Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tháng sinh tiết lộ tính cách con người

Tháng sinh tiết lộ tính cách con người, mỗi người sinh ra ở những thời điểm khác nhau, ẩn chứa bí mật riêng biệt về cá tính, con người cũng như vận mệnh.
Tháng sinh tiết lộ tính cách con người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi người sinh ra ở những thời điểm khác nhau, ẩn chứa bí mật riêng biệt về cá tính, con người cũng như vận mệnh. Hãy cùng khám phá xem tháng sinh dương lịch nói lên điều gì về bản thân bạn nhé!
 

Tháng 1

 

Tháng sinh tiết lộ tính cách phái đẹp ra sao? Đa phần nữ giới sinh vào tháng 1 dương lịch thuộc tuýp người tham vọng, làm việc siêng năng và hiệu quả. Họ có phẩm chất nổi trội của một nhà lãnh đạo và luôn biết cách hòa hợp cảm xúc của mọi người xung quanh.

 

Tuy nhiên, nhược điểm của họ chính là sự bảo thủ và cứng nhắc trong cách hành xử. Họ không muốn nói về cảm xúc của riêng mình và ít khi thể hiện cảm xúc thật ra bên ngoài, chỉ bộc lộ với những người thân cận nhất hoặc có cùng quan điểm.

 

Những ai sinh vào tháng đầu năm này đều thuộc tuýp người lãng mạn, nhưng tiếc rằng họ không biết cách biểu lộ tình yêu cho lắm. Họ yêu thích trẻ con, đề cao lòng trung thành, là con người rất biết giao tiếp nhưng lại hay ghen. Còn đối với chuyện tiền bạc thì những người này vô cùng cẩn trọng.


Ngoài tháng sinh, Giờ sinh quyết định ngoại hình, tính cách của một người như thế nào?
 

Thang sinh tiet lo tinh cach con nguoi hinh anh 2
 

 
 

Tháng 2

 

Những phụ nữ sinh vào tháng 2 yêu thích tự do và phiêu lưu. Họ sẽ không ngần ngại lên máy bay và đi tham quan thế giới. Khi bị cấm đoán, họ sẵn sàng trở thành một kẻ nổi loạn.

 

Trong tình yêu, họ rất thật lòng và họ yêu một cách say đắm, cuồng nhiệt. Họ sẵn sàng làm mọi thứ để mang lại hạnh phúc cho người đàn ông họ yêu thương.

 

Bên cạnh đó, những quý cô sinh vào tháng 2 cũng thuộc tuýp người sáng tạo, lãng mạn và cởi mở, luôn thích thử thách trong những môi trường làm việc mới. Họ ưa thách thức và rất tham vọng nên lúc nào cũng đầy ắp ước mơ và hi vọng.

 

Ngoài ra, người này thích giải trí và những hoạt động sôi nổi nhưng lại khá khiêm nhường. Tâm hồn họ tuy lãng mạn đấy nhưng chẳng bao giờ bộc lộ ra bên ngoài.

 

Tháng 3

 

Tháng sinh tiết lộ tính cách con người. Nếu sinh vào tháng 3 dương lịch, bạn sở hữu sự lôi cuốn và vô cùng quyến rũ nhưng cũng dễ bị tổn thương. Bởi vậy, bạn khó mở lòng để chấp nhận yêu một ai đó. Bạn là con người của yêu thương nhưng hay mắc cỡ và bảo thủ. Bạn bí ẩn, bản tính tự nhiên của bạn là chân thành tử tế và giàu lòng trắc ẩn.

 

Bên cạnh đó, bạn cũng thuộc tuýp người chu đáo, hiền từ, đáng tin cậy và luôn nghĩ cho người khác. Vì thế, họ luôn dành được sự tin tưởng và yêu thương từ mọi người.

 

Bạn đánh giá cao lòng tốt và sự biết ơn. Vì thế bạn rất hay quan sát và đánh giá mọi người, tất nhiên, chỉ là đánh giá ngầm, không công khai. Tuy là người tốt, nhưng một khi ai đó đã gây thù chuốc oán, bạn sẵn sàng ôm giữ lòng báo thù mạnh mẽ.

 

Ngoài ra, bạn là con người mơ mộng, nhiều ảo tưởng, thích du lịch và thích được chú ý, thích trang trí nhà cửa, thích những điều đặc biệt.


Bạn đã biết Sinh con năm Đinh Dậu 2017 tháng nào tốt nhất?
 

Thang sinh tiet lo tinh cach con nguoi hinh anh 2
 

 

Tháng 4

 

Các nàng sinh vào tháng 4 dương lịch luôn thích là trung tâm của mọi sự chú ý và dễ dàng tỏa sáng như một nhà lãnh đạo. Họ năng động, khéo léo, có trí nhớ tốt, biết cách ngoại giao và tương tác cực tốt với mọi người xung quanh.

 

Tuy nhiên, thuộc tuýp người này, bạn lại để mình hơi mang nặng cảm xúc và hay giận dữ, đồng thời khá hấp tấp. Bạn thường quyết định mọi việc nhanh chóng nhưng sau đó lại cảm thấy hối tiếc vì cái mình đã quyết định.

 

Bên cạnh đó, hầu hết nữ giới sinh vào thời gian này đều rất hay ghen, và một khi máu ghen đã bùng lên thì khó mà dập tắt được. Còn khi đã có được lòng tin, họ sẽ khiến đối phương có cảm giác hạnh phúc nhất trên trái đất.

 

Tháng 5

 

Quý cô sinh tháng 5 có tình yêu đặc biệt với văn học và nghệ thuật. Bạn có thể dễ dàng tìm thấy họ trong viện bảo tàng hoặc các trung tâm văn hóa du lịch. Bên cạnh đó, họ cũng có một cuộc sống xã hội tích cực, quan tâm chân thành và sâu sắc tới mọi người.

 

Họ có những suy nghĩ sắc bén và thường suy nghĩ theo hệ thống chứ không hề bộc phát. Tuy vậy, họ lại khó kiểm soát cơn giận dữ.

 

Họ cuốn hút người khác và thích người khác chú ý đến mình nhờ vào tâm hồn sâu sắc và cách nói chuyện duyên dáng.

 

Họ không chỉ đẹp về ngoại hình mà còn đẹp cả trong tâm hồn nữa. Đó là lý do đấng mày râu khi đã gặp thì không thể nào quên.

 

Những người này luôn giữ vững lập trường của mình trong mọi tình huống. Khi gặp chuyện khó khăn, mọi người không cần tốn nhiều công sức cũng dễ dàng an ủi họ vì cơ bản họ rất hiểu chuyện.

 

Ngoài ra, phụ nữ sinh tháng 5 cũng có tính mơ mộng, nhưng bù lại trong nhiều quyết định quan trọng, họ lại vô cùng sáng suốt.

 

Tháng 6

 

Quý cô sinh tháng 6 dương lịch có tầm nhìn xa trông rộng và luôn hướng tới tương lai. Họ sống cởi mở và tràn đầy ý tưởng sáng tạo, nhưng đôi khi cũng hơi tò mò về chuyện riêng tư của người khác.

 

Thuộc tuýp người này,  bạn hữu trái tim nhạy cảm, phong cách lịch sự và thói quen nói năng từ tốn. Bạn có tinh thần năng động nhưng lại hay ngập ngừng không chịu quyết đoán, có xu hướng trì hoãn cho đến khi sự việc không vui xảy đến.

 

Là người nóng nảy, tuy nhiên nữ giới sinh tháng 6 thường vui tính, hài hước và rất thân thiện. Bạn cũng là người giỏi tranh luận và nói nhiều.

 

Những người sinh tháng này cũng rất kén chọn, luôn muốn thứ tốt nhất trong khả năng có thể kiểm soát. Khi yêu một ai đó, họ có một sức hấp dẫn kì lạ khiến đối phương không thể từ bỏ. Đối phương sẽ làm bất cứ điều gì các quý cô yêu cầu mà không đòi hỏi sự hồi đáp.


Có thể bạn chưa biết Sinh con năm 2018 tháng nào tốt? 
 

Thang sinh tiet lo tinh cach con nguoi hinh anh 2
 

 
 

Tháng 7

 

Sinh ra vào tháng 7, các nàng luôn mang tới không khí vui vẻ cho mọi người xung quanh. Nhưng đa phần họ khá khiêm tốn và có xu hướng giấu cảm xúc của mình. Bởi thế, họ được xếp vào tuýp người sống nội tâm. Họ thường thích ở một mình với sự yên tĩnh, lười đi xa và thận trọng trong việc kết bạn.

 

Nếu sinh vào tháng 7, bạn chân thật và rất gần gũi. Mặc dù rất thông minh nhưng không bao giờ khoe khoang hay thể hiện trước mặt người khác. Bạn đồng cảm, quan tâm, yêu thương những người xung quanh và luôn cố gắng để tránh phải đối đầu với mọi cuộc xung đột.

 

Bạn thường không mang hận thù dù ai đó có làm điều gì sai trái với bạn, nhưng tha thứ không có nghĩa là bạn đã quên. Mặc dù có lòng vị tha cao cả, nhưng bạn cũng rất cảnh giác và sắc sảo. Bạn đối xử rất công bằng với mọi người và không bao giờ đánh giá người khác vội vã, mà luôn quan sát trước khi đưa ra kết luận cuối cùng.

 

 Bạn đã biết Người sinh tháng nào dễ dàng được Bồ Tát phù hộ hay chưa?
 

Tháng 8

 

Tháng sinh tiết lộ tính cách con người. Phụ nữ sinh vào tháng 8 thuộc tuýp người thực tế và có óc quan sát. Những phẩm chất này cho phép bạn vượt trội trong lĩnh vực kỹ thuật, kế toán, điều tra và bảo hiểm.

 

Sinh vào tháng này, bạn mạnh mẽ, dũng cảm, can đảm và là chỗ dựa vững chắc cho mọi người. Bạn có tinh thần đồng đội và truyền cảm hứng cho người khác, tuy nhiên điều này rất dễ ảnh hưởng tới sức khỏe do hay làm việc quá sức.

 

Bên cạnh đó, bạn rất thích nói đùa. Bạn cũng biết an ủi người khác nhưng cũng dễ nóng giận. Trong tình yêu, bạn thủy chung, coi trọng hôn nhân, rất nhạy cảm nhưng không nhỏ nhen. Ngoài ra, bạn cũng có năng khiếu về nghệ thuật.

 

Sinh ra vào những ngày Thu, nên tính cách của bạn cũng rất lãng mạn, nhạy cảm và nhiều mơ ước. Hơn thế, bạn còn có khả năng suy nghĩ rất phi thường, dũng cảm, cứng rắn, có tư tưởng độc lập, có khí chất lãnh đạo và không dễ bị chùn bước trước khó khăn nào.

 

Thang sinh tiet lo tinh cach con nguoi hinh anh 2
 

Tháng 9

 

Sinh vào tháng 9, bạn tốt bụng, khiêm tốn và luôn muốn giúp đỡ người khác. Bạn thận trọng, làm việc có tổ chức và luôn xây dựng kế hoạch trước khi làm bất cứ việc gì.

 

Bạn điềm tĩnh, tốt bụng và giàu lòng vị tha. Bạn trung thành nhưng không phải lúc nào bạn cũng là người chân thật. Bạn cũng thích quan tâm tiểu tiết bởi bạn muốn tìm ra sự thú vị của mọi thứ, chính vì vậy mà bạn cũng rất kén chọn trong việc tìm ra một nửa của mình.

 

Trong tình yêu, những người sinh vào tháng này luôn muốn hướng tới những mối quan hệ lâu dài và ổn định. Tuy nhiên, họ sẽ không bao giờ tha thứ cho những người phản bội. Vì vậy, bạn nên cẩn thận để không làm tổn thương nếu không họ sẽ không để bạn yên.

 

Trong công việc, bạn dễ nảy sinh tham vọng, thích tìm tòi và khám phá, tỉ mỉ, cẩn trọng. Tính cách của bạn dễ hiểu và khá là vui tính. Bạn thích du lịch và tham gia vào các hoạt động. Đôi khi năng nổ là vậy, nhưng bạn lại có xu hướng giấu đi mọi cảm xúc.

Tìm hiểu thêm nội dung Coi số mệnh sướng khổ qua giờ sinh theo mùa

 

Tháng 10

 

Nếu sinh tháng 10, bạn thuộc tuýp lạc quan, mạnh mẽ và độc lập. Ngay cả trong điều kiện bất lợi, bạn vẫn  suy nghĩ tích cực và hướng tới việc tìm kiếm một cuộc sống cân bằng. Tuy nhiên điểm yếu của những người sinh vào tháng này là hay bị ảnh hưởng bởi người khác và hay mất tự tin.

 

Với tuýp người này, bạn bè rất quan trọng, vì thế họ thích giao du kết bạn. Tình cảm của họ là yêu, ghét rõ ràng, họ chỉ yêu quý những người yêu quý mình và không quan tâm đến người khác nghĩ gì.

 

Bên cạnh đó, bạn cũng hay mơ mộng và kén chọn. Dù khá nồng nhiệt nhưng vẫn dứt khoát, công bằng và sáng suốt. Bạn có niềm đam mê với du lịch, nghệ thuật và văn học. Bạn hay động lòng và cũng hay ghen và dễ tực giận.

 

Thang sinh tiet lo tinh cach con nguoi hinh anh 2
 

 
 

Tháng 11

 

Phụ nữ sinh vào tháng 11 thuộc tuýp người bí ẩn, hay che giấu cảm xúc thật của mình. Họ tự chủ, tham vọng, thích nghiên cứu và khám phá những điều mới mẻ. Họ có một tâm trí sắc bén và một bản chất kiên định.

 

Một điều đặc biệt là những người sinh phụ nữ sinh tháng này luôn suy nghĩ trước những người khác và họ có thể rất dễ dàng nhận ra một lời nói dối. Bạn không nên trêu đùa với họ vì bạn sẽ nhận được một cái giá rất đắt.

 

Người sinh vào tháng 11 có một tính tình sắc sảo và nhiều hoài bão và bạn đặc biệt lại không thích những lời khen ngợi. Bạn giàu cảm xúc, thích sự lãng mạn, vì thế mà tình yêu của bạn rất sâu nặng, nhưng cũng hay nghi ngờ.

 

Tháng 12

 

Những cô nàng sinh vào tháng 12 dương lịch thuộc tuýp người vui nhộn và tràn đầy năng lượng. Họ có kỹ năng vượt qua nghịch cảnh và biết cách thể hiện sự nổi bật của mình trước đám đông.

