Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Mơ thấy chim ưng săn mồi: Thỏa mãn nguyện vọng bằng trí tuệ và mưu lược –

Chim ưng săn mồi là hình tượng quan trọng nếu xuất hiện trong giấc mơ. Tuy không nổi danh bằng chim ưng, nhưng chúng cũng tung hoành ngang dọc. Mơ thấy chim ưng săn mồi có nghĩa chúng đã cho rằng mình đang giao chiến với đối thủ và sẽ chiến thắng bằn
Mơ thấy chim ưng săn mồi: Thỏa mãn nguyện vọng bằng trí tuệ và mưu lược –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chim ưng săn mồi: Thỏa mãn nguyện vọng bằng trí tuệ và mưu lược –

Tướng tay người có năng lực sáng tạo thần kì có gì đặc biệt

So với người thường, đặc điểm tướng tay của người có năng lực sáng tạo thần kì có những đặc điểm nổi bật dưới đây.
Tướng tay người có năng lực sáng tạo thần kì có gì đặc biệt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


  

► Tự xem chỉ tay đơn giản để luận giải về cuộc đời, vận mệnh của bản thân

1. Ngón tay đeo nhẫn có vân hình tròn
 
Người có vân tay (hay còn gọi là hoa tay) hình tròn ở ngón tay đeo nhẫn thường có tài năng nghệ thuật thiên bẩm, tính thẩm mĩ cao, khả năng sáng tạo độc đáo, nếu làm trong những ngành nghề liên quan đến nghệ thuật nhất định sẽ thành công rực rỡ, vang danh thiên hạ. 
 
Ngoài ra, đời sống nội tâm của người này vô cùng phong phú, họ nhạy cảm hơn so với người khác nên khá yếu đuối trong tình yêu.

Tuong tay nguoi co nang luc sang tao than ki co gi dac biet hinh anh
Ảnh minh họa

2. Đường Trí tuệ hoặc đường Công danh kéo dài tới gò Nguyệt

 
Đa phần những người có đường Trí tuệ hoặc Công danh dài, kéo chạm gò Nguyệt có năng lực sáng tạo trời phú, tâm tư tình cảm đa dạng, giàu tính nghệ thuật.
 
Ngoài lĩnh vực nghệ thuật, người này cũng đạt được thành công nhất định trong các lĩnh vực khác, miễn là được làm những việc mang tính chất sáng tạo. Nếu như có thêm hình sao trên gò Thái dương thì đường công danh sự nghiệp vô cùng sáng lạng và thành đạt. 
 
Ngoài ra, người này có trí tưởng tượng phong phú, thậm chí sở hữu năng lực tâm linh đặc biệt, tài năng xuất chúng, có thể sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật làm rung động lòng người hay xoay chuyển thời cuộc.
3. Lòng bàn tay xuất hiện vòng Kim tinh
 
Vòng Kim tinh là một đường vân cong, chạy từ khoảng giữa (kẽ tay) 2 ngón trỏ và giữa đến khoảng giữa 2  ngón áp út và ngón út. Đôi khi, đường vân này còn kéo rộng ra từ ngón trỏ đến gốc ngón út hoặc tràn ra tận ngoài bìa tay. 
 
Vòng Kim tinh có hình thức gần như một đường Tâm đạo đôi. Trong trường hợp bàn tay không có đường chỉ tay Tâm đạo thì vòng Kim tinh sẽ thay thế.
 
Người có vòng Kim tinh xuất hiện trong lòng bàn tay cũng giàu năng lực sáng tạo, khả năng quan sát nhạy bén, tâm hồn phong phú, giàu tình cảm. Tuy nhiên thần kinh của người này có chút suy yếu, khó tập trung lâu vào một sự vật, sự việc nhất định.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng tay người có năng lực sáng tạo thần kì có gì đặc biệt

Thói quen gây phá tài cần phải sửa ngay lập tức

Dưới đây là một trong những thói quen gây phá tài về mặt phong thủy, nên tránh xa nếu không tiền bạc đội nón ra đi.
Thói quen gây phá tài cần phải sửa ngay lập tức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Một vài thói quen, hành động nhỏ nhưng có thể gây hao tài tốn của nếu như bạn không chịu thay đổi. Dưới đây là một trong những thói quen gây phá tài về mặt phong thủy, nên tránh xa.

 

1. Hay than vãn

  Có những người rất hay than vãn, thở dài, dù là khi gặp phải chuyện trục trặc, khó khăn hay không, họ vẫn than ngắn thở dài, khiến người xung quanh cảm thấy nặng nề.   Bầu không khí bị bao trùm bởi nguồn năng lực thiếu tích cực như thế sẽ “phản chủ”, mang tới điềm xui xẻo, thất thoát tài lộc.
Thoi quen gay pha tai can phai sua ngay lap tuc hinh anh
 
 

2. Mặt mày cau có

 

Trong số thói quen gây phá tài, chắc chắn có biểu hiện cau có trên khuôn mặt, nhất là khi lông mày trợn ngược, dữ dằn.    Điều đó chẳng khiến ai nể nang hay sợ sệt bạn đâu, nó chỉ thể hiện sự căng thẳng, điểm yếu trong chính con người bạn. Cứ cau có mặt mày như thế, lâu dần tạo cảm giác nặng nề, khó chịu, nhân duyên ắt đi xuống, tiền bạc cũng chẳng thể kiếm được một cách dễ dàng.  
Bảo bối phong thủy xua đuổi tà khí trong tháng cô hồn Chọn ví tiền hợp phong thủy - cách cải thiện tài vận nhanh nhất Phong thủy phòng khách vượng tài nhờ treo tranh cửu ngư đúng cách

3 Ngồi xổm khi ăn

  Dù có vội vàng hay bận rộn tới đâu, bạn cũng không nên duy trì thói quen gây phá tài này. Cảm giác lúc nào bạn cũng phải tất bật, ngay cả bữa ăn cũng không được thoải mái, thử hỏi cuộc sống của bạn có thực sự dễ chịu không?   Ăn chính là chuyện phúc đức mà con người được hưởng, bởi không ai sống bằng không khí cả. Vì thế, hãy cho mình cơ hội được hưởng phúc khí ấy, ăn từ tốn, ngồi đàng hoàng vừa tốt cho sức khỏe lại tạo phong cách sống tao nhã, thanh cao.

 

Thoi quen gay pha tai can phai sua ngay lap tuc hinh anh
 

4. Xỉa răng không che miệng

  Với một số người có thói quen xỉa răng, đừng quên che miệng. Theo quan điểm phong thủy, phần miệng của mỗi người như kho tiền tài, ai ăn nói khéo léo dễ dàng thành công hơn. Hàm răng lại là cánh cổng để hút tài lộc ấy. Răng thưa biểu hiện của tài lộc thất thoát.   Chính vì thế, khi xỉa răng, tức sẽ tạo ra khoảng trống nhỏ giữa các kẽ răng. Nếu không che miệng lại, tài khí ấy sẽ đi ra ngoài, tất nhiên tiền bạc không còn rủng rỉnh.  

5. Miệng nhai tóp tép khi ăn

  Nhân tướng học quan niệm, khi ăn mà miệng nhai tóp tép là tướng nghèo hèn. Người có phận cao quý thường ăn uống nhỏ nhẹ, không phát ra âm thanh vô duyên như thế.

 

Thoi quen gay pha tai can phai sua ngay lap tuc hinh anh
 

6. Đi chúi đầu về phía trước

  Đa phần những ai có thói quen đi chúi đầu về phía trước đều có tính cách nóng vội, làm việc nhanh nhảu đoảng, tuy có thể thành công nhưng phải vất vả trăm bề. Kiếm tiền không thể vội vàng, càng vội bạn càng bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt.  

7. Ngồi rung chân

 

Người xưa có câu: “Rung cây thì lá rụng, rung người thì phúc mỏng, rơi tiền”, ý chỉ ngồi rung chân là thói quen gây phá tài. Tuy chỉ là hành động nhỏ, nhưng nếu không nhanh chóng thay đổi, tiền của bạn kiếm được cũng sớm “đội nón ra đi”.    Thêm nữa, chủ nhân của nét tướng cách này thường có tinh thần bất ổn, bản tính bạc nhược, không giỏi trong giao tiếp cũng như quản lý tài chính.   

8. Nhổ nước bọt lung tung

 

Trong phong thủy rất chú trọng vấn đề “tàng phong tụ khí”, nhưng hành động nhổ nước bọt lại mang ý nghĩa nhổ tài khí đi mất, tài lộc càng ngày càng đi xuống.   Nếu để ý kĩ, bạn hiếm thấy người thành công, giàu có nào mà lại duy trì thói quen xấu, vừa gây mất vệ sinh, mỹ quan lại khó giữ được tài lộc như thế này.  
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Ngọc Diệp
  Mẹo phong thủy hóa giải thói hư tật xấu cực đơn giản
Có thể áp dụng phong thủy để loại bỏ những thói quen xấu như hút thuốc lá, uống rượu bia, sử dụng các chất ma túy và ăn uống không lành mạnh.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thói quen gây phá tài cần phải sửa ngay lập tức

Các bước cơ bản để gieo quẻ kinh dịch, lập quẻ kinh dịch qua thời gian xem dự báo

Qua bốn cấp độ thời gian lịch Tiết khí hay lịch Âm cũng như qua các yếu tố ngẫu nhiên, các nhà mệnh lý phương Đông xưa lập ra mô hình đối tượng để dự báo, mô hình này được gọi là quẻ. Một quẻ luôn có quan hệ với 2 hướng trong không gian trên Trái đất. Hướng không gian trên Trái đất được người Tiền sử gọi là quái. Khi dự báo, cần tiến hành theo các bước cơ bản sau đây:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Bước 1: Xây dựng mô hình dự báo hay quẻ về đối tượng.

Bước này có những việc sau đây:

a. Tìm Ngoại quái và Nội quái qua 4 cấp thời gian.

b. Lập mô hình dự báo hay quẻ: đặt Ngoại quái trên Nội quái.

c. Lập đồ hình hướng không gian Trái đất (đồ hình Toàn tức lên đối tượng xem) để quan sát các bước tiếp theo về sinh khắc qua Thế, Ưng.

d. Tra bảng tìm mô hình dự báo hay quẻ để dự báo.

Khi dự báo một đối tượng, cần xem xét đối tượng đó có quan hệ gì với các hướng trong không gian mà đối tượng đó là trung tâm. Nhìn chung, tất cả mọi đối tượng, kể cả tất cả mọi người đều có liên hệ mật thiết với 8 hướng trong không gian trên Trái đất.

Tám hướng đó là:

Đông, mà Kinh Dịch gọi là Chấn;

Tây: gọi là Đoài;

Nam: gọi là Ly;

Bắc: gọi là Khảm;

Đông Nam: gọi là Tốn;

Đông Bắc: gọi là Cấn;

Tây Nam: gọi là Khôn;

Tây Bắc: gọi là Càn.

Mỗi hướng không gian Trái đất đều có một ký hiệu gồm 3 vạch (vạch liền hoặc là vạch đứt đoạn. Vạch liền:__ gọi là hào Dương, vạch đứt đoạn: _ _ gọi là hào Âm).

Khi dự báo về một đối tượng, thì đối tượng đó chỉ quan hệ qua lại với 2 hướng không gian Trái đất.

Sau đây là ký hiệu của từng hướng và trị số từng hướng không gian Trái đất:



Nhìn bảng trên: hướng Trái đất Tây có trị số là 6, Kinh Dịch gọi là Càn, ký hiệu 3 hào Dương; tương tự Bắc gọi là Khảm, trị số là 1, ký hiệu như trong bảng, có 2 hào Âm và 1 hào Dương... Như vậy từ nay trở đi, khi nói phương Tây ta chỉ cần nói là phương Đoài, phương Đông nói là Chấn, Nam nói là Ly, Tây Nam là Khôn....(nhìn trên bảng trị số trên).

Trong bảng có Trị số Vũ trụ, đây chỉ ký hiệu và phương hướng Vũ trụ đối xứng với phương hướng trên Trái đất (người Tiền sử gọi là Thiên hay trị số Tiên Thiên, còn trị số trên Trái đất gọi là Hậu Thiên).

Trị số Vũ trụ hay Tiên Thiên dùng trong dự báo bằng Kinh Dịch qua hướng xuất phát của đối tượng dự báo, như xem cho một người cho biết họ tới từ phương hay hướng nào, tiếng con gà gáy từ đâu (phương hay hướng) nào....

Trị số hướng Trái đất hay Hậu Thiên dùng cho dự báo qua thời gian khi bắt đầu xem.

Để bạn đọc có cách nhìn rõ về phương hướng trên Trái đất khi ta xem Kinh Dịch (dự báo) và đối tượng cần xem hay dự báo có liên quan thế nào với các phương đó, xin xem qua sơ đồ sau (người Tiền sử gọi sơ đồ này là Hậu Thiên Bát quái).



Chú giải: hướng không gian Trái đất có tất cả 8 hướng hay 8 phương. Mỗi hướng có 2 cách gọi, như:

* Hướng Bắc còn gọi là hướng Khảm, ngũ hành Thủy.

* Hướng Nam còn gọi là hướng Ly, ngũ hành Hỏa.

* Hướng Đông còn gọi là hướng Chấn hay Lôi, ngũ hành Mộc.

* Hướng Tây còn gọi là hướng Đoài hay Trạch, ngũ hành Kim.

* Hướng Đông Nam còn gọi là hướng Tốn hay Phong, ngũ hành Mộc.

* Hướng Đông Bắc còn gọi là hướng Cấn hay Sơn, ngũ hành Thổ.

* Hướng Tây Nam còn gọi là hướng Khôn hay Địa, ngũ hành Thổ.

* Hướng Tây Bắc còn gọi là hướng Càn hay Thiên, ngũ hành Kim.



Bạn đọc lưu ý: đây là đồ hình phương hướng Không gian Trái đất mẫu cho mọi dự báo khi tự xem Kinh Dịch. Bạn chỉ việc chép lại nguyên mẫu, sau đó đánh dấu 2 hướng (quẻ) đề lập Mô hình dự báo (hay Quẻ, một quẻ bao gồm 2 quái hay 2 hướng không gian), tìm Ngũ hành của quẻ Thể và Dụng (sẽ trình bày chi tiết ngay sau đây) khi tự xem Kinh Dịch.

Khi dự báo bằng Dịch, một đối tượng như một người, một sự việc, thì đối tượng đó luôn liên quan đến 2 hướng trong không gian, trong đó có một hướng của “phía mình” mà Kinh Dịch gọi là Nội quái; một hướng bên ngoài “phía mình” mà Kinh Dịch gọi là Ngoại quái. Nói cách khác, mỗi người với số phận, hành vi và ý đồ, luôn luôn bị chi phối bởi 2 hướng trong không gian trên Trái đất. Khi lập một quẻ hay mô hình dự báo, người ta đặt hướng Ngoại quái lên trên, Nội quái xuống dưới (Ngoại/Nội), khi gọi tên, gọi tên Ngoại quái trước, tên Nội quái sau (sẽ có bảng tên quả dưới đây, chỉ việc tra số là biết tên gọi, biết lời đoán).

Ví dụ: đối tượng xem có hướng Ngoại quái là Cấn, Nội quái là Càn, thì quẻ là: Cấn/Càn, tên quẻ: Sơn Thiên Đại Súc

Để làm rõ điều này, ta xét qua ví dụ sau đây:

Ví dụ 1: một người muốn xem xét kết quả kinh doanh một sản phẩm sẽ cho ra đời vào cuối năm 2012. Thời gian lúc bắt đầu dự báo (lúc hỏi) là: 7 giờ 40 phút tối, ngày 61712012, tức giờ Tuất, ngày 18, tháng Đinh Mùi, năm Nhâm Thìn.

a. Cách dự báo: trước tiên tìm hướng của bản thân người đó lúc này qua tìm Nội quái:

Công thức hướng bản thân - Nội quái:

(Trị số năm+Trị số tháng+Trị số ngày+Trị số giờ): 8 = X.

Kết quả phép chia này sẽ như sau:

*Nếu phép chia hết, thì Nội quái là quái Cấn (vì Cấn có trị số là 8).

*Nếu phép chia có số dư, thì số dư là trị số của hướng không gian từ đó là Nội quái. Ví dụ dư 3 thì Nội quái là Chấn, dư 9 là Ly, dư 1 là Khảm,...dư 7 là Đoài.

b. Tìm hướng không gian bên ngoài tác động đến đối tượng - Ngoại quái:

Công thức: hướng bên ngoài - Ngoại quái:

(Trị số năm+Trị số tháng+Trị số ngày): 8=x

Kết quả phép chia này sẽ như sau:

*Nếu phép chia hết, thì Ngoại quái là quái Cấn (vì Cấn có trị số là 8).

* Nếu phép chia có số dư, thì số dư là trị số của hướng không gian từ đó là Ngoại quái. Ví dụ dư 3 thì Ngoại quái là Chấn, dư 9 là Ly, dư 1 là Khảm,...dư 7 là Đoài.

c. Quẻ hay mô hình sự việc kinh doanh trong năm 2012:

Trở lại ví dụ trên: 7h40 là giờ Tuất, trị số 11, ngày hỏi: 18 của tháng 5, năm Thìn trị số là 5. Áp dụng công thức tìm nội quái, ngoại quái ta có:

Nội quái: 5+5+18+11 = 39; 39 : 8 = 4 dư 7--> Đoài

Ngoại quái: 5+5+18 = 28; 28 : 8 = 3 dư 4 --> Tốn

Vậy mô hình sự kiện kinh doanh hay quẻ là 4/7 hay: Tốn/Đoài. Tốn là Phong, Đoài là Trạch, tra bảng 64 quẻ vần Phong Trạch ta có mô hình hay quẻ đem ra dự báo là Phong Trạch Trung Phu.

Quẻ mô tả thực trạng kinh doanh năm 2012: Phong Trạch Trung Phu, quẻ số 61:



“Khi dự báo, gặp mô hình dự báo hay quẻ này cho biết: bằng tấm lòng chí thành sẽ vượt qua được sự khó khăn, cảm hóa được mọi người.”

Đồ hình thực trạng kinh doanh sản phẩm năm 2012 ở ví dụ 1:



Bước thứ hai: dự báo sơ bộ:

Căn cứ vào lời của quẻ Trung Phu, ta bình giải như sau: Trong quá trình kinh doanh, nếu có kế hoạch và mục tiêu kinh doanh, có nỗ lực thực hiện nhưng phải nghiêm túc trong làm ăn thì sẽ vượt qua được sự khó khăn, tạo được các mối quan hệ, làm ăn sẽ thành công

Nếu chi tiết hóa từng sự việc, cho biết:

Tình thế: hiện mọi việc đang an ổn. Đề phòng sự mất yên ổn vì quan hệ nam nữ.

Hy vọng: phải gắng sức mới như ý. Làm ăn có chữ tín mới thành công.

Tài lộc: sẽ có thu nhập khá nhưng chưa lớn.

Bước thứ ba: xác định Chủ thể và Khách thể (Thể và Dụng)

Chủ thể đây chính là ý đồ, ý muốn, hành động có mục đích của đối tượng đem ra dự báo. Đây là khái niệm được người Tiền sử gọi là Thể. Khách thể là cái mà Chủ thể cần tác động tối, cần hướng tới, cần thỏa mãn ý đồ của chủ thể, người Tiền sử gọi Khách thể là Dụng. Ví dụ xem kết quả đi đòi nợ: nếu người đi đòi nhờ xem có đòi được không, thì người đi đòi nợ là Chủ thể (Thể), còn phía con nợ gọi là Khách thể (Dụng).

Nhưng ngược lại: người có nợ cần xem hôm nay chủ nợ đến mình kết quả sẽ ra sao (thực tế, con nợ thường muốn giãn nợ, chưa muốn trả nếu có thời cơ); thì lúc này con nợ lại là Chủ thể (Thể), còn chủ nợ lại là Khách thể (Dụng).

Ví dụ 2: một thí sinh muốn biết kết quả thi đại học của mình (đỗ hay trượt), thì kết quả thi là Dụng, là Khách thể, bản thân thí sinh đó là Thể (Chủ thể). Nếu phụ huynh thí sinh đó đi xem, thì họ vẫn là Chủ thể hay Thể.

Đi xem bệnh tật thì: bệnh là Dụng (Khách thể), người bệnh là Chủ thể (Thề)

Tóm lại, ai tự xem Kinh Dịch cho mình, hoặc ai nhờ người khác xem cho mình về một vấn đề nào đó, thì người đó là Chủ thể, là Thể; còn phía mà người đó cần biết họ sẽ ứng xử với mình ra sao, hoặc nếu là sự thì tình trạng tiếp theo đây sẽ thế nào, đó là Khách thể hay Dụng. Xem xét Thể và Dụng cũng là điều cần biết trong dự báo bằng Kinh Dịch.

Thể và Dụng (Chủ thể và Khách thể) được biểu hiện qua quẻ Dịch, Thể và Dụng cũng quan hệ đến phương hướng Không gian Trái đất.

Muốn xác định Thể hay Dụng, ta phải tìm hào động trong quẻ. Bạn đọc hãy chú ý một điều như sau:

Hào động là hào bị biến đổi, gọi tắt là hào biến: hào Dương biến thành hào Âm, hào Âm biến thành hào Dương. Trong một quẻ, nếu quái (hướng không gian Trái đất) nào có hào động, thi quái đó là Dụng (Khách thể), quái nào không có hào động thì quái đó (hướng không gian Trái đất) là Thể (Chủ thể).

Vậy cách tìm hào biến trong quẻ Dịch như thế nào?

Công thức tìm hào biến hay động:

(Trị số Năm+Trị số Tháng+Trị số Ngày+Trị số giờ) : 6 = X

Kết quả có thể xảy ra như sau: nếu phép chia hết không dư thì hào 6 (trên cùng) của quẻ động. Nếu phép chia còn dư 1 thì hào dưới cùng của quẻ động; dư 2 thì hào 2 động, dư 3 thì hào 3 động, dư 4 thì hào 4 động; dư 5 thì hào 5 động. Ví dụ sau cho quẻ Phong Trạch Trung Phu:

Thứ tự vị trí các hào trong một quẻ có thể động.

Quẻ Trung Phu =========> Quẻ Tiểu Súc

Tiếp ví dụ 1 trên, ta tìm hào động của quẻ để tìm quẻ Thể và Dụng. Theo công thức trên ta có:

5+5+18+11= 39; đem 39: 6 = 6 dư 3. Vậy hào 3 của quẻ Trung Phu động, hào này Âm, biến thành hào Dương, như vậy ta có quẻ mới (xem quẻ trên và đồ hình dưới) là Tốn/Càn: Phong Thiên Tiểu Súc. Trong quẻ này, quẻ Thể là quái Tốn Mộc, quái Càn Kim là Dụng vì có hào động. Quẻ có Thể và Dụng cũng chính là kết quả của sự việc, ở đây là kết quả công việc kinh doanh sản phẩm mới đưa vào cuối năm 2012.

Đồ hình hướng không gian Trái đất hay Bát quái kết quả sự việc kinh doanh sản phẩm mới cuối năm 2012:



Bước thứ tư: dự báo kết quả qua Thể và Dụng

Dự báo chi tiết qua Thể và Dụng hay nói cách khác là đưa ra kết luận cuối cùng về sự việc. Phương pháp dự báo là xem mối quan hệ Ngũ hành giữa Thể và Dụng. Nhìn vào đồ hình hướng không gian Trái đất hay Bát quái trên của ví dụ 1 đang xét, ta thấy Dụng khắc Thể (Kim khắc Mộc): báo công việc kinh doanh sản phẩm này chưa theo ý muốn như đã vạch ra ban đầu. Dụng ở đây là Càn, thể là Mộc Tốn, nên cho biết thêm: trong làm ăn có sự lo lắng, sẽ mất mát về tiền của, mình chưa đối xử tốt với người giúp mình

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các bước cơ bản để gieo quẻ kinh dịch, lập quẻ kinh dịch qua thời gian xem dự báo

Lợi hại của vị trí sắp đặt bàn làm việc là gì? –

Tám vị trí hướng ngồi bàn làm việc của văn phòng tại gia đều có lợi hoặc có hại. - Ngồi Tây hướng Đông Lợi cho việc tiến cử, hơn nữa càng thêm tỉ mỉ, tự tin, lạc quan. Chỗ hại là dễ dẫn đến dã tâm, muốn đứng trên cao ảo vọng. - Ngồi đông hư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tám vị trí hướng ngồi bàn làm việc của văn phòng tại gia đều có lợi hoặc có hại.

noi-that-van-phu-7-v43iy4o4v0x37as

–      Ngồi Tây hướng Đông

Lợi cho việc tiến cử, hơn nữa càng thêm tỉ mỉ, tự tin, lạc quan. Chỗ hại là dễ dẫn đến dã tâm, muốn đứng trên cao ảo vọng.

–      Ngồi đông hướng Tây

Lợi cho việc tích luỹ tài phú, cuộc sống thỏa mãn hơn nữa, tăng thêm sự lãng mạn.

Chỗ hại là dễ mạnh chân mạnh tay, tỳ tính tăng lên, hơn nữa dễ đào hoa.

–       Ngồi Bắc hướng Nam

Lợi cho tứ ích kích tình, khiến người chú ý. giao tiếp linh hoạt.

Chớ hại là áp lực tăng lên. tình cám sóng gió. thị phi miệng lưôi nhiều.

– Ngồi Nam hướng Bắc

Lợi nhân thành thục ổn định, tạo ra tiềm năng, độc lập tự chủ.

Chỗ hại là dễ cô độc, để tâm điêu đàn, sự nghiệp có xu thế bình thường.

–      Ngồi Tây Bắc hướng Đông Nam

Lợi cho tăng cường lãnh đạo, mở rộng tài năng và có trách nhiệm, cũng tăng cường tôn quý và uy tín.

Chỗ hại là dễ cương phục tự dụng, mệt mỏi quá độ.

–       Ngồi Đông Nam hướng Tây Bắc

Lợi cho việc tăng cường năng lực lãnh đạo, đạt được tín nhiệm và tôn kính.

Chỗ hại là tôi làm tôi có, kiêu ngạo hư vi, can thiệp người khác.

–       Ngồi Tây Nam hướng Đông Bắc

Lợi cho tự mình thẳng tiến, mục tiêu rõ ràng, phấn đấu công việc.

Chỗ hại là tham lam, tự tư, có phần căng thẳng, làm việc dã man.

–       Ngồi đông Bắc hướng Tây Nam

Lợi cho gia đình hòa thuận, tiết kiệm, quý nhân tương trợ.

Chỗ hại là nghe theo người khác, đầu chuột hai đuôi, quá nhỏ nhen.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lợi hại của vị trí sắp đặt bàn làm việc là gì? –

Tục thờ và nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định

Việc thờ Thần của người Việt từ xưa đã có sự chọn lọc theo quan điểm ai có công với dân với nước thì thờ. Tất nhiên không ngoại lệ các trường hợp chết vào giờ “thiêng” có ảnh hưởng đến cuộc sống của một địa phương nào đó. Tuy nhiên các trường hợp này ít được sùng bái rộng rãi, được sắc phong cũng như ít được bảo tồn, thường chỉ có các miếu nhỏ, đống đất có dầu tích và nén nhang do từ tâm ở các vùng Trung, Nam, Bắc.
Tục thờ và nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lại còn có một số Thần người nước ngoài xâm lăng nước ta, khi chết tạo sự bất an cho dân, như Nguyễn Bá Linh theo nhà Nguyên đánh Đại Việt, Trương phụ là tướng nhà Minh…cũng được thờ ở Ninh Bình, Quảng Ninh cho bớt sự quấy đảo… Nhưng các Thần người nước ngoài có công với chúng ta, thể hiện đạo đức phù hợp với bản chất dân tộc Việt được nhân dân tôn thờ, sùng kính. Ví như đền thờ Mỵ Ê ở Lý Nhân, Hà Nam, là vợ vua Chiêm có khí tiết đáng kính. Triệu Trung là tướng nhà Tống theo Đại Việt đánh giặc Nguyên được thờ ở Cao Đài - Mỹ Thành – Nam Định và đặc biệt Tứ Vị Thánh Nương, triều đình Nam Tống kháng chiến đế quốc Mông – Nguyên không thành, cơ đồ nhà Tống tan nát, hận mất nước mang nặng, tình nguyện âm phù cho Đại Việt đánh giặc cũng như nhân dân Việt làm ăn, phát triển sĩ, nông, công, thương… được dân gian chiêm ngưỡng rộng rãi khắp Trung, Bắc, Nam và lịch đại phong tặng danh hiệu Thượng đẳng thần.

Việc sùng bái này tuy có thời sóng gió, nhưng một vài thập kỷ gần đây được phục hồi, Nhà nước quan tâm tu bổ di tích như đền Cờn - Nghệ An, đền Mẫu – Hưng Yên, đền Lộ - Hà Nội, đền Ninh Cường, đền thờ Mẫu ở Thái Bình, đền các xã Quần Anh cũ, đền xã Trực Khang – Nam định… Phải chăng đạo nghĩa dân tộc, tầm nhìn tổ tiên đã vượt qua biên giới, nói cách khác là đã có quan điểm toàn cầu. Quý hoá thay, đáng kính thay!
  Riêng với Nam Định nay (vì Nam Định xưa, đầu thế kỷ 19 quản lãnh cả Thái Bình và một phần Hưng Yên) tục thờ Tứ Vị Thánh Nương còn được khôi phục ở khá nhiều nơi, đặc biệt vùng biển, nay thuộc huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh.   Xin dẫn chứng lịch sử tôn thờ Tứ vị, với công trình khẩn hoang mở đất phía Nam sông Cường Giang (nay là sông Ninh Cơ) để có được phần lớn đất đai huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh ngày nay.   Theo di tích, truyền thuyết địa phương thì các cụ tổ sáng lập đất Quần Anh là Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập (địa chí ghi là Tứ tính) cùng chín họ Lại, Nguyễn, Lê, Bùi… (địa chí ghi là Cửu tộc) vượt sông Cường Giang, từ vùng Tương Đông - Trực Ninh sang khai hoang lấn biển vào cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, khi điền địa hình thành, lập xóm trại, họ đã lập đền thờ. Phần này trong sách chép tay Quần Anh tiểu sử của Tiêu Viên Hoàng Diễn (1872-1914), do Phương Châu Đoàn Ngọc Phan dịch và chú thích năm Ất Sửu 1985, mục xây dựng đền, miếu, đàn, chùa và bi ký có ghi:   “Nguyên trước đền thờ Tống Thái hậu (người họ Dương là vợ vua Tống Độ Tông, mẹ Tống Đế Bính cùng hoàng hậu và hai công chúa bị nạn giặc Mông - Nguyên chết đuối ở bể năm Kỷ Mão 1279). Đền Bóng trước tại xứ Cồn Khuôn bị xã Cát Chử chiếm mất, bèn lập lại đền Bóng tại phía Bắc sông Trệ (nay thuộc cầu Xẻ, xã Thượng).   Tương truyền khi Tú Tổ khai trương, phía đông có đền xã Quần Mông, phía tây có đền thờ Tống hậu còn gọi là Tứ Vị Thánh Nương  (do ai xây, xây từ bao giờ?... Các tổ nhân sẵn đền cũ tu bổ lại, đúc tượng đồng phụng sự… Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ 13 mới đúc tượng đồng ở đền Bóng sông Trệ lại trang hoàng từ vũ. Diện tích khu đền rộng hơn một mẫu, nước hồ trong vắt, cây cối um tùm, nhân dân kỳ đảo linh ứng, trải qua nhiều triều đại có sắc phong…   Sau khi Quần Anh phân làm ba xã (1804) đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), xã Hạ lập đền Bóng tại phía bắc chợ Đông Cường, xã Trung, xã Thượng vẫn thờ tại đền Bóng phía bắc sông Trệ.   Năm Thành Thái thứ 10 (1890), xã Trung mới lập đền Bóng ở phía nam sông Trà, phía đông Cầu Đông. Từ đó các xã đều có đền Bóng riêng, tục gọi là đền Chánh. Còn đền tại Vĩ Châu do Ninh Cường phụng sự, nhưng hai xã Thượng và Trung thay phiên nhau hàng năm lên kinh tế”…   Như vậy, trong vòng 5-7 km, các  xã giáp nhau đều có đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương. Theo truyền thuyết đây là đời sống tinh thần của dân khai hoang mở đất Quần Anh.   Sách Quần Anh dấu xưa mở đất của Trần Xuân Mậu (Hội Văn học nghệ thuật Nam Định - 2002) còn ca ngợi đền Chánh xã Trung là công trình kiến trúc tuyệt đẹp. Thợ nề Quần Anh có tài nặn, đắp, tạo hình…Đôi nghê chầu do hai phó nề quây cót đắp thi khá thành công, đã có thơ ca ngợi…   Gần 4 ngôi đền phía nam sông Cường Giang, phía bắc sông có đền Lạc Chính nay thuộc xã Trực Khang, huyện Trực Ninh. Lịch sử lập đền vào cuối thế kỷ 19, xin chân nhang ở đền Ninh Cường (cửa biển Lác) về thờ và ngày càng tu bổ đẹp đẽ, lại là cơ sở cách mạng, kháng chiến của địa phương.   Đơn cử một số điểm thờ Đại Càn Thánh Mẫu, hoặc Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định để chúng ta tìm hiểu về nguyên nhân cũng như ảnh hưởng của Tứ Vị Thánh Nương đối với cộng đồng dân tộc Việt. Có thể có sự đồng cảm bởi Vương hậu, Vương phi nhà Tống vì kháng chiến chống kể thù chung Mông – Nguyên. Có thể bởi đức độ giữ chư tiết nghĩa mà ngọc phả dẫn, phù hợp với chất đạo lý dân tộc, hoặc do sự âm phù vua Trần Anh Tông cho nên biển lặng, sóng yên giúp quân Trần nhanh chóng chinh phạt kẻ thù phương Nam thành công, hay có sự anh linh, một niềm tin nào đó cho sĩ, công, nông, thương Đại Việt trước kia, rồi Đại Nam, Việt Nam chúng ta ngày nay cầu được ước thấy, mưa thuận gió hoà, thuận buồm xuôi gió…dẫn đến đời sống ấm no, hạnh phúc mà dân gian hết lòng tôn kính, lập đền thờ tự.

Hoặc do dân quê thuần phác, đời sống khó khăn, trong công cuộc khai hoang lấn biển, nhiều lần nước mặn phá vỡ đê biển, nhiều lần tràn ngập cướp đi hàng ngàn, hàng vạn ngày công… dân quê không còn cách nào hơn là lập đền ở Vĩ Châu, rồi sau là đền Chánh, đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương mong sự cứu độ và đây là liều thuốc an thần, giúp dân khai phá thành công, thiết lập làng xã với một nếp sống nông thôn nghĩa tình, có từ đường thờ tổ, văn đàn, võ đàn, đền, miếu, chùa cảnh, thờ Thần, Phật, Tổ lập lăng. Còn chấn hưng việc học, xây cầu, lập quán tạo cuộc sống đầy đủ vật chất, chu đáo về tâm linh cho dân.
  Đây là văn hoá bản địa, văn minh bản địa khá tiêu biểu ít nơi có. Và để minh chứng xin trích dịch “Tân đình bi ký” (1815) tại xã Trung, nay là Hải Trung, Hải Hậu, Nam Định.   … “Đất ta cổ truyền là đất chua mặn, cát chữa nên ruộng, bằng phẳng bốn bề, chỗ cao có thể dựng nhà cửa, chỗ thấp có thể cấy dâu gai, ngàn mẫu tạo nên mà trăm nhà dựng, xanh tươi sầm uất thành vũ trụ trời Nam… từ niên hiệu Hồng Thuận chung nhau một xã, đình làng cùng chung, chợ cùng nhau họp, cầu cùng nhau leo, đều cùng nhau cúng. Năm Giáp Tý (1804) mới cắm mốc chia làm ba làng”…   Văn bí chùa Phúc Sơn (Quần Phương Trung, Phúc Sơn tự ký) lập năm 1932 còn ghi:   … “Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) lập thành tên xã Quần Anh, dựng đền Quốc Mẫu tối linh Thần ở thôn An Cường, nguyên trước là thôn Tây Cường, nay là xã Ninh Cường, cửa bể sông Lác bãi Vĩ Châu, dựng thêm đền Bóng ở cửa sông Trệ, dựng chùa thờ Phật gọi là chùa Phúc Lâm”. Những dòng chữ Hán của người xưa, muốn cho cộng đồng cư dân Nam Định ghi nhớ dấu tích đời sống tinh thần trong đó có tục thờ Tứ vị, cũng như đức tin của người Nam Định đối với các vị Thần Tổ lập biển lập làng, tạo an sinh xã hội”
Nhìn chung các di tích thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định khá lớn, khá nhiều, thường có hai hoặc ba toà chính, có hệ thống tường hoa, cột trụ vây quanh tạo khuôn viên nội chữ đinh, hoặc nội chữ công, ngoại chữ quốc, quy mô hoành tráng.   Phần thư tịch, câu đối đều có nhắc tới nạn xâm lăng của nhà Mông – Nguyên, triều đình Nam Tống bị diệt vong, thái hậu cùn ba con bị nạn trôi đến Càn Môn - Quỳnh Lưu - Nghệ An, nêbn dân gian coi đền Cờn - Nghệ An là nơi phát tích, hàng năm vẫn có người vào đền Cờn dâng lễ tỏ rõ lòng thành, không 1uên gốc.   Đơn cử câu đối đền Lạc Chính nay là xã Trực Khang ghi:   Nam Hải thần phong thiên hữu sắc   Cần môn ba tố địa giai binh   Tạm dịch: Nam Hải thần do trời ban sắc,   Cầu môn nổi sóng đất anh linh.   Lễ hội ở đây, ngoài việc tế lễ, ngày 7 tháng giêng có lệ thi trâu béo, khoẻ. Để làm việc này, ngay từ ngày 6 tháng giêng các giải pháp tắm rửa cho trâu, cho trâu ăn no, lại trang trí trên đầu, trên sừng trâu. Các nhà trong giáp góp gạo thổi xôi làm lễ, tối mồng 6 thắp đuốc rước trâu. Người cưỡi trên lưng trâu giơ cao ngọn đuốc và đoàn người trống chiêng hối hả theo sau. Đoàn rước có tới hàng chục con trâu béo, trâu đẹp được tập trung để dự thi, con nào đạt thì được giải. Lệ này được duy trì cho mãi đến ngày nay, vừa khích lệ tinh thần chăn nuôi tạo sức kéo, vừa nhớ lại chuyện xưa trẻ trâu thấy đền Cửa Lác thờ, bắt chước đắp đất làm đèn, vì thế các cụ mới sang Ninh Cường xin chân nhang về thờ…   Theo sách Thần tích Việt Nam của Lê Xuân Quang – Nxb Thanh Niên, 2003, thì thôn Thiện Đăng, xã Thời Mại, huyện Tây Châu, Nam Định có 2 tướng Đinh Thuyên và Nguyễn Phụng dưới trướng Trần Quốc Điền, theo lệnh của Hưng Đạo Đại vương đem 500 quân vào Châu Hoan do thám tình hình địch, trong cuộc kháng chiến lần thứ II – 1285. Nhưng kế hoạch bại lộ, bị địch truy đuổi, các ông cho quân sĩ lên bờ rút lui, bỗng trông thấy đền thờ Tứ vị, liền vào đền khẩn cầu kêu xin âm phù. Ít phút sau trời đất tối sầm, sấm chớp nổi lên, gió bão ập đến làm cho thuyền giặc gãy cột buồm trôi dạt trở lại. Quân ta thừa cơ tấn công, địch rút chạy, thu được hon chục thuyền chiến… Biết chuyện đánh thắng quân Toa Đô có nhờ sự âm phù của Thần ở Càn Hải. Vua Trần ban phong “Càn Hải Tứ vị linh thần”. Lại cho vàng bạc tu sửa đền thờ…   Đáng tiếc một thời, các đền thờ Tứ vị nhiều nơi bị cấm đoán, thậm chí phá công trình, tẩu tán đồ thờ. Nhưng do ý thức tôn trọng Tứ vị trong dân gian, họ vẫn ngấm ngầm tìm đi các nơi cầu đảo Thánh Nương phù hộ. Các tư liệu, câu đối còn lưu, ca ngợi sự âm phù của Tứ vị cho triều đình chống ngoại xâm thắng lợi, âm phù cho các thuyền buôn, thuyền đi trên biển, trên sông an toàn. Tài liệu của ông Lê Xuân Quang còn ghi lại đạo sắc ngày 4/12 Quang Trung thứ 5 (1793) trong văn có câu: “Phi tự Đại Tống ngật kim tích tại Tiên tảo, danh tại sử, tướng duy ngã Việt lập quốc, công ư đế thế, trạch ư dân”.   Tạm dịch:   - Trải từ thời Đại Tống đến nay, dấu tích ghi trong sổ người Tiên, tiếng tâm ghi tự điển.   - Âm phù nước Việt ta lập quốc, công giúp nhà vua, ơn sâu với dân cũng thấm nhuần khắp mọi nơi.   Đạo sắc trên đây ở đền Hương Nại, xã Yên Nhân, Yên Mô, Ninh Bình phong Tứ vị là người Tiên. Liệu đây có là nguyên nhân để trong điện Thần tứ phủ có văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu. Ảnh hưởng của Tứ vị được nhân lên, được dân gian hàon toàn đưa vào nội đạo của dân gian Việt Nam. Xin giới thiệu lại văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu, sưu tầm trong những người hát văn ở Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng.   Gương tứ đức sáng cùng nhật nguyệt,   Nghĩa tam tòng tỏ hết Bắc Nam,   Ngàn thu thơm nức hương lan,   Đời càng ca tụng, tích càng hiển dương…   Đức lồng lộng muôn dân khôn lượng,   So bể, trời hình tượng cao sâu   Sáng soi khắp chốn đâu đâu,   Thơm danh Dương Thị hồi đầu Tống gia   Trăm họ nức âu ca cổ vũ,   Bốn bộ đều áo mũ đai xiêm.   Khắp hoà Thuấn nhật, Nghiêu thiên,   Đã vui cõi thọ lại lên xuân đài,   Đang vui lúc lòng trời yên thuận,   Quốc gia đều hoà khí xuân phong.   Sau vì nhất quốc tam công,   Người Nguyên ác độc đặt bày mưu mô.   Nhà Tống phải thiên đô châu Quảng,   Bóng tà dương soi rạng bể Nam.   Thợ trời khôn tỏ cơ hoàn,   Chúa tôi một dạ những toan phục hồi.   Giang sơn Tống dẫu mười còn một,   Có lẽ đâu chịu mất ngay đi.   Ngoài thì tướng sĩ phù trì,   Trong thì Thánh Mẫu khuê nghi luận bàn.   Người son phán mà gan vàng đá   Việc binh nhung vững dạ kiên tâm.   Thần dân báo đáp quân ân,   Nặng tình sơn hải mấy thân liễu bồ.   Quyết giữ lại cơ đồ nhà Tống,   Hẳn không dung những giống bất nhân.   Lại khuyên võ tướng mưu thần,   Gắng công vì nước đền ơn sinh thành…   Nghe dụ chỉ quân dân quyết đánh,   Nhưng khôn đua sức mạnh quân Nguyên   Mới hay thành bại do thiên,   Cơ huyền vẫn giữ, cơ huyền vẫn xoay.   Cuộc thế sự hết bày trò rối,   Trận Nhai Sơn hết đỗi gian nan…   Lênh đênh trên biển liều thân,   Quyết lòng thu thập quan quân phục thù,   Nhược chẳng được mặc cho thuyền lắng,   giãi gan cùng trời trắng bề trong.   Ôi thôi thả lá giữa dòng,   Qua ba bực sóng đều cùng thảnh thơi.   Ấy mấy biết người trời khác giá,   Trải gian nguy vẫn dạ trung trinh.   Chí thành Phật cũng chứng minh.   Bè từ đã đón thênh thênh lên ngồi   Phép Phật độ tỉnh rồi mới biết,   Chùa La Sơn Nam Việt là đây.   Ung dung ở chốn am mây   Khấu đầu lễ Phật giãi bày vân vi…   Độ bốn vị đều nên Thần phúc,   Hoá chân thân bốn khúc trầm hương.   Gió đưa thoảng ngát một phương,   Hào quang trước mắt ngư phường khô hay.   Thuyền qua lại mấy ngày mới hiển,   Rước lên thờ kính tiến khói hương.   Nhờ ơn từ đấy mấy làng   Lưới chài phong vận bạc vàng đầy chen.   Đua cầu phúc lập đền tế lễ   Độ cho người sông bể biết bao   Kể chi giông tố ba đào   Kêu cầu khắc ứng chuyện nào cũng yên…   Công hộ quốc thơm ghi Nam sử,   Lễ suy tôn khởi sự Đông – A   Mẫu về chắc giáng điện toà   Khuông phù đệ tử vinh hoa thọ trường.   Như trên đã nói về ý thức người Quần Anh trong việc tôn thờ Đại Càn Thánh Mẫu. Ý thức trân trọng này được ghi vào tục lệ của làng. xin trích dẫn đôi điều cần thiết.   Ngay trang đầu “tục lệ vào đám” có ghi:   “Khoảng thế kỷ thứ 15, tiên tổ Quần Anh từ Tương Đông xuống khẩn điền lập ấp. Lúc đó đắp đê bể rất gian khổ nên đã lập đền thờ Tống hậu ở ngay cửa bể Lác Môn (đền Ninh Cường ngày nay) để cầu Thần ủng hộ”…   “Khi xã Trung chưa làm đền Chánh, mỗi lần vào đám phải xuống xã Thượng rước kiệu Thần về đình… phải hưng công lập dịch bồi trúc con đường rước Thánh cho thật cao ráo, bằng phẳng. Ngoài ra các con đường khác cũng phải sửa chữa cho tiện đi lại và đón khách gần xa”.   Theo lệ tục, những người rước Thánh phải là đàn ông, con trai đi rước, hoặc đi xem hội trên đường, còn các cụ già, đàn bà, em nhỏ thì đi thuyền dưới sông, nên sông Giữa, sông Múc nằm cạnh đường rước phải sửa, vét lại. Phàn đường, phần sông xã phân giao cho các giáp, các xóm, các tư nhân đảm nhận dưới sự kiểm soát của ban đốc công.   … Đền Chánh là nơi khởi đầu cuộc rước phải tu sửa cho thật uy nghi, xứng đáng như cung điện Tống triều. Còn các đền khác cũng sửa sang cho tốt để quan khách trông vào. Xã lo phí tổn tu sửa đền Chánh, còn các đền khác các giáp tự lo…   Khoản đồ rước như cờ, áo, kiệu, võng, tàn quạt, chiêng trống, gươm, roi… phải bắt tay từ năm, bảy tháng trước. Thợ thêu, thợ mộc, thợ sơn… mỗi hiệp hàng chục người phải làm liên tục…”.   Tục vào đám còn ghi tỉ mỉ các khoản đóng góp, phân công cử người vào đám, đề chương trình tế lễ, đề nhật ký tiến cúng cho các giáp, quy định bầy đám, bầy điểm để phô trương văn vật địa phương. Đám do xã lo, thường bày giữa đình là gian thờ kiệu Thần nên phía trên và 4 mặt căng phủ màn thêu, hai gian bên thì đơn giản hơn, ngoài rạp cũng căng phủ màn, treo câu đối, cửa võng…Đồ thờ Thần có sập ngữ, võng ngự theo nghi thức hoàng hậu, hai bên tả hữu thiết đồ thờ theo nghi thức vương công.   Điếm hát do các giáp lo nhưng cũng phải tươm tất, xứng với danh vị chủ nhân của giáp. Lại phân chia điếm văn, điếm võ,điếm thể sát để giải quyết mọi pháp lý, điếm đoàn áp (trị an, tuần phòng), điếm tổng cờ (chỉ huy thi đấu cờ), điếm tướng cờ nam, nữ…   Phần rước Thần được ghi chép tỉ mỉ, nào phân công cầm “lộ bộ” (đi rước kiệu Thánh), nào người cầm mã đao, cầm cờ “thanh đạo” (dẹp đường), cầm tán, biển có chữ “tĩnh túc” (nghiêm tĩnh),  “hồi tỵ” (tránh lại), cờ nhật nguyệt, bộ trống ngũ lôi (10 người), cầm thập kỳ (cờ đỏ viền xanh trắng, hoả xanh) rồi cầm tán, cờ ngũ hành “kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ”, cờ bát quái, tán, tàn…   Ngay các hiệu lệnh, trống, chiêng cũng ghi chép tỉ mỉ, các phường hội sư tử, múa rồng, phường động, phường chèo, các trò đi kheo, đô vật… cũng được phân công, trước sau rất cụ thể.   Nêu vấn đề trên để thấy việc tế lễ trịnh trọng như thế nào, nghiêm chỉnh như thế nào nhất là vai trò Thàn đền Chánh – Tứ Vị Thánh Nương là chủ chốt, oai linh nhất đối với dân Quần Anh – Nam Định nh thế nào.   Phần cỗ rất linh đình. Có cỗ mặn, cỗ chay. Xin đề cập lễ rước cỗ chay tại xã Trung, nay là xã Hải Trung. Ngày 7 tháng giêng lễ khai hạ, lại là dịp kỷ niệm Đại Càn Thánh Mẫu cùng Tam vị, nên ngoài việc tế lễ, sang đêm ngày 8 tháng giêng tổ chức rước cỗ chay. Rước cỗ chay thường làm hai lễ, một lễ sang đền Chánh thờ Tứ vị, một lễ rước sang đền Khải xã, thờ liệt tổ khai sáng Quần Anh.   Cỗ đặt trên “mân dàn” (mâm có nhiều tầng). Giữa bày hòn non bộ, bốn góc bầy tứ linh. Đi rước kiệu có đinh nam bưng mâm bồng có trầu rượu cùng cờ, quạt, chiêng trống… Cỗ chay thường có các loại bánh như bánh xu xê, nhựa mận, bánh dứa, bánh quế, bánh nhãn… Những cỗ chay cũng là nét riêng của từng địa phương, dùng sản phẩm riêng của địa phương. Ví như dùng quả đu đủ trổ thành các hoạ tiết, nấu thành mứt trong như kính rồi cắm vào tấm bánh, bày lên đĩa xung quanh có các thứ bánh chay.   Mâm cỗ chính có 120 đĩa, các mâm bồng phụ, khoảng 12 đĩa làm toàn bằng ngũ cốc, nông sản, hoa quả. Điều đặc biệt là khi rước Thánh qua thôn xóm nào đèu có sự nghênh tiếp trịnh trọng. Việc này còn có câu đối lưu lại.   Tạm dịch:   Đền Thần mới sửa bên sông Trệ   Kiệu Thánh mừng qua trạm xã Trung   Hoặc câu:   Âu ca một hội Xuân sau trước,   Lễ nhạc trăm năm nghĩa láng giềng.   Câu đối trên còn chứng tỏ đất Quần Anh sau khi tách làm ba, vẫn giữ được tình nghĩa làng cũ, nhất là ý thức đối với Tứ vị. Thần linh, coi như Thành hoàng che chở cho dân khẩn điền, lấp biển thành công.   Riêng xã Hạ (nay là xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu) lễ hội trong khu di tích thờ Phật, thờ Đại Càn Thánh Mẫu, thờ Liệt tổ, thờ Mẫu Liễu Hạnh, thờ Trần Hưng Đạo, xưa vẫn lấy ngày 6, ngày 7 tháng giêng là trọng tâm. Truyền thuyết cho ngày này là kỷ niệm Liệt tổ và Tứ Vị Thánh Nương.   Ngoài việc tế lễ, rước kiệu Thánh du xuânb còn có các trò vui như tổ tôm điếm, đấu cờ tướng, cờ người, hát chèo, hát Ả Đào.   Hát chèo, hát Ả Đào ở đây có truyền thống. Bởi xưa đây là xóm chuyên nghề này, sau xóm chuyển thành phố với tên phố Cô đầu, nhân dân sống nhờ nghề này và đã lập miếu thờ “Cầm ca nhĩ tổ” (Tổ nghề đàn, ca). Hiện miếu thờ không còn, nghề cũ cũng mai một, nhưng trong ký ức về rạp hát Thanh Kỳ do nghệ sĩ Quách Thị Hồ mở hàng chục năm, rồi nghệ sĩ Linh Nhâm, người con quê hương cũng ít nhiều gợi lại về một địa phương có nghề cầm ca. Xa xưa nghề cầm ca phục vụ các đám hát trong ngày hội Thánh, hầu Dương hậu, vương phi có các chức sắc, quan lại về dự, sau nghề cũ không phù hợp, nhưng truyền thống nghề nghiệp còn bảo lưu, giúp cho phong trào ca hát, đội văn nghệ địa phương trưởng thành. Và ngày hội hiện tại có các chiếu chèo, hoặc các nghệ sĩ hát ca trù dưới con thuyền trôi lững lờ trên sông nước trước đền chùa, gợi cảnh lệ vào đám xưa kia của tiên tổ Quàn Anh.   Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định nhen nhóm từ thế kỷ 15-16, thịnh hành vào các thế kỷ 17, 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Đặc biệt nhân dân ở các cửa lạch, cửa sông và người làm nghề trên sông biển. Dân gian tin Tứ Vị Thánh Nương lúc nào cũng từ bi cứu độ muôn dân, như xưa đa âm phù giúp vua Trần, tướng Trần, cùng vua Lê đánh giặc, lại âm phù cho ngư dân vào lộng ra khơi đánh bắt cá, thương thuyền buôn bán sóng lặng, bể yên. Phù hộ cho việc khẩn hoang lấn biển, ngự trị được nước cường, sóng lớn cho đê biển vững bền… Sự hiển linh tạo thành đức tin và để đền đáp, kính cẩn thần linh, dân gian lập miếu tôn thờ, theo cách nhìn: Ai có công giúp nước, giúp dân thì thờ.   Việc thờ tự có lễ, lễ dâng hương tưởng niệm và hàng năm hoặc 3 năm một lần vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu làng vào đám. Vào đám để biểu hiện lòng thành cao độ. Nhưng vào đám cũng bày vẽ quá đáng, khiến dân thôn phải phục vụ hao tổn sức người, sức của. Ấy vậy mà không ai bảo ai cứ cố gắng hoàn thành tục lệ tế lễ, hội hè do làng xã quy định. Bởi tâm linh mọi người; đây là giờ phút thể hiện sự thành tâm của con dân đối với liệt tổ mở đất, đối với Tứ vị thần linh âm phù cho nước bình yên, cho dân hạnh phúc theo đạo lý dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Phải chăng đây là bản chất ưu việt của cộng đồng cư dân Nam Định và như câu nói cổ nhân:   “Thực kỳ tự giả, bất huỷ kỳ khí, ấm kỳ thụ giả, bất chiết kỳ chi”.   (Ăn cơm không đập vỡ mâm bát, đứng dưới bóng cây không bẻ gẫy cành).
Hồ Đức Thọ - Chi hội trưởng Chi hội VHDG tỉnh Nam Định

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tục thờ và nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định

Chuyện kể về Tô Tiểu Muội

Tô Tiểu Muội là một nữ nhi văn hoa thơ phú giỏi giang, tương truyền còn biết võ công, là em gái của Tô Đông Pha, một trong bát đại gia đường đời Tống
Chuyện kể về Tô Tiểu Muội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyện kể về Tô Tiểu Muội, là em gái của Tô Đông Pha – một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng đời Tống, được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.

Tại Châu Mi, thuộc Tứ Xuyên có một người họ Tô tên Tuần, tự là Minh Doãn biệt hiệu là Lão Tuyền. Ông ta là một nhà thông thái, có tiếng là học giỏi cho nên được người thời đó kính trọng và tôn là Lão Tô.

Lão Tô sinh được ba con, hai trai, một gái. Đứa con trai lớn là Đại Tô, tên Thức, tự Tử Chiêm, biệt hiệu là Đông Pha. Đứa con trai kế là Tiểu Tô, tên Triệt, tự Tử Do, biệt hiệu là Dĩnh Tấn. Cả hai đều nổi tiếng hay chữ, kinh luân nặng túi, thi phú đầy lòng. Anh em cùng đậu Tiến sĩ một khoa làm đến chức Hàn lâm học sĩ, nổi tiếng nơi triều đình.

Còn người con gái, tuy phận liễu bồ, song chữ nghĩa cũng không kém. Nàng tên là Tiểu Muội, tánh hay đọc, làm thơ, ngoài ra không còn dự vào công việc gì khác cả. Năm Tiểu Muội lên 16, Lão Tô cố kén rễ đông sàng, nhưng lựa mãi mà không có ai đáng mặt làm chồng cái cô nữ thi sĩ ấy.

Tể tướng cầu thân cho con trai

Bỗng một hôm, Tể tướng Kinh quốc công Vương An Thanh sai người mời Lão Tô sang dinh để uống rượu chơi.

An Thanh là một người nổi tiếng bậc đại hiền song có tánh kỳ dị, hàng tháng không rửa mặt, giặt áo, do đó Lão Tô cho là một kẻ “bất cận nhân tình” và đoán rằng lão này lúc đắc ý sẽ trở nên một gian thần phản quốc. Vì thế Lão Tô đã từng viết quyển “Biệt gian luận” để châm biếm. Lão An Thanh vẫn nuôi hận trong lòng, chờ cơn trả oán, nhưng về sau thấy hai đứa con của Lão Tô đều đổ tiến sĩ, làm đến chức Hàn lâm học sĩ nên đổi oán thành than.

Còn Lão Tô, thấy An Thanh nắm trong tay trọng quyền, nếu gây chuyện sợ hại đến đường tiến thủ của hai con mình nên cũng làm lành trong việc giao du.

Hôm ấy Lão Tô đến dinh. Tô Thanh hai người đang đối ẩm với nhau rất tương đắc, thì An Thanh khoe rằng ông ta có một đứa con trai, đọc sách chỉ đọc qua một lần đã thuộc lòng ngay.

Lão Tô đang lúc hứng chí, không nín được bèn nói :
— Hai đứa con trai tôi cho việc ấy là thường sự, cả đến đứa con gái tôi, coi qua một lần sách vở đều nhớ không sót một chữ nào.

An Thanh nghe nói mặt buồn dàu dàu nghĩ rằng :
— Như vậy tức là bao nhiêu tú ký My Sơn đã ung đúc vào nhà họ Tô cả.

Tô lão nói lỡ lời, trong lòng cũng hối hận, nên nói thêm qua loa vài câu nữa rồi cáo biệt ra về.

An Thanh sai tiểu đồng vào phòng học công tử lấy một quyển vở, thân đệ đến trước mặt Lão Tô nói :
— Đây là bài của cháu nó học, vậy hiền đại nhân chấm xem nếu có chỗ nào sơ suất phiền đại nhân chỉ bảo cho.

Tô Lão không từ chối, cất tập vở vào tay áo rồi ra về.

Về đến nhà ông ta cởi áo vào phòng ngủ khì. Khi tỉnh rượu mới sực nhớ đến câu chuyện ấy, và nghĩ rằng :
— An Thanh đưa vở của con trai y cho ta chấm, như thế là có ý cầu thân. Nhưng làm thân với người ta không muốn thực là một tai hại.

Tuy nghĩ thế, Tô Lão cũng lấy vở ra xem, quả trong đó văn chương tuyệt tác, thật là một đấng tài hoa.

Phúc động lòng vài tài năng, Tô Lão nảy ra một ý kiến, muốn thử lòng đứa con gái mình xem sao, bèn kêu a hườn đến bảo :
— Bài vở này của một chàng trai trình đệ ta phê chấm, nhưng ta bận việc, đưa nhờ tiểu thư của mi duyệt xem, xem xong phê vào đó rồi mang ra đây ngay.

Nói, Tô Lão vừa rọc bỏ cái tên Vương Nu trên mặt sổ, rồi trao cho a hườn.

Liễu hoàn, tên con a hườn của Tiểu Muội, cầm vở đi thẳng vào phòng thuật lại đúng như lời Tô Lão đã dặn.

Tô Tiểu Muội, tay cầm bút son, chấm phá một lúc rồi than rằng :
— Văn chương tuyệt tác song tú khí phát tiết đến tận cùng, e khó bề mà trường cửu.

Bèn cầm bút son phê trên mặt quyển :
— Tài này dùng để chiếm đoạt cao khoa có thừa xong hưởng tuổi trời chẳng đủ.

Tiểu Muội phê xong giao cho Liễu Hoàn kính trình thân phụ.

Tô Lão thoáng thấy lời phê của con gái mình, thất kinh, nói :
— Lời phê thế này nếu An Thanh mà trông thấy thì bất tiện lắm.

Nghĩ đi nghĩ lại, Tô Lão xé mặt quyển, đổi giấy, và viết lại một câu để làm vừa lòng An Thanh, rồi cho gia đinh đem sang nhà trả lại.

Chiều hôm sau, có một sai quan của Vương phủ đến thưa rằng :
— An tướng công, vì một tài đức của Tiểu thơ, nên cho tôi đến đây cậy lời mai mối, chẳng biết tôn ý ra sao ?

Tô Lão lựa lời từ chối khéo :
— Tướng phủ hạ cố cầu thân, tôi đâu chẳng dám tuân lời, song tiện nữ của tôi tài sơ, trí thiển, lại xấu xa, không xứng đáng với công tử đâu.

Sai quan về bẩm lại. An Thanh thấy mặt quyển đã đổi giấy, lại từ chối như thế, trong lòng không vui, song cũng bỏ qua câu chuyện hôn nhân.

Trong thời đó, ai ai cũng biết rằng nhà họ Tô, anh em trong nhà hay dùng văn chương thi phú mà trêu ghẹo lẫn nhau, cái tiếng ấy vang dội khắp cả vùng đều biết tiếng.

Ví dụ như Đông Pha râu rậm, Tiểu Muội nhạo rằng:

Khẩu đốc kỷ hồi vô mịch xứ,
Hốt văn mao là hữu thanh truyền
Dịch :
Mồm mép nơi đâu không thấy rõ
Bỗng nhiên râu vẳng tiếng truyền ra

Tiểu Muội trán dồ, Đông Pha nhạo lại rằng:

Vị xuất đồng trung tam ngũ bộ,
Ngạnh đầu trên đáo họa đường tiền
Dịch :
Trong sân chưa quá năm ba bước
Trước cỗng đã nhô chiếc trán dô

Tô Đông Pha mặt dài, Tiểu Muội nhạo rằng:

Khứ niên nhất điểm tương tư lệ,
Chí kim lưu bất đáo tư liên
Dịch :
Giọt lệ tương tư xưa chảy mãi
Đến nay gò má vẫn chưa qua

Tiểu Muội mắt sâu, Đông Pha nhạo lại:

Kỷ hồi thức lệ thâm nan đáo
Lưu thuốc uống dương lưỡng đạo truyền
Dịch :
Mắt sâu lệ chảy lau không tới
Linh láng đôi giòng mãi chẳng thôi

Tô Tiểu Muội thử chồng trong đêm động phòng

Các sĩ phu hay được tin tể tướng An Thanh cầu hôn cho con bất thành nên tấp nập đem văn đến cửa nhà họ Tô bán rao ầm ĩ.

Tô Lão truyền bắt bọn cầu thân xuất tĩnh văn bài đệ cho Tiểu Muội tự ý lựa chọn người chồng là tưởng.

Trong số bài vở rất đông, nhưng chỉ có một quyển Tô Tiểu Muội phê :
— Ngày nay tuy tú tài, ngày kia sẽ học sĩ. Rất tiếc hai Tô đồng thời nếu không hoàng bàng một thưở.

Tô Lão xem quyển, biết con gái mình vừa ý, bèn dở bìa quyển ấy xem thấy đề tên Tú tài Tần Quán.

Tô Lão lập tức truyền cho bọn gia nhân, hễ thấy tên Tần Quán đến thì mời vào.

Nhưng khốn thay, cái gã Tần Quán kia người quận Cao Đưu đất Dương Châu — tuy tài cao học rộng — cũng theo đòi thiên hạ, đem ngọc bán rao, song lại sợ tổn thương đến danh dự nên không cùng với mọi người đến ngưỡng cửa họ Tô chầu chực.

Tô lão thấy Tần Quán không đến, đành sai người đến ngọ sở tìm đón.

Tần Quán tuy trong lòng hí hửng muốn chọc ghẹo khách anh tài, nghe Tô Tiểu Muội tiếng tăm lừng lẩy, cũng muốn được cầu thân, song chưa thấy được dung nhan, lại nghe đồn trán nàng cao như núi, mắt thẳm tợ sông, trong lòng cũng ngan ngán, muốn kiếm dịp nào để gặp mặt, coi hơn thiệt thế nào rồi sẽ định.

Vừa lúc ấy chàng lại nghe tin đúng ngày mồng một tháng hai Tiểu Muội đến chùa dâng lễ.
Thế là dịp tốt. Ngày hôm đó thấy Tần Quán dậy thật sớm, ăn mặc nâu sòng, trá hình một tăng sĩ du phương, cổ đeo chuỗi hộc, đầu thắt khăn vải.

Trông vào gương, chàng ta mỉm cười tự nghĩ :
— Nếu mình đi tu thật thì chắc làm cho các bà vãi si mê không ít.

Chàng ta lấy làm tự đắc cho sắc đẹp của mình, ung dung bước đến chùa Đông Nhạc.

Giữa lúc đó, kiệu hoa của Tiểu Muội cũng vừa đi đến. Tần Quán trông thấy nàng, tuy mặt nàng không phải bực “chìm đáy nước cá lờ đờ lặn, lỉnh da trời nhạn ngẩn ngơ sa”, nhưng chứa đựng một cái gì uy nghi, đoan chính.

Muốn thử chút tài năng, Tần Quán đứng đợi dâng hương xong, mới bước đến nói :
— Tiểu thư hữu phúc, hữu thọ, nguyện phát từ bi… (Tiểu thư có phúc, có thọ, xin mở lòng từ bi).

Biết chàng trai kia có ý ghẹo mình, Tô Tiểu Muội nối lời đáp :
— Đạo nhân hà đức, hà năng cảm cầu bố thí ? (Đạo nhân có đức, có tài gì mà dám xin bố thí ?) Tần Quán nói tiếp :
— Nguyện tiểu thư, thân như được thụ, bách bệnh bất sinh… (Cầu chúc tiểu thư mình như cây thuốc, trăm bịnh không sinh).

Tiểu Muội vừa bước đi, vừa quay đầu lại đáp :
— Tùy đạo nhân khâu thổ liên hoa, bán văn vô cả (Dù đạo nhân miệng nở hoa sen, nửa đồng không có).

Trần Quán nói thêm :
— Tiểu nương tử nhất thiên hoan hỷ, như hà triết thủ bảo sơn ? (Tiểu nương tử một trời hoan hỉ, tại sao lại khép non vàng ?) Tiểu muội bồi thêm một câu :
— Phong đạo nhân điểm địa tham si, ma đắc tùy thân kim huyệt (Phong đạo nhân lắp đất tham si, đâu được thâu vào hang bạc).

Đáp xong câu ấy, Tiểu Muội bước lên kiệu.

Các nhà sư trong chùa đi theo đưa Tiểu Muội được nghe các lời đối đáp ấy, lấy làm lạ, chẳng hiểu tên đạo nhơn nào, từ đâu đến mà lại sỗ sàng như vậy.

Vừa định quay lại để trách cứ thì tên đồng tử đến bên người đạo nhân kia, kính cẩn nói :
— Xin công tử về nhà thay áo.

Chờ người đạo nhân đi khỏi, người giữ chùa hỏi nhỏ đồng tử :
— Người đó là ai thế ?

Đồng tử đáp :
— Đó là công tử Tần Quán, tự là Thiếu Du, một danh tài ở đất Dương Châu, ai ai mà chẳng biết…

Người giữ chùa nghe nói thất kinh, đem chuyện ấy thuật lại với một người trong chùa. Và chẳng bao lâu, tiếng ấy đồn khắp đó đây.

Thiếu Du thấy nhan sắc Tiểu Muội không đẹp nhưng mặn mà, đem lòng kính mến, liền đến nhà Tô Lão để cầu thân.

Tô Lão nhận lời. Thiếu Du lập tức đem nạp đồ sính lễ.

Lúc bấy giờ, vào đầu tháng hai. Tần Thiếu Du nóng thành hôn, nhưng Tiểu Muội xem văn, đoán biết khoa thi này, thế nào Thiếu Du cũng đậu tiến sĩ, muốn rằng vị tân lang của mình, ít ra ngày họp cẩn cũng có bào gấm hia thêu, nên thưa với Tô Lão xin hoãn cuộc thành hôn lại đã.

Kịp đến mồng ba tháng ba, triều đình mở khoa thi kén chọn nhân tài, Tần Thiếu Du quả nhiên thi đậu, bảng vàng đề tên.

Khoa thi đã đỗ, Tần Quán lại càng nóng lòng cưới vợ, vội vã đến xin làm lễ cưới ngay ngày hôm ấy.

Tô Lão thấy chàng rễ mình quá bôn bức, cười xòa, và nói :
— Ngày hôm nay yết bảng ắt là ngày lành, vậy ta cho nghĩa tế thành hôn tại tệ xá trong đêm nay có được chăng ?

Còn gì mừng rỡ hơn nữa. Tần Thiếu Du lạy tạ đền ơn…

Đêm ấy trời trăng vằn vặc, bầu trời trong suốt, gieo vào lòng người một tâm hồn man mác, như muốn giúp cho đôi tình nhân văn học một nguồn cảm giác xa xuôi.

Sau khi dự tiệc, Thiếu Du toan bước vào động đào để xem hoa nở, thì thấy cửa phòng tiểu thơ đóng kín, trước cửa có để một bàn án nhỏ, đủ cả văn phòng từ bửu, lại có thêm ba phong thơ và ba cái chén : một chén ngọc, một chén vàng, và một chén bằng sứ.

Thấy con Liễu Hoàn đứng lấp ló, Tần công tử tưởng nó chực mở cửa cho mình, bèn nói :
— Vào báo cho tiểu thơ biết, tân lang đã đến sao không chịu ra mở cửa ?

Liễu Hoàn cung kính đáp :
— Tiện tỳ tuân lệnh tiểu thơ ra đây để nhắc cho công tử rõ rằng trên án thư có ba đề mục, nếu đáp trúng cả ba, tôi xin mở cửa ngay.

Thiếu Du nói :
— Ba cái chén ấy dùng đựng gì thế ?

Nữ tỳ đáp :
— Chén ngọc đựng rượu, chén vàng đựng trà, chén sứ đựng nước lã. Nếu trúng cả ba đề mục tôi sẽ dùng chén ngọc dâng ba lần rượu trước khi mở cửa vào phòng ; nếu chỉ đáp trúng hai đề mục thì tôi dùng chén trà dâng một chén nước để công tử giải khát, chờ đến đêm mai sẽ lại ; còn nếu đáp trúng một đề mục thì tôi sẽ dâng cho công tử một chén nước lã và phạt ở ngoài hiên đọc sách ba tháng.

Thiếu Du nghe xong, trong lòng hậm hực, nhưng không biết phải làm sao, chẳng lẽ từ chối cuộc chơi ấy thì còn gì là một trượng phu, nên gượng cười đáp :
— Nơi chốn trường thi, ngàn vạn anh tài tranh đoạt, thế mà ta còn chưa sợ thay, huống chi ở đây chỉ là một đề thi thử thách, đâu có đáng kể !

Liễu Hoàn cũng không vừa, nghe Tần Quán tự phụ như vậy, vội nói ngay :

— Tiểu thơ của tôi không thể ví với các khảo quan, chỉ lôi những sáo cũ ra mà lòe thí sinh. Ở đây có ba đề mục. Thứ nhất là bốn câu, công tử phải trả lời bằng 4 câu thơ ẩn nghĩa của bài thơ xướng là đúng. Thứ hai cũng là bốn câu thơ, trong đó có bốn danh nhân thời cổ, công tử biết đặng bốn tên ấy, mà trả lời thì đúng. Thứ ba, đề tài này dễ hơn, công tử chỉ phải đối một vế câu đối bảy chữ mà thôi.

Nói xong, Liễu Hoàn kính cẩn dâng cho Tần Quán một phong thư. Tần Quán bóc thư ra, thấy bốn câu thơ viết trên một tờ hoa tiên.

Đồng thiết đầu hồng dã
Lâu nghĩ thướng phấn tường
Âm dương vô nhị là
Thiên địa ngã trung ương…

Đồng thiết quặn lò lớn : ẩn nghĩa chữ “hóa” Ong kiến lên tường vôi : ẩn nghĩa chữ “duyên” Âm dương không hai đường : ẩn nghĩa chữ “đạo” Giữa trời đất có ta : ẩn nghĩa chữ “nhân” Thiếu Du xem xong mỉm cười và nghĩ thầm :
— Theo người khác thì khó thực, nhưng ta, ta là người đã giả đạo nhân để ghẹo nàng trước kia, nay nàng lại làm một đề thơ có hàm ý chữ “hóa duyên đạo nhân” thì chẳng khó khăn gì, ý nàng muốn trêu ta về câu chuyện ở chùa hôm nọ.

Nghĩ xong, bèn lấy bút viết bài thơ trả lời :

Hóa công hà ý bả xuân thôi
Duyên đáo danh vên hoa tự khai
Đạo thị xuân phong chân hữu chu?
Nhân nhân bất cảm thướng hoa đài

Dịch :

Hóa công sao khéo giục xuân hoài
Duyên đến vườn thơm hoa tự khai
Đạo ấy, giờ xuân đà có chu?
Nhân nhân, ai dám tới hoa đài

Liễu Hoàn thấy Thiếu Du viết xong, vội vã tiếp lấy đem vào trình cho Tiểu Muội.

Tiểu Muội xem qua mỉm cười nói :
— “Hóa duyên đạo nhân” ý ! ra cũng giỏi đấy.

Thiếu Du lại giở phong bì thứ hai, thấy trong đó cũng một bài thơ đề :

Cường gia thắng tổ hữu thi vi
Tạc bích thâu quang dạ độc thư
Phùng tuyến lộ trung thường ức mẫu
Lão ông chung nhật ỷ môn lư

Dịch :

Con lại hơn cha chẳng kẻ bì,
Dục tường mượn sáng đọc bài thi
Vá may buồn bã thường trông me.
Tựa cửa lão ông đợi suốt ngày

Câu “Cường gia thắng tổ” nghĩa là “Tôn Quyền” “Tạc bích thâu quan” nghĩa là “Khổng Minh” “Thường ức mẫu” nghĩa là “Tử Tư” “Lão ông tựa cửa” nghĩa là “Thái Công Vọng” Thiếu Du xem xong lấy bút đền liền bốn tên ấy với những lời chú giải.

Liễu Hoàn lại tiếp lấy đem vào dâng cho Tiểu Muội xem, Tiểu Muội cũng chắc lưỡi khen thầm.

Đã trả lời được hai đề thi khó khăn rồi, bây giờ đến đề thi thứ ba là một câu đối. Thiếu Du thở ra khoan khoái, tưởng chừng như mình sắp được vào phòng rồi, mặt mày hớn hở, bóc đề bài thứ ba ra xem; trong ấy viết :

Bế môn, suy xuất song tiền nguyệt

Khi mới đọc xong, Thiếu Du cho là một vế đối rất dễ, nhưng lòng anh chàng lúc này đã quá nóng nảy, ý tứ không còn tập trung nữa, tâm hồn như đang lạc loài trong cõi mộng thần tiên, thành thử nghĩ hoài mà không ra ý.

Giữa lúc đó Đông Pha chưa ngủ, biết rằng đêm hợp cẩn thế nào đứa em gái mình cũng “chơi ác” để làm khốn vị tân lang, bèn đến gần khuê phòng nghe ngóng. Vừa đến nơi, thấy Thiếu Du chắp tay thơ thẩn mãi trong sân, miệng lẩm bẩm câu :

Bế môn, suy xuất song tiền nguyệt

Đông Pha mỉm cười, tự bảo :
— Đúng rồi ! Cô em gái mình đang đưa vế đối ấy để làm khó dễ vị tân lang của hắn ; ý muốn giúp đỡ cho Thiếu Du một chút cho xong chuyện, xong sợ Thiếu Du tự ái, chẳng biết phải làm sao. Đông Pha suy nghĩ một lúc rồi lượm một hòn đá nhỏ ném vào mặt hồ gần đấy.

Nước trong hồ đang im lìm trong giấc ngủ, bỗng cau mày, vừng trăng tan rã ra từng mảnh, nước bắn vào mặt Thiếu Du.

Như chiêm bao sực tỉnh, Thiếu Du hội ý, chạy vào án thư cầm bút đối rằng :

Đầu thạch xung khai tỉnh để thiên
(Ném đá vỡ trời tung đáy nước)

Để đối với câu của Tiểu Muội :

Bế môn suy xuất song tiền nguyệt
(Đóng cửa đùa trăng ra trước sân)

Liễu Hoàn vừa nạp bài thi chót vào cho Tiểu Muội chưa bao lâu, thì bỗng “kẹt” một tiếng, cánh cửa “động đào” mở rộng, một tên tùy nữ từ bên trong bước ra, tay dâng chén ngọc đầy rượu và nói :
— Thật là một đấng tài hoa. Tiểu thơ tôi xin mời công tử cạn ba chén.

Thiếu Du đắc ý uống liền. Uống xong, bên trong lại có hai con tùy nữ khác bước ra, kính cẩn đưa chàng vào phòng huê chúc.

Mối tình giai nhân tài tử thấm thía vô cùng…

Một thời gian sau, vì tài năng lừng lẫy, Thiếu Du được triều đình bổ nhậm đến chức Hàn Lâm học sĩ. Còn Tô Tiểu Muội thanh danh càng ngày càng lừng lẫy, được Hoàng thái hậu mời vào cung để xướng họa suốt ngày đêm.

Về sau, Tiểu Muội mất sớm, Thiếu Du thương tiếc quá, không tục huyền, giữ mãi mối tình thơ, gói trong niềm ân ái, đến chết vẫn chưa phai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện kể về Tô Tiểu Muội

Mùng 1 và ngày rằm có cần kiêng kỵ chuyện phòng the không

Cấm kỵ giao hợp vào những ngày mùng 1,ngày rằm, ngày cuối tháng âm lịch, phạm vào những cấm kỵ này khi sinh con cái ra sẽ bị thương tổn, còn mình thì "không giương lên được",
Mùng 1 và ngày rằm có cần kiêng kỵ chuyện phòng the không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong ngày Tết, mùng 1, ngày rằm, người phương Đông có quan niệm kiêng khem, tránh việc gần gũi nam nữ. Bởi lẽ, theo quan niệm cổ xưa, việc quan hệ nam nữ vào những ngày này sẽ dẫn đến những điều vận hạn đen đủi, không may mắn, thậm chí là đại hạn.

Quan niệm này tuy đã không còn nặng nề như xưa nhưng vẫn âm ỉ tồn tại trong suy nghĩ của không ít người Việt. Trên thực tế, không ít cặp vợ chồng vẫn khiêng khem và đại kỵ chuyện ấy trong những thời khắc nhạy cảm.

Trích đoạn "Những điều kiêng kỵ khi quan hệ vợ chồng" :Trong Tố nữ kinh có viết: Cấm kỵ giao hợp vào những ngày mùng 1,ngày rằm, ngày cuối tháng âm lịch, phạm vào những cấm kỵ này khi sinh con cái ra sẽ bị thương tổn, còn mình thì "không giương lên được", trong mình lúc đó bị giục hỏa thiêu trung nghĩa là hỏa thị dục thiêu đốt tam can nên nước tiểu phát ra có màu đỏ hay màu vàng đậm nhiều khi mang thêm bệnh di tinh, giảm tuổi thọ.

Ngày rằm mùng 1 có kiêng chuyện ấy không

Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện thú vị với Ts. bác sĩ Lê Vương Văn Vệ - Giám đốc Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội xung quanh vấn đề này.
-Thưa tiến sỹ, bác sĩ Lê Vương Văn Vệ, người phương Đông có quan niệm khiêng khem việc gần gũi nam nữ vào những ngày đặc biệt như mùng 1, ngày rằm, ngày tết nhất,…, ông có quan niệm như thế nào về việc khiêng cữ này?
Ts. Bác sĩ Lê Vương Văn Vệ : Trong xã hội trước, quan niêm kiêng quan hệ tình dục không chỉ vào những ngày mồng một và hôm rằm. Vua chúa, tướng lĩnh trước ra trận, hoặc làm những việc hệ trọng... đều không quan hệ, tắm gội, ăn chay ba ngày trước khi hành lễ.
Ngày một và hôm rằm là ngày theo nho giáo, ngày của đầu tháng, đầu năm cần sạch sẽ. Do đó, không chỉ kiêng kị tình dục mà còn phải kiêng kị cả sát sinh...

 

Mùng 1 âm lịch và ngày rằm 15 âm lịch có cần kiêng chuyện ấy không

Tuy nhiên, lại những quan niệm mang tính tâm linh như " phá trinh" để giải đen. Hay có người lại tiến hành - "một cuốc" hai năm ( vào đêm giao thừa...)
Đối với dân thường điều đó không phổ biến, nhưng là việc nguyên tắc đối với vua, quan lại và giới sĩ phu.
Theo quan niện của Nho giáo, điều này rất bình thường, được truyền từ đời này sang đời khác... và là việc tốt. Nhưng đứng về phương diện y học, sau kiêng kị tình dục, nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng vài ba hôm thì sung sức, khoẻ mạnh hơn... Như vậy, kiêng tình dục và không kiêng tuỳ theo quan điểm từng xã hội, từng cá nhân…

"Chuyện ấy" ngày Tết, kiêng kị hay không tùy từng thời điểm và tùy vào quan niệm của từng người
-Theo ông, nguyên nhân từ đâu khiến người phương Đông đặt nặng quan niệm này đến thế?
Ts. bác sĩ Lê Vương Văn Vệ: Việc này là tàn dư của chế độ xã hội phong kiến. Vấn đề ở chỗ tại sao nó lại tồn tại qua rất nhiều thế hệ, qua hàng nghìn năm? Xuất phát từ triết học phương đông, Nho giáo..., những vấn đề gì "dính vào" phụ nữ hay gặp rủi ro...
-Với kinh nghiệm của mình, ông có thể dẫn ra một vài những trường hợp cụ thể khiến ông ấn tượng nhất về việc khiêng cữ này không, thưa bác sĩ?
Ts. bác sỹ Lê Vương Văn Vệ: Kiêng cữ nổi tiếng trong lịch sử như Lưu Bang đăng đàn bái tướng Hàn Tín... Các vua trước lễ tế trời đất, tổ tiên đều kiêng kị tình dục, tắm gội sạch sẽ trước ba ngày.
Nhưng trong thực hành khám chữa bệnh hằng ngày chúng tôi lại gặp " một cuốc" cho một tháng, hay một năm. Và chẳng gặp rủi ro gì.
-Bác sĩ có so sánh gì về mức độ nhu cầu và tần suất “yêu” trong ngày tết và ngày thường?
Ts. bác sĩ Lê Vương Văn Vệ: Thường ngày Tết, vì nhiều lí do mà tần suất sẽ giảm hơn.
-Thưa bác sĩ, sự gần gũi giới tính là nhu cầu sinh lí thông thường ở con người, nhưng thực tế không phải ai cũng có những hiểu biết về vấn đề này. Do đó, hằng ngày, chúng ta vẫn nghe thấy, đọc thấy những “tai nạn” trong “chuyện ấy”. Vậy để tránh những “tai nạn” cần phải được trang bị những kiến thức căn bản như thế nào thưa bác sỹ?
Ts. bác sĩ Lê Vương Văn Vệ: Đêm đầu tiên, người vợ đều có "kim băng" dắt vào người, khi quan hệ. Nhưng sự việc sảy ra thì lúng túng quên hết không biết chọc vào - huyệt trường cường. Và hậu quả vô cùng tai họa nên phụ nữ trước kết hôn cần có kiến thức về tai biến phòng the.
-Trong ngày tết, chế độ ăn uống, nhu cầu vui chơi, đi lại lớn khiến các thói quen sinh hoạt tạm thời bị đảo lộn so với ngày thường. Để “chuyện ấy” thực sự cuốn hút và làm thỏa mãn cả hai trong ngày tết, cần có những “thủ thuật” như thế nào?
Ts. bác sĩ Lê Vương Văn Vệ: Chế độ ăn uống cần cố gắng chừng mực, không say xỉn. Chế độ nghỉ ngơi không nên chơi bời thái quá. Dạo đầu như thông thường.Tư thế “yêu” ở nhiều tư thế. Tần suất “yêu” nên duy trì..
-Bác sỹ còn lời khuyên cũng như khuyến cáo gì để “chuyện ấy” thực sự chất lượng trong những ngày tết?
Ts. bác sĩ Lê Vương Văn Vệ: Để cuộc tình trọn vẹn, thoả mãn cả đôi, bạn cần chừng mực. Nếu có vấn đề sức khoẻ tình dục hãy đến với bác sĩ chuyên khoa trước tết để được tư vấn, khám xét, hỗ trợ, điều trị hiệu quả...để đến tết al có những "trận chiến" ngọt ngào

Xin cảm ơn Bác sĩ."

Theo phong tục tập quán Việt Nam


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mùng 1 và ngày rằm có cần kiêng kỵ chuyện phòng the không

Đốt hình nộm 'ca ve' phạm tội sát sinh

Phật học cho rằng con người sau khichết (linh hồn), dù đi vào “cõi” nào, cũng không hưởng lợi từ cúng tế của người trần.Việc đốt vàng mã có dạng hình nộm (kiểu như hình “ca ve”, người hầu…), theo Phật giáolà phạm tội sát sinh trong tâm tưởng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đạo Phật không chỉ dạy tích đức, mà còn dạy tích lũy kiến thức, để tiến hóa vào cuộc đời sau làm con người chân chính, tiến bộ, không “đi” giật lùi về kiếp súc sinh.
        

'Vũ trang' kiến thức gì cho kiếp sau?

Các cao tăng và nhà nghiên cứu Phật học đã có những dự cảm đầu năm khá chính xác. Tạp chí “Đạo Phật ngày nay” số Tết 2013 có loạt bài phê phán các hủ tục do mê tín, dị đoan.

Phật học cho rằng con người sau khi chết (linh hồn), dù đi vào “cõi” nào, cũng không hưởng lợi từ cúng tế của người trần. Kinh Pali viết: “Chúng sinh ở cảnh giới (cõi) nào, thì có sự thọ dụng theo cảnh giới đó”. Vì thế, không thể gửi các nhu yếu phẩm của cõi người (quần áo, nhà cửa, ĐTDĐ, thẻ ATM…) cho người đã sang cõi khác sử dụng [1] .

Thượng tọa Thích Nhật Từ dùng lý luận trực diện phê phán tình trạng dị đoan. Quan niệm “trần sao âm vậy” không phải là triết lý đạo Phật. Đó là quan niệm dân gian Trung Quốc, truyền đời qua Nho giáo và Lão giáo, buộc con cháu còn sống phải “trả hiếu” cho người đã khuất. Dù người chết không mất hẳn, mà sẽ tái sinh vào kiếp khác, nhưng quá trình trao đổi chất nhờ các cơ quan của cơ thể đã không thể tiếp tục, nên cầu cúng linh hồn vô ích, thậm chí “phá hoại phước”, vì gây lãng phí, ô nhiễm môi trường, thậm chí hỏa hoạn…

Việc đốt vàng mã có dạng hình nộm (kiểu như hình “ca ve”, người hầu…), theo Phật giáo là phạm tội sát sinh trong tâm tưởng. Những kẻ “buôn thần bán thánh” gieo rắc mê tín (gây nỗi sợ) để trục lợi, (kiểu ‘nam La Hầu - nữ Kế Đô), giật dây những cuộc “cúng sao giải hạn… Một đời sống chìm trong tiêu cực cũng gây sợ hãi trong tâm thức tới mức, chẳng hạn, đem tiền vàng mã, thậm chí tiền thật (mệnh giá 500 đồng), ném vung vãi lúc di quan, “như thể ‘lót đường’ cho quan âm phủ nhẹ tay với người chết” [2] .

Số tháng 1/2013 của tạp chí trên có bài "Nỗi đau của những ngôi chùa không giảng pháp"... lên án những tệ nạn của không gian tín ngưỡng trong một số ngôi chùa ở miền Bắc. Hôm nay, người đi lễ chùa bon chen xin sớ, dâng lễ, có khi đạp cả lên người già, trẻ em. Có phụ huynh mang con về quê nhận thấy có vị mặc áo tu hành nhưng lại tham gia đánh chắn cả trong hội làng đầu năm (!) Nổi cộm những nỗ lực tỏ ra mình là ‘Phật tử”, nhưng hủy hoại văn hóa Phật giáo.

Các bậc cao tăng chỉ ra tệ mê tín là do nghiệp vô minh (sống thiếu khoa học, kém văn minh, tham – sân – si…). Nghiệp (tư duy, lời nói, việc làm) trong đời này truyền sang kiếp sau qua linh hồn. Nghiệp “xấu” thì hồn buộc phải đầu thai vào thân thể súc sinh.

Dưới góc nhìn Âu – Mỹ

Những ai từng ở Liên Xô/Nga khoảng cuối thập kỷ trước đọc báo khoa học, thấy nói các nhà bác học Nga dùng những lưới cực nhỏ mịn để bắt một cái gì đó vô hình, “quẫy quẫy”, thoát ra từ một tử thi, mà họ cho là linh hồn...


Thế kỷ 21 dồn dập những khám phá về tâm linh của… giới khoa học. TS Stuart Hameroff, một chuyên gia y tế, giáo sư tại Đại học Arizona trình bày công trình nghiên cứu Through The Wormhole (Qua các lối thoát ngầm, ý nói các đường ống sáng lòa mà nhiều người chết lâm sàng rồi sống lại, nói họ đã đi trong đó) trên loạt phim của kênh khoa học Science Channel và RadarOnline.com. Cùng với nhà vật lý Anh Roger Penrose, ông đưa ra lý thuyết Orch-OR (Orchestrated Objective Reduction/thu nhỏ một cách hài hòa vật thể), cho rằng sau khi chết, toàn bộ “thông tin” về đời người chuyển thành một phần của vũ trụ.

Lý thuyết Orch-OR cho rằng “hồn cốt” của con người kết cấu bởi dạng “hạt cơ bản” của vũ trụ (fabric of the universe) cao hơn là dạng nơ ron thần kinh thông thường, cho phép nó tồn tại ngoài cơ thể con người. Rằng các vi quản chứa thông tin ở trạng thái lượng tử. Khi trái tim ngừng đập, các vi quản không còn ở trạng thái lượng tử, nhưng thông tin lượng tử (chính là nhận thức/ consciousness) chứa trong vi quản người không bị tiêu hủy. Nó được sắp xếp lại và ‘bay’ vào vũ trụ. Đây là lý do nhiều người chết lâm sàng nói họ bay lơ lửng trên không trung, nhìn thấy thể xác mình, và các bác sĩ... TS Hameroff cho rằng dạng thông tin lượng tử có khả năng tồn tại ngoài cơ thể này “hẳn là linh hồn” (perhaps indefinitely as a soul).

Sách của bác sĩ phẫu thuật thần kinh, từng giảng dạy tại Havard Medical School, Eben Alexander, “Thiên đường hiện hữu: cuộc hành trình sau khi chết của một bác sĩ phẫu thuật thần kinh” (Proof of Heaven: A Neurosurgeon's Journey into the Afterlife), xuất bản năm 2008... Eben viết rằng khi ở trạng thái hôn mê, ông đã rơi vào thiên đường, nơi có những vật thể “giống như những thiên thần” bay quanh.

TS Hameroff cho rằng các dạng thức sơ khai của nhận thức con người đã tồn tại từ lâu trong vũ trụ, “chắc là từ thời Vụ nổ lớn (The Big Bang – một luận thuyết chủ yếu dựa trên định luật Hubble lý giải về nguồn gốc của vũ trụ).

Mặc dù có những phản đối, nhưng TS Hameroff cho hay chưa ai thách thức nghiêm trọng lý thuyết Orch-OR.

Nếu lý thuyết Orch-OR “đứng” được, thì niềm tin linh hồn vẫn sống sau khi thể xác đã chết được chứng thực. Một người phát ngôn cho Orch-OR, liên tưởng đến thuyết luân hồi, chia sẻ: “Tất cả những điều này gợi đến đạo Phật và Ấn độ giáo, với niềm tin rằng nhận thức là một phần không tách rời của vũ trụ, và mọi nhận thức tồn tại trong vũ trụ”.

Năng lượng tâm linh

Đạo Phật, và những lý thuyết như Orch-OR, cho rằng những năng lượng tiêu tốn để đạt kiến thức, kỹ năng thực sự không biến thành cát bụi, mà được bảo tồn cho muôn đời sau, để được giải nén lúc cần, trở thành những bậc thang tiến hóa cho nhân loại.

Nhưng nếu cố tình không nhận thức tội lỗi của mình, tìm cách chối tội, chạy tội, thì những “vết chàm” ấy cũng sẽ được bảo tồn, để có ngày chịu tác động “cưỡng bức thi hành án”, bởi Công lý của Vũ trụ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đốt hình nộm 'ca ve' phạm tội sát sinh

Cách bệnh tật và những sao ốm đau

Cùng thảo luận về cách bệnh tật, ốm đau trong tử vi. Cùng thảo luận về các cách bệnh tật trong lá số tử vi của mình để có thể đề phòng nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách bệnh tật và những sao ốm đau

Cách bệnh tật và những sao ốm đau

Cùng thảo luận về cách bệnh tật, ốm đau trong tử vi:

Những bệnh về bộ máy tiêu hóa:

Thông thường, bộ máy tiêu hóa do 5 sao chỉ định: Thiên Đồng, Đại Hao, Tiểu Hao, Thiên Riêu, Hỷ Thần. Chỉ riêng Thiên Riêu chỉ ruột và Hỷ Thần chỉ Hậu Môn, ba sao còn lại không chỉ đích danh bộ phận nào trong bộ máy tiêu hóa. Theo nguyên tắc, hễ sao chỉ bộ máy tiêu hóa mà đi chung với sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh thì tất bị bệnh.

Địa Không, Địa Kiếp: đây là hai sao chỉ bệnh nặng nói chung, trong đó có bệnh về bộ máy tiêu hóa nếu đi chung với một trong 5 sao chỉ bộ máy tiêu hóa. Vì Không Kiếp chỉ ung nhọt, chốc lở nên bộ máy tiêu hóa có thể bị rách, chảy máu. Về cường độ, vì Không Kiếp là sát tinh hạng nặng cho nên bệnh sẽ nặng, nhất là khi hãm địa. Vốn là sao Hỏa, nên bệnh bột phát bất ngờ.

Thiên Hình, Kiếp Sát: một trong hai sao này chỉ về mổ xẻ. Bộ máy tiêu hóa có thể bị giải phẫu. Bệnh sẽ tương đối nặng, nhất là khi gặp cả hai sao.

Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh: bốn sao này chỉ bệnh nhưng không rõ tính chất và cường độ nhưng chắc chắn không nặng bằng Không Kiếp.

Đại Hao, Tiểu Hao: Đúng ra, Song Hao chỉ bệnh đau bụng, tiêu chảy. ở Mệnh hay Tật, Song Hao chỉ tạng của người hay đi tiêu chảy, tái đi tái lại, hầu như kinh niên. Cũng có thể là bệnh ăn không tiêu, kém ăn, trúng thực, thượng thổ hạ tả.

Hóa Kỵ: chỉ trục trặc nhỏ trong bộ máy tiêu hóa, do sự dùng thuốc quá liều, hay ăn trúng phải chất có hại cho tiêu hóa (Hóa Kỵ là hóa chất).

Thiên Khốc, Thiên Hư: chỉ sự lục đục, hao hoại ngấm ngầm của bộ máy, không hẳn là bệnh nhưng gây khó chịu như ăn không tiêu, trục trặc không rõ căn nguyên. Một nguyên do khả hữu là vì bộ răng không tốt, nhai thức ăn không kỹ. Đây cũng là một bệnh kinh niên.

Ngoài ra, những bộ sao dưới đây liên quan đến bệnh tiêu hóa nói chung:

- Thái Âm hãm địa

- Vũ Khúc, Thất Sát

- Thiên Đồng, Hóa Kỵ

- Thiên Trù, Đại, Tiểu Hao

bệnh do ăn uống quá độ hoặc ăn món lạ bị ngộ độc. Đây là bệnh của người ăn nhiều cao lương mỹ vị, trà dư tửu hậu, thường thấy trong giới ngoại giao, bợm nhậu.

Riêu, Đà, Kỵ: đau bao tử, đau ruột

Không, Kiếp, Bệnh, Cơ: bệnh mật

Không, Kiếp, Hỷ Thần: bệnh trĩ

Tham, Đà: bệnh do ăn uống quá độ, bội thực

Bệnh Phù: hay đau dạ dày, đầy hơi, kiết lỵ hoặc thiếu dinh dưỡng sinh ra phù thũng.

Những bệnh về bộ máy hô hấp:

Địa Không, Địa Kiếp: chỉ bệnh đau phổi dưới nhiều hình thái và cường độ khác nhau từ ho, suyễn, yếu phổi, kém khí cho đến lao, ung thư phổi, sưng phổi.

Tang, Hổ, Khốc, Hư: ho lao

Thái Âm hãm địa: đau phổi

Thiên Cơ, Khốc, Hư: phong đờm, ho ra máu

Thiên Khốc: phổi yếu, hay ho vặt

Hình, Bệnh hay Tử: có thể bị lao hay kinh phong

Ngoài ra, những sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, kỵ tinh ứng dụng vào bộ máy hô hấp sẽ mô tả thêm rõ hơn hình thái hoặc cường độ của bệnh. Ví dụ, gặp Thiên Hình Kiếp sát thì bệnh hô hấp có thể phải mổ, bị Song Hao thì bệnh phổi hay tái phát nhiều lần gần như trầm kha; gặp Hóa Kỵ thì sinh thêm bệnh tiêu hóa vì dùng quá nhiều thuốc trị phổi; gặp Lưu Hà thì có thể là phổi có nước ...

Những bệnh về bộ máy tuần hoàn:

Hai sao Tang Môn và Bạch Hổ chỉ máu.

Lâm Quan, Hỏa hay Linh: bệnh chảy máu cam, xuất huyết, đứt mạch máu

Bạch Hổ: máu xấu, nhất là đối với phụ nữ.

Tang Môn, Bạch Hổ: bệnh khí huyết, bệnh thiếu máu, căng mạch máu, yếu tim, đau tim.

Đào Hoa, Hồng Loan: yếu tim

Lưu Hà: bệnh máu loãng, hay ra máu khi bị thương, bệnh hoại huyết

Những sao bệnh về bộ máy bài tiết và sinh dục:

Thiên Riêu hay Thiên Hư: bệnh suy thận, dương hư

Tham, Riêu - Đào, Hồng, Không, Kiếp - Riêu, Cái: chỉ bệnh phong tình

Đào, Hồng, Kỵ, Mộc - Đào, Hình, Thai, Mộc: chỉ bệnh "phạm phòng".

Thai, Không, Kiếp: chỉ bệnh đau tử cung, lệch hay sa tử cung

Cự, Kình, Hỏa - Tham ở Tý, Ngọ (có thể đi kèm với Đà La): bệnh do tửu sắc, sinh dục quá độ.

Nếu đi chung với Không Kiếp thường là nặng và có máu mủ; với Thiên Hình, Kiếp Sát có thể bị mổ xẻ ...

Những sao bệnh về tai,mũi, họng: Long Trì chỉ mũi, Phượng Các chỉ tai,Phá Toái chỉ cuống họng.

Phượng, Kình, Đà: bệnh ở tai, cứng tai, lãng tai, sớm lãng tai, điếc.

Trì, Khốc, Hư: bệnh lở mũi, có Thiên Hình là có mổ, có Hỏa Tinh Linh Tinh là có đốt.

Lâm Quan, Địa Kiếp: bệnh yết hầu, thịt dư ở cổ họng.

Phá Toái, Hình hay Hư, Khốc: đau cuống họng, tiếng khàn rè

Riêu: đau răng, hư răng, sớm rụng răng.

Những bệnh của sản phụ:

Đào, Hồng, Kình, Kỵ, Mộc: bệnh tiểu sản, hậu sản

Không, Kiếp, Mộc hay Kỵ, Mộc: bệnh sản thai, đau dạ con, khó đẻ

Nguyệt hãm hay Nguyệt, Kỵ hay Nhật, Kỵ, Hư: âm hư, kinh nguyệt không đều, dương hư, có bệnh về bộ phận sản dục ảnh hưởng đến sự thụ thai, sinh đẻ.

Lưu Hà hay Tang, Hổ: khi sinh đẻ hay bị băng huyết vì máu loãng.

Những bệnh ngoài da:

Vũ, Cơ: Bệnh ngoài da hay tê thấp.

Tướng ở Mão, Dậu: da mặt vàng, có bệnh thuộc khí huyết hoặc ngoài da.

Cơ, Nguyệt: hay có mụn nhọt

Không, Kiếp, Cơ: mụn nhọt, lở chốc có máu mủ

Phá: máu nóng lúc nhỏ tuổi sinh nhọt

Liêm, Phá: chân tay có tỳ vết

Kình, Cái, Không, Kiếp: phát ban, lên đậu

Hỏa, Linh, Mộc: phỏng nước, phỏng lửa

Liêm hãm, Hình, Kỵ: máu nóng sinh nhọt

Cự Môn hãm: môi thâm

Tham Xương: lang ben, da loang lổ

Những sao có ý nghĩa bệnh về mắt:

Nhật, Nguyệt chỉ cặp mắt. Nhật là mắt trái. Nguyệt là mắt phải. Đi với sát, hình, hao, bại tinh, mắt bị bệnh từ nặng đến nhẹ.

Nhật, Kình, Kỵ ở Hợi, Tý: bị đau mắt có thể mù

Nguyệt, Riêu, Hình, Kỵ: cũng đồng nghĩa

Đà, Riêu, Kỵ: mắt kém

Phá, Vũ: hay đau mắt

Những sao có ý nghĩa bệnh về thần kinh:

Thái Dương, Thái Âm sáng sủa thường là chỉ dấu của bệnh thần kinh, biểu lộ dưới nhiều hình thái như mất ngủ, căng thẳng tinh thần, tăng huyết áp, lo âu quá đáng.

Nhật, Cự: ngây ngô, hơi khùng, suy luận không bình thường. Nhật càng sáng, bệnh càng nặng.

Nhật, Không, Kiếp - Phá, Hỏa, Linh - Nhật và nhiều sao hỏa ở cung Hỏa - Phá, Kình, Đà, Hình, Kỵ: khùng và điên.

Ngoài ra, Mệnh nào có Tang Hổ Khốc Hư Cô Quả Đẩu Quân thường u buồn, ủy mị, dồn ép.

Những sao có ý nghĩa bệnh ở chân tay, gân cốt:

Về cơ thể, chân tay do Thiên Mã chỉ danh. Về bệnh lý, Kình, Đà cũng có nghĩa bệnh tật liên quan đến tứ chi.

Mã, Đà: có tật ở chân tay

Mã, Hình: có thương tích ở chân tay

Mã, Tuần, Triệt: trật xương, gãy chân tay

Hình, Đà: chân tay bị yếu gân

Vũ, Riêu: tê thấp hoặc phù chân tay

Những bệnh lạ:

Cơ, Hỏa, Linh: bệnh ma làm, quỷ ám

Riêu, Hỏa, Linh: bị ma quỷ phá phách, quấy nhiễu

Sát, Hao, Mộc, Kỵ: ung thư

Bệnh Phù, Hình, Kỵ: hủi

Những tật:

Vượng, Kình, Đà hay Hình: lưng có tật: lưng gù, sái chiều nghiêng về phía phải hay trái.

Mã, Đà hay Tuần Triệt: có tật ở chân tay: què, chân dài chân ngắn, tay cán xẻng, tay lọi, chân hay tay to nhỏ không đều, có thể cụt một chân hay một tay, hoặc mất bàn chân, bàn tay.

Việt, Đại Tiểu Hao: so vai, xệ vai, vai cao, vai thấp. Khôi, Việt gặp Hình cũng có nghĩa này.

Tướng, Hình: có tật ở trên đầu: đầu méo, đầu to hay thật nhỏ, đầu xói hết tóc ...

Phục, Hình: nói ngọng

Tuế, Đà, Riêu, Cái: nói lắp

Vũ, Riêu, Việt, Toái: câm

Sát, Kình, Đà, Linh, Hỏa: gù lưng

Cự, Hỏa hay Linh: miệng méo

Kỵ, Riêu: sứt môi

Phượng, Kiếp, Kình: điếc

Trì, Kình: mũi sống trâu, mũi lệch

Nhật, Nguyệt gặp Riêu, Đà hay Kỵ: mắt có tật: cận thị, viễn thị, loạn thị. Nếu gặp cả ba thì tật nặng có thể lòa, quáng gà.

Vũ, Tướng: có ám tật, tật kín

Cự, Nhật: hình dáng dị kỳ

Tồn, Không, Kiếp: có ám tật mới sống lâu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bệnh tật và những sao ốm đau

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy bạn bè

Mơ thấy bạn bè đến thăm nhà mình, tín hiệu cho thấy bạn sẽ bắt đầu một tình yêu mới vô cùng lãng mạn và hạnh phúc.
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy bạn bè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mơ thấy mình và bạn thân cùng nhau đi du lịch, rất có thể bạn sẽ gặp nhiều chuyện vui trong thời gian sắp tới.

2. Nếu mơ thấy bản thân và bạn cùng lớp bị thầy cô giáo phê bình, điều này báo hiệu vận may trong chuyện thi cử của bạn, cụ thể là điểm số rất cao, ngoài sự mong đợi của bạn.

3. Trong mơ thấy mình với bạn cùng lớp trốn học đi chơi, bạn cần chú ý hơn đến vấn đề sức khỏe. Nhiều khả năng bạn sẽ bị ốm và phải nghỉ học đó.

4. Nếu mơ thấy bạn bè đến thăm nhà mình, tín hiệu cho thấy bạn sẽ bắt đầu một tình yêu mới vô cùng lãng mạn và hạnh phúc.

5. Mơ thấy bản thân cùng bạn bè cùng nhau ăn uống, tám chuyện vui vẻ. Đây là điềm báo không mấy tốt lành về phương diện tiền bạc, bạn cần đề phòng mất trộm.

6. Nếu trong mơ thấy mình và bạn bè cùng làm việc ở một đơn vị, điều này chứng tỏ bạn đang có những mối quan hệ xã giao rất tốt. Bạn có thể dựa vào đó để khẳng định năng lực bản thân và đạt được nhiều thành công hơn nữa.

ban-be-4239-1398147506.jpg

7. Nếu mơ thấy bản thân cùng bạn bè chơi những trò đùa vui vẻ, bạn cần hết sức đề phòng kẻ xấu lợi dụng sự mềm yếu và tin tưởng để gây tổn thương cho bạn. Đặc biệt là phương diện tình yêu đôi lứa, bạn cần tỉnh táo và sống lý trí hơn nữa.

8. Mơ thấy mối quan hệ của mình với bạn bè xung quanh đang có sự rạn nứt hoặc phân ly, điều đó cho thấy bạn đang không hài lòng về cả tình bạn và tình yêu. Nguyên nhân là do hai phía chưa thực sự hiểu và thông cảm cho nhau.

9. Nếu gặp người bạn mà bản thân rất ghét hoặc không có cảm tình, điều này báo hiệu mọi áp lực của bạn đều “không cánh mà bay”, đồng thời những vấn đề phiền não cũng được giải quyết nhanh gọn. Thời kỳ thanh thản và an nhàn sẽ nhanh chóng trở về bên bạn, chỉ cần bạn kiên nhẫn chờ đợi.

10. Trong mơ thấy bạn rất thân, dấu hiệu này cho thấy sự hiếu thắng của bạn đã gây ra không ít rắc rối. Bạn quyết không nhượng bộ chỉ vì sự bảo thủ của mình. Tuy nhiên, giấc mơ này cho thấy, lần này người phải nhún nhường chính là bạn.

Mr.Bull

hot-8359-1398064646-362x0-7091-139814750

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy hot-boy

Mơ thấy anh chàng đẹp trai nhưng lại không nhìn rõ mặt và hình dáng, đây là điềm báo bạn sẽ được hạnh phúc bên người yêu trong tương lai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ: Mơ thấy bạn bè

Phong Thủy là gì? Tác động như thế nào đến cuộc sống?

Về cơ bản Phong Thủy là một bộ môn khoa học về môi trường sống, là những lời diễn dịch của người Trung Quốc xưa về thế giới tự nhiên với mục đích giúp họ xây dựng nên một hệ thống canh tác hiệu quả. Ngoài ra với ý nghĩa sâu xa hơn, Phong Thủy còn chứa dựng những kiến thức, hiểu biết về sự chuyển động của các thiên thể mà người Trung Quốc đã nghiên cứu để xác định đường đi của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, những lý lẽ diễn dịch này càng phức tạp và được ghi chép lại bằng chữ viết và được lưu truyền đến ngày nay.
Phong Thủy là gì? Tác động như thế nào đến cuộc sống?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Ở Trung Quốc, khoa Phong Thủy chi phối toàn bộ cuộc sống nhân sinh. Bằng cách thấu hiểu các khái niệm căn bản về Phong Thủy, chúng ta có thể chọn ra các mô hình về thiết kế, những hình ảnh và biểu tượng đầy ý nghĩa từ chính nền văn hoá của mỗi dân tộc để hỗ trợ cho đời sống tinh thần của dân tộc đó.

Ngày nay về mặt thực hành, Phong Thủy cho chúng ta các lời khuyên về cách kiến tạo ra một môi trường sống thoải mái và tích cực. Những yếu tố bất thường trong đời sống hiện đại đang ngày càng gia tăng sức huỷ hoại và vì vậy ngày càng có nhiều người tìm đén các cách sống khác, mong rằng có thể lấy lại thế quân bình cho đời sống cá nhân và những người thân của họ.

Các kiến thức Phong Thủy chủ yếu mang đến cho chúng ta cơ hội được sống khoẻ mạnh, hạnh phúc và sung túc vì ý nghĩa căn bản của Phong Thủy là giữ gìn và duy trì một cuộc sống hài hoà với môi trường xung quanh ta. Hiểu biết về Phong Thủy có thể giúp chúng ta tự đặt mình vào những vị trí có lợi nhất trong môi trường sống của mình. Việc chọn nơi làm văn phòng cũng như các thiết kế nội thất sẽ ảnh hưởng đến mỗi chúng ta theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực.

Thuật phong thủy không những giúp ta biết được vị trí thuận lợi nhất đối với ta mà còn chỉ cho ta cách bài trí, chọn mầu sắc và kiểu dáng để hỗ trợ cho chúng ta trong cuộc sống. Việc thể hiện những lý thuyết của thuật Phong Thủy vào cuộc sống chắc chắn sẽ mang lại những lợi ích cụ thể cho chúng ta, cho dù chúng ta chỉ mới hiểu biết sơ qua về chúng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong Thủy là gì? Tác động như thế nào đến cuộc sống?

Tên đã hợp mệnh với Con

Cuộc sống hiện đại, dễ dàng bố mẹ có thể tham khảo tư vấn đặt tên cho con, hãy dành chi phí về thời gian và vật chất để để lựa chọn cho con cái tên tốt nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hơn ai hết, các chuyên gia tử vi, phong thủy hiểu rõ tên là mệnh, là số mệnh sẽ đồng hành cùng Con và có ý nghĩa rất lớn đối với sức khỏe, trí tuệ và vận mệnh của Con sau này. Cuộc sống hiện đại, dễ dàng bố mẹ có thể tham khảo tư vấn để lựa chọn cho con cái tên tốt nhất.

ten-goi-hop-menh

Câu hỏi: Em sinh con vào ngày 28/7/2013 tức là ngày 21/6 Âm lịch. Trước khi sinh, bạn bè em cũng nhiều người khuyên nên đợi con ra đời, biết ngày biết giờ rồi mới đi xem tên cho con. Bạn bè em hay nói "Cái tên cũng rất quan trọng vì sẽ gắn kết với con cả đời, nhiều khi con quyết định vận mệnh con". Tuy nhiên, vì trước giờ hai vợ chồng cũng không quá quan tâm tới chuyện phong thủy khi đặt tên nên em cũng thường để ngoài tai. Thêm vào đó, vì thích con sau này sẽ thông minh, học giỏi nên vợ chồng em đã định đặt tên cho cháu là Anh Minh.

Minh nhà em rất khó nuôi. Con thường xuyên ngày ngủ đêm thức, ăn uống lại lung tung thất thường. Thêm vào đó, không hiểu sao từ khi có con, việc làm ăn buôn bán của chồng em lại xuống dốc hẳn. Hôm vừa rồi chị hàng xóm sang chơi, thấy em tâm sự chuyện con. Chị khuyên em nên đi khai sinh lại cho Minh. Chị bảo Minh tuổi Tỵ, loài rằn kỵ nhất là những tên thuộc bộ Nhật như Tinh, Đán, Tảo, Minh, Tình, Huy, Trí, Thời, Hiểu, Thần, Diệu, Yến, Tấn, Nhật…"Em đặt tên cho con như vậy, khó trách nó toàn ngày ngủ đêm thức. Chị không biết xem mệnh nhưng có lẽ tên con xấu cũng khắc bố nên việc làm ăn mới đi xuống" chị tâm sự.

Đặt tên cho con có đi xem phong thủy không ạ? Liệu có đúng là em nên khai sinh lại cho con vì đặt phải tên không hợp mệnh không?

Trả lời:

Phân tích cái tên

Bạn chưa cho thông tin đầy đủ, nên không thể xem cụ thể tuy vậy, theo ngày tháng bạn cho 28/7/2013, tức năm Quý Tỵ - tháng Kỷ Mùi - ngày Ất Mùi, đang trong tiết khí Đại thử. Tuy không có thông tin giờ sinh, nhưng cũng có thể nhận định là can ngày không được lệnh, Ất Mộc yếu gặp Kỷ Thổ mạnh, theo nguyên lý hóa giải ngũ hành trong cuốn "Trang sức đá quý ngọc theo phong thủy", cần bổ sung Mộc.

Hiện tượng quấy khóc, khó nuôi có nhiều nguyên nhân, như không hợp tuổi bố mẹ, trường khí đất nơi ở thấp hoặc không ổn định, sinh vào năm tháng ngày giờ không thuận lợi mà dân gian hay gọi là phạm giờ sinh. Cần phải xem cụ thể từng trường hợp để có kết luận đúng đắn.

Việc đặt tên theo năm sinh (cụ thể ở đây là năm Tỵ) chỉ dùng để tham khảo, bởi điều này tác động bởi ý nghĩa nhiều hơn là tác động bởi âm dương ngũ hành, nên không có quyết định được toàn bộ. Nếu xét tên theo ngũ hành, Anh (Mộc) Minh (Hỏa) thì cũng được tương sinh, nhưng trường hợp này đang cần Mộc, sinh cho Hỏa là bị tiết đi cũng không tốt.
Đặt tên cho con cũng khiến nhiều cha mẹ "đau đầu nhức óc" (ảnh minh họa)
Sử dụng phong thủy để hóa giải bé hay quấy khóc do không hợp mệnh

Khai sinh lại là quyền của bạn, cá nhân quan điểm của tôi là mọi trường hợp đều có hướng hóa giải. Ví dụ trường hợp này thiếu Mộc, bổ sung hành Mộc như quần áo màu xanh, cháu bé quá chưa đeo được trang sức, thì cũng có thể cho ít đá xanh vào dưới gối như mã não xanh, đá ô liu,... Tất nhiên nên nhớ đây là những viên đá nhỏ đường kính 1-2mm đã mài nhẵn, số lượng vừa phải trong khoảng 2-300gr, liều lượng cụ thể phải tùy thực tế cân nặng và thời gian định đặt. Như vậy sẽ giúp cháu ngủ ngon hơn, bớt quấy khóc.
Cách đặt tên cho con hợp mệnh

Từ phong thủy hay bị lạm dụng quá nên thành ra cái gì cũng phong thủy, phong thủy bản chất là nghiên cứu về khí, nhằm mục đích cân bằng khí của môi trường sống với cơ thể con người, chứ cũng không phải là gió và nước như nhiều người lầm tưởng. Họ tên liên quan nhiều hơn đến mệnh lý, có dính dáng đến phong thủy thì cũng là trên nền tảng âm dương ngũ hành, tuy vậy không nên đánh đồng với nhau. Họ tên tất nhiên liên quan nhiều đến tính cách, hay số phận, nhưng không thể trả lời ngắn gọn ở đây được. Bạn chỉ cần biết rằng, một cái tên dễ nghe, dễ nhớ cũng đã tạo thuận lợi hơn trong giao tiếp rồi.

Như đã nói ở trên về từ phong thủy, đặt tên thì nên suy xét đến mệnh lý, đến âm dương ngũ hành. Còn khi cần làm nhà dựng cửa, sẽ cần đến phong thủy.

Nguyên tắc cơ bản khi đặt tên con lại phải tùy theo quan niệm, trường phái hay cách đặt. Ví dụ có nhà kiêng đặt tên trùng với người lớn tuổi hơn trong dòng họ như ông bà bố mẹ cô dì chú bác, thì đó là nguyên tắc đặt tên của nhà đó gia đình đó. Còn về cơ bản, tên hợp và đẹp cần chú ý đến các nhân tố sau:

- Âm thanh: Khi âm thanh của tên một người được gọi ra, người ta có thể cảm nhận một cách trực tiếp bản thân người có cái tên đó và cảm nhận của người được gọi. Bản thân "âm" cũng bao hàm cả số (tần số âm), có số chính là có sự hiệu ứng. Do đó khi chọn tên cần lựa chọn những âm dễ nghe, dễ gọi, tránh những âm không thanh nhã và những âm gần giống nhau.

- Ý nghĩa: ý nghĩa của tên, nếu cùng biểu trưng cho một người thì không nên dùng những chữ không nho nhã, thô tục. Tốt nhất là có liên quan đến họ, tức là ý nghĩa của họ và tên phải thông suốt trời đất. Như tên Mai Lan Phương, tức là trong họ và tên có sự nâng đỡ lẫn nhau, cùng ca ngợi nhau. Nhiều cái tên thô tục quá như Nguyễn Thị Khoái, Lại Văn Nhanh,... dễ làm mọi người bật cười khi nhắc đến.

- Hình: Hình dạng của chữ thể hiện khả năng dẫn dắt và ám thị, sức khỏe của người đó. Cần chú ý kết cấu dài ngắn cân đối hài hòa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tên đã hợp mệnh với Con

Các sao Tử vi thể hiện tài lược kinh doanh

Các sách Tử Vi đã xuất bản thường cho rằng muốn kinh doanh, buôn bán, thì mệnh thân, tài, quan… phải tránh được các sao thanh cao, đứng đắn, đạo mạo (như Tử Vi, Thiên Phủ, Cự Nhật, Quan Phúc, Khôi Việt, Cáo Phụ, Thai Tọa, bộ Tứ Đức…)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các sách Tử Vi đã xuất bản thường cho rằng muốn kinh doanh, buôn bán, thì mệnh thân, tài, quan… phải tránh được các sao thanh cao, đứng đắn, đạo mạo (như Tử Vi, Thiên Phủ, Cự Nhật, Quan Phúc, Khôi Việt, Cáo Phụ, Thai Tọa, bộ Tứ Đức…) và cần có các sao chủ về tài lộc, tiền bạc, tháo vát, thủ đoạn, xoay xở giỏi (như Vũ Khúc, Song Lọc, Đại Tiểu Hao mão dậu, Cự Cơ mão dậu, Không Kiếp, Tả Hữu, Nhật Nguyệt v.v.). 

Tiêu chuẩn tổng quát này xét ra không phải là sai lầm, nhưng khi áp dụng vào nhiều trường hợp thì tôi thấy không ứng nghiệm chút nào, vì đâu có phải ngành kinh doanh không hợp với người đứng đắn, đành rằng trên thương trường nếu ta thành thực quá thì đương nhiên là bất lợi, khó giàu lớn.

Để khỏi lý luận dài dòng có thể làm cho quý bạn thấy nhàm tẻ, tôi xin nêu ra đươi đây nhiều cách ứng nghiệm cho ngành kinh doanh mà tôi đã gặp trong các lá số. Đây tôi chỉ đề cập đến những người thực sự đi vào ngành này chứ không kể đến những người chỉ vì sinh kế nhất thời mà phải miễn cưỡng buôn bán. Và qua các trường hợp sau đây quý bạn sẽ thấy tiêu chuẩn tổng quát nêu trên bị đảo lộn hết.

Tử Phủ hội Kình Dương (theo phú “Tử Phủ Kình Dương tất cự thương”):

Ta thấy hai sao đứng đắn Tử Phủ khi gặp Kình Dương lại trở thành buôn bán lớn (cự thương), nhưng lẽ tất nhiên buôn bán hợp pháp, đứng đắn, có cơ sở quy mô, có nhiều nhân viên, có vốn vững vàng, nhất là khi có thêm Khôi Việt, Tả Hữu, Xương Khúc, Long Phượng, Quang Quý thì càng dễ làm giám đốc, quản lý xí nghiệp lớn. Tuy nhiên, trong trường hợp này cần tránh được Hình, Kỵ để khỏi gặp cạnh tranh gây go có thể đưa đến thù oán kiện cáo; nếu chỉ có Hóa Kị thì không sao nhưng cần phải chuyên ngành kim khí (nếu tọa thủ tại mệnh thì hay có bệnh ở hạ bộ). Ngoài ra cũng cần tránh được Hỏa Linh để tránh được vấn đề về trộm cắp, gian tham của người dưới quyền, nhất là khi các sao này chiếu cung Quan hoặc cung Nô. Cũng có người cho rằng nếu chi có Tử Vi (không có Thiên Phủ) hội Kình và Quyền Lộc thì “tuy mỹ cát nhi vô đạo”, tức là tuy tốt nhưng bất chính, nhưng tôi nghiệm thấy không đúng mấy.

Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc hội Thiên Mã (tức là cách “Lộc Mã giao trì”, có câu phú “Giao trì Lộc Mã tiền tài đầy kho”)

Có vị Tử Vi cho rằng Lộc Mã ở đây là Lộc Tồn chứ không phải Hóa Lộc, nhưng tôi nghiệm thấy cả hai sao cùng ứng nghiệm. Gặp trường hợp này cần phải rời nơi sinh trưởng đi buôn bán nơi xa mới phát đạt, hoặc ít ra phải kinh doanh bằng cách di chuyển luôn luôn. Tôi cũng cần lưu ý quý bạn là nếu Thiên Mã ở cung Dần thì không nên đi xa quá vì đây là cách “mã hưu lan” (ngựa còn ở trong chuồng vì giờ Dần ngựa chưa đi ra goài). Còn gặp trường hợp Thiên Mã ở cung Hợi tức là “mã cùng đồ” (ngựa hết lối đi) thì lại không nên đi đâu cả. Có người cho rằng nếu Âm Nam, Dương Nữ thì ngựa vẫn đi được và còn cho rằng phải xét xem mạng của mình có hợp với ngũ hành của Thiên Mã (hỏa) hay không. Tôi không phê bình điểm này vì chưa nghiệm được.

Mã ngộ Tràng sinh thanh vân đắc lộ

Câu này thì hầu hết quý bạn đều biết. Tôi chỉ xin nói thêm là cần phải tránh Tuần Triệt, nhất là Triệt, thì việc buôn bán mời xuông xẻ, và tránh được Đà La để khỏi bị thương tích, tai nạn, nhất là khi hai sao này ở Mệnh. Vả lại, chính sao Đà La cũng ngăn trở việc kinh doanh không ít. Hơn nữa, cách này cũng chưa đủ mạnh nên còn cần có thêm một cách tốt trợ lực nữa thì mới phát đạt, nhất là Song Lộc. Ngoài ra còn phải tránh được hai sao Cô, Quả để tránh cảnh “đơn thương độc mã” trên đường kinh doanh vì không có lẽ kinh doanh một mình, không có khách hàng, không có ai cộng tác.

Vũ Khúc hội Thiên Phủ (cách Vũ Khúc, Thiên Phủ đôi kim tích ngọc)

Cách này mà gặp thêm Song Lộc thì buôn bán, kinh doanh thịnh vượng, phát đạt lắm, và nếu không có Song Lộc thì cần có Song Hao mão dậu để tiền bạc được luân chuyển, sinh lời vì nếu chỉ có Vũ Phủ (đều tượng trưng cho các kho) thì tiền bạc chỉ để trong ngân hàng hoặc trong két bạc mà thôi. Ngoài ra, lại cần phải người mạng Thổ hay Kim thì mới hợp cách này vì Vũ Khúc là Kim và Thiên Phủ là Thổ, tuy nhiên phải chịu thiệt thòi về phương diện tinh thần, nghĩa là hay bị cô đơn, khó lập gia đình, nhất là khi có thêm Cô Quả, Kiếp Sát, Thiên Hình (dù trong trường hợp Vũ Khúc Thiên Phủ cư Phúc Đức thay vì cư Mệnh)

Cự Nhật dần thân

Nhiều thầy Tử Vi nói rằng Cự Nhật cư mạng chỉ làm chức lớn trong chính quyền vì có câu phú “Cự Nhật dần thân qua phong tam đại”. Kể ra cũng đúng lắm, nhưng tôi đã gặp một trường hợp “trật đường ray”, nghĩa là không có chức phận trong chính phủ mà làm giám độc một hãng tư. Tôi xin tóm tắt là số trong trường hợp trên: Mạng đương số thuộc Thổ, mệnh cư Dần có Cự Nhật hội Quyền Lộc, Xương Khúc, Thân cư Tài vô chính diệu, do đó mạng Thổ không ưa cung Dần thuộc Mộc mà dựa nhiều vào Thân (cư Tuất thuộc Thổ) và khi Thân vô chính diệu thì phải kiếm chính tinh bên ngoài, nhưng Cơ Lương xung chiếu lại thuộc Mộc không dùng được nên phải hướng sang Cự Nhật và lại hợp được vì Cự Môn dưỡng cung Mộc để Mộc sinh Thái Dương (hỏa) rồi Thái Dương sinh mạng Thổ (theo lý “tham sinh võng khắc”), vì vậy, cung Thân hưởng trọn.

Cự Nhật, nhất là có thêm Hóa Lộc thuộc Thổ và Khôi Việt thuộc Hỏa sinh Thổ, để chuyển đổi câu phú trên thành “Cự Nhật cư Tài, phi quyền tắc phú”, mặc dầu thực sự Cự Nhật không cư Tài, nhưng theo lý ngũ hành thì hoàn toàn ảnh hưởng cho cung Tài. Do đó đương số không làm việc trong chính phủ cũng phải, nhất là Thân đâu có cư Quan.

Vũ Khúc hội Thất Sát ở Mão

Có cách này cũng có khiếu về buôn bán nhưng hơi gian hùng và ưa cạnh tranh vì có Liêm Tham đồng cung tại Tài Bạch. Tuy vậy, không thể buôn bán lớn được mà cần phải làm những “affaire” lặt vặt thì chắc ăn hơn.

Tử Vi hội Hóa Lộc và Nhật Nguyệt

Cách này rất giàu sang, buôn bán dễ dàng, hay gặp may, một vốn mười lời. Đó là cách “phú quý bất khả ngôn”, nhưng cần phải là người mạng Thổ hay Kim hoặc Hỏa mới ứng nghiệm. Nếu là người mạng Thủy hoặc Mộc thì chỉ trung bình thôi.

Thái Dương miếu địa hội Quan Phúc và Hóa Lộc

Cách này gọi là cách “Phúc lộc hà sa” nên đương nhiên làm ăn, buôn bán thịnh vượng không thể tưởng tượng được, nhiều khi ngồi chơi cũng vẫn phát tài. Và đặc biệt cách này lại rất cần gặp Cô Quả vì Thái Dương trong trường hợp này dư sức “tự lực tự cường” cho nên không cộng tác với người khác mới hưởng trọn vẹn được mọi mối lời, chứ nếu không có Cô Quả thì tiền lời sẽ bị chia năm sẻ bảy, đâu còn hay nữa. Cách này trái ngược với cách “Mã ngộ Tràng Sinh thanh vân đắc lộ” nêu trên về khía cạnh Cô Quả. Ngoài ra lại phải cần người mạng Hỏa hoặc Thổ mới đúng cách.

Cơ Cự mão dậu

Cách này gọi là “phú hữu lâu dài” phải cần có Song Lộc hội chiếu hoặc có Song Hao “chúng thủy triều đông” mới thành công mỹ mãn trên thương trường. Tôi cũng cần nhắc lại với quý bạn là Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn không được đồng cung với Cơ Cự vì lý do ngũ hành, Song Hao thì trái lại phải đồng cung với Cự Cơ. Chắc các bạn còn nhớ câu “Song Hao mão dậu ái ngộ Cự Cơ tối hiềm Hóa Lộc” chứ !

Mệnh vô chính diệu đắc tam không nhi phú quý khả kỳ

Mệnh vô chính diệu thuộc cách này nếu chỉ đơn thuần như vậy (có nghĩa là chỉ có ba Không) thì vẫn chẳng nên trò trống gì, phải cần có Song Lộc hội chiếu và nhất là phải là con một trong gia đình, không được có anh hay em trái (có thể có chị em gái). Và dù có được như vậy cũng không có lâu bền mặc dầu có lúc ít ai bằng mình, nhưng thế mới đúng nghĩa chữ “khả kỳ”. Ngoài ra còn cần phải cộng tác với một hoặc nhiều người khác và mình nhận vai trò cố vấn, phụ tá hoặc phó thì mới thành công và lâu bền. Về điểm này cụ Hoàng Hạc đã nêu ra và tôi thấy rất đúng vì trong họ hàng tôi đã có mấy người có cách này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các sao Tử vi thể hiện tài lược kinh doanh

Xem tướng qua tư thế nằm –

Nằm đương nhiên cho ta thông tin về tâm trạng và tâm thế. Tướng nằm là “duy biến” và thể hiện ở hai trạng thái: - Tướng nằm khi thức - nằm nghỉ ngơi. - Tướng nằm khi ngủ. Dù khi ngủ hay khi nghỉ thì bao giờ cũng có thế cố hữu của cách nằm phù hợp với

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nằm đương nhiên cho ta thông tin về tâm trạng và tâm thế. Tướng nằm là “duy biến” và thể hiện ở hai trạng thái:
– Tướng nằm khi thức – nằm nghỉ ngơi.
– Tướng nằm khi ngủ.
Dù khi ngủ hay khi nghỉ thì bao giờ cũng có thế cố hữu của cách nằm phù hợp với cá thể.

co gai nam ngu

I. TƯỚNG NẰM KHI THỨC – NAM NGHỈ NGƠI.
Khi thức thì người ta hay nằm tùy tiện. Nhưng rồi người nằm sẽ trở về thế quen thuộc của mình.
1. Nằm như thế núi, vững trãi (đầu cao, người nghiêng, chân hơi co, chân kia thẳng) thế nằm của Phật A Di lặc.
Tướng: Phúc thọ, giầu có, mưu mô, túc trí.
2. Nằm ngửa duỗi tay, duỗi chân: Không thọ.
3. Nằm nghiêng: Người kín đáo, kép nép.

II. TƯỚNG NẰM KHI NGỦ.
Sau khi ngủ say, người ta sẽ trở về thế nằm “bất biến” vì vậy mà khái quát tướng nằm là: Nằm yên tĩnh, tự nhiên thì phúc thọ, giầu sang. Nằm mà không yên tư thế gò bó thì xấu: khổ ải.

1. Nằm ngủ mà giang tay, giang chân: Tướng ngang tàng, phóng túng, tham vọng lớn. Không sự hãi, là người dũng lược.
2. Nằm co quắp: Tướng yếu, hèn không có dũng khí, người mồm mép.
3. Nằm nghiêng, duỗi tay chân thoải mãi: Tướng giầu có, sang trọng, sống lâu.
4. Nằm ngủ mà nghiến răng ken két: Tướng chết vì tai họa binh đao, chiến tranh.
5. Nằm ngủ mà miệng há hốc: Tướng chết non.
6. Nằm ngủ mà mở mắt (như Trương Phi): Tướng chết vì kíp nạn giữa đường.
7. Nằm ngủ mà nói mê sảng lung tung: Tướng hèn mọn, thân phận tôi đòi, làm thuê làm mướn.
8. Nằm ngủ úp mặt xuống gối: Tướng đói khát, khổ ải.
9. Nằm ngủ mà xoay tứ phía không định hướng: Tướng bần hàn, luôn lo lắng sinh nhai.
10. Nằm ngủ mà thở ra hôi hám: Tướng ngu đần.
11. Nằm ngủ mà thở ra ngắt quãng: Tướng chết non, đoản mệnh.
12. Nằm ngủ mà thoát ra tiếng “hừ hừ”: Tướng tử nạn.
13. Nằm ành ành (như lợn nằm): Tướng nghèo.
14. Ngủ mà thần thái sợ hãi: Tâm không an, trí suy kiệt.
15. Ngủ mà thở điều hòa thần thái bình lặng: Tướng thanh cao, thư thái, hiền lương.
16. Nằm ngủ mà nét mặt cau có: Tướng thô bạo, đời bất hạnh.
17. Nằm ngủ mà nét mặt dữ tợn: Tướng sát nhân và đoản mệnh.
18. Nằm ngủ mà thần thái bất an: Tướng yếu hèn, kinh khiếp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua tư thế nằm –

Có bao giờ thế giới tâm linh bị xóa bỏ?

Thế giới tâm linh ra đời từ khi con người xuất hiện và theo đuổi loài người trong suốt quá trình phát triển, cho đến tận ngày nay. Sư ăn sâu, bén rễ này là có
Có bao giờ thế giới tâm linh bị xóa bỏ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tâm linh ra đời từ khi con người xuất hiện và theo đuổi loài người trong suốt quá trình phát triển, cho đến tận ngày nay. Sư ăn sâu, bén rễ này không phải không có căn nguyên.


Co bao gio the gioi tam linh bi xoa bo hinh anh
 
Một số nhà khảo cổ và nhân chủng học đã khám phá ra giống người Cromangnon – chủng người cổ đại có nhiều đặc điểm tiến hóa cao về lĩnh vực đời sống tâm linh, qua các bằng chứng cổ xưa từ các hình vẽ trên vách đá các buổi lễ thờ cúng, và các hình ảnh về ma thuật đầy màu sắc. Đặc biệt, người chết được đem chôn theo các nghi lễ đầy vẻ huyền bí. Và ma quỷ phát sinh nhiều hơn qua trí tưởng tượng họ.
 
Về thần linh thì sấm sét, núi lửa, động đất là những nguyên nhân làm họ tin tưởng đến sức mạnh vô hình của các thần linh. Người nguyên thủy “nhìn đâu” cũng thấy thánh thần và ma quỷ bởi trình độ nhận thức và hiểu biết của họ còn thấp.
 
Trải hàng triệu năm tiến hóa, cái nhìn đó đã lặn sâu vào vô thức, vào bản chất “tiên thiên” của mọi người. Ngày nay loài người đã sống văn minh hơn nhưng vẫn còn một số vùng hoang vắng được xem như tận cùng của quả đất, nơi có vài bộ lạc còn sống cuộc đời hoang dã giống như thời đại đồ đá của loài người trước đây. 
 
Điều kỳ lạ là nhiều nhà thám hiểm đã len lỏi tận cùng các vùng xa xôi hẻo lánh để tiếp xúc với loài người được xem là sơ khai, họ bắt gặp được nhiều điều kỳ diệu mà các phù thủy ở đó đã thực hiện. Điều đó chứng tỏ, tâm linh là một nhu cầu và gần như là bản chất đối với con người. Thậm chí, ở những cộng đồng mà tri thức chưa phát triển thì tâm linh còn được coi là khoa học, là nhận thức và mang lại những thành tựu nhất định trong cuộc sống.
 
Với xã hội hiện đại, tâm linh là thế giới mà con người theo đuổi và còn thiếu. Những ước mơ, niềm tin, sự khao khát gửi vào tâm linh; những thiếu hụt trong nhận thức, hiểu biết và khoảng trống tri thức được lấp đầy bằng tâm linh. Khi con người còn nhiều câu đố chưa giải đáp thì thế giới tâm linh còn tồn tại. 
 
Thậm chí, cả khi những bí mật ấy được bật mí thì con người vẫn cần tâm linh làm chỗ dựa. Bởi sự cân bằng tâm lý và nhu cầu được dựa dẫm vào thế lực siêu hình, nhu cầu được mộng tưởng và vượt thoát khỏi cuộc sống thường nhật luôn luôn tồn tại.  
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

ST

 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có bao giờ thế giới tâm linh bị xóa bỏ?

Giải mã tính cách qua cách chọn món ăn

Bạn thích ăn những lá rau xà lách như một con sâu xanh? Bạn tự cho mình là mình không có khả năng gì đặc biệt nhưng giả sử bạn đi sâu vào một môn nghệ thuật thì chắc bạn chẳng phải là người tầm thường.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn muốn tự hiểu mình? Bạn muốn biết rõ hơn về họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp để ứng xử cho đúng ? Bạn hãy tự hỏi mình hoặc hỏi họ một câu đơn giản: “Mình (hoặc họ) thích ăn món gì nhất ?” Câu trả lời thu được có cách giải thích rất hợp lý của nó. Ví dụ táo chẳng hạn. Bạn thích táo chứ, có nghĩa là bên cạnh bạn luôn luôn có một quả táo: lúc bạn đọc sách hoặc nằm dài trên ghế xem TV, hoặc vừa gặm một quả táo vừa giải một bài toán. Điều đó chẳng có gì là xấu, đúng không?

Căn cứ vào đó, người ta giải mã tính cách của bạn đấy. Sau đây là một số ví dụ.

Bạn thích dâu tây? Xin chúc mừng. Bạn có “gu” (về mọi vấn đề) rất tinh tế. Bạn không hình dung ra cuộc sống của mình mà lại thiếu những đồ trang trí, bày biện xinh xinh, mỹ thuật ở trong nhà, những tấm lòng tốt của những người xung quanh, những câu chuyện thú vị ở trên đời. Song bạn là người có bản chất yếu đuối, và thích hưởng thụ. Bạn ưa những tiện nghi trong cuộc sống và công khai bày tỏ thị hiếu.

Bạn thích ăn những lá rau xà lách như một con sâu xanh? Bạn tự cho mình là mình không có khả năng gì đặc biệt nhưng giả sử bạn đi sâu vào một môn nghệ thuật thì chắc bạn chẳng phải là người tầm thường.

Nếu bạn không bao giờ có thái độ dửng dưng với các món xào có tỏi tây, các nhà tâm lý sẽ liệt bạn vào hàng trí thức có đầu óc lôgic rất phát triển và khả năng phân tích vấn đề thấu đáo.

Hàng ngày trên thực đơn của bạn đều có một món từ bắp cải? Bạn rất dễ tính, hay nhường nhịn, sẵn sàng chịu thua khi tranh cãi, nhưng bạn chẳng bao giờ cho ai mượn tiền (vì biết rằng thế nào mình cũng sẽ thiệt thòi) và đôi khi bạn là người tằn tiện.

Bạn cho rằng cuộc sống nhất thiết phải có khoai tây? Những người xung quanh bạn gặp may rồi. Họ sẽ có bên cạnh mình một người thân điềm đạm, luôn luôn coi trọng quan điểm và ý kiến của người khác.

Bạn có thể ăn được hàng cân cà chua? Quan điểm sống của bạn là gia đình và vợ con là trên hết.

Bạn cảm thấy ứa nước bọt trước món cà tím hoặc ớt ngọt nhồi thịt? Sự vui vẻ và dễ tính là nét đặc trưng trong cá tính của bạn. Thêm vào đó, bạn là người rất có chí hướng, theo đuổi đến cùng mục tiêu mình đặt ra.

Không ngày nào bạn không nhấm nháp một chút gì ngòn ngọt? Bạn là người lãng mạn và vị tha.

Bạn hay ăn những món ăn lỏng như súp, bữa ăn nào cũng phải có canh, hay uống trà đá, sữa? Bạn vừa uống xong cái gì, đúng không? Rất có thể trong thời gian gần đây có chuyện gì đó xảy ra khiến bạn cảm thấy cô đơn.

Bạn thích những món ăn cứng và lạnh? Bạn đang bất bình vì một điều gì đó và có cảm giác lo âu. Hãy xếp chuyện ấy lại và đuổi nó ra khỏi đầu óc bạn càng sớm càng tốt.

Thế nhưng các nhà tâm lý học vẫn chưa xác định được tính nết của một người vừa thích món cà và ớt ngọt nhồi thịt, lại vừa thích dâu tây sẽ ra sao? Hay là nói chung chẳng bao giờ có người như thế?

Tuy nhiên, khi công trình hoàn thành, người ta đã đánh giá cao giá trị khoa học của những kết luận mà tác giả đã tổng kết. Trường Đại học Na Uy đã trao tặng cho nghiên cứu của giáo sư Lindstrom 300 nghìn đôla.

Cách ăn uống cũng bộc lộ rõ con người bạn, dưới đây là những kiểu tính cách phù hợp với từng phong cách ăn uống của mỗi người.

Ăn nhai tóp tép

Thiếu ý chí và lòng kiên định, hay khoe khoang, khoác lác, nói chuyện bộp chộp là những nhược điểm của người có kiểu ăn uống này. Họ làm việc không có nguyên tắc, không dám chịu trách nhiệm trước bất cứ việc gì. Chính vì thế, họ không có nhiều mối thân tình xung quanh.

Nuốt thức ăn có tiếng kêu ừng ực

Chủ nhân của kiểu ăn uống này là người thông minh và khá lanh lợi. Tuy nhiên, họ lại không có khả năng lãnh đạo và điều hành công việc. Người này làm việc gì cũng tùy tiện, sống không có nguyên tắc và quy củ rõ ràng. Họ cũng thích tham gia tranh luận và phê phán trong các buổi họp nhưng lại là người nói đâu bỏ đấy, không trọng lời hứa và không có chủ kiến của riêng mình.

Khi ăn ngậm miệng, không nghe thấy tiếng nhai thức ăn

Người này có tính cách rất cẩn thận và luôn thận trọng trong mọi vấn đề. Làm việc gì cũng có nguyên tắc và bài bản rõ ràng, không để sơ hở hay thiếu sót. Họ sống vì công việc nhưng không lấy công việc làm mục tiêu để cạnh tranh và ganh đua. Họ là một người khá nhút nhát.

Vừa nhai thức ăn vừa nói chuyện tào lao

Chủ nhân của kiểu ăn này là người hồ đồ, việc công việc tư không phân minh lại rất dễ nổi nóng. Khi gặp chuyện không vui đối với bản thân, họ hay mượn cớ làm to chuyện hoặc cáu tức, ảnh hưởng đến những người xung quanh. Trong công việc, họ là người không đáng tin cậy, bản thân lại thiếu nghị lực nên không gặt hái được thành công.

Kiểu ăn này được coi là không được lịch sự, lại mất vệ sinh. Nói chuyện khi đang ăn rất dễ làm nước bọt bắn vào thức ăn, thậm chí có thể làm bắn thức ăn sang người khác.

Ăn một miếng to rồi ngậm miệng lại, phồng má trợn mắt để nhai

Người này có tính cách khá nóng nảy, đôi khi thô lỗ, cố chấp và ngang bướng. Nếu lỡ may có làm trái ý họ, thì họ sẽ nổi giận lôi đình, việc bé xé thành to.

Khi ăn, nghẹo cổ rồi mới nuốt thức ăn

Người này cũng có tính tình rất nóng nảy và không có khả năng đánh giá sự việc. Làm việc gì cũng qua loa đại khái, chỉ thích nhìn thấy mặt tốt của sự việc và rất sợ phải nhận sự thực xấu.

Nhai thức ăn bằng răng cửa hay răng nanh, không nhai bằng răng hàm

Phần nhiều người có kiểu nhai thức ăn này có bệnh về tràng vị. Dùng răng cửa hay răng nanh nhai thức ăn rất có khả năng là răng hàm đã bị sâu, không thể nhai thức ăn được. Người này có tấm lòng lương thiện nhưng lại không biết cách lấy lòng người khác, thiếu tinh tế và kém nhạy cảm trong mọi vấn đề.

Trong công việc, họ thường không tập trung tư tưởng, tuy có cố gắng làm tốt nhưng kết quả lại thất bại.

Khi ăn thường hay liếm môi

Chủ nhân của kiểu ăn này là người có tâm trạng không ổn định, buồn vui thất thường. Tuy nhiên, họ lại là người có sức khỏe rất tốt. Họ thường dồn hết tâm trí vào công việc của mình nhưng đôi khi lại không biết đánh giá công việc và cũng không biết biểu đạt ý kiến của riêng mình. Họ là người khá coi trọng vật chất.

Cắm đầu cắm cổ ngồi ăn

Người có kiểu ăn này rất cần cù và chăm chỉ, có sức bền và nghị lực kiên cường. Tuy nhiên, họ lại khá ngoan cố và bảo thủ, làm việc thiếu linh hoạt, không biết tùy cơ ứng biến. Thế nhưng điểm mạnh của họ sẽ lấn át điểm yếu, vận thế sau này của người này sẽ tương đối tốt.

Vươn cổ ngồi ăn

Đây là tư thế ngồi ăn của người khá tham lam. Người này có tâm tính khá hẹp hòi, hay đố kị người khác. Họ làm việc hời hợt, cũng không năng nổ hay hoạt bát, do đó không có thành tích gì nổi bật. Cuộc sống của người này tương đối khó khăn, tuổi thọ kém.

Tay bưng bát, tay cầm đũa có khoảng cách hợp lý, khéo léo, không lúng túng vụng về

Người này giỏi tùy cơ ứng biến, biết ứng dụng những hiểu biết trên sách vở vào công việc và cuộc sống, biết cách nắm vững cơ hội, nhờ đó mà có những thành tích không ngờ. Họ cũng là người thông minh, biết cách tự kiềm chế cảm xúc của bản thân.

Khi ăn, thè đầu lưỡi ra gần thức ăn

Chủ nhân của kiểu ăn này là người hiền lành, ít nói và khá kín kẽ. Họ chỉ lặng lẽ ngồi quan sát và theo dõi xung quanh. Là người thông minh, có trí nhớ rất tốt nhưng lại có tham vọng quyền lực khá lớn. Với động tác ăn như thế, chứng tỏ người này rất sạch sẽ.

Ngồi ăn, mặt hơi vểnh lên

Với tư thế ăn kiểu như thế này cho ta cảm giác chủ nhân là một người khá ngạo mạn. Họ là người có tính cách kiên cường, xử lý sự việc nhanh nhạy, bất kể tình huống nào cũng có chủ kiến của riêng mình. Tuy nhiên, đôi khi họ lại khá cố chấp và bảo thủ, chi tiêu hoang phí.

Người thích ăn vặt, không ăn bữa chính

Người này làm việc không nghĩ đến chất lượng nhưng lại hoàn thành đúng thời hạn. Họ là người rất hiền hòa, thân thiện, ít khi nóng nảy, đối xử với bạn bè nhiệt tình. Tuy nhiên, họ không có nhiều bạn thân để chia sẻ tâm sự nên dễ rơi vào trạng thái cô đơn, trầm uất.

Người kén chọn món ăn, chỉ ăn thứ mình thấy ngon, gạt thứ không thích sang một bên

Người này chỉ biết bản thân, coi thường người khác. Họ sẵn sàng chà đạp lên người khác, miễn sao đạt được mục đích của bản thân. Họ bất chấp đạo đức kỷ luật, cũng không cần tu dưỡng bản thân, tư tưởng hẹp hòi, chỉ biết đến mình.

Người ăn bừa các loại thức ăn

Đây là người có tính cách phóng túng, tùy tiện, không coi trọng đạo đức xã hội, không coi ai ra gì, tự phụ và vô lễ, nhiều tham vọng. Tuy là người cởi mở nhưng không có bạn tri âm.

Người tục ăn uống

Người này có trí tuệ kém cỏi, có sức mạnh thể chất nhưng lực bất tòng tâm, tầm nhìn nông cạn. Họ khó có thể gặt hái được thành công trong cuộc sống.

Người bạo ăn bạo uống

Người này có phần giống tính cách của người tục ăn tục uống. Trong công việc, họ thường không biết lên kế hoạch, thiếu thận trọng. Họ luôn bận rộn, vất vả và phiền não, vận mệnh không được suôn sẻ. Tuy vẻ ngoài họ là người mạnh dạn, cứng rắn nhưng thực chất bên trong lại mềm yếu.

Người ăn uống rất ít

Đối với người ăn uống ít nhưng cơ thể vẫn phát triển ở mức trung bình là người có lòng khoan dung, độ lượng, sống lương thiện, cởi mở. Họ có rất nhiều bạn bè và được mọi người tôn trọng trọng.

Nếu ăn uống ít, cơ thể lại gầy yếu, có thể là do thiếu chất dinh dưỡng. Người này thường quá nhạy cảm nên dễ rơi vào tâm trạng ưu tư.

Người rất chú trọng ăn uống mà không béo lên được

Vốn tính hẹp hòi, thích soi mói người khác nên thường xảy ra bất hòa trong các mối quan hệ. Họ khá nhạy cảm, sống thiên về nội tâm tuy nhiên tình cảm bất ổn, hay thay đổi.

Người ăn vội vàng, qua loa cho xong bữa

Người này tính cách nóng nảy, thiếu niềm tin và nghị lực vào cuộc sống, không kiên định trong công việc, hay bỏ dở giữa chừng để làm việc khác, có mới nới cũ, không muốn làm việc gì lâu dài cũng không muốn ở một nơi cố định. Do đó, họ hay thay đổi nghề nghiệp và chỗ ở.

Người ăn món gì cũng thấy hợp khẩu vị

Với tính cách ôn hòa, độ lượng người này có khả năng thích nghi với môi trường mới và thích ứng nhanh với mọi tình huống. Họ có ưu điểm là biết kiềm chế cảm xúc, không hay cáu giận và cũng không câu nệ những chuyện vặt vãnh.

Người thích ăn thức ăn đang nóng

Người này tính cách thay đổi nhanh chóng và rất nóng nảy. Họ thích sự hoàn mỹ, thích đi tiên phong trong mọi việc, thích khám phá những điều mới lạ. Tính cách thẳng thắn, dám mạo hiểm, tuy nhiên đôi khi lại quá trẻ con. Họ ít có khả năng đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống nên dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng.

Người thích ăn nguội

Bề ngoài, người này cho ta cảm giác ôn hòa và khiêm tốn. Tuy nhiên, bên trong họ lại khá cứng rắn, có ý thức phản kháng mạnh mẽ. Họ là người có tâm tư tình cảm tốt, chịu đựng được gian khổ, sống thiên về nội tâm, không thích khoe khoang.

Người có tật ăn nhanh

Chủ nhân của kiểu ăn uống này sống cởi mở và hoạt bát, sức khỏe tốt. Tính tình vui vẻ nhưng đôi khi lại hay nóng vội và tự phụ. Do đó, họ khó có thể gặt hái được thành công trong công việc.

Người ăn quá chậm

Người này có ý thức cá nhân rất mạnh nên không muốn để người khác phê bình, góp ý. Họ luôn tự lập trong cuộc sống, không muốn nhờ vả người khác. Tuy nhiên đây cũng là người sống nội tâm, không thực sự nhanh nhẹn, đôi khi thiếu quyết đoán, khó có được thành công lớn trong đời.

Ngọc Anh (tổng hợp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã tính cách qua cách chọn món ăn

Mỹ nhân Trung Hoa

Câu Dặc Phu Nhân Ở giai đoạn tuổi già, Hán Vũ Đế đã sủng ái một mỹ nữ khác là Triệu Tiệp Dư. Một lần nọ, Vũ Đế đi thị sát vùng Hà Giang, có một ông thầy bói tâu với nhà vua:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nơi đây có một vị kỳ nữ. Từ ngày cô ấy hạ sinh đến nay, hai bàn tay luôn luôn nắm chặt, không bao giờ xòe ra.

Vũ Đế cảm thấy lạ, vội vàng phái người đi triệu cô gái ấy tới. Khi nhà vua cầm bàn tay của cô gái ấy lên, thì bàn tay liền xòe ra, bên trong nắm chặt một chiếc móc bằng ngọc, cho nên về sau được mọi người gọi là “Câu Dặc Phu Nhân”. Vũ Đế rất mê tín, cho rằng cô gái này không phải tầm thường, nên đem về cung và sủng ái nàng. Đến niên hiệu Thái Thủy năm thứ ba, khi Vũ Đế đã được sáu mươi ba tuổi thì Câu Dặc Phu Nhân hạ sinh cho nhà vua một hoàng tử. Đó là hoàng tử Lưu Phất Lăng, vị hoàng tử nhỏ nhất, mà sau này đã trở thành Chiêu Đế.

Sau khi sự kiện trù ếm xảy ra, Vũ Đế định lập người con nhỏ nhất là Lưu Phất Lăng làm thái tử, nhưng vì sợ sau này lại xuất hiện tình hình mẫu hậu can thiệp vào triều chính, nên Vũ Đế bèn quyết định giết Triệu Tiệp Dư.

Ít lâu sau đó, nhà vua cố ý tìm một khuyết điểm của Triệu Tiệp Dư và gay gắt quở trách. Triệu Tiệp Dư gỡ bỏ tất cả những đồ trang sức đeo trên người, rồi dập đầu tạ tội. Vũ Đế dù cảm thấy rất đáng thương, nhưng vẫn hạ lệnh cho thần hạ của mình:

– Hãy dẫn bà ấy tống vào nhà giam.

Câu Dặc Phu Nhân cứ bước đi một bước lại quay đầu nhìn, đôi mắt như van xin, nhưng Vũ Đế khoát tay nói:

– Hãy đi cho mau, nhà người đừng mong chi được sống sót!

Ngày xử tử Câu Dặc Phu Nhân, mây mù ảm đạm, gió to thét gào. Bá tánh hay tin, không ai là không cảm thấy thương tiếc, một giai nhân trẻ tuổi và ngây thơ như thế, mà lại chấm dứt cuộc đời quá ư bi thảm.

1 thuyết khác về cái chết của Câu Dặc phu nhân.

Câu Dặc còn quá trẻ, còn mình đã 66 tuổi, Vũ Đế sợ sau khi mình chết, Phất Lăng kế vị còn trẻ thơ thì Câu Dặc sẽ được nhiếp chính, thao túng triều cương. Cho nên Vũ Đế bắt Câu Dặc phải chọn: hoặc là hai mẹ con ra khỏi cung, hoặc tự sát để Phất Lăng lên làm Thái tử. Vì tương lai của con, Câu Dặc chịu chết

Chung Vô Diệm

Tóm tắt sơ lược:

Chung Vô Diệm (Hán tự: 鐘無艷, không rõ năm sinh năm mất) tên là Xuân, họ Chung Ly, người đất Vô Diệm (nay thuộc nay thuộc phía đông huyện Đông Bình tỉnh Sơn Đông). Thường gọi là Chung Ly Vô Diệm, bà là Vương hậu của Tuyên Vương Điền Tịch Cương nước Tề.

Chung Vô Diệm là người đàn bà nổi tiếng trong lịch sử, được mệnh danh là một trong Ngũ xú Trung Hoa. Sinh ra trán cao, mắt sâu, bụng dài, chân thô, mũi hếch, xương cổ lòi ra, cổ to, tóc thưa, bụng phệ, lưng gù, da đen đúa… (無艷, Vô Diệm trong tên bà có nghĩa là Không đẹp) Do dung mạo xấu xí, đến 40 tuổi vẫn chưa chọn được người chồng vừa ý. Bà ta tuy xấu nhưng thông minh tài trí hơn người, là nữ chính trị gia tài giỏi.

Giai thoại về Chung Vô Diệm

Một hôm Tuyên Vương đang uống rượu giữa bầy cung nga xinh đẹp, vui chơi ở Tiệm Đài. Chung vô Diệm xin vào yết kiến, tự xưng là người con gái không lấy được chồng của nước Tề, nghe nói Tề Vương là người hiền minh, xin vào hậu cung lo việc quét tước cho vua. Các cung nữ nghe xong bụm miệng cười, Tuyên Vương nghe tâu cũng tức cười nhưng vì lòng hiếu kỳ, ra lệnh cho vào yết kiến. Tuyên Vương hỏi: “Xú phụ! ngưoi sao không chịu ở yên nơi quê hương mà tự tiến tới vua phải chăng ngươi có tài nghệ cao kỳ?”. Vô Diệm đáp: “Không dám nói kỳ tài cao nghệ, chỉ học được thuật ẩn hình, xin vì đại vương hiến chút nghề mọn để giúp vui”. Nói xong liền ẩn mình, không ai thấy nữa. Hôm sau Triệu Vương lại triệu đến làm trò. Vô Diệm không nói, chỉ trừng mắt, cắn răng, giơ tay, vỗ gối… làm 4 động tác và kêu liên tiếp 4 tiếng “hiểm”. Tuyên Vương hỏi ý nghĩa ra sao? Vô Diệm nói rằng: “Nay nước Tề có sự uy hiếp của Tần ở phía Tây, Sở phía Nam, đó là nguy hiểm thứ nhất. Đại vương làm nhọc sức dân, hao tốn tiền của, lập Tiệm đài hoa lệ, đó là điều nguy hiểm thứ hai. Trong triều thì biếm ngưòi hiền, dùng kẻ nịnh, đó là điều nguy hiểm thứ ba. Đấng quân vương đam mê tửu sắc, không sửa sang chính trị trong nước, đó là điều nguy hiểm thứ tư. Thiếp trừng mắt vì đại vưong xét cái biến phong hoả, cắn răng là thay đại vương trừng trị cái miệng chống can gián, giơ tay là vì đại vưong đuổi kẻ bề tôi xàm nịnh, vỗ gối là xin đại vương dẹp bỏ cái đài ăn chơi.”

Tề Tuyên Vương nhận lời can gián, từ đó bỏ yến nhạc, phá Tiệm đài, trừ tôi nịnh, làm cho binh mã mạnh, kho lẫm đầy… lập Chung vô Diệm làm Vương hậu, và với sự phụ tá của bà, nước Tề trở nên cường thịnh. Trong thời Tề Tuyên vương tại vị, không có nước nào đến xâm phạm. Người sau viết rất nhiều truyện về nàng Chung Vô Diệm để ca ngợi tài năng, đức độ và sự dũng cảm của nàng. Tuy nhiên phần cuối truyện có thay đổi, thêm vào nội dung sau khi Chung Vô Diệm giúp vua trị vì thiên hạ thành công, cuối cùng đã hóa thành người đàn bà đẹp như tiên và coi Chung Vô Diệm là tiên nữ bị đày xuống trần giúp vua.

Đậu Hoàng hậu (Hiếu Văn thái hậu)

Đậu Hoàng hậu (trước 205 – 135 trước công nguyên) – Hoàng hậu của Hán Văn Đế

Đậu Hoàng hậu, người Quan Tân Thanh Hà (nay là đông bắc huyện Táo Cường tỉnh Hà Bắc) là hoàng hậu Hán Văn đế Lưu Hằng.

Đậu thị xuất thân hàn vi, cha bà chạy loạn đời Tần đến Quan Tân ở ẩn, câu cá để sống, không may ngã xuống sông mà chết, để lại ba con nhỏ. Thời Hán Sơ, triều đình đến Thanh Hà mộ cung nữ, Đậu thị tuổi nhỏ, ứng tuyển vào cung. Khi đó Lữ hậu nắm quyền, đưa Đậu thị đ ến nước Đại, làm cung nữ cho đ ại vương Lưu Hằng, sau được tiến làm vương phi. Đậu thị sinh được 2 trai là Lưu Khải và Lưu Vũ và một gái là Lưu Phiêu.

Phu nhân của đại vương mất sớm, 4 người con của bà cũng lần lượt chết theo. Đại vương xem Đậu thị là phu nhân.

Năm 180 trước công nguyên, đại vương Lưu Hằng lên ngôi là Hán Văn Đế, lập Đậu thị làm hoàng hậu, trưởng tử Lưu Khải làm thái tử, thứ tử Lưu Vũ làm Hòai Dương Vương.

Do Đậu thị xuất thân nghèo khổ, nên thông cảm với những cảnh khổ của nhân dân, thường khuyên Văn đế tiết kiệm, giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân. Trong Hán thư phần của “Hán Văn Đế” có viết “tức nhị thập tam niên, cung thất, uyển hựu, xa kị phục ngự vô sở tăng ích” ( ở ngôi 23 năm, cung thất, vườn hoa, xe ngựa, đồ ngự dụng không tăng thêm). Sau anh em của Đậu thị là Đậu Trưởng Quân và Đậu Quảng Quốc đến Trường An nhìn bà con, Hán Văn Đế gặp hai vị quốc cữu rất mừng, phân cho hai người nhà ở và ruộng đất không ít, lưu ở lại Trường An. Tể tướng Quán Anh và Chu Bột cho là hai vị quốc cữu xuất thân hàn vi, không có học hành tốt, nên chọn vị thầy có phẩm chất đạo đức dạy dỗ, để không rơi vào bánh xe cũ ngọai thích họ Lữ làm lọan. Trong Hán thư, phần “ Ngọai thích truyện” có viết: “Do thủ thối nhược quân tử, bất cảm dĩ phú quý kiêu nhân” ( do đó biết khiêm nhường bậc quân tử, không dám lấy sự giàu sang mà khinh người)

Năm 157 trước công nguyên ( năm thứ bảy Hán Văn Đế hậu nguyên), Lưu Khải được kế lập là Cảnh đế, tôn Đậu thị làm hòang thái hậu. Lúc đó, Đậu thái hậu hai mắt đã mờ, bà ham thích thuật Hòang Lão. Cảnh đế và anh em Đậu thị không thể không đọc” Lão thị” đề cao thuật Hòang Lão. Hòang Lão là chỉ Hòang đế và Lão Tử, đạo gia tôn Hòang Lão làm tổ, chủ trương “vô tri nhi trị” nên dùng chính sách rộng rãi (khoan chính) đối với dân chúng. Đậu thị trải qua hai triều đại Văn đế và Cảnh đê, sử gọi là “Văn Cảnh chỉ trị”, sự thịnh trị của đời Văn Cảnh và chính sách khoan dân theo thuật Hòang Lão có quan hệ rất lớn.

Đậu thái hậu chết năm 135 trước công nguyên ( năm thứ sáu Kiến nguyên Hán Vũ Đế) thọ khỏang 71 tuổi

Hoàng Phủ Phi Giao

Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân có bốn người con : Triệu Câu, Triệu Lân, Triệu Phượng và Mạnh Phi Giao, từ khi còn ở phủ Hoàng Phủ Phi Giao đã bộc lộ bản tính muốn cai trị cả thiên hạ, nàng thường mơ ước mình có thể giống như Võ Tắc Thiên nên thạo bức chân dung của Võ Mỹ Nương mà ngắm nhìn và tôn vinh. Thái Thượng Hoàng của Minh triều muốn ẩn dật tu hành nên truyền ngôi lại cho con trai của ông là Anh Tôn lập hữu hậu là Hùng Ngọc Dung con gái của Hùng Hữu Hạo cũng là chỗ thâm tình của Hoàng Phủ Thiếu Hoa, Thái Thượng Hoàng còn truyền thánh chỉ lập Phi Giao làm hữu hậu điều này càng làm cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa lo sợ vì bản tính của Phi Giao nhưng cũng đành chấp nhận vì ko thể nào kháng chỉ.

Từ khi Phi Giao nhập cung, Anh Tôn đã mê mẩn tâm hồn trước sắc đẹp của Phi Giao, Phi Giao vì muốn loại bỏ Hùng Ngọc Dung nên đã lập mưu sai Đồ Mang Hưng Phục và Thái giám Mã Thuận vu khống cho Hùng Hữu Hạo tội mưu phản. Anh Tôn nghe theo lời Phi Giao xử tội chết cả nhà Hùng Hữu Hạo, còn phần Ngọc Dung vì đang mang thai nên bị xử giam vào lãnh cung chờ ngày sanh nở và truyền lệnh cho Bình Bộ Thượng Thơ hạ sắc chỉ phong cho Phi Giao làm Chiêu Vương Hoàng Hậu được quyền nhiếp chính giữa triều đình.

Ngay lúc đem Hùng Hữu Hạo ra pháp trường thì cả nhà Hoàng Phủ đến giải cứu, Hoàng Phủ Thiếu Hoa quyết định lên thâm sơn tìm Thái Thượng Hoàng mời Ngài về trừng trị Phi Giao, Hùng Hữu Hạo cùng lên đường với Thiếu Hoa. Về phần Ngọc Dung sinh được Hoàng tử, Triệu Lân không ngại khó khăn đến lãnh cung mang Hoàng tử về gởi cho chị dâu của mình nuôi dưỡng, Phi Giao thấy mẹ cứ chống lại ý nàng nên dựa vào chức quyền đã truyền thánh chỉ phong toả cung Nam Thanh giam Mẹ và Hoàng Thái Hậu. Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Hùng Hữu Hạo sau 1 thời gian dài đã tìm được Thái Thượng Hoàng, ngài đồng ý trở về triều để xử tội. Triệu Lân sau 1 đêm trằn trọc tìm mưu kế truất phế Phi Giao thì từ tóc xanh trở nên đầu bạc, và đã tìm được kế vẹn toàn đưa Đồ Mang Hưng Phục lên làm vua nhằm tạo sự bất hòa sau đó thỉnh Thái Thượng Hoàng đăng điện để xử án. Hùng Ngọc Dung gặp lại Hoàng Tử sau nhiều năm xa cách mẫu tử tương phùng, Đồ Mang Hưng Phục và Mã Thuận bị xử tội chết, Anh Tôn đau khổ khi Thái Thượng Hoàng bắt buộc chính Anh Tôn phải hạ chỉ xử Phi Giao tội chết, Phi Giao bị xử bá đao trảm quyết nhưng vì bá quan văn võ quỳ xin tội nên Thái Thượng Hoàng giảm án xử Phi Giao tam ban triều điển, nhà Hoàng Phủ khóc tiễn con nhưng cũng đành phải chịu vì luật nước không thể nào chống lại.

Khách Thị

Vua Minh Hi Tông hiệu Thiên Khải với nhũ mẫu Khách thị được coi là mối tình điên loạn trong lịch sử Trung Quốc. Lịch sử chép lại: Khách thị và Thiên Khải Đế Châu Do Hiệu đã có quan hệ tình dục với nhau. khi Hy Tông lên ngôi năm 15 tuổi, phong Khách thị làm Phụng thánh phu nhân Trong cung triều Minh, Khách thị là người dâm loạn nổi tiếng, làm sao có thể bỏ qua vị hoàng đế trẻ trung? Quan hệ giữa Khách thị và Thiên Khải Đế khác hẳn mối quan hệ giữa nhũ mẫu và con nuôi.

Thường thì khi thái tử đã trưởng thành, chức trách của nhũ mẫu cũng hết, không nhất thiết phải sớm tối gặp gỡ tiếp xúc. Nhưng đối với Khách thị, mọi chuyện lại không diễn ra như thế. Lịch sử ghi chép rằng: Sáng sớm mỗi ngày Khách thị bước vào gian lò sưởi cung Càn Thanh, nơi tẩm cung của Thiên Khải Đế, hầu hạ Thiên Khải Đế cho tới nửa đêm mới về cung. Nếu giải thích chuyện này vì Khách thị xuất phát tình yêu thương với Thiên Khải Đế như mẹ yêu con, thì trong mối tình bất chính sau này của Khách thị với Ngụy Trung Hiền, vì cớ gì mà Khách thị đã không còn quan tâm tới Thiên Khải Đế. Thậm chí, trong lần ăn uống vui vẻ ở hồ Thái Dịch, Khách thị và Ngụy Trung Hiền quyến luyến không rời, Thiên Khải Đế trèo cây bắt chim ngã lộn cổ, quần áo rách toạc, máu chảy đầy mặt, Khách thị không hề xót thương, vẫn cười đùa vui vẻ với tình lang, Khách thị còn cấu kết với Ngụy Trung Hiền khống chế các thế lực trong triều

Khách thị xinh đẹp lẳng lơ, đứng trước mặt Thiên Khải Đế chưa bao giờ tự coi mình là nhũ mẫu, mà chỉ là người đàn bà và giống hệt như kẻ cầu xin sủng ái. Lịch sử ghi chép: Khách thị khi đã trên 40 tuổi, sắc mặt vẫn đẹp như mỹ nhân 28. Sắc đẹp và vẻ lẳng lơ của Khách thị đã làm cho mọi người sửng sốt, ngay đến các cung tần, tần phi trẻ cũng không thể sánh kịp. Để bảo vệ vẻ đẹp, đương thời Khách thị luôn dùng nước bọt các cung nữ trẻ để chải tóc, đảm bảo sự đen bóng của mái tóc. Mái tóc đẹp như mây đã tôn thêm vẻ xinh đẹp tha thướt của thiếu nữ.

Làm nhũ mẫu của Thiên Khải Đế, Khách thị tranh giành ghen tuông bóng gió, hại chết mấy tần phi từng được Thiên Khải Đế gần gũi.Minh Quang Tôn tuyển được một người phi là Triệu Thị. Người này có chút xích mích với Khách Thị, bà ta bèn giả thánh chỉ buộc Triệu Thị phải thắt cổ tự vẫn. Nhưng,đáng thương nhất là Trương Dụ phi. Trương Dụ phi có thai với Thiên Khải Đế, khi sắp đẻ, Khách thị hạ lệnh không cấp thức ăn đồ uống cho Trương Dụ phi, không cho người đến đỡ đẻ. Trong đêm mưa bão điên cuồng, Trương Dụ phi đói khát không chịu nổi, lê thân thể nặng nề khó nhọc trèo lên mái nhà hứng nước mưa uống cho đỡ khát, tủi thân gào khóc và qua đời trong cơn đói hành hạ. Ngoài Trương Dụ, còn có ba hoàng tử, hai hoàng nữ vì sự bức hại của Khách thị mà chết yểu vô tội. Tổng số cung nữ được hoàng đế sủng hạnh hoặc mang thai bị Khách thị giết hại không thể đếm được chính xác.

Trương Hoàng hậu rất ghét Khách Thị nên lựa lời khuyên Hy Tôn đừng nghe lời bà ta trừng phạt người ngay, nhưng ông ta không nghe. Khách Thị mua chuộc được một cung nữ trong cung Càn Ninh để ra tay hại Hoàng hậu. Khi đó Trương Hoàng hậu đang có mang, thường mỏi lưng nên sai cung nữ bóp lưng. Cung nữ đã ra tay khiến bà bị sảy thai. Chỉ vì dung túng cho Khách Thị làm hại những phụ nữ trong cung mà Minh Hy Tôn đã chịu họa tuyệt tự.

Vương Kiều Loan

Kiều Loan là một người rất thông minh, lại được cha mẹ nuông chiều cho nên từ nhỏ đã thông kinh bác sử, văn hay chữ tốt. Nếu là con trai thì đã chiếm được bảng vàng, phò vua giúp nước, danh tiếng lưu truyền thiên thu.

Chỉ trách chuyện tìn duyên của nàng lại lắm bi ai. Lúc đầu, từ việc viết thư cho nhau, nàng và Chu Đình Chương ngày càng hiểu thêm về nhau rồi tình càm đôi bên bắt đầu nảy sinh. Trong phủ họ Vương, lại có thêm Tào Di như người “bắc cầu” cho cả hai nên tình duyên ngày càng sâu đậm. Chu Đình Chương lúc đầu là một người phong lưu nho nhã, có tài thi phú, ĐC và KL quả là một đôi trai tài gái sắc. Nhưng từ sau khi về quê, được Chu tư giáo sắp đặt hôn lể với Ngụy Đồng tiểu thư thì ĐC đã quên hẳn lời thề xưa với KL. KL vẫn đêm ngày mong mỏi, viết thư cho ĐC nhưng không bao giờ được hồi âm. Khi biết được sự thực ĐC phụ bạc mình, KL vô cùng thất vọng và không còn thiết sống nữa. Trước khi tự tử, nàng gom tất cả các thư từ xướng họa với Đình Chương. thêm vào đó những dòng chữ thề nguyền và thiên Trường hận đóng vào một tập, cho vào bao công văn gửi đến vệ quân Ngô Giang nhờ bắt một tên quân tại đào. Trên phong thư đề “Nam Dương vệ chưởng ấn Vương Thiên hộ kính gửi chức lệ Tô Châu phủ, Ngô Giang huyện, huyện lệnh đại nhân”.

Phàm Công đọc tất cả thơ từ và thiên Trường hận, lòng tấm tắc ngợi khen tài năng của Kiều Loan và trách Đình Chương là một tên bạc tình, bèn cho người đi bắt Đình Chương đến. Lúc đầu ĐC chối cãi nhưng lúc sau khi thấy những tập thơ ấy thì bèn nhận tội. Phàm Công sa lính đánh ĐC đến tan xương nát thịt

Từ Hi thái hậu (Lan Nhi)

Thái hậu Từ Hi (1835 – 1908) là người nắm quyền lực thực tế của triều đình Thanh mạt trong hơn 40 năm. Bà cùng với Võ Tắc Thiên được xem như là hai người phụ nữ nắm quyền lực cao nhất của đế quốc Trung Hoa, vốn có tư tưởng kỳ thị phụ nữ nặng nề (trọng nam khinh nữ), trong một thời gian dài.

*Xuất thân

Bà xuất thân từ bộ tộc Mãn Châu Yenonala (Diệc Hách Na Lạp thị), mới đầu chỉ là một cung tần, nhờ hát hay, khéo nịnh được Hàm Phong yêu, được phong đến chức Lan Quý nhân. Năm 1856, bà sinh một trai, về sau là Hoàng đế Đồng Trị (trị vì 1861 – 1875), từ đó càng được sủng ái.

Nhờ trí thông minh, lại có tính cách mạnh mẽ, bà dần can thiệp vào chuyện triều chính, từ đó sinh ra hách dịch, độc tài. Tương truyền vua Hàm Phong biết trước rằng sau này bà sẽ là một tai họa cho nhà Thanh nên trước khi chết đã để lại di chúc bảo phải giết đi, nhưng viên thái giám Lý Liên Anh cho bà hay rồi hủy di chúc này, giúp đỡ bà đưa Đồng Trị lên ngôi. Lý Liên Anh từ đó thành sủng thần của Từ Hi, tham ô, làm loạn trong cung.

*Làm Phụ chính lần thứ nhất

Sau khi Hoàng đế Hàm Phong qua đời, Hoàng hậu Từ An và Lan Quý nhân được triều đình tôn xưng là Từ An Thái hậu và Từ Hi Thái hậu, và quyết định để cho hai bà làm “thùy liêm thính chính” (rủ mành mành mà nghe việc nước), nghĩa là cùng Phụ chính cho Hoàng đế Đồng Trị còn nhỏ tuổi. Hai đại thần Cung Thân Vương và Văn Tường đều là người có năng lực, giúp ý kiến hai bà.

Thái hậu Từ An ít học nhưng đôn hậu, có phẩm cách. Từ Hi học khá hơn, đọc viết được chữ Hán, thông minh, lanh lợi, rất có bản lĩnh, nhưng cũng có nhiều tật: ham quyền thế, dâm dật, xa xỉ, muốn đạt mục đích đến cùng. Bà cũng có tính tình bất thường, lúc thì hiền, rộng lượng, lúc thì tàn nhẫn vô cùng. Do đó dần dần Từ Hi lấn Từ An, quyết định mọi việc. Từ An hiền hậu, nhượng bộ nhiều lần. Năm 1872, Đồng Trị 18 tuổi, hai Thái hậu dự định cưới vợ cho Đồng Trị rồi sẽ thôi thính chính nữa.

Từ An là vợ chính thức của Hàm Phong, vốn không có con, nhưng theo phong tục Trung Hoa, Đồng Trị vẫn đối đãi với bà như là mẹ cả. Đồng Trị lại không ưa mẹ đẻ mà quý Thái hậu Từ An. Do đó mà Từ Hi ghét cả Đồng Trị lẫn Từ An. Tính cách bà lại ham quyền lực, vì vậy tự ý quyết định mọi việc, lũng đoạn cả triều đình. Đồng Trị sinh chán nản, bỏ bê triều chính, thường cùng với một vài hoạn quan ban đêm trốn ra khỏi cấm thành, đi chơi phố phường, có lần về trễ, không kịp buổi triều. Hai năm sau ông chết, sử chép là do bệnh đậu, nhưng dân gian đều cho là do bệnh hoa liễu.

Do Đồng Trị không có con, Từ Hi tìm một đứa cháu trong hoàng tộc, mới bốn tuổi, em con chú của Đồng Trị, đưa lên ngôi, lấy hiệu là Quang Tự. Cũng trong thời gian này, Thái hậu Từ An đã chết một cách bí ẩn, không một người nào hay. Tương truyền bà đã bị Từ Hi đầu độc chỉ vì bắt gặp một nhà sư trong phòng ngủ của Từ Hi. Có thuyết cho rằng, vì Từ Hy biết rằng Thái Hậu Từ An có trong tay một Di Chiếu của Hàm Phong Hoàng Đế là có thể trút phế Từ Hy bất cứ lúc nào nên Từ Hy đã ra lệnh giết Từ An. Từ Hy đã bỏ thuốc độc vào thức ăn của Từ An để bà trúng độc mà chết. Cái Di Chiếu đó chỉ có Từ An và Cung Thân Vương biết.

Quang Tự còn nhỏ tuổi bị Từ Hi quản thúc chặt chẽ quá, hóa ra khiếp nhược. Kể từ khi lên ngôi vua lúc 5 tuổi, không một người nào – ngay cả mẹ nữa – được phép lại gần, trừ mỗi một người là Từ Hi. Từ Hi “luyện vua” cho tới mức sợ bà như sợ cọp, bảo gì cũng phải nghe. Lớn lên vua Quang Tự mỗi ngày phải vào vấn an bà một lần, mà vấn an thì phải quỳ, cho phép đứng dậy mới đứng.

Thái giám Lý Liên Anh, sủng thần của Từ Hi, cũng ăn hiếp Quang Tự, đối xử vô cùng tàn nhẫn. Xuất thân là kép hát, rất đẹp trai, hát rất hay, được Từ Hi sủng ái, tới mức ông nói gì, bà ta cũng nghe, ông ta tự phụ, tự coi là ngang với bà. Đình thần sợ ông như sợ bà vậy. Hoàng đế Quang Tự cũng phải nhẫn nhịn Lý nhiều lần. Sau vụ Mậu Tuất chính biến, Quang Tự bị giam trong một phòng bẩn thỉu, ăn không được no, mặc không đủ ấm, chịu nhục nhã tới khi chết, một phần cũng là do ý của Lý.

*Cuộc vận động tự cường (1862 – 1882)

Trước chiến tranh nha phiến, Mãn Thanh tự hào là Thiên triều, xem thường các nước Tây phương là ngoại di. Sau khi liên quân Anh–Pháp tới Bắc Kinh, buộc phải ký điều ước nhục nhã với họ, nhà Thanh mới chịu nhận rằng bọn ngoại di đó mạnh hơn mình nhiều, và muốn chống cự với họ thì phải có tàu bè như họ, súng ống như họ, quân đội phải luyện tập theo lối của họ. Vài người Mãn như Cung Thân Vương, Quế Lương nghĩ đến việc tự cường, bàn với Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương, Tả Tôn Đường. Họ đồng ý với nhau rằng “muốn tự cường thì việc luyện binh là quan trọng nhất, mà muốn luyện binh thì trước hết phải chế tạo vũ khí giới”. Năm 1862, họ giao cho Lý Hồng Chương thi hành.

Tăng Quốc Phiên và Lý Hồng Chương tiếp xúc với Ung Wing, một sinh viên nghèo ở Ma Cao và là du học sinh đầu tiên ở Mỹ, do một hội truyền giáo trợ cấp, năm 1854 đậu bằng cấp Đại học Yale. Tăng Quốc Phiên phái Ung Wing qua Mỹ mua máy. Ông này thuyết phục Tăng Quốc Phiên gởi 120 thanh niên đi du học. Một số lớn qua Mỹ, ba chục người sang Anh, ba chục qua Pháp, một số nhỏ qua Đức.

Phong trào tự cường tiến chậm, chủ yếu là nhắm vào quốc phòng mà thôi, chưa phải là một cuộc cải cách lớn. Nhưng nhóm thủ cựu nổi lên phản đối, cho Lý Hồng Chương là Hán gian, theo Tây phương, làm cho Trung Quốc hóa ra di địch. Họ họp thành một phe không bao giờ bàn tới học thuật Tây phương, tự cho mình là thanh cao. Dân chúng thì đại đa số vẫn cày cấy để kiếm cơm ăn, việc nước không hề biết tới. Có một người sáng suốt là Wong Tao học giỏi chữ Hán, ngoài hai chục tuổi, trong khoảng từ 1840 đến 1860 giúp việc cho nhà in của một hội truyền giáo Anh ở Thượng Hải. Bị nghi ngờ là tiếp xúc với Thái Bình Thiên quốc, ông phải trốn qua cử nhân, giúp dịch Tứ Thư và Ngũ Kinh rồi qua ở Scotland hai năm.

Khi trở về Hồng Kông, Wong Tao xuât bản một nhật báo riêng, sau hợp tác với một tờ báo của người Anh ở Thượng Hải nữa (1872). Ông cảnh cáo nhà cầm quyền rằng công cuộc tự cường không có kết quả được vì chỉ trị ngọn chứ không trị gốc. Phải thay đổi cả chế độ mới được. Nhưng triều đình Thanh thì vẫn không chấp nhận.

*Chính biến Mậu Tuất (1898)

Sau vụ Trung Nhật chiến tranh, thấy một nước lớn như Trung Quốc mà bị một nước nhỏ xưa nay mình vẫn khinh khi là Nhật Bản đánh thua, người Trung Hoa nhận ra rằng công cuộc tự cường hơn hai chục năm không có kết quả gì cả, vũ khí không đủ để cứu nước, phải cải cách từ gốc, thay đổi chế độ, như Wang Tao đã cảnh cáo thì mới được. Họ cổ vũ canh tân chính trị, tổ chức lại điều đình, giảm phung phí trong xã hội, bỏ hệ thống khoa cử cũ, tuyển nhân tài theo cách mới… Do đó mà có cuộc vận động duy tân (đổi mới) khắp trong nước.

Hai người đề xướng là Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, đưa ra khẩu hiệu là “toàn biến, tốc biến” (thay đổi triệt để và mau). Lương Khải Siêu làm đại biểu cho một nhóm 190 cử nhân Quảng Đông lên kinh thi, dâng thư lên triều đình bàn về thời cuộc. Khang Hữu Vi cùng nhóm 3.000 cử nhân khác dâng thư xin biến pháp. Rồi hai nhóm họp làm một. Kể từ thế kỷ 12 đời Nam Tống (trên bảy thế kỷ), bây giờ mới lại thấy một phong trào học sinh dâng thỉnh nguyện lên vua. Lần này, thỉnh nguyện của nhóm Khang, Lương không được chấp nhận.

Năm 1896, Khang Hữu Vi lần nữa dâng thư xin biến pháp. Lần này ông đạt được đến Quang Tự nhờ một vị đại thần, thầy học cũ của Quang Tự.

Quang Tự lúc này đã thực sự cầm quyền (từ năm 1889); Thái hậu Từ Hi lui về nghỉ ở Di Hòa viên, dĩ nhiên vẫn theo dõi hành động của ông. Ông tuy e sợ “Phật bà” – Từ Hi – nhưng sáng suốt, nhiệt tâm muốn cứu Trung Quốc, cho mời Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu lên kinh bàn việc nước. Ông tiếp Khang, Lương suốt một buổi, phong cho họ chức tước để cùng mưu việc biến pháp.

Đề nghị nào họ đưa ra Quang Tự cũng chấp nhận hết: cải cách việc triều đình cho mới mẻ, bỏ lối văn bát cổ trong các khoa thi mà lấy môn luận về thời vụ thay vào, lập học hiệu, khuyến khích kẻ viết sách mới và kẻ chế khí cụ mới, bỏ những nha thự ít việc, luyện tập quân đội theo lối mới, trù lập ngân hàng, làm đường xe lửa, khai mỏ, mở nông và công nghiệp, lập hội buôn, mỏ rộng đường ngôn luận, cầu nhân tài… Trong khoảng chưa đầy ba tháng, hơn một trăm đạo chiếu được ban ra, làm cho cả trong triều lẫn ngoài tỉnh xôn xao. Đúng là “toàn biến” và “tốc biến”.

Khang Hữu Vi biết rằng nhóm cựu thần tất phản đối, nên khuyên vua đừng vội bỏ hết các nha môn, mà giữ họ lại, phong đất cho họ để không mất lộc. Nhưng vị “Phật bà” ở Di Hòa Viên hay biết, có ác cảm với biến pháp. Bà bổ nhiệm một người cùng phe bà là Vinh Lộc, tổng đốc Trực Lệ, chỉ huy quân đội ở thủ đô để củng cố thế lực của bà. Vua Quang Tự cương quyết, bảo: “Không cho ra biến pháp thì giết ta còn hơn”.

Đàm Tự Đồng thấy Từ Hi cản trở công cuộc đổi mới, khuyên Quang Tự đoạt lại chính quyền. Quang Tự nghe lời, triệu Viên Thế Khải, (học trò của Lý Hồng Chương trong việc đào tạo quân đội) lúc đó đang thống lĩnh 7.000 quân tâm phúc, về Bắc Kinh bàn việc, có ý dùng quân của Viên để bao vây Di Hòa Viên.

Chẳng may việc đó bị tiết lộ (chính Viên phản vua, vì thấy Từ Hi còn mạnh). Từ Hi hay được, vội vàng từ Di Hòa Viên trở về Bắc Kinh, họp Quang Tự và các đại thần lại, bắt Quang Tự quỳ một bên, các đại thần quỳ một bên, trừng mắt, lớn tiếng mắng Quang Tự một cách tàn nhẫn: “Thiên hạ này là thiên hạ của tổ tiên, mày sao dám tự ý làm bậy? Các quan đây đều do tao tuyển dụng trong nhiều năm để họ giúp mày, mày sao dám tự ý không dùng người ta?…” Rồi bà quay sang phía các đại thần mắng là bất lực, không tận tâm với quốc sự…

*Làm Phụ chính lần thứ hai

Sau cùng, năm 1889, Từ Hi tuyên bố rằng Quang Tự đau, bà phải thính chính trở lại, và đem giam Quang Tự ở Doanh Đài, trong hồ Tây Uyển. Vậy là cuộc biến pháp thành cuộc chính biến.

Bà ban lệnh cấm dân dâng thư, phế bỏ cục Quan Báo, đình chỉ việc lập học hiệu trung, tiểu ở các tỉnh, các huyện; dùng lại lối văn tám vế để lựa kẻ sĩ, bỏ khoa thi đặc biệt về kinh tế; bỏ các tổng cục nông công, thương, cấm báo quản, truy nã chủ bút, cấm hội họp, dùng lại các vũ khí cung đao…; tóm lại là chỉ trong một hai tuần toàn hủy, tốc hủy các canh tân của Quang Tự. Sử gọi vụ đó là “Chính biến Mậu Tuất” (1898); cũng gọi là vụ “Duy tân 100 ngày”.

Khang Hữu Vi hay tin trước, bỏ trốn. Lương Khải Siêu, sau khi việc xảy ra, mới trốn qua Nhật. Đàm Tự Đồng không chịu trốn, muốn lấy máu mình nuôi cách mạng, nên bị giết với năm người nữa: Khang Quảng Nhân, (em Khang Hữu Vi) Lưu Quang Đệ, Lâm Húc, Dương Nhuệ, Dương Thâm Tú.

Khang Hữu Vi ở Nhật lập đảng Bảo hoàng mong lật đổ Từ Hi, phò trợ Quang Tự lên cầm quyền; Lương Khai Siêu xuất bản tờ báo Thanh Nghị mạt sát Từ Hi.

Từ Hi xin Anh, Nhật giao Khang Hữu Vi và Lương Khai Siêu cho bà, nhưng họ không nghe, còn bảo vệ cho hai người mà họ coi là phạm nhân chính trị. Từ Hi còn muốn bắt Quang Tự thoái vị để đưa một người khác lên, sai người cho dò ý công sứ các nước, họ đều phản đối. Hoa kiều ở hải ngoại đánh điện về ủng hộ Quang Tự, Từ Hi càng ghét ngoại nhân đã mớm cho Trung Hoa những ý tưởng phản động: hiến pháp, dân chủ…

Thái giám Liên Anh rất ghét nhóm Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu mà Quang Tự trông cậy để đổi mới Trung Quốc. Cũng chính Lý Liên Anh khuyên Từ Hi dùng quyền phỉ để diệt người da trắng, do đó mà liên quân tám nước (Bát Quốc Liên Quân) vào phá Bắc Kinh. Chính vì sự tấn công này mà triều đình nhà Thanh phải ký hòa ước Tân Sửu nhục nhã với liệt cường năm 1901.

*Dự bị lập hiến (1902 – 1908)

Sau hòa ước nhục nhã Tân Sửu (1901), Từ Hi bị dân chúng vạch tội, muốn mua chuộc lại lòng dân, mới chỉnh sửa đổi chính sách, bao nhiêu sắc lệnh biến pháp của Quang Tự mà năm 1898, bà hủy bỏ thì bây giờ thực hiện hết, lại lập nhiều cơ quan mới như hội nghị chính vụ xứ, thượng bộ, học bộ, luyện tân quân, chấn hưng công, thương.

Khanh Hữu Vi ghét Từ Hi nhưng vẫn chưa oán người Thanh, lập Đảng Bảo hoàng, hy vọng nơi Quang Tự, nhưng tư tưởng ông hơi thay đổi, đòi quân chủ lập hiến; Lương Khải Siêu cũng hậu thuẫn ông.

Năm 1905, dân Trung Hoa thấy Nhật theo chế độ quân chủ lập hiến mà mạnh, thắng được Nga theo chế độ quân chủ chuyên chế, nên càng tin ở chế độ lập hiến, và đòi Thanh đình phải lập hiến, chứ chỉ sửa đổi chính sách (Thanh đình gọi là Tân Chính: Chính sách mới) chỉ duy tân thì không đủ. Ngay một số đại thần Hán trung với Thanh như Trương Chi Động, Viên Thế Khải cũng chủ trương lập hiến. Phong trào lập hiến sôi nổi trong nước.

Từ Hi bất đắc dĩ phải phái năm đại thần đi Nhật, Anh, Đức để khảo sát chế độ lập hiến của ba quốc gia đó.

Năm sau, họ trở về đều chủ trương lập hiến. Từ Hi xuống dụ: “Trước hết cải cách quan chế rồi đến chính trị, khiến sĩ dân hiểu rõ quốc chính để dự bị cơ sở cho việc lập hiến, vài năm sau, xét lại tình hình, xem tiến bộ mau chóng mà định kỳ hạn xa gần.”

Rồi triều đình sửa đổi quan chế: đặt ra Tư chính viện ở kinh sư, Tư nghị cuộc ở các tỉnh để làm cơ sở cho Quốc hội và Tỉnh nghị hội, lập thẩm kê viện, thẩm phán sảnh, ban bố Hình luật mới…, nhưng một số biện pháp không thực hành được, có danh mà không thực.

Triều đình lại hạ chiếu lập một nội các mới bề ngoài có vẻ tiến bộ mà sự thực chỉ là để phá nguyên tắc Mãn và Hán ngang nhau, vì trong số 12 thượng thư chỉ có 4 người Hán, 1 người Mãn, 2 thị lang Mãn, 2 thị lang Hán), còn 8 người kia là Mãn, mà 5 người là hoàng tộc; vì vậy người Trung Hoa gọi nội các đó là nội các hoàng tộc.

Sau cùng, năm 1908, triều đình ban bố Hiến pháp đại cương gồm 15 điều mà điều số 1 là: Hoàng đế Đại Thanh thống trị Đế quốc Đại Thanh, nối tiếp nhau tới vạn đời, và điều số 2 là: Hoàng đế tôn nghiêm như thần, thánh, bất khả xâm phạm. Nội dung là quyền vua rất lớn, quyền dân rất ít, nghị viện chỉ là một cơ quan tư vấn. Họ dự bị 9 năm sau mới hoàn thành hiến pháp. Có ý kiến nghi ngờ thực tâm muốn lập hiến theo đường lối dân chủ.

Trong năm đó, sau khi ban bố Hiến pháp đại cương thì Quang Tự chết trước rồi Từ Hi chết sau, chỉ cách nhau có mấy giờ. Dân chúng ngờ rằng Từ Hi biết mình sắp chết, không muốn cho Quang Tự sống nên đầu độc Quang Tự.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mỹ nhân Trung Hoa

Phong thủy rồng –

Rồng là con vật đứng đầu trong “tứ linh”. Nó vừa tượng trưng cho quyền uy, vừa tượng trưng cho phú quý cát tường. Vì vậy việc bài trí hình rồng trong văn phòng có thể sinh vượng khí và chế ngự sát khí. 1. Vị trí đặt đồ trang trí Khi chọn đồ trang trí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rồng là con vật đứng đầu trong “tứ linh”. Nó vừa tượng trưng cho quyền uy, vừa tượng trưng cho phú quý cát tường. Vì vậy việc bài trí hình rồng trong văn phòng có thể sinh vượng khí và chế ngự sát khí.

1. Vị trí đặt đồ trang trí

1301889671-rong-1

Khi chọn đồ trang trí là hình con rồng thì nên đặt cạnh nước vì rồng gặp nước sẽ thể hiện được sự dũng mãnh thần kỳ của rồng, nước sẽ phát huy tối đa được những năng lượng của rồng. Từ đó sẽ mang đến điềm lành cho công ty. Có thể để đồ trang trí hình rồng trên bể cá hoặc hai bên bể cá, như vậy sẽ có tác dụng sinh tài lộc.

Rồng không được để tùy tiện để tránh hiệu ứng ngược. Không nên để rồng nơi khô ráo vì nó giống cảnh tượng “rồng bơi nước cạn gặp tôm đùa”. Điều này có thể mang đến những khó khăn, bất lợi trong việc làm ăn của công ty.

2. Hướng đặt hình rồng

Khi đặt đồ trang trí hình rồng thì nên để đầu rồng hướng ra sông hoặc ra biển. Tuy nhiên, nếu văn phòng cách xa sông, biển thì rất khó để thu được vượng khí. Trong trường hợp này nên đặt một đôi rồng đá màu đen hoặc xám trên khung cửa sổ trên gác cao, đầu cũng hướng ra biển hoặc sông. Như vậy là “song long xuất hải” có thể sinh vượng và mang đến nhiều may mắn cho văn phòng.

1301889671-rong-5

Nếu trong và ngoài văn phòng đều không có nước, thì có thể đặt hình rồng hướng về phương Bắc. Vì phương Bắc thuộc Thủy, là hướng có Thủy khí tương đối vượng, rất thích hợp đối với loài rồng vốn ưa nước.

3. Nơi kỵ đặt hình rồng

Nếu trước văn phòng có rãnh nước bẩn thì không nên đặt đồ trang trí hình rồng, vì nó sẽ khiến cho con rồng bị bám bẩn, khiến cho nhân viên trong công ty hay ốm đau, bệnh tật.

4. Tuổi kỵ đặt hình rồng

1301889671-rong-3

Rồng tuy là con vật cát tường nhưng vì nó là loài mãnh thú có khả năng khắc chế mạnh nên rất không có lợi cho những người tuổi Tuất. Vì vậy, những người đứng đầu văn phòng hay công ty là tuổi Tuất thì không nên bài trí hình con rồng.

5. Lưu ý khi treo tranh hình rồng trong văn phòng

1301889671-rong-4

Có rất nhiều đồ vật bài trí mang hình rồng, tuy nhiên khi lựa chọn treo tranh hình rồng thì nên lồng trong khung kính, viền có màu vàng kim và treo hướng Bắc.

Nếu là bức tranh có chín rồng thì trong đó phải có một con làm đầu đàn . Nếu không chúng sẽ trở thành rồng mất đầu, gây ra nhiều điều tai tiếng, thị phi, mang lại những điều không may mắn cho công ty.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy rồng –

Cách hóa giải dầm nhà –

Xà nhà thường xuất hiện trong những ngôi nhà cấp 4 trước đây với vật liệu chủ yếu là gỗ nâng đỡ mái nhà. Trong thiết kế hiện đại, ngay cả nhà phố hay chung cư hiện nay cũng rất cần các dầm trụ bằng bê tông đảm bảo kết cấu cho ngôi nhà. Tuy nhiên, the

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

o phong thuỷ xà nhà lại mang ý nghĩa xấu, nếu trần nhà càng thấp thì càng nguy hiểm vì chúng có thể gây ra sự ngột ngạt khi xuất hiện phía trên giường ngủ, bếp, ban thờ hoặc bàn làm việc và ức chế nguyên khí của người đang sinh hoạt dưới chúng, vì vậy cần tạo sự cân đối, hoá giải để có một không gian sống trọn vẹn.

phong-thuy-chung-cu

Những ảnh hưởng của xà nhà đến sinh hoạt của gia đình có thể kể tới như sau:

– Nếu xà nhà phía trên bàn ăn hay bếp lò có thể ngăn chặn vận may của gia đình, đồng thời áp lực của xà nhà sẽ khiến cho người nấu bếp bị hạn chế sự sáng tạo. Vấn đề tiền bạc của gia chủ thường bị khó khăn và eo hẹp. Sinh khí từ bên ngoài vào bếp và sinh khí từ các lò nấu tạo ra sẽ bị các cây xà ngang hay dọc của mái nhà ở trên phát sinh ra những áp lực rất nặng đè nén sinh khí trong bếp không luân lưu được một cách thoải mái.

– Nếu chúng ở phía trên bàn làm việc, chúng có thể cản trở tiến trình sáng tạo của người ngồi làm việc và thậm chí đem đến cảm giác chán chường thất vọng.

– Xà trong phòng ngủ có thể gây ra một số vấn đề tùy theo vị trí của nó. Thí dụ xà trên đầu giường có thể làm cho nhức đầu, đôi khi có cả buồn ôn, và ở vùng bụng có thể bị về bộ máy tiêu hóa, còn xà trên vùng chân thuờng làm trở ngại cho những động lực về di chuyển trong đời sống.

– Xà nhà đè bàn thờ thì cơ hội tài lộc khó đến nhà. Thông thường, nếu tình huống này xảy ra thì tài vận trong nhà khó ổn định. Sức khỏe của các thành viên bị ảnh hưởng xấu. Toàn gia khó đón được quý nhân phù trợ. Nghiêm trọng hơn khi sao Thái Tuế chiếu vào, người trong nhà sẽ gặp tai nạn khôn lường.

Để hoá giải điều xấu và tăng thêm tính thẩm mỹ cho căn phòng, bạn có thể sử dụng một trong những cách sau đây:

– Sử dụng trần giả lót dưới lớp xà, cách này khá tiện dụng nếu trần nhà tương đối cao.

– Sơn màu xà nhà thành màu sáng, kỵ màu tối sẽ làm cho sát khí thêm lớn

– Nếu giường ngủ, bàn làm việc hay lò bếp không dời chỗ được bên dưới xà, thì các chữa là treo hai cái sáo tre, cột trên sáo hai mảnh lụa đỏ để tạo dáng hình bát quái với xà đó và giúp cho khí dễ vận chuyển bên dưới khu đó.

– Dùng các bóng đèn tròn lắp dưới xà, ánh sáng của đèn phát sinh dương khí làm giảm sát khí giáng xuống của xà. Ngoài ra, một cách dùng đèn khác là sử dụng đèn hắt ngược ánh sáng lên trên xà nhà, tạo cảm giác chúng như được nâng lên cao.

– Treo các vật trang trí nhỏ, màu sáng lên xà nhà cũng sẽ làm các cây xà sáng lên. Đừng treo vật nặng, lớn hay màu tối ở đó cũng như đừng treo những vật dễ bắt bụi.

Trên đây là những cách thức giảm tác hại của xà, tốt nhất bạn nên tránh đặt những bộ phận sinh hoạt chính như bếp, giường ngủ, bàn làm việc dưới xà nhà. Chúc bạn và gia đình luôn vui vẻ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải dầm nhà –

Bàn luận về các nét tướng của phụ nữ –

Trong CỔ TƯỚNG THƯ có nói đến chín nét tướng tốt của phụ nữ như sau: 1. Hiên môn phong mãn, sinh tử thanh cao 2. Hiên môn bất hãm, đa tử thả hiền 3. Lệ đường nhục an, đa nữ nhi quí 4. Lệ đường vận hậu, chủ hữu quí nữ 5. Thú phụ vấn đức chi yêu sáp mặ
Bàn luận về các nét tướng của phụ nữ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn luận về các nét tướng của phụ nữ –

Luận về sao Đào Hoa

Cách sách Tử Vi bên Trung Quốc không có nói đến một sao Đào Hoa đứng tách riêng như khi khoa này truyền qua Việt Nam. Trung Quốc gọi Tham Lang là sao mang tính chất đào hoa bởi vậy khi Tham Lang đứng với Tử Vi họ cho như thế là Đào hoa phạm chủ.
Luận về sao Đào Hoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vậy xuất xứ của sao Đào Hoa ở đâu ? Khoa Tử Bình ghi rõ tên Đào hoa tinh theo niên chi là Dần Ngọ Tuất mà gặp nguyệt chi, nhật chi hay thời chi có Mão; niên chi Hợi Mão Mùi gặp các chi kia là Tí; niên chi Thân Tí Thìn gặp các chi kia là Dậu; niên chi Tỵ Dậu Sửu gặp các chi kia là Ngọ. Theo Tử Bình thì một lá số có thể nhiều sao Đào Hoa. Tỉ dụ niên chi Ngọ gặp tháng Mão, ngày Mão chẳng hạn.

Đào Hoa mà khoa Tử Vi Việt vẫn dùng cũng căn cứ vào niên chi rồi theo các cung Tí Ngọ Mão Dậu mà an, nếu niên chi Dần thì an Đào Hoa tại Mão, niên chi Tỵ thì an Đào Hoa ở Ngọ…

Theo sách vở Trung Quốc mang cái tên “hàm trì” (tên khác của Đào Hoa) nó đựơc tính theo vòng Tướng Tinh cùng mười hai sao như vòng Thái Tuế vòng Trường Sinh và Lộc Tồn.

Theo vòng Tướng Tinh thì “Hàm Trì” bao giờ cũng vào bốn cung Tí Ngọ Mão Dậu chắc cổ nhân Thái Âm đã không dùng vòng Tướng Tinh mà chỉ chọn ra sao Đào hoa cùng với sao Hoa Cái.

Vòng Tướng Tinh gồm có: Tướng Tinh, Phan An, Tuế Dịch, Tức Thần, Hoa Cái, Kiếp Sát, Tai Sát, Thiên Sát, Chỉ Bối, Hàm Trì, Nguyệt Sát, Vong Thần.

Chọn ra thấy dản lược hơn, những sao kia hơi thừa. Những sao này sẽ luận sau. Trở lại sao Đào Hoa, sách Tử Vi Đẩu Số Tinh Diệu Tổng Đàm viết: “Hàm Trì là sao thuộc vòng Tướng Tinh, tính theo hàng chi của năm, sao này cũng có lưu niên nữa, trường hợp “Hàm Trì” trên lá số lại gặp lưu niên Hàm Trì thì ảnh hưởng tăng cường.

Hàm Trì là sao của sắc tình. Nó không nên đi cùng sao Mộc Dục gây ra sự việc vì sắc tình mà hao tốn phiền lụy. Hàm Trì đi với Tham Lang thành ra cách “Phiếm thủy đào hoa” con người ăn chơi bả lả. Trong khi khoa Tử Vi Việt thì Tham Lang đóng cung Tí không gặp Đào Hoa cũng kể như “phiếm thủy đào hoa”

Nguyên cục hay lưu niên sao Hàm Trì không nên gặp Vũ Khúc, Hóa Kị hoặc Văn Xương Hóa Kị đưa đến tình trạng người phối ngẫu bất trung.

Các sách Tử Vi Việt giảng rằng: Đào Hoa thuộc Mộc chủ về sự hoan lạc đa tình mà không nên hiện lên khi vận về già chuyển ra buồn thương. Đào Hoa lúc trẻ là đỗ đạt, đám cưới, lúc già là bệnh tật chia ly và đám tang.

Đào Hoa cần Hồng Loan. Đào Hồng vào cung Quan Lộc hanh thông trên hoạn lộ hoặc trên cuộc phấn đấu gầy dựng cơ nghiêp.

Đào Hồng gặp Nhật Nguyệt đa tình phong lưu. Đào Hồng gặp Không Kiếp Đà Kình khó khăn trên duyên tình không muộn vợ muộn chồng thì cũng hai đời chồng vợ.

Đào Hồng đứng với Địa Kiếp dễ bị đắm thuyền và dễ vào vòng tình lụy. Đào Hồng gặp văn tinh thì ra văn nhân tài tử. Đào Hồng đóng cung Thiên Di xuất ngoại lập nghiệp.

 Hạn có Đào Hồng Hỉ Riêu thì vương vấn tình. Đào Hoa đứng với Thiên Riêu Đà La Hóa Kị vào số nữ là người đàn bà dâm loạn khó toàn danh tiết.


Những câu phú về Đào Hồng:


- Đào Hồng ngộ Thiên Cơ, đoãn vi sảo họa
(Thiên Cơ gặp Đào Hồng, có hoa tay nhiều năng khiếu nghệ thuật)

- Lãng lý Đào Hoa gia Địa Kiếp tam canh tư tưởng giai nhân
(Đào Hoa Địa Kiếp như hoa đào trôi trên sóng, luôn luôn tơ tưởng tình ái, số trai ăn chơi số gái lẳng lơ)

- Đào Hoa ngộ Phi Liêm, Nguyễn Tịch tấn triều vi túy khách
(Sao Đào Hoa đứng với Phi Liêm Nguyễn Tịch lúc nào cũng say khướt)

- Đào Hoa thủ Mệnh quả thê
(Đào Hoa thủ Mệnh thường xa vợ hoặc hai đời vợ)

- Thân hữu Đào Hồng kiêm Thai Tọa nhi công danh khả tất
(Cung Thân có Đào Hồng Thai Tọa sớm muộn rồi cũng công thành danh toại)

- Đào Hoa phùng Thiên Mã túng khách vô môi?
(Đào Hoa gặp sao Thiên Mã không mối lái cũng theo người?)

- Đào Tang ở Mệnh cung sau trước
Gái lẳng lơ nhỡ bước cầu ô

- Đào Riêu số gái ai hay
Chồng ra khỏi cửa dắt tay trai vào

- Thiên Nguyệt Đức gặp Đào tinh
Trai lấy gái đẹp, vợ lành chồng sang

- Khéo nghề kim chỉ vá may
Hồng Đào Tấu Vũ ở đầy Mệnh cung

- Mệnh Đào Thân lại Hồng Loan
Vận phùng Thái Tuế khả hoàn thấy chi
- Đào Hồng Thai Hỉ trong ngoài
Ngoài gia Binh Tướng gái trai ngang tàng

- Đào Hồng cùng Thiên Hình tụ hội
Gái tiết trinh hiền nội tề gia

- Quan cung hỉ ngộ Đào Hồng
Thiên Di tối kị Không Kiếp lâm vào

- Thai tinh lại gặp Đào Hoa
Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng

- Vợ chồng viễn phối tha hương
Đào Hồng len lỏi vào hàng Thiên Di

- Kìa nữ mệnh xem tường sau trước
Tử Phá Tham hội ước đa dâm
Thêm Đào Hoa ắt gian truân
Duyên may khó sớm dự phần phượng loan

- Tham Đào số nữ thường dâm loạn
Ở hãm cung hãy đoán cho tường
Tí Ngọ Mão Dậu ấy phường
Nếu có Tuần Triệt lại phường đoan trinh

- Mệnh Đào Thân lại Hồng Loan
Hạn phùng Tuế Kiếp phụng hoàng rẽ duyên

- Sao Tả Hữu đồng cung gặp gỡ
Mệnh Đào Hoa trước dở sau hay.

- Đào Hoa Thai Hỉ trong cung
Phá Quân Tướng Phục chiếm xung ở ngoài
Có chị em gái theo trai
Say mê đến nổi hoang thai bỏ mình
(Đây nói về cung bào huynh)

- Trong thời Tướng Phá Phục Binh
Ngoài thì Hoa Cái liên minh Đào Hồng
Bản cung đối chiếu tinh tường
Anh em có kẻ tư thông hẳn là
(đây là cung bào)

- Phu Đào Kị Kiếp Khốc Hư
Hại chồng mưu kế dễ hầu biết sao.

- Đào Hoa nhi nữ dâm tàng
Tử Phủ nhi nữ lại làng đồng lương
(Đào Hoa vào cung tử tức có gặp Không Kiếp Riêu Hình hoặc các hung sát tinh thì con cái mới dâm tàng, nếu không thì Đào Hoa thành đông con và con cái đẹp xinh)

- Nô cung Hoa Cái Đào Hồng
Cùng với Phụ Bật chiếu vào cho nên
Chính thê thứ thiếp tiền duyên
Khác nào giây cát sánh bên cõi cù

- Đào Hoa Nô lại tương phùng
Vong phu mắc tiếng bất trung ưu phiền

- Cung Quan mà gặp Đào Hồng
Thiếu niên đã thỏa tang bồng chí trai

- Đào Hồng lại gặp Quí Ân
Cô dì để lại có phần phong lưu
(Cung Điền Trạch có Hồng Đào, Ấn Quang, Thiên Quí được hưởng tiền bạc của người thân để lại cho)

- Đào Hồng Tang ngộ sao Thai
Tôn thân có kẻ tính bài loạn phong
(Nói về cung Phúc Đức thấy những sao trên)

- Đào Thai hội hợp chớ vương
Phúc cung có gái tìm đường gió trăng

- Đào Hồng Hoa Cái nhập môn
Ắt rằng có gái đẹp khôn khác thường
(Những sao này xuất hiện tại cung Phúc Đức)

Khi luận về Đào Hoa Riêu Hỉ Mộc Dục đừng nên có thái độ võ đoán hễ cứ thấy chúng là chê, là xua tay lắc đầu. Quân tử có hai loại chân quân tử và ngụy quân tử thì tiểu nhân cũng có hai loại chân tiểu nhân và giả tiểu nhân. Bởi vậy Đào Hoa Thiên Riêu hay Hoa Cái Mộc Dục còn phải tham bán tìm hiểu coi xem là chân hay giả đã.

Tham bán tìm hiểu cùng với các sao khác, tham bán với cung Phu, cung Tử và cung Phúc Đức. Tỉ dụ câu phú: Cự Cơ Mão Dậu chung vi phá đãng. Số nữ thủ mệnh Cự Cơ cung Mão Dậu sớm muộn cũng thành con người phá đãng là tại sao? Tại vì cung Phúc Đức có sao Thiên Lương hãm ở Tỵ Hợi. Nếu như Cự Cơ Mão Dậu còn kèm theo Đào Hoa Thiên Riêu hoặc Đào Hoa Mộc Dục nữa thì tính phá đãng tăng gấp bội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về sao Đào Hoa

Ý nghĩa sao Địa Võng - Là một sao xấu ác tinh

Sao Địa Võng ở Mệnh là rất thông minh, có tài khéo, suy tính công việc rất tài tình nhưng hay gặp ngăn trở, mọi công việc hay gặp rắc rối, bị ràng buộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Địa Võng - Là một sao xấu ác tinh

Ý nghĩa sao Địa Võng - Là một sao xấu ác tinh

Hành: Thổ

Loại: Ác Tinh

Đặc Tính: Tù hãm, khốn đốn, trở ngại

Tên gọi tắt thường gặp: Võng

Phụ Tinh. Thuộc bộ sao đôi Thiên La và Địa Võng. Gọi tắt là La Võng. Vị trí luôn ở trong Cung Tuất. Sao này là sao xấu.

Đây là một ám tinh, có nghĩa: - hiểm ác ngầm - gây rắc rối, ngăn trở mọi công việc - chủ sự bắt bớ, giam cầm Người có Địa Võng thủ Mệnh, Thân bụng dạ khó lường, tính nết tráo trở, hiểm ác ngầm, hay hại kẻ khác mà nạn nhân không biết được.

Ý Nghĩa sao Địa Võng Ở Cung Mệnh:

Sao Địa Võng ở Mệnh là rất thông minh, có tài khéo, suy tính công việc rất tài tình nhưng hay gặp ngăn trở, mọi công việc hay gặp rắc rối, bị ràng buộc.

Ý Nghĩa sao Địa Võng Với Các Sao Khác:

Sao Địa Võng và các sao giải: Làm giảm bớt hay tan biến đặc tính xấu của Địa Võng. Các sao giải này là Tuần, Triệt, Tử Vi, Hóa Khoa, Thiên Giải, Giải Thần.

Địa Võng, Trực Phù: Làm tăng thêm ác tinh cho đương số.

Sao Địa Võng bao giờ cũng ở cung Tuất, đối diện với sao Thiên La, do đó cần xem sao Thiên La.

 Võng, Linh Đà, Liêm Tham: bị bắt giữ, xử tử

Võng và các sao giải: làm giảm bớt hay tan biến đặc tính xấu của Địa Võng. Các sao giải này là Tuần, Triệt, Tử Vi, Hóa Khoa, Thiên Giải, Giải Thần.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Địa Võng - Là một sao xấu ác tinh

Kiêng kỵ dầm ngang ép cửa –

Hiện tượng: Phía trên cửa chính hoặc cửa phòng nếu có đầm ngang đi song song qua sẽ xuất hiện tình trạng cửa bị ép, người sống trong nhà sẽ có gánh nặng về tâm lý, áp lực trầm trọng, bất lợi cho học hành, công tác và sinh hoạt, ở lâu như vậy sẽ ảnh h

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Phía trên cửa chính hoặc cửa phòng nếu có đầm ngang đi song song qua sẽ xuất hiện tình trạng cửa bị ép, người sống trong nhà sẽ có gánh nặng về tâm lý, áp lực trầm trọng, bất lợi cho học hành, công tác và sinh hoạt, ở lâu như vậy sẽ ảnh hưởng không tốt tới sửc khỏe.

cua-di-lim-nam-phi-hai-canh-004(1)

Phương pháp hóa giải: Lấy một tấm gỗ, dùng Chu Sa viết lên đó hai chừ “Nhất Thiện”, sau đó đem đến Dương Miếu thắp hương, chọn ngày đẹp để đột lên phía bên trên cửa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ dầm ngang ép cửa –

Top 3 con giáp dễ đắc tội người khác

Cởi mở, thẳng thắn có thể khiến người khác cảm thấy bạn dễ gần nhưng nếu không biết giới hạn, rất ưu điểm này sẽ biến thành nhược điểm khiến bạn dễ đắc tội mọi người đấy.
Top 3 con giáp dễ đắc tội người khác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Dần

Các bạn tuổi Dần thường khá phóng khoáng, không tính toán so đo, tấm lòng rộng mở, nói chuyện thẳng thắn, thậm chí có hơi lỗ mãng. Họ ít khi biết lấy lòng người khác, nghĩ gì nói đó, cho nên nhiều lúc do “mau mồm mau miệng” mà khiến người nghe phiền lòng, thậm chí tức giận, trong khi họ hồn nhiên chẳng hề biết điều đó. Tuy bản tính hơi tùy tiện, thiếu tinh tế nhưng kỳ thực con người này rất đơn giản. Họ không có mưu mô và không biết lừa gạt ai. Vì vậy, với những ai thân thiết và hiểu được tính cách của họ sẽ cảm thấy kết giao với họ khá an toàn. 

top-3-con-giap-de-dac-toi-nguoi-khac

Tuổi Sửu

Các bạn tuổi Sửu tính cách tốt bụng bẩm sinh, biết nghĩ cho người khác và ít có tâm địa xấu, tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của họ là quá đơn thuần và dễ nắm bắt. Họ không giỏi biểu đạt, bình thường rất ít nói nhưng một khi đã nói lại thường vô tình đắc tội người khác. Con người này tuy tính cách ổn định, đáng tin cậy nhưng những lời thốt ra từ miệng họ lại khá cứng cỏi và thẳng tuột nên khiến họ dễ chuốc phiền phức vào người và chịu không ít thiệt thòi. 

Tuổi Tuất

Các bạn tuổi Tuất rất trung thành và không thích nói dối. Họ đối đãi chân thành với mọi người và sẵn sàng hy sinh cho người khác. Tuy vậy, cũng do tính trung thực này mà đôi khi lời nói của họ lại gây phản cảm cho đối phương, mặc dù trong lòng họ chỉ có ý tốt nhưng ăn nói không khéo léo, thành ra đắc tội người khác.

Khang Ninh (theo Meiguoshenpo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp dễ đắc tội người khác

Con gái tuổi nào tình yêu viên mãn, kết thúc có hậu

Đứng đầu bảng là cô nàng tuổi Sửu dịu dàng, một lòng một dạ với nửa kia, hay cô nàng tuổi Tuất luôn toàn tâm toàn ý với tình yêu.
Con gái tuổi nào tình yêu viên mãn, kết thúc có hậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No 1. Tuổi Sửu

1-6128-1412648764.jpg

Tính cách con gái tuổi Sửu dịu dàng, ngoan ngoãn, nhiệt tình, ân cần, ít nói, không thích chủ động. Khi có đối tượng "thầm thương trộm nhớ", họ sẽ không chủ động tấn công mà chỉ lặng lẽ quan sát ở phía sau hoặc lẳng lặng làm nhhiều việc vì đối phương, đợi thời cơ chín muồi, mới đưa ra quyết định. Họ làm việc gì cũng rất bình tĩnh, chắc chắn sẽ không vì thích một ai đó mà hy sinh quên mình.

Nếu con gái tuổi Sửu đã xác định mối quan hệ yêu đương với ai đó, họ sẽ một lòng chung thủy, dù bên cạnh có người khác giới điều kiện rất tốt theo đuổi, họ cũng không dao động. Con gái tuổi Sửu hành xử rất câu nệ, nghiêm túc với tình yêu. Cũng chính vì lẽ đó, tình yêu của họ thuận buồm xuôi gió, kết thúc viên mãn.

No.2. Tuổi Tuất

2-6655-1412648765.jpg

Trong tình yêu, con gái tuổi Tuất một mực chung thủy, toàn tâm toàn ý. Bình thường, họ có thể làm người ta buồn bực vì thái độ lãnh đạm, dửng dưng. Kỳ thực đó không phải là sự thật. Tính cách con gái tuổi Tuất chân chính rất thẳng thắn, thành thật, cởi mở, thoải mái, đối với tình yêu khá e dè, kín đáo.

Có thể trở thành bạn trai của một cô gái tuổi Tuất, bạn chắc chắn là rất may mắn. Họ tuy truyền thống nhưng nếu đã chọn ai thì họ sẽ kiên định, vững vàng tiếp tục đi về phía trước, bất luận là nghèo khó hay bệnh tật, họ cũng sẽ không rời bỏ đối phương. Chuyện tình yêu của những cô gái như vậy thường sẽ có kết quả tốt, tình yêu của họ sẽ sớm đơm hoa kết trái.

No.3. Tuổi Thìn

3-7749-1412648765.jpg

Con gái tuổi Thìn với bản tính cô độc, kiêu ngạo, tràn đầy tự tin, nhiệt tình, khẳng khái luôn khao khát về một tình yêu tươi đẹp. Khi đã yêu ai, họ gần như tin tưởng tuyệt đối vào người ấy, đồng thời đòi hỏi hai bên cùng nỗ lực đi lên, xây dựng một tương lai tốt đẹp. Đặc biệt, đã yêu ai, họ sẽ không dễ dàng vì những tác động bên ngoài làm ảnh hưởng đến tình cảm đôi ben. Hơn nữa, họ cho rằng, muốn gặp được một người thật lòng thật dạ yêu thương mình không dễ dàng gì, cơ hội đến với tình yêu thực sự cũng chỉ có một lần, vì vậy nhất định phải cực kỳ trân trọng. Với thái độ như vậy, họ xứng đáng có được một tình yêu tươi đẹp với kết thúc có hậu.

Nhật Băng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con gái tuổi nào tình yêu viên mãn, kết thúc có hậu

Học Phật cách sống hạnh phúc

Bất cứ ai đã hay đang có điều khúc mắc trong lòng, xin tìm đến học Phật cách sống hạnh phúc, thoát khỏi vọng tưởng và giận hờn.
Học Phật cách sống hạnh phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bất cứ ai đã hay đang có điều khúc mắc trong lòng, xin tìm đến học Phật cách sống hạnh phúc, thoát khỏi vọng tưởng và giận hờn.


Hoc Phat cach song hanh phuc hinh anh 2
 
Vì sao sau hàng ngàn năm, nhân loại đã có những bước tiến dài trên con đường khoa học và công nghệ, vẫn có hàng triệu triệu tín đồ tin sùng Phật giáo, tuân lời Đức Phật, theo đuổi Phật học? Vì Phật giáo không chỉ là tôn giáo với những triết lý tâm linh sâu sắc mà còn chứa đựng những phương pháp thực tiễn để giải quyết các vấn đề khó khăn trong cuộc sống.   Con người sống trên đời, dễ mê lầm bởi tham, sân, si, vướng phải “bát khổ” không thoát ra được. Đó là vì tâm chưa đủ tĩnh, lòng chưa đủ rộng, hiểu biết chưa đủ bao quát. Học Phật cách sống hạnh phúc, chân tâm không chỉ với những giáo lý, lời răn, lời khuyên mà còn thông qua phương thức tập luyện đơn giản, hiệu quả.   Mỗi khi trong lòng nổi lên sóng gió, định giận hờn ai đó, định tham lam điều gì đó, mỗi khi cuộc sống là thử thách, mỗi ngày sống là khổ đau, hãy chú tâm làm theo 4 bước dưới đây:   Bước 1: Ngồi tĩnh tọa trong tư thế thiền bán già hoặc kiết già của Phật giáo, lưng thẳng, cả người nâng lên gối, thả lỏng toàn bộ cơ thể và các giác quan.
Hoc Phat cach song hanh phuc hinh anh 2
 
Bước 2: Khép nhẹ mắt, tưởng tượng đang nhìn xuống miệng, tưởng tượng đang nhìn xuống cằm, tưởng tượng đang nhìn xuống tim, tập trung tinh thần, thâu tóm hơi thở.   Bước 3: Quán niệm hơi thở, thở ra là 1, hít vào là 2, đế tới 10 lại quay lại; hoặc hít vào niệm Nam mô, thở ra niệm A Di Đà Phật. Quán niệm dài hay ngắn tùy thuộc vào thời gian của bản thân   Bước  4: Mở mắt, duỗi chân, xoa bóp cho khí huyết lưu thông, gân cốt thư giãn.   Cách này có thể thực hiện hàng ngày, sáng tối hai lần, thực hiện ngay khi nảy sinh tâm khổ hoặc lúc bình thường đều có tác dụng tốt. Một khi đã tu tâm tới bình thản thì sóng gió ập tới cũng không làm ta nao núng, cơn giận bị dập tắt ngay từ lúc khởi sinh.   Học Phật cách sống hạnh phúc bằng phương pháp thiền này không những tốt về tinh thần mà còn cải thiện sức khỏe, nắm vững hơi thở, thư giãn toàn thân. Sau một thời gian thực hành, tinh thần phấn chấn, tính cách hướng thiện, kìm chế giận dữ, ắt hẳn hạnh phúc không còn quá xa xôi.   Mỗi người đều chỉ có thời gian hữu hãn và bất kì ai đều vướng phải những khổ buồn tự nhiên. Quan trọng nhất là biết cách điều chỉnh, định hướng ý chí, biết bản thân nên và không nên làm gì. Chìa khóa của hạnh phúc luôn ở sẵn trong tay mỗi người, hãy dùng nó để khai mở những điều tuyệt diệu của cuộc sống.
Đừng để hạnh phúc bị chi phối bởi miệng lưỡi thế gian Học Phật: Chăm dưỡng thai nhi cũng là tích phúc, hành thiện Hạnh phúc là của riêng mình, ngưỡng mộ người khác chi bằng mình cố gắng hơn
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Học Phật cách sống hạnh phúc

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd