nội thất.
(Địa Kiếp sinh phùng thường lắm tật
Nỉ non nức nở suốt đời ai
Nếu gặp Hỏa Kình ngay cung Mệnh
Vất vả sớm hôm cáng toàn gia).
Địa Kiếp nhập hạn cát hung quyết:
Kiếp tinh nhị hạn nhược tương phùng,
Vị miễn đương niên hữu họa nguy,
Thái Tuế sát lâm đa tật ách,
Quan Phù tinh ngộ hữu quan phù.
(Kiếp tinh nhị hạn nếu tương phùng
Chẳng thoát trong năm có họa hung
Lưu niên tuế Sát nhiều tật ách
Gặp sao Quan Phù có trát gọi).
* Thiên Không (tức Địa Không trong TV Việt ta) là thần của Không Vong. Tính ác, tác sự hư không, chẳng đi theo chính đạo, thành bại đa đoan, chảng thể tụ tài lộc, triệt thoái tổ nghiệp mà hưởng thụ, thêm Không nhiều thì sự chẳng lành, danh viết “đoạn kiều” (chặt cầu), có nhiều cát tinh thì họa giảm nhẹ, gặp ít sao trong tứ sát thì luận là kẻ bình thường, gặp nhiều (sao trong tứ sát) thì là hạng hạ tiện. Thái Tuế nhị hạn mà gặp, có chính diệu thêm nhiều cát thì còn được bình an. Kinh nói “Hạng Vũ anh hùng hạn đáo Thiên Không nhi táng quốc” (Hạng Võ anh hùng như thế mà hạn đến Thiên Không còn bị mất nước).
Nữ mệnh có Thiên Khôgn độc thủ thì chỉ có thể làm thị tỳ, thứ thiếp, kỹ xướng.
Thiên Không nhập mệnh cát hung quyết:
Mệnh tọa Thiên Không định xuất gia,
Văn Xương Thiên Tướng thực kham khoa,
Nhược phùng tứ sát đồng thân mệnh,
Thụ ấm thừa ân phúc khả giai.
(Mệnh tọa Thiên Không định đạo tăng
Gặp Xương cùng Tướng lộc thêm tăng
Nếu cùng Tứ Sát nơi Thân Mệnh
Thụ ấm thừa ân phúc được đẹp).
Thiên Không nhập hạn cát hung quyết:
Thiên Không nhập hạn phá điền trang,
Thê tử tu phòng hữu tổn thương,
Tài bạch bất duy đa bại thất,
Cánh ưu thọ mệnh nhập tuyền hương.
(Thiên Không nhập hạn phá điền trang
Mất vợ tổn con thật bẽ bàng
Tài sản đã hao còn mất sạch
Thêm lo thọ mệnh xuống suối vàng).
—
Địa Kiếp Thiên Không cùng nhập hạn cát hung quyết:
Cực cư Mão Dậu Kiếp Không lâm,
Vi tăng vi đạo phúc hưng long,
Nhạc hưởng sơn lâm hữu sư hiệu,
Phúc thọ song toàn đáo cổ linh.
Kiếp Không nhị hạn tối quai trương,
Phu Tử tại Trần dã tuyệt lương,
Hạng Vũ anh hùng tằng táng quốc,
Lục Châu phùng thử trụy lâu vong.
(Tử Vi Mão Dậu Kiếp Không xâm
Theo đạo tăng thì phúc được thâm
Vui hưởng núi rừng hiệu sư phụ
Song toàn phúc thọ tới chung thân.
Kiếp Không nhị hạn rất tai ương
Phu Tử ở Trần hết sạch lương
Hạng Võ anh hùng mà mất nước
Lục Châu gặp chúng chết thảm thương).
* Thiên Thương thuộc Thủy, là thần của hư hao. Thủ vào nhị hạn gặp Thái Tuế khỏi cần nói đắc địa hay không, chỉ cần chúng tin cát thì có thể được tốt lành, còn nếu vô chính diệu lại gặp Kình Hỏa Cự Cơ thì tất sẽ chủ tai ương quan tụng, phải mang tang phục, phá tán tài sản, sự ngang trái kéo đến. Khổng Phu Tử bị hết sạch lương thảo là khi hạn đến Thiên Thương.
Thiên Sứ thuộc Thủy, là thần sứ giả truyền báo, chuyên dò xét nguyên do phúc họa của nhân gian. Nếu nhị hạn thái tuế đều lâm vào, có cát tinh thì họa được giảm nhẹ, còn như vô chính diệu lại gặp Cự Cơ Kình Hỏa tức thì tai họa quan tụng, tang vong, gặp sự trái ngang mà phá tán nhà cửa gia đình.
Thiên Thương Thiên Sứ nhập hạn cát hung quyết:
Thiên Hao thủ hạn hiệu Thiên Thương,
Phu Tử tại Trần dã tuyệt lương,
Thiên Sứ hạn lâm nhân cộng kị,
Thạch Sùng hào phú phá gia vong.
(Thiên Hao thủ hạn xưng Thiên Thương
Khổng Tử thôn Trần hết sạch lương
Thiên Sứ hạn lâm người cũng ghét
Thạch Sùng giàu thế cũng ra đường).
* Thiên Mã thuộc Hỏa, cực mừng gặp Lộc Tồn, cực ghét Triệt Lộ Không Vong. Như Mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi gặp ở Dần Thân Tị Hợi có Thiên Mã ở Phu Thê cung được hội thêm cát tinh thì là người phú quý, có thêm sát tinh thì không đẹp, thêm Quyền Lộc chiếu lâm thì tất người nam được làm quan, người nữ được phong tặng.
Thiên Mã nhập hạn cát hung quyết:
Thiên Mã lâm hạn tối vi lương,
Tử Phủ Lộc Tồn ngộ phi thường,
Quan hoạn phùng chi ứng hiển đạt,
Sĩ nhân ngộ thử phó khoa trường.
Thiên Mã thủ hạn bất đắc trụ,
Hựu phạ Kiếp Không lai tương ngộ,
Cánh kiêm Thái Tuế tọa cung trung,
Hạn đáo kỳ nhân tầm tử lộ.
(Thiên Mã nhập hạn rất tốt lành
Lộc Tồn Tử Phủ gặp càng thanh
Quan viên gặp được thì thăng chức
Sĩ tử đi thi được vinh danh.
Thiên Mã thủ hạn chẳng biết chừng
Khi Kiếp Không hội thật khó ưng
Lại thêm Thái Tuế trong cung ấy
Là hạn người ta tới đường cùng).
* Hóa Lộc thuộc Thổ, là thần của phúc đức, thủ Thân Mệnh là được tước vị quan lộc, gặp Khoa Quyền hội ngộ tất sẽ làm tới chức đại thần. Tiểu hạn gặp được chủ hỉ sự thăng quan tiến sĩ, đại hạn mười năm thì vui vẻ tốt lành, ác diệu nhưng Kình Đà Hảo Kị lâm tới xung chiếu cũng không là hại.
Nữ nhân có thêm cát tinh tấu hợp thì làm mệnh phụ phu nhân, nội ngoại đều được uy nghiêm, nhưng có sát tinh tấu hợp thì bình thường.
Hóa Lộc nhập mệnh quyết đoán:
Thập can Hóa Lộc tối vi vinh,
Nam mệnh phùng chi phúc tự thân,
Võ chức đề danh biên tái thượng,
Văn nhân danh dự mãn triều đình.
Lộc chủ Thiên Đồng ngộ Thái Dương,
Thường nhân đại phú túc điền trang,
Tư tài lục súc giai sinh vượng,
Phàm hữu thi vi tận cát tường.
(Mười can Hóa Lộc rất là vinh
Nam mệnh mà phùng phúc tự sinh
Võ chức vang danh ngoài biên tái
Văn nhân danh dự mãn triều đình.
Lộc chủ Thiên Đồng gặp Thái Dương
Thường nhân đại phú đẫy ruộng nương
Gia tài gia súc đều thêm vượng
Phàm càng bố thí càng cát tường).
Hóa Lộc nhập hạn quyết đoán:
Hạn trung nhược ngộ Lộc lai lâm,
Tước vị cao thiên tá thánh minh,
Thường thứ tương phùng đương đại quý,
Tự nhiên súc tích quảng kim ngân.
(Lộc vào trong hạn thực là vinh
Tước vị thăng cao tá Thánh Minh
Thường dân cũng được thêm phú quý
Tự nhiên tích trữ vàng bạc sinh).
Hóa Quyền thuộc Mộc, là thần chấp chưởng phán quyết sinh sát. Thủ nơi Thân Mệnh có Khoa lộc tương nghênh thì tất sẽ xuất tướng nhập tướng, hội Cự Môn Vũ Khúc tất sẽ chuyên quản đại sự, chấp chưởng binh phù, là người cực kỳ cổ quái, đến chỗ nào cũng muốn được người ta kính trọng. Tiểu hạn tương phùng thì không thể không tốt lành, đại hạn mười năm được toại ý, gặp hung tinh cũng không phải tai họa nguy hiểm tánh mạng. Nếu như gặp Kình Đà Hao Sứ Không Kiếp thì nghe nói cũng để lại buồn rầu cực nhọc, bị giáng chức, quan tụng.
Nữ nhân đắc Hóa Quyền thì nội ngoại đều xứng ý.
Tăng đạo có nó được chấp chưởng sơn lâm, có danh hiệu sư phụ, trụ trì, chưởng môn.
Hóa Quyền nhập nam mệnh cát hung quyết:
Quyền tinh tối hỉ cát tinh phù,
Sự nghiệp hiên ngang đảm khí thô,
Cánh trị Cự Môn kiêm Vũ diệu,
Tam biên trấn thủ chưởng binh phù.
(Quyền tinh tối hỉ cát tinh phò
Sự nghiệp hiên ngang có gan to
Thêm gặp Cự Môn cùng Vũ Khúc
Thống lĩnh biên thùy, dân khỏi lo).
Hóa Quyền nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Hóa Quyền cát diệu hỉ tương phùng,
Cánh cát gia lâm y lộc phong,
Phú quý song toàn nhân tính ngạnh,
Đoạt phu quyền bính phúc hưng long.
(Hóa Quyền sao tốt muốn tương phùng
Lại thêm cát chiếu tài lộc hưng
Phú quý song toàn hiềm tính ngạnh
Lấn chồng quyền bính cũng đoạt luôn).
Hóa Quyền nhập hạn cát hung quyết:
Thử tinh chủ hạn hỉ phi thường,
Quan lộc cao thăng tá đế vương,
Tài bạch phong thiêm nghi sáng nghiệp,
Tòng kim gia đạo bảo an khang.
Quyền tinh nhược ngộ Vũ Tham lâm,
Tác sự cầu mưu tận đắc thành,
Sĩ tử danh cao thiêm phúc lộc,
Thứ nhân đắc thử tích kim ngân.
(Hóa Quyền chủ hạn rất phi thường
Quan lộc thăng cao tá đế vương
Tài bạch tốt tươi thêm sáng nghiệp
Tới nay gia đạo được an khương.
Quyền tinh nếu gặp Vũ Tham đồng
Tác sự cầu mưu đắc thành công
Sĩ tử danh cao thêm phúc lộc
Thứ dân vàng bạc cũng chất chồng).
Hóa Khoa thuộc Thủy, là thần của ứng thí trên thượng giới, chủ quản văn thơ nhạc họa. Thủ nơi Thân Mệnh có Quyền Lộc tương phùng thì chủ nhân thông minh hiển đạt, rất mừng gặp được Khôi Việt, tất sẽ đỗ khoa bảng, làm chức cao tột bực. Nếu như gặp ác tinh cũng là văn chương tú sĩ, hoặc làm thày giáo dạy dỗ các anh tài, nhưng ngại gặp Tiệt Lộ Không Vong, Tuần Trung Không Vong, cũng úy kị cả Thiên Không.
Nữ mệnh có Khoa tinh củng chiếu tọa thủ thì làm vợ công hầu khanh tướng, dẫu tứ sát có xung phá vẫn chủ phú quý.
Hóa Khoa nhập nam mệnh cát hung quyết:
Khoa Tinh văn tú tối vi kỳ,
Bao tàng cẩm tú mỹ văn chương,
Nhất dược vũ môn long biến hóa,
Quản giáo thanh đạt dự triêu đường.
Khoa tinh nhập mệnh khởi tầm thường,
Cẩm tú tài hoa triển miếu lang,
Cánh ngộ Khúc Xương Khôi Việt tú,
Long môn nhất dược tính danh dương.
(Hóa Khoa văn tú rất thanh kỳ
Văn chương bay bổng đẹp tứ thi
Vượt vũ môn thành rồng biến hóa
Bảo đảm hiển đạt dự triều đình
Khoa tinh nhập mệnh há tầm thường
Cẩm tú tài toa triển miếu đường
Thêm gặp Khúc Xương Khôi Việt ấy
Long môn một bận tính danh giương).
Hóa Khoa nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Hóa Khoa nữ mệnh thị lương tinh,
Tứ đức kiêm toàn tính cách thanh,
Cánh ngộ cát tinh Quyền Lộc thấu,
Phu vinh tử quý tác phu nhân.
(Hóa Khoa nữ mệnh rất tốt lành
Tứ đức kiêm toàn tính cách thanh
Thêm gặp cát tinh Quyền Lộc hội
Chồng sang con quý bực tài anh).
Hóa Khoa nhập hạn cát hung quyết:
Khoa tinh nhị hạn ngộ Văn Xương,
Sĩ tử phùng chi tính danh hương,
Tăng đạo thứ nhân đa phú quý,
Bách mưu bách toại sự anh dương.
(Khoa tinh nhị hạn gặp Văn Xương
Sĩ tử thơm danh ở miếu đường
Tăng đạo, thứ nhân đều được phúc
Trăm mưu trăm toại được tuyên dương).
Hóa Kị thuộc Thủy, là thần quản nhiều việc. Thủ nơi Thân Mệnh thì một đời không được thuận lợi, chiêu chuốc thị phi, tiểu hạn mà phùng thì một năm ấy không được toại ý, đại hạn mười năm mà gặp thì ăn năn hối hận, chẳng lành. Nhị hạn cùng thái tuế giao hội, quả quyết là long đong vất vả, văn nhân không được bền, võ nhân có quan tai khẩu thiệt nhưng không đáng ngại, người làm kinh doanh buôn bán làm nghề thì tại địa phương không hợp, khó mà đi lên. Nếu như gặp Tử Phủ Xương Khúc Đồng thì được cát lợi, Quyền Lộc mà cùng với Kị đồng cung lại thêm Kình Dương Hỏa Linh Không Kiếp thì vào việc tiến thoái bất nhất, vụt thành vụt bại, trước sau chẳng được lâu bền, chính là người ta vẫn nói “phát bất trụ tài” vậy đó, một đời bôn ba lao khổ hoặc mang bệnh tật nghèo khó, yểu thọ, hoặc theo tăng đạo thì cũng thay đổi mà hoàn tục.
Nhưng mà Thiên Đồng tại Tuất hóa Kị người tuổi Đinh gặp cát lợi.
(QNB chú: Độc giả lưu ý. Chỗ này hơi khó hiểu, có lẽ sách muốn đề cập tới việc “tự hóa theo can cung” vì năm Đinh có tháng Canh Tuất, theo sách này an Thiên Đồng hóa Kị với can Canh. Người tuổi Đinh được cát lợi vì theo can Đinh thì Thiên Đồng hóa Quyền, tại Tuất lại được Cơ Âm ở Dần cát hóa Lộc Khoa củng chiếu, tại Ngọ có Lộc Tồn và Thiên Lương miếu địa củng chiếu. Đây là cách phản vi kỳ. Nhưng điều đặc biệt ở đây, tôi muốn nói đến là phép “tự hóa”, nếu việc này không phải do người đời sau thêm vào thì chứng tỏ từ thời xưa đã sử dụng phép này rồi. Lại giả như chi tiết “tự hóa” này là do người đời sau thêm vào, vậy thì sao có nhiều chi tiết bất hợp lý như “tháng Giêng nhuận” lại không được sửa đi??? Xin độc giả tham khảo và thảo luận thêm vậy).
Cự Môn tại Thìn hóa Kị người tuổi Tân phản chuyển thành tốt đẹp.
(QNB chú: chi tiết này lại không phải “tự hóa” vì cung Thìn là Dương cung mà Cự Môn chỉ hóa Kị duy nhất 1 lần với can Đinh làm Âm can nên không bao giờ xảy ra trường Cự tự hóa Kị ở Thìn cả. Chỉ có thể hiểu là tại Thìn cung Cự Môn đồng độ với Hóa Kị do Văn Xương hóa ra vào năm Tân. Từ đây xét ngược vấn đề bên trên, thì thấy trường hợp ấy không thể hiểu Thiên Đồng đồng cung với Hóa Kị tại cung Tuất được, chỉ có thể hiểu là do phép “tự hóa” mà thôi. Độc giả lưu ý thảo luận thêm vậy).
Nếu Thái Dương tại Dần Mão Thìn Tị Ngọ mà Hóa Kị, và Thái Âm tại Dậu Tuất Hợi Tý hóa Kị, thì luận là phúc. Nếu Nhật Nguyệt mà hãm địa Hóa Kị thì chủ đại hung.
Lại như Liêm Trinh tại Hợi hóa Kị là trường hợp hãm địa hóa Kị vậy, Liêm Trinh thuộc Hỏa mà nhập vào chỗ Thủy, lại gặp người có Bản mệnh Thủy, thì Hóa Kị cũng không là tai hại gì cả.
(QNB chú: để phục vụ việc thảo luận sau này của độc giả về các đoạn văn trên, tôi xin trích lại nguyên văn như sau: 然天同在戌化忌, 丁生人遇吉, 巨門在辰化忌辛生人返佳, 若太陽在寅卯辰巳午化忌, 太陰在酉戌亥子化忌為福論. 若日月陷地化忌, 主大凶. 如廉貞在亥化忌是也, 火入泉鄉, 又逢水命人化忌也不為害. – Nhiên Thiên Đồng tại Tuất hóa Kị, Đinh sinh nhân ngộ cát, Cự Môn tại Thìn hóa Kị Tân sinh nhân phản giai, nhược Thái Dương tại Dần Mão Thìn Tị Ngọ hóa Kị, Thái Âm tại Dậu Tuất Hợi Tý hóa Kị vi phúc luận. Nhược Nhật Nguyệt hãm địa hóa Kị, chủ đại hung. Như Liêm Trinh tại Hợi hóa Kị thị dã, hỏa nhập tuyền hương, hựu phùng thủy mệnh nhân hóa Kị dã bất vi hại.
Xin độc giả nhớ đến 2 câu trong Cốt Tủy phú:
Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối, Đinh nhân hóa cát chủ đại quý.
Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân nhân hóa cát Lộc tranh vanh.).
Hóa Kị nhập nam mệnh cát hung quyết:
Chư tinh Hóa Kị bất nghi phùng,
Cánh hội hung tinh dũ tứ hung,
Nhược đắc cát tinh lai trợ cứu,
Túng nhiên phú quý bất phong long.
Tham Lang Phá quân cư hãm địa,
Ngộ cát Hóa Kị chung bất lợi,
Nam vi gian đạo nữ dâm xướng,
Gia sát chiếu mệnh vô miên thụy.
(Các sao hóa Kị chẳng nên phùng
Thêm gặp hung tinh lại thêm hung
Nếu được cát tinh đến cứu giải
Thoát hiểm nhưng không được ung dung.
Tham Lang Phá Quân cư hãm địa
Gặp cát với Kị trọn bất lợi
Nam là gian đạo, nữ dâm xướng
Thêm sát, trắng đêm chẳng chợp mắt).
Hóa Kị nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nữ mệnh hóa Kị bản phi kỳ,
Cánh ngộ hung tinh thị họa cơ,
Y thực gian tân bần tiện thậm,
Cát tinh thấu hợp giảm tai nguy.
(Nữ nhân hóa Kị vốn không hay
Thêm gặp hung tinh gốc họa này
Cơm áo gian nan nghèo khổ thậm
Cát tinh hội hợp giảm họa ngay).
Hóa Kị nhập hạn cát hung quyết:
Kị tinh nhập miếu phản vi giai,
Túng hữu quan tai diệc bất thương,
Nhất tiến nhất thối danh bất toại,
Cánh kiêm ngộ cát bảo an khang.
Nhị hạn cung trung kiến Kị tinh,
Trí tai vi họa tất gia khuynh,
Vi quan thối chức tao tang lạm,
Tư lại tu phòng cấm trượng hình.
Kị tinh lạc hãm tại nhàn cung,
Ác sát gia lâm tác họa hung,
Tài tán nhân ly đa tật khổ,
Thương quan thối chức hiếu trùng phùng.
Lộc hội Lộc Tồn phú quý,
Quyền hội Cự Vũ anh dương,
Khoa hội Khôi Việt quý hiển,
Kị hội Thân Mệnh chiêu thị phi.
(Kị mà nhập miếu đẹp như thường
Dẫu kiện tụng có, chẳng tổn thương
Có điều tiến thoái danh không toại
Cát tinh gặp được sẽ cát tường.
Trong cung nhị hạn gặp Kị tinh
Gây tai mắc họa khiến gia khuynh
Kẻ quan, mất chức do tham nhũng
Tiểu lại, phải phòng bị trượng hình.
Kị tinh lạc hãm ở nhàn cung
Ác sát thêm vào tác họa hung
Tiền mất, người đi, nhiều tật khổ
Giáng quan, tang chế lại trùng phùng.
Lộc gặp Lộc Tồn nhiều phú quý
Quyền cùng Cự Vũ hiển uy linh
Khoa bên Khôi Việt thêm hiển quý
Kị hội Mệnh Thân chiêu thị phi).
* Tuế Quân thuộc Hỏa, là Lưu Niên Thái Tuế tinh quân, cùng với các hung thần tương ngộ thì đừng nên mưu sự gì cả, rất kị cùng với đại tiểu nhị hạn tương phùng. Nếu gặp đại hạn gặp Tử Phủ Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt các cát tinh phò cứu thì giảm thiểu tai nạn, nhưng phòng gia cầm gia súc thất lạc chết chóc. Nếu gặp Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Thương Sứ thì tiền tài bị phá tán, người mất.
Nữ mệnh mà gặp thì đề phòng tai ách sản nạn, nếu có nhiều cát tinh thì được cứu khỏi, nếu nhiều ác tinh thì tử vong.
Thái Tuế chi tinh bất khả đương,
Thủ lâm quan hạn yếu thôi tường,
Nhược vô cát diệu lai tương trợ,
Vị miễn quan tai nháo nhất trường.
(Thái Tuế là sao bất khả đương
Thủ lâm phải xét thật tận tường
Nếu không cát diệu vào tương trợ
Khó tránh quan tai chốn công đường).
* Đẩu Quân là sao quản lý sự vụ ngày mồng Một tháng Giêng, gặp cát tinh thì đoán là cát, gặp hung tinh thì đoán là hung. Giả như Thái Tuế nhị hạn đều tốt đẹp, nhưng Đẩu Quân ngày 1 tháng Giêng ở tại cung nào đó mà gặp hung sát tinh thì vẫn chủ năm ấy có được có mất, có tai nạn bệnh tật, quan tụng thị phi, cứ phỏng theo y như nguyệt hạn mà đoán.
4.2 Huynh đệ cung
* Có sao Tử Vi thì được trông cậy vào anh chị em như một chỗ dựa; cùng Thiên Phủ đồng cung thì có 3 người anh chị em; cùng Thiên Tướng đồng cung thì có 3, 4 người; cùng với Phá Quân thì cũng có 3 người hoặc là có anh em dị bào; thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì anh em khắc hại, ít hòa thuận.
* Thiên Cơ miếu vượng thì có 2 người (anh chị em), cùng Cự Môn đồng cung thì cũng có 2 người; nếu mà hãm địa thì anh em quay lưng lại với nhau và không đồng tâm hiệp lực; cùng với Thiên Lương đồng cung thì có 2 người; với Thái Âm đồng cung thì có 2, 3 người; nếu thấy Kình Đà Linh Hỏa thì tuy có nhưng mà anh em khắc hại.
* Thái Dương miếu vượng có 3 người; cùng với Cự Môn đồng cung thì nếu không có sát tinh thì có 3 người; với Thái Âm đồng cung thì có 5 người; nếu hãm địa thì không hòa thuận không đồng tâm hiệp lực, thêm Kình Đà Linh Hỏa kiếp Không thì giảm đi 1 nửa số người (anh chị em).
* Vũ Khúc miếu vượng có 2 người, không hợp với nhau, nếu Vũ Khúc hãm cung có thêm sát tinh thì chỉ có 1 người; cùng Thiên Tướng đồng cung thì có 2 người; với Phá Quân Thất Sát đồng cung thì chỉ có 1 người, không được hòa thuận; thêm Xương Khúc Tả Hữu thì có 3 người; thấy Kình Đà Hỏa Linh Không kiếp thì cô đơn (QNB chú: cô đơn ở đây là ý nói chính đương số là con độc nhất hoặc có anh chị em cũng như không).
* Thiên Đồng nhập miếu có 4, 5 người; cùng với Thiên Lương thì có 2, 3 người; cùng với Cự Môn mà không thấy sát tinh thì có 3 người; cùng với Thái Âm thì có 4, 5 người; nếu (Thiên Đồng) hãm địa chỉ có 2 người; thấy Kinh Đà Linh Hỏa Không Kiếp Kị thì ít hòa thuận, ở xa nhau, không hợp.
* Liêm Trinh nhập miếu thì có 2 người; cùng Tham Lang đồng cung thì chiêu chuốc oán thán, cùng Thiên Tướng đồng cung thì có 2 người; cùng Thất Sát đồng cung thì có 1 người; cùng Thiên Phủ đồng cung thêm tả Hữu Xương Khúc thì có 3 người; thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì xung khắc và bất hòa. Huynh đệ mà có tình cảm hòa thuận với nhau thì lại không có nhiều (về số lượng người).
* Thiên Phủ có 5 người, với Tử Vi cùng thêm Tả Hữu Xương Khúc có 6,7 người; cùng Liêm Trinh thì có 3 người; thấy Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì chỉ có 2 người.
* Thái Âm nhập miếu thì có 5 người anh chị em; cùng Thái Dương đồng cung cũng có 5, 6 người; cùng Thiên Cơ đồng cung thì có 2 người; với Khoa QUyền đồng cung thì có 4, 5 người; thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì giảm đi 1 nửa, lại không hợp, không sống cùng nhau, quay lưng lại với nhau.
* Tham Lang miếu vượng có 2 người; hãm địa thì có dị bào; vơi Liêm Trình đồng cung thì anh em bất hòa; với Tử Vi đồng cung thì có 3 người; thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì cô đơn.
* Thiên Tướng hòa bình thì có 2, 3 người; thấy sát tinh mà không có Tử Vi đồng cung thì có 3, 4 người; với Vũ Khúc đồng cung thì có 2 người; với Liêm Trinh đồng cung thì có 2 người, thấy Kình Đà Hảo Linh Không Kiếp thì cô đơn.
* Thiên Lương miếu vượng có 2 người và hòa thuận; có thể có nhiều nhưng không cùng cha/mẹ lại bất hòa; hãm cung thì hoàn toàn không có anh chị em; cùng Thiên Đồng thì có 3 người, cùng Thiên Cơ thì có 2 người; thấy Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì ít đi.
* Thất sát chủ cô khắc, tại Tý Ngọ Dần Thân cung thì có 3 người nhưng cũng bất hòa; thêm Xương Khúc Tả Hữu thì thêm tốt đẹp.
* Phá Quân nhập miếu có 3 người; hãm địa thêm sát tinh thì cô đơn; cùng Vũ Khúc thì có 2 người; cùng Tử Vi thì có 2 người; cùng Liêm Trinh thì chỉ có 1 người; thêm Xương khúc Tả Hữu có 3 người và hòa thuận, thấy Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì cô đơn.
* Văn Xương văn KHúc ở khắp các cung đều có 3 người. Thấy Kình Đà Hỏa Linh thì nếu miếu vượng sẽ không khắc, nếu hãm cung thì cô đơn, thêm Không Kiếp thì hoàn toàn không có anh chị em.
* Tả Phụ có 3 người, cùng Thiên Đồng Văn Xương Văn Khúc thì có 4, 5 người; thêm Kình Đà Hỏa Linh thì có 2 người; có Không Kiếp thì ít hòa thuận, ít trợ giúp.
* Hữu Bật có 3 người, cùng Phủ Tướng Tử Vi Xương Khúc thì có 4, 5 người; thêm Kình Đà Linh Hỏa thì có 2 người, có Không Kiếp thì ít hòa thuận, ít trợ giúp.
* Lộc Tồn tương sinh (có lẽ muốn so với bản mệnh) thì có anh em (sách không nói là có mấy người), mà thấy sát tinh thì (anh em) khắc hại, chiêu chuốc oán giận với nhau.
* Kình Đà khắc hại nhập miếu thì chỉ có 1 người, có nhiều cát tinh thì có 2, 3 người; hãm địa thì không có anh em.
* Hỏa Tinh nhập miếu gặp cát tinh thì có 1, 2 người, thêm Liêm sát Phá Linh thì cô khắc.
* Linh Tinh nhập miếu tương sinh có huynh đệ (không nói có mấy người), thêm Kình Đà Hỏa Không Kiếp thì không có anh chị em.
* Đẩu Quân gặp tại Huynh đệ cung, có cát tinh thì anh em cả năm hòa thuận, nếu gặp hung sát tinh thì hình phạt hại nhau, nếu không thấy hình hại nhau thì cũng chủ anh em có tranh chấp.
44.3 Phu Thê cung
* Có Tử Vi ở Phu Thê cung thì kết hôn muộn, hòa hợp tới già, người phối ngẫu có cá tính mạnh mẽ. Cùng với Thiên Phủ thì cũng hòa hợp tới già. Cùng với Thiên Tướng thì người phối ngẫu còn trẻ. Cùng với Phá Quân thì hình khắc, thêm Kình Đà Linh Hỏa thêm hình khắc. Cùng với Tham Lang có cát tinh thì tránh được hình khắc.
* Có Thiên Cơ thì hợp kết phối lúc trẻ tuổi, vợ chồng tính cường cường, vợ chồng có thể là con trưởng hoặc lớn tuổi hơn. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì chủ sinh ly, nếu kết hôn muộn thì cát lợi. Cùng với Thiên Lương thì hòa hợp, vợ chồng có thể là trưởng hoặc lớn tuổi hơn. Cùng với Thái Âm thì có vợ nhan sắc đẹp, trợ giúp việc trong nhà.
* Thái Dương miếu vượng thì kết hôn chậm sẽ cát lợi, lấy sớm thì khắc nhau, nhờ vợ mà được hiển quý. Cùng với Thiên Lương đồng cung có thêm Tả Hữu thì lấy được vợ hiền mà thông minh khéo léo. Cùng với Thái Âm thì được vợ trợ giúp quán xuyến việc trong nhà. Cùng với Cự Môn mà không có Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì cũng không bị khắc, nhưng nếu có tứ sát thì định là khắc, gặp Hao tinh thì kết hôn mà chẳng có nghi lễ gì cả.
* Vũ Khúc ở cung Thê thì khắc và lạnh nhạt nên hợp với kết hôn muộn, vợ chồng bằng tuổi cũng hòa hợp, thêm cát tinh thì nhờ vợ mà được tài lộc, thêm hung tinh thì vì vợ mà “khứ sản” (QNB chú: “khứ sản – 去 產” trong đó có chữ “sản” đa nghĩa, nhưng theo tôi thì nên hiểu là vì vợ mà mất tài sản, mất gia sản của cải,… do Vũ Khúc là tài tinh gặp hung sát tinh thì hợp cái lý ấy. Nhưng chữ “sản” ấy còn có nghĩa là sinh sản, khả năng sinh đẻ,…). Cùng với Tham Lang thì hơi muộn kết hôn nhưng không bị hình khắc. Cùng Thất Sát thì khắc 2, 3 đời vợ, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì càng thêm khắc.
* Thiên Đồng cung Thê, chậm kết hôn thì hòa hợp đến già, chồng là con trưởng hoặc lớn tuổi hơn, vợ là con thứ hoặc ít tuổi hơn. Thêm tứ sát thì ít hòa hợp, sinh ly (sống trong xa cách). Cùng Cự Môn có thêm tứ sát cũng khắc. Cùng Thái Âm thì giúp đỡ cho nhau và dung mạo đẹp. Cùng với Thiên Lương thì cực kỳ đẹp đẽ, xứng đôi.
* Liêm Trinh thì 3 lần làm tân lang, chính là cùng với Tham Lang đồng cung thì càng khắc, với Thất Sát đồng thì cũng hình, ít hòa hợp. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì chủ sinh ly. Cùng với Thiên Phủ đồng cung thì hòa hợp đến già, cá tính người hôn phối mạnh mẽ.
* Thái Âm nhập miếu ở Phu thê cung là nam nữ đều được vợ chồng vùa đẹp vừa quý, có thêm Xương Khúc là cực đẹp. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không Hao Kị thì không khắc cũng chủ sinh ly. Với Thái Dương đồng cung thì hòa hợp đến già. Cùng Thiên Đồng thì tương trợ giúp đỡ việc trong nhà. Cùng Thiên Cơ thì người hôn phối vừa trẻ vừa đẹp.
* Tham Lang nhập Phu Thê cung cả nam nữ đều không được đẹp, 3 lần làm tân lang, nếu nhập miếu thì hợp kết hôn muộn, gặp Liêm Trinh thì chủ hình khắc, thêm Kình Đà Linh Hỏa thì chủ sinh ly. Cùng với Tử Vi thì người hôn phối nhiều tuổi hơn và được lâu dài.
* Cự Môn hợp kết phối với người hơn tuổi hoặc con trưởng, định là ít hòa hợp và có hình khắc. Cùng với Thái Dương mà không gặp tứ sát thì được hòa hợp đến già. Cùng với Thiên Cơ là người kết phối có trợ giúp lại vừa đẹp. Cùng với Thiên Đồng là vợ vừa là con đầu, vừa là người tinh thông sáng suốt. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì định là khắc hại 2 vợ hoặc chủ sinh ly.
* Thiên Tướng cung Phu Thê là người hôn phối có tướng mạo hiện thục, nhiều tuổi hơn hoặc là con trưởng, nhờ quen biết với người lớn trong nhà mà dẫn tới chuyện thành thân. Cùng với Tử Vi thì được hòa hợp tới già. Cùng với Vũ Khúc thì ít hòa hợp. Cùng với Liêm Trinh mà nhập miếu thì không bị hình khắc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì sẽ hình khắc.
* Thiên Lương ở cung Phu Thê là có vợ tuyệt đẹp. Cùng với Thiên Đồng là có nhiều hòa khí. Cùng với Thiên Cơ thì nạp được vợ hiền thục đẹp xinh. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì không hòa thuận.
* Thất Sát ở cung Phu Thê mà kết hôn sớm thì chắc chắn khắc. Có Vũ Khúc cùng thì cũng khắc. Kết hôn muộn thì miễn được hình khắc. Cùng với Liêm Trinh thì chủ sinh ly. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì khắc tới 3 vợ.
* Phá Quân ở cung Phu Thê thì nam nữ đều khắc và bị chia cách. Cùng với Vũ Khúc thì khắc tới 3 vợ. Cùng với Liêm Trinh cũng khắc và ít hòa hợp. Cùng với Tử Vi thì chủ người hôn phối là trưởng hoặc nhiều tuổi hơn.
* Văn Xương ở cung Phu Thê là có vợ trẻ, thông minh, trợ giúp bên trong. Cùng Thiên Cơ Thái Âm là chủ nhan sắc rất đẹp, không hợp với hãm địa. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì rất kị.
* Văn Khúc tương sinh hội Thái Âm và các cát tinh thì vợ chồng hòa hợp tới già. Cùng với Thiên Đồng Văn Xương là lắm thê thiếp. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Hóa Kị thì có hình khắc.
* Lộc Tồn tương sinh thì không khắc. Kết hôn muộn, vợ là người trẻ tuổi cũng là con cả. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp lại thấy Triệt Lộ Không Vong thì cô đơn.
* Tả Phụ Hữu bật chủ hòa hợp tới già, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Tham Liêm thì hợp với vợ là người hơn tuổi hoặc là con trưởng, tính khí cương cường.
* Kình Đà nhập miếu thêm cát tinh, kết hôn muộn sẽ tránh được hình khắc mà có thể hòa thuận mãi. Hãm địa thì lại kết hôn sớm thì khắc. Thêm Nhật Nguyệt Cự Cơ Hỏa Linh Vũ Sát thì chủ sinh ly.
* Hỏa Tinh Linh Tinh nhập miếu thêm cát tinh thì không bị hình, hãm địa thì bị hình khắc.
* Thiên Khôi Thiên Việt thường chủ vợ chồng đều đẹp, tọa ở Thê cung tất chủ được vợ giàu, thêm cát tinh thì chủ vừa đẹp vừa qúy cả vợ lẫn chồng.
* Đẩu Quân đến tại Thê cung gặp cát tinh thì thê thiếp đẹp mà không có tai nạn hình khắc. Gặp ác tinh thì thê thiếp có tai ách. Lại xem bản mệnh với thê cung, nếu khắc thì chính là chủ năm ấy thê thiếp có hình thương, nếu không khắc thì có thể đoán năm ấy có tai ương
44.4 Tử Tức cung
Phàm khán Tử Tức cung, trước tiên xem bản cung tinh tú chủ có mấy con. Nếu thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không Sát Kị thì chủ sinh con ra mà có hình khắc. Sau đó xem ở đối cung có xung Hình hay không. Nếu như bản cung vô chính diệu thì chuyên khán ở đối cung có sao nào làm chủ mà xem có mấy con. Nếu là thiện tinh quý tinh thủ Tử Tức cung tất chủ người này sinh con được phồn thịnh tươi tốt và qúy hiển. Nếu có ác tinh lại cùng Hình Sát thủ cung Tử Tức thì nếu không hình khắc thì chắc chắn chủ sinh con phá gia chi tử, ngang ngược. Lại xem ở tam phương tứ chính có Nam đẩu tinh nhiều thì đoán sinh con trai, có Bắc đẩu tinh nhiều thì đoán là chủ sinh con gái. Nếu như Thái Dương mà ở tại dương cung thì chủ sinh nam đầu lòng. Nếu Thái Âm ở tại âm cung thì đoán sinh con gái trước. Chuyên khán các sao Hình Sát thủ bản cung mà không có chế hóa thì tất nhiên tuyệt tự. Người sinh ban ngày ghét Thái Âm lâm tới, kẻ sinh ban đêm thì chẳng ưa Thái Dương chiếu vào. Các sao ấy mà rơi vào cung Tử Tức thì e là khó có con.
* Tử Vi miếu vượng thì có 3 trai 2 gái, thêm Tả Hữu Xương Khúc thì có 5 người, thêm Kình Đà Linh Hảo Không Kiếp thì chỉ có 1 đôi mà thôi nếu không thì đẻ nhiều mà nuôi ít, hoặc là phải có con cầu tự mới được lâu bền. Cùng với Phá Quân thì có 3 người con. Cùng Thiên Phủ thêm cát tinh thì có 4, 5 người con, thêm Xương Khúc là có quý tử. Nếu Tử Vi độc thủ lại có thêm Không Kiếp thì là cô quân (có lẽ muốn nói không có con hoặc có cũng như không).
* Thiên Cơ miếu vượng thì có 2 con, hoặc vợ lẽ thứ thiếp sẽ sinh nhiều con. Cùng Cự Môn thì chỉ có 1 con. Cùng Thiên Lương tại Dần thì có 2, 3 con; tại Thân cung thì nữ nhiều mà nam ít, chỉ có thể có 1 con trai mà thôi (QNB chú: Thiên Cơ làm sao cùng với Thiên Lương ở Dần Thân cung cho được. Độc giả lưu ý). Cùng với Thái Âm thì có 2, 3 con. Nếu thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì hoàn toàn không có con.
* Thái Dương nhập miếu thì có 3 trai 2 gái, về cuối lại sinh được quý tử. Cùng với Cự Môn thì có 3 người con. Cùng Thái Âm thì có 5 người. Hãm địa có 3 con nhưng chẳng thành đạt. lại Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì chỉ có 1 con đưa tiễn lúc lâm chung.
* Vũ Khúc chủ 1 con hoặc sinh nhiều mà trưởng thành được ít. Cùng Phá Quân thì chủ hình, có có 1 con. Thêm Kình Đà Linh hảo thì tuyệt tự. Cùng với Tham lang thì tới già có 2 con. Cùng với Thiên Tướng thì trước có con ở bên ngoài, sau sinh được 1 con. Cùng với Thất Sát thì chủ cô đơn hoặc có con thương tàn.
* Thiên Đồng miếu vượng có 5 con trong đó có quý tử. Cùng Cự Môn thì có 3 con. Cùng Thái Âm thì có 5 con, tại Ngọ cung hãm địa thì giảm đi 1 nửa. Cùng Thiên Lương thì trước sinh nữ sau sinh nam có 2 con, thủ tại Thân cung thì chỉ có thể có 1 con đưa tiễn tống chung, tại Dần cung thêm cát tinh thì có 3 con. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì hình khắc, con cái mất hoặc ít lúc tống chung.
* Liêm Trinh chủ có 1 con. Cùng với Thiên Phủ thì có quý tử 3 con. Nếu cùng Thất Sát Phá Quân thì chủ cô đơn. Lại thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì không có con. Cùng với Thiên Tướng thì có 2 con.
* Thiên Phủ chủ 5 con. Cùng với Vũ Khúc thì có 2 con. Cùng với Tử Vi thì có 4, 5 con. Cùng với Liêm Trinh thì có 3 con. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì có 3 con.
* Thái Âm có 3 gái 2 trai, trước sinh gái sâu mới sinh trai. Miếu vượng thì có quý tử, hãm địa thì số con giảm đi 1 nửa, có con bệnh tật yếu đuối hoặc là hư hoa chẳng thành khí. Cùng với Thái Dương thì có 5 con. Cùng với Thiên Cơ thì có 2 con. Cùng với Thiên Đồng thì có 5 con, miếu địa thì không khắc, nếu hãm cung thì có khắc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì mất con hoặc ít con đi.
* Tham Lang miếu vượng có 2 con, sinh sớm là có hình khắc. Cùng với Tử Vi thì có 2 con. Cùng với Liêm Trinh là mất con hoặc ít con đi. Cùng với Vũ Khúc thì có 3 con, trước khó có con, sau lại dễ.
* Cự Môn nhập miếu có 2 con, trước khó sinh sau lại dễ. Cùng với Thái Dương thì có 1, 2 con dễ nuôi. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì con ít hoặc mất. Cùng với Thiên Cơ thì có 1 con, có cát tinh thì có 2 con, thêm Không Kiếp thì không có con.
* Thiên Tướng không gặp Kình Đà Linh Hỏa có 2 con thành đạt, có sát tinh thì trước có con cầu tự, sau sinh được 1, 2 con. CÙng với Tử Vi đồng cung với Xương Khúc Tả Hửu thì có 3, 4 người. Cùng với Vũ Khúc thì có 3 người, thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì khắc, có sinh mà không dưỡng.
* Thiên Lương miếu vượng có 2 con, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì sinh sớm sẽ khắc. Cùng với Thiên Đồng và Xương Khúc Tả Hữu thì có 3 con. Cùng với Thiên Cơ thì có 2 con. Thêm Kình Đà Linh Hảo Không Kiếp thì không có con.
* Thất Sát chủ cô, chỉ có 1 con. Cùng Tử Vi và cát tinh đồng cung thì có 3 con, thấy Kình Đà Linh Hảo Không Kiếp thì không có con, dẫu có cũng chẳng thành đạt, tất sẽ ngang ngược phá bại gia cảnh.
* Phá Quân nhập miếu có 3 con, tính khí con cái cương cường. Cùng với Tử Vi đồng cung có 3 con. Cùng Vũ Khúc và Xương Khúc Tả Hữu thì có 3 người. Cùng Liêm Trinh thì có 1 con, thấy Kình Đà tương sinh thì có chế hóa thì còn, nếu không có chế hóa lại thấy Không Kiếp Hỏa Đà thì mất con hoặc rất ít con.
* Tả Phụ đơn thủ thì có 3 trai 1 gái, thấy Tử Vi Thiên Phủ cùng chư cát tinh thì chủ quý tử, thấy Sát Phá Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì chỉ có 2 con, nhưng không thành đạt.
* Hữu Bật chủ 3 con, thêm cát tinh thì có quý tử. Thấy Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì giảm đi 1 nửa.
* Văn Xương chủ 3 con, thêm cát tinh thì thêm nhiều, có Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì chỉ có thể có 1 con.
* Văn Khúc miếu vượng có 4 con, hãm địa chỉ có 2, 3 con. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì con mất hoặc ít con.
* Lộc Tồn chủ cô, hợp với vợ lẽ sinh được 1 hoặc có con nuôi, thêm cát tinh thì có 1 con, thêm Hỏa Linh và các sát tinh thì cô đơn hình khắc.
* Kình Đà hãm cung cô đơn, thêm cát tinh cư miếu vượng thì có 1 con, như đối cung có cát tinh nhiều mà không bị xung sát cũng có 3, 4 con. Thấy Hao Sát Kị tại bản cung thì tuyệt tự.
* Hỏa Tinh gặp cát tinh đồng cung thì không cô đơn, hãm cung có sát tinh thì chủ có có bị hình thương.
* Linh Tinh độc thủ thì cô đơn, thêm cát tinh và nhập miếu thì có thể hy vọng ở vợ lẽ, xem đối cung mà có nhiều cát tinh thì có 2, 3 con.
* Khôi Việt đơn thủ chủ có con quý tử.
* Đẩu Quân đi qua tại Tử Tức cung, gặp cát tinh thì con cái được thịnh vượng tươi tốt, gặp hung tinh thì có hính khắc hoặc con phá gia chi tử.
44.5 Tài Bạch cung
* Có Tử Vi thì được tiền đầy rương, thóc đầy bồ, thêm tứ sát Kiếp Không thì không được vượng. Cùng với Phá Quân thì trước khó nhưng sau được dễ dàng no ấm. Cùng Thiên Tướng đồng cung thì tài bạch súc tích. Cùng Thiên Phủ đồng cung thì giàu có, cả đời giữ được của cải, thêm Tả Hữu là làm quan quản lý tiền tài ngân khố. Cùng với Thất Sát mà có thêm cát tinh thì tài bạch thế nào cũng có lúc hoạnh phát.
* Có Thiên Cơ thì lao tâm phí lực mà kiếm tiền tài. Cùng với Cự Môn đồng cung thì phải bận rộn sôi động trong lúc đang mưu cầu tài lộc. Cùng Thiên Lương thì khéo léo biến chuyển có mưu kế mà tạo ra tiền bạc ở bên ngoài. Cùng với Thái Âm cùng hãm thì thành rồi bại, thêm Tứ Sát Kiếp Không thì một đời luôn luôn có thành có bại.
* Thái Dương nhập miếu được tươi tốt đầy đủ, hãm cung thì gian lao vất vả mà khó được toại lòng. Cùng với Thái Âm có thêm Tả Hữu và cát tinh thì phát tài không hề nhỏ. Cùng với Lộc Tồn thì mải miết kiếm tiền mà thành đại phú. Cùng với Cự Môn thì lúc trẻ có thành bại nhưng đến trung niên thì được sung túc đầy đủ dư giả.
* Có Vũ Khúc thù giàu có, hóa cát thì giàu vô cùng tận, không có cát tinh thì bận rộn sôi động để tăng tiến được tiền tài. Cùng với Phá Quân đồng cung thì qua đông tới tây, trước không có về sau lại có nhiều. Cùng với Thiên Tướng đồng cung thì tài bạch tươi tốt tràn đầy, gặp quý thì sinh sôi tài lộc thành phú gia. Cùng với Thất Sát thì từ tay trắng mà sinh sôi tiền tài dựng thành nghiệp. Cùng với Tham Lang thì sau 30 tuổi sẽ phát tài. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì tiền tại không tụ được. Cũng rất e ngại Không Vong.
* Có Thiên Đồng thì từ tay trắng kiếm tiền đến lúc về già thì phát tài. Cùng Cự Môn thì tài khí lúc đầy lúc vơi. Cùng cới Thiên Lương thì tiền tài được đại vượng. Thêm Tứ Sát Kiếp Không thì có thể là giới cửu lưu kiếm tiền mà dựng nghiệp.
* Liêm Trinh tại Dần Thân cung thì bận rộn kiến tiền, hãm cung thì trước khó sau lại dễ, với Tham Lang thì có vụt phát vụt phá, thấy Kình Hỏa thì trọn đời có sự hoạnh tiến về tiền bạc. Cùng với Thất Sát đồng cung thì bận rộn kiếm tiền. Cùng với Thiên Tướng đồng cung thì giàu có đầy đủ. Nếu như gặp phải Hao Sát Kiếp Không thì thường ở trong quan phủ mà phá tán tiền tài.
* Có Thiên Phủ thì giàu có đầy đủ, thấy Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì có thành có bại. Với Tử Vi đồng cung thì tích trữ được rất nhiều. Cùng với Liêm Trinh Vũ Khúc thêm Quyền Lộc thì là phú ông giàu vô cùng.
* Thái Âm nhập miếu thì tiền đầy rương, thóc đầy kho, hãm cung thì có thành có bại mà tài khí không được tụ. Cùng với Thái Dương thì trước ít sau lại được nhiều. Cùng với Thiên Cơ thì từ tay trắng lập nghiệp. Cùng với Thiên Đồng thì giàu có. Cùng với Lộc Tồn và Tả Hữu thì chủ rất giàu có.
* Tham Lang miếu vượng có lúc bộc phát, hãm địa thì bần cùng. Với Tử Vi thì thành đạt, thêm con cháu thì thêm giàu có. Thấy Hỏa Tinh thì trước ba mươi tuổi có thành có bại, sau 30 tuổi thì bộc phát.
* Cự Môn ở cung Tài Bạch là tay trắng kiếm tiền thành nghiệp, thường bận rộn náo nhiệt, là người chí khí cao nhưng cũng dễ hoạnh phá. Cùng với Thái Dương đồng cung nhập miếu thì lập kế tiến cử mà thành nghiệp. Cùng với Thiên Cơ thì tài khí sinh, công việc không chuyên nhất. Cùng với Thiên Đồng thì tay trắng thành nghiệp, người thuộc giới cửu lưu được cát. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì phá tài đa đoan.
* Thiên Tướng chủ giàu có. Cùng Tử Vi thì tài khí bộc phát. Cùng Vũ Khúc mà có thêm tứ sát thì theo trăm nghề kỹ công mà kiếm tiền. Cùng với Liêm Trinh thì buôn bán có tiền. Thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hao Kị thì có thành có bại, không tích tụ được.
* Thiên Lương chủ giàu có khi nhập miếu vượng là thượng đẳng phú quý, hãm cung thì phải chăm chỉ cầu tài mà qua ngày. Cùng Thiên Đồng thì từ tay trắng kiếm tiền vượt cả tổ tông. Cùng với Thiên Cơ thì vất vả tâm trí và sức lực rồi phát tài lớn, hay thay đổi chủ kiến lập nghiệp. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì trước khó sau lại dễ, khá giả.
* (QNB chú: Thiếu phần của Thất Sát).
* Phá Quân tại Tý Ngọ thì có nhiều vàng bạc bảo bối tích trữ. Tại Thìn Tuất vượng cung thì tiền tài cũng thịnh. Hãm cung thì phá tán tiền của tổ tông. Cùng Vũ Khúc thì qua Đông tới Tây mà kiếm tiền. Cùng Tử Vi thì trước mất mà sau lại sinh sôi ra. Cùng Liêm Trinh thì lao khổ mà kiếm tiền, trước khó thành toại. Thêm Kiếp Không thì cực nghèo.
* Văn Xương giàu có, dư thừa, thêm cát tinh thì tài khí vượng. Cùng với Cự Môn thì giàu. Hãm địa mà gặp Đà Hỏa Linh Không thì là thuộc giới hàn nho.
* Văn Khúc nhập miếu giàu có, thêm cát tinh được quý. Thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp gia Kị thì ngược xuôi có thành bại mà chẳng được toại ý.
* Tả Hữu ở các cung đều giàu có đầy đủ, hội các cát tinh thì được quý. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Hao Kị thì chủ thành bại mà chẳng tụ tài.
* Lộc Tồn chủ giàu có vô cùng, bạc vàng chồng chất, thêm cát tinh thì ngồi chơi cũng có tiền, thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không Hao Kị thì trước chẳng có gì, sau mới có.
* Kình Dương ở Thìn Tuất Sửu Mùi thì bận rộn náo nhiệt kiếm tiền, hãm địa thì phá tổ nghiệp, chẳng tụ được tài, không phát đạt được, chỉ làm nghề đánh cá, làm muối,.. mà kiếm tiền.
* Đà La bận rộn kiếm tiền, hãm cung phải chăm chỉ cầu tài mà qua ngày, thêm Kiếp Không thì xuôi ngược qua đông tới tây.
* Linh Tinh nhập miếu độc thủ thì hoạnh phát, hãm địa thì nghèo khổ, cay đắng qua ngày.
* Hỏa Tinh độc thủ thì có hoạnh phát, hãm cung phải cần cù chăm chỉ, thêm cát tinh thì nhiều tài lộc, được toại chí,
* Khôi Việt chủ thanh cao, trung niên sinh tài, một đời được toại ý.
* Đẩu Quân gặp cát thì kỳ tháng ấy được phát tài. Gặp hung ác tinh Hao Kị tinh thì tháng ấy tốn tiền, chiêu khẩu thị phi kiện tụng, mất tiền mới thoát.
44.6 Tật Ách cung
Trước khán Mệnh cung xem tinh diệu có lạc hãm, có thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Hóa Kị thủ chiếu như thế nào, lại khán Tật Ách cung tinh diệu thiện ác miếu vượng lạc hãm ra sao.
* Tử Vi ít tai nạn, cùng Thiên Phủ càng ít, cùng Thiên Tướng thì lao khổ từ trứng nước, như thêm Phá Quân thì khí huyết không điều hòa, cùng với Kình Linh thì chủ có ám tật, thêm Không Kiếp thì chủ tai họa, ốm đau, bệnh tim mạch, tâm khí tật.
* Thiên Cơ từ lúc còn trong nôi có lắm tai vạ, hãm địa thì trên đầu trên mặt có phá tướng, cùng với Cự Môn thì có bệnh tật khí huyết, cùng với Thiên Lương thì có tật ở hạ bộ, cùng với Thái Âm thì có tai vạ, bệnh mụn nhọt, bị thương do bị đâm, thêm Kình Đà Linh Hỏa hãm cung thì bị tật ở mắt, tứ chi yếu ớt vô lực.
* Thái Dương chủ “đầu phong” (bệnh thuộc thần kinh), cùng với Thái Âm mà thêm Hóa Kị Kình Đà thì chủ mắt bị tổn thương, hãm cung cũng chủ mắt có tật mà ít được trong sáng.
* Vũ Khúc có tai truân từ lúc trong nôi, chân tay đầu mặt có tổn thương, cùng với Kình Đà thì cả đời có tai vạ, cùng với Thiên Tướng thì chiêu chuốc ám tật, cùng với Thất Sát thì có bệnh tật khí huyết, cùng với Tham Lang mà miếu vượng thì không có bệnh tật, hãm địa mà thêm tứ sát thì chủ mắt chân tay có tật, có bệnh trĩ, bệnh dị ứng ghẻ ngứa…
* Thiên Đồng nhập miếu thì ít tai nạn, cùng Cự Môn thì có bệnh tim, tâm khí tật, cùng với Thái Âm thêm Kình Hỏa thì có bệnh tật về khí huyết, cùng với Thiên Lương có thêm tứ sát thì có bệnh tim, tâm khí tật.
* Liêm Trinh có tai bệnh mụn nhọt chốc lở từ lúc còn trong nôi, có tật ở chân lưng eo, nhập miếu mà thêm cát tinh thì hòa bình, gặp Tham Lang thì hãm địa có tật ở mắt có nhiều tai nạn, cùng Thất Sát Phá Quân Thiên Phủ thì lại ít tai nạn.
* Thiên Phủ tai nạn ít mà dẫu có thì đều được cứu chữa, cùng với Tử Vi thì càng ít tai nạn, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì có bệnh thuộc hệ thần kinh, cùng Liêm Trinh thêm Không Kiếp thì nửa đường bị thương tàn.
* Thái Âm miếu vượng vô tai họa, hãm địa nhiều tai vạ chủ các chứng bệnh lao lực tổn thương, nữ nhân thì chủ thương tàn nặng, nếu cùng Thái Dương đồng cung có thêm cát diệu thì cả đời ít tai nạn, gặp Kình Đà Linh Hỏa thì mắt có tật, thêm Không Kiếp là có bệnh thuộc hệ thần kinh, cùng với Thiên Đồng có thêm Kình Đà mà hãm cung thì thêm nhiều chứng bệnh, nếu cùng Hỏa Linh thì lắm tai nhiều nạn.
* Cự Môn có tai ách đẫm máu lúc còn niên thiếu, với Thái Dương đồng cung thì có bệnh thần kinh có bệnh ung nhọt, cùng với Thiên Đồng chủ có bệnh viêm nhiễm ghẻ ngứa ở hạ bộ, thêm Kình Dương Hỏa Tinh thì nghiện rượu, thêm Hóa Kị thì có bệnh tật ở tai và mắt.
* Thiên Tướng có ít tai nạn, da mặt vàng, có bệnh thũng huyết (phù nề, ung nhọt, máu mủ, khí huyết ứ trệ), cùng với Tử Vi thì ít tai nạn, cùng với Vũ Khúc có thêm tứ sát thì có phá tướng, cùng với Liêm Trinh thêm Không Kiếp thì chân tay có tổn thương.
* Thất Sát chủ lắm tai nhiều nạn từ thuở thơ ấu, thường chủ bệnh trĩ, cùng với Vũ Khúc thêm tứ sát thì chân tay có tổn thương tàn tật, cùng với Liêm Trinh thì chủ mắt có tật, thêm Kình Dương thì tứ chi thêm có tổn thương tàn tật.
* Phá Quân chủ thơ ấu có bệnh mụn nhọt, tổn thương, ghẻ lở, bệnh hủi, hói, gầy yếu xanh xao vàng vọt, cùng với Vũ Khúc thì chủ mắt có tật, cùng với Tử Vi thì giảm tai nạn, cùng với Liêm Trinh thêm Kình Hỏa thì tứ chi có tổn tương tàn tật.
* Văn Xương độc thủ ít tai nạn, thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì lắm tai nhiều nạn, cùng các cát tinh thì cả đời không có tai nạn.
* Văn Khúc ít tai nạn thêm cát tinh thì cả đời không có tai nạn, thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không lại hãm cung thì nhiều tai nạn.
* Tả Hữu độc thủ thì bình hòa, thêm cát tinh thì ít tai nạn, thấy Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì thường xuyên có tai nạn.
* Hữu Bật độc thủ dẫu gặp tai nạn cũng được cứu, thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì lắm tai nhiều nạn.
* Lộc Tồn chủ thiếu niên lắm tai, có cát tinh thì rất ít tai nạn. Thấy Kình Đà Linh Hỏa thì tứ chi tất có thương tàn, thêm Không Kiếp thì nếu có ám tật sẽ thêm thọ.
* Đà La chủ thơ ấu có tai nạn, trên đầu mặt răng môi mà có vết thương thì được thêm thọ.
* Kình Dương chủ có chứng bệnh thuộc hệ thần kinh, hoặc tứ chi yếu ớt chẳng có lực, đầu mặt mà có phá tướng lộ tướng thì thêm thọ, thêm cát tinh thì giảm thiểu tai nạn.
* Đẩu Quân gặp cát tinh thì thân tâm được an bình khang ninh, năm ấy vô tai vô nạn. Gặp hung sát tinh mà bản thân (tuổi, mệnh) có úy kị thì năm ấy lắm tai nạn.
4.7 Thiên Di cung
* Tử Vi cùng Tả Hữu thì ra ngoài được quý nhân phò trợ mà phát phúc. Cùng Thiên Phủ đồng cung thì xuất nhập đều được hanh thông hiển đạt. Cùng với Thiên Tướng thì ở bên ngoài phát tài. Cùng với Phá Quân thì được quý nhân biết đến và yêu mến, kẻ tiểu nhân không được no đủ. Thêm Kình Đà Linh Hảo Không Kiếp thì ở bên ngoài không được bình an, yên tĩnh.
* Thiên Cơ xuất ngoại gặp được quý nhân, ở trong nhà lại có thị phi. Cùng Cự Môn đồng cung thì cứ hành động sẽ được thuận lợi may mắn. Cùng Thiên Lương thì ở bên ngoài được xứng ý toại lòng. Cùng Thái Âm cứ bận bịu lại được may mắn. Thêm Kình Đà Linh Hảo thì tại bên ngoài lắm thị phi, thân không được bình an, yên tĩnh.
* Thái Dương hợp với những hoạt động bên ngoài sẽ phát phúc, không chịu được sự tĩnh thủ. Cùng với Thái Âm thì ra bên ngoài cứ bận bịu lại được may mắn cát lợi. Cùng Cự Môn thì gian lao khổ tâm. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì ở bên ngoài sẽ không được thanh nhàn tấm thân.
* Vũ Khúc chủ luôn bận rộn náo nhiệt, không hợp với sự thủ tĩnh. Cùng Tham Lang thì làm kẻ buôn bán lớn. Cùng Thất Sát Phá Quân thì thân tâm càng không tĩnh thủ được. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì ở bên ngoài chiêu chuốc thị phi.
* Thiên Đồng thì chủ xuất ngoại gặp quý nhân phù trì. Cùng Cự Môn thì lao tâm khổ tứ. Cùng Thái Âm thì hãm địa thì phải chịu đắng cay (khi ra bên ngoài). Cùng Thiên Lương thì được quý nhân biết đến và yêu mến. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì tại ngoại ít được xứng ý toại lòng.
* Liêm Trinh chủ ra bên ngoài được hanh thông hiển đạt kề cận người quý, ở tại gia thì ít. Cùng Tham Lang thì sôi động náo nhiệt ở bên ngoài mà lập nghiệp. Cùng Thất Sát thì giao tiếp rộng mà chiêu được tiền tài. Cùng Thiên Tướng thì ở bên ngoài hễ cứ hành động là được cát lợi. Thêm Kình Đà cùng tam phương có hung sát tinh thì chết ở trên đường.
* Thiên Phủ chủ ra bên ngoài được gặp quý nhân phò trợ. Cùng với Tử Vi thì được phát phúc. Cùng với Liêm Trinh Vũ Khúc thì náo nhiệt kiếm tiền làm người buôn bán lớn.
* Thái Âm nhập miếu ra ngoài sẽ gặp quý nhân mà phát tài, hãm cung thì sẽ chiêu chuốc thị phi. Cùng với Thái Dương thì cực đẹp. Cùng với Thiên Đồng tại nơi miếu vượng thì ở bên ngoài từ tay trắng mà lập được sự nghiệp.
* Tham Lang độc thủ thì ở bên ngoài sẽ vất vả, sôi động náo nhiệt mà kiếm tiền tài. Cùng với Liêm Trinh có thêm tứ sát thì ở bên ngoài gian nan cực khổ. Cùng với Vũ Khúc thì làm nhà buôn lớn. Thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hao Sát lưu niên thì sẽ gặp quân giặc cướp.
* Cự Môn chủ ra bên ngoài mà không được an bình thường phải vất vả, cùng với người ta có lắm điều thị phi, thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì càng thậm tệ.
* Thiên Tướng chủ ra bên ngoài được quý nhân cất nhắc nâng đỡ. Cùng Tử Vi thì có nhiều cát lợi. Cùng Vũ Khúc thì ở bên ngoài phát tài. Cùng Liêm Trinh mà thêm Kình Đà Linh Hỏa thì dễ chiêu chuốc thị phi, tiểu nhân không được no đủ.
* Thiên Lương ra bên ngoài gặp và kề cận quý nhân mà có thành tựu. Cùng Thiên Đồng thì được phúc hậu. Cùng Thiên Cơ thì dễ theo hoạt động nghệ thuật trên đường hành tẩu.
* Thất Sát chủ ở bên ngoài nhiều, ở tại gia ít. Cùng với Vũ Khúc thì hễ hành động lại được cát lợi. Cùng với Liêm Trinh thì ở bên ngoài sinh tiền tài. Cùng với Tử Vi thì ở bên ngoài được nhiều điều toại ý vừa lòng. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì lại nhọc lòng mà chẳng được an bình hoặc là phiêu đãng thiên nhai.
* Phá Quân chủ xuất ngoại thường lao tâm khổ tứ, không được an bình, nếu nhập miếu thì ở ngoài sẽ được ngôi cai chót vót. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì theo nghề khéo léo trên đường hành tẩu. Thêm Xương Khúc Vũ Khúc thì là người thuộc gánh hát rong, phường chèo.
* Văn Xương chủ ra bên ngoài gặp được quý nhân mà phát đạt, tiểu nhân không được no đủ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì ở bên ngoài chẳng được an ninh.
* Văn Khúc chủ ở bên ngoài được kề cận quý nhân, thêm cát tinh thì đắc tài lộc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì ít được xứng ý toại lòng.
* Tả Phụ chủ ở trong hoạt động có quý nhân giúp đỡ mà được phát phúc, thêm Kình Đà Linh Hỏa thì hạ nhân không được no đủ, lại chiêu chuốc lắm thị phi.
* Hữu Bật chủ xuất ngoại gặp được quý nhân phò trợ mà phát đạt, không hợp thủ tĩnh. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì ở bên ngoài cùng với người ta có nhiều cạnh tranh đấu đá.
* Cung Thiên Di có Lộc Tồn chủ xuất ngoại là y lộc được xứng ý toại lòng, hội Kình Đà Linh Hảo Khôgn Kiếp thì với người không được hợp ý.
* Kình Dương nhập miếu chủ ở bên ngoài được y lộc toại tâm, thêm cát tinh thì náo nhiệt mà phát tài, hãm địa thành ra hạ nhân mà không được no đủ.
* Đà La gặp cát tinh thì gặp quý nhân mà được tiền tài, hãm địa lại thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì chiêu chuốc nhiều thị phi thành ra hạ nhân mà không được no đủ.
* Hỏa Tinh độc thủ thì xuất ngoại bất an, thêm cát tinh thì náo nhiệt mà tăng tiến tiền tài, thêm Kình Đà Không Kiếp thì chiêu chuốc thị phi, ở bên ngoài ít được toại ý.
* Linh Tinh có cát tinh cùng thì ở bên ngoài được cát lợi, thêm Kình Đà Hỏa Kiếp Không thì không được no đủ lại chiêu chuốc thị phi.
* Đẩu Quân đi qua cung Thiên Di mà gặp cát tinh thì hành động sẽ được cát lợi, gặp hung sát tinh thì hễ vọng động sẽ bị khẩu thiệt.
44.8 Nô Bộc cung
* Có Tử Vi thì nô bộc có năng lực và đắc lực khiến cho chủ được vượng mà sinh tài. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì kém lực. Cùng với Phá Quân thì trước không có trợ thủ, nhưng sau lại chiêu nạp được. Cùng với Thiên Tướng thì thêm đắc lực. Thêm Không Kiếp thì chiêu oán hận mà người bỏ ta ra đi.
* Thiên Cơ nhập miếu chủ nô bộc đắc lực, nếu hãm địa hoặc lạc Không Vong thì nô bộc oán chủ. Cùng với Thiên Lương thì về cuối cũng chiêu nạp được. Cùng với Thái Âm thì nô bộc kém lực. Cùng với Cự Môn thêm cát tinh thì có nô tỳ, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì hoàn toàn khó mà có được.
* Thái Dương nhập miếu vượng thì nhờ nô bộc mà chủ được vượng phát, nếu Thái Dương hãm thì không có duyên phận lại còn bị nô oán chủ, gặp rồi lại bỏ đi. Cùng với Thái Âm thì chiêu được nhiều nô bộc. Cùng với Cự Môn thì có nhiều nhưng bị oán cũng nhiều. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì có nô tài phản chủ.
* Vũ Khúc ở vượng cung thì nô bộc không ít, hô 1 tiếng tức thì có trăm tiếng dạ ran. Cùng Thiên Phủ đồng cung thì đa nô đa tỳ. Cùng Phá Quân đồng cung thì dễ chiêu oán thán, gặp rồi bỏ đi, cuối đời mới chiêu nạp được. Cùng Thiên Tướng thì nô bộc đắc lực. Cùng Thất Sát thì nô dễ phản chủ. Cùng với Tham Lang thì nô bộc kém lực.
* Thiên Đồng chủ có nô đắc lực khiến chủ được vượng. Cùng với Cự Môn thì trước khó mà sau dễ chiêu nạp. Cùng với Thái Âm thì nô đắc lực. Cùng với Thiên Lương thì nô trợ giúp cho chủ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì có nô phản chủ, nếu thấy Không Kiếp thì oán chủ gặp rồi bỏ đi.
* Liêm Trinh hãm địa có nô phản chủ, về già cũng chiêu nạp được nô đắc lực. Nhập miếu thì hô 1 tiếng là trăm lời dạ ran. Cùng với Tham Lang thì nô kém lực. Cùng với Thất Sát thì nô phản chủ. Cùng với Thiên Đồng thì lắm nô nhiều tỳ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì không vượng, gặp rồi lại bỏ đi.
* Thiên Phủ ở Nô cung là có nô đắc lực, nhất hô bách nặc. Cùng với Tử Vi thì nô trợ giúp chủ cực kỳ đắc lực. Cùng với Vũ Khúc thì có nô bộc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì nô phản chủ trốn đi.
* Thái Âm miếu thì có nô đắc lực có nhiều năng lực. Cùng với Thái Dương thì đa nô đa tỳ. Cùng với Thiên Cơ thì kém lực. Cùng với Thiên Đồng thì có nô vượng chủ. Thêm Kình Đà Không Kiếp Hỏa Linh tuy có nhưng cũng bỏ đi. Hãm địa thì hoàn toàn không có.
* Tham Lang lúc đầu khó chiêu nạp, dễ có nô khiến cho chủ bị bại. Hãm địa thì hoàn toàn không có nô bộc. Cùng với Liêm Trinh cũng ít nô bộc. Cùng với Tử Vi là có nô tỳ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không thì tuy có nhưng mà khó dạy.
* Cự Môn nhập miếu thì nô tài mới ban đầu đã không đắc lực, dễ chiêu chuốc thị phi, không ở được lâu dài. Cùng với Thái Dương thì có nô giúp chủ bảo vệ gia đình gia tài. Cùng với Thiên Đồng thì có nô một lòng một dạ nhưng phải lúc cao tuổi mới chiêu nạp được.
* Thiên Tướng thì cuối cùng cũng chiêu nạp được nô bộc đắc lực. Cùng với Tử Vi là lắm nô nhiều tỳ. Cùng với Vũ Khúc có sát tinh thì nô oán chủ. Cùng với Liêm Trinh thì cuối đời có thể chiêu nạp được. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì nô bộc kém lực, bỏ trốn.
* Thiên Lương có nhiều nô bộc vượng chủ, cùng với Thiên Đồng thì có nô bảo vệ nhà cửa đắc lực. Cùng với Thiên Cơ thì nô chủ chẳng đồng lòng.
* Thất Sát là có nô bộc khinh chủ, lại cương mãnh khó dạy, hay trộm cắp gia tài. Cùng với Vũ Khúc thì có nô phản chủ. Cùng với Liêm Trinh thì nô kém lực. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì khó mà chiêu nạp được nô bộc.
* Phá Quân nhập miếu có nô đắc lực, hãm cung thì chiêu oán và phản chủ. Cùng Vũ Khúc đồng cung thì phản chủ. Cùng Tử Vi đồng cung thì có nô đắc lực. Cùng Liêm Trinh đồng cung thì nô bộc kém lực. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì khó mà chiêu nạp được nô bộc.
* Văn Xương nhập miếu độc thủ thì có nô đắc lực trợ giúp cho chủ, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì tuy có nhưng sẽ phản chủ.
* Văn Khúc nhập miếu có nô đắc lực, hãm cung thì chẳng có phận, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì nô oán chủ rồi đào tẩu.
* Tả Phụ độc thủ thì có nô vượng chủ, nhất hô bách nặc, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Hao Kị thì phản chủ và khó chiêu nạp.
* Hữu Bật độc thủ thì có nô đắc lực có năng lực, thêm Kình Đà Linh Hỏa Hao Kị thì nô bộc kém lực.
* Kình Dương độc thủ thì có nô phản chủ, chiêu oán hận, không đắc lực, có mà không ở được lâu. Nếu nhập miếu thì cuối đời có thể chiêu nạp được.
* Đà La chủ nô bộc kém lực và oán chủ, nhập miếu có thêm cát tinh thì có nô bộc đắc lực.
* Hỏa Tinh độc thủ chủ nó oán giận chủ nhân, không đắc lực. Nếu có thêm cát tinh và nhập miếu thì có thể có 1, 2 nô bộc hữu dụng.
* Linh Tinh độc thủ thì nô không đắc lực, hận chủ, hội cát tinh và nhập miếu thì có nô trợ chủ giữ nhà. Thêm Không Kiếp Hao Kị thì kém lực.
* Đẩu Quân đi qua cung Nô gặp cát tinh thì nô bộc quy thuận. gặp hung kị hao sát tinh thì nô hận chủ mà bỏ đi, hoặc hung thì nô bộc chiêu chuốc thị phi.
44.9 Quan Lộc cung
* Tử Vi miếu vượng gặp Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thì tước vị được phong hầu phong bá. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì bình thường. Cùng với Thiên Phủ thì quyền quý danh lợi được song toàn. Thêm Thiên Tướng thì trong ngoài đều có quyền quý rõ ràng. Cùng với Phá Quân thì bận rộn náo nhiệt mà an thân.
* Thiên Cơ nhập miếu thì có quyền quý, hội Văn Khúc là người hết mực hiền lành, không thấy Kình Đà Linh Hỏa thì cát. Cùng Thiên Lương thì văn võ toàn tài. Cùng Thái Âm miếu vượng thì danh chấn động biên thùy. Hãm cung thì bị mất chức, thoái quan, làm viên tiểu lại.
* Thái Dương nhập miếu thì văn võ đều tốt đẹp, không thấy Kình Đà Linh Hỏa thì tốt. Cùng với Thái Âm thì quý hiển. Cùng Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thêm Khoa Quyền Lộc thì định là quý đến nhất phẩm.
* Vũ Khúc nhập miếu cùng Xương Khúc Tả Hữu thì theo võ sẽ có chức cao chót vót, người thường cũng được phát phúc. Hội Khoa Quyền Lộc là làm quan chủ quản tài lộc. Cùng với Tham Lang thì dễ làm quan tham ô. Cùng với Phá Quân thì xuất thân ở trong quân ngũ. Ở cung an Thân (Thân cư Quan) mà có Thất Sát cùng thì thế nào cũng có lúc bộc phát lập công danh. Hãm cung cùng với Đà Linh Kiếp Kị thì chẳng có duyên phận về công danh.
* Thiên Đồng nhập miếu thì văn võ đều hợp, không có Kình Đà Linh Hỏa thì cát. Cùng Cự Môn thì trước chức vị bé sau thì lại lớn. Cùng với Thiên Lương Xương Khúc Khoa Quyền Lộc thì tốt đẹp vô cùng. Cùng với Thái Âm cũng được quyền quý. Hãm cung luận là làm tư lại, thường phải thuyên chuyển.
* Liêm Trinh nhập miếu vào võ chức được quyền quý nhưng khôgn bền. Cùng với Tử Vi hội ở tam phương thì làm văn chức. Cùng với Thất Sát thì xuất thân nơi quân ngũ. Cùng với Thiên Tướng Thiên Phủ thì được áo gấm vinh hoa phú quý.
* Thiên Phủ nhập miếu thì theo văn võ đều được cát lợi, không thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Hao thì là toàn mỹ. Cùng với Tử Vi thì theo văn võ đều có thanh danh. Cùng Liêm Trinh Vũ Khúc thì quyền quý. Thấy Không Kiếp thì bình thường.
* Thái Âm nhập miếu được nhiều phú quý, hãm địa thì khí chất cao ngạo, hoạnh phá, khó mà hiển đạt. Hội Thái Dương Xương Khúc Tả Hữu thì quan chức cỡ tam phẩm. Cùng với Thiên Đồng thì vào văn võ đều hợp. Cùng với Thiên Cơ thì bon chen tiến thân làm viên tư lại mà lập chỗ đứng.
* Tham Lang gặp Hỏa Linh vào võ chức thì chấp chưởng đại quyền. Cùng Tử Vi Văn Khúc thì vào võ chức cũng có binh quyền không hề nhỏ. Hãm cung là bọn tham quan ô lại. Thêm Kình Đà Không Kiếp thì tầm thường.
* Cự Môn nhập miếu có võ chức quyền quý, vào văn nhân thì không được bền. Cùng với Thái Dương thì có tiến có thoái, nhập miếu thì vững bền mãi. Cùng Thiên Cơ tại Mão cung thì tốt đẹp phú quý, tại Dậu cung thì thuy đẹp nhưng có thủy mà vô chung. Hãm cung thì gặp hối hận, không lành. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp càng thêm không đẹp, bị biếm giáng chức.
* Thiên Tướng nhập miếu thì văn võ đều hợp, được hưởng lộc ăn ngàn chung. Hãm địa thì có thành có bại. Cùng Tử Vi thì quyền quý, cùng Tả Hữu Xương Khúc thì quyền lực càng thêm quý tột bực. Cũng Vũ Khúc thì nhậm chức ở biên thùy. Cùng với Liêm Trinh thì quyền quý cao chót vót. Thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì sẽ bị biếm chức giáng cấp.
* Thiên Lương miếu Ngọ hội Tả Hữu Khôi Việt, văn võ đều tài. Cùng với Thiên Đồng thì quyền quý cũng không hề nhỏ. Cùng với Thiên Cơ thì hiển quý cao chót vót. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bình thường.
* Thất Sát miếu vượng thì vào võ sẽ có chức cao chót vót, quyền quý không nhỏ, không hợp với văn nhân. Cùng với Vũ Khúc là được quyền quý. Cùng với Liêm Trinh thì công danh hiển đạt.
* Phá Quân miếu vượng vào võ thì được thăng lên chức cao. Cùng Vũ Khúc thêm Quyền Lộc Văn Xương Văn Khúc thì hiển đạt, còn thêm Kình Đà thì tầm thường. Cùng Tử Vi thì có tên tuổi oai phong. Cùng Liêm Trinh thì làm văn nhân không bền, làm tư lại thôi thì lại rất đẹp.
* Văn Xương nhập miếu có Thái Dương với Khoa Quyền Lộc, thì văn võ toàn tài. Cùng với Thiên Phủ Văn Khúc thì phú quý song toàn.
* Văn Khúc miếu vượng thì theo văn võ đều hợp, hãm cung cùng Thiên Cơ Thái Âm thì làm tư lại thôi. Hội Tử Phủ Tả Hữu thì kề cận quân vương mà chấp chính. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bình thường.
* Tả Phụ nhập miếu văn võ toàn tài, vào võ chức cực vượng, không lợi văn nhân, hội cát tinh thì là người thanh cao, thấy Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì thanh danh lên xuống.
* Hữu Bật hợp vào võ chức, không hợp văn nhân, cùng Tử Phủ Xương Khúc thì tài quan song mỹ, hãm cung thì có thành có bại có bị truất giáng, thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì cũng bị truất giáng.
* Lộc Tồn hội cát thì văn võ đều tốt lánh, tài quan song mỹ, con cháu cũng có tước lộc phẩm trật, khắp các cung đều đẹp.
* Kình Dương nhập miếu tối lợi võ chức, cùng cát tinh thì quyền quý, hãm địa thì bình thường, chỉ có hư danh.
* Đà La độc thủ thì bình thường, dẫu có thêm cát tinh cũng chỉ hư danh.
* Hỏa Tinh thì đến cuối đời công danh được toại ý, thiếu niên thì thành bại thất thường. Hội Tử Vi Tham Lang thì cát, hãm địa thì chẳng đẹp.
* Linh Tinh độc thủ vượng cung thì cát lợi, hãm địa chẳng đẹp, thêm các cát tinh thì quyền quý.
* Đẩu Quân gặp cát thì năm tháng ấy tài quan được vượng, gặp hung sát thì e tài quan không hiển đạt, lại còn có lao khổ bôn ba.
* Định Công hầu khanh tướng:
Phụ Bật tinh triền Đế tọa trung,
Cao quan tam phẩm nhập triều trung,
Không vong ác diệu tam phương kiến,
Chỉ thị hư danh thụ ấm phong.
(Phụ Bật cùng nơi gặp Đế tinh
Quan cao tam phẩm nhập triều đình
Không Vong ác diệu tam phương thấy
Lại hóa hư danh thụ ấm bình).
* Định lưỡng quan phủ
Xương Khúc nhị diệu tối nan phùng,
Kiến tiết phong hầu tiếu ngữ trung,
Nhược nhiên hung sát lai lâm phá,
Tu nhiên hảo xử dã thành hung.
(Xương Khúc cát tinh khó gặp thay
Phong hầu tiết việt ắt phen này
Nếu mà hung sát cùng vây chiếu
Đúng là đất tốt mà chẳng may).
* Định văn quan
Văn quan Xương Khúc quải triều y,
Quan lộc chi trung hỉ hữu chi,
Tử Tướng cánh kiêm Quyền Lộc chí,
Định cư phong hiến túc triều nghi.
(Văn quan Xương Khúc ở triều trung
Kẻ trong quan chức hỉ tương phùng
Tử Tướng hội thêm Quyền Lộc nữa
Định là phong hiến thật đáng mừng).
* Định võ quan
Tướng quân Vũ diệu tối vi lương,
Đế tọa quyền hành tại lộc hương,
Phụ Bật nhị tinh kiêm củng chiếu,
Kim chương ngọc đới tá hoàng vương.
(Tướng Quân Vũ Khúc rất tốt lành
Tử Vi lộc xứ có quyền hành
Phụ Bật nhị tinh đồng thời chiếu
Kim bài đai ngọc giúp quân vương).
* Định tào lại (quan nha có phận chức chuyên trách, hoặc quan lại cấp thấp)
Thái Dương hóa quan tại dương cung,
Cánh hữu quang huy sử bất hung,
Nhược phùng Tử Phủ kiêm Tả Hữu,
Nhất sinh tào lại sính anh hùng.
(Thái Dương hóa quan tại dương cung
Thêm có quang huy chẳng gặp hung
Nếu thêm Tử Phủ cùng Tả Hữu
Một đời tào lại tỏ anh hùng).
44.10 Điền Trạch cung
* Tử Vi chủ điền trạch được thịnh vượng tươi tốt tự tay gây dựng được thêm nhiều đất đai vườn tược, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì gây dựng được rồi lại mất. Cùng với Phá Quân là làm suy thoái tổ nghiệp hoặc không thừa hưởng tổ nghiệp. Cùng với Thiên Tướng thì lập thành gia nghiệp, đắc Tả Hữu Xương Khúc thì gia nghiệp càng lớn.
* Thiên Cơ chủ không thừa hưởng tổ nghiệp hoặc làm suy tổ nghiệp rồi gây dựng nên gia nghiệp mới. Cùng với Cự Môn tại Mão thì có điền trang, tại Dậu thì không giữ được tổ nghiệp, trước nhiều sau ít. Cùng với Thiên Lương thì gây dựng được cơ nghiệp, về già giàu có. Cùng với Thái Âm thì cũng tự gây dựng được cơ nghiệp thịnh vượng.
* Thái Dương nhập miếu được hưởng tổ nghiệp, nếu sơ vượng thì trung bình thôi. Cùng với Thái Âm thêm cát tinh thì nhiều nhà đất. Cùng với Cự Môn tại Dần thì đát cát thịnh vượng, tại Thân cung thì không hưởng tổ nghiệp hoặc làm suy thoái, nhưng không phải là không có điền sản. Hãm địa gặp Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì hoàn toàn chẳng có gì.
* Vũ Khúc đơn thủ cư vượng địa thì được hưởng gia sản đất đai rất to lớn của tổ phụ để lại, hãm địa thì ko hưởng hoặc làm suy thoái, sau này lại gây dựng lại thành công. Cùng với Phá Quân Đại Hao thì phá đãng gia sản, có của cũng chẳng bền. Cùng với Thiên Tướng thì trước sẽ phá sau sẽ có điền sản. Cùng Thất Sát thì lòng chẳng ham muốn điền sản. Cùng Thiên Phủ thì dựng thành gia nghiệp. Cùng với Tham Lang thì về già mới có điền sản thấy Linh Hỏa thì cực kỳ tốt đẹp, điền sản được thịnh vượng vô cùng. Cùng với Không Kiếp thì có lên có xuống.
* Thiên Đồng chủ trước ít sau nhiều, tự thân gây dựng được rất vượng. Cùng với Cự Môn thì ít điển sản. Cùng với Thái Âm nhập miếu thì đại phú. Cùng với Thiên Lương thì trước thoái sau sẽ tăng tiến. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Kị thì hoàn toàn không có điền sản.
* Liêm Trinh chủ phá tổ nghiệp. Cùng Tham lang thì có được hưởng tổ nghiệp nhưung không bền. Cùng Thất Sát thì tự gây dựng được gia nghiệp. Cùng Thiên Phủ thì gây dựng được gia nghiệp lớn. Cùng Thiên Tướng thì trước không có, sau này sẽ có.
* Thiên Phủ chủ ruộng vườn nhà cửa thịnh vượng, giữ tổ nghiệp mà phát triển thêm vượng. Cùng với Tử Vi thì đại phú. Cùng với Liêm Trinh Vũ Khúc thì giữ được tổ nghiệp tươi tốt hưng thịnh. Thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì ít điền sản, có thành có bại.
* Thái Âm nhập miếu thì nhiều điền sản, hãm địa lại gặp Kị với Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì hoàn toàn vô sản. Cùng với Thiên Cơ là tự gây dựng được gia nghiệp. Cùng với Thiên Đồng thì tay trắng dựng nghiệp. Cùng Tả Hữu Quyền Lộc và Lộc Tồn thì chủ lắm ruộng vườn đất đai nhà cửa.
* Tham Lang hãm cung không được hưởng hoặc làm suy thoái tổ nghiệp, cả đời ít điền sản, nếu miếu vượng thì được hưởng tổ nghiệp tuy nhiên bị suy rồi tới trung vận sẽ tự gây dựng lại được. Cùng với Liêm Trinh thì chẳng có phần. Cùng với Tử Vi thì có tổ nghiệp. Cùng với Vũ Khúc thì về già sẽ gây dựng được, thấy Hỏa Linh thì giữ được tổ nghiệp lại tự khai sáng thêm, nhưng e rằng sẽ có phen bị cháy nhà.
* Cự Môn miếu vượng thì hoạnh phát gây dựng được gia nghiệp, hãm địa thì không có phận, còn vì điền sản mà chiêu chuốc lấy thị phi. Cùng với Thái Dương thì trước không có sau này sẽ có. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì hoàn toàn chẳng có điền sản.
* Thiên Tướng miếu vượng là có phần hưởng điền sản tổ nghiệp. Cùng Tử Vi là tự gây dựng được gia nghiệp. Cùng Vũ Khúc thì chẳng có phần. Cùng với Liêm Trinh thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp là phá tổ nghiệp điêu linh.
* Thiên Lương nhập miếu vượng có tổ nghiệp để lại. Cùng với Thiên Đồng thì trước khó khăn sau này sẽ dễ dàng dựng gia nghiệp. Cùng Thiên Cơ mà không thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì cuối đời cũng có điền trạch.
* Phá Quân tại Tý Ngọ thì giữ được tổ nghiệp hưng thịnh tươi tốt, nhưng mà có lên có xuống, thêm Kình Đà Linh Hỏa thì làm suy thoái hoặc không được hưởng tổ nghiệp, điền trạch cũng ít. Cùng với Tử Vi thì lập thành gia nghiệp. Cùng với Liêm Trinh thì thì trước phá tán sau này gây dựng lại được, có thêm Hao Kị thì hoàn toàn không có điền sản.
* Văn Xương hội các cát tinh thì gây dựng được nhà cửa ruộng vườn to lớn, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì làm suy bại tổ nghiệp.
* Văn Khúc vượng địa thì có phần và giữ được tổ nghiệp, thêm cát tinh thì tự gây dựng thêm được, cùng với Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì có lên có xuống.
* Tả Phụ Hữu bật được hưởng tổ nghiệp, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì làm suy thoái hoặc không được hưởng tổ nghiệp, đất đai ít, nếu hội với các cát tinh thì lại có nhiều điền sản.
* Lộc Tồn chủ điền viên được vượng lại tự gây dựng nên, hội cát tinh thì thừa hưởng tổ nghiệp mà phát triển hưng thịnh tươi tốt, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì ít điền trạch.
* Kình Dương nhập miếu thì trước phá tán sau gây dựng thành công, thêm Không Kiếp thì làm suy thoái hoặc không được thừa hưởng tổ nghiệp.
* Đà La chủ làm suy thoái hoặc không được thừa hưởng tổ nghiệp, nếu chăm chỉ qua ngày lại có thêm cát tinh thì trước không có nhưng sau này sẽ có, thêm Không Kiếp thì hoàn toàn không có.
* Hỏa Tinh độc thủ dễ suy thoái hoặc không được hưởng tổ nghiệp, hội cát tinh thì trước không có nhưng sau sẽ có, thêm Không Kiếp thì hoàn toàn không.
* Linh Tinh chủ làm suy thoái tổ nghiệp hoặc không được thừa hưởng, nhập miếu mà thêm cát tinh thì tự tay gây dựng lại được, thấy không Kiếp thì hoàn toàn không có.
* Đẩu Quân đi qua cung Điền mà gặp cát tinh thì năm đó điền sản tăng tiến gấp bội, nếu gặp hung sát Kị Hao thì suy thoái thất bại.
44.11 Phúc Đức cung
* Tử Vi được an vui hưởng phúc dày. Cùng với Thiên Phủ thì cả đời được cát tường. Cùng với Phá Quân thì lao khổ tâm trí sức lực, chẳng được an bình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bạc phúc.
* Thiên Cơ thì trước nhọc nhằn nhưng sau này được nhàn hạ. Cùng Cự Môn thì vất vả mà ít được an nhàn. Cùng với Thiên Lương thì được hưởng phúc. Cùng với Thái Âm thì chủ vui sướng. Thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì chẳng được yên ổn, nhàn nhã.
* Thái Dương bận rộn đến trung vận thì phát phúc. Cùng với Thái Âm thì hưởng vui sướng, nữ nhân mà hội cát tinh thì lấy được chồng là người hiền minh, được hưởng phúc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Kị Hao thì luận là cả đời chẳng được tươi đẹp.
* Vũ Khúc chủ nhọc tâm phí sức, nhập miếu thì lại an nhiên mà hưởng phúc. Cùng với Phá Quân thì xuôi ngược đông tây, chẳng được yên tĩnh nhàn nhã. Cùng với Thiên Tướng thì cảnh già được an khang. Cùng với Thất Sát thì kém an khang. Cùng với Tham Lang thì đến cuối đời được hưởng phúc, thấy Hỏa Linh thì an nhàn. Thêm Kình Đà thì lao tâm khổ trí nhưng mà có lợi ích.
* Thiên Đồng chủ vui sướng có nhiều phúc nhiều thọ. Cùng với Cự Môn thì lắm ưu phiền mà ít vui mừng. Cùng với Thái Âm thì được hưởng phúc. Cùng với Thiên Lương thì được thanh nhàn vui sướng.
* Liêm Trinh độc thủ bận rộn đến trung niên thì sinh phúc. Cùng với Thiên Tướng thì có phúc có thọ. Cùng với Thiên Phủ thì được an nhàn chẳng phải ưu lo. Cùng với Phá Quân thì chẳng bao giờ được ở yên một chỗ, luôn lao tâm phí sức. Lại thêm Kình Đà Linh Hỏa thì lao khổ suốt đời, đến tận cuối đời mới có thể được như ý.
* Thiên Phủ chủ bình an nhàn nhã mà hưởng phủ. Cùng với Tử Vi thì vui sướng. Cùng với Liêm Trinh thì thân an nhàn nhưng tâm lại bận rộn. Cùng với Vũ Khúc thì thuở bé đắng cay nhưng trung niên và vãn niên thì an nhàn vui vẻ mà hưởng phúc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Hao Kị thì vất vả cực nhọc mà qua ngày.
* Thái Âm nhập miếu chủ hưởng phúc vui sướng. Cùng với Thái Dương thì cực đẹp, tăng đạo cũng thanh khiết hưởng phúc. Cùng với Thiên Cơ thì tâm bận rộn. Cùng với Thiên Đồng thì an tĩnh vô ưu lo. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì có vui có buồn, chẳng được an tĩnh.
* Tham Lang chủ lao tâm khổ tứ chẳng được an nhàn. Cùng với Liêm Trinh thì chủ phúc bạc. Cùng với Tử Vi thì đến cuối đời mới được vui sướng.
* Cự Môn thì lao lực chẳng được an nhàn. Cùng với Thái Dương thì có vui có buồn. Cùng với Thiên Đồng thì tâm bận rộn chẳng được an. Cùng với Thiên Đồng thì được hưởng phúc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bình sinh vẫn thường lắm ưu phiền.
* Thiên Tướng chủ an nhàn hưởng phúc hưởng thọ. Cùng với Tử Vi thì được vui sướng… (QNB chú: mất 1 đoạn của phần Thiên Tướng cho đến mấy câu đầu của Thiên Lương)
* …. Cùng với Thiên Cơ thì bận rộn đến trung niên thì được hưởng cát tường. Cùng với Thái Dương thì được phúc thọ song toàn. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì chẳng được an nhàn thân tâm.
* Thất Sát nhập miếu chủ hưởng phúc, hãm địa thêm Kình Đà Hỏa Linh thì lao tâm phí sức. Cùng với Vũ Khúc thì kém được an nhàn. Cùng với Liêm Trinh thì vất vả. Cùng với Tử Vi thì trước vất vả nhưng sau được an nhàn, cuối đời được xứng ý toại tâm. Nữ nhân mà Thất Sát đơn thủ Phúc Đức cung thì tất sẽ làm tỳ thiếp kỹ xướng.
* Phá Quân chủ lao tâm phí sức. Cùng với Vũ Khúc thì ít được an nhàn. Cùng với Liêm Trinh thì vất vả. Cùng với Tử Vi thì được an nhàn vui vẻ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì lao tâm khổ trí, chẳng được an tĩnh.
* Văn Xương thêm cát tinh nhập miếu chủ hưởng vui sướng, hãm địa gặp Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì thâm tâm chẳng được an tĩnh.
* Tả Phụ thêm cát tinh chủ hưởng phúc, cuối đời được an nhàn, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì vất vả.
* Hữu Bật chủ bình sinh được phúc lộc toàn mỹ, thêm cát tinh thì cả đời ít ưu phiền, thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì lao tâm khổ tứ, ít được an nhàn.
* Lộc Tồn chủ chung thân hưởng phúc hậu, an tĩnh mà đối nhân xử thế, thêm cát tinh thì có vui có phúc, thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì thân tâm chẳng được an tĩnh.
* Khôi Việt chủ có quý nhân giúp đỡ bầu bạn mà hưởng phúc, vui sướng.
* Kình Dương nhập miếu thì xuôi ngược đến trung niên có phúc lộc, hãm địa thì lao tâm khổ tứ, có cát tinh thì giảm ưu phiền, độc thủ thì thân tâm chẳng an nhàn.
* Đà La độc thủ chủ vất vả, nhập miếu có phúc lộc, hãm địa vất vả, có cát tinh thì cuối đời được phúc.
* Hỏa Tinh chủ kém được an nhàn, thường lao lực vất vả, thêm cát tinh thì đến cuối đời mới được toại chí.
* Linh Tinh chủ lao khổ, thêm cát tinh thì bình hòa, độc thủ thì vất vả.
* Tuế Quân đại tiểu hạn tới cung Phúc Đức, gặp cát tất sẽ hưởng phúc, gặp hung tất sẽ lao lực vất vả.
44.12 Phụ Mẫu cung
Phàm khán Phụ Mẫu thì lấy Thái Dương làm cha, lấy Thái Âm làm mẹ. Thái Dương tại hãm cung thì chủ khắc cha trước, Thái Âm tại hãm cung thì chủ khắc mẹ trước. Như cả hai đều tại hãm địa thì xem đến giờ sinh, nếu sinh vào ban ngày thì chủ cha còn, nếu sinh vào ban đêm thì chủ mẹ còn. Ngoài ra học giả phân định cẩn thận. Trước xem sao nào chủ hình khắc, nếu mà thêm ác sát tinh thì dĩ nhiên hình khắc mà đoán, cứ theo lý mà đoán cho tường tận, để mà tự ngộ ra vậy.
* Tử Vi chủ không khắc cha mẹ. Cùng Thiên Phủ thì cũng không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì khắc. Cùng với Thiên Tướng cũng không hình. Cùng với Tham Lang mà không có sát tinh thì không hình. Cùng với Phá Quân thì sớm khắc cha mẹ.
* Thiên Cơ miếu vượng thì không hình, hãm địa lại gặp Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì dễ mang hai họ, nhận người khác làm cha mẹ, hoặc là đi ở rể. Cùng với Thái Âm thì miễn hình. Cùng với Thiên Lương cũng không hình. Nhưng đều phải là không thấy sát tinh, nếu thêm sát tinh thì không miễn được hình hại, tổn thương. Cùng với Cự Môn thì sớm hình khắc cha mẹ.
* Thái Dương nhập miếu không khắc, hãm địa thì khắc cha, thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì sớm khắc cha mẹ. Cùng với Thái Âm thì xem có Kình Đà không, nếu có thì hình cả song thân. Cùng với Cự Môn lại có thêm tứ sát Không Kiếp thì sớm khắc. Cùng với Thiên Lương thì không hình.
* Vũ Khúc chủ sớm khắc, nếu không hưởng hoặc làm suy tổ nghiệp thì không hình. Cùng với Tham lang thì hình khắc. Cùng với Thất Sát thì hình. Cùng với Thiên Tướng có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì hình hại tổn thương.
* Thiên Đồng độc thủ miếu vượng thì không hình, thêm tứ sát thì bái người khác làm phụ mẫu. Cùng với Cự Môn thì kém hòa thuận. Cùng với Thái Âm miếu vượng thì phụ mẫu song toàn. Cùng với Thiên Lương thì không hình hoặc thoái tổ nghiệp. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì Phụ Mẫu chẳng được vẹn toàn.
* Liêm Trinh chủ nạn cho phụ mẫu, bái người khác làm cha mẹ. Cùng với Tham lang thì sớm hình. Cùng với Thất Sát thì cô khắc. Cùng với Thiên Phủ thì miễn hình. Cùng với Phá Quân thì sớm hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì phụ mẫu không được vẹn toàn.
* Thiên Phủ chủ phụ mẫu song toàn. cùng với Tử Vi cũng không hình. Cùng với Liêm Trinh Vũ Khúc tại miếu vượng thì không hình. thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì chủ tổn hại.
* Thái Âm nhập miếu thì không khắc, thêm Kình Đà Linh Hỏa thì khắc mẹ, không thì sẽ bỏ nhà xa tổ. Cùng với Thái Dương mà không thấy tứ sát thì phụ mẫu song toàn. Cùng với Thiên Cơ thì không hình. Cùng với Thiên Đồng thì cực đẹp.
* Tham lang hãm địa sớm phải lìa nhà xa tổ, hoặc làm con người khác hoặc đi ở rể. Cùng với Liêm Trinh thì sớm hình mà cô đơn. Cùng với Tử Vi không có sát tinh thì phụ mẫu song toàn.
* Cự Môn hãm địa khắc hại mẹ cha, lìa nhà xa tổ, làm con người khác. Cùng với Thái Dương thì kém hòa thuận. Cùng với Thiên Cơ thì dễ làm con nhà khác. Cùng với Thiên Đồng thì có thể làm suy tổ nghiệp sẽ không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì phụ mẫu chẳng được chu toàn.
* Thiên Tướng miếu vượng thì không hình. Cùng với Tử Vi thì không hình khắc. Cùng với Liêm Trinh cũng không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì sớm hình khắc.
* Thiên Lương hãm địa thêm Kình Đà Hỏa Linh thì cô khắc, lìa nhà xa tổ, ở rể, thay họ đổi tên ở nhờ nhà khác, có bảo dưỡng thì miễn hình. Cùng với Thiên Đồng thêm tứ sát thì hình, vô sát thì không hình. Cùng với Thiên Cơ thì không hình. Cùng với Thái Dương thì muộn sẽ khắc. Thêm Tứ Sát Kiếp Không thì sớm khắc.
* Thất Sát chủ sớm lìa nhà xa tổ, xa cốt nhục lục thân mà cô độc. Cùng với Vũ Khúc cũng hình. Cùng với Liêm Trinh thì sớm hình. Cùng với Tử Vi có cát tinh thì không hình. thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì sớm khắc.
* Phá Quân chủ khắc, sớm lìa nhà xa tổ, đổi danh ký dưỡng thì miễn hình. Cùng với Vũ Khúc thì sớm khắc. Cùng với Liêm Trinh cũng sớm khắc. Cùng với Tử Vi thì không hình.
* Văn Xương thêm cát tinh nhập miếu thì không hình, thêm Kình Đà Hỏa Linh thì hình, hoặc là thoái tổ mà mang 2 họ.
* Văn Khúc độc thủ nhập miếu thì không hình, thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì phụ mẫu chẳng được chu toàn.
* Tả Phụ độc thủ không hình. Cùng Liêm Trinh thì sớm hình. Thêm văn Xương tương sinh thì không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì hình hại tổn thương, thoái tổ, mang hai họ.
* Hữu bật độc thủ thì không hình, thêm cát tinh đắc đị thì phụ mẫu che chở để lại phúc ấm, thấy Kình Đà Linh Hỏa thì lìa nhà xa tổ, mang hai họ mà an cư.
* Lộc Tồn không khắc, thêm Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh thì nhỏ tuổi đã phá tài sản của cha ông lại hình hại tổn thương, tới trung niên chẳng thành được nghiệp.
* Kình Dương thì hình khắc sớm, hội Nhật Nguyệt thì trùng trùng thoái tổ, thêm cát tinh nhiều thì miễn bị hình.
* Đà La thì thuở thơ ấu đã hình hại tổn thương, hội Nhật Nguyệt thì trùng trùng thoái tổ, mang hai họ mà an cư, nếu thêm cát tinh thì ở rể nhà người ta hoặc là bái người khác làm phụ mẫu mà mang hai họ mới được.
* Hỏa Tinh độc thủ cô khắc, mang hai họ, thêm cát tinh thì bình hòa.
* Linh Tinh hình khắc cô đơn, mang hai họ mà an cư, bái người khác làm cha mẹ, hoặc đi ở rể.
* Khôi Việt chủ phụ mẫu hiển vinh sang quý, có cát tinh thì được song toàn.
* Đẩu Quân đi qua cung Phụ Mẫu gặp cát tinh thì cát lợi chẳng có tai nạn tổn thương, được bình an đôi bên nội ngoại. Gặp hung thì phụ mẫu chắc chắn bất lợi.
QNB chú: Hết quyển nhị bộ TVDSTT. Tiếp theo sẽ là quyển tam của bộ này, nội dung là các phương pháp và luận điểm trên lá số tử vi.
TỬ VI ĐẨU SỐ TOÀN THƯ – quyển tam
1. Đàm tinh yếu luận
Khán Thân an Mệnh, Lộc Mã không lạc vào Không Vong, trong đó Thiên Không và Triệt Không là tối khẩn còn Tuần Không thì là thứ thôi.
Thứ nhất khán Mệnh cung cát hung, miếu vượng, có hóa cát hay hóa Kị, sinh khắc như thế nào. Sau đó khán Thân chủ cát hung sinh khắc ra sao. Thứ ba khán tới Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc cung xem các sao hình xung khắc phá thế nào. Thứ tư xem Phúc Đức có Quyền Lộc, Không Kiếp miếu hãm ra sao, bởi vì Phúc Đức cung đối cung với Tài Bạch cung vậy.
Sáu cung Thân, Mệnh, Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc, Phúc Đức, danh viết “Bát tọa”, đều có và được chiếu bởi cát tinh, hóa cát, thì sẽ được giàu có quyền quý và thọ cao.
Sáu cung đều hãm, tụ hung tinh, hóa Kị, thì cô quả và thọ mạng tính từng ngày.
Nếu sinh vào giờ Mão Dậu thì tốt nhất là nên ra bên ngoài.
Sau sáu cung kể trên thì xét đến Điền Trạch và Tật Ách. Rồi lại xem ba cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Tức, nếu đều có Kiếp Không Sát Kị thì đó là mệnh của giới tăng đạo, nếu không thì là kẻ cô độc, bần cùng.
Nếu Mệnh vô chính diệu, mà hai cung Tài Quan có cát tinh củng chiếu thì vẫn được phú quý toàn mỹ, có thể do vợ lẽ sinh ra.
Nếu tam phương có ác tinh xung chiếu, thì hoặc là mang hai họ sẽ có thể thêm thọ hoặc là lìa nhà xa tổ thì có thể đảm bảo thành danh.
Như Mệnh cung có chính diệu, cát tinh, miếu vượng, hóa cát, tam phương lại có cát tinh hội hợp, thì đó là thượng thượng chi mệnh.
Như Mệnh vô chính diệu, có cát tinh, tam phương có cát tinh, hóa cát thì đó là thượng thứ chi mệnh.
Như Mệnh cung mà các sao chẳng cát chẳng hung, hoặc là cát hung tương bán, mà tam phương cũng có các trung cát tinh thì đó là trung cách.
Và Mệnh cung mà các sao miếu vượng, tam phương có ác sát tinh thủ chiếu thì đó là phá cách.
Và Mệnh cung có sao hãm địa phản bối, thêm Kình Đà Hóa Kị, nhưng được thập thiên can hóa Lộc thì cũng coi là trung đẳng chi mệnh.
Nếu không có cát tinh, ngược lại có hung sát tinh, hóa Kị, không có Lộc, lại lạc hãm thì đó là hạ cách chi mệnh.
Tam phương có cát tinh, cũng có thể là trung đẳng, trước nhỏ sau to lớn, không được bền, cuối cùng thì luận là có thành có bại hoặc yểu chiết.
Nếu an Mệnh ở triền thứ (tức là cung độ) mà sao hãm địa, lại thêm hung sát tinh, hóa Kị. Tam phương hội Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì là bần tiện là hạ cách chi mệnh, mang hai họ thì có thể thêm thọ, nhưng là mệnh của hạng nô bộc, dẫu chẳng yểu thì cũng là mệnh của hạng lục súc.
2. Luận nhân Mệnh nhập cách
Như Mệnh nhập cách, miếu vượng lại tụ hóa cát Khoa Quyền Lộc, là thượng thượng chi mệnh.
Không nhập miếu nhưng có cát hóa Khoa Quyền Lộc, là thượng thứ chi mệnh.
Không nhập miếu cũng không có cát tinh cát hóa thì là bình thường chi mệnh.
Nhập miếu mà không có cát tinh cát hóa thì cũng thuộc cấp bình thường.
Nếu hãm địa lại thêm sát tinh, hóa Kị, là hạ cách chi mệnh, không dùng nhập cách mà luận vậy.
Lại như nhập cách không có hóa cát mà lại hóa hung, thì chỉ lấy bản mệnh có cát hung nhiều hay ít mà đoán.
3. Luận cách tinh số cao thấp
Tử Phủ với số tương hợp như thế nào, Tử Vi là chủ Nam Bắc đẩu trung thiên Đế tinh, Thiên Phủ là Nam đẩu chủ.
Lại khán Âm Dương tương bán ra sao, nhận thấy Âm Dương không tương bán lại có số không tương sinh thì là hạ cách. Âm Dương thuần bác là trung cách.
Còn tam phương tứ chính toàn là cát tinh thì là thượng cách. Cát hung tương bán thủ chiếu thì là trung cách. (Toàn) Hung tinh ác sát thì là hạ cách, luận là hung đồ.
Phàm sao đắc thượng cách mà số đắc thượng cách là đệ nhất, tước vị quý đến cực phẩm.
Phàm sao đắc thượng cách mà số đắc trung cách là đệ nhị, tước vị tới tam công.
Phàm sao đắc thượng cách mà số đắc hạ cách là đệ tam, tước vị đến lục khanh.
Đó đều là thượng cách, là người được thượng thọ.
Sao đắc trung cách mà số đắc thượng cách là đệ tứ, tước vị đến giám ti.
Sao đắc trung cách mà số đắc trung cách là đệ ngũ, tước vị đến huyện lệnh.
Sao đắc trung cách mà số đắc hạ cách là đệ lục, tiền đồ theo đường quái lạ mà quý hiển.
Đó đều là trung đẳng, là người được hưởng phúc.
Sao đắc hạ cách mà số đắc thượng cách là đệ thất, y lộc được đầy đủ, giàu như họ Đào họ Chu, con cháu phồn thịnh, hưởng thọ trường, bởi vì sao tuy hung mà mệnh nhập cách hợp cục cho nên vậy, không phải là hạng hư danh hư lợi.
Sao đắc hạ cách mà số đắc trung cách là đệ bát, áo cơm không thiếu thốn.
sao đắc hạ cách mà số đắc hạ cách là đệ cửu, cay đắng bôn ba, bần cùng chết yểu.
Ba đẳng cấp thượng trung hạ, y theo lý lẽ mà đoán, tất sẽ trên thì có thể biết được nguồn gốc của tổ tông và dưới thì có thể biết được thịnh suy của đời con cháu.
4. Luận mệnh nam nữ giống nhau, khác nhau
Nam nữ mệnh không như nhau, các sao đều khác biệt.
Nam mệnh thì trước xem Thân Mệnh, sau xem Tài Bạch Quan Lộc Thiên Di, nếu đều miếu vượng thì là cát mà lạc hãm tụ hung thì là hung. Thứ ba xem Phúc Đức, có Quyền Lộc Kiếp Không miếu hãm cát kị như thế nào. Lại xem ba cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Tức có Kiếp Không Sát Kị ra sao, nếu có thì là số mệnh của tăng đạo, bằng không thì là số của kẻ bần cùng cô độc. Phải xem xét cho cẩn thận kỹ lưỡng, mới có thể đoán họa phúc vinh nhục của người ta được.
Nữ mệnh thì trước xem Thân Mệnh cát hung ra sao, như Tham Lang Thất Sát Kình Dương tất sẽ là không đẹp. Thứ khán Phúc Đức cung cát hung thế nào, nếu Thất Sát đơn thủ Phúc Đức thì tất sẽ là tỳ thiếp kỹ xướng. Thứ ba là xem đến Phu cung, thứ tư xem Tử Tức Tài Bạch Điền Trạch. Nếu Đào Hoa Hình Sát Bại Tuyệt Không Vong là hung, nếu các cát tinh miếu vượng thì là tốt đẹp, dẫu cho có khó khăn gian khổ nghèo khốn thì cũng không là hạ tiện yểu chiết được. Nữ nhân mà cung Phu quý thì mới quý, chứ nữ mà cung Mệnh có quý cách cũng vô dụng, bởi vì các cung Phu, Phúc Đức, Tử Tức mới là chính cường cung. Các cung Điền Trạch Tài Bạch là thứ cường cung. Các cung Quan Lộc Thiên Di có Thất Sát là hãm.
5. Luận mệnh tiểu nhi
Tiểu nhi có Bác Sĩ, Lực Sĩ thì phần trên ngắn mà phần dưới dài. Có Thanh Long, Tướng Quân thì má và hàm nhỏ mà đầu thì tròn. Có Đại Hao thì mũi hếch môi co. Có Tử Phù, Bệnh Phù thì tiếng cao tính mạnh mẽ. Có Quan Phủ, Tấu thư gặp ác diệu thì lúc chào đời không có khóc (vô thanh). Có Bạch Hổ, Thái Tuế gặp Thất Sát thì lúc thơ ấu ốm yếu bị tổn thưởng.
Nên phân sinh khắc chế hóa của các cung phận, thêm khán giờ sinh, lộc ở suy bại địa, sau mới xem Quan Sát mới biết cùng thông của thọ yểu được.
Tiểu nhi sơ sinh, trong Mệnh có các sao miếu vượng, đại tiểu nhị hạn đi đến Mùi, đoán là nó ít tai nạn, dễ nuôi, không khắc phụ mẫu. Nếu Mệnh tọa cùng ác sát và cung hãm nhược, đại tiểu nhị hạn đến Mùi, đoán là nó lắm tai nhiều nạn, khó nuôi, hình khắc cha mẹ.
* Định giờ sinh của tiểu nhi
Tý Ngọ Mão Dậu đơn đính môn,
Hoặc thiên tả biên nhị tam phân,
Dần Thân Tị Hợi diệc đơn đính,
Thiên cư hữu khứ thủy vi chân,
Thìn Tuất Sửu Mùi thị song đính,
Bào thai thụ định chính thì thần.
(Tý Ngọ Mão Dậu một xoáy đầu
Có thể lệch trái hai ba phần
Dần Thân Tị Hợi cũng một xoáy
Lệch về bên phải chẳng thể lầm
Thìn Tuất Sửu Mùi hai xoáy rõ
Nhớ để mà so định thời thần).
Lại viết:
Tý Ngọ Mão Dậu diện hướng thiên,
Dần Thân Tị Hợi trắc thân miên,
Thìn Tuất Sửu Mùi kiểm phục địa,
Lâm bồn đương thí dụng tâm kiên.
(Tý Ngọ Mão Dậu mặt hướng lên
Dần Thân Tị Hợi nghiêng một bên
Thìn Tuất Sửu Mùi trông xuống dưới
Tư thế sinh theo các giờ trên).
7. Luận giờ sinh an Mệnh cát hung
Phàm nam nữ sinh tại Dần Ngọ Tuất Thân Tý Thìn là sáu giờ dương, an Mệnh tại các cung dương ấy thì được cát lợi. Nếu sinh vào Hợi Mão Mùi Tị Dậu Sửu là sáu giờ âm, an Mệnh tại sáu cung âm ấy thì được cát lợi. Ngược lại thì kém được toại ý.
8. Luận suy xét giờ sinh chính xác.
Như người sinh vào hai giờ Hợi Tý là rất khó xác định, muốn chuẩn xác phải xem kỹ càng xét tường tận. Như giờ Tý có 10 khắc, thì 5 khắc đầu thuộc giờ Hợi của đêm hôm qua, 5 khắc sau thuộc giờ Tý của ngày hôm nay (QNB chú: tức sách muốn nói chia giờ Tý ra làm 2 phần gồm Sơ Tý ứng với lúc 23h00′-23h59′ của hiện đại thì lập số theo giờ Hợi của ngày hôm qua, và Chính Tý là ứng với lúc 0h00′-1h59′ thì lập số theo giờ Tý của ngày hôm nay). Nếu như vào ngày âm u mưa gió dầm dề, cần phải lấy La Kinh dùng để xác định thời gian chính xác. Nếu giờ mà sai ngoa thì mệnh không chuẩn vậy.
9. Luận tiểu nhi khắc người thân
Như người tuổi Dần Ngọ Tị Dậu mà sinh vào các giờ Thìn Tuất Sửu Mùi thì tối độc, còn người tuổi Tý Thân Hợi Mão thì đỡ hơn.
Nếu người tuổi Dần Hợi Tị mà sinh vào các giờ Ngọ Thân Dậu Hợi thì chủ khắc cha trước, quá 16 tuổi thì không còn đáng ngại nữa.
Nếu người tuổi Thìn Tị Sửu Mùi mà sinh vào các giờ Tý Ngọ Mão Dậu Tị Hợi Thân thì chủ khắc mẹ trước.
10. Luận mệnh trước sau giàu nghèo
Người sinh ra ở trong nhà giàu có, cả đời vui sướng hưởng phúc, tài quan hiển đạt, vợ sang con quý, nô bộc thành hàng, thanh danh được hiển hiện. Giữa lúc đó bỗng bị hại, người ly biệt, tiền tài tiêu tán, cháy nhà, quan tụng thị phi, thân mang tang chế, những mệnh kiểu ấy là mệnh hỏng vậy. Đều là hạn bộ gặp phải đại tiểu hạn nhị hạn và thái tuế tương xung chiếu tọa thủ có nhiều sát hung tinh, cho nên bị phá bại, chẳng nghèo túng thì tổn thọ vậy. Ấy được gọi là “tiên thành hậu bại, tiên đại hậu tiểu” vậy.
Lại có nhân mệnh xuất thân hèn kém, thường thay đổi nhiều nghề di chuyển nơi ở để mà kiếm sống, làm kỹ công, cửu lưu, y thuật, lại vừa làm ruộng vườn… lúc đầu trải qua gian khổ mà qua ngày. Tới trung niên và cuối đời thì đường đời bằng phẳng được thăng tiến, phát tài mà khiến cho cả làng cả nước phải nể sợ. Nguyên nhân do tại cục thuộc trung và hậu vận có được hạn bộ tương phù, các sao gặp cát diệu lại đồng thời miếu vượng, theo đó mà đột nhiên phát đạt tăng tiến tài lộc. Ấy được gọi là “Tiền bần hậu phúc, tiền tiểu hậu đại” vậy.
11. Luận mười năm đại hạn họa phúc như thế nào
Như cung phận, tinh triền mà có toàn cát tinh miếu vượng đắc địa, không có Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp, thì chủ 10 năm được an tĩnh, người và tài sản được toàn mỹ. Nếu trong hạn có Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không hóa Kị đi cùng thì thành bại thất thường.
Nếu như cung phận, tinh triền mà hãm địa, gặp Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không Kị, lại có thêm lưu niên ác sát tụ tập hội hợp, và tiểu hạn gặp hung sát thì tất có quan tai, tử vong lập tức đến.
Đại hạn tương xuất mà có các cát tinh thì không có tai vạ, có ít cát tinh thì lắm tai vạ mà tổn người phá tài bất lợi.
Phàm hành hạn tới Dần Thân Tị Hợi Tý Ngọ cung mà gặp Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Thái Dương, Thái Âm, Xương Khúc, Lộc Tồn Lộc chủ, cát tinh… thì chủ có thêm người và tiền tài tăng tiến hưng vượng, gia cảnh vui mừng. Hành hạn tới Thìn Tuất Sửu Mùi Mão Dậu mà gặp ác sát, Liêm Trinh, Thiên Sứ, Kình Đà, Hỏa Linh, Không Kiếp, Kị, thì chủ nhân đắm chìm tửu sắc, phá tài nghèo khổ, mệt nhọc, thừa sống thiếu chết. Hành hạn mà gặp Tả Hữu, Xương Khúc, thì kẻ quan thuyên chuyển thêm chức, học trò dân thường được phát tài, nữ nhân có hỉ sự, tăng đạo cũng được lợi, kẻ buôn bán thì trúng mánh.
Phàm đại tiểu nhị hạn và Thái Tuế, rất e ngại đi tới chỗ giáp với Thiên Thương Thiên Sứ, sợ gặp phải chỗ của Thiên Không Địa Kiếp, sợ đi vào đất của Kình Dương Đà La hay có Kình Đà xung chiếu… e rằng khó mà thoát được hung hạn. Rủi như gặp phải hung hạn lại sợ gặp Thương Sứ Kiếp Không Kình Đà giáp với tuế hạn. Như Thiên Thương tại Tý và Thiên Sứ tại Dần, tuế hạn ở Sửu cung, đó chính là giáp vậy.
(Tại sao) Kình Đà thủ ngay tại Mệnh còn vô dụng huống hồ là giáp hạn, vẫn vượt qua được hạn đó. Ấy là cần phải xem các Thọ tinh như Tử Vi, Thiên Đồng, Thiên Lương, Tham Lang (mieus vượng, không có sát tinh cùng) tọa ở Mệnh thì có thể giải được vậy.
Nên xem thêm Nguyệt gặp ác sát, Nhật gặp ác sát (QNB chú: có lẽ muốn nói đến Nguyệt hạn và Nhật hạn gặp phải ác sát tinh như thế nào) thì hội họp thêm Đại Tiểu hạn, Tuế hạn, Nguyệt hạn, Nhật hạn, Thời hạn, năm yếu tố để tham khảo cho tường tận cát hung mà suy đoán.
Thái Tuế đi tới chỗ Tấu Thư, Tướng Quân, Trực Phù (QNB chú: độc giả lưu ý nhớ lại rằng theo sách này có 2 bộ Tấu-Tướng-Phù, một là an theo Thiên Can thuộc vòng Bác Sĩ, còn một là an theo Địa Chi mà họ gọi là “phi thiên tam sát”), Thiên Sứ, Thiên Thương, Kình Đà Linh Hỏa, Kiếp Không, Hóa Kị, chỉ cần gặp 1, 2 vị thôi cũng đủ khiến cho người ly tài tán, dấu hiệu của bệnh tật khóc lóc buồn đau. Nếu tuế hạn phạm trùng nhật hạn nguyệt hạn có 1, 2 vị lại gặp Hóa Kị hội hợp thì kẻ quan lại bị khiển trách truất giáng, người thường gặp sự ngang trái hung bạo bất ngờ, đàn bà tổn thất thai nhi, kẻ đang bệnh sẽ chết. Nếu sát tinh ở tại chỗ không đắc địa thì càng thêm cuồng bạo như gió bão. Nếu tuế hạn lâm vào chỗ không có cát tinh, ở trong cung Mệnh không có cứu giải thì chắc chắn năm ấy khó mà qua được, tất sẽ tử vong.
12. Luận nhị hạn thái tuế cát hung
Nên xem cho tường tận đại hạn độc thủ cát hung như thế nào, tiểu hạn độc thủ cát hung ra làm sao, thái tuế độc thủ cát cung thế nào. Nếu như tuế hạn đều hung thì chắc chắn hung.
Lại khán đại hạn tương phùng tiểu hạn gặp phải cát hung như thế nào, đại hạn phùng thái tuế cát hung ra làm sao, tiểu hạn gặp thái tuế cát hung như thế nào, rồi mới định ra họa phúc được.
Rồi lại khán thái tuế xung với đại hạn tiểu hạn, thái tuế xung Kình Đà Thất Sát, như thế mới đoán ra cát hung.
13. Luận hành hạn phân Nam Bắc đẩu
Dương nam Âm nữ, thì Nam đẩu là phúc.
Âm nam Dương nữ, thì Bắc đẩu là phúc.
Các sao Bắc đẩu cát hung thế nào, vào đại hạn thì đoán rằng ứng kỳ ở 5 năm cuối, vào tiểu hạn đoán ứng kỳ là nửa cuối năm.
14. Luận lưu niên thái tuế cát hung
Phàm Thái Tuế thì khán tam phương cùng đối chiếu cung xem tinh thần cát hung như thế nào mà định họa phúc. Thái Tuế đi đến tại Mệnh cung thì họa phúc càng thêm khẩn trương. Như an Mệnh tại cung Tý mà Thái Tuế đến Tý lại là người tuổi Quý thì gặp cát sẽ cát mà gặp hung sẽ hung.
15. Luận âm chất duyên thọ
Âm đức duyên thọ ngầm định sinh mọi phúc phần, dẫu cho gặp “đảo hạn” (tạm hiểu là hạn xấu, hạn sụp đổ, thất bại… xin xem thêm câu “Lộc đảo, Mã đảo…”) vẫn không gặp tổn thương hay bị hại. Giả như, có người đại tiểu hạn và thái tuế đến chỗ hung hãm địa, nhưng có duyên thọ vượt quá số tuổi ở hạn ấy thì không thể chết được, đó chính là “nhân tằng hành âm đằng” (tằng tổ – người cụ đã khuất – làm âm đức bốc lên, tạo phúc cho đương số), ngày thường làm việc cứu tế cho người khác, tu thân tích đức, để làm thiện giáng phúc, nên tuy gặp hung nhưng không bại được vậy.
Giống như Tống Giao bện cái cầu cói để cứu độ đàn kiến vậy.
(QNB chú: trong sách Âm Chất – một quyển sách khuyến thiện của Đạo giáo, nguyên có tên là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn, có chép rằng “Tống Giao có lần thấy đàn kiến bị nước dâng lên rất nguy cấp bèn bện dây cói lại làm cầu để cứu đàn kiến thoát khỏi cảnh bị nước cuốn trôi. Đến kỳ lên kinh ứng thí, giữa đường 2 anh em Tống Giao gặp thầy tướng số, ông này nói Số của Tống Giao không thể đỗ cao hơn người em mà Tướng của chàng lại biểu thị đỗ tới Trạng Nguyên thì quả là sự kỳ diệu lạ thường, có lẽ chàng đã cứu vớt hàng ngàn sinh linh mới được như vậy. Quả nhiên lúc chấm thi thì Tống Giao đỗ thứ 10 còn em là Tống Kỳ lại đỗ Trạng Nguyên. Trình lên Vua xem thì nói Tống Kỳ quá trẻ có tài năng, đỗ cao hơn, xếp trên cả anh thì e rằng sau này sinh kiêu ngạo mà không phải đạo, nay chấm cho Tống Giao đỗ đầu, chấm Tống Kỳ đứng thứ 10).
Lại như Gia Cát Lượng hỏa thiêu đạo quân giáp mây, ấy là hại người độc ác mà giảm thọ 10 năm vậy (QNB chú: Xin xem thêm Tam Quốc Chí, hồi 90, Khổng Minh đánh Mạnh Hoạch và Ngột Đột Cốt, thiêu chết 3 vạn mạng ở hang Xà Bàn).
16. Luận Kình Đà trùng điệp
Như người sinh năm Canh, cung Mệnh an tại Mão, cung Thiên Di tại Dậu, là Mệnh gặp cả Kình Đà xung, chiếu. Lại như hạn lưu niên cũng là năm Canh, (lưu) Lộc Tồn ở cung Thân (khỉ), lưu Kình tại Dậu, lưu Đà tại Mùi. Như vậy, Mệnh tại Mão cung vốn bị Kình Dương xung hợp, lưu niên lại thêm lưu Kình, lưu Đà, ấy gọi là “Dương Đà điệt tinh” (Kình Đà trùng điệp).
17. Luận Thất Sát trùng phùng
Như trong tam hợp Mệnh vốn có Thất Sát thủ chiếu, mà lưu niên lại gặp lưu Kình lưu Đà xung chiếu thì hung lắm, Thất Sát trùng phùng hai vị ấy là họa tối độc, nếu nhập miếu thì tai họa giảm nhẹ, còn nếu như hãm địa gặp Kị và lại là ở Mão Dậu gặp Kình Dương, thì người tuổi Ngọ vô cùng bất lợi vậy.
Song, Thất Sát gặp nhiều cát diệu cũng chuyển hung hóa cát, không thể nhất định cứ luận là hung được. Kình Đà Thất Sát gặp Tử Vi Phủ Tướng Lộc Tồn ở tam phương tứ chính củng chiếu thì có thể giải được.
Thơ viết:
Dương Đà điệt tinh mệnh nan đào,
Thất Sát trùng phùng họa tất tao,
Thái tuế nhị hạn lâm thử địa,
Thập sinh cửu tử bất kiên lao.
(Kình Đà trùng điệp khó thoát thay
Thất Sát trùng phùng họa nạn bày
Thái tuế nhị hạn vào chỗ ấy
Thập tử nhất sinh, nguy khốn ngay).
18. Luận đại tiểu hạn tinh thần qua 12 cung gặp 12 Chi sở kị
Nhân sinh Tý mệnh kị Dần Thân
Sửu Ngọ sinh nhân Sửu Ngọ sân
Dần Mão chi nhân phòng Tị Hợi
Long Xà thiết kị bản thân lâm
Thân nhân Linh Hỏa tai ương trọng
Mùi ngộ Trư Kê mộ hoạn ân
Tuất Hợi Dương Đà tu tị kị
Dậu nhân Đà Nhận diệc phi thân
(Người sinh năm Tý kị Dần Thân
Sửu Ngọ sợ qua Sửu Ngọ phần
Dần Mão đề phòng nơi Tị Hợi
Cả Thìn lẫn Tị hãi bản thân
Tuổi Thân chỉ sợ phùng Linh Hỏa
Mùi gặp tai ương Dậu Hợi lâm
Tuất Hợi, Kình Đà nên tránh né
Dậu kia Đà Nhận chẳng nên gần).
Giả như người sinh năm Tý phải kiêng nhất tuế hạn Dần Thân, tai họa rất nặng, và kiêng cả tuế hạn Tý Ngọ trùng xung.
Giả như người sinh năm Sửu năm Ngọ thì phải kiêng kị tuế hạn Sửu Ngọ và kị Thất Sát tinh, tai họa rất nặng.
Giả như người sinh năm Dần Mão thì kiêng kị tuế hạn Tị Hợi, và Mão Dậu Dần Thân tương xung.
Giả như người sinh năm Tị thì kị gặp năm Tị và kị hạn đi đến cung Tị. Người sinh năm Thìn thì kị gặp năm Thìn lại kị hạn đi đến cung Thìn là Thiên La, cũng lại kị cả hạn đến cung Tuất là Địa Võng. Hạn gặp nhủ thế thì tai họa, tật ách hung hiểm, quan tụng thị phi, phá tán tài sản, ưu phiền tang chế liên miên.
Giả như người tuổi Thân thì kiêng kị gặp 2 sao Hỏa Linh, tất sẽ chủ tai họa rất nặng và cũng kị năm Dần tương xung.
Giả như người tuổi Mùi thì kiêng kị gặp tuế hạn Dậu Hợi, lại kị gặp Kình Dương tại tứ Mộ cung.
Giả như người tuổi Tuất Hợi thì kiêng kị gặp Kình Đà vì dễ có tai họa lớn. Người tuổi Tuất lại hành hạn đến tuế hạn cũng như Tuất cung là Địa Võng, đến tuế hạn cũng như Thìn cung là Thiên La, đều là chỗ kị cả, ấy là Thìn Tuất tương xung bất mỹ.
Giả như người sinh năm Dậu cũng kị gặp tuế hạn có Kình Đà và kị hạn đi đến cung Mão, lại kị cả năm Mão có Tuế Quân tương xung.
Ngoài ra:
Trư Khuyển sinh nhân mạc ngộ Xà
Thìn Tuất thiết kị đáo Võng La
Dự tiên chỉnh đốn y quan mộc
Vị miễn sinh nhân xướng vãn ca
(Tuất Hợi chớ có gặp Xà
Tuất Thìn kiêng kị Võng La thiên bàn
Bằng không hãy sắm áo quan
Viết bài tang điếu người than khóc cùng).
19. Luận lập Mệnh hành hạn cung ca
Kim nhân ngộ Khảm mệnh tu thương,
Mộc mệnh lạc Ly hữu họa ương,
Thủy ngộ Cấn cung ứng kiển trệ,
Hỏa lai Đoài thượng họa nạn tàng,
Thổ đáo Đông Nam phùng Chấn Tốn,
Tu phòng nùng huyết cập kinh hoàng,
Túng nhiên cát diệu tương phùng chiếu,
Vị miễn quan tai nháo nhất tràng.
(Kẻ Kim gặp Khảm họa tai vương
Người Mộc lạc Ly có tổn thương
Thủy gặp Cấn cung thì bế tắc
Hỏa vào Đoài xứ chẳng bình thường
Đông Nam Chấn Tốn nguy cho Thổ
Phòng nạn kinh hoàng đổ máu xương
Cát diệu chẳng phùng mà cứu giải
Thị phi quan tụng loạn công đường).
20. Luận thái tuế tiểu hạn tinh thần miếu hãm gặp cát hung trong 12 cung
Dựa vào cái này để phán đoán các năm hành hạn của người ta tai nạn ra sao ứng như thần.
*
Năm Tý, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Tý cung, nhập miếu hóa cát:
Có Thất Sát Phá Quân tại Tý cung thủ tuế hạn thì người tuổi Quý Canh Kỷ được phát phúc. Cự Môn Thiên Cơ (ở đó) thì người tuổi Ất Quý được phát phúc. Có Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, thì người tuổi Đinh Kỷ Canh được vượng tiền tài và xứng ý toại lòng. Còn có Thiên Đồng thì người tuổi Bính Đinh được tài quan song mỹ.
Năm Tý, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Tý cung, không nhập miếu hóa hung:
Có Tử Vi tại Tý cung thủ mệnh, đến tuế hạn thì người tuổi Bính Mậu không được tốt lành, có phá tài, tai ương.
Năm Tý, Thái Tuế gặp các cát hung tinh:
Có Lộc Tồn, Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thái Âm, Xương Khúc, Phụ Bật, Phá Quân, Thiên Tướng, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Thiên Phủ, Cự Môn, Thất Sát, thì có thể đoán năm ấy người và tài lộc đều được lưỡng toàn song mỹ, vạn sự xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Tham Lang, Tử Vi, Thiên Lương, Hóa Kị, Thái Dương, Kình Dương, thì liền đoán người hao tài tán, tang chế hiếu phục, bản thân xui xẻo chẳng được an lành, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Sửu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Sửu cung nhập miếu hóa cát:
Có Thiên Cơ tại Sửu thủ mệnh thì người tuổi Bính Tân được phát vượng. Thiên Tướng (tại Sửu) thì người tuổi Mậu phát vượng. Thái Âm, Vũ Khúc (tại Sửu năm Sửu) thì người Bính Mậu được phát vượng. Thiên Phủ, Liêm Trinh (ở đó) thì người tuổi Mậu phát vượng. Thiên Lương thì người tuổi Mậu Tân được phát vượng.
Năm Sửu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Sửu cung không nhập miếu hóa hung:
Có Thái Âm tại Sửu cung thủ Mệnh thì người tuổi Mậu “hối lận” (tức là: xui xẻo không gặp lành. Sau đây chỉ dùng từ “hối lận” cho đúng thuật ngữ huyền học). Thái Dương (tại Sửu) thì người tuổi Giáp Ất hối lận. Thiên Cơ thì người tuổi Bính Tân Quý hối lận. Thiên Đồng, Liêm Trinh thì người tuổi Đinh Canh chiêu chuốc quan tụng thị phi.
Năm Sửu, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thái Âm, Thiên Phủ, Lộc Tồn, Liêm Trinh, Phá Quân, Xương Khúc, Thiên Ki, Phụ Bật, thì có thể đoán là năm ấy mọi sự đều xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Thiên Đồng, Cự Môn, Vũ Khúc, Tham Lang, Hóa Kị, Thái Dương, Kình Dương, bèn đoán là năm ấy người tán tài hao, quan tai, khẩu thiệt, có tang chế, bản thân gặp phải hối lận, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Dần, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Dần cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Lương, Thất Sát, thì người tuổi Giáp Canh Đinh Kỷ được tài quan song mỹ.
Năm Dần, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Dần cung không nhập miếu hóa hung:
Có Liêm Trinh, Phá Quân, Tham Lang tại Dần thì người tuổi Bính Mậu chiêu chuốc quan tụng thị phi. Người tuổi Giáp tuổi Tý đều kị tuế hạn đến Dần Thân.
Năm Dần, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Cơ, Thái Âm, Vũ Khúc, Thất Sát, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thái Dương, Cự Môn, Thiên Lương, bèn đoán là năm ấy người và tiền tài đều tăng tiến, lợi ích, vào việc gì cũng xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Tham Lang, Đà La, Hóa Kị, bèn đoán năm ấy người ly tài tán, quan tụng, thị phi, bản thân thấy tai vạ, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Mão, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến Mão cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Thiên Tướng, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Vũ khúc tại Mệnh thì người tuổi Ất Tân được phát vượng.
Năm Mão, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Mão cung khồng nhập miếu hóa hung:
Có Liêm Trinh thì người tuổi Giáp Bình vụt chốc phá tài. Thái Âm thì người tuổi Giáp Ất bị người ly tài tán, tai bệnh, người tuổi Canh cũng chẳng hợp nên chủ tai họa bệnh tật.
Năm Mão, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Thái Âm, Thiên Lương, Tử Vi, Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Phủ, Tham Lang, Cự Môn, Thất Sát, thì đoán là năm ấy người và tiền tài đều được hưng vượng, hôn nhân hỉ sự trùng trùng, mọi việc đều được xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Liêm Trinh, Phá Quân, Thái Âm, Thiên Tướng, Kình Dương, Hóa Kị, thì đoán năm ấy phá tài, bị quan tai khẩu thiệt, bản thân thấy hối lận, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Thìn, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Thìn cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Tham Lang, Thất Sát tại thìn cung thủ mệnh hạn thì người tuổi Quý Giáp được tài quan lộc đều vượng. Thiên cơ, Thái Dương thì người tuổi Đinh, Canh, Quý được tài quan lộc vượng. Thiên Đồng thì người tuổi Mậu Canh Quý được thuận lợi toại ý. Cự Môn thì người tuổi Bính Tân được toại ý.
Năm Thìn, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến cung Thìn không nhập miếu hóa hung:
Có Tham Lang, Vũ Khúc tại Thìn cung thì người tuổi Nhâm Quý có tai nạn, hối lận. Thiên Đồng, Cự Môn thì người tuổi Đinh Canh có tai vạ, hối lận. Liêm Trinh thì người tuổi Nhâm Quý có tai hối rất nặng. Thái Âm, Thái Dương, Thiên Cơ thì người tuổi Giáp Ất Mậu Kỷ có tai vạ, hối lận.
Năm Thìn, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Thái Dương, Thiên Cơ, Thiên Lương, Thất Sát, Tham Lang, Văn Xương, Tả Phụ, Hữu Hật, bèn đoán là năm ấy có nhiều tài lộc tăng tiến, gia đạo thêm hưng thịnh, thêm người tăng khẩu, hôn nhân hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặp Tử Vi, Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Thái Âm, Cự Môn, Thiên Tướng, Phá Quân, Hóa Kị, bèn đoán năm ấy phá tài, có tang chế, bị quan tai khẩu thiệt.
*
Năm Tị, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Tị cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Cự Môn Thiên Tướng, Thiên Lương, Phá Quân, thì người tuổi Bính Mậu Tân được phát phúc. Thái Âm, Thiên Cơ, thì người tuổi Đinh, Nhâm, Tân, Bính bị phá tài. Tham Lang thì người tuổi Giáp Mậu được không đáng kể.
Năm Tị, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Tị không nhập miếu hóa hung:
Có Cự Môn, Tham Lang thì người tuổi Quý Bính sẽ gặp khẩu thiệt, tai vạ, hối lận. Thái Âm, Phá Quân cũng chủ tai vạ, hối lận, đa đoan.
Năm Tị, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thái Dương, Thiên Đồng, Thiên Phủ, Thiên Lương, Lộc Tồn, bèn đoán năm ấy người và tiền tài đều được xứng ý, hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặp Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Phá Quân, Hóa Kị, thì bèn đoán năm đấy người mất tài tan, quan tai khẩu thiệt, bản thân bệnh hoạn, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Ngọ, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến cung Ngọ nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Thiên Lương, Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, thì người tuổi Đinh Kỷ Giáp Quý được tiền tài tăng tiến, xứng ý toại tâm.
Năm Ngọ, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến cung Ngọ không nhập miếu hóa hung:
Có Tham Lang tại Bính Ngọ thì người tuổi Nhâm Quý bị phá tán tiền tài, quan tai khẩu thiệt.
Năm Ngọ, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thiên Tướng, Cự Môn, Thiên Lương, Phá Quân, Lộc Tồn, liền đoán là năm ấy người và tiền tài đều được hưng vượng, hôn nhân hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặpThái Âm, Thiên Đồng, Tham Lang, Kình, Đà, Hóa Kị, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài phá bại, quan tai khẩu thiệt, có tang chế, bản thân có tai ách thì có thể tránh được.
*
Năm Mùi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Mùi cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Cơ, Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương thì người tuổi Nhâm Ất được phát phúc, người tuổi Canh Nhâm được phát phúc sinh tiền tài.
Năm Mùi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Mùi cung không nhập miếu hóa hung:
Có Thái Dương thì người tuổi Giáp Ất lắm tai vạ, hối lận. Thiên Đồng thì người tuổi Đinh, Canh lắm tai nạn. Vũ Khcus thì người tuổi Nhâm Quý gặp tai vạ, chiêu chuốc quan tụng thị phi, hoạnh họa.
Năm Mùi, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Liêm Trinh, Thiên Cơ, Phá Quân, Thiên Tướng, liền đoán năm ấy người tăng tài lợi, vào việc đều được như ý, hôn nhân hỉ sự được vui mừng.
Nếu gặp Thái Âm, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Tham Lang, Cự Môn, Kình Đà, Hóa Kị thì liền đoán năm ấy người hao tài tán, quan tai tang chế, tỳ thiếp kẻ nhỏ trong nhà không được bình an, bản thân khó miễn được tai ách.
*
Năm Thân, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Thân nhập miếu hóa cát:
Có Liêm Trinh, Phá Quân, Tử Vi, thì người tuổi Giáp Canh Quý được phát phúc. Cự Môn thì người tuổi Giáp canh Quý được phát phúc. Thiên cơ thì người tuổi Đinh Giáp Quý được phát phúc, người tuổi Canh cũng phát phúc và phát tài.
Năm Thân, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Thân không nhập miếu hóa hung:
Có Thiên Cơ thì người tuổi Ất Mậu gặp tai vạ, hối lận. Cự Môn thì người tuổi Đinh không hợp. Liêm Trinh thì người tuổi Bính Nhâm có tai vạ. Thiên Đồng thì người tuổi Giáp Canh có tai họa. Tham lang thì người tuổi Quý Bính có tai họa.
Năm Thân, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thái Dương, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Cự Môn, Thất Sát, Văn Xương, Vũ Khúc, Lộc Tồn, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài đều có cát lợi, hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặp Thiên cơ, Thiên Đồng, Thiên Lương, Thiên Tướng, Thái Âm, Phá Quân, Hóa Kị, thì liền đoán năm đó người mất tài tan, quan tụng thị phi, tang chế, bản thân có tai bệnh.
*
Năm Dậu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn tới cung Dậu nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên cơ, Thái Âm tại Dậu cung thủ mệnh thì người tuổi Bính Mậu Ất Tân được tiến tài tăng lộc, cát lợi.
Năm Dậu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn tới cung Dậu không nhập miếu hóa hung:
Có Thái Dương Thiên Đồng thì người tuổi Giáp Ất không hợp. Vũ Khúc thì người tuổi Canh Nhâm không hợp. Thiên Tướng thì người tuổi Giáp Canh không hợp. Liêm Trinh thì người tuổi Giáp Canh Bính Tân không hợp. Thiên Phủ thì người tuổi Giáp Canh Nhâm không hợp.
Năm Dậu, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Lộc Tồn, Thái Âm, Tử Vi, Thiên Phủ, Xương Khúc, Tả Hữu, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài được hưng vượng, vào việc được xứng ý toại lòng.
Nếu như gặp Thiên Cơ, Cự Môn, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Kình Dương, Đà La, Hóa Kị thì liền đoán năm đó người ly tài tán, khẩu thiệt quan tụng thị phi.
*
Năm Tuất, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Tuất nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi thì người tuổi Nhâm Giáp Đinh Kỷ được tiến tài tăng lộc. Thái Âm thì người tuổi Đinh Kỷ được vui mừng tốt đẹp. Vũ Khúc thì người tuổi Đinh Kỷ Giáp Canh được vui mừng tốt đẹp. Thiên Cơ thì người tuổi Giáp Ất Đinh Kỷ phát phúc. Cự Môn thì người tuổi Kỷ Tân Quý được phát phúc. Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân thì người tuổi Đinh Kỷ Giáp được phát tài.
Năm Tuất, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Tuất không nhập miếu hóa hung:
Có Tham Lang thì người tuổi Quý không hợp. Thiên Đồng thì người tuổi Canh không hợp. Thiên Cơ thì người tuổi Mậu không hợp. Cự Môn thì người tuổi Đinh không hợp. Thái Dương thì người tuổi Giáp không hợp. Liêm Trinh thì người tuổi Bính không hợp. Vũ Khúc thì người tuổi Nhâm không hợp.
Năm Tuất, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Lương, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thất Sát, Tham Lang, Tả, Hữu, Thiên Đồng, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài đều được lợi ích, vào việc được xứng ý toại lòng, gia đạo hưng long.
Nếu như gặp Cự Môn, Thái Dương, Phá Quân, Tử Vi, Thiên Tướng, Hóa Kị, thì liền đoán năm ấy người suy tiền tài mất, có tang gia, quan tai, bản thân cũng có bệnh tật.
*
Năm Hợi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Hợi nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Đồng, Cự Môn, Thiên Lương, thì người tuổi Nhâm Quý được tốt đẹp vui mừng. Thiên Cơ thì người tuổi Nhâm được tốt lành đẹp đẽ. Thiên Tướng thì người tuổi Đinh Kỷ và Mậu Bính được phát phúc. Thái Âm thì người tuổi Mậu Kỷ được tài quan song mỹ.
Năm Hợi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Hợi không nhập miếu hóa hung:
Có Liêm Trinh thì người tuổi Bính Nhâm Quý không hợp. Vũ Khúc thì người tuổi Nhâm Bính không hợp. Thái Dương thì người tuổi Giáp không hợp.
Năm Hợi, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Thiên Đồng, Thái Âm, Thiên Lương, Tử Vi, Thiên Phủ, Xương Khúc, Lộc Tồn, liền đoán năm ấy người và tiền tài đều được tăng tiến, hỉ khí trùng trùng, mưu sự được xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Liêm Trinh, Phá Quân, Thất Sát, liền đoán năm ấy người hao tài tán, tỳ thiếp và kẻ nhỏ trong nhà tử vong, bản thân tai nạn, hối lận.
21. Luận các sao ở các cung các ti sở mà phân biệt phú quý thọ yểu bần tiện
*
Tử Vi
Miếu: Sửu Mùi Ngọ
Vượng: Dần Thân Mão Dậu Tị Hợi
Bình: Tý
Không hãm
– Tử Vi cư Ngọ vô Hình Kị Giáp Đinh Kỷ mệnh chí công khanh.
(Tử Vi ở Ngọ cung, không gặp phải “Hình”, “Kị” thì người các tuổi Giáp Đinh Kỷ có số làm đến công hầu khanh tướng)
Thêm “Hình”, “Kị” thì bình thường. Hình ở đây là Kình Dương vậy.
(QNB chú: dấu “” là do QNB thêm vào, và theo bình chú của sách này “Hình” là Kình Dương thì QNB cho rằng ta có quyền nghĩ ngay đến “Kị” chính là muốn nói đến Đà La với căn cứ là câu “Kình hóa khí là Hình, Đà hóa khí là Kị”).
– Tử Vi cư Tý Ngọ Khoa Quyền Lộc chiếu tối vi kỳ.
(Tử Vi ở Tý Ngọ có Khoa Quyền Lộc chiếu thì rất là đặc sắc)
Khoa Quyền Lộc tam phương chiếu ấy gọi là “ngưỡng diện triều đẩu” cách.
– Tử Vi nam Hợi nữ Dần cung Nhâm Giáp sinh nhân phú quý đồng.
(Tử Vi ở Hợi đối với Nam, ở Dần đối với Nữ, người tuổi Nhâm Giáp được phú quý như nhau)
Nam Nữ cũng giống như nhau vậy.
– Tử Vi Mão Dậu Kiếp Không tứ sát đa vi thoát tục chi tăng.
(Tử Vi ở Mão Dậu gặp Kiếp Không và Tứ sát thì quả thật là thoát tục đi tu)
Tứ sát ở đây là Kình Đà Hỏa Linh vậy.
– Tử Vi Thiên Phủ toàn ỷ Phụ Bật chi công.
(Tử Vi Thiên Phủ đều phải dựa vào công lao, trợ giúp của Tả Phụ, Hữu Bật)
Tử Phủ đắc Phụ Bật đồng cung, và tam phương củng chiếu gia hội, cả đời phú quý.
– Tử Vi đồng cung vô sát thấu Giáp nhân hưởng phúc chung thân.
(Tử Vi đồng cung và không có sát tinh tụ tập thủ chiếu thì người tuổi Giáp cả đời được hưởng phúc)
Tử Phủ cùng tại Dần Thân cung thủ mệnh, lục Giáp được phú quý.
(QNB chú: Dịch nguyên văn, nhưng tôi cho rằng cụm từ “Tử Vi đồng cung” đã có sự thất bản nào đó, vì nói “đồng cung” thì phải bảo đồng cung với cái gì chứ, hoặc giả là nhầm chữ “Phủ” hoặc chữ “Lộc (Tồn)” thành chữ “Vi”,… nhưng sao câu bình chú bên dưới thì sách chỉ đề cập tới tuổi Giáp mà không nói đến tuổi Canh??? Xin độc giả lưu ý).
– Tử Phủ triều viên hoạt Lộc phùng chung thân phúc hậu chí tam công.
(Tử Phủ chầu về cung Mệnh và gặp được “hoạt Lộc” thì cả đời được hưởng phúc dày, tước vị tới cỡ Tam Công)
Mệnh tọa Dần Thân lại thêm các cát tinh hóa diệu.
– Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa tất định xuất giai công khanh khí.
(Tử Phủ Nhật Nguyệt ở chỗ vượng địa thì thế nào cũng làm công hầu khanh tướng)
Tử Ngọ Phủ Sửu không thêm sát tinh, lại có hóa Lộc thì là vậy.
– Tử Phủ Vũ Khúc lâm Tài Trạch canh kiêm Quyền Lộc phú xa ông
(Tử Phủ Vũ Khúc lâm vào Tài Trạch có thêm Quyền Lộc thì giàu có vô cùng)
Đắc Tả Hữu Lộc Tồn cũng giống thế.
(QNB chú: Tài Trạch = Tài Bạch, Điền Trạch cung???).
– Tử Vi Phụ Bật đồng cung nhất hô bách nặc cư thượng phẩm.
(Tử Vi và Phụ, Bật đồng cung thì hô 1 tiếng có trăm kẻ dạ ran, chức tới thượng phẩm)
Có thể lấy tam phương làm thứ cát, tại Tài Bạch cung thì là tài phú chi quan.
– Tử Phủ Kình Dương tại cự thương.
(Tử Phủ gặp Kình Dương thì là người buôn bán cực lớn)
Có Vũ Khúc cư Thiên Di cũng tốt lành vậy.Lộc đồng cung Nhật Nguyệt chiếu quý bất khả ngôn.
(Tử Vi với Lộc đồng cung, Nhật Nguyệt chiếu thì quý khó mà nói hết)
– Tử Vi Thất Sát hóa quyền phản tác trinh tử.
(Tử Vi Thất Sát hóa Quyền thì phản chuyển thành trụ cột (của quốc gia))
– Tử Vi Phá Quân vô Tả Hữu vô cát diệu hung ác tư lại chi đồ.
(Tử Vi Phá Quân mà không có Tả Hữu, không có cát tinh thì chỉ làm kẻ quan lại nhỏ mà còn hung ác)
– Tử Vi Quyền Lộc ngộ Dương Đà tuy hoạch cát nhi vô đạo.
(Tử Vi có hóa Quyền Lộc lại gặp Kình Đà thì tuy là có may mắn thuận lợi nhưng thuộc loại vô đạo).
Là người có tâm thuật bất chính.
– Tử Phá mệnh lâm ư Thìn Tuất Sửu Mùi tái gia cát diệu phú quý kham kỳ.
(Tử Phá ở Mệnh nơi Thìn Tuất Sửu Mùi, nếu có thêm cát diệu thì mới có thể trông đợi vào giàu sang, quyền quý được).
– Tử Phá Tham Lang vi chí dâm nam nữ tà dâm.
(Tử Phá Tham Lang là rất dâm, nam nữ đều tà dâm).
– Tử Phủ đồng lâm Tị Hợi nhất triêu phú quý song toàn.
(Tử Phủ cùng đến chỗ Tị Hợi thì mai này sẽ được song toàn phú quý)
– Tử Phủ giáp mệnh vi quý cách
(Tử Phủ giáp Mệnh cung là quý cách).
– Tử Vi Xương Khúc phú quý khả kỳ.
(Tử Vi Xương Khúc thì có thể trông đợi phú quý)
– Tử Vi Thái Âm sát diệu phùng nhất sinh tào lại sính anh hùng.
(Tử Vi Thái Âm gặp sát tinh thì cả đời làm quan lại (nhỏ) mà trổ tài năng anh hùng).
– Tử Vi Vũ Khúc Phá Quân hội Dương Đà khi công họa loạn.
(Tử Vi Vũ Khúc Phá Quân mà hội Kình Đà thì dễ ức hiếp công chính dẫn đến họa loạn).
Chỉ hợp với kinh doanh buôn bán.
– Tử Phá Thìn Tuất quân thần bất nghĩa.
(Tử Phá ở Thìn Tuất như tượng vua với bề tôi bất nghĩa)
Mệnh của An Lạc Sơn và Triệu Cao chính là như vậy.
– Nữ mệnh Tử Vi Thái Dương tinh tảo ngộ hiền phu tín khả bằng.
(Nữ mệnh có Tử Vi, Thái Dương thì sớm gặp được chồng là người hiền tài mà có thể tin tưởng làm nơi nương tựa).
Nữ mệnh Tử Vi tại Dần Ngọ Thân cung là tốt lành, vừa quý vừa đẹp lại vượng phu ích tử. Hãm địa bình thường, duy chỉ có ở Tý Dậu Tị Hợi có tứ sát, là “mỹ ngọc hà điểm” về sau không đẹp.
thiên Phủ
Miếu: Tý Sửu Mùi Dần Thìn Tuất
Vượng: Ngọ Dậu
Đắc: Mão Tị Thân Hợi
Không hãm
– Thiên Phủ Tuất cung vô sát thấu Giáp Kỷ nhân yêu kim hựu thả phú.
(Thiên Phủ ở Tuất mà không bị sát tinh tụ tập thì người tuổi Giáp Kỷ vừa giàu có lại được lưng đeo đai vàng, tức là chức vị rất lớn)
– Thiên Phủ cư Ngọ Tuất Thiên Tướng lai triều Giáp nhân nhất phẩm chi quý
(Thiên Phủ ở Ngọ Tuất có Thiên Tướng chầu đến thì người tuổi Giáp được quyền quý tới nhất phẩm).
– Phủ Tướng triều viên thiên chung thực lộc.
(Phủ Tướng chầu về Mệnh viên thì được lộc hàng ngàn chung)
– Thiên Phủ Xương Khúc Tả Hữu cao đệ ân vinh
(Thiên Phủ Xương Khúc Tả Hữu thì có đỗ đạt rất cao, phủ đệ rất to đẹp)
– Thiên Phủ Thiên Tướng Thiên Lương đồng quân thần khánh hội
(Thiên Phủ Thiên Tướng Thiên Lương ở cùng với nhau cũng được coi là vua tôi mừng hội ngộ)
– Thiên Phủ Lộc Tồn Xương Khúc cự vạn chi tư
(Thiên Phủ Lộc Tồn Xương Khúc tụ hội thì giàu có vô cùng)
– Thiên Phủ Vũ Khúc cư Tài Trạch canh kiêm Quyền Lộc phú xa ông
(Thiên Phủ Vũ Khúc ở Tài Trạch có thêm các hóa Quyền Lộc thì giàu có xa hoa).
Có Tả Hữu, Lộc Tồn cũng đẹp tuyệt vời.
Thiên Tướng
Miếu: Tý Ngọ Sửu Dần Thân
Đắc: Thần Tuất Tị Hợi Mùi
Hãm: Mão Dậu
– Thiên Tướng Liêm Trinh Kình Dương lai đa chiêu hình trượng nan đào.
(Thiên Tướng, Liêm Trinh mà có Kình Dương tới thì quả thật là chiêu chuốc lấy & khó thoát được đòn roi và hình phạt của pháp luật).
– Thiên Tướng chi tinh nữ mệnh triền tất đương tử quý cập phu hiền.
(Nữ nhân có Thiên Tướng ở tại triền thứ của cung Mệnh thì tất sẽ có quý tử và có chồng là hiền nhân quân tử).
– Hữu Bật Thiên Tướng phúc lai lâm.
(Hữu Bật đi với Thiên Tướng là phúc đến)
Nữ mệnh Thiên Tướng, Hữu Bật, ở các cung đều cát. Tý cung thì người tuổi Quý, Dần cung người tuổi Quý Kỷ, Thân cung người tuổi Giáp Canh, đều là quý cách. Còn Sửu với Hợi cung không quý.
*
Thiên Lương
Miếu: Tý Ngọ Dần Mão Thìn Tuất
Vượng: Sửu Mùi
Đắc Địa: Dậu
Hãm: Thân Tị Hợi
– Thiên Lương Nguyệt diệu nữ dâm bần
(Nữ mà Mệnh Thân có Thiên Lương Thái Âm hãm thì nghèo và dâm)
Lương ở Tị Hợi Dần Thân thì chủ dâm dật, ở chỗ không hãm thì áo cơm toại ý dư giả nhưng hãm thì hạ tiện.
– Thiên Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển triều đường.
(Thiên Lương cư Ngọ thì được vinh hiển quan chức ở triều đình)
Người tuổi Đinh Kỷ Quý là hợp cách.
– Lương Đồng Tị Hợi nam đa lãng đãng nữ đa dâm
(Lương Đồng ở Tị Hợi thì nam phiêu đãng, nữ lại đa dâm)
Thêm Hình Kị và các sát tinh tấu hợp thì toàn là hạ tiện.
– Thiên Lương Văn Xương cư miếu vượng vị chí đài cương
(Thiên Lương Văn Xương ở nơi miếu địa thì tước vị cao tột bực)
– Thiên Lương thủ chiếu cát tương phùng bình sinh phúc thọ
(Thiên Lương thủ chiếu gặp các cát tinh thì bình sinh thường được hưởng phúc và thọ)
Tại Ngọ là cực đẹp.
– Lương Đồng Cơ Nguyệt Dần Thân vị nhất sinh lợi nghiệp thông minh
(Lương Đồng Cơ Nguyệt ở Dần Thân thì một đời thông minh, sự nghiệp thuận lợi)
– Thiên Lương Thái Dương Xương Lộc hội lư truyện đệ nhất danh
(có cách Dương Lương Xương Lộc là được loa xướng tên đệ nhất, tức là đỗ đầu bảng vàng)
– Lương Vũ Âm Linh nghĩ tác đống lương chi khách
(Lương Vũ Âm Linh thì suy nghĩ và hành động như bậc trụ cột, gánh vác công việc)
– Lương tú Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách
(Mệnh Thân mà có Thiên Lương Thái Âm ở chỗ hãm thì là khách giang hồ phiêu lãng)
Lương cư Dậu, Âm cư Tị chính là vậy.
– Thiên Lương Thiên Mã vi nhân phiêu đãng phong lưu
(Thiên Lương và Thiên Mã (đồng cung Tị Hợi) thì là người phiêu đãng, phong lưu).
– Thiên Lương gia cát tọa Thiên Di thần thương cao cổ
(Thiên Lương có cát tinh cùng ở Thiên Di thì làm người buôn bán lớn)
Thêm Hình Kị thì bình thường.
Thiên Đồng
Miếu: Tị Hợi
Vượng: Tý Thân
Hãm: Ngọ
– Thiên Đồng hội cát thọ nguyên trường
(Thiên Đồng hội cát tinh thì tuổi thọ rất dài)
– Thiên Đồng Tham Dương Đà cư Ngọ vị Bính Tuất trấn ngữ biên cương
(Thiên Đồng Tham Lang Kình Đà cư Ngọ thì người tuổi Bính Tuất trấn ngự nơi biên cương)
Cũng gọi là “mã đầu đới tiễn” vừa phú vừa quý.
– Đồng Nguyệt hãm cung gia sát trọng kỹ nghệ luy hoàng
(Thiên Đồng Thái Âm ở hãm cung có thêm nhiều sát tinh hạng nặng thì làm kỹ nghệ và gầy yếu)
– Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối Đinh nhân mệnh ngộ phản vi giai
(Thiên Đồng ở cung Tuất là hãm địa nhưng người tuổi Đinh gặp lại phản chuyển thành tốt đẹp)
– Nữ mệnh Thiên Đồng tất thị hiền
(Nữ nhân có Thiên Đồng đắc miếu ở Mệnh thì hiền thục)
Người tuổi tý mệnh tọa Dần, người tuổi Tân mệnh tọa Mão, người tuổi Đinh mệnh ở Tuất, là nhập cách. Người tuổi Bính Tân thì trung cát. Người tuổi Kỷ (mà ở) Hợi gặp nó tuy đẹp nhưng mà dâm.
Thiên Cơ
Miếu: Tý Ngọ
Vượng: Thìn Dậu
Hãm: Sửu Mùi
– Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh cư Tuất diệc vi mỹ luận
(Cơ Lương hội hợp thì giỏi chuyện bàn luận binh pháp, cư Tuất cũng luận là đẹp)
Mạnh Tử ở Thiên Di chỗ Tuất cung, có Cơ Lương.
– Cơ Lương thủ mệnh gia cát diệu phú quý từ tường.
(Cơ Lương thủ mệnh mà thêm nhiều cát tinh thì phú quý hiền hậu.)
Thêm Hình Kị thì dễ theo tăng đạo.
– Cơ Lương đồng chiếu Mệnh Thân Không thiên nghi tăng đạo
(Cơ Lương mà cùng chiếu vào Mệnh Thân có Không Vong thì có xu hướng theo tăng đạo)
Cơ hoặc Lương cùng đơn thủ Mệnh Thân, lại phùng Không Vong.
– Cơ Lương Thất Sát Phá Quân trùng vũ khách tăng lưu mệnh sở phùng.
(Cơ Lương Thất Sát Phá Quân xung, Đạo sĩ tăng nhân nếu mệnh phùng)
– Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân.
(có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì thường làm quan lại thuộc ban văn, cấp thấp).
Mệnh tại Dần Thân thì mới luận thế, thêm cát không luận thế, không có cát không có sát thì là kẻ bình thường, nếu có hung sát Không Kiếp Kị thì là hạ cách.
– Cơ Lương Tham Nguyệt đồng cơ hội mộ dạ kinh thương vô miên thụy.
(Cơ Lương Tham Nguyệt cùng nhau thì dễ có cơ hội đi buôn bán lúc chiều đêm – buôn lậu – mà cả đêm không chợp mắt).
Gặp hung tinh thì chủ bôn ba.
– Thiên Cơ gia ác sát đồng cung cẩu thâu thử thiết.
(Thiên Cơ hãm thêm ác sát tinh đồng cung thì là số trộm cắp).
– Thiên Cơ Tị cung Dậu phùng hảo ẩm ly tông gian giảo trọng.
(Thiên Cơ tại Tị mà Mệnh ở Dậu gặp nó chiếu qua thì uống rượu rất giỏi, lìa nhà xa tổ, ranh mãnh, xảo quyệt).
– Cự hãm Thiên Cơ vi phá cách
(Cự hãm cùng Cơ hãm là phá cách)
Nữ mệnh tại Dần Thân Mão Dậu tuy được phú quý nhưng không tránh được dâm dục hạ tiện, ở Dần Thân thủ chiếu thì phúc chẳng được vẹn toàn.
Thái Dương
Miếu: Mão
Vượng: Dần Thìn Tị Ngọ
Hãm: Tý
– Nhật chiếu Lôi Môn Tý Thìn Mão địa trú sinh phú quý thanh dương
(Thái Dương ở cửa nhà sấm, tức cung Chấn – Mão, QNB chú: cụm từ “Tý Thìn Mão địa” này không rõ sách muốn hàm ý gì??? còn “trú sinh” tức là sinh vào ban ngày. Có lẽ sách muốn nói đến cách Nhật chiếu Lôi môn thì người sinh năm Tý Thìn Mão và sinh vào ban ngày sẽ được phú quý khen tặng, biểu dương. Hoặc giả, hiểu theo 1 cách khác thì: Thái Dương ở cung Mão mà Mệnh an tại đất Tý Thìn Mão và sinh ban ngày thì được phú quý khen tặng,.)..
– Thái Dương Văn Xương tại quan lộc hoàng điện triều ban
(Có Thái Dương Văn Xương ở Quan Lộc cung thì chức vị ở ngôi cao trong triều đình).
– Nhật lạc Mùi Thân tại mệnh vị vi nhân tiên cần hậu lãn.
(Thái Dương ở các cung Mùi Thân an Mệnh thì là người trước chăm chỉ sau lại lười nhác).
– Thái Dương cư Ngọ Canh Tân Đinh Kỷ nhân phú quý song toàn.
(Thái Dương cư Ngọ, người tuổi Canh Tân Đinh Kỷ được phú quý song toàn).
– Thái Dương hóa Kị thị phi nhật hữu mục hoàn thương.
(Thái Dương hóa Kị thì lắm điều thị phi hàng ngày, nếu không thì mắt có tổn thương)
– Nữ mệnh đoan chính Thái Dương tinh tảo phối hiền phu tín khả bằng.
(Nữ có Thái Dương thủ Mệnh là người đoan chính, sớm gặp được chồng là hiền nhân quân tử mà nương tựa).
Thái Dương thủ mệnh vậy, hãm thì bình thường. Cư nơi Mão Thìn Tị Ngọ không có sát tinh thì vượng phu ích tử.
*
Thái Âm
Miếu: Hợi Tý Sửu
Vượng: Dần Dậu Tuất
Hãm: Mão Thìn Tị
– Thái Âm cư Tý Bính Đinh phú quý trung lương
(Thái Âm cư Tý thì người tuổi Bính Đinh là trung lương và được phú quý)
Người sinh ban đêm là hợp cục.
– Thái Âm Vũ Khúc Lộc Tồn đồng Tả Hữu tương phùng phú quý ông
(Thái Âm Vũ Khúc Lộc Tồn cùng với Tả Hữu tương phùng thì được phú quý)
– Thái Âm đồng Văn Khúc ư Thê cung thiềm cung chiết quế.
(Thái Âm Văn Khúc đồng cung ở Thê thì vin cành nguyệt quế ở cung trăng, ý nói lấy vợ đẹp con nhà danh gia vọng tộc, được nhờ vợ mà thành đạt…)
– Thái Âm Dương Đà tất chủ nhân ly tài tán
(Thái Âm gặp Kình Đà thì chủ người chia ly, tiền tài hao tán)
– Nguyệt Lãng Thiên Môn ư Hợi địa đăng vân chức chưởng đại quyền
(có cách Nguyệt lãng Thiên Môn ở Hợi thì nhẹ bước thang mây mà chấp chưởng quyền chức to lớn)
Người tuổi Tý sinh đêm là hợp cục, không quý thì đại phú.
– Nguyệt diệu Thiên Lương nữ dâm bần
(Thái Âm, Thiên Lương hãm ở Nữ Mệnh là vừa nghèo vừa dâm)
Thái Âm Dần Thân Tị thì hay dâm bần hoặc là tỳ thiếp. Nếu Tham Lang, Xương Khúc cùng ở vào cung Phu thì tất sẽ kết phối được với chồng là người hiền minh (???)
– Nhật Tị Nguyệt Dậu Sửu cung mệnh bộ thiềm cung
(Mệnh an tại Sửu có Nhật ở Tị, Nguyệt ở Dậu chiếu về là rảo bước cung trăng, ý muốn nói là thành đạt lắm lắm, quan lộ xuôn sẻ)
– Nhật Mão Nguyệt Hợi an mệnh Mùi cung đa chiết quế
(Nhật tại Mão, Nguyệt ở Hợi, mệnh an tại Mùi thì vin cành nguyệt quế, tức là đỗ đạt, làm quan to)
– Nhật Nguyệt đồng Mùi mệnh an Sửu hầu bá chi tài
(Mệnh an tại Sửu mà có Nhật Nguyệt tại Mùi chiếu về là có tài năng dễ được phong hầu phong bá).
– Nhật Nguyệt mệnh thân cư Sửu mạt tam phương vô cát phản vi hung.
(Nhật Nguyệt cùng thủ ở Mệnh Thân cư Sửu mà tam phương không có cát tinh thì phản chuyển thành hung)
– Nhật Nguyệt thủ mệnh bất như chiếu hợp tịnh minh.
(Nhật Nguyệt thủ Mệnh không đẹp bằng sáng sủa chiếu hợp về).
– Nhật Thìn Nguyệt Tuất tịnh tranh diệu quyền lộc phi thiển
(Nhật ở Thìn, Nguyệt ở Tuất là cùng đua nhau tỏa sáng, quyền chức và tài lộc không hề nhỏ).
– Nhật Nguyệt giáp Mệnh giáp Tài gia cát diệu bất quyền tắc phú
(Nhật Nguyệt mà giáp cung Mệnh cung Tài, có thêm cát diệu thì không quyền chức sẽ ắt hẳn là giàu có).
Có thêm Kình Đà xung hoặc thủ chiếu thì lại hợp theo tăng đạo.
– Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối.
(Nhật Nguyệt cực ghét quay lưng thất hãm)
Như Nhật Nguyệt đồng cung, xem người ta sinh vào giờ nào. Sinh ban ngày thì hợp với Thái Dương, sinh ban đêm thì hợp với Thái Âm. Nếu phản bối Nhật Tuất, Nguyệt Thìn, Nhật Tý, Nguyệt Ngọ mà nếu xuất ngoại ly tông lìa tổ lập nghiệp thì lại cát, chứ đừng có luận 1 kiểu là xấu.
– Âm Dương Tả Hữu hợp vi giai.
(Nhật Nguyệt có Tả Hữu hợp chiếu là rất đẹp)
– Nhật Nguyệt hãm cung phùng ác sát lao lục bôn ba
(Nhật Nguyệt tại hãm cung gặp ác sát thì lao khổ, phí sức, bôn ba).
– Nhật Nguyệt Dương Đà đa khắc thân
(Nhật Nguyệt gặp Kình Đà cùng thường hay khắc phụ mẫu)
– Nhật Nguyệt cánh tu Tham Sát hội nam đa gian đạo nữ đa dâm
(Nhật Nguyệt mà gặp Tham Sát thì nam hay thuộc gian đạo, nữ thường dâm)
– Nhật Nguyệt Tật Ách Mệnh cung Không yêu đà mục cổ
(Nhật Nguyệt ở Tật Ách, hãm hoặc gặp khắc chế của chúng là Kình Đà, trong khi cung Mệnh lại có Không Vong thì chắc chắn có tật như lưng gù, mắt mù.
Vũ Khúc
Miếu: Thìn Tuất Sửu Mùi
Vượng: Tý Ngọ
Bình: Tị Hợi
Vô thất hãm
– Vũ Khúc miếu viên uy danh hách dịch
(Vũ Khúc ở nơi miếu nhập mệnh viên thì uy danh lừng lẫy)
Thìn Tuất Sửu Mùi cung an Mệnh lại là người tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi. Mệnh ở Thìn Tuất là chính cách, ở Sửu Mùi là thứ cách.
– Vũ Khúc tương ngộ Xương Khúc phùng thông minh xảo nghệ định vô cùng
(Vũ Khúc hội hợp với Xương Khúc thì là người thông minh, có tay nghề khéo, không bao giờ bần cùng được).
Vũ Khúc có thể cùng Thiên Tướng đồng cung gặp Xương Khúc.
– Vũ Khúc Lộc Mã giao trì phát tài viễn quận
(Vũ Khúc hội với Lộc Mã giao trì là phát tài ở nơi viễn xứ).
– Vũ Khúc Thiên Di cự thương cao cổ.
(Vũ Khúc ở cung Thiên Di là người buôn bán lớn).
– Vũ Khúc Liêm Trinh Tham sát tiện tác kinh thương.
(Vũ Khúc Liêm Trinh Tham Lang hôi sát tinh thì thuận lợi theo nghiệp kinh doanh).
– Vũ Khúc Phá Quân phá tổ phá gia lao lục.
(Vũ Khúc Phá Quân thì phá tổ nghiệp, phá gia tài, gian lao, hao tâm phí sức).
– Vũ Khúc Kiếp sát hội Kình Dương nhân tài trì đao
(Vũ Khúc gặp Địa Kiếp sát tinh mà hội thêm Kình Dương thì vì tiền mà xuống đao giết người).
– Vũ Khúc Khôi Việt cư miếu vượng tài phú chi quan.
(Vũ Khúc Khôi Việt ở nơi miếu vượng thì làm quan quản lý tài chính, thu thuế má)
– Vũ Khúc Tham Lang Tài Trạch vị hoạnh phát tư tài
(Vũ Khúc Tham Lang ở Tài Trạch cung thì có lúc đột nhiên đại phát về tài sản của cải).
– Vũ Khúc Tham Lang gia sát Kị kỹ nghệ chi nhân.
(Vũ Khúc Tham Lang có thêm sát tinh, hóa Kị thì thường là người làm nghề kỹ nghệ).
– Vũ Khúc Phá Trinh ư Mão địa mộc áp lôi kinh.
(Vũ Khúc gặp Liêm Phá nơi Mão cung thì dễ bị cây đè, sét đánh, điện giật).
– Vũ Khúc Dương Đà kiêm Hỏa tú táng mệnh nhân tài.
(Vũ Khúc Kình Đà Hỏa Tinh thì dễ có phen bỏ mạng vì tiền tài)
– Vũ khúc chi tinh vi quả tú
(Vũ Khúc là sao chủ Quả Tú).
Tham Lang
Miếu: Thìn Tuất Sửu Mùi
Vượng: Tý Ngọ
Hãm: Tị Hợi
– Tham Lang ngộ Linh Hỏa tứ Mộ cung hào phú gia tư hầu bá quý.
(Tham Lang gặp Hỏa Linh nơi tứ Mộ cung là của cải rất nhiều, quyền quý cỡ hầu bá)
– Tham Lang nhập miếu thọ nguyên trường.
(Tham Lang nhập miếu thì rất thọ)
– Tham Lang hội sát vô cát diệu đồ tể chi nhân.
(Tham Lang hội sát tinh mà không có cát tinh thì là hạng đồ tể).
– Tham Lang Tý Ngọ Mão Dậu thử thiết cẩu thâu chi bối chung thân bất năng hữu vi.
(Tham Lang ở Tý Ngọ Mão Dậu tương ứng với cung vượng của tam hợp tuổi thì là số trộm cắp, cả đời chẳng được cái tích sự gì).
Người tuổi Thân Tý Thìn mệnh tại Tý, tuổi Dần Ngọ Tuất mệnh tại Ngọ, Hợi Mão Mùi mệnh tại Mão, Tị Dậu Sửu mệnh tại Dậu, chính là như vậy.
– Tham Lang gia cát tọa Trường Sinh thọ khảo vĩnh như Bành Tổ.
(Tham Lang có cát diệu ở chỗ Trường Sinh thì thọ như ông Bành Tổ).
Người tuổi Dần Ngọ Tuất tam hợp Hỏa, Mệnh tọa ở Dần mộc.
– Tham Lang Tị Hợi gia sát bất vi đồ hộ diệc tao hình.
(Tham Lang ở Tị Hợi có thêm sát tinh, nếu không là kẻ đồ tể thì cũng gặp hình thương).
– Tham Lang đồng hành vãn cảnh biên di thần phục.
(Tham Lang đi cùng – với … – thì các nước láng giềng chung biên ải phải thần phục)
– Tham Vũ tiên bần nhi hậu phú.
(Tham Vũ thì trước nghèo sau giàu).
– Tham Lang gia sát đồng hương nữ thâu hương nhi nam thử thiết.
(Tham Lang thêm sát tinh đồng cung hãm địa thì nữ dâm tà năm trộm cắp).
– Tham Lang Vũ Khúc đồng thủ Thân vô cát mệnh phản bất trường.
(Tham Vũ thủ cung an Thân không có cát tinh thì phản chuyển thành đoản mệnh).
– Tham Nguyệt đồng sát hội Cơ Lương tham tài vô yếm tác kinh thương.
(Tham Nguyệt cùng với sát tinh hội Cơ Lương thì tham tiền không chán, làm nghề buôn bán).
– Tham ngộ Dương Đà cư Hợi Tý danh vi phiếm thủy đào hoa.
(Tham gặp Kình Đà ở Hợi Tý, gọi là “phiếm thủy đào hoa”).
– Tham Lang Đà La tại Dần cung hiệu viết phong lưu thái trượng.
(Tham Đà đồng cung Dần, gọi là “phong lưu thái trượng”).
– Tham Vũ Thân cung vi hạ cách.
(Tham Vũ ở cung an Thân là hạ cách).
Có Hóa Kị mới luận thế.
– Tham Vũ tứ sinh tứ mộ cung Phá Quân Kị Sát bách công thông.
(Tham Lang, Vũ Khúc ở tứ Sinh, tứ Mộ cung gặp Phá Quân, hóa Kị, sát tinh thì biết nhiều nghề).
– Tham Vũ Phá Quân vô cát diệu mê luyến tửu dĩ vong thân.
(Tham Vũ Phá mà không có cát tinh thì mê hoa luyến tửu mà mất mạng).
Hoặc là làm nghề thủ công
– Tham Lang Liêm Trinh đồng độ nam đa lãng đãng nữ đa dâm.
(Liêm Tham đồng độ thì nam lãng đãng, nữ đa dâm).
– Nữ mệnh Tham Lang đa tật đố
(Nữ mệnh có Tham Lang thì hay đố kị, ghen tuông)
Tại Hợi Tý gặp Kình Đà là loại đố kị ghen tuông ghê gớm, dù có gặp Lộc Mã cũng chẳng đẹp.
Liêm Trinh
Miếu: Dần Thân
Lợi: Thìn Tuất Sửu Mùi
Hãm: Tị Hợi
– Liêm Trinh Thân Mùi cung vô sát phú quý thanh dương bá viễn danh.
(Liêm Trinh ở cung Thân, Mùi mà không có sát tinh thì được phú quý và tên tuổi vang xa)
Đây gọi là “hùng tú triều nguyên” cách, có thêm sát tinh thì bình thường.
– Liêm Trinh Mão Dậu cung gia sát công tư vô diện quan nhân.
(Liêm Trinh ở Mão Dậu cung có sát tinh thì làm quan tư lại công bình lạnh lùng nghiêm khắc).
Hoặc là người có nghề kỹ thuật, tinh xảo.
– Liêm Trinh ám Thìn tào lại tham lam.
(Liêm Trinh ám Thìn thì làm “tào lại” – quan lại cấp thấp – tham lam, tham nhũng).
– Liêm Trinh Tham Sát Phá Quân phùng Vũ Khúc thiên di tác cụ nhung.
(Gặp Liêm Trinh, Tham, Sát, Phá Quân, Vũ Khúc ở cung Thiên Di thì dễ dấn thân hoặc bị bắt xung quân vào trong quân ngũ).
Chỉ e có Văn Khúc.
– Liêm Trinh Thất Sát cư miếu vượng phản vi tích phú chi nhân.
(Liêm Trinh, Thất Sát ở chỗ miếu vượng thì phản chuyển thành người giàu có, tích lũy được của cải).
Cư Ngọ là kỳ cách, còn nếu hãm địa lại có hóa Kị thì bần tiện, tàn tật.
– Liêm Trinh Phá Hỏa cư hãm địa tự ải đầu hà.
(Liêm Phá Hỏa ở chỗ hãm địa thì dễ đâm đầu xuống xuông tự vẫn).
– Liêm Trinh Thất Sát cư Tị Hợi lưu đãng thiên nhai.
(Liêm Trinh, Thất Sát mà đến chỗ Tị Hợi thì lưu lạc phiêu đang nơi chân trời góc bể).
– Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu ngộ Tướng Quân
(Trọng Do có tướng oai vệ dũng mãnh là bởi Liêm Trinh nhập miếu gặp Tướng Quân).
Người tuổi Giáp có Mệnh tọa Dậu, người tuổi Ất tọa Hợi, người tuổi bính tọa Dậu, người tuổi Đinh Kỷ tọa Dần, người tuổi Canh tọa Tý, người tuổi Tân tọa Mão, người tuổi Quý tọa Thân cung.
– Liêm Trinh tứ sát tao hình lục.
(Liêm Trinh gặp tứ sát là gặp hình phạt, giam cầm tra tấn nhục hình, giết chóc).
Cùng với Kình Đà Linh Hỏa thì là vậy, nếu gặp cả 4 sao ấy thì cả đời bị vậy.
– Liêm Trinh Bạch Hổ hình trượng nan đào
(Liêm Trinh hội với Bạch Hổ thì khó thoát nạn đòn roi, quan tụng, pháp luật dây dưa)
Lưu niên Thái Tuế cùng Tiểu Hạn tọa cung, lại có Bạch Hổ lâm vào thêm, ấy là chủ quan tụng thị phi, gặp đòn roi, hình phạt.
– Liêm Trinh Sát Phá hội Thiên Di tử ư ngoại đạo.
(Liêm hội với Sát, Phá ở nơi Thiên Di cung thì chết ở ngoài đường).
– Liêm Trinh Dương Sát cư quan lộc gia nữu nan đào.
(Liêm Trinh với Kình Dương và Sát tinh ở cung Quan Lộc thì khó thoát nạn bị trói, bắt bớ).
– Liêm Trinh thanh bạch năng tương thủ.
(Nữ nhân mà có Liêm Trinh đắc vượng miếu thì thường thủ tiết, chăm giữ gìn sự thanh bạch trong trắng của mình).
Cự Môn
Miếu: Dần Thân Mão Dậu
Vượng: Tý Ngọ Tị Hợi
Hãm: Thìn Tuất
– Cự Nhật Dần cung lập Mệnh Thân tiên trì danh nhi thực lộc.
(Cự Nhật ở cung Dần, lập Mệnh ở cung Thân (khỉ) thì nhờ nổi danh từ trước mà có Lộc).
– Cự Nhật mệnh cung Dần thực lộc trì danh.
(Cự Nhật cùng thủ Mệnh tại cung Dần thì có lộc rồi mới nổi danh).
– Cự Nhật Thân cung lập Mệnh Dần trì danh thực lộc.
(Cự Nhật ở cung Thân (khỉ) mà lập Mệnh ở cung Dần thì có tên tuổi rồi mới có lộc).
– Cự Môn Tý Ngọ Khoa Quyền Lộc thạch trung ẩn ngọc phúc hưng long.
(Cự Môn ở Tý Ngọ có Khoa Quyền Lộc là cách “thạch trung ẩn ngọc”, được hưởng phúc hưng thịnh, phát đạt).
Giàu có mà con cái hiển quyền quý, người tuổi Tân Quý là thượng cách, tuổi Đinh Kỷ là thứ cách, tuổi Bính mậu chỉ chủ nam nhân.
– Cự Nhật mệnh lập Thân cung diệc diệu.
(Cự Nhật tại Mệnh lập ở cung Thân cũng đẹp)
– Cự tại Hợi cung Nhật tại Tị thực lộc trì danh.
(Cự tại Hợi, Nhật tại Tị, là có lộc rồi mới nổi danh)
– Cự tại Tị cung Nhật tại Hợi phản vi bất giai.
(Cự tại Tị, Nhật tại Hợi là phản bối thất hãm, không đẹp)
– Cự Nhật củng chiếu diệc vi kỳ.
(Cự Nhật miếu vượng củng chiếu từ tam phương về cũng hay).
– Cự Cơ cư Mão Ất Tân Kỷ Bính chí công khanh.
(Cự Cơ ở Mão cung thì người tuổi Ất, Tân, Kỷ, Bính, làm tới bậc công hầu khanh tướng).
Chẳng quyền quý thì giàu có, người tuổi Giáp bình thường do đâu, ấy là do nguyên nhân năm Giáp thì Lộc đến Dần và Mão cung có Kình Dương thì là phá cách đó mà.
– Cự Cơ Dậu thượng hóa cát giả túng hữu tài quan dã bất chung.
(Cự Cơ trên cung Dậu có hóa cát thì cũng có tài lộc, quan tước, nhưng mà không trọn vẹn cả đời).
Nếu như thấy cô đơn nghèo túng thì chắc chắn là thọ lại được cao, còn như cực giàu thì sớm chết yểu. Thêm hóa Kị thì rất hung, nếu Thái Tuế tại Thiên Di cung còn hóa Lộc ở Tài Quan.
– Cự Môn Thìn cung hóa Kị Tân nhân mệnh ngộ phản vi kỳ.
(Cự Môn ở cung Thìn với hóa Kị thì người tuổi Tân gặp được sẽ phản chuyển thành tốt đẹp).
– Cự Cơ Sửu Mùi vi hạ cách.
(Cự Cơ ở Sửu, Mùi cung là hạ cách)
– Cự Môn Đà La tất sinh dị chí.
(Cự Môn gặp Đà La thì tất sẽ có nốt ruồi dị thường).
– Cự Môn Dương Đà ư Thân Mệnh Tật Ách luy hoàng khốn nhược đạo nhi xướng.
(Cự gặp Kình Đà ở Thân Mệnh Tật Ách thì ốm yếu, gầy gò, trộm cắp, kỹ xướng).
– Cự Môn Tứ Sát hãm nhi hung.
(Cự Môn gặp Tứ Sát thì hung)
– Cự Hỏa Kình Dương Đà phùng ác diệu phòng ải tử đầu hà.
(Cự Hỏa Kình Đà gặp ác tinh thì phải đề phòng hạn đâm đầu xuống sông mà tự vẫn).
– Cự Hỏa Linh Tinh phùng ác hạn tử ư ngoại đạo.
(Cự Môn Hỏa Linh gặp ác hạn thì chết ơ ngoài đường).
– Cự tú Thiên Cơ vi phá đãng.
(Cự Môn, Thiên Cơ mà hãm, gặp ác sát tinh thì phá tán, phiêu đãng).
Nữ nhân mà Mệnh dẫu có ở Mão Dậu có Cự Cơ nhập miếu thì tuy được phú quý nhưng không miễn được dâm dật. Nếu như Cự, Cơ tại chỗ hãm địa thì là hạng hạ tiện.
Thất Sát
Miếu: Thìn Tuất Sửu Mùi Dần Thân
Vượng: Tý Ngọ Mão Dậu
Bình: Tị Hợi
Vô hãm
– Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ nhất sinh tước lộc vinh xương.
(Thất Sát ở các cung Dần, Thân, Tý, Ngọ thì một đời được tước lộc tươi tốt thịnh vượng)
– Thất Sát Phá Quân chuyên ỷ Dương Linh chi ngược.
(Thất Sát Phá Quân toàn là do Kình Linh mà làm điều tai ngược).
– Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi.
(Liêm Sát đồng cung là cách chôn xác trên đường)
– Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại chư bàn thủ nghệ bất năng tinh.
(Thất Sát Phá Quân nên ra bên ngoài, trăm nghề đều biết nhưng chẳng tinh thông món nào).
– Thất Sát lâm Thân Mệnh lưu niên Hình Kị tai thương.
(Thất Sát lâm vào Thân Mệnh thì hạn lưu niên gặp Hình Kị sẽ có tai họa, tổn thương)
– Sát lâm tuyệt địa hội Dương Đà Nhan Hồi yểu chiết.
(Thất Sát ở nơi Tuyệt địa hội cùng Kình Đà nên Nhan Hồi chết yểu).
– Thất Sát trùng phùng tứ sát yêu đà bối khúc trận trung vong.
(Thất Sát trùng phùng tứ sát thì lưng gù, chân tật, ra trận là vong mạng giữa sa trường)
– Thất Sát Hỏa Dương tham thả tiện đồ tể chi nhân.
(Thất Sát Hỏa Kình thì vừa tham mà lại còn hèn, là hạng đồ tể).
– Thất Sát Dương Đà hội sinh hương, vi đồ tể.
(Thất Sát với Kình Đà hội hợp ở chỗ Sinh hương thì là đồ tể).
– Thất Sát Dương Linh lưu niên Bạch Hổ hình lục tai truân.
(Thất Sát Kình Linh mà lưu niên gặp Bạch Hổ thì bị tai họa truân chuyên với hình phạt, gian cầm, tra tấn, quan tụng).
– Thất Sát lưu Dương nhị Quan Phù ly hương tao phối.
(Thất Sát gặp lưu Kình Dương, Quan Phù, Quan Phủ thì gặp và lấy vợ/chồng ở xa quê).
– Thất Sát thủ chiếu tuế hạn Kình Dương Ngọ sinh nhân mệnh an Mão Dậu cung chủ hung vong.
(Thất Sát thủ chiếu, tuế hạn gặp Kình Dương, người tuổi Ngọ mà mệnh an tại Mão Dậu sẽ gặp hung hiểm, vong mạng).
Ngoài ra các cung khác cũng kị Mệnh hạn mà tam hợp với Sát, Lưu Kình đến mệnh, tức là cách “Thất Sát trùng phùng”.
– Thất Sát trầm ngâm phúc bất vinh.
(Thất Sát trầm ngâm mà phúc chẳng được tươi tốt).
Vào nam nhân còn có uy quyền, vào nữ nhân thì không được tính chất ấy.
– Thất Sát lâm Thân chung thị yểu.
(Thất Sát lâm vào cung an Thân thì chết non).
– Thất Sát đơn cư Phúc Đức nữ nhân thiết kỵ tiện vô nghi.
(Thất Sát đơn thủ Phúc Đức cung, nữ nhân phải kiêng kị vì không phù hợp).
Phá Quân
Miếu: Tý Ngọ
Vượng: Thìn Tuất Sửu Mùi
Hãm: Mão Dậu
– Phá Quân Tý Ngọ cung vô sát quan tư thanh hiển chí tam công.
(Phá Quân Tý Ngọ mà không có sát tinh thì làm quan lại được vinh hiển tới tước Tam Công).
Người tuổi Giáp Quý là hợp cách, tuổi Đinh Kỷ là thứ cách, tuổi Bính Mậu thì chủ khốn đốn.
– Phá Quân Tham Lang phùng Lộc Mã nam đa lãng đãng nữ đa dâm.
(Phá Quân Tham Lang gặp Lộc Mã thì nam lãng đãng, nữ đa dâm).
– Phá Quân ám Cự đồng hương thủy trung tác trủng.
(Phá Quân ám Cự ở chỗ thủy cung thì táng mạng ở trong nước).
– Phá Quân Hỏa Linh bôn ba lao lục.
(Phá Quân Hỏa Linh thì bôn ba, lao khổ).
– Phá Quân nhất diệu tính nan minh.
(Phá Quân là một sao mà tính chất rất khó minh tường).
– Phá Hao Dương Linh Quan Lộc vị đáo xứ khất cầu.
(Phá hao Kình Linh ở Quan Lộc thì lang thang ăn mày).
Văn Xương
Miếu: Tị Dậu Sửu
Địa: Thân Tý Thìn
Hãm: Dần Ngọ Tuất
– Văn Xương Vũ Khúc vi nhân đa học đa năng.
(Văn Xương Vũ Khúc là người đa học đa tài).
– Văn Khoa củng chiếu Cổ Nghị niên thiếu đăng khoa.
(Văn tinh Hóa Khoa tọa thủ củng chiếu nên Cổ Nghị đăng khoa lúc niên thiếu).
Luận tam phương.
(QNB chú: Cổ Nghị, tức Giả Nghị – do cách phiên âm mà họ của ông này được biết đến với 2 cách đọc – còn được biết đến dưới tên Giả Sinh, là một tài năng chính trị thời Hán Văn Đế, xin xem thêm Hán Thư. Sinh vào giờ Mão ngày 10/3 al năm Quý Mão, có Mệnh lập tại Sửu, nguồn quyển 4 bộ sách này. Từ đây chúng ta biết được đại hạn 14-23 trên cung Hợi có Khoa hội Xương Khúc Khôi Việt và cũng thấy cách khởi đại hạn từ Huynh Đệ cung đối với Âm Nam từ xưa được áp dụng.
Ngoài câu trên, chúng ta có thể nhớ lại 1 câu tương tự là “Văn tinh ám củng, Cổ Nghị vui vẻ đăng khoa”).
– Tả Phụ Văn Xương vị chí tam thai.
(Tả Phụ Văn Xương thì tước vị có thể đến Tam Thai, tức Tam Thái, còn gọi là Tam Công tùy cơ cấu của từng thời mà cách gọi khác nhau).
– Văn Xương Vũ Khúc ư Thân Mệnh văn chính kiêm bị.
(Văn Xương Vũ Khúc ở Thân Mệnh thì kiêm toàn cả văn võ, chính trị)
Đây là số của Tôn Tẫn vậy.
(QNB chú: Tôn Tẫn sinh giờ Dần, ngày 5/9 al, năm Giáp Thìn).
Văn Khúc
Miếu: Tị Dậu Sửu
Địa: Thân Tý Thìn
Hãm: Dần Ngọ Tuất
– Nhị Khúc miếu viên phùng Tả Hữu tướng tướng chi tài.
(Văn Khúc Vũ Khúc miếu viên gặp Tả Hữu là cách của người có tài làm tướng)
Văn Khúc hợp Tý Ngọ Dậu, Vũ Khúc lại hợp Tứ Mộ.
– Nhị Khúc vượng cung uy danh hách dịch.
(Văn Khúc Vũ Khúc ở vượng cung thì uy danh lừng lẫy)
Văn Khúc ở cung Tý là đệ nhất, ở Mão Dậu là thứ cách. Vũ Khúc ở Thìn là đệ nhất, ở Sửu là thứ cách.
– Nhị Khúc Tham Lang Ngọ Sửu hạn phòng nịch thủy chi ưu.
(Văn Khúc Vũ Khúc hạn tới Tham Lang Ngọ Sửu phải phòng tai nạn chết đuối).
*
Văn Xương Văn Khúc
– Xương Khúc giáp mệnh tối vi kỳ.
(Xương Khúc giáp Mệnh cực kỳ đặc sắc).
Nếu như Mệnh tại cung Sửu, Văn Xương tại Dần, Văn Khúc tại Tý thì là vậy. Chẳng quý thì cũng giàu, nhiều cát tinh mới luận cách này là quý.
– Xương Khúc lâm ư Sửu Mùi thời phùng Mão Dậu cận thiên nhan.
(Xương Khúc lâm vào chỗ Sửu Mùi, lại là người sinh giờ Mão Dậu thì kề cận quân vương)
Giả Nghị và Bốc Thương có Xương Khúc ở Mùi mà Mệnh ở Sửu. Tại cung Mệnh có hóa cát mới luận như vậy.
(QNB chú: Giả Nghị đã chú bên trên, còn Bốc Thương có tên tự là Tử Hạ, là học trò của Không Tử, có tài văn chương quán thế, chuyên về Kinh Thi, được Ngụy Văn Hầu xem như là bực thày của mình, sách này không có lá số của Bốc Thương).
– Xương Khúc Tị Hợi lâm bất quý tức đương đại phú.
(Xương Khúc lâm vào Tị Hợi cung thì không quý sẽ đại phú)
– Xương Khúc cát tinh cư Phúc Đức vị chi ngọc tụ thiên hương.
(Xương Khúc và cát tinh cư Phúc Đức cung ấy là “ngọc tụ thiên hương”).
Thêm đắc Tử Vi cư ngọ Cung thì vô cùng tuyệt diệu.
– Xương Khúc hãm cung hung sát phá hư dự chi long.
(Xương Khúc hãm cung có hung sát thì chỉ có tiếng mà không có miếng).
Hung sát ở đây tức là Kình Đà Không Kiếp vậy.
– Xương Khúc hãm ư Thiên Thương Nhan Hồi yểu chiết.
(Xương Khúc hãm ở chỗ Thiên Thương Nhan Hồi chết yểu).
Mệnh có Kiếp Không, Kình Đà. Hạn tới Thất Sát, Kình Đà trùng điệp mới luận vậy.
– Xương Khúc Kỷ Tân Nhâm sinh nhân hạn phùng Thìn Tuất lự đầu hà.
(Xương Khúc mà người tuổi Kỷ Tân Nhâm hạn gặp nơi Thìn Tuất là toan định nhảy sông tự vẫn)
– Xương Khúc Liêm Trinh ư Tị Hợi tao Hình bất thiện thả hư khoa.
(Xương Khúc Liêm Trinh ở Tị Hợi gặp Hình thì bất thiện, lại còn ba hoa khoác lác).
– Xương Khúc Lộc Tồn do vi kỳ đặc.
(Xương Khúc Lộc Tồn thì mưu kế rất là kỳ lạ).
– Xương Khúc Phá Quân lâm Hổ Thố sát Dương xung phá bôn ba.
(Xương Khúc Phá Quân lâm vào Dần Mão cung gặp Sát Kình xung phá thì bôn ba).
– Xương Khúc Tả Hữu hội Dương Đà đương sinh dị chí.
(Xương Khúc Tả Hữu hội Kình Đà thì có dị chí – tức là nốt ruồi quái lạ).
– Nữ nhân Xương Khúc thông minh phú quý chích đa dâm
(Nữ nhân có Xương Khúc thì thông minh, phú quý, chỉ có điều đa dâm).
Kình Dương
Miếu: Thìn Tuất Sửu Mùi
Hãm: Tý Ngọ Mão Dậu
– Kình Dương nhập miếu phú quý thanh dương
(Kình Dương nhập miếu thì được phú quý khen tặng).
Thêm cát tinh thì cứ thế mà luận.
– Dương Hỏa đồng cung uy quyền áp chúng.
(Kình Hỏa đồng cung thì uy quyền ghê gớm, trấn áp chúng nhân)
Người tuổi Thìn Tuất là đẹp, người tuổi Sửu Mùi là thứ cách.
– Dương Đà Linh Hỏa thủ Thân Mệnh yêu đà bối khúc chi nhân.
(Kình Đà Linh Hỏa thủ Thân Mệnh là người có dị tật, kiểu như lưng gù, chân khèo…)
– Kình Dương Tý Ngọ Mão Dậu phi yểu chiết nhi hình thương.
(Kình Dương ở Tý Ngọ Mão Dậu thì không chết yểu cũng sẽ bị hình phạt, tổn thương)
Tại Ngọ hung, ở Mão là thứ, Tý Dậu cũng là thứ, gọi là “Mã đầu đới kiếm” (kiếm treo cổ ngựa), nhiều cát tinh không luận như vậy.
– Kình Dương phùng Lực Sĩ Lý Quảng nan phong.
(Kình Dương gặp Lực Sĩ cho nên Lý Quảng chẳng được phong hầu tiến tước)
Tuổi Giáp có Mệnh ở Mão, tuổi Bính mệnh Ngọ, tuổi Canh mệnh Dậu, tuổi Nhâm mệnh Tý. Nhiều cát tinh thì là bình thường, có thêm sát tinh thì tất sẽ hung.
– Dương Đà Hỏa Linh phùng cát phát tài hung tắc kỵ
(Kình Đà Linh Hỏa gặp cát tinh thì phát tài, gặp hung thì phải kiêng kị)
– Dương Linh tọa Mệnh lưu niên Bạch Hổ tai thương.
(Kình Linh tọa Mệnh, hạn lưu niên có Bạch Hổ xâm vào Mệnh thì sẽ có tai họa hình thương).
– Kình Dương đối thủ tại Dậu cung tuế điệt Dương Đà cánh mệnh hung.
(Kình Dương xung đối tại Dậu, tuế hạn có thêm Kình Đà trùng điệp thì mệnh hung hiểm lắm).
– Dương Đà giáp Kị vi bại cục.
(Kình Đà giáp Kị là bại cục)
Giả như an Mệnh tại Thân cung, lại gặp hóa Kị, Kình tại Dậu và Đà tại Mùi giáp bên, các cung khác thì phỏng theo như thế. Mệnh tuổi hung cô bần hình khắc. Nếu đơn thủ Lộc Tồn lại không có cát tinh đồng cung thì cũng chủ tai ương hung họa.
– Dương Đà lưu niên Linh Phá diện tự ban ngân.
(Kình Đà lưu niên gặp Linh Tinh thì mặt có phá tướng, thêm sẹo, bệnh ngoài da, bớt chàm…)
– Kình Dương Hỏa Tinh vi hạ cách.
(Kình Hỏa hãm cung là hạ cách).
– Kình Dương trùng phùng lưu Dương Tây Thi khuynh vẫn thân.
(Tuế hạn có Kình Dương trùng phùng Lưu Kình Dương, nàng Tây Thi tự vẫn)
Đà La
Miếu: Thìn Tuất Sửu Mùi
Hãm: Dần Thân Tị Hợi
– Đà La Tị Hợi Dần Thân phi yểu chiết nhi hình thương.
(Đà la ở Tị hợi Dần Thân thì chẳng chết yểu cũng bị hình thương)
Xuất ngoại lìa nhà xa tổ mà lập nghiệp lại cát lợi, chủ nhân có phá tướng.
Hỏa Tinh
Miếu: Dần Ngọ Tuất
Địa: Tị Dậu Sửu
Hãm: Thân Tý Thìn
– Hỏa Linh tương ngộ danh chấn chư bang.
(Hỏa Linh tương ngộ với … thì uy danh chấn động các nước láng giềng).
– Hỏa Linh giáp Mệnh vi bại cục.
(Hỏa Linh giáp Mệnh là bại cục)
Như Mệnh an Dần cung, Hỏa Tinh tại Sửu, Linh Tinh tại Mão.
Linh Tinh
Miếu: Dần Ngọ Tuất
Địa: Tị Dậu Sửu
Hãm: Thân Tý Thìn
– Hỏa Linh vượng cung diệc vi phúc luận.
(Linh Hỏa ở vượng cung cũng được luận là phúc)
– Kình Dương Hỏa Linh vi hạ cách.
(Nữ mệnh có Kình Linh Hỏa là hạ cách)
Nữ nhân miếu vượng còn được, hãm địa thì hạ tiện, bần cùng, yểu chiết.
Khôi Việt
– Khôi Việt giáp mệnh vi kỳ cách.
(Khôi Việt giáp Mệnh là kỳ cách)
Như Mệnh an tại Thìn cung, Khôi tại Mão, Việt tại Tị cung thì là vậy.
– Khôi Việt Mệnh Thân đa chiết quế.
(Khôi Việt thủ chiếu ở Mệnh Thân thì dễ bẻ quế cung trăng, thành danh đỗ đạt)
Nhưng có cát mới luận vậy, tại Mệnh Thân cực đẹp, ở tam phương chiếu là thứ chi.
– Khôi Việt Xương Khúc Lộc Tồn phù Hình Sát vô xung thai phụ quý.
(Có Khôi Việt Xương Khúc Lộc Tồn phù trợ thủ chiếu, lại không có Hình Sát xung chiếu thì quyền quý tới bực Thai Phụ – cỡ như Tam Công)
Thấy Hình Sát xung hội thì bình thường, chỉ hợp tăng đạo.
– Khôi Việt trùng phùng sát thấu cố tật vưu đa.
(Khôi Việt trùng phùng có sát tinh tụ tập thì có nhiều bệnh lắm tật khó chữa)
Sát là Kình Linh Không Kiếp vậy.
– Khôi Việt phụ tinh vi phúc thọ.
(Khôi Việt phụ tinh là phúc thọ)
Hai sao tại Mệnh, chư cung thì phúc thọ được song toàn.
(QNB chú: cũng có thể hiểu theo “Khôi Việt Tả Phụ vi phúc thọ”, xem thêm bên dưới. Ở câu trên tôi để nguyên chữ “phụ tinh” ấy là do câu chú giải ngay dưới của sách chỉ nhắc đến “hai sao” là Khôi Việt chứ không nói là 3 sao, tức có thêm Tả Phụ).
Tả Phụ Hữu Bật
– Tả Hữu Văn Xương vị chí thai phụ
(có Tả Hữu Văn Xương thì tước vị đến Thái Phụ, cỡ Tam Công)
– Tả Hữu giáp mệnh vi quý cách.
(Tả Hữu giáp Mệnh là quý cách)
Như an Mệnh tại Sửu cung, Tả Phụ tại Tý cung, Hữu Bật tại Dần cung.
– Hữu Bật Tả Phụ chung thân phúc hậu.
(Có Tả Hữu thì cả đời hưởng phúc dày)
Tại Mệnh cung mà Thiên Di thì là vậy, ở tam phương là thứ thôi.
– Tả Hữu đồng cung phi la y tử.
(Tả Hữu đồng cung khoác áo bào màu tía)
– Tả Hữu đơn thủ chiếu mệnh cung ly tông thứ xuất.
(Tả Hữu đơn thủ chiếu Mệnh cung thì dễ lìa nhà xa tổ, là con của vợ lẽ.
Thân mệnh vô chính diệu là vậy, nếu tam phương hợp Tử Vi, Thiên Tướng, Thiên Phủ thì cát.
– Tả Hữu Trinh Dương tao Hình đạo nhất
Tả Hữu Xương Khúc phùng Dương Đà đương sinh ám chí.
(Tả Hữu Liêm Trinh Kình Dương gặp Hình thì là số trộm cắp vậy. Tả Hữu Xương Khúc gặp Kình Đà thì có nối ruồi kín lạ).
– Tả Hữu tài quan kiêm giáp củng y lộc phong doanh.
(Tả Hữu giáp và củng chiếu Tài Quan thì y lộc được đầy đủ, hậu hĩnh)
– Tả Hữu Khôi Việt vi phúc thọ.
(Tả Hữu Khôi Việt là phúc thọ).
Tam tinh tại Mệnh cung, phúc thọ toàn mỹ. Nếu nữ Mệnh gặp thì vượng phu ích tử.
(QNB chú: xin nhớ lại câu tương tự ở phần Khôi Việt bên trên. Và ở câu này thì có tới 4 sao mà sách lại chú là 3 sao (tam tinh). Theo đó, ta có thể nghi vấn rằng có thể câu đúng nguyên bản chỉ có 3 sao là Tả Phụ, Thiên Khôi, Thiên Việt mà thôi. Độc giả lưu ý vậy).
– Hữu Bật Thiên Tướng phúc lai lâm.
(Hữu Bật đi cùng Thiên Tướng thì phúc sẽ đến)
Các cung đều gặp phúc, ở Sửu Mùi Hợi thì không quý, dẫu quý cũng chẳng bền, trước thì chủ phú, nếu ở Mão Dậu hai hãm cung thì ít được xứng ý toại tâm.
Lộc Tồn
Khắp 12 cung đều là nhập miếu
– Lộc Tồn thủ ư Tài Trạch tích ngọc đôi kim.
(Lộc Tồn thủ ở cung Điền Trạch thì giàu có vàng ngọc chồng chất).
Tại Mệnh cũng mừng, có hóa Lộc, cùng Khoa Quyền, càng thêm tuyệt diệu.
– Lộc Tồn Tý Ngọ vị Thiên Di Thân Mệnh phùng chi lợi lộc nghi.
(Lộc Tồn ở Tý Ngọ cung, lại là Thân Mệnh với Thiên Di gặp được thì có lợi lộc là đương nhiên).
– Minh Lộc ám Lộc vị chí công khanh.
(Có cách Minh Lộc Ám Lộc thì tước vị tới cỡ công hầu khanh tướng).
Song Lộc trùng phản chung thân phú quý.
(Song Lộc trở lại cả đời phú quý).
– Lộc phùng xung phá cát dã thành hung.
(Lộc gặp hung sát xung phá thì cát cũng chuyển thành hung)
– Song Lộc thủ mệnh Lã Hậu chuyên quyền.
(Bà Lã Hậu chuyên quyền, trong số có song Lộc thủ mệnh).
– Lộc Tồn hậu trọng đa y lộc.
(Lộc Tồn giàu có, đôn hậu, thận trọng)
Ở khắp các cung giáng phúc, khởi nghiệp phú quý. Nữ nhân lấy chồng chiêu rể được vượng tài.
Thiên Mã
– Lộc Mã tối hỉ giao trì.
(Lộc Tồn và Thiên Mã cực kỳ mừng được cùng nhau tương hỗ qua lại)
Sợ thấy sát tinh Kình Hỏa Tiệt Lộ Không Vong, vì hay chủ lao khổ.
– Thiên Mã tứ Sinh Thê cung phú quý hoàn đương phong tặng.
(Thiên Mã ở cung Thê thì lấy vợ phú quý và được phong tặng).
– Mã ngộ Không Vong chung thân bôn tẩu.
(Thiên Mã gặp Không Vong thì cả đời bôn ba vất vả).
Khoa Quyền Lộc
– Khoa Quyền Lộc hợp phú quý song toàn.
(Khoa Quyền Lộc hội hợp thủ chiếu giáp thì phú quý được song toàn).
Lộc Tồn cũng là Lộc, hóa Lộc hội Tộc Tồn thì phú quý trọn vẹn.
– Lộc Quyền mệnh phùng hợp cát uy quyền áp chúng tướng vương triều.
(Mênh gặp được Lộc Quyền hôi hợp cát tinh thì uy quyền chế áp chúng nhân, làm tướng trong vương triều).
– Quyền Lộc trùng phùng tài quan song mỹ.
(Quyền Lộc trùng phùng thì tiền tài và quan tước đều đẹp trọn vẹn cả hai)
Tam phương nhiều cát thì mới cát, bởi vì dồn tụ cả lại 1 chỗ cung không đẹp.
– Khoa mệnh Quyền triều đăng dung giáp đệ.
(Hóa Khoa tại Mệnh có hóa Quyền chầu về thì đỗ đạt cao, thăng quan lớn)
Hoặc Quyền hoặc Lộc cũng đều thêm đẹp cả. (Nếu có Lộc thì) là “ngôn Lộc phùng nghênh” cách.
– Hoạt Lộc Tý Ngọ vị Thiên Di, Phu Tử văn chương quán thế.
(Hóa Lộc ở Thiên Di cung nơi Tý Ngọ, Khổng Phu Tử có tài văn chương quán thế).
Thiên Di lại ở tại Tý Ngọ cung là đối diện triều thiên tử.
Mệnh Thái Dương hóa lộc tại Ngọ cung, hợp cách này. Các cung khác cần khán cát hung, Khoa Quyền Lộc chầu đến thế nào mới định quý cách. Như Mệnh an tại Tý cung, Lộc tại Hợi cung, Quyền tại Sửu cung, là giáp quý. Ngoài ra cứ phỏng theo như vậy.
– Quyền Lộc trùng phùng sát thấu hư dự chi long.
(Có Quyền Lộc trung phùng mà bị sát tinh tụ tập thì cái sự hưng thịnh, tiếng tăm cũng chỉ là hư ảo)
– Khoa danh hãm ư hung thần miêu nhi bất tú.
(Hóa Khoa hãm ở chỗ hung sát tinh thì như cảnh mầm non chẳng nảy nở)
Như Nhật Tuất, Nguyệt Mão, Hóa Khoa hãm địa, hoặc có thêm Kình Đà Kiếp Không.
– Lộc chủ triền ư nhược địa phát bất chủ tài.
(Hóa Lộc lâm vào nơi nhược địa thì phát cũng chẳng chủ về tài lộc.
– Quyền Lộc thủ Tài Phúc chi vị xử thế vinh hoa.
(Quyền Lộc đóng ở Tài Phúc cung thì có tài xử thế, giao tiếp, vừa giàu có lại cư xử rất chuẩn mực).
– Quyền Lộc cát tinh Nô Bộc vị túng nhiên quan quý dã bôn ba.
(Quyền Lộc cát tinh xúm cả vào cung Nô Bộc thì đương nhiên đường quan lộ phải bị bôn ba vất vả rồi).
Kiếp Không
– Kiếp Không giáp mệnh vi bại cục.
(Kiếp Không giáp Mệnh là bại cục).
Giả như Mệnh an tại Hợi cung, Kiếp tại Tý cung, Không tại Tuất cung thì là vậy. Tuế hạn hành đến đó cũng hung, giáp Hóa Kị cũng hung và cô đơn nghèo khổ dễ mắc nạn hình thương.
– Kiếp Không lâm hạn Sở Vương táng quốc Lục Châu vong
(Kiếp Không lâm vào hạn, Sở Bá Vương – tức Hạng Vũ – mất nước, nàng Lục Châu cũng hạn ấy mà mất mạng).
– Sinh xứ Kiếp Không do như bán thiên chiết sí.
(Sinh vào chỗ Kiếp Không ấy là giống như giữa trời mà gãy cánh).
– Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương sinh lai bần tiện.
(Kiếp Không lâm vào chỗ Tài Phúc thì cuộc sống nghèo hèn).
Thương Sứ
– Thiên Thương gia ác diệu Trọng Ni tuyệt lương Đặng Thông vong.
(Thiên Thương gặp thêm ác sát tinh, Khổng Tử hết lương thực, Đặng Thông cũng mất mạng).
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
Mệnh cung
– Tam giáp Mệnh hung lục giáp cát.
Tam giáp ở đây chính là 3 cặp Kình Đà, Linh Hỏa, Kiếp Không giáp với cung mệnh. Còn Lục giáp chính là cách giáp với 6 bộ Tử Phủ, Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa Quyền Lộc, Nhật Nguyệt. Nếu như tại Mệnh là nhiều hung tinh ít cát tinh thì tuy có cát nhưng tàng hung, còn nếu như nhiều cát tinh ít hung tinh thì tuy có hung nhưng mà vẫn cát. Thân Mệnh xem tam phương miếu vượng như thế nào.
– Mệnh vô chính diệu nhị tính diên sinh.
(Mệnh VCD thì mang hai họ / hai tên sẽ có thể được thêm thọ)
Hoặc rời nhà, nhận/có cha/mẹ kế, đi ở rể, hoặc do người vợ lẽ sinh ra.
– Mệnh phùng cát diệu tùng bách thanh tú dĩ nan điêu.
(Mệnh gặp cát tinh như là cây tùng cây bách thanh tú mà khó khô héo tàn lụi được).
Thâm Mệnh Quan có cát tinh, Thái tuế đại tiểu nhị hạn dẫu bất lợi thì cũng ít hung. Phải có thái tuế nhị hạn hung đồng thời đi vào phương hung so với tuổi thì mới hung hiểm được.
– Hạn phùng hung diệu liễu lục đào hồng nhi dịch tạ.
(Hạn gặp hung tinh thì như là liễu xanh, đào hồng dễ tàn tạ)
Mệnh hạn gặp phải hung tinh miếu vượng thì phát đạt, hạn hung tinh hãm địa thì hung hiểm lắm.
– Mệnh thực vận sinh hạn như miêu nhi đắc vũ.
(Mệnh có thực lực, gặp vận hạn sinh phù cho thì như mầm non lại được mưa tưới).
Như Mệnh hạn bình thường tam phương có cát tinh, như hạn hành đến nơi tốt đẹp là phúc.
– Mệnh suy vận nhược như nộn thảo nhi tao sương.
(Mệnh suy hạn nhược như cỏ non mà phải sương dầm)
Như Mệnh tọa hãm Kị, tuế hạn lại gặp ác diệu thì tất sẽ hình thương tử vong.
– Mệnh hữu cát tinh quan sát trọng túng hữu tài quan dã tân khổ.
Mệnh có cát tinh mà Quan Sát cũng nặng, nhiều thì tiền tài và quan nghiệp cũng gian khổ đắng cay).
Thân cung
– Tam giáp Thân hung lục giáp cát.
Giáp Hóa Kị, Kiếp Không Hỏa Linh Dương Đà hung, còn lục giáp (xem bên trên đây) quý phùng cát tinh nữa là cực kỳ tuyệt diệu.
– Thân Mệnh câu cát phú quý song toàn.
(Thân Mệnh đều cát thì phú quý song toàn).
– Thân cát mệnh hung diệc vi mỹ luận.
Thân cát Mệnh hung cũng luận là đẹp).
– Mệnh nhược Thân cường tài nguyên bất tụ.
(Mệnh yếu mà Thân quá mạnh thì của cải khó mà tụ được)
Nạp Âm
– Nạp Âm mộ khố khán hà cung.
(Xét nạp âm thì khán ở cung Mộ khố của hành của nó xem cát hung như thế nào)
Như Thủy sinh nhân thì Mộ ở Thìn gặp Tài Quan hoặc Lộc Tồn thì rất đẹp, gặp Thiên Di Hao sát thì không đẹp.
– Sinh phùng bại địa phát dã hư hoa.
(Sinh gặp nơi bại địa thì phát lên cũng hao tàn về hư ảo cả)
Như năm nạp âm Thủy Thổ thì Trường Sinh kiến Giáp Thân, là Kim tinh chủ của Thủy cung, nếu an Mệnh tại Dậu là bại địa, lại phùng Kình Đà Kị Hao Thất Sát ở cùng thì không đẹp. Đắc Lộc Tồn thì cát.
– Tuyệt xứ phùng sinh hoa nhi bất bại.
(Ở chỗ Tuyệt mà gặp sinh phù thì hao tàn nhưng không hỏng được)
Như Thủy Thổ thì Tuyệt tại Tị, an Mệnh tại Tị là Tuyệt địa, lại được Kim tinh tại Tị sinh cho Thủy nên không bị tuyệt mà còn là đắc lộc.
Tài Bạch
– Nhật Nguyệt giáp Tài gia cát diệu bất quý tắc phú.
(Nhật nguyệt giáp Tài mà có thêm cát tinh thì không quyền quý thì cũng được giàu)
Như Tài Bạch cung tại Mùi có Thiên Phủ tọa thủ, Nhật tại Ngọ và Nguyệt tại Thân chính là giáp tài vậy, ngoài ra cứ phỏng theo đó.
– Tả Hữu Tài Quan kiêm giáp củng y lộc phong long.
(Tả Hữu ở 2 cung Tài và Quan, đồng thời được cát tinh miếu vượng củng chiếu hoặc giáp hợp là được
Như Tả Hữu cùng ở Tài Bạch cung, lai hoặc Tài Quan tại Sửu, Nhật tại Tý và Nguyệt tại Dần thì là giáp vậy.
Tài Trạch
– Tử Vi Phụ Bật đa vi tài phú chi quan.
(Tử Vi Phụ Bật đóng cung Tài/Điền Trạch thì làm quan tài chính, thu thuế má).
– Vũ Khúc Thái Âm đa cư tài phú chi nhâm.
(Vũ Khúc Thái Âm ở Tài/Điền Trạch thì nhậm chức quan tài chính, quan phụ trách thuế má)
Không phải là Vũ Khúc với Thái Âm cùng cung độ, mà là thủ Tài Bạch cung gặp Vũ Khúc hoặc gặp Thái Âm tinh, thì chủ như vậy.
– Tử Phủ Vũ Khúc cư Tài Bạch cánh kiêm Quyền Lộc phú xa ông
(Tử Phủ, Vũ Khúc cư ở Tài Bạch lại có thêm Quyền Lộc thì giàu có).
– Vũ Khúc Tham Lang Tài Trạch hoạnh phát tư tài.
(Vũ Tham cư Tài/Điền Trạch thì có lúc bộc phát về tiền tài của cải).
Kị gặp Không Vong.
– Lộc Tồn thủ ư Tài Trạch đôi kim tích ngọc.
(Lộc Tồn thủ ở Tài Trạch thì vàng ngọc chồng chất).
Tài Phúc
– Quyền Lộc thủ Tài Phúc chi vị xuất thế vinh hoa.
(Quyền Lộc đóng ở Tài Phúc thì vào đời được vinh hoa phú quý).
– Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương sinh lai bần tiện.
(Kiếp Không lâm vào chỗ của Tài Phúc thì cuộc sống nghèo hèn).
Cảm ơn đã theo dõi cuốn sách!
QuachNgocBoi kính bút.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)