 

Trong các mối quan hệ, họ rất chân thành, thật lòng và không giả dối. Họ không đặt nặng cái tôi của mình nhưng tính tình lại sớm nắng chiều mưa, người khác rất khó chiều chuộng.

 

Nhược điểm của họ là thiếu kiên nhẫn và hay vội vàng nhưng lại gặp nhiều may mắn. Họ luôn biết cách làm thế nào để cải thiện tâm trạng. Ngoài ra, họ còn có một trái tim rộng mở. Ở bên người phụ nữ này vô cùng thú vị.


Tham khảo thêm nội dung Xem tháng sinh, biết ngay tính cách theo âm lịch.
 

 

Chú ý: Nội dung trên chỉ mang tính chất tham khảo!

 

Thủy Nguyễn

Xem giờ sinh đoán tính cách cực chuẩn Xem giờ sinh dự đoán tình cảm vợ chồng sau khi kết hôn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng sinh tiết lộ tính cách con người

Đặt hũ gạo hợp phong thủy để hút tài lộc về nhà

Nhà bạn có hũ gạo? Bạn có biết hũ gạo đặt đúng phong thủy sẽ hút tài lộc về nhà, tạo thêm phúc khí cho gia chủ không?Cùng tìm hiểu cách đặt hũ gạo trong nhà nh
Đặt hũ gạo hợp phong thủy để hút tài lộc về nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà bạn có hũ gạo? Bạn có biết hũ gạo đặt đúng phong thủy sẽ hút tài lộc về nhà, tạo thêm phúc khí cho gia chủ không? Cùng tìm hiểu cách đặt hũ gạo trong nhà sao cho đúng nhé.   Hũ gạo là vật dụng hầu như nhà nào cũng có. Hũ gạo và tủ lạnh, tủ đựng thực phẩm là nơi con người cất giữ đồ ăn trong nhà. Hũ gạo có công dụng đơn thuần chỉ là nơi trữ gạo. Với người phương Đông quen ăn cơm gạo thì hũ gạo còn mang ngụ ý là kho lương trong nhà, là nơi trữ tài hút lộc.   Nhiều gia đình ngày nay không mấy khi nổi lửa, thậm chí đến hũ gạo cũng không có trong nhà. Khi nào nấu ăn lại mua túi gạo nhỏ rồi tiện tay để đâu đó. Tuy nhiên, theo phong thủy thì tùy tiện đặt gạo lương trong nhà như vậy kì thực không hề tốt cho tài lộc của gia chủ.    Vậy bạn đã biết cách lựa chọn hình dáng, màu sắc hũ gạo như thế nào, chất liệu ra sao, đặt hũ gạo ở vị trí nào trong nhà hay chưa? Sau đây, hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu cách xếp đặt hũ gạo sao cho hợp phong thủy, hút tài lộc về nhà nhé.

 

Dat hu gao hop phong thuy de hut tai loc ve nha hinh anh 2
 

Vị trí đặt hũ gạo trong nhà

  Thuyết phong thủy cho rằng, hũ gạo là vật chứa gạo, thuộc hành Thổ. Chính vì thế mà hũ gạo nên đặt ở phương vị Thổ vượng nhất trong nhà, tức phía Tây Nam hoặc Đông Bắc của nhà bạn. Ngũ hành Mộc khắc Thổ, không nên đặt hũ gạo ở phía Đông hoặc phía Đông Nam của căn nhà, bởi đó là nơi Mộc khí đương vượng, Mộc khắc Thổ dễ khiến tiền bạc hư hao, vận may biến mất.

Hũ gạo cũng giống như kho bạc của gia chủ, bạn không nên để hũ gạo ở nơi dễ nhìn, người ngoài vào nhà là nhìn ngay thấy. Nên để ở góc khuất và thoáng mát trong nhà.
 

Có nên đặt hũ gạo ở Tài vị trong nhà?

  Hũ gạo là vật nặng nề, có thể đặt ở nơi có sát khí để trấn áp nó, không nên đặt hũ gạo ở tài vị, sẽ đè nén tài khí trong nhà. Mỗi ngày hũ gạo chỉ được mở ra một đến hai lần, thời gian lại rất ngắn, tần suất rất nhỏ, nếu đặt ở Sát vị thì độ nặng của nó có thể trấn tà chế sát.

Nếu bạn nằm mơ thấy lúa gạo thì có điềm báo gì chăng? Cùng tìm hiểu Giấc mơ về lúa gạo ẩn chứa điều gì nhé.
 

Dat hu gao hop phong thuy de hut tai loc ve nha hinh anh 2
 

Hũ gạo nên làm từ chất liệu gì?
 

Hũ gạo nên làm từ gốm sứ, kị dùng những đồ kim loại hay gỗ để đựng gạo. Gốm sứ thuộc hành Thổ, hũ gạo bằng gốm sứ tựa như mảnh đất sinh ra hạt gạo, là biểu tượng cát lành. Thổ của hũ gốm sứ và Thổ của gạo hợp lại cùng nhau, khiến Thổ khí càng thêm mạnh mẽ và bền vững, tất đem đến vận may cho gia chủ.   Hũ gạo là vật làm bằng kim loại thuộc hành Kim, sẽ hút Thổ khí của gạo. Hũ gạo bằng gỗ thuộc hành Mộc, Mộc đó sẽ xung khắc với Thổ của gạo. Vì thế mà hũ gạo bằng kim loại và gỗ là vật dụng tối kị, ngụ ý không tốt lành, hoặc phá tài lộc, hoặc làm tiêu biến tiền bạc của gia chủ. Kho thóc gạo trước đây dùng vật liệu gỗ là bởi đã được hóa giải bằng phong thủy nên không gây nguy hại gì nữa.

Ngày nay, nhiều gia đình dùng đồ nhựa để đựng gạo. Chẳng những không hợp phong thủy mà về lâu về dài, nhựa là chất liệu độc hại, có thể ngấm vào gạo, gây nguy hại cho sức khỏe cả gia đình.

 

Hình dáng hũ gạo như nào mới hợp phong thủy

  Nên chọn hũ gạo hình tròn, bởi hình tròn thuộc hành Thổ. Những loại hũ gạo hình dạng khác như hình tam giác, hình vuông, hình chữ nhật đều không nên sử dụng.

Hũ gạo nên cao và sâu, tránh dùng loại hũ gạo nông lùn. Đơn giản là vì hũ gạo tượng trưng cho sự no đủ, giàu có của gia đình, mà vật cao và sâu thì sẽ tránh được nguy cơ tài lộc thất thoát ra ngoài.
 

Dat hu gao hop phong thuy de hut tai loc ve nha hinh anh 2
 

Màu sắc hũ gạo

  Hũ gạo phong thủy trong nhà nên chọn màu vàng đất, nâu đất. Trước kia, những gia đình nhỏ nơi nông thôn, chuyên sản xuất lúa gạo đều dùng hũ gạo có màu sắc như vậy, đơn giản là vì đó là màu của đất, mang Thổ khí vượng. Tuy không mấy đẹp đẽ nhưng màu sắc hũ gạo đó lại cực hợp phong thủy.   Ngày nay, người ta làm ra hũ gạo với đủ loại hoa văn màu sắc rực rỡ, rất hút mắt người. Có điều, hũ gạo mang màu sắc đẹp đẽ, thực dụng như vậy lại không đúng phong thủy. Nên lựa chọn sao cho cân bằng giữa cả hai yếu tố nhé.

Bạn đã biết chọn Màu sắc theo phong thủy, màu nào hợp tuổi và bản mệnh của mình hay chưa? Đọc ngay để biết nhé.
 

Để hũ gạo trống có hại gì cho tài lộc?

  Như đã nói ở trên, hũ gạo trong gia đình được coi như kho lương, kho tài lộc của gia chủ. Chính vì thế mà chúng ta không nên để hũ gạo trống rỗng. Cố gắng giữ cho hũ gạo luôn có gạo bên trong, dù ít dù nhiều. Khi sắp hết gạo, bạn hãy nhớ cho thêm vào hũ. Hũ gạo đầy thì gia chủ tài lộc thịnh vượng, tiền tiêu không hết. Gạo trong hũ hết thì cũng giống như tài lộc, của cải trong nhà đội nón ra đi, cơ may kiếm tiền đi mất.

Đầu năm mới, bạn có thể phủ lên hũ gạo một tấm vải đỏ để giúp cho vận may gia tăng, Thần Tài luôn ghé thăm nhà. Dưới đáy hũ gạo có thể để một phong bao lì xì màu đỏ để tài lộc luôn giữ trong nhà.
  Nếu nhà bạn chưa có hũ gạo, hãy chọn mua ngay một hũ gạo hợp phong thủy, chọn ngày lành tháng tốt rồi đặt hũ gạo ở vị trí đã định sẵn. Nhớ kĩ những lưu ý phía trên, hũ gạo hợp phong thủy sẽ đem lại phú quý, tài lộc dồi dào cho gia đình bạn.   An An

6 cấm kị phong thủy dẫn tới phá sản không thể không phòng Có 2 vật báu này trong nhà, điều diệu kỳ sẽ đến với chủ nhân 7 thói quen xấu vô tình khiến tiền bạc thất thoát, tán tài tán lộc
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt hũ gạo hợp phong thủy để hút tài lộc về nhà

Ngũ hành hỉ dụng thần với lựa chọn nghề nghiệp

Một người muôn đứng chân trong xã hội, muốn được phát triển thì việc tìm được một vị trí thích hợp trong xã hội là một điều vô cùng quan trọng. Tục ngữ có câu: “đàn ông chọn nghề nên đúng ngành, đàn bà chọn chồng nên đúng đối tượng”, đó là ý nói tầm quan trọng như trên, thế thì làm thế nào làm theo đúng lời thầy đoán mệnh dạy, căn cứ vào bát tự tứ trụ của mỗi người, xem ngũ hành hỷ kỵ gì, hoặc hỷ dụng thần nào để chọn nghề cho mình, cầu mong có được vị trí thích hợp, thời nay kể cả nữ giới cũng vậy. Tình hình đại để là:
Ngũ hành hỉ dụng thần với lựa chọn nghề nghiệp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Theo ngũ hành hỷ kỵ mà chọn nghề nghiệp

Mệnh chủ hỉ Mộc

Mệnh chủ hỉ Mộc, lấy nghề nghiệp có liên quan đến Mộc là hay nhất. Từ Mộc dẫn dắt đi, loại công việc này đại thể là nghề Mộc, máy xẻ gỗ, đồ dùng gia đình, công việc giống cây trồng, chè, thuốc, hoa quả, bông, nghề làm giấy, văn giáo, nhà văn, xuất bản, hiệu sách rồi đến chính trị, văn thư, công thương, giáo dục, y vụ, tôn giáo v.v...

Mệnh chủ hỉ Hoả

Mệnh chủ hỉ Hoả, lấy nghề có liên quan đến Hoả là tương đối tốt, do Hoả dẫn dắt, công việc đại thể là nghề ăn uống, hàng cơm, khách sạn, nhà máy, bách hoá, mỹ dung, quang học, máy ảnh, gương kính, điện lực, điện khí, pháo, công xưởng, in ấn, nhà bình luận, quân giáo

Mệnh chủ hỉ Thổ

Mệnh chủ hỉ Thổ, làm nghề có liên quan đến Thổ là tương đối thích hợp, do Thổ dẫn dắt, loại nghề này đại thể có nông nghiệp, chăn nuôi, sản phẩm đất, khoáng sản, nhà đất, kiến trúc, mua bán đồ cổ rồi đến môi giới, kinh tiêu, quản lý mua bán, mộ táng, thầy phong thuỷ v.v...

Mệnh chủ hỉ Kim

Mệnh chủ hỉ Kim, làm nghề gì có liên quan với Kim là tương đối thích hợp, Từ Kim dẫn dắt, nghề này đại thể là Ngũ Kim, tiền bạc, cơ giới, giao thông, ô tô, điện gia dụng mài dao, rồi đến nghề luật sư, diễn viên điện ảnh, âm nhạc, kế toán, khoa học kỹ thuật, khai thác, xưởng khoáng sản.

Mệnh chủ hỉ Thuỷ

Mệnh chủ hỉ thuỷ, làm việc gì có liên quan đến thuỷ là thích hợp. Từ thuỷ dẫn dắt, nghề đại thể là thuỷ lợi, hàng hải, thuỷ sản, bơi lội, quán trà nước, nhà tắm, tiêu thuỷ, rồi đến nghề mậu dịch, du lịch, phóng viên, nghề tự do V. V...

Theo ngũ hành hỷ kỵ để chọn nghề nghiệp, có hai vấn đề đáng chú ý. Một là thuộc tính của ngũ hành nghề nghiệp nhất thời chưa định ra được, ví dụ với diễn viên, có người cho rằng diễn viên đi lưu động nhiều, lẽ ra thuộc thuỷ, nhưng cũng có người cho rằng diễn viên lên bục diễn dưới ánh sáng đèn rất mạnh, nên thuộc Hoả là hợp nhất. Hai là ngũ hành hỷ kỵ, không thể không cùng kết hợp với ảnh hưởng của ngũ hành đại vận, nhất là trong mệnh lại có dịch mã, hoặc địa chi gặp phải hình xung thì càng chịu ảnh hưởng của ngũ hành đại vận.

Ngoài ra về ngũ hành nghề nghiệp, còn có vấn đề lẫn lộn, ví dụ như kiến trúc, ở đây tuy quy thuộc hỷ Thổ nhưng trong kiến trúc không thể không dùng cửa song sắt, cửa gỗ, như vậy đồng thời có cả tính chất Kim và Mộc nữa.

Trên đây chỉ nói về nghề nghiệp cá nhân, nếu như làm việc trong quốc doanh, tập thể, công ty, hầm mỏ và những công ty hợp doanh trong ngoài, vì không thuộc cá nhân nên không bị ngũ hành hạn chế, nếu không sẽ linh tinh lộn xộn.



2. Theo hữu thần khác nhau mà chọn nghề nghiệp

Dụng thần Chính quan

Thông thường là nhân viên làm việc cho chính phủ là tốt như cơ quan chính phủ, bộ môn quản lý hành chính cơ quan tư pháp v.v...

Dụng thần Thiên quan là những người làm công việc nghiêm túc là tốt, ví dụ như nhà quân sự, cảnh sát và người khai thác, phá nổ, thám hiểm leo núi, thầy thuốc ngoại khoa, chỉ huy âm nhạc v.v...

Dụng thần Chính ấn dụng thần là chính ấn thường làm công việc văn giáo là tương đối lý tưởng như văn học, giáo dục, nhà văn, thư ký, nghiên cứu học thuật, sự nghiệp tôn giáo, sự nghiệp từ thiện v.v...

Dụng thần Thiên ấn dụng thần là thiên ấn thông thường làm việc theo nghề nghiệp chuyên môn, ví dụ như nghiên cứu khoa học, thiết kế, phát minh sáng tạo kỹ thuật V.V...

Dụng thần Kiếp tài dụng thần là kiếp tài thông thường là người làm nghề tự do là tốt ví dụ như giáo sư, luật sư, thầy thuốc, thậm chí là người quảng cáo bán hàng cũng được.

Dụng thần Tỷ kiên dụng thần là tỷ kiên thường là người làm nghề tương đối tự do, ngoài ra còn thích nghi với người hợp tác kinh doanh, dĩ nhiên phải xem đúng đối tượng.

Dụng thần Chính tài dụng thần là chính tài thông thường là người làm công việc tài chính là tốt như ngân hàng, thương vụ, thuế vụ, kế toán v.v...

Dụng thần Thiên tài dụng thần là thiên tài thường là người làm thương vụ là tốt, có lợi như kinh doanh đầu tư, kinh tế mậu dịch, giao dịch chứng khoán v.v...

Dụng thần Thương quan dụng thần là thương quan thường với người làm việc có tính độc lập như công tác văn nghệ, như nhà thư pháp, mỹ thuật, nặn tượng, âm nhạc, ca hát, nhảy múa, diễn viên, nhà văn, nhà viết kịch, biên tập v.v...

Dụng thần Thực thần dụng thần là thực thần thường là người làm công tác văn nghệ được phát huy như nhà thư pháp, mỹ thuật, nhà văn, thậm chí nhà ngoại giao, nhà diễn thuyết v.v...

Cách làm kết hợp dụng thần để chọn nghề nói trên, nhà mệnh lý học hiện đại của Đài Loan là Tân Thiết Bút đã quy nạp như sau: dụng thần là quan, sát thì nên làm quan chức chính quyền, quản lý hành chính. Dụng thần là tài tinh nên làm ngân hàng, tài chính, kinh doanh. Dụng thần là ấn khẩn nên làm văn giáo, nghiên cứu học thuật, tôn giáo, từ thiện. Dụng thần là tỷ kiếp nên làm nghề tự do, đấu võ, lưu động hoặc kết bạn làm ăn. Dụng thần là thực, thương nên làm nghề phục vụ, nghệ thuật, kỹ thuật, về cách nói này, ông Nhan Chiêu Bác của Đài Loan còn có cách giải thích hoặc bổ sung là: Sát ấn tương sinh, có quyền nên là giỏi võ; thương quan sinh tài, nguồn tài thịnh vượng, nên làm kinh doanh; thực thần Thổ tú, thông minh, tú khí, nên giỏi nghệ thuật; quan ấn tương sinh, chính quan thanh tuý, nên làm chốn quan trường; Tài cung, nhất chủ đều cường, bay ngang bay dọc, có thể tự mưu sinh phát triển.

Nhật chủ suy tuyệt, hoặc thân vượng không nơi nương tựa, nhưng cầu được yên tĩnh.

Thương quan khéo tay, có sức sáng tạo mới

Thực thần, hoà khí, khinh khứa đến đông

Thiên âm, trầm tư, có thể làm tham mưu

Chính ấn, hiền lành, điều giải được công việc

Kiếp tài là hỷ, bán tài sản tổ tông mà làm giàu

Kiếp tài là kỵ, ăn uống cờ bạc mà phá sản

Chính ấn văn tĩnh, chính quan cẩn thận giữ quan

Thiên ấn bế tắc, kinh doanh nên mở cửa hàng

Thất sát cứng cổ, thương quan mẫn tiệp, kinh doanh nên là trường đấu.

Quan sát, ấn tinh trong Bát tự trùng nhau là công chức, nhưng hỷ kỵ thì có cách xem khác.

Thực thương tài tinh trong bát tự trùng nhau, có thể làm kình doanh nhưng hỷ kỵ thì có cách xem khác.

Kinh doanh, bát tự hỷ Mộc, thì hành nghề thuộc Mộc là tốt, các loại khác cũng vậy.

Tổng hợp những điều nói trên, Lương Tâm Minh định cư ở Bản Kiểu Đài Loan cho rằng: Trong cuộc đời, con người đi tìm nghề nên thận trọng, nếu như tìm đúng được nghề hợp với hỷ thần trong mệnh là hay nhất, mà thành tựu cũng lớn, nếu làm nghề trùng với kỵ hung thần trong mệnh, thì lao tâm lao lực mà không đạt được gì.

Tuy nói như vậy, nhưng con người sinh ở trên đời, nghề nghiệp chịu nhiều nhân tố ràng buộc như hoàn cảnh, nhân sự, thòi cơ, hơn nữa, còn có vấn đề nhu cầu của xã hội, còn bị các nhân tố bên ngoài chi phối, không phải mình muôn làm gì là được làm việc ấy.

Cũng như những bông hoa trên một cây bị gió thổi lung lay có bông nằm trên gối thêu hoặc được cài trên đâu người đẹp, có bông rơi xuống vũng bùn, có bông bị người ta dày dưới gót chân, huống hồ là con người? Lý Bạch Đào đã nói thế này: “trời đã cho người ta tài ắt phải dùng” cứ nghĩ như vậy thì anh đừng buồn chán khi mình chưa tìm được vị trí thích hợp. Hãy cứ vững tin đứng chắc trên vị trí hiện có của mình, phát ra ánh sáng và ngọn lửa nhiệt tình, công hiến cho loài người tài năng đang có của mình, sẽ có cơ may điều chỉnh vận số” tương lai của mình.

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành hỉ dụng thần với lựa chọn nghề nghiệp

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992 - Tuổi thân - Xem Tử Vi

Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992, Tuổi thân, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992, tu vi Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992, tu vi Tuổi thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992

Tử vi tuổi Thân, hôm nay 12 con giáp sẽ cho bạn biết khi tiến hành kết hôn tuổi Nhâm Thân – 1992 lưu ý những điều sau:
  • Trai kỵ cưới vợ năm 16, 22, 28, 34, 40, 46, 52 tuổi.
  • Gái kỵ có chồng năm 16, 22, 28, 34, 40, 46, 52 tuổi.
  • Trai hay gái gặp buồn phiền bất nhân duyên, sinh nhằm tháng 4, tháng 10.
  • Hướng căn duyên : Mùi.
  • Trai có số lưu thê hoặc đa đoan về việc vợ : Sinh tháng 1, 5, 6, 9 và tháng 12
  • Gái cố số lưu phu hoặc trái cảnh: Sinh tháng 1, 10, 2 và tháng 12. Gái có số khắc con, khó sinh và khó nuôi : sinh các tháng 12 và tháng 3.
  • Trai kiêng kỵ cưới gả vào năm Mão, hợp với Can Đinh, Kỵ can Mâu. Hợp các tuổi Tí, Thìn. Kỵ các tuổi Dần – Hợi. Đối với các tuổi khác thì Bình Hòa.
tuoi-ky-ket-hon-tuoi-nham-than-1992

 

1. So duyên theo Phi Cung Tuổi Nhâm Thân 1992

Tuổi Nhâm Thân 1992 mệnh Khôn, phi Cấn 

  • Trai Nhâm Thân – Gái Nhâm Thân ( Cấn/ Đoài) : Phúc Đức
  • Trai Nhâm Thân – Gái Giáp Tuất (Cấn/ Cấn ) : Quy hồn
  • Trai Nhâm Thân – Gái Ất Hợi ( Cấn/ Khảm ) : Ngũ Quỷ
  • Trai Nhâm Thân – Gái Bính Tý ( Cấn/ Khôn) : Sinh Khí
  • Trai Nhâm Thân – Gái Đinh Sửu ( Cấn/ Chấn): Du hồn
  • Trai Nhâm Thân – Gái Mậu Dần ( Cấn/ Tốn ) : Tuyệt mạng
  • Trai Nhâm Thân – Gái Kỷ Mão ( Cấn/ Cấn ) : Quy hồn
  • Trai Nhâm Thân – Gái Canh Thìn ( Cấn/ Càn) : Thiên y
  • Trai Nhâm Thân – Gái Tân Tỵ ( Cấn/ Đoài) : Phúc Đức
  • Trai Nhâm Thân – Gái Nhâm Ngọ ( Cấn/ Cấn ): Quy hồn
  • Trai Nhâm Thân – Quý Mùi ( Cấn / Ly ): Tuyệt mạng
  • Trai Nhâm Thân – Gái Giáp Thân ( Cấn/ Khảm ) : Ngũ Quỷ

2. Những lưu ý và đại kỵ kết hôn theo tiền định của tuổi Nhâm Thân 1992

Trai tuổi Nhâm Thân đại kỵ lấy vợ có tuổi dưới đây

  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Ất Hợi . Chồng hơn vợ 3 tuổi phạm tuyệt mang.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Bính Tý. Chông lớn hơn vợ 4 tuổi phạm Biệt Ly.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Nhâm Ngọ. Chồng lớn hơn vợ 10 tuổi phạm Biệt Ly.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Đinh Hợi. Chồng lớn hơn vợ 15 tuổi phạm Tuyệt Mạng.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Mậu Tý. Chồng lớn hơn vợ 16 tuổi phạm Biệt Ly.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Canh Ngọ. Vợ lớn hơn chồng 2 tuổi phạm Biệt Ly.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Giáp Tý. Chồng ít hơn vợ 8 tuổi phạm Biệt Ly.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992 - Tuổi thân - Xem Tử Vi

Đoán tính cách của các chàng trai qua ngón chân

Những đặc điểm của ngón chân cũng có thể tiết lộ nhiều điều về tính tình của các chàng trai đấy!
Đoán tính cách của các chàng trai qua ngón chân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ngón chân cái

Nếu ngón chân cái của anh ấy dài hơn nhiều so với những ngón chân khác, đó thực sự là một người thông minh, suy nghĩ sáng tạo. Anh ấy có khả năng xoay sở, ứng phó tốt trong nhiều tình huống và sự sáng tạo thường xuyên giúp anh đạt được những kết quả tốt. Bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy anh ấy tỏ ra bối rối trước bất kỳ câu hỏi nào. Tuy nhiên, khả năng tập trung của những chàng trai này lại thường không cao.  

Nếu anh ấy sở hữu ngón chân cái nhỏ, đây là một chàng trai khá tham công tiếc việc và thường đạt được nhiều thành công trong công việc. Khả năng làm việc của anh ấy thường rất được cấp trên tín nhiệm, nhưng đó cũng chính là lý do khiến anh không có nhiều thời gian dành cho những mối quan hệ tình cảm. Tuy vậy, anh ấy vẫn luôn là người có sức hút và rất biết cách sử dụng sự thu hút của bản thân để thuyết phục những người khác nghe theo ý kiến của mình.

2. Ngón chân thứ hai

Ngón chân thứ hai càng dài thì chàng trai của bạn càng có phẩm chất và năng khiếu lãnh đạo. Nhờ có sự năng động và tháo vát, anh ấy sẽ dễ dàng hiện thực hóa những ước mơ của bản thân và thường theo những lối đi độc đáo, không giống những thế hệ đã đi trước.

Ngón chân thứ hai nhỏ và ngắn thường của những chàng trai điềm tĩnh, biết kiên nhẫn chờ tới thời cơ. Anh ấy sẽ không bao giờ háo thắng thể hiện bản thân mình, luôn biết cách nhẫn nhịn những lúc cần thiết để rồi sau này vươn lên bùng nổ. Có thể vẻ ngoài của chàng hơi khù khờ, vô hại nhưng rất có thể anh ấy “tẩm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi” đấy!

feet-1-4274-1404539487.jpg

3. Ngón chân giữa

Theo nhân trắc học Trung Quốc, hình dáng của ngón chân giữa chính là tượng trưng cho sự bền bỉ và sức mạnh ý chí. Nếu chàng trai của bạn sở hữu ngón chân giữa tương đối dài, thì rất có thể anh ấy là người vô cùng năng động và tháo vát, đặc biệt là trong công việc. Bên cạnh đó, anh ấy còn là một người cầu toàn, có đầu óc kinh doanh và có thể đạt được số tiền rất lớn với quyết tâm và năng lượng của bản thân. Nhược điểm lớn của những chàng trai này là vì quá đam mê công việc mà quên đi niềm vui riêng của bản thân cũng như tình yêu và gia đình. 

Nếu ngón chân giữa ngắn, đây lại là một chàng trai không hề tham cạnh tranh, sân si mà thích tận hưởng những thú vui trong cuộc sống hơn. Anh ấy yêu thích thư giãn và không bao giờ làm nhặng xị lên về bất cứ vấn đề gì. Những người khác có thể nghĩ rằng anh ấy hơi lười biếng, nhưng anh ấy sẽ chẳng bận tâm đâu bởi anh ấy luôn tâm niệm rằng “Cuộc sống này quá ngắn để có thể tận hưởng hết được nó”.

4. Ngón chân áp út

Ngón chân thứ tư cho thấy cách suy nghĩ và quan niệm của các chàng trai về gia đình. Ngón chân áp út càng dài và càng thẳng chứng tỏ gia đình đóng một vai trò hết sức quan trọng với cuộc sống của anh ấy. 

Ngón chân này càng cong thì càng có nhiều khúc mắc và những chuyện không vui trong mối quan hệ của anh ấy đối với gia đình. Bên cạnh đó, chàng trai có ngón chân áp út cong thường có một tâm hồn nhẹ nhàng và rất dễ bị tổn thương về cả tinh thần và sức khỏe.

Nếu anh ấy có ngón chân thứ tư ngắn, có lẽ gia đình không phải mối quan tâm và ưu tiên hàng đầu của chàng trai này.

5. Ngón chân út

Ngón chân út càng nhỏ thì tính cách chàng trai của bạn càng trẻ trung và trẻ con. Thực sự, anh ấy không phải là người có trách nhiệm, hay bị thu hút bởi những thứ mới mẻ, cả thèm chóng chán. Dù vậy, anh ấy rất cởi mở, hài hước và luôn khiến mọi người cười vui ở bất cứ nơi đâu mình xuất hiện.

Và nếu anh ấy có thể ngọ nguậy ngón chân út một cách đơn lẻ và dễ dàng mà không làm ảnh hưởng quá nhiều tới ngón chân áp út, thì đây thực sự là một chàng trai bốc đồng, ưa mạo hiểm và thích được tán tỉnh. Còn nếu ngược lại, thì anh ấy sở hữu khả năng dự đoán chính xác và lòng trung thành đáng trân trọng. Bạn có thể chìm đắm trong tình yêu với một chàng trai có thể ngọ nguậy dễ dàng ngón chân út nhưng có khả năng bạn sẽ phải chìm đắm trong đau khổ nếu kết hôn với một người như vậy.

Fon Fon

chan1-1397327387-1397327408-5226-1404539

Bàn chân 'tự thú' về con người bạn

Một khám phá thú vị về tính cách qua hình dáng, kích thước bàn chân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách của các chàng trai qua ngón chân

Tham Linh thành tựu, Tham Hổ tai ương

Hổ là một bại tinh bản tính quyết liệt, nên Tham Lang hãm địa thiếu uy lực gặp Hổ cùng cung khó lòng tránh khỏi tai nạn, miếu vượng cũng phiền toái. Lý tương tự như trường hợp Liêm Trinh.
Tham Linh thành tựu, Tham Hổ tai ương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chú ý : Có Thanh Long hội họp thì thành cách "Thanh Long Bạch Hổ ". Trong trường hợp này Bạch Hổ không còn tác họa nữa mà biến thành một yếu tố thành công.

Tham Lang là một trong bộ ba Sát Phá Tham tất phải có sát tinh phù hợp . Lục sát có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp. Ta đã biết Phá Quân hợp Không Kiếp, Thất Sát hợp Kình Đà; suy ra Tham Lang hợp Hỏa Linh.

Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh, ví như ngọn lửa âm thầm, giúp Tham Lang thuộc mộc được nung nóng, thành tựu nhưng không phải là đột phát.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tham Linh thành tựu, Tham Hổ tai ương

Hóa giải "Thanh sát" do hàng xóm quanh nhà ầm ĩ

Nhà gần chợ, sân bay, lò rèn, công trường,...thường gặp ở các thành phố hiện nay. Những ngôi nhà xung quanh ồn ã như vậy trong phong thủy bị coi như phạm phải "Thanh sát".

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, một số loại sát khí tạo nên do cách bài trí nội thất có thể dễ dàng hóa giải. Ví dụ như phạm mũi tên độc do góc tủ thì chỉ cần điều chỉnh vị trí tủ và giường ngủ, hay như phá bỏ cây khô chết để trồng cây mới. Tuy nhinê, một số hung sát do miô trường xung quanh tạo nên đôi khi làm chủ nhà lúng túng trong cách hóa giải như nhà gần sây bay, nghĩa trang, chùa chiền,...

Một trong những loại sát khí tạo ra do môi trường xung quanh thường gặp nhất ở đô thị lớn là "Thanh sát". Thanh sát xảy ra khi gia đình thường xuyên phải chịu đựng tiếng ồn lớn từ những căn nhà kế bên do xây dựng, lò rèn, xưởng cơ khí, hàng sửa xe,...Những người sống trong ngôi nhà bị thanh sát sẽ rơi vào tình trạng tâm tình bất ổn, lòng dạ bồn chồn, khó có thể làm được việc lớn.

 hoa giai

Để hóa giải tình trạng này, trước hết cần giảm bớt tiếng ồn trong nhà bằng cách xây phòng cách âm, đóng chặt cửa nẻo khi ra vào. Tiếng ồn giảm bớt cũng giúp tâm trạng bình ổn hơn. Hoặc bạn có thể mở những bản nhạc dịu nhẹ mà mình ưa thích để át đi tiếng chát chúa xung quanh.

Trong phong thủy, chuông gió được sử dụng làm vật khắc chế những nguồn năng lượng xấu đồng thời nó có vai trò cực kỳ to lớn trong việc phát tán, luân chuyển năng lượng tích cực trong nhà. Do vậy, khi vị trí của ngôi nhà phạm thanh sát, các dòng năng lượng tiêu cực xung quanh sẽ bị xua tan bởi những cây chuông gió treo ở cửa ra vào, cửa sổ hay bốn góc nhà. Âm thanh leng keng do chúng tạo ra luôn khiến tinh thần cảm thấy dễ chịu. 

 hoa giai

Tuy vậy, nếu tiếng ồn quá lớn diễn ra trong thời gian dài và vào thời điểm gia đình cần nghỉ ngơi thì không nên chịu đựng mà phải ý kiến với hàng xóm hoặc báo chính quyền.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải "Thanh sát" do hàng xóm quanh nhà ầm ĩ

Tướng bàn tay của người nghèo khổ suốt đời

Nhân tướng học cho rằng bàn tay cho biết vận trình sướng khổ của một đời người. Nếu sinh ra bàn tay bị dị tật, biến dạng thì đó là tướng bàn tay của người
Tướng bàn tay của người nghèo khổ suốt đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhân tướng học cho rằng bàn tay cho biết vận trình sướng khổ của một đời người. Nếu sinh ra bàn tay bị dị tật, biến dạng thì đó là điềm xui xẻo, báo hiệu cuộc sống nghèo khổ, chật vật.
 

► Đoán vận mệnh, tài lộc của bạn qua việc xem bói ngày sinh và tự xem chỉ tay đơn giản

1. Bàn tay 6 ngón
 
Ngay từ khi sinh ra, nếu bàn tay bị dị tật bất thường như có 6 ngón là điềm báo xấu, tiên đoán số phận long đong lận đận của chủ nhân. Nam giới có tướng bàn tay này thì vận thế thời niên thiếu không tốt, nhưng nếu tích cực cố gắng và thay đổi, khi đến tuổi trung niên vận thế sẽ khởi sắc, cuộc sống thuận lợi và tốt đẹp hơn.

2. Bàn tay mỏng và phẳng
 
Đa phần người có bàn tay mỏng và phẳng thường có số mệnh nghèo khó, dù cả đời làm lụng vất vả, nỗ lực đến hơi thở cuối cùng vẫn không có số giàu sang, thậm chí phải lo ăn từng bữa. 

Tuong ban tay cua nguoi ngheo kho suot doi hinh anh
Ảnh minh họa

Ngoài ra, nếu trên bàn tay nổi nhiều gân xanh, da dẻ nhợt nhạt là dấu hiệu cho thấy người này dễ gặp xui xẻo hoặc tai nạn bất ngờ. Nếu trên gò Kim tinh có màu vàng sạm báo hiệu trong thời gian tới người này sẽ bị mất tiền của hoặc đồ đạc. Trường hợp đường chỉ tay Sự nghiệp có màu xám đậm chứng tỏ đó là người thường ảo tưởng về bản thân, đồng thời tính tình ích kỉ và khó giữ được tiền bạc.

3. Ngón tay trỏ quá dài
 
Người có ngón tay trỏ quá dài thường tính tình kiêu căng ngạo mạn, thích khoe khoang, hay áp đặt suy nghĩ của mình lên người khác, lúc giàu có thì lên mặt dạy đời. Chính những tính cách này khiến họ không được lòng mọi người xung quanh và khó giữ được tiền của.
 
Ngoài ra, nếu ngón tay trỏ quá ngắn thì là người thiếu tinh thần trách nhiệm, chí tiến thủ và ít quan tâm tới tiền bạc. Nếu ngón này tương đối dài lại là người có tính tình ngoan cường, nhiều mưu đồ.

4. Bàn tay nổi gân xanh kéo dài
 
Nếu một ngày nào đó bàn tay nổi gân xanh đột ngột, những đường gân này nổi lên rõ ràng và kéo dài khoảng 3 tháng trở đi, bạn nên cẩn thận đề phòng tổn thất lớn về tiền bạc, thậm chí phải mắc khoản nợ khổng lồ.

ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng bàn tay của người nghèo khổ suốt đời

sai lầm trong phong thủy phòng khách

Trong phòng khách, có nhiều người dù biết là các mãnh thú: sư tử, hổ, báo … ngồi, nằm trợn mắt, nhe nanh múa vuốt…. làm bằng đất đá 100% những vẫn đặt cả bục,
sai lầm trong phong thủy phòng khách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Trong phòng khách, có nhiều người dù biết là các mãnh thú: sư tử, hổ, báo … ngồi, nằm trợn mắt, nhe nanh múa vuốt…. làm bằng đất đá 100% những vẫn đặt cả bục, kệ hẳn hoi cho các “ngài”.

Thú chơi mãnh thú này có từ thời thượng cổ. Chỉ để các “ngài” trông giữ cửa đền miếu, đình, chùa, cửa công quyền, nhà quyền quý hù doạ người qua đường, con nít, kẻ bất lương yếu bóng vía. Chứ đâu được ngồi chễm chệ ở phòng tiếp khách. Chủ khách tâm đầu ý hợp ra về còn dùng dằng đâu cần các “ngài” xua đuổi. Việc này người xưa chưa làm thế bao giờ.

Phòng khách có đặt bộ loa đài, dàn nghe nhạc, ti vi chủ khách ngồi đối ẩm, hàn huyên nhưng tai phải căng ra, mặt nhăn như bị để lắng nghe từng lời hay ý đẹp của nhau trong tiếng nhạc, tivi mở to át cả tiếng thiên hạ, thật vô phúc lại bị nghe một thứ nhạc phẩm ẽo ợt, đập phá ình ình. Phải làm khách trong hoàn cảnh này thật khó quá!
 

Phòng khách giản dị nhưng lại vô cùng thanh cao

Không ít phòng khách đã thiết kế cầu kì, màu sắc loạn xạ, tứ tung lại gắn lên tường một tấm gương to đến 2-3m² đối diện với chỗ chủ khách đang ngồi. Tấm gương vốn là vật làm duyên nay trở thành công cụ giám sát vào tình thế o ép, đánh mất sự tự nhiên vốn có trong giao tiếp, dồn nén thần kinh. Bị bao quanh không gian trên trần, dưới đất, phải trái toàn là bàn ghế, đèn đóm lập loè, nếu phải tiếp xúc một giờ hoặc hơn thế nữa với những người mẫn cảm, hẳn lúc ra về tâm thần sẽ bất ổn. Điều này thật bất tiện.

Ánh sáng thiên nhiên đủ, không nhất thiết phải nhờ đến công cụ chiếu sáng, đừng nên bật loại đèn có màu xanh xanh, đỏ đỏ quay tít vì có hại cho mắt, cho sức khỏe.

Nhìn lại người xưa có phòng tiếp khách, sang thì bộ tràng kỉ, khó thì bộ bàn ghế bằng tre gọn gàng tinh tế, trên bàn bày bộ bàn trà tươm tất, kê thêm vài chiếc đôn ghế bằng tre, một lọ hoa lan phớt màu vàng nhạt, hoặc đúng mùa thì bày thêm một vài bông cúc vàng ươm. Đôi khi cũng thấy ở trên đôn đặt cái liễn lam tuyền, một cây mai thế nhỏ, phất phơ mấy nụ mai, hơn nữa trên tường bộ tranh nhỏ xinh xắn vẽ bốn mùa xuân – hạ – thu – đông, tố nữ đàn hát. Phòng khách giản dị, thanh cao thân thiết đến vô cùng.

 

Theo Phong Thủy Nhà Ở


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: sai lầm trong phong thủy phòng khách

Văn Khấn Lễ Ban Công đồng

Văn Khấn Lễ Ban Công đồng thường dùng vì khắp nơi đều có các Đình, Đến, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu.
Văn Khấn Lễ Ban Công đồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Lễ Ban Công đồng thường dùng theo tập tục văn hoá truyền thống, ở mỗi tỉnh thành, làng, xã Việt Nam đều có các Đình, Đến, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu.

Các vị thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam.

Ngày nay, theo nếp xưa người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở các Đình, Đền, Miếu, Phủ vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước.

Đình, Đền, Miếu, Phủ cùng với sự lưu truyền sự linh diệu của các thần trong nhiều trường hợp đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc duy trì tình cảm yêu nước. Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…

Sắm lễ cúng Ban Công đồng

Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.

– Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.

– Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.

– Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.

– Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.

– Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.

– Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.

Hạ lễ cúng Ban Công đồng

Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.

Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.

Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.

Văn Khấn lễ Ban Công đồng

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!

– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, Chư phật mười phương

– Con lạy đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng đế

– Con lạy Tam Toà Thánh Mẫu

– Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh

– Con lạy Tứ phủ Khâm sai

– Con lạy Chầu bà Thủ Mệnh

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Hoàng

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cô

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cậu

– Con lạy cộng đồng các Giá, các Quan, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.

– Con lạy quan Chầu gia.

Hương tử con là:……………………

Cùng đồng gia quyển đẳng, nam nữ tử tôn

Ngụ tại:……………………………….

Hôm nay là ngày….. tháng….. năm Tín chủ con về đây……… thành tâm kính lễ, xin Chúa phù hộ độ trì cho gia đình chúng con sức khoẻ dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Lễ Ban Công đồng

SAO TRỰC PHÙ TRONG TỬ VI

trực phù (Kim) *** 1. Ý nghĩa của trực phù: - trực tính, ăn ngay nói thẳng, không sợ mếch lòng ...
SAO TRỰC PHÙ TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 trực phù (Kim) 



***

1. Ý nghĩa của trực phù:             - trực tính, ăn ngay nói thẳng, không sợ mếch lòng hay động chạm do đó có nghĩa như không cẩn ngôn, vụng về trong lời nói. Nếu Thái Tuế đi liền với Trực Phù thì người đó vừa nói nhiều, vừa nói thẳng.             - nhỏ mọn, hay câu chấp những tiểu tiết do đó có tính gian của kẻ tiểu nhân, nhỏ mọn, gian vặt, dùng mẹo nhỏ để hại người, nói xấu người.

2. Ý nghĩa của trực phù và một số sao khác:
Trực Phù, Thái Tuế: nói nhiều, nói thẳng và nói xấu
Trực Phù, Đế Vượng: ngụy quân tử, bề ngoài quân tử, bề trong tiểu nhân; có lời nói quân tử mà lòng dạ tiểu nhân
Trực Phù, Tử Vi: nghĩa tương tự như trên nhưng Tử Vi nặng về trung hậu nên giảm chế tính cách tiểu nhân của Trực Phù rất nhiều và mạnh hơn Đế Vượng. Nếu thêm Thiên Tướng hội họp thì cái dở giảm nhiều hơn nữa.
Trực Phù, Thái Tuế, Tang Môn: bất hòa, gây thù chuốc oán.
Trực Phù, Đào, Hồng, Cái, Phục, Tướng, Phá: dâm đãng
Các bộ sao trên nằm ở cung nào sẽ có ý nghĩa tùy theo cung đó.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO TRỰC PHÙ TRONG TỬ VI

Những con giáp lạc quan nhất quả đất

Những người tuổi Thân, Mùi, Sửu luôn lạc quan về cuộc sống dù vấp phải không ít khó khăn về vật chất, tình cảm.
Những con giáp lạc quan nhất quả đất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán quân: Tuổi Thân

Người tuổi Thân tôn sùng cuộc sống tự do bay nhảy, không bị ràng buộc cũng như gượng ép bản thân phải làm những việc mình không thích. Không ít người cho rằng, con giáp này cố chấp, chỉ biết sống cho mình mà không nghĩ tới mọi người xung quanh. Thực ra, người tuổi Thân không tự kiêu tự đại như vậy đâu nhé! Họ cũng có một trái tim biết yêu thương và chia sẻ.

Than-5415-1421763461.jpg

Vì họ quá lạc quan tin tưởng vào mọi quyết định của mình cũng như không lường trước được những rủi ro sẽ xảy ra, nên đôi khi coi nhẹ sự góp ý của mọi người. Bạn cứ để ý theo dõi nhé, khi cách làm của họ không ổn, họ sẽ chủ động liên hệ và xin ý kiến tư vấn của bạn bè, người thân. Sự lạc quan, tin tưởng vào những điều tốt đẹp là một trong những yếu tố giúp con giáp này gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp và cuộc sống.

Á quân: Tuổi Mùi

Dường như lo lắng vật chất không bao giờ trở thành nỗi ám ảnh của người tuổi Mùi. Họ có thái độ sống vô cùng lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng đang chờ đợi mình phía trước. Với con giáp này, một cánh cửa đóng lại cũng là lúc cánh cửa khác mở ra. Vì vậy, họ không bao giờ tạo áp lực cho mình để rồi suy nghĩ một cách tiêu cực.

Mui-4843-1421763462.jpg

Người tuổi Mùi không những biết cách cân bằng cuộc sống tình cảm, mà đời sống vật chất cũng không ngoại lệ. Họ biết cách kiếm tiền, đồng thời khá sành sỏi trong việc tiêu tiền hưởng thụ. Vật chất chỉ là thứ phù du, đến rồi cũng sẽ ra đi. Do đó, họ tâm niệm sống làm sao phải vui vẻ, hạnh phúc và thoải mái là được. 

No3: Tuổi Sửu

Dù trời có sập vẫn không ngăn nổi những suy nghĩ lạc quan, vui vẻ của người tuổi Sửu. Bình thường họ ít nói vậy thôi, nhưng khi được “gãi đúng chỗ ngứa”, họ sẽ bộc lộ sở trường về tài ăn nói của mình.

Suu-1700-1421763462.jpg

Khi đối diện với thách thức, thay vì hoang mang lo lắng, người tuổi Sửu lại điềm tĩnh và lạc quan nhìn nhận vấn đề. Họ tin rằng, mọi chuyện đều có cách giải quyết triệt để. Do đó, họ không mất công lo lắng về những thứ không đâu ảnh hưởng không tốt tới tinh thần.

Mr.Bull (theo SN)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp lạc quan nhất quả đất

Chùa Đại Tuệ - Nghệ An

Chùa Đại Tuệ là ngôi chùa cổ tọa lạc trên đỉnh cao nhất của dãy núi Đại Huệ, thuộc xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Chùa Đại Tuệ - Nghệ An

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Đại Tuệ là ngôi chùa cổ tọa lạc trên đỉnh cao nhất của dãy núi Đại Huệ, thuộc xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Chùa được Thượng Tọa Thích Thọ Lạc trụ trì.

Chùa cổ Đại Tuệ thờ Phật Bà Đại Tuệ tức là đại diện cho trí tuệ của Đức Phật (Tuệ Giác, Tuệ Kiếm, Tuệ Lực, Tuệ Tâm, Tuệ Mục, Tuệ Nhãn). Đây là nơi duy nhất trên đất nước ta có ngôi chùa thờ Phật bà Đại Tuệ.

Chùa Đại Tuệ ghi dấu Phật giáo lâu đời trên vùng đất Nghệ An, non nước điệp trùng, trời mây tụ khí lành, cây cỏ xanh tươi bốn mùa. Qua thời gian, chùa Đại Tuệ chỉ còn phế tích. Song nhân dân địa phương và du khách vẫn hằng ngày trèo đèo, lội suối, rẽ lau lách, cỏ dại, tìm đường lên nền chùa thắp hương cầu Phật và phụng thờ những người có công với nước.

Sử sách ghi chép lại, chùa có cách đây trên 600 năm do Vua Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương xây để thờ Phật bà Đại Tuệ – người đã có công phù hộ cho nhà Hồ xây thành đắp luỹ trên núi Đại Huệ để chống giặc Minh xâm lược nước ta. Khi Vua Quang Trung hành quân ra Bắc đại phá 29 vạn quân Thanh vào mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789 có nghỉ tại đây, đêm đến được sư bà ở chùa mách bảo đi theo đường thượng đạo (truông Băng) để hành quân ra thành Thăng Long vừa nhanh mà tránh được phục kích. Khi chiến thắng trở về, Hoàng đế Quang Trung xuống chiếu cắt 20 mẫu đất làm chùa.

Chùa tọa lạc trên khuôn viên khoảng 600m2, ở độ cao hơn 450m so với mực nước biển trong một không gian tĩnh lặng,cảnh vật thơ mộng, hữu tình. Đứng từ đây, có thể chiêm ngưỡng cả một vùng di tích danh thắng bao quanh. Nơi đây trời đất linh thiêng.

Sau lưng chùa là đỉnh động Thăng Thiên có bàn cờ Tiên bằng đá. Cách chùa một trăm mét về phía Tây có tảng đá lớn khoảng năm khối, dùng đá gõ vào phát âm thanh như tiếng mõ (nhân dân gọi là Đá Mõ). Trước chùa có một tảng đá lớn giống như ngai vàng (Thạch Ngai) không ai dám ngồi vì tương truyền Thạch Ngai là nơi xưa Hồ Quí Ly và Quang Trung Nguyễn Huệ từng ngồi. Trước chùa khoảng bốn trăm mét có hai trụ đá lớn dựng đứng như cổng chùa thiên tạo. Cạnh chùa có giếng nước cổ sâu hơn hai mét, không bao giờ cạn. Sườn núi hai bên có khe Trúc, khe Mai, lại có ao sen cổ…

Thiên nhiên ban tặng cho huyện Nam Đàn một quần thể danh thắng thiên nhiên vô cùng hấp dẫn , khí hậu trong lành, phong cảnh nên thơ như núi Đại Huệ. Chùa Đại Tuệ là danh thắng kỳ thú nằm trên dãy Đại Huệ, ôm ấp lấy một vùng đất được gọi là “địa linh nhân kiệt”. Đây là không gian tâm linh thiêng liêng, hướng tới sẽ là một khu Di tích Lịch sử Văn hoá có tầm vóc tương xứng với giá trị lịch sử của chùa – Một khu du lịch tâm linh, sinh thái hấp dẫn làm thoả lòng phật tử và du khách thập phương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Đại Tuệ - Nghệ An

Xem bói vận mệnh người tuổi Tý mệnh Hỏa

Người tuổi Tý mệnh Hỏa là những người sinh năm Mậu Tý 1948 hoặc 2008. Họ thường có vẻ ngoài tràn đầy sức sống và trái tim nhiệt huyết, luôn lạc quan, yêu
Xem bói vận mệnh người tuổi Tý mệnh Hỏa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuoi Ty (8)
 

Người tuổi Tý mệnh Hỏa là những người sinh năm Mậu Tý (1948 hoặc 2008). Họ thường có vẻ ngoài tràn đầy sức sống và trái tim nhiệt huyết, luôn lạc quan, yêu đời. Họ mang trong mình chí tiến thủ mạnh mẽ, không ngại khó khăn, gian khổ, luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đây cũng là những người chính trực, giỏi giao tiếp, được bạn bè và đồng nghiệp quý mến.

Với tính cách cởi mở, phóng khoáng, người tuổi Tý mệnh Hỏa thích tham gia các hoạt động tập thể cùng bạn bè, người thân. Họ cũng rất có hứng thú với các môn thể thao mạo hiểm như leo núi, bơi lặn… Tuy có khá nhiều ưu điểm nhưng nếu rèn luyện được tính kiên nhẫn thì hình ảnh của họ trong mắt mọi người sẽ ngày càng tốt đẹp hơn. Đức tính kiên nhẫn cũng sẽ giúp họ đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp và cuộc sống.

Người tuổi Tý mệnh Hỏa có Phúc thần tương trợ trong bản mệnh. Họ được hưởng sự yên bình và hạnh phúc trọn đời.

Các bài viết sau cùng chủ đề người tuổi Tý, có thể bạn quan tâm:

Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tuổi Tý hợp với tuổi nào trong tình yêu, hôn nhân Tuổi Tý nên kết hợp làm ăn với tuổi nào? Bài trí phong thủy văn phòng cho người tuổi Tý dễ phát tài

(Theo 12 con giáp về cuộc đời và sự nghiệp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói vận mệnh người tuổi Tý mệnh Hỏa

4 chòm sao tuyệt tình nhất, yêu hết mình, chia tay hết tình

4 chòm sao tuyệt tình nhất dưới đây yêu hết mình, chia tay hết tình. Họ yêu rất sâu đậm nhưng khi chia tay thì đặc biệt rõ ràng, dứt khoát, không dây dưa
4 chòm sao tuyệt tình nhất, yêu hết mình, chia tay hết tình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có người cho rằng, nếu thực sự yêu thương thì dù có chia tay cũng vẫn còn vấn vương nhưng có người lại nói, chia tay rồi phải hoàn toàn cắt đứt, trở thành bạn bè mới là tình yêu đích thực. 4 chòm sao tuyệt tình dưới đây chính là như thế, yêu hết mình, chia tay hết tình.


4 chom sao tuyet tinh nhat, yeu het minh, chia tay het tinh hinh anh
 

Nhân Mã

  Tình yêu của Nhân Mã rất sâu đậm nhưng ở thời điểm chia thì đặc biệt rõ ràng, dứt khoát, tuyệt đối không dây dưa. Nhân Mã luôn cho rằng, cuộc sống chính là ở phía trước, tương lai mới là thứ đáng quý trọng hơn đối với bản thân mình. Thế nên, họ căn bản là không có thời gian để lãng phí vào người ở thời quá khứ, càng không hơi sức đâu mà níu kéo, buồn bã vì những điều đã qua hay để cho chúng làm ảnh hưởng tới mối tình sau đó. Đã yêu thì không chia tay, đã chia tay tức là không còn yêu, Nhân Mã đúng là chòm sao tuyệt tình.  

Kim Ngưu

  Theo tử vi 12 cung hoàng đạo thì Kim Ngưu vốn tính hiền lành, chân thật nhưng cũng rất chín chắn và trưởng thành. Họ yêu thì sâu đậm, hết lòng hết dạ nhưng chia tay rồi sẽ không vương vấn kéo dài. Chòm sao thực tế như Kim Ngưu hiểu rằng, nếu không đi đến cuối con đường thì tình yêu chẳng có nghĩa lý gì cả, không thể vì chút tình cảm cũ mà ảnh hưởng tới hiện tại, tương lai. Nên chia tay là cắt đứt toàn diện, không cho cả hai có cơ hội mà dùng dằng.

Xử Nữ

  Cứng rắn và lý trí, Xử nữ tin rằng, yêu là yêu, thương là thương, chia tay rồi thì phải giải thoát hoàn toàn cho nhau để còn hướng tới những điều tốt đẹp hơn. Không thể quẩn quanh mãi trong mối tính cũ. Nếu đã không thể sống thiếu nhau thì chắc chắn không chia tay, còn đã chia tay thì tức là có thể sống mà không có nhau bên cạnh. Nên cứ tự mình sống tốt đi thôi. Xử Nữ thật là chòm sao mạnh mẽ. Vậy bạn đã biết: Cung Xử Nữ hợp với cung nào để tình duyên luôn trọn vẹn chưa? 
4 chom sao tuyet tinh nhat, yeu het minh, chia tay het tinh hinh anh
 

Bạch Dương

  Tính cách của Bạch Dương rất rõ ràng, bất luận là yêu đương sống chết đến mức nào thì chia tay có nghĩa là kết thúc. Yêu một người là không do dự, không sợ hãi, không nản chí. Chia tay một người là không níu kéo, không vương vấn, không dằn vặt nhau. Nguyên tắc sống của Bạch Dương đơn giản tới mức khắc nghiệt nhưng lại rất thực tế, hiệu quả. Thà đau một lúc còn hơn là đau một đời. Khi yêu Bạch Dương, hãy nhớ kỹ: 10 điều nên nhớ khi yêu Bạch Dương   3 chòm sao khó thổ lộ tâm tư Điều 12 chàng trai hoàng đạo cực ghét bị bạn gái quản 3 chòm sao không bao giờ công khai tình cảm trên mạng xã hội Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 chòm sao tuyệt tình nhất, yêu hết mình, chia tay hết tình

Những kiêng kỵ khi lần đầu tiên mở cửa hàng –

Ngày nay có rất nhiều người lựa chọn đầu tư bằng cách mở cửa hàng. Nhưng điếu đó thật chẳng đơn giản chút nào, nó còn dính dáng đến nhiều quy trình như tìm địa điểm, vốn đầu tư, loại hàng để bán, cách tiêu thụ thế nào... Mà đối với những người lần đầ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày nay có rất nhiều người lựa chọn đầu tư bằng cách mở cửa hàng. Nhưng điếu đó thật chẳng đơn giản chút nào, nó còn dính dáng đến nhiều quy trình như tìm địa điểm, vốn đầu tư, loại hàng để bán, cách tiêu thụ thế nào… Mà đối với những người lần đầu tiên mở cửa hàng, sau nhiều tháng suy tính để quyết định mở vốn đầu tư mở cửa hàng thì lựa chọn địa điểm của cửa hàng là một yếu tố vô cùng then chốt. Vậy tìm cửa hàng thế nào đây?

Thông thường một cửa hàng sang trọng, có nhiều vượng khí trở thành sự lựa chọn đầu tiên của rất nhiều người. Nhưng với những ai khởi nghiệp lần đầu thì tiền thuê đắt đỏ và phí chuyển nhượng của nó khiến cho đồng vốn của họ vơi đi thấy rõ. Lúc này, vấn đề đầu tiên phải suy nghĩ chính là tính toán giá trị của cả cửa hàng. Đối với người mới thì giá thuê vị trí rất quan trọng, nhưng kinh doanh quản lý cả cửa hàng càng quan trọng hơn.

mo-cua-hang

Những ông chủ giỏi không nhờ dựa vào vị trí mà bán hàng thành công, họ suy nghĩ cách quản lý kinh doanh lâu dài bảo đảm đầu tư có lãi, tìm cách nâng tầm vị trí của cửa hàng mình lên.

Vì cửa hàng nhỏ mới khai trương nên mức độ danh tiếng và lượng khách hàng phải trải qua quá trình tích lũy. Có nhiều cửa hàng trong vòng một năm sau khi khai trương đã phải đóng cửa. Nếu cửa hàng của bạn mở ngay bên cạnh một cửa hàng nối tiếng thì xin chúc mừng vì bạn có thể được hưởng nhờ nó. Nếu hàng của bạn giống như hàng bán của cửa hàng nổi tiếng bên cạnh thì cửa hàng nhỏ của bạn vừa khai trương sẽ có ngay khách hàng tiêu thụ ban đầu.

Ưu tiên lựa chọn cửa hàng bên tay phải

Theo hướng dòng người đi thì hướng để người ta đến là bên tay phải. Nguyên nhân là do quy tắc giao thông của nước ta, phần lớn những người đi dạo thường đi bên tay phải của mình. Do vậy các cửa hàng, quầy hàng lớn nhỏ đều bày bên phải cao hơn bên tay trái là như vậy.

Không nên chọn cửa hàng ở gần những cửa hàng thường xuyên giảm giá

Nếu cửa hàng của bạn kinh doanh hàng tương đối chật chẽ chỉ giữ đúng giá thì bạn tuyệt đối không được chọn ở gần với những cửa hàng thuờng xuyên giảm giá (Ví dụ như cửa hàng quần áo, trang sức cho nữ giới…). Bởi vì người ta thích số đông, không khí mua sắm cũng vậy. Nếu một cửa hàng giảm giá thì các cửa hàng khác cũng phải làm theo thì khách hàng mới mua. Trong khi đó, cửa hàng của bạn không được giảm giá thì làm sao thu hút được khách hàng.

Không nên thuê truyền tay

Khi thuê cửa hãng, cố gắng tìm người chủ đích thực mà ký hợp đồng. Bởi vì nếu qua tay nhiều người sẽ gây tôn thất về tiền nong và nhiều vấn đề khác nảy sinh mà ta không giải quyết được.

Không nên tham thuê rẻ

Nếu nhà chủ đưa ra giá thuê rẻ hơn giá thuê bình thường thi bạn hãy cẩn thận. Có thể quyền sở hữu của ngôi nhà hoặc người chủ đang có vấn đề, hoặc ngôi nhà đó trong một thời gian ngắn sẽ bị giải tỏa. Nếu sau khi chứng minh ngôi nhà đó không nảy sinh vấn đề nào thì bạn đã may mắn rồi đó.

Cẩn thận thuê phải cửa hàng có lối đi ngang qua

Cửa hàng có lối đi ngang qua là chỉ cửa hàng có cửa nối thẳng với lối thoát của cửa, hình thành đường đi thông qua cửa hàng. Cửa hàng này luôn bị khách hàng cho rằng nó là một lối đi mà không chú ý gì đến hàng hóa bày trong cửa hàng. Ngoài ra, người qua lại rất nhiều, không những ảnh hưởng đến việc chọn lựa hàng của khách mà còn làm người bán hàng mất tập trung không giới thiệu được món hàng mình cần bán. Hơn nữa còn hay bị mất đồ gây nên tổn thất ngoài ý muốn cho doanh nghiệp.

Phải có tầm nhìn xa

Không phải cứ có địa điểm tốt là kiếm được tiền. Có khi vấp phải sự thay đổi trong quy hoạch của thị chính mà từ một nơi sầm uất cũng có thể trở nên vắng vẻ, tiêu điều.

Có rất nhiểu mảnh đất đang trong giai đoạn khai thác lại nhận được không gian đầu tư cực lớn. Do vậy, nhà đầu tư phải có tầm nhìn xa, hiểu biết được tình hình phát triển trong tương lai của mảnh đất mình cần sử dụng. Tất nhiên, ngoài việc tập trung tìm hiểu quy hoạch ra còn phải chú ý đến tình hình cạnh tranh đồng nghiệp trong tương lai.

Cùng liên minh biến khó thành dễ

Hiện nay có rất nhiều nhà cao tầng, khu đô thị mới mọc lên như nấm. Người ta dành những gian hàng ở tầng một để cho thuê. Tuy nhiên những gian hàng đó có diện tích rất to nên rất khó cho thuê mà giá cà thì không rẻ.

Trước tình hình như vậy, một số doanh nghiệp liên minh với nhau mua cửa hàng to đó rồi chia nhau. Tính ra thì họ tiết kiệm được một khoản tiền khá.
Tất nhiên các doanh nghiệp cần chú ý đầu tư vào cửa hàng phải có tầm nhìn xa để hiểu rõ kinh tế khu vực đó, mức thu nhập của người dân, quy hoạch khu nhà… để từ đó đưa ra biện pháp kinh doanh thích hợp như cần phải bán hàng loại nào, chất lượng và giá cả ra sao để người dân ở đó có thể chấp nhận được mà mình lại có lợi nhuận… Bời vì chọn được địa điếm tốt kinh doanh cũng phải tốt mới là điều quan trọng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kỵ khi lần đầu tiên mở cửa hàng –

Trung Thu tháng 8: Nâng cao sức khỏe bằng việc cải thiện phòng ăn

Trung Thu tháng 8, thời điểm gia đình đoàn viên, hãy cải thiện phong thủy phòng ăn của ngôi nhà để cũng nâng cao vận trình sức khỏe của mọi người trong nhà nào.
Trung Thu tháng 8: Nâng cao sức khỏe bằng việc cải thiện phòng ăn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trung Thu tháng 8, thời điểm gia đình đoàn viên, cùng nhau quây quần, hãy trang hoàng, cải thiện phong thủy phòng ăn của ngôi nhà để cũng nâng cao vận trình sức khỏe của tất cả mọi người trong nhà nào.


► Mời các bạn tham khảo: Ý nghĩa Tết Trung Thu theo truyền thống dân gian

Trung Thu thang 8 Nang cao suc khoe bang viec cai thien phong an hinh anh
 
Trung Thu tháng 8 không chỉ là dịp lễ hội lớn mà còn là lúc để gia đình hội họp, gia tăng tình cảm. Và trong muôn vàn điều ao ước, ước mong lớn nhất vẫn là tất cả mọi người đều mạnh khỏe, bình an. Cải thiện phong thủy phòng ăn sẽ đặc biệt có lợi trên phương diện này.    Trung Thu đoàn viên, vẫn là mong khỏe mạnh, mà muốn khỏe thì ăn uống phải tốt. Để nâng cao tinh thần ăn uống, hãy trang trí phòng ăn theo tông màu cam, giúp kích thích cảm cảm muốn ăn. Màu cam có hưng phấn độc đáo, giúp cảm nhận tốt hơn hương vị của thức ăn, kích thích ngon miệng.    Hơn nữa, màu sắc này còn lan tỏa cảm giác ấm áp, yên tĩnh khiến không khí vui vẻ, hài hòa, người trong phòng có thể thả lỏng tâm tình, hưởng thụ những bữa ăn một cách trọn vẹn nhất, thoải mái nhất vào dịp Trung Thu tháng 8.   Đồ dùng trong phòng ăn nhất định phải vững chãi, bàn ghế chắc chắn. Nếu bàn ghế lung lay sẽ mang đến cảm giác bất an cho người dùng bữa, ăn mất ngon, tiêu hóa không tốt, ảnh hưởng đến sức khỏe. Bàn ăn nên dùng loại trơn, ít trang trí, vì dù trang trí nhiều nhìn đẹp mắt nhưng lại không bằng phẳng, rối mắt, ảnh hưởng đến cảm giác của người dùng.   Phong thủy phòng ăn giúp tăng cường vận trình sức khỏe một cách rõ rệt nếu được trang trí bằng quả bầu gỗ. Quả bầu hay còn gọi là hồ lô, biểu tượng cho phúc lộc, treo trong phòng ăn tại phương Diên Niên, Sinh Khí, Thiên Y thì cực kì tốt lành. Có thể làm cho thân thể cường tráng, tinh thần vui vẻ, quan trọng nhất là hóa sát trừ tai, tiễu bệnh hưởng phúc, bảo vệ cho cả gia đình. 
Trung Thu thang 8 Nang cao suc khoe bang viec cai thien phong an hinh anh
 
Phòng ăn bày hoa không chỉ mang đến sự tươi tắn, đẹp đẽ trong dịp Trung Thu tháng 8 mà còn có tác dụng phong thủy rất tốt. Đặc biệt nên bày hoa cẩm chướng trong phòng ăn. Loài hoa này mang ý nghĩa lời cảm ơn, tình cảm lâu dài. Trong phong thủy học, phòng ăn là nơi gia đình đoàn tụ nên bày cẩm chướng với sắc màu ấm áp, đẹp mắt sẽ tăng cường cảm giác muốn ăn, xây dựng không khí hài hòa, trợ giúp sức khỏe. 
Thay đổi nhỏ, có phòng ăn hợp phong thủy Những điều cấm kị trong phong thủy nhà ở Lỗi phong thủy cần tránh khi đặt bàn ăn nếu không muốn rước họa Trần Hồng

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trung Thu tháng 8: Nâng cao sức khỏe bằng việc cải thiện phòng ăn

12 con giáp 'đối phó' sao xấu năm bản mệnh

Năm tuổi phạm sao Thái Tuế nên hay gặp vạ vào thân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm tuổi hay năm bản mệnh là những năm có con giáp đại diện giống hệt với năm mình sinh ra. Vì có 12 con giáp nên những năm bản mệnh sẽ quay lại cứ mỗi 12 năm một lần. Năm bản mệnh của bạn sẽ bắt đầu từ ngày đầu tiên của năm mới và kết thúc vào ngày âm lịch cuối cùng trong năm.

Con giáp Năm sinh

1912, 1924, 1936, 1948, 1960, 1972, 1984, 1996, 2008, 2020

Sửu

1913, 1925, 1937, 1949, 1961, 1973, 1985, 1997, 2009, 2021

Dần

1914, 1926, 1938, 1950, 1962, 1974, 1986, 1998, 2010, 2022

Mão

1915, 1927, 1939, 1951, 1963, 1975, 1987, 1999, 2011, 2023

Thìn

1916, 1928, 1940, 1952, 1964, 1976, 1988, 2000, 2012, 2024

Tị

1917, 1929, 1941, 1953, 1965, 1977, 1989, 2001, 2013, 2025

Ngọ

1918, 1930, 1942, 1954, 1966, 1978, 1990, 2002, 2014, 2026

Mùi

1919, 1931, 1943, 1955, 1967, 1979, 1991, 2003, 2015, 2027

Thân

1920, 1932, 1944, 1956, 1968, 1980, 1992, 2004, 2016, 2028

Dậu

1921, 1933, 1945, 1957, 1969, 1981, 1993, 2005, 2017, 2029

Tuất

1922, 1934, 1946, 1958, 1970, 1982, 1994, 2006, 2018, 2030

Hợi

1923, 1935, 1947, 1959, 1971, 1983, 1995, 2007, 2019, 2031

Tại sao là một năm bản mệnh lại không may mắn?

Theo chiêm tinh học Trung Quốc, mọi người trong năm bản mệnh bị sao Thái Tuế chiếu mệnh,. Trong năm tuổi, mọi người thường hay gặp tai ương bệnh tật hay cả chết chóc. Đặc biệt vào năm khoảng năm 36 - 37 tuổi, con người hay mang vận rủi thật nặng nề, có lúc nhà tan cửa nát. Lúc này, ngoài sao Thái Tuế (Mộc Tinh) chiếu mệnh, còn là năm nam gặp sao La Hầu, nữ gặp sao Kế Đô là hai ác tinh trong 9 sao hạn (Cửu diệu) hàng năm.

 12 con giap 'doi pho' sao xau nam ban menh - 1

Làm thế nào để may mắn trong năm tuổi

Theo truyền thống, có một số điều mà mọi người có thể làm để chống lại những điều không may mắn trong một năm hoàng đạo.

Sử dụng đồ màu đỏ

Màu đỏ là một trong những màu sắc may mắn nhất trong văn hóa các nước Á Đông, tượng trưng cho sự thịnh vượng, lòng trung thành, thành công và hạnh phúc. Màu đỏ có thể mang đến may mắn và xua đuổi linh hồn của quỷ dữ.

Do đó mặc màu đỏ trong năm hoàng đạo sẽ mang lại cho bạn may mắn. Bạn có thể đeo một chiếc thắt lưng màu đỏ, tất đỏ, giày đỏ, hoặc quần áo màu đỏ, và đồ lót màu đỏ. Bạn có thể đeo một chiếc vòng với dây chỉ đỏ trên tay để tăng thêm vận may cho mình.

Tuy nhiên, có một quy tắc mà bạn cần phải chú ý đến nếu không sẽ chẳng có tác dụng gì. Đồ may mắn của bạn không được tự mua cho mình mà nên được tặng bởi người yêu, người thân hay bạn bè.

12 con giap 'doi pho' sao xau nam ban menh - 2

Đeo ngọc

Bên cạnh việc mặc đồ màu đỏ, bạn cũng có thể đeo ngọc cầu an trong năm tuổi. Mặt dây chuyền, bông tai, nhẫn, vòng đeo tay,...với loại ngọc hộ mệnh cho con giáp của bạn sẽ giúp bạn tránh được nhiều tai ương.

Đặt tượng Thái Tuế

Mọi người thường nghĩ rằng Thái Tuế không mang lại may mắn. Trên thực tế, bạn có thể lợi dụng sao Thái Tuế để mang lại may mắn bằng cách xoay mặt theo hướng ngược lại. Vị trí của sao Thái Tuế cho mỗi năm được liệt kê dưới đây.

Con giáp Năm Vị trí
2020 Bắc
Sửu 2021 Đông Bắc
Dần 2022 Đông Bắc
Mão 2023 Đông
Thìn 2024 Đông Nam
Tị 2025 Đông Nam
Ngọ 2026 Nam
Mùi 2015 Tây Nam
Thân 2016 Tây Nam
Dậu 2017 Tây
Tuất  2018 Tây Bắc
Hợi 2019 Tây Bắc

Mọi người trong nhà có thể điều chỉnh hướng của giường, ghế, bàn làm việc,...xoay mặt ở hướng đối diện sao cho xa vị trí sao thái Tuế. Lúc nãy có nghĩa là "để có được Thái Tuế phía sau họ". Ví dụ, trong năm 2015, sao Thái Tuế là ở phía Tây Nam. Vì vậy, trong năm Ất Mùi, những người tuổi Dê điều chỉnh cho nội thất trong nhà xoay nhiều về phía Đông Bắc để có được may mắn. Khi làm một cái gì đó quan trọng, chẳng hạn như một cuộc đàm phán kinh doanh, người tuổi Dê phải ngồi xoay mặt về phía Đông Bắc. Lúc này, họ sẽ có nhiều cơ hội thành công.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 con giáp 'đối phó' sao xấu năm bản mệnh

Mơ thấy hoa hồng –

Có thể bạn đã từng thấy những cánh hồng thắm trong giấc mơ của mình, nhưng không hiểu hết được ý nghĩa ẩn sau giấc mơ ấy. Hãy thử một lần khám phá, rất nhiều điều thú vị đang chờ bạn. Mơ thấy mình gom nhặt hoa hồng thường là điềm về cuộc sống ngập tr
Mơ thấy hoa hồng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy hoa hồng –

Văn khấn Ban Đức Ông ở chùa

đến chùa lễ Phật, thành tâm cầu khấn hồng ân chư Phật, chư đại Bồ Tát, Hiền Thánh Tăng gia hộ cho bản thân và gia đình mạnh khoẻ, tai qua nạn khỏi,..

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đức Ông được tạc tượng và thờ tự trong tất cả các chùa viện Phật giáo ở Việt Nam, thường được Phật tử và tín chủ cầu xin chuyện công danh, tiền bạc, con cái, v.v... Vậy Đức Ông là ai? Đức Ông sống cùng thời với Đức Phật lịch sử của chúng ta, hiệu là Cấp Cô Độc, tức là chu cấp cho hết thảy những người cô đơn, nghèo khổ, bệnh tật.

van-khan-duc-ong-o-chua

Về góc độ lịch sử, Ngài là vị thí chủ lớn nhất đối với Đức Phật và Tăng đoàn. Ngài từng phủ khắp khu vườn của thái tử Kì Xà Đà bằng vàng để thái tử đồng ý nhượng lại khu vườn để xây dựng nơi chốn cho Phật và Tăng đoàn có chỗ tịnh tu. Đối với Phật Pháp, Ngài có công lớn hộ pháp và truyền bá chính pháp.

Về góc độ thần thông, Ngài là đại hộ pháp của Phật Môn. Ngài hiện ở đời cũng do trách nhiệm này nên Ngài có công năng thấy hết mọi kho tàng, tài bảo trên thế gian, không cầu cũng giàu có, phong túc không ai bằng. Tài bảo đó Ngài dùng cúng dường Tam Bảo, bố thí cho kẻ cùng khốn, nên ở Ngài đầy đủ hạnh Phổ Hiền, đức Từ Bi.

Xét về góc độ nào thì Đức Ông cũng là nhân vật có công lớn lao với Phật Pháp, ở hàng cư sĩ mà hộ trì chính pháp, đầy đủ hạnh Từ, Bi, Hỉ, Xả, tế độ quần manh. Do đó, ban Đức Ông luôn được đặt bên tay trái của ban Tam Bảo (tay phải là ban Thánh Hiền), chủ ý rằng hoằng pháp là thánh hiền, hộ pháp là hàng cư sĩ tại gia. Khi vào lễ chùa, ta cũng vào từ cửa tay trái, tới ban Đức Ông lễ trước vì Ngài có công xây chùa, tạc tượng. Nếu quá túng thiếu (tiền bạc, tình cảm, con cái, v.v...) cũng có thể tới cửa Đức Ông kêu cầu. Với hạnh Từ Bi, Ngài sẽ tùy duyên toại nguyện cho chúng sinh.

Theo phong tục cổ truyền, trong các ngày rằm, mồng một, ngày lễ Phật giáo, Tết nguyên đán, hoặc những ngày gia đình có việc hệ trọng, người Việt thường đến chùa lễ Phật, thành tâm cầu khấn hồng ân chư Phật, chư đại Bồ Tát, Hiền Thánh Tăng gia hộ cho bản thân và gia đình mạnh khoẻ, tai qua nạn khỏi, hạn ách tiêu trừ, gia đình hoà thuận, thế giới hoà bình, chúng sinh an lạc v.v. Tuy nhiên, việc sửa soạn đi lễ chùa, hoặc sắm lễ vật để đi lễ chùa, người đi lễ cần phải biết những quy định căn bản của nhà chùa mà người hành lễ phải tuân thủ.

1. Lưu ý

- Đến dâng hương tại các chùa chỉ được sắm các lễ chay: hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi chè… không được sắm sửa lễ mặn chư cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt mồi, gà, giò, chả…

- Việc sắm sửa lễ mặn chỉ có thể được chấp nhận nếu như trong khu vực chùa có thờ tự các vị Thánh, Mẫu và chỉ dâng ở đó mà thôi. Tuyệt đối không được dâng đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện (chính diện), tức là nơi thờ tự chính của ngôi chùa. Trên hương án của chính điện chỉ được dâng đặt lễ chay, tịnh. Lễ mặn (nhưng thường chỉ đơn giản: gà, giò, chả, rượu, trầu cau…) cũng thường được đặt tại ban thờ hay điện thờ (nếu xây riêng) của Đức Ông - Vị thần cai quản toàn bộ công việc của một ngôi chùa.

- Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng Phật tại chùa. Nếu có sửa lễ này thì thí chủ đặt ở bàn thờ Thần Linh, Thánh Mẫu hay ở bàn thờ Đức Ông.

- Tiền giấy âm phủ hay hàng mã kiêng đặt ở ban thờ Phật, Bồ Tát. Tiền thật cũng không nên đặt lên hương án của chính điện, mà nên bỏ vào hòm công đức.

- Hoa tươi lễ Phật là hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu… không dùng các loại hoa tạp, hoa dại…

2. Thứ tự hành lễ ở Chùa cần theo thứ tự như sau:

1. Đặt lễ vật: Thắp hương và làm lễ ban thờ Đức Ông trước.

2. Sau khi đặt lễ ở ban Đức Ông xong, đặt lễ lên hương án của chính điện, thắp đèn nhang.

3. Sau khi đặt lễ chính điện xong thì đi thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà Bái Đường. Khi thắp hương lên đều có 3 lễ hay 5 lễ. Nếu chùa nào có điện thờ Mẫu, Tứ Phủ thì đến đó đặt lễ, dâng hương cầu theo ý nguyện.

4. Cuối cùng thì lễ ở nhà thờ Tổ (nhà Hậu)

5. Cuối buổi lễ, sau khi đã lễ tạ để hạ lễ thì nên đến nhà trai giới hay phòng tiếp khách để thăm hỏi các vị sư, tăng trụ trì và có thể tuỳ tâm công đức.

3. Văn khấn Ban Đức Ông

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!

Kính lạy Đức Ông Tu Đạt Tôn Giả, Thập Bát Long Thần, Già Lam Chân Tể.
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là ..........................................
Ngụ tại .....................................................
Cùng cả gia đình thân tới cửa Chùa .....................trước Ban Đức Ông, thành tâm kính lễ, hiến dâng phẩm vật, kim ngân tịnh tài. Chúng con tâu lên Ngài Tu Đạt Tôn Giả từ cảnh trời cao soi xét.

Chúng con kính tâu lên Ngài Già Lam Chân Tể cai quản trong nội tự cùng các Thánh Chúng trong cảnh nhà Chùa.

Thiết nghĩ: Chúng con sinh nơi trần tục, nhiều sự lỗi lầm, hôm nay tỏ lòng thành kính, cúi xin Đức Ông thể đức hiếu sinh, rủ lòng tế độ che chở cho chúng con, tiêu trừ bệnh tật tai ương, vui hưởng lộc tài may mắn, cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.

Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.

Cẩn nguyện!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn Ban Đức Ông ở chùa

4 chòm sao nữ lãng mạn nhất vòng tròn hoàng đạo

4 chòm sao nữ lãng mạn bậc nhất vòng tròn hoàng đạo dưới đây đã tự mình xây dựng tình yêu đẹp bằng những cử chỉ hết sức tinh tế, nhẹ nhàng và tràn đầy cảm xúc.
 4 chòm sao nữ lãng mạn nhất vòng tròn hoàng đạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Là con gái, ai chẳng mong muốn có một mối tình chân thành, ngọt ngào giống như trong cổ tích. Nếu chỉ ước mơ thì mãi mãi chỉ là mơ ước, Ai yêu được họ thì quả là cực kì may mắn đấy.

Muon duoc cung chieu, hay yeu 4 chom sao nu lang man nhat vong tron hoang dao hinh anh
 

Song Ngư: chỉ số lãng mạn ★★★★★

  Nếu nói tới chòm sao nữ lãng mạn thì cái tên đầu tiên xứng đáng được nhắc tới nhất chính là Song Ngư. Khỏi phải nói cô nàng công chúa này yêu thích những câu chuyện mang màu sắc ngôn tình như thế nào. Không dừng lại ở thích đâu, Ngư nhi còn biết cách biến mình thành nhân vật chính với hàng loạt những tình tiết còn mùi mẫn hơn trong phim ảnh cơ. Bạn sẽ thực sự phải phục sát đất chòm sao giỏi "thả thính" này đấy.   Thủ đoạn cao minh, hành động chắc chắn, yêu một cô nàng cá đa diện bạn sẽ được trải qua bữa ăn lung linh dưới ánh nến, đi dạo bờ biển đêm hay đơn giản là cùng nhau chìm đắm trong ngôi nhà ngập hoa và nắng của nàng. Nàng ấy mang sự lãng mạn vào tình yêu và cả vào cuộc sống, bất cứ nơi nào cũng phải có dấu ấn thật mơ màng, thật thần tiên nếu không sẽ buồn chết mất.  

Nhân Mã: chỉ số lãng mạn ★★★★

 

Vì sao Nhân Mã được coi là cao thủ tình trường trong vòng tròn hoàng đạo? Vì họ ngoại hình đẹp, tính cách tốt, tài chính vững mạnh? Tất nhiên là có nhưng quan trọng hơn hết là họ biết cách yêu. Không ai phải bỏ đi trong mối tình với Mã Mã, càng không ai cảm thấy nhàm chán khi yêu một người có nhiều điều thú vị như chòm sao này. Sức hút nhường ấy mấy ai sánh kịp đây.   Nếu Song Ngư lãng mạn trời sinh thì Nhân Mã là lãng mạn do luyện tập. Họ thử nghiệm những điều vui vẻ nhất với mong muốn thỏa mãn bản thân đồng thời giao lưu thật tốt với người khác, kinh nghiệm phong phú, đánh đâu thắng đấy. Tình yêu hay cuộc sống đều phải tràn ngập tiếng cười, có nhiều kỉ niệm đặc biệt thì mới đạt đến giá trị đích thực. Càng yêu chân thành, Mã Mã càng lãng mạn vì họ muốn trói chặt chàng trai của mình trong vòng tay mà không cần phải kè kè bên cạnh.  

Xử Nữ: chỉ số lãng mạn ★★★


Muon duoc cung chieu, hay yeu 4 chom sao nu lang man nhat vong tron hoang dao hinh anh
 
Chòm sao nữ lãng mạn có tên Xử Nữ ư? Tất nhiên rồi. Ưa thích sự hoàn hảo, chăm chút tỉ mỉ từng li từng tí cho cuộc sống của mình, cô nàng này tuyệt đối không bỏ qua việc quan tâm tới những sinh hoạt đời thường hay làm thế nào để giữa lửa tình yêu. Bản chất của họ là nhẹ nhàng, tinh tế và thanh lịch, nên kiên định theo đuổi lãng mạn, khiến người khác cảm động từ những việc nhỏ bé nhất nhất. Bất cứ chòm sao nào đánh cắp trái tim Xử Nữ rồi sẽ được tận hưởng những đãi ngộ tốt nhất.   Tuy nhiên, do thái độ hơi cứng nhắc nên các hành động, cử chỉ của họ còn khá mất tự nhiên. Đôi khi muốn bày tỏ lòng mình với đối phương nhưng lại thành mệnh lệnh, bố trí rất tốt buổi hẹn hò nhưng chỉ vì việc ngoài ý muốn mà làm cả hai mất vui. Nên học hỏi tính cách phóng khoáng của Nhân Mã và sự thoải mái của Song Ngư để mọi chuyện tốt hơn nhé.  

Song Tử: chỉ số lãng mạn ★★★

  Đồng hạng với Xử nữ trong cuộc cạnh tranh độ lãng mạn là cô nàng Song Tử đa chiều, tinh nghịch. Tử nhi thích nhất là lấy lòng người khác để làm mình vui. Họ hiểu rất rõ ràng, chỉ có làm người yêu vui thì mình mới hạnh phúc. Tình yêu mà, cần sự thể hiện cụ thể từ cả hai phía, quả nhiên là cô gái thông minh, biết đối nhân xử thế. Dù có lúc thất thường, không nghiêm túc nhưng đừng vì thế mà đánh giá sai về chòm sao này nhé.   Song Tử hay nói lời ngon tiếng ngọt, tạo sự lãng mạn, dễ chịu bằng những câu nói bùi tai. Hơn nữa, với sự phóng khoáng, nhanh nhẹn và nắm bắt tốt của mình, họ cũng thường xuyên gây bất ngờ với nửa kia. Ví dụ như một món quà chẳng nhân dịp gì, một buổi đi chơi dã ngoại ngoài kế hoạch hay một bữa tối do chính tay họ đảm nhiệm chẳng hạn. Nghe thôi đã thấy kích thích rồi, bảo sao mà các chàng không rung rinh trước chòm sao nữ lãng mạn này. 12 chòm sao nữ mù quáng trong tình yêu đến mức nào? Bóc mẽ tính xấu của 12 chòm sao nữ khiến các ông chồng điên đầu Mỹ nhân hoàng đạo và sở thích nude nóng bỏng Top 3 chòm sao nữ nhạy cảm dễ mắc tâm bệnh
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 chòm sao nữ lãng mạn nhất vòng tròn hoàng đạo

Bài trí cửa ra vào và cửa sổ theo phong thủy

Cửa ra vào tượng trưng cho sự tự do và sự tiếp cận của chúng ta với thế giới bên ngoài; chúng cũng là hàng rào bảo vệ, mang lại sự nâng đỡ và thoải mái. Cửa sổ như thể con mắt nhìn ra thế giới. Cả hai có vai trò quan trọng trong thuật phong thủy; nếu, sự tiếp cận hay tầm nhìn của chúng ta thông qua chúng vì lý do nào đó bị ngăn trở thì chúng ta có thể hứng chịu những hậu quả không hay.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa ra vào

Cửa chính mở ra cho phép chúng ta bước vào một căn phòng hay vào thế giới bên ngoài. Cửa đóng kín là muốn tách căn phòng hay toàn bộ ngôi nhà của chúng ta ra khỏi môi trường xung quanh. Nếu một trong hai chức năng này bị cản trở, lúc ấy luồng khí quanh nhà sẽ chịu thiệt hại.

Cửa mở không trơn tru, kêu cọt kẹt, có bản lề hư hay tay nắm gắn quá gần với cạnh cửa khiến các khớp ngón tay bị trầy khi mở cửa, tất cả điều này phải được sửa chữa. Hãy đặt một cái chêm gần những cửa thường bị gió đóng sầm gây bực mình, khó chịu.


Loại cửa panô lắp kính màu vừa cho phép tiếp nhận ánh sáng vằ giúp vực dậy năng lượng trong những khu vực tối trong phòng

Tốt nhất, cửa không nên mở theo hướng làm cho tầm quan sát toàn bộ căn phòng bị hạn chế, nhưng cửa chính của những căn nhà xưa thường mở ra theo cách này một phần là để tránh gió lùa, và phần khác có thể là để tỏ lòng khiêm tốn của gia chủ theo cách hiểu của những người thời đó.

Cửa sổ


Từ khuôn cửa sổ này, quang cảnh trên cao sẽ không bị che khuất

Loại cửa sổ trượt chỉ mở được một nửa làm hạn chế lượng khí có thể vào phòng. Loại cửa hai lớp cũng chỉ mở được một nửa và cũng có tác dụng tương tự. Tốt nhất là các cửa sổ đều có thể mở hết cả hai cánh và hướng ra ngoài.

Hãy cẩn thận với loại cửa sổ panô hai lớp cố định chỉ mở đuợc một ô bé xíu phía trên. Loại cửa sổ này có thể gây ra nguy cơ chết người khi hỏa hoạn xảy ra; chúng thường được gắn kiếng dày, chịu được lực mạnh, vì vậy hầu như không thể đập bể kiếng.

Nếu nhà của bạn lắp loại kiếng này thì bạn nên gỡ bỏ càng sớm càng tốt, nhất là ở phòng trẻ em. Dĩ nhiên sự an toàn ở các phòng của trẻ em là điều phải nghĩ đến đầu tiên và cần phải có những biện pháp để bảo đảm rằng trẻ không thể bị ngã nhào ra ngoài cửa sổ.

Điểm cao nhất của cửa sổ phải cao ngang tầm với người cao nhất trong nhà. Phải để mọi người trong nhà quanh năm nhìn thấy được bầu trời nếu không họ sẽ bị mất liên lạc với thế giới tự nhiên.

Màn cửa sổ buông rũ không chỉ cản tầm nhìn mà còn làm giảm đáng kể lượng khí trong phòng, còn loại mành mành sẽ chẻ nhỏ luồng khí đi vào phòng.
Nếu ban ngày màn cửa luôn được kéo che kín, bạn có nguy cơ bị trầm uất và dễ bị tổn thương. Màn cửa bằng lưới, mặc dù cần thiết ở một vài nơi, có thể làm nhòa hình ảnh ngoài cửa sổ.


Màn cửa cột gọn sẽ không hạn chế cảnh trí đẹp bên ngòai

Hãy thử nghiệm với một số giải pháp khác như đặt những chậu cây lớn, dùng kiếng màu hay dán đề-can trong để ngăn người bên ngoài nhìn vào. Mục tiêu là làm sao có thể nhìn ra ngoài càng nhiều càng tốt.

Tuy nhiên, với cửa sổ mở về hướng tây nam, vào mùa hè cần dùng loại màn cửa dày hơn, nhất là đối với phòng học hoặc nhà bếp.

Nhà quá nhiều cửa sổ có thể làm dương tính trong nhà trở nên thái quá vì chúng đầy ắp khí, ngược lại nhà quá ít cửa sổ làm hụt khí và mang tính âm. Cửa sổ quá gần sàn ở tầng sát mái sẽ tạo cảm giác bất ổn; nên đặt phía trước cửa một vật vững chắc hay một cái bàn thấp.


Phòng tắm phải có cửa sổ và thông khí, nếu không được, nên đặt trong phòng một vật trang trí có nước chứa dầu thơm và một quạt hút.

Không nên trổ quá nhiều cửa sổ trong phòng ăn vì cần phải để khí tụ quanh bàn ăn và thức ăn mà chúng ta đã chuẩn bị cho gia đình và bạn bè.

(Theo Blog Phong thủy)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí cửa ra vào và cửa sổ theo phong thủy

Tướng đàn ông mông to –

Mông đàn ông nên tròn, to, lớn. Những người như vậy sức lực dồi dào, nghị lực lớn, trí dũng song toàn. Họ thường là kẻ dễ thành công, dễ đạt phú quý. Đàn ông mông to, nhưng mềm, thương lười nhác sợ khó sợ khổ. Nếu mông teo thường thô lỗ, học thức có
Tướng đàn ông mông to –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông mông to –

Mấy điểm quan trọng khi sửa sang hoàn thiện nhà vệ sinh –

Nhà vệ sinh trong cuộc sống hiện đại không chỉ là nơi đi vệ sinh, nơi tắm giặt mà còn là nơi điều tiết tinh thần, thả lỏng thần kinh, khôi phục sức khoẻ. Vì vậy, dù là thiết kế về trang trí hay là thiết kế về vật liệu, thiết bị, màu sắc, đường dây đi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ện, đèn thắp sáng đều không được xem nhẹ, cần phải làm cho chúng phát huy hết tính năng, hiệu quả.

Phong-tam-xanh-lam

(1) Chọn vật liệu nhà vệ sinh

Thiết kế nhà vệ sinh về cơ bản là lấy sự thuận tiện, an toàn, dễ làm sạch và mỹ quan làm chính. Do thuỷ khí trong nhà vệ sinh rất nặng, nên vật liệu dùng trang trí bên trong phải đạt tiêu chí chống được nước. Tường và trần nhà chiếm diện tích rộng nhất, cho nên phái chọn được vật liệu vừa phòng chống được nước vừa phòng chống được mục nát và rêu, mốc. Gạch men, tấm nhựa chống nước đều đạt được những yêu cầu trên. Đá tự nhiên có ưu điểm đặc biệt nhưng với nhà vệ sinh hẹp thì không phát huy được hiệu quả.
Vật liệu lát nền dùng đá tự nhiên hoặc gạch mài vừa đẹp lại vừa bền. Gạch cỡ lớn sẽ thuận tiện cho việc vệ sinh, dễ giữ khô nền; nền nhựa giá trị thực dụng cao, thêm vào những chiếc đinh trang trí tác dụng chống trơn rất tốt. Hiện nay, phần lớn các gia đình đều dùng gạch chống trơn có hoa văn và màu sắc, có nhiều loại gạch với những kích cỡ khác nhau, thông thường có các loại 300mm X 300mm, 200mm X 300mm, 200mm X 200mm. Trang trí tường bằng gạch men hình vuông hoặc hình chữ nhật, phối hợp với gạch chân tường, gạch hoa sẽ làm tăng thêm mỹ quan tổng thể. Cũng có thể dùng tấm phủ tường PVC, đơn giản sạch sẽ, hoa văn tao nhã.

(2) Nóc trần nhà vệ sinh

Nóc treo nhà vệ sinh có thể căn cứ vào tạo hình mà chọn dùng được rất nhiều loại vật liệu, ví dụ như tấm nhựa PVC, tôn, nhôm. Nếu là trần treo tạo hình vòm có thể dùng tấm vật liệu mềm chống thấm nước, tấm vật liệu hỗn hợp nhôm nhựa, hoặc mi ca màu. về độ cao của trần treo, nhà vệ sinh trong các gia đình ở các nước phát triển phần lớn tương đối thấp, độ cao phòng vệ sinh thường ngang bằng với các phòng khác, để phòng tránh nóng, lạnh, thường độ cao trần treo được thiết kế ở khoảng 2,2m ~ 2,4m. Khi diện tích phòng vượt quá 8m2, có thẻ đặt tủ đựng đồ trang điểm phía trên chậu rửa mặt, treo thùng để quần áo nhưng chú ý cách xa nguồn nước, hoặc quy hoạch riêng một chỗ thay quần áo hàng ngày.

(3) Màu sắc của nhà vệ sinh

Trong phối màu cho nhà vệ sinh, hiệu quả của màu sắc là do tổ hợp màu của vật liệu mặt tường, vật liệu nền nhà, ánh sáng đèn. Màu sắc đẹp là những màu tạo cảm giác sạch sẽ và dịu mát. Các màu nên cùng loại hoặc gần giống nhau, ví dụ như gạch men màu xám nhạt, bồn tắm màu trắng, bệ chậu rửa mặt màu trắng sữa, phối hợp với màu tường vàng nhạt. Cũng có thể dùng gam màu ấm áp đơn giản, ví dụ như màu trắng sữa, màu ngà voi, màu đỏ hoa hồng cho mặt tường. Các màu bổ trợ nên dùng loại gần giống, nền nhà nên dùng màu đơn giản, kết hợp ánh sáng đèn ấm, dịu sẽ tạo không gian đẹp mắt, dễ chịu. Màu đen phối với màu vàng tiêu biểu cho sự thần bí và cao quý, kết hợp với mặt mi ca, mặt đá, gương cùng ánh sáng đèn sẽ làm cho không gian phòng sáng sủa, khí phái. Ngoài ra, nhà vệ sinh nếu dùng màu đen trắng, tương phản rõ ràng, thêm vào một vài cây xanh sẽ tăng thêm sinh khí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mấy điểm quan trọng khi sửa sang hoàn thiện nhà vệ sinh –

Hướng phong thủy của những đồ vật trong bếp

Các đồ vật trong bếp đều mang ý nghĩa phong thủy riêng tạo nên sự hài hòa trong không gian bếp. Các đồ vật nên đặt theo hướng nào để mang lại sự yên ấm cho gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Máy hút mùi

 Máy hút mùi được xem như là lá phổi của bếp

Máy hút mùi được xem như là lá phổi của bếp

Máy hút mùi được xem như lá phổi của nhà bếp. Nó giúp tạo sự đối lưu không khí. Nên đặt máy và bếp nấu cùng hướng để tạo ra sự hài hòa phong thủy.

2. Tủ lạnh

 Nên đặt tủ lạnh theo hướng Bắc

Nên đặt tủ lạnh theo hướng Bắc

Đặt tủ lạnh theo hướng Bắc là thích hợp nhất vì hướng này tượng trưng cho mùa đông lạnh giá, năng lượng dạng sóng lượn. Nếu không thể đặt tủ lạnh ở hướng này, hãy đặt theo hướng hợp với tuổi của bạn. Để tìm ra hướng hợp với tuổi, bạn có thể tham khảo công thức tính Quái số.

3. Tủ nướng

 Hướng Nam rất thích hợp để đặt tủ nướng

Hướng Nam rất thích hợp để đặt tủ nướng

Tủ nướng tỏa ra nhiệt lượng rất lớn để làm chín đồ ăn, đồng thời, đa phần chúng được làm từ kim loại, do đó cần chú ý đến hướng phong thủy hòa hợp. Hướng Nam rất thích hợp để đặt tủ nướng vì đây là hướng sinh nhiệt lượng rất lớn, nơi của mặt trời, lửa và các vật sắc nhọn.

4. Bồn rửa

 Bồn rửa nên đặt theo hướng tây

Bồn rửa nên đặt theo hướng tây

Bồn rửa thường được đặt ôm sát tường và bố trí gần bếp để tạo thuận lợi khi làm bếp. Tuy nhiên, nếu được đặt đúng hướng gió Tây, nó sẽ làm bạn thấy thoải mái hơn. Bồn rửa bằng đá thì nên xoay về hướng Tây Nam, bồn kim loại thì nên đặt về hướng Tây Bắc.

 5. Tủ bếp

 Tủ bếp thường được thiết kế bằng gỗ

Tủ bếp thường được thiết kế bằng gỗ

Tủ bếp thường thiết kế bằng gỗ, thuộc hành Mộc. Các kệ tủ treo nên kê theo hướng Đông hay Đông Nam để phát huy được yếu tố phong thủy mạnh nhất, tạo ra sự sạch sẽ và an toàn khi sử dụng.

6. Bếp nấu

 Bếp nấu

Bếp nấu

Nên bố trí phích cắm bếp điện hay bình ga hướng về phía hợp với tuổi của bạn. Mỗi chủ nhà đều có một hướng tốt phù hợp với tuổi. Đây cũng chính là hướng lấy năng lượng cho bếp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng phong thủy của những đồ vật trong bếp

Xem tướng tay dự đoán chuyện tình duyên tương lai

Hãy xòe bàn tay và xem tay bạn có những dấu hiệu sau đây không nhé!
Xem tướng tay dự đoán chuyện tình duyên tương lai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đoạn cuối của đường hôn nhân xuất hiện chữ thập hoặc ngôi sao

Nếu bàn tay của bạn xuất hiện đặc điểm trên nghĩa là bạn sắp kết hôn hoặc chuyện vui sắp đến với bạn.

1-1-4906-1420700940.jpg

2. Gốc áp út ở gò Thái Dương xuất hiện chữ thập hoặc ngôi sao

Tương lai gần bạn sẽ tổ chức đám cưới với một chuyến du lịch ra nước ngoài.

2-1-2430-1420700941.jpg

3. Đường tình cảm ngày càng đậm và sâu

Bàn tay có đặc điểm này là đại cát đại lợi, làm mọi việc đều suôn sẻ, dự báo chuyện kết hôn sắp đến.

3-1-8944-1420700942.jpg

Chocopie (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng tay dự đoán chuyện tình duyên tương lai

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